Câu hỏi lãng quên 2
Chương 10
Kính nói thế nhưng không giải thích bởi thầm nghĩ chưa chắc giải thích về quyền lực của sự cầu nguyện đã có lợi lúc này. Xưa nay con người đã in trí cầu nguyện chỉ là kêu xin, đòi hỏi một vấn đề hay ân huệ nào đó mà quên rằng ý định, ý nghĩ, ước muốn đã tự có quyền lực được phát sinh từ quyền lực hiện hữu nơi mình nhưng không nhận ra. Đành chờ, Kính nghĩ, khi nao chị ta cảm nghiệm được mới có thể nói. Hiện giờ những gì chị ta hiểu biết vẫn còn là kiến thức như kết quả của suy luận.
Vậy Phúc Âm có nói gì về vấn đề này không?
- Hình như bốn Phúc Âm dùng mười sáu lần chữ "Satan" thì đã hai lần nơi Mathêu (16:23) và Mác cô (8:33) Phêrô bị gọi là Satan. Hai lần này như chị vừa nói lúc nãy, Satan chỉ về ước muốn theo quan niệm thế tục của con người; mười bốn lần khác đại khái được chỉ về thần dữ có quyền lực. Riêng những danh từ khác được dùng để chỉ quyền lực có ảnh hưởng đến một số người thì Phúc Âm nhắc tới tên Bêelzebul (Mt. 10:25; 12:24,27; Mc. 3:22; Lc. 11:14-19), đầu mục của quỉ, thần của dân Philistinẹ Các danh hiệu khác chỉ những quyền lực ám ảnh hoặc nhập vào con người thì được gọi là quỉ ám hay xâm nhập (Mt. 9:33; 15:22; Mc. 9:18; Lk. 7:33; 8:27,30; 9:1,40; 11;14; Gioan 8:52; 10:21), hoặc là thần ô uế, danh hiệu này được dùng nhiều nhất (Mt.10:1; 12:43: Mc. 1:23-26; 3:11; 5:1,8; 6:7; 7:25,26; 9:25; Lc. 4:33; 8:29; 9:42; 11:24), và đôi khi còn được gọi là tà thần (Mc. 9:20) và thần câm (Mc. 9:17) hoặc là ma (Lc. 9:39; 13:11) hay thần khác (Lc. 11:26). Theo tôi nghĩ, sự thực mọi người có thể nhận biết là con người gồm thân xác và tinh thần tức là bao gồm hai phần hữu hình và vô hình. Phần vô hình bất tử nên dù cho thân xác tiêu tan, phần vô hình vẫn sống động nơi lãnh vực hiện giờ đã có một số người liên lạc được mà chúng ta chưa đạt tới trình độ đó. Tôi tin tưởng nếu thực sự muốn, bất cứ ai cũng có thể liên lạc được với thế giới bên kia. Tất nhiên, đã có thế giới vô hình thì có quyền lực vô hình và thế giới này bao gồm những hồn đang trên hành trình thăng tiến trở nên thiện toàn. Phúc Âm không giải thích rõ theo nghĩa đen nhưng biết để làm gì trong khi những điều thiết yếu Phúc Âm mời gọi, thúc đẩy thì cứ ỳ ra. Có điều, còn nhiều vấn đề mà Phúc Âm có lẽ không đề cập tới vì nơi Gioan đoạn 16 câu 12 và 13 có nói: "Ta còn lắm điều phải nói với các ngươi, nhưng hiện giờ, các ngươi không mang nổi. Song khi nào Ngài đến, vì là Thần Khí sự thật, Ngài sẽ đưa các ngươi vào tất cả sự thật." Thần Khí ban cho ai thì người đó được. Hơn nữa, thực hiện thế nào để đạt tới mức độ lòng tin mà Phúc Âm rao giảng mới quan trọng chứ biết về chết rồi sẽ ra sao nào có ích lợi gì, khi chết sẽ biết ngaỵ Tôi nghĩ, theo lời Phúc Âm, dẫu biết lòng tin mang quyền lực nhưng nhận thức lòng tin cũng chỉ là kiến thức; vấn đề thiết yếu phải làm gì để cảm nghiệm lòng tin, để lời Phúc Âm trở nên hiện thực nơi mình mới là chủ điểm Phúc Âm muốn nói. Chị thấy không, Đức Giêsu chỉ đường cho mình thì mình lại nói Ngài là đường để rồi chẳng đi tới đâu. Ngài vẽ chiếc bản đồ cho mình tiến tới, mình cứ đứng yên hô hào Ngài là họa sĩ tài ba thì cho đến muôn đời vẫn là con cháu họ hàng nhà thánh Phêrô... Lời Phúc Âm lắm câu độc thật, "Ai có tai thì hãy nghe!" (Mt. 11:15; 13:9; 43; Mc. 4:9; 23; Lc. 8:8; 14:35). Tôi không thể tưởng tượng được câu nói nào ngang hơn nếu nhìn Phúc Âm với con mắt thế tục. Thử hỏi ai là người không có tai và tai nào không để nghe thế mà Phúc Âm cứ lặp đi lặp lại câu nói này khiến những người đọc phải nhột nhạt. Tôi không hiểu loại tai nào mới hợp, hoặc đeo vòng vàng hay bông tai trám hột xoàn, hay đục lỗ nát bét ra rồi cắm ghim đủ thứ nơi ấy hay là cứ trống trơn. Mà có lẽ trống trơn hợp lý hơn vì không bị ngăn cản hay phản xa... Kính nói xong tự mỉm cười vì chị Lữ đeo đôi bông khá đẹp, đường vàng nhỏ viền vòng quanh hai hột xoàn hình trái rọi màu xanh lá mạ nổi nước bóng lên đang rung rinh theo cử động của cái đầu tóc vấn cao... Và thế là chị Lữ như bị nhảy nhổm,
- Anh dám lấy em làm đề tài diễu định trả thù về câu nói con cháu họ hàng nhà thánh Phêrô?
- Tôi có lấy chị làm đề tài đâu và nào có ý định gì đụng chạm đến chị mà như phải bỏng vậy?
- Anh có cái miệng như bôi mỡ hèn chi không ai đấu lại. Em chợt nghĩ, có lẽ anh rất đào hoa vì cái miệng nhưng coi chừng già kén kẹn hom đó coi...
- Chị đã nói rồi, thôi hãy để chuyện phải đến sẽ đến... Cuộc đời này chưa chắc có đã hơn không...
- Đúng, anh nói có lý, tưởng rằng những nhà cao cửa rộng, xe nọ, xe kia, ăn mặc sang trọng, và được mọi người chiêm ngưỡng đã là hay; ai ngờ nếu chịu tìm hiểu về ý nghĩa Phúc Âm mới biết những thứ đó thực sự làm mình chỉ muôn đời ngụp lặn trong vũng lầy ham muốn thế tục. Tuy vậy, em vẫn thấy có những câu chẳng hạn "Ai tin vào Ta thì sẽ được sống... " Thế chữ tin đây cũng là lòng tin hay mang ý nghĩa khác?
- Phúc Âm thường nói đến "lòng tin" và "tin" để trình bày hai thực thể liên hệ nhưng không giống nhau. Lòng tin chỉ một thực thể, quyền lực, tiềm ẩn nơi con người. Thực thể này là quyền lực của ý định, ý muốn, ước mơ, ý nghĩ. Tin là một động từ được dùng trong Phúc Âm nhưng không chỉ có nghĩa cho rằng sự gì hay việc gì là đúng, là có thật, mà bao gồm luôn sự thực hiện, đạt thành. Tôi nghĩ, nó có nghĩa cảm nghiệm hoặc là sống trong một trạng thái. Chẳng hạn một số câu có chữ tin đều được giải thích kèm theo có quyền lực thực hiện được những gì. Tôi dám khẳng định, tin vào Đức Giêsu có nghĩa đạt tới trạng thái Ngài nói sẽ thực hiện được những gì Ngài đã làm, nghĩa là có quyền lực như Ngài. Nhìn theo khía cạnh khác về một số câu Phúc Âm, có thể nói Đức Giêsu chứng tỏ chúng ta cũng như Ngài mà không nhận ra.
- Anh nói thế có hơi quá không?
- Qúa hay không tôi chẳng để ý vì cho đến giờ tôi cũng chưa bao giờ nghĩ đến nên diễn giải cách nào cho đúng với cảm nhận của mình. Chẳng hạn, chị rở Gioan đoạn 14 câu 12, đọc thử coi...
- "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa."
- Chị nghĩ sao? Câu Phúc Âm bằng tiếng Việt hay tiếng ngoại quốc và có cần đến thông dịch không?
- Anh có nghi ngờ gì về lối nói phóng đại nơi câu này không?
- Đọc đi đọc lại Phúc Âm nhiều lần chị sẽ rõ, càng đọc, càng thấy Phúc Âm nói rất thẳng thừng... Chẳng hạn đặt vào miệng Đức Giêsu những câu nói xét xử biệt phái, ký lục, và luật sĩ. Phúc Âm nói câu nào chứng minh rõ ràng và rất ngắn gọn. Câu chị vừa đọc chỉ là một trong những câu khó ai dám chấp nhận. Tuy nhiên, đối với tôi, càng đọc Phúc Âm bao nhiêu, tôi càng thấy những gì được nói lên hiện thực bấy nhiêu và càng mê Đức Giêsu hơn nhưng càng e ngại. Sở dĩ tôi e ngại vì cảm thấy nếu cảm nhận và sống theo đúng như Phúc Âm, mọi người chung quanh sẽ chối bỏ mình không khác gì Đức Giêsu ngày xưa đã bị lên án là phạm thượng. Chị nghe thấy người ta nói tôi ngang... Mới lần thứ hai nói chuyện với chị, biết bao sự việc được nhận xét về Phúc Âm mang đầy vẻ ngang ngược chị có nhớ không? Tôi nghĩ, bây giờ chị chấp nhận được những điều này và cho là hợp lý hợp tình, nhưng nếu đem so sánh với những gì từ xưa đến nay chị được dạy dỗ hay nghe người ta nói quả là khác biệt đến độ chối tai. Mà càng đọc, càng suy nghĩ bao nhiêu, những sự thực nơi Phúc Âm càng thấm nhập đến độ mình chiều theo mà không biết. Và như vậy, thái độ, tư cách, lời ăn tiếng nói mình tự hòa nhập vô để rồi khi gặp những người khác, mình vô tình, nói cho đúng, chỉ bình thường nhận định sự việc theo nguồn cảm ứng từ Phúc Âm, thiên hạ thấy mình ngang. Sự kiện xảy ra tôi không hiểu tại mình hay tại Phúc Âm nhưng có miệng mà không giải thích được vì càng giải thích người ta càng bảo mình ngang; càng giải thích, họ càng hè nhau vào một phe phái và cuối cùng tôi cảm thấy thật cô độc. Nhưng rồi chị coi, không phải cô độc một cách chán chường mà cô độc với niềm vui khó diễn tả, lại thấy xót thương cho những người chế diễu mình vì họ hoặc quá đơn sơ, hoặc còn đang bị những ham muốn bình thường thế tục che lấp khiến mình cảm thấy một niềm đau âm ỉ xót xa bởi không biết cách nào giúp họ. Nói theo kiểu chị thì họ hàng con cháu thánh Phêrô thật đáng thương. Chính từ đó tôi thấy câu "Các ngươi hãy biết thương xót như Cha các ngươi là Đấng thương xót" (Lc. 6:36) mang nghĩa thấm thía, và càng thấm câu này, càng cảm nhận được Đức Giêsu cô độc đến độ nào. Đây chỉ là cảm nhận riêng của tôi. Có điều, tôi thử hỏi, chị dám nói lên những gì chị cảm nhận về câu Phúc Âm vừa rồi không? Tôi muốn nói, không đặt vấn đề đúng sai hoặc phải trái, mà chỉ nói thành lời những gì xảy đến nơi tâm tư.
- Em nghĩ, đúng như anh nói, đã đọc và được nghe chẳng biết bao nhiêu lần, nhưng bây giờ em đọc và để ý câu nói, mới thấy Đức Giêsu hình như có vẻ nói những điều không tưởng.
- Không tưởng theo nghĩa nào?
- Tự mình nghĩ rằng điều đó là điều không tưởng.
- Mặc dầu chưa bao giờ thử, chưa bao giờ dù chỉ một chút tìm hiểu hay đặt vấn đề tại sao Ngài lại nói như thế.
- Nào có gì lạ đâu, khi mình đã thấy nó có vẻ vô lý thì để ý làm gì...
- Tuy nhiên, chính điều mình cho rằng không tưởng ấy đã thở thành sự thách đố khi so sánh với ý nghĩ mơ hồ nào đó được gọi là đức tin nơi mình. Bởi đã bao lâu nay mình nghĩ và tưởng rằng mình có đức tin, nghĩa là nghĩ rằng có Thượng Đế, có Đấng tạo thành vạn vật... những điều phải tin theo đạo dạy và chỉ cần nói lên chấp nhận là đủ. Thế mà Phúc Âm cứ nói về những sự cả thể xảy ra bởi thực thể được gọi là lòng tin, hoặc hơn nữa, có thể nói rằng kẻ nào tin vào Đức Giêsu, có lòng tin thì sẽ có quyền năng như Thượng Đế khiến mình lo sợ có thể là mình đã tin sai. Và thế rồi sự lo sợ này tạo thành ý định chạy trốn khỏi phải đối diện với mối đe dọa là cuốn Kinh Thánh do đó tránh đọc Kinh Thánh. Thực ra, không đọc Kinh Thánh chẳng phải lười mà càng đọc càng thấy mình bị loại bỏ, càng sợ thì lại càng che dấu không dám nói lên rằng mình không hiểu hay không thể thực hiện lời Kinh Thánh trong cuộc sống và do đó lại càng chạy trốn trong một chữ tin để khỏi bị phiền hà ít nhất đối với luật đạo. Điều này không lạ gì vì Kinh Thánh được nhìn dưới lăng kính luân lý và như thế sự áp dụng trở nên vừa phi lý vừa quá khả năng do đó trở thành không tưởng. Tôi nói vậy có đúng không?
- Sao anh có thể nói trúng những gì em đã cảm thấy vậy?
- Tôi đâu nói về chị, tôi nói về tôi ấy chứ. Tôi đã bị bốn Phúc Âm quật cho nhừ tử nên mới nhận ra nó không phải là những bài học luân lý mà chỉ nói về tâm linh. Chị tưởng tôi thông minh lắm sao? Không có đâu, mà thà rằng tôi dốt hơn chút nữa có lẽ càng đỡ bị phiền. Thôi thì cứ sống cho qua, lời Chúa để Chúa hiểu và ráng sao cho có vẻ ông nọ bà kia, lo sao theo kịp công nợ và may ra có thêm chút tiền bỏ nhà băng để khi cần có dịp huênh hoang mà lại đỡ bị ray rứt. Ai ngờ, càng suy nghĩ, càng đặt vấn đề thì chỉ càng phải đánh đô vật với tâm tự Lời Kinh Thánh như ngọn lửa thiêu đốt cõi lòng, bỏ thì thương mà vương thì tội... nên lúc nào cũng bị đeo đuổi. Như chị vừa nói, nếu thấy vô lý thì để ý làm gì; đàng này, tôi ngu muội lại hỏi ngược, chẳng lẽ Kinh Thánh viết điều phi lý, cố gắng giải thích theo luân lý chỉ càng gặp bế tắc... vì vậy, càng bí thì lại càng phải xoay...
- Đúng rồi, hèn chi em bị bối rối khi tìm hiểu về lòng tin.
- Có phải bởi e sợ vì đã bao lâu nay đức tin của mình có cũng như không, lại khác hẳn với Phúc Âm đồng thời không biết làm cách nào để giải quyết?
- Em thấy bực bội nữa chứ! Anh thử nghĩ coi, Phúc Âm nói mình giống như những người biệt phái.
- Tại sao chị nói thế? Phúc Âm viết cả gần hai ngàn năm nay rồi thì mắc mớ gì đến chị.
- Em thấy lối giữ đạo của mình giống như biệt phái được nói đến trong Phúc Âm.
- Ha! Ha! Có tật giật mình, nhưng vẫn còn may.
- Tại sao anh nói là may?
- Vì chị hãy còn thấy vai trò của mình trong Phúc Âm, tức là đã tự chấp nhận Phúc Âm vào cuộc sống.
- Anh nói thế nghĩa là thế nào?
- Chị đọc Phúc Âm có nhớ câu nào đó Đức Giêsu sai môn đệ đi rao giảng không.
- Có, hình như sau khi sống lại.
- Thế Phúc Âm nói ra sao.
- Để em rở thử coi... Mác cô đoạn 16 câu 15, "Và Ngài nói với họ: 'Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.'"
- Vậy chị thấy thế nào trong thực tế? Chúng ta đang rao giảng Tin Mừng hay rao giảng gì?
- Thì truyền bá đạo cho mọi người được biết... Ừ há, sao anh có thể nghĩ được câu hỏi này?
Chị Lữ vừa nói theo thói quen "truyền bá đạo" mới chợt nhớ ra có điều gì không hợp với lời Phúc Âm nên ngạc nhiên hỏi lại Kính. Lối nói chuyện của Kính là thế, nửa thật nửa đùa khiến người nghe cảm thấy luôn luôn phải tỉnh táo nhận xét. Dẫu muốn giúp người khác tự tìm kiếm nhưng nếu gặp những đầu óc thiếu suy nghĩ và nhỏ hẹp, Kính tất nhiên sẽ bị nói là ngang... Mà thật vậy, câu trả lời của Kính thường thì cứ đẩy người nghe vào góc tường.
- Tại Phúc Âm viết khác với thực tế chứ đâu phải tại tôi nghĩ ra câu hỏi rồi thực tế xảy ra theo tôi.
- Anh nói ẩu, sao anh dám bảo tại Phúc Âm viết khác với thực tế?
- Nếu nói con người làm khác với Phúc Âm lỡ bị cho là nói sai. Thôi thì nói Phúc Âm viết không đúng thực tế bởi nói như vậy không có cái miệng nào lên án mình là được rồi.
- Như vậy con người chỉ lo truyền bá tổ chức, quan niệm chứ không phải truyền bá Tin Mừng... Anh nói có lý, hèn chi lắm luật, lắm lệ mà trong Phúc Âm không thấy luật nào cả ngoại trừ luật yêu thương. Những kẻ cầm luật thì lại bị chửi như tát nước... nào là giả hình, xác chết xú uế trong mồ mả...
- Dĩ nhiên, ước muốn con người ở đâu thì lòng dạ họ Ở đó. Điều con người muốn như thế nào, tất nhiên mọi cố gắng sẽ được dồn vào để đạt thành mục đích. Bởi vậy, chỉ làm sao cho tổ chức lớn mạnh thì cần biết gì về lòng tin mà có lẽ chỉ dùng lòng tin như một công cụ và do không đặt vấn đề về lòng tin thế nào cho nên chỉ cần nói tin là đủ...
- Anh nói dùng lòng tin như một công cụ nghĩa là gì?
- Gốc nằm tại điểm này. Phúc Âm quanh đi quẩn lại chỉ được ít ngàn chữ, đọc một hai bữa là hết; hơn nữa lại được đọc theo nhận định thường tình áp dụng trong cuộc sống thì đâu còn gì để rao giảng... Bởi thế luân lý phải chen vô cho có chủ đề vì nói về luân lý ít nhất mọi người cũng thấy phần nào được cải thiện. Tiếng rằng lòng tin, đức tin, tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu, nhưng khi đặt vấn đề phân tích Phúc Âm thì cứ luân lý mà diễn giải. Đọc Phúc Âm theo nghĩa đen, cùng lắm tìm lý luận ráp nối cho xuôi, cho hợp tai người nghe, thuận lẽ, là mọi sự trôi chảy. Nhiều người làm thế, mình cũng phải thuận chiều. Đồng thời, ai không nghĩ rằng đa số thắng tiểu số, cứ đông là đã đúng, luật sức mạnh bao giờ không thế! Hơn nữa, bị ảnh hưởng Cựu Ước từ mấy cuốn sách Thứ Luật, Dân Số, những qui luật trị dân phải dựa trên lý trí và truyền thống luân lý Do Thái, nên chẳng lạ gì, lối nhìn luân lý đương nhiên bịt kín mọi ngõ ngách khác có thể.
- Hèn chi em thấy Phúc Âm nói về lòng tin quá khác lạ với những gì mình nghĩ từ xưa naỵ Nhất là khi những đề mục lại được ghi là phép lạ trong khi Đức Giêsu lại cứ cho rằng mọi kẻ tin nơi Ngài sẽ làm được những chuyện cả thể.
- Những gì được gọi là phép lạ xảy ra, Đức Giêsu đã rõ ràng giải thích đó là kết quả của lòng tin. Cứ theo Phúc Âm, chẳng hạn nơi câu truyện con gái người phụ nữ xứ Canaan được cứu sống, Đức Giêsu đã giải thích do lòng tin, "Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy" (Mt. 15:28). Tại sao Phúc Âm ghi lại "Bà muốn sao thì hãy được như vậy?" Lấy gì có thể giải thích động lực làm ý muốn được thực hiện nếu không phải là lòng tin đã được xác định và ca tụng là lớn lao. Điều này chứng tỏ đặc tính của lòng tin, quyền lực kiến tạo ý định, ý muốn, ước ao thành sự kiện. Nói cách khác, lòng tin cũng được coi như quyền lực của ý định, ước muốn. Riêng chữ tin được nhắc đến nơi "Kẻ tin vào Ta", trong câu Phúc Âm chị vừa đọc lúc nãy, "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" có thể mang ý nghĩa: Kẻ nào sống trong trạng thái Ta nói, hoặc kẻ nào cảm nghiệm được những gì Ta nói "thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm." Chỉ xét riêng lối diễn tả câu nói, ít nhất có thể hiểu, kẻ đạt đến trình độ Đức Giêsu nói sẽ có mọi quyền lực như Đức Giêsu vì "sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa." Thế nên, chị thấy lòng tin và chữ tin nơi Phúc Âm khác lạ với những gì chúng ta thường cho rằng tin, điều này không gì mới lạ nếu nhận thực với lòng mình bởi xưa nay chúng ta không dám đặt vấn đề, hoặc đã không bao giờ tìm hiểu Phúc Âm thì nói gì đến sự thực hiện trong cuộc đời. Thật lạ lùng, khi có những chuyện đặc biệt xảy tới, Đức Giêsu lặp đi lặp lại lời giải thích do lòng tin, ca tụng lòng tin, và còn nói rõ hơn "tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13), "muốn sao thì hãy được như vậy" (Mt. 15:28), "lòng tin con đã cứu chữa con" (Mt. 9:22; Mc. 5:34; Lc. 10:52), thế mà cứ cho là phép lạ và ca tụng rối lên; ca tụng để chẳng cần biết mình nên sống thế nào đối với những gì Đức Giêsu rao giảng. Tôi không thể hiểu được Đức Giêsu nghĩ gì. Dùng hai chữ phép lạ để chỉ những điều Ngài tuyên bố như kết quả của lòng tin phỏng có phải coi thường lời Ngài nói, hoặc không có tai để nghẻ Như vậy, chẳng lạ gì Ngài đã than lên "Ôi! Thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ ở với các ngươi, và phải chịu đựng các ngươi?" (Mt. 17:17; Lc. 9:41). Thật là đáng thương cho Đức Giêsu! Có lẽ không ai cảm nghiệm được nỗi cô độc của Ngài!
- Anh có thực sự cho rằng Đức Giêsu cô độc?
- Ngài cảm thấy thế nào tôi không biết, nhưng qua kinh nghiệm sống, đôi lần tôi vô tình ngứa miệng phát biểu nhận thức của mình về một vài câu Phúc Âm thì đều bị cho là nói ngang, con cháu đòi khôn hơn ông bành tổ... Rồi nào người này ì xèo, người kia nhìn tôi với cặp mắt khác lạ ra tuồng tôi ăn nói bậy bạ, phản đạo v.v... Hơn nữa, chị thử nghĩ coi, các môn đệ của Đức Giêsu như thế nào, dân chúng thời đó ra sao. Đã đọc Phúc Âm, chị thừa hiểu Đức Giêsu bị họ kết án vì lẽ gì nếu không phải là phạm thượng, dám coi mình là con Thượng Đế. Có thể nói, đây chỉ là lý do của những người được Phúc Âm gọi là trưởng lão, ký lục, v.v... lạm dụng niềm tin của dân chúng thời ấy để bảo vệ chức vị vì nếu dân chúng theo Ngài thì những người biệt phái, ký lục, và luật sĩ làm sao còn thế đứng. Tuy nói vậy, nhưng cũng phải công nhận rằng Đức Giêsu lên án họ quá nặng nếu xét theo lối nhìn thế tục... mặc dầu xét theo tâm linh, nếu họ dám đối diện với lòng, hy vọng họ sẽ nhận ra...
- Tại sao anh đặt vấn đề hy vọng họ nhận rả Chắc chắn họ phải nhận ra chứ!
- Chẳng có gì chắc chắn và phải ở điểm này. Thứ nhất, mình không phải là họ; thứ hai, họ đã được giáo dục, tiêm nhiễm theo tổ chức thế tục dưới sự hướng dẫn của những điều luật xưa, và đồng thời được hỗ trợ bởi quan niệm về một Thiên Chúa hà khắc nơi Cựu Ước theo lối nhân cách hóa của người Do Thái. Quan niệm này hiện giờ vẫn còn đang thống trị không những đạo Do Thái mà còn tất cả những ai tin nơi Đức Giêsu không cần phân biệt bè phái nào. Ông Thiên Chúa của dân Do Thái mà chị không thể chấp nhận được đó. Chị thấy nhan nhản những người rao giảng Chúa phạt, Chúa chết, Chúa thương, Chúa công bằng, Chúa tha thứ, Chúa hiện ra bảo điều nọ, bảo điều kia trên truyền hình, radio v.v... mà những gì Đức Giêsu nói về lòng tin thì hình như chỉ được dùng đại khái theo ngôn từ "tin" mang nghĩa nghĩ rằng có một Đấng đầy quyền năng từ chốn xa xôi nào đó tạo dựng nên vũ trụ và mọi sự được gọi là Thượng Đế cách biệt hẳn với loài người, rằng có Đức Giêsu từ ông hay bà Thượng Đế cách biệt ấy được sai xuống chịu chết để tẩy rửa con người khỏi cái tội luân lý kiêu ngạo của ông bà nguyên tổ và những sự phụ thuộc bởi cái tội luân lý ấy mà ra như sản phẩm của sự hiểu biết Kinh Thánh theo nghĩa đen. Đồng thời để bổ túc cho lý luận này nào những ân sủng đã được sinh ra cũng từ chốn xa xôi ấy được ghép vào Đức Giêsu không cần biết Ngài đã rao giảng những gì bởi không nhận ra quyền lực làm cho trái tim mình đập, phổi mình thở. Đọc Kinh Thánh, chỉ có một định nghĩa độc nhất nơi thư Hipri về lòng tin, "Tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy" (11:1). Chị thử đặt vấn đề, những điều còn trong hy vọng bao gồm những gì đối với những ham muốn thế tục; thực tại người ta không thấy cũng đâu phải chỉ là những điều được cho là nên đạt tới. Thế nên, chính quan niệm về một đấng Thượng Đế luân lý được nhân cách hóa đầy tính chất quyền năng, yêu thương, giận ghét, phe phái, đã bịt chặt cõi lòng và ngăn chặn những lời rao giảng của Đức Giêsụ Có thêm được câu nơi thư Rôma, "Quả vậy, tôi không hổ thẹn 'rao giảng' Tin Mừng, vì đó là quyền năng của Thiên Chúa để cứu thoát mọi kẻ tin... " (1:16) thì nó cũng không được ai để ý vì đã bị bao trùm bởi một Đấng Tạo Hóa quyền năng theo tính chất loài người gán chọ Thành ra, Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng thì người ta rao giảng về Đức Giêsu thay vì điều Ngài rao giảng. Mục đích của Đức Giêsu được bày tỏ rõ nơi Phúc Âm và đó là rao giảng Tin Mừng (Mt. 4:17, 23; 9:25; 12:18; 13:35; Mc. 1:14-15; 38; Lk. 4:18-19; 43; Gioan 4:25) và cũng chính Ngài sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng (Mt. 10:7; 27; 11:1; Mc. 3:14; 13:10; 16:15: Lk. 9:2) thì bị bỏ quên để rao giảng đạo, rao giảng tổ chức thế tục, bè phái, kết quả của những quan niệm khác nhau như sản phẩm của lý trí dựa theo nghĩa đen và luân lý về Phúc Âm. Chị thử nghĩ xem sự việc xảy ra như vậy phỏng Đức Giêsu cảm thấy thế nào? Thực ra, nếu Đức Giêsu mà mang những đặc tính như con người đã gán cho Thượng Đế nơi Cựu Ước, có lẽ chị và tôi không có cơ hội nghĩ về Ngài cô độc hay không mà tất cả đã bị phạt xuống đáy hỏa ngục của mấy nhà thuyết giáo từ ngàn xưa rồi...
- Lý do gì anh dám đưa ra nhận định như thế? Và cũng lý do gì anh có thể minh chứng là Thiên Chúa nơi Cựu Ước chỉ là quan niệm của dân Do Thái? Thượng Đế nào không là Thượng Đế, vậy Đức Giêsu đã rao giảng một Thiên Chúa ra sao?
Đến khổ, Kính nghĩ thầm, đọc sách Khởi Nguyên, thường được gọi là Sáng Thế Ký, có câu truyện bà Evà cùng chồng ăn trái cấm nên bị Chúa xua đuổi ra khỏi vườn địa đàng như một hình phạt. Thế rồi câu chuyện được diễn giải thêm mắm thêm muối cho có lý để dạy rằng ông bà nguyên tổ vì bất tuân nên phạm tội kiêu ngạo muốn ngang bằng với Đấng Tạo Hóa do đó đã truyền lại tội này cho con cháu là toàn thể nhân loại. Thánh Vịnh cũng có câu: "Này trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi khi mới là thai trong bụng mẹ" (Tv. 51:7), và nhất là nơi thư Rôma, "Vì thế, cũng như chỉ vì một người, mà sự tội đã đột nhập trần gian; và vì tội, thì sự chết nữa; và như vậy sự chết đã lan qua hết mọi người, một khi mọi người đều đã phạm tội... " (Rom. 5:12). Như vậy Cựu Ước đã được hiểu theo nghĩa đen ảnh hưởng tất cả các thư trong Tân Ước chẳng hạn thư Rômạ Điều này ngược lại lời Phúc Âm: "Vì tự bên trong, tự lòng người ta, mà xuất ra những suy tính xấu xa" (Mc. 7:21). Đồng thời lại cũng có câu, "Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì" (Gioan 6:63) thường được hiểu đại khái tội bởi trong lòng mà ra. Như vậy, nếu nói rằng sinh ra trong tội tất nhiên không chấp nhận Thượng Đế là cội nguồn mọi sự hiện hữu, và đồng thời cũng chống nghịch lại lời Đức Giêsu: "Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:48). Hai chữ trọn lành ở câu Phúc Âm có nghĩa riêng của nó. Thực ra, mỗi người được sinh ra toàn hảo đối với tất cả những điều kiện cấu tạo nên con người của mình. Cũng như chai bia, nó không thể tự trở nên cao hơn hay to hơn hoặc biến thành mầu đỏ, màu vàng. Đẹp hay xấu, mầu xanh hơi tối hoặc quá sáng hay là phải màu tím mới đẹp là tùy ý thích nơi người nhìn nó chứ riêng tự nó, nó là toàn hảo đối với tất cả những điều kiện và thành phần đã được dùng để chế tạo nên nó. Bởi vậy, khi đặt vấn đề chai bia nên có kiểu cách nào, màu gì tức là nói về quan niệm cá nhân và đồng thời đưa ra nhận định về những người trong tổ hợp chế tạo chai bia. Áp dụng vào ý thức tội lỗi, thay vì nói về nguồn gốc sự hiện hữu con người, câu "Này trong tà ác tôi đã sinh ra" được hiểu theo nghĩa đen trở thành tội lỗi là cội nguồn của con người. Phỏng đây là thứ tội phạm đến Thánh Thần mà Đức Giêsu nói trong Phúc Âm? Như vậy có thể nói, chính quan niệm "sinh ra trong tội" là nguồn gốc mọi sự tội vì từ chối quyền lực Thánh Thần, quyền lực hiện hữu, hoặc vì đã không suy xét nên vô tình cho rằng Thánh Thần là nguồn gốc tội lỗi. Quyền lực của sự hiện hữu tạo dựng chứ không phải quyền lực của tội lỗi; tất nhiên tội lỗi phải đến sau khi được sinh chứ không thể nào trước khi sinh. Hơn nữa, tội nào có thể tạo dựng được con người? Cho dù dưới con mắt luân lý hành động được coi là tội lỗi, nếu không có quyền lực hiện hữu, không thể nào có thực thể "được sinh rạ" Thế ra luân lý thị dục vẫn còn đang ảnh hưởng nặng nề nơi tâm trí chị này!
- Nói rằng Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài thì con người gốc tự bản thể toàn hảo, thánh thiện, tức là từ Thượng Đế con người bị sinh vào thế giới tội lỗi chứ không phải tội lỗi tạo dựng nên con người. Hơn nữa, nếu lý luận rằng con người có tự do nên phạm tội, chưa có sự sống hữu hình sao có thể có tự do của thế giới hữu hình này bởi không có con người sao có thể nói đến tội lỗi. Đàng khác, trước khi được sinh ra, mình đâu có quyền quyết định muốn nằm lỳ trong bụng mẹ hay đòi thoát ra ngoài theo ý mình. Bởi vậy, được sinh ra ngoài ý muốn nên không có trách nhiệm phải trở nên gì cả và cũng không cần có mục đích cho tương lai, sống cho bây giờ và lúc này mới hợp lý hợp tình. Như vậy có lẽ quá đủ để minh chứng tại sao tôi nói quan niệm nhân cách hóa một Thượng Đế luân lý đã làm con người đóng tai bịt mắt về những lời rao giảng của Đức Giêsụ Ngược lại, người ta vơ Đức Giêsu để ráp vào Thiên Chúa theo lối nhìn thị dục luân lý. Nơi câu truyện môn đồ hỏi Đức Giêsu về tội bởi ai để người mù từ khi mới sinh phải chịu như vậy, Đức Giêsu nói rằng không phải tội ai hết song vì để công việc của Thiên Chúa được hiện tỏ (Gioan 9:2-3).
- Vậy Đức Giêsu không phải là người Do Thái sao mà anh phân biệt Thiên Chúa của người Do Thái và Thiên Chúa của Đức Giêsụ Thế Thượng Đế của anh là gì?
Kính chậm chạp nâng ly bia uống một hơi... trầm tự Thực ra, chẳng có Chúa nào của người này hay của người khác; sở dĩ có sự phân biệt những quan niệm về Thượng Đế vì nếu quan niệm không nghiêm chỉnh sẽ dẫn tới những suy luận ngược lại Phúc Âm. Nếu tin nơi Đức Giêsu thì mọi gốc gác cần được bắt nguồn từ Phúc Âm. Làm sao có thể chấp nhận được một Thượng Đế yêu thương vô bờ bến đồng thời lại dám cả gan gán cho Ngài sự trừng phạt quá khắc nghiệt đối với những người lầm đường lạc lối hoặc chỉ phạm một lỗi lầm luân lý nào đó. Mà đã là luân lý, nó thay đổi tùy theo quan niệm của con người theo thời gian và nơi chốn cũng như cá tính dân tộc khác nhau trong hành trình thăng tiến nhân sinh. Con chiên đi lạc tự nó muốn hay không biết nên mới lạc? Đã gọi là đi lạc thì đâu phải tội của nó vì khi biết mình lạc đã lo sợ muốn chết; điều này được chứng tỏ rõ hơn nơi tâm tình e ngại mình sai mà không biết là sai. Hơn nữa, Thượng Đế chỉ có một, đó là lý do tại sao nên dùng nhóm chữ "Quyền Lực Hiện Hữu" thay vì Thiên Chúa hoặc Đấng Tạo Hóa để tránh bị cho rằng theo quan niệm của nhóm người này hay nhóm người kia. Xét theo ngôn từ, tùy theo vùng sinh sống mà người Việt Nam có những danh gọi khác nhau để chỉ chồng của mẹ mình, nào là thầy, bố, ba, cậu, tía... có người gọi ông già tôi, cụ thân sinh tôi... Cũng như vậy, những danh hiệu Thượng Đế, Thiên Chúa, Tạo Hóa, Ông Xanh v.v... được các nhóm người dùng theo thói quen để chỉ về Cội Nguồn Mọi Sự Hiện Hữu vô hình cũng như hữu hình, ấy là chưa nói đến những nhóm người có ngôn ngữ khác trên thế giới. Dĩ nhiên, có những quan niệm khác nhau sẽ có những ngôn từ, danh hiệu khác nhau, những lối diễn tả quan niệm qua cung cách tôn sùng, thờ phượng khác nhau, và đó lại là kết quả của điều kiện và lối sống của từng nhóm người. Điều này ai cũng có thể nhận thấy trên tivi trong những chương trình phát hình về văn hóa và sinh hoạt của các dân tộc. Thực ra, chúng ta thường hiểu lầm về những nghi thức tôn sùng hay thờ phượng. Chẳng hạn nhóm người nào đó thờ thần mặt trời; họ cho rằng mọi quyền lực phát sinh được biểu hiện qua mặt trời ảnh hưởng toàn bộ đến dân tộc ho... chứ không phải vì mặt trời cho ánh sáng. Như vậy, mặt trời chỉ là biểu tượng của Quyền Lực Vô Hình bao trùm vạn vật theo những gì họ có thể nghĩ đến. Thử xét, có gì phi lý hơn cầu mặt trời cho mưa, cầu mặt trời chữa bịnh, cầu mặt trời cho mau chết, và lại cũng cầu mặt trời cho chiến thắng kẻ thù nghịch với mình, để rồi, vì lý do nào đó bị thua trận lại cho rằng bị thần mặt trời phạt.
- Thế chị đã bao giờ nghĩ về Thượng Đế của chị chưa? Theo chị, Ngài như thế nào, ba đầu, sáu tay, mười chân, có những đặc tính gì, đối với chị ra sao v.v...? Kính đột nhiên hỏi ngược lại chị Lữ sau mấy phút suy nghĩ.
- Cũng một đôi khi, nhưng thường thì em chỉ đặt vấn đề về những sự kiện xảy ra trong cuộc sống sao cho phù hợp với những điều được dạy dỗ thôi. Em đâu dám suy nghĩ hơn kém bởi vì e bị rối đạo. Anh thấy không, mới chỉ nghĩ như thế đã ớn muốn chết rồi còn nói gì Chúa của em với Chúa của người khác...
- Thực ra chị đã đặt vấn đề từ lâu nhưng không để ý, bằng chứng chị đã không chấp nhận được Thiên Chúa của người Do Thái. Lý do khiến tôi dám đặt vấn đề cũng chỉ vì tin rằng Thượng Đế công bằng ngược lại cứ thấy những điều chướng tai gai mắt xảy ra trong cuộc sống không phù hợp với sự công bằng tối thiểu, như mọi người đều nghĩ, về một Thượng Đế quyền năng chút nào. Thử hỏi, công bằng ở đâu khi có những người làm ăn tối mặt, cần kiệm từng đồng mà nghèo vẫn hoàn nghèo trong khi lại có những kẻ ăn trên ngồi trốc, nắm giữ quyền hành làm những chuyện khó chấp nhận mà lại còn được ca tụng. Công bằng ở đâu khi so sánh một ông vua với tên thứ dân, một ông tướng với người binh sĩ? Thế giới của một Đấng Tạo Hóa công bằng sao đã sinh ra con nai, con hươu, lại còn sinh ra con hổ, con sư tử... mà con thú nào không là thú, thế mà mấy con hổ chẳng chịu ăn cỏ, cứ đòi ăn khôn nên giết hại các thú khác. Thế thì công bằng phải được nhận thức trên quan điểm nào mới có thể hợp với lời Phúc Âm?
- Anh nói gì kỳ cục! Tại sao lại bắt con hổ phải ăn cỏ? Luật rừng thì mạnh được, yếu thua, và cá lớn nuốt cá bé... là chuyện dĩ nhiên.
- Vậy Thượng Đế công bằng ở điểm nào? Tự bản chất được sinh ra đã không có sự đồng đều sao có thể nói tới công bằng... Mà không có sự công bằng thì bình đẳng là chuyện ruồi bu... Lấy gì để minh chứng con nai bình đẳng với con hổ? Đâu phải vì nhiều cỏ quá, sợ chúng mọc kín hết mặt đất sinh ra điều tai hại gì mà phải có những con bò, hươu, nai, hoặc dê để ăn bớt đi. Cũng đâu phải vì những con thú hiền lành sinh sản quá mau sợ tràn ngập mặt đất nên phải tạo dựng những con hổ, sư tử, beo, báo để ăn thịt bớt những con kia kẻo chúng ăn hết cỏ trơ trụi mặt đất, mưa nắng làm vỡ toang cả công trình cát bụi này. Đặt vấn đề như vậy, sự công bằng phải được hiểu theo nghĩa nào cho phù hợp với những sự thường tình mà chị gọi là luật rừng mạnh được yếu thua, và cá lớn nuốt cá bé. Giả sử chị là con nai sao chị có thể nói đến sự công bằng với con hổ! Tại sao chị làm cặm cụi không ngơi tay nơi hãng điện tử mà tiền lương kiếm được ít hơn anh chàng cai không muốn lê lết thân xác mập phì chỉ tay năm ngón... lại có quyền đuổi người này, thuê người nọ?
- Thì người cai phải học nhiều hơn, biết nhiều hơn và làm lâu hơn nên lãnh lương nhiều hơn...
- Vậy con hổ học nhiều hơn con nai lúc nào, làm việc lâu hơn ở hãng nào mà có quyền ăn thịt con nai? Dân Do Thái ngày xưa cũng giống như đàn nai béo mập trước móng vuốt dân Ai Cập do đó đã bị con hổ Ai Cập bắt ăn thịt dần thế nên Chúa của họ luôn luôn đối đầu với kẻ đàn áp. Thử để tâm suy nghĩ, đâu phải phi lý mà có luật "mắt đền mắt, răng đền răng," đâu phải tự nhiên người ta có thể đặt vấn đề Chúa công bằng đến nỗi phát sinh ra quan niệm sự giầu có ở cuộc đời này là thành quả của lối sống tốt lành ngay thẳng và kẻ khốn khó nghèo hèn bị coi là tội lỗi nhan nhản được nhắc đến nơi Cựu Ước. Tôi thử hỏi chị, nếu bị đàn áp, lại trong thân phận thấp cổ bé miệng chẳng mong nương tựa vào bất cứ quyền lực thế tục nào giải thoát, người nô lệ đặt niềm hy vọng vào đâu? Tất nhiên chỉ còn biết ngửa mặt trông trời tự nghĩ có Đấng cao xanh nào đó thấu hiểu và thông cảm nỗi khốn cùng của mình để có được niềm tin mong manh ngày mai trời lại sáng. Cho đến khi sự đàn áp quá nặng nề khó bề chịu đựng nổi, con người trở nên uất hận phát sinh mối thâm thù lồng trong hy vọng một ngày nào đó có cơ hội trả đũa, mắt đền mắt, răng đền răng... đời này qua đời khác tiến dần đến niềm hy vọng "bĩ cực thái lai" tạo nên ý thức có vay có trả cho công bằng. Chúa theo quan niệm luân lý công bằng của người Do Thái giành quyền làm người lại cho họ thay vì thân phận nô lệ, và cũng từ đấy nhờ suy niệm những sự kiện đã xảy ra, họ đạt tới nhận thức chính Chúa giải thoát họ do đó đã diễn giải cảm nghiệm lồng trong kinh nghiệm và quan niệm về Chúa như quyền lực toàn năng đứng về phe họ chống lại kẻ thù. Chẳng còn lý do gì có thể giải thích tại sao Đấng quyền năng ấy giúp họ mà không giúp các dân khác nên lý thuyết được chọn làm dân riêng phải được tạo ra. Từ đây, kẻ thù của dân Do Thái là kẻ thù của Quyền Lực Toàn Năng được họ gọi là Yavê.
- Anh nói như thế thì Thiên Chúa hay Thượng Đế hoặc thần linh nào chăng nữa cũng là sản phẩm nơi trí tưởng tượng của con người sao?
Chương 11
Chị có đầu óc suy tư như vậy sao lại còn hỏi câu này! Thượng Đế sao có thể là sản phẩm của óc tưởng tượng, nhưng quan niệm về Thượng Đế đích thực là sản phẩm của sự cảm nghiệm hòa nhập với lòng tôn kính quyền lực ảnh hưởng con người. Mọi người nhận thấy quyền lực này nhưng không biết cách nào giải thích hoặc có ý thử giải thích lại bị giới hạn bởi trí óc hạn hẹp. Nói cách khác, mọi người cảm nghiệm nhưng nói ra không được... thế nên dành phần cho một số người có khả năng suy nghĩ hơn... và lẽ đương nhiên, dù cho có thông minh đến mấy thì suy tưởng của con người hữu hạn vẫn bị giới hạn nên chúng ta chỉ có thể nói về một số nhận thức khuyết diện từ cảm nghiệm chứ không thể nào nói chi về Thượng Đế bởi tất cả những gì mình có thể nghĩ về Thượng Đế chỉ là sản phẩm của cảm nghiệm thêm phần tưởng tượng phối hợp cùng luận lý. Nghĩ vậy, Kính nói,
Chị không thể nói cho tôi hiểu được chị thương anh Lữ thế nào. Cảm nghiệm về Thượng Đế cũng vậy, không hơn. Thế nên, tương tự những gì chị có thể nói lên sự thương yêu của anh Lữ đối với chị chính là sản phẩm của nhận thức nơi chị về anh Lữ chứ không phải đích thực sự thương yêu của anh Lữ là như thế. Hơn nữa, chính anh Lữ cũng không thể dùng ngôn từ hay thái độ, hành động nào để có thể tỏ bày chính xác lòng của anh ấy với chị như thế nào... Điều này có lẽ chị rành hơn tôi, nếu chị cảm thấy anh Lữ thương chị như thế nào thì chính chị như vậy chứ không phải lòng anh Lữ như những gì chị cảm nhận được. Bởi đó, nhận thức về Thượng Đế chỉ là quan niệm nơi chính mình, mình thế nào thì sẽ nghĩ Thượng Đế như vậy. Đọc những sách nghiên cứu Kinh Thánh, chữ "El" có nghĩa thân thiết, thân thuộc, người bảo lãnh, thường được dùng để chỉ về thần thánh, những quyền năng vô hình được tôn thờ qua các biểu tượng do các dân tộc sinh sống nơi vùng Trung Đông. Người Do Thái thời xưa gọi Thiên Chúa của họ là Elohim, El, Loah, trong ngôn ngữ Hiprị Theo cách dùng chữ này, thần thánh mang nghĩa có liên hệ mật thiết với con người, bảo trợ, và phù hộ con người... Thiên Chúa của dân Do Thái còn được gọi là Yavệ Tôi không nhớ chữ Yavê được phát xuất như thế nào nhưng có nghĩa cội nguồn của mọi sự hiện hữu đó là lý do tại sao nơi sách Xuất Hành đã được viết "Ta có sao Ta có vậy" (XH 3:13-15) khi Môi Sen hỏi tên của Thượng Đế. Câu này mang nghĩa Ta là Đấng tự hữu.
- Nếu như vậy thì Thiên Chúa của dân Do Thái cũng giống như Thượng Đế hoặc Tạo Hóa của các đạo khác mà thôi sao không ai nghĩ tới họp nhau để chia sẻ quan niệm tìm đường hướng thăng tiến tâm linh cho đúng đắn...?
Có gì mà đúng với sai! Kính nghĩ. Tất cả mọi chuyện thuộc thế giới hữu hình, đúng hay sai theo quan điểm luân lý là chuyện bình thường theo lối nhìn nhân sinh, nhưng thực ra không vấn đề nào hoàn toàn đúng và không vấn đề nào hoàn toàn sai mà vừa đúng vừa sai lẫn lộn, hoặc nghiêng nhiều về bên này hoặc ngả nhiều về bên kia tùy theo nhận thức hợp hay không hợp với con người vào thời điểm và nơi chốn nào đó. Riêng vấn đề tâm linh, không có gì sai mà đàng nào cũng đúng tùy thuộc trình độ nhận thức của con người. Nếu có gì được gọi là không hợp luân lý thì chỉ là sự lạm dụng tâm linh mà thôi. Đàng khác, ý nghĩ hay ước mơ họp nhau chia sẻ hầu mong đạt tới đường hướng thăng tiến tâm linh thiết thực xưa nay không phải chưa ai nghĩ tới nhưng thực hiện chưa được. Như chị đã bao lâu nay được người ta cho là ít nói, nhưng thực ra chị đâu ít nói mà không có cơ hội nói những gì chị thích. Nếu căn bản quan điểm nhận thức không đồng đều thì dẫu mang tấm lòng thành mở rộng để chia sẻ thì cũng chỉ giống như ông nói gà, bà nói thóc. Gần hai ngàn năm qua, đã bao nhiêu người cùng trong một hướng đi, lớp trước để lại những suy tư cho lớp sau nối tiếp mà chỉ có cuốn Phúc Âm chẳng được bao nhiêu chữ vẫn như bị làn mây mù dày đặc bao phủ để rồi chỉ được coi như những bài học luân lý cho muôn thế hệ. Thực thể thức ngộ tâm linh không phải là kết quả của sự hiểu biết mà là cảm nghiệm; điều nghịch thường nhưng chẳng nghịch chút nào, đó là không ai có thể dạy dỗ cho ai, không ai có thể chia sẻ cho ai. Thực thể này ai đạt tới người nấy biết; vả lại có nhiều mức độ cảm nghiệm khác nhau; mỗi người tùy thuộc bản chất, trình độ, thời gian, và lòng mộ mến mà đạt tới mức độ nào. Có thể ví thực thể thức ngộ với tình yêu, chuyện thường tình từ tạo thiên lập địa, cổ hơn mặt trăng, nhưng thật là mới mẻ và đam mê đối với kẻ trong cuộc bất cứ thời điểm nào. Một điều kỳ cục nhưng rất bình thường đó là mọi người đều thấy kẻ đang yêu mang đầy sự ngu dại, khờ khạo, và dường như mộng tưởng... Kẻ thức ngộ cũng trong tình trạng ấy, người đời nhìn họ giống tên khùng, vớ vẩn, mở miệng nói ra không khác gì kẻ vừa trốn khỏi bệnh viện tâm thần... Những giá trị nhân sinh bị kẻ thức ngộ cho là rởm, và bởi vậy họ thường bị cô độc bởi không có bạn đồng thanh... Có thể nói, họ bị coi như những tên cùi hủi mà tất cả những người còn đang lệ thuộc những định giá xã hội cần phải lánh xa sợ lỡ vương vào sẽ bị sứt mẻ đền đài danh vọng đang tốn sức lực xây đắp. Như thế, chỉ những người thức ngộ mới cảm nghiệm rõ ràng câu Phúc Âm: "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng lấy chân dày đạp và quay lại cắn xé các ngươi" (Mt. 7:6). Thế nên, có muốn chia cũng chẳng được...
- Ai cũng là người; mà đã là người thì thánh nhân vẫn có khi lầm do đó tham vọng thế tục vẫn đeo đẳng nặng nề và trở nên thành lũy vững chắc ngăn chặn ước muốn ngồi lại với nhau. Cái tội tổ tông này nếu nói ra sẽ lãnh hậu quả tệ hại hơn không nói cho hợp với câu càng nói ít càng tốt, càng không nói gì lại càng tốt hơn... Giọng Kính trầm buồn, mang vẻ thao thức...
- Sao anh coi bộ thất vọng quá, chẳng bù với sự hăng hái khi giải thích những vấn đề Kinh Thánh.
- Tôi không thất vọng nhưng nghĩ đến câu, "Hãy biết thương xót như Cha các ngươi là Đấng thương xót" mà cảm thấy sự kiên nhẫn cùng cực của Thánh Thần... Ngày xưa, người ta đã nhân danh Thiên Chúa hằng sống lên án Đức Giêsu; môn đồ chạy tán loạn, chui nhủi; ngày nay, Đức Giêsu lại trở thành bung xung để rao giảng hình phạt... không khác gì dân Do Thái quan niệm một Thiên Chúa đầy tính chất hỉ, nộ, ái, ố, của con người. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến lý do tại sao câu, "Của thánh đừng cho chó," lại có thể được ghi vào Phúc Âm! Phỏng đây cũng là một ý định của Thánh Thần... để có đủ can đảm kiên nhẫn đợi chờ?
- Anh nghĩ sao mà nói Thánh Thần phải kiên nhẫn đợi chờ?
- Chính tôi cũng chẳng biết mình nói gì nữa thì sao có thể giải thích điều chị hỏi. Thực ra, tôi chỉ đặt vấn đề để suy nghĩ, tìm hiểu chứ không có ý định tìm kiếm điều xác quyết bởi Thánh Thần của Đức Giêsu có kiên nhẫn hay không làm sao tôi biết. Câu "Của thánh đừng cho chó" tại sao được ghi vào Phúc Âm có lý mà lại nghịch lý nên cho dù càng cố gắng giải thích theo phần có lý bao nhiêu chỉ làm tăng áp lực của phần nghịch lý bấy nhiêu, và ngược lại cũng vậy, càng minh chứng phần nghịch lý thì lại càng đối diện với phần có lý rõ ràng hơn... Đứng về phe này chỉ làm tăng sức mạnh của phe kia thì làm sao giải thích, chẳng thà đứng ngoài, không nhận định là tốt nhất.
- Anh nói gì ngang chịu không nổi... Tại sao đứng về phe này lại có thể làm tăng sức mạnh của phe đối nghịch... Thế câu nói "Hai thằng đánh một chẳng chột cũng què" đem quăng cho chó nhai! Anh phải giải thích cái nghịch lý anh vừa đưa ra cho xuôi chứ nói thế có lẽ Chúa cũng không hiểu nổi.
Kính ngại ngùng vì luận lý chị Lữ vừa đưa ra rất đúng với thực tế theo nhận định luân lý một chiều; bởi vậy, làm sao có thể chấp nhận sự kiện nào cũng tự mang những điều đối nghịch. Khổ nỗi, xưa nay con người đã bị nhập tâm nhìn mọi dữ kiện qua lăng kính luân lý thị dục thì sao có được nhận định trung thực về sự kiện. Thế nên, dẫu kinh nghiệm bình thường, càng cố quên chỉ càng nhớ thêm, càng nói thánh nói tướng thì trong lòng chỉ càng rỗng tuếch mà đâu ai để ý. Đàng này, chị Lữ mới chập chững làm quen với sự mở rộng chấp nhận những kết quả có thể của suy luận lại muốn hiểu cho bằng được ý nghĩa thâm trầm của lời nói u mặc. Từ ý nghĩ này, dẫu e ngại, Kính đành rán thử,
- Tôi biết nói sao bây giờ... thôi cũng được, nhưng với điều kiện...
- Anh nói điều kiện gì?
- Chị có thể chấp nhận được ý thì phải quên lời không?
- Thì mình hiểu rồi cần gì phải giải thích...!
- Trường hợp này không phải vậy. Ý tôi muốn nói nếu tôi cố gắng giải thích mà chị hiểu được thì những ngôn từ tôi dùng, nghĩa đen của sự diễn giải không được đếm xỉa gì tới cho dù nó đụng chạm đến danh dự hay mang tính chất xỉ nhục chị cũng phải bỏ qua tôi mới có thể nói được... Nhưng thôi, nguy hiểm quá, chỉ sinh ra mất lòng...
- Tại sao anh cứ luẩn quẩn chặn đầu chặn đuôi... nói lung tung không đi đến kết quả nào vậy?
- Vậy nếu ai đó bây giờ tự dưng xông vào nhà chị mà nói chị thế này, thế nọ, chẳng ra gì, chị sẽ có phản ứng ra sao? Chị có cảm thấy bị tổn thương tự ái không? Chị có đuổi người ta ra khỏi nhà ngay lập tức không? Hoặc chị có cố gắng giải thích vì nghĩ rằng có sự hiểu lầm nào không? Hay chị sẽ có phản ứng nào khác... chị có thể nói cho tôi biết được không?
- Điều này có liên hệ gì tới sự nghịch lý của anh đâu...
- Ý nghĩ của chị vẫn còn đang bị ảnh hưởng bởi sự nghịch lý tôi đưa ra. Thử tạm thời quăng nó đi và trả lời câu tôi vừa hỏi; vậy chị sẽ có phản ứng thế nào đối với người ngang ngược ấy...
- Dĩ nhiên, chuyện gì cũng có lý của nó vì nếu không có lý do hay hiểu lầm sao ai có thể sừng sộ mà làm như vậy. Em nghĩ, thái độ của em sẽ là ráng chịu đựng mà nghe và hỏi lại cho tường tận những gì người đó có thể giải thích để tìm hiểu nguyên nhân rồi mới có phản ứng. Tất nhiên, em không tránh khỏi sự ngỡ ngàng và cảm thấy tổn thương tự ái lúc ban đầu...
- Vậy tôi nhắc lại, những lời nói nào tôi dùng để giải thích sự nghịch lý của câu nói "Của thánh đừng cho chó" chị không được để ý tới mà chỉ đặt vấn đề hiểu câu đó muốn nói gì được không.
- Đồng ý với anh và em sẽ chứng minh cho anh thấy...
Thực tâm, Kính muốn lờ quách để khỏi phải đụng đến vấn đề khó khăn này nhưng chị Lữ vẫn cố chấp, muốn hiểu cho bằng được. Giải thích đơn giản, chẳng lợi gì vì người nghe chỉ nghe cho qua... Thôi thì đành chấp nhận, Kính nghĩ, miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời nên buông thõng,
- Nó vậy đó...
- Anh nói sao?
- Nó vậy đó.
- Anh muốn nói vậy đó là như thế nào?
- Thì nó vậy đó.
- Anh muốn ám chỉ em không đủ khả năng để hiểu điều anh nói...! Mặt chị Lữ đỏ bừng ra chiều bị tổn thương tự ái quá nặng.
- Chị vừa nói chứ không phải tôi... mà tôi đã cảnh cáo trước rồi... Có phải chị cảm thấy bị tôi khinh thị không?
- Anh... anh... Chị Lữ tức quá nói không lên lời... trong khi sắc mặt đổi thành trắng bệch...
Mình đã biết là không nên mà vẫn ngu cứ thích dây dưa vào, Kính nghĩ thầm, lòng e ngại tự than thở. Chị này nổi cơn giận kinh khủng quá vì tự ái bị đụng chạm ghê gớm. Khi đầu óc con người đã bị đám mây kinh nghiệm làm mù quáng, sự cố chấp đương nhiên phát sinh. Đàng này, tự ái bị tổn thương do cảm nghĩ bị khinh khi, nhất là đàn bà, chị này mà nổi đóa lên thì mất mặn mất ngọt... lạy Chúa tôi! Kính than thầm trách mình quá dốt... nên giọng nói buồn buồn cố nhắc nhở...
- Đứng về phe này, chỉ làm phe kia mạnh thêm. Tôi càng giải thích, chỉ càng làm chị tổn thương tự ái... nào có ích lợi chi đâu mà có thể những cố gắng của tôi chỉ càng khiến chị thêm mất lòng...
- Ah! Em hiểu rồi... Anh không cần phải giải thích nữa. Xin lỗi anh, không ngờ em nóng đến độ đó... Có lẽ nếu đã không có cơ hội nói chuyện với anh mà chỉ nghe loáng thoáng vài câu hoặc nếu anh cố ý giải thích câu nghịch lý này cho người khác, chắc chắn anh chỉ bị phiền thêm thôi!
Không ngờ chị Lữ khá thông minh... nhận được cơn tức giận là kết quả của sự thách đố nơi câu nói của Kính áp dụng vào câu "Của thánh đừng cho chó." Thoạt đầu, chị chỉ nhận ra Kính đem câu nói này chỉ về chị. Không hiểu tất nhiên là thứ chó và thế là máu nóng bốc lên do tự ái bị tổn thương, nhưng khi nghe Kính nói trúng tâm tình của mình, chị Lữ chợt nhận ra không phải Kính khinh khi mà bị chính câu nói Phúc Âm ám chỉ về mình... Đến lúc Kính nói càng giải thích chỉ càng làm tổn thương tự ái, chị chợt hiểu không nên nói cho những người chưa đủ khả năng nhận biết... và ý thức này đã tẩy sạch lầm lẫn tạo nên sự tổn thương tự ái. Thoát nạn, Kính điềm đạm,
- Tôi lại bị thêm một lần bé cái lầm. Tôi tưởng chị sẽ nổi đóa lên mà tống cổ tôi ra khỏi nhà ngay lập tức... Cũng giỏi, mặt chị đỏ hồng lên, rồi tái mét... trông thấy mà ớn da gà... Tôi sợ quá, giả sử mụ vợ tôi lúc lên cơn mà như thế có lẽ tôi chỉ còn nước độn thổ...
- Anh làm như phái nữ tụi em dữ dằn lắm... Vậy em đã làm gì anh đâu, ngay cả một lời nói mất lòng...
- Thế bây giờ chị đã có thể áp dụng cảm nhận chị vừa có được vào câu "Của thánh đừng cho chó" chưa...?
- Nhưng làm thế nào có thể áp dụng cho phù hợp câu "Thiên Chúa ở cùng chúng ta"...
- Có phải câu nói vừa có lý, vừa nghịch lý không... và đứng về phía bên nào để giải thích thì chỉ làm cho phía bên kia trở nên vững mạnh không?
- Anh nói đúng... càng giải thích càng đi vào bến mê... Hèn chi Phúc Âm thường bị hiểu lầm... Lạ thật, nói thế nào cũng đúng và cũng sai... lại cứ như khinh thi... mà lại cũng ngang tàng... Chị Lữ nói như trong mơ...
- Chị đang nói gì đó...?
- Em nghĩ về câu Phúc Âm "Kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù" (Gioan 9:39). Đúng rồi, trúng chóc như câu "Của thánh đừng cho chó"... Thế nên, dù thấy nên nói cũng chẳng nên nói..., càng nói ít càng đỡ phiền mà không nói gì lại càng tốt hơn... Hèn chi anh nói Thánh Thần kiên nhẫn...
- Chị đang học nghề thợ điện hay sao vậy...
- Sao anh lại nói thợ điện? Vậy em giống như thợ điện phải không?
- Thì thợ điện có bao giờ nói mình là thơ... nhưng cứ ngồi đó mà ngơ ngẩn lẩm bẩm những câu nghịch thường không là thợ điện thì là thợ gì?
- Hèn chi lúc nãy anh nghĩ đến câu "Hãy biết thương xót... " mà giống như người thất vọng...
- Chị nói vậy có ý gì?
- Có những cảm nghiệm coi bộ rất thường nhưng không cách nào giải thích mà không có chúng sẽ không thể nào thay đổi được những quan niệm cũ trói buộc nhận thức của một người. Trước kia em nghe giảng giải và thấy Phúc Âm đơn giản bao nhiêu thì bây giờ lại thấy mênh mông và khó hiểu bấy nhiêu. Nhưng sao lại có câu gì đó em nhớ mang máng... hình như... họ nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu kẻo họ trở lại mà được thứ tha... Tại sao Phúc Âm nói tìm sẽ gặp, gõ sẽ được mở mà lại nhìn không thấy, nghe không hiểu thì tìm làm gì và gõ làm gì?
- Câu này ở Mác cô trước khi Đức Giêsu giải thích về dụ ngôn người gieo hạt giống. Đây là ngôn sứ Isaya và cũng được sắp xếp tương tự như ở Phúc Âm Mathêu nhưng tôi không nhớ rõ đoạn nào; đồng thời nơi Phúc Âm Gioan thì được dùng để minh chứng thái độ của dân chúng không muốn nhận biết Đức Giêsu như đã được loan báo trước nơi sách Isaya... Tôi biết chắc chắn thế nào chị cũng đặt vấn đề về người được ban cho sự hiểu biết mầu nhiệm Nước Trời và người không được... chị thử rở đoạn 4 của Mác cô xem, hình như vậy... (Mc. 4:12).
- Anh nói đúng, khi đọc đoạn này em cũng nghĩ thế. Nếu mình đã không được sinh ra với đôi cánh sao có thể bay như chim cho nên không bay được đâu phải là lỗi tại mình. Cũng thế, không có sự hiểu biết nào đó hoặc khả năng nào đó thì mình đâu có trách nhiệm. Nhưng nói theo lời Phúc Âm thì chả lẽ Thiên Chúa của Đức Giêsu bất công? Thử hỏi anh, không có bột sao gột nên hồ, không biết đọc thì có cả ngàn cuốn Kinh Thánh xếp chật nhà cũng như mù còn nói chi đến Lời Chúa... thế thì nhìn ở đâu, nghe ở đâu mà thấy với hiểu... lại còn tìm sẽ gặp, gõ sẽ mở... cả là một sự nghịch lý.
Bất công hay không cũng tùy mình... và nếu nói đến bất công chị đã tự động phá bỏ điều mà chị gọi là chuyện thường tình, cá lớn nuốt cá bé... Đọc Phúc Âm mà vẫn không để ý, ngay trước dụ ngôn hạt giống Đức Giêsu đã bị cho rằng dùng quyền năng của đầu mục quỉ Bêelzebul mà trừ quỉ. Những ký lục rất rành về Cựu Ước. Ở Cựu Ước, danh hiệu Yavê được gọi để chỉ về Thiên Chúa hay Thượng Đế riêng biệt của dân Do Thái bởi các nhóm dân Ai Cập, Syria, v.v... vùng Trung Đông thờ rất nhiều loại thần và có những vị pháp sư đầy quyền năng có thể gọi mưa cầu gió hoặc làm những chuyện cả thể... Đó là lý do tại sao Cựu Ước có những câu: "Ngươi sẽ không có những thần khác trước nhan Ta... Ngươi sẽ không thờ lạy chúng và phụng sự chúng, vì Ta, Yavê Thiên chúa của ngươi, Ta là Thiên Chúa ghen tuông phạt tội cha ông trên con cháu đến ba bốn đời đối với những ai thù ghét Ta, và giữ nghĩa dư ngàn với những ai yêu mến Ta và giữ các lịnh truyền của Ta" (XH 20:2,5-6). Những biệt phái, luật sĩ, ký lục trong đạo Do Thái tuân giữ luật lệ kỹ lưỡng thì sao có thể chấp nhận bất cứ thần nào hoặc người nào ngoài Thiên Chúa luân lý của họ. Họ giết Đức Giêsu cũng vì Thiên Chúa ghen tương theo quan niệm phàm nhân của họ mà thôi bởi Đức Giêsu dám xưng là con Thiên Chúa!
- Câu "Họ nhìn lấy nhìn để mà không thấy, họ nghe lấy nghe để mà không hiểu, kẻo họ trở lại mà được thứ tha" (Mc. 4:12) theo nghĩa rộng lên án những ai còn cố bám víu vào quan niệm cũ, nhìn Thượng Đế dưới con mắt luân lý vì Thiên Chúa của Cựu Ước là một Thiên Chúa luân lý, lên án kẻ không tuân theo luật lệ, phạt kẻ dữ, đối xử với con người theo tính cách con người... Đại khái có thể nói một Thượng Đế tuyệt đối vượt trên tất cả mọi thần thánh và được phụng thờ hoặc suy tưởng theo một khuôn mẫu nhất định.
- Như vậy bất cứ ai không có quan niệm giống họ về Thiên Chúa thì đều bị cho là sai lầm, là tà đạo hay sao?
- Chính chị cũng vậy và tôi đã một thời như thế chứ đâu phải chỉ những biệt phái, ký lục, hay luật sĩ thời xưa... Chị có giỏi thử nhớ lại coi, sợ bị rối đạo không phải là con đẻ của quan niệm chỉ có Chúa của mình là đúng mà Thượng Đế của người khác là sai hay sao?
- Hèn chi anh nói đến Thiên Chúa của Đức Giêsu, của dân Do Thái... Nhưng sao lại còn chia ra Chúa của người này, Thượng Đế của người kia?
- Gọi là Thiên Chúa hay Thượng Đế hoặc Tạo Hóa hoặc bất cứ danh hiệu nào đó thì cũng chỉ về một Đấng độc nhất, cội nguồn của mọi quyền lực hiện hữu. Sự khác biệt lại là quan niệm về Đấng ấy như thế nào. Chính quan niệm về Thượng Đế phối hợp với lòng tôn sùng sinh ra những nghi thức và luật lệ tôn giáo. Để tôi thử phân tích Mười Điều Răn chị sẽ có nhận định rõ hơn. Thứ nhất, thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sư... Thử hỏi thờ phượng thế nào? Trên hết mọi sự theo nghĩa nào? Biệt phái, ký lục, luật sĩ, họ tuân theo luật tôn giáo từng giấu chấm, giấu phẩy... gấp mấy lần chúng ta... thế mà vẫn bị Đức Giêsu đấu cho tơi tả. Thứ hai, chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ. Đức Chúa Trời có tên không, ai có quyền đặt cho Ngài? Hơn nữa, theo quan niệm Do Thái, khi mình đặt tên cho người nào hay sự vật nào tức là mình có quyền trên người và sự vật ấy; chẳng hạn cha mẹ đặt tên cho con cái. Thế sao lại có luật cấm kêu tên Ngài? Thứ ba giữ ngày Chủ Nhật... Một tuần dành riêng một ngày cho tâm linh cũng tốt thôi vì đây là cơ hội cho con người nhìn lại giá trị làm người cũng như thăng tiến đời sống tâm linh và giúp thân xác nghỉ ngơi đồng thời cũng phần nào tránh bớt sự theo đuổi ham muốn thế tục. Có thể luật này bắt nguồn từ sự đòi quyền sống của dân Do Thái dưới thời nô lệ Ai Cập; họ phải làm việc quá sức không được nghỉ ngày nào nên được xếp vào luật tôn giáo vì lợi ích cho sức khỏe con người. Các điều răn từ thứ bốn cho đến thứ mười chị thử nghĩ coi thuộc về lãnh vực nào?
- Thảo kính cha mẹ, chớ giết người, chớ làm sự dâm dục, chớ lấy của người, chớ làm chứng dối, chớ muốn vợ chồng người, chớ tham của người... Đây là những khuyên răn luân lý...
- Vậy nếu phạm vào những điều răn này thì được gọi là gì?
- Thì có tội.
- Vậy tội là gì?
- Là phạm những luật luân lý.
- Vậy nếu không có luật luân lý thì sao có thể phạm?
- Nhưng mình là con người mà đã là người ai không lầm lỗi.
- Chị thử nhớ lại khi phân tích ba dụ ngôn mười cô phù dâu, ba người đầy tớ, rồi đến chiên và dê, những thành phần bị lên án thuộc loại nào?
- Ủa, đó đâu phải điều răn...
Không ai trong những trường hợp đó phạm bất cứ điều răn nào vì Phúc Âm không nói. Như vậy, họ bị lên án theo quan điểm chi đó chứ không phải vì không tuân giữ lề luật. Xét về bản chất, những lề luật tôn giáo được đặt ra vì lợi ích cho hành trình tâm linh của con người. Lề luật vì con người chứ không phải con người được sinh ra vì lề luật. Ngay cả luật giữ ngày Chủ Nhật như Phúc Âm đã nói đến: "Hưu lễ đã đặt ra vì người ta chứ không phải người ta vì hưu lễ" (Mc. 2:17). Mười điều răn chỉ là căn bản tối thiểu để giữ trật tự luân lý đám dân "quân hồi vô phèng," láo nháo, vừa mới thoát khỏi ách khốn khổ đè nặng trên đầu trên cổ do người Ai Cập mà chỉ vì đói khát mấy bữa vội đòi trở lại kiếp nô lệ đã quá quen cho no cái dạ dày không phải lo nghĩ. Họ đâu khác gì chúng ta bây giờ, không dám suy nghĩ vì e sợ bị thức tỉnh khỏi cơn mê thị dục. Nói như vậy cũng phải công nhận Môi Sen có biệt tài trị dân nếu xét theo khía cạnh chính trị và xã hội vì ông đã dùng luôn tính chất thần linh đưa vào luật lệ để cai trị. Đức Giêsu rao giảng luật yêu thương, bao gồm kính mến Thần Linh và sống vì mình và cho cả đồng loại; đó cũng là căn bản cho những ai muốn bước vào thế giới tâm linh. Thế nên, Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng không phe phái, không định giá con người theo quan điểm thế nhân mà vượt hẳn lên. Thiên Chúa của Đức Giêsu nhìn nhận bản thể của con người chứ không xét xử con người theo thị dục nhân loại; do đó Đức Giêsu không đưa ra bất cứ một khuôn mẫu thế tục nào để gò ép con người phải theo. Ngài nói về sự trọn lành tức không theo thị dục con người, không nhận định con người theo thiên kiến của lối nhìn luân lý bởi luân lý thay đổi, không đứng về phe của những gì được cho là tốt để lên án những gì bị cho là xấu theo sự ưa thích của con người ngược hẳn với quan niệm luân lý nơi Cựu Ước.
Chương 12
- Đặt vấn đề như vậy chị thấy rõ Thiên Chúa của Đức Giêsu không coi ai là kẻ thù, không kết án ai kẻ bội phản mà nhìn nhận con người bằng thực thể của chính họ. "Hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác... Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:45; 48).
Như vậy không công bằng... người ngay lành thì được thưởng mà kẻ độc ác phải sửa phạt mới có thể khuyến khích họ trở lên tốt lành hơn chứ không lẽ người thiện kẻ ác cũng như nhau thì loạn hết sao!
- Chị làm ơn cởi bỏ những bộ kiếng đúng sai, phải trái được không! Nếu chị vẫn còn đứng về phe thiện để lên án điều được gọi là ác thì vẫn còn chạy theo thị dục thế nhân; điều gì mình thích, hợp với mình thì đúng, thiện, tốt lành; điều gì mình không thích, không hợp hay nghịch với ý nghĩ thì sai, dở, ác. Ban nãy chị mới chấp nhận ai là người mà không lỗi lầm. Vậy những lỗi lầm nơi chị không phải thuộc về chị sao? Mà nếu không có những lỗi lầm ấy chị sẽ là người khác mà cũng có thể chị đang ở thiên đàng của tôn giáo nào đó chứ không phải ở Nước Thiên Chúa của Đức Giêsụ Tôi nói câu này chẳng hiểu chị chấp nhận được không, nếu nhận định theo con mắt luân lý thế nhân, Thiên Chúa mà không có lỗi lầm là một Thiên Chúa chết, chẳng còn gì đáng nói, vì nếu Thiên Chúa thực sự là Đấng toàn hảo, nơi Ngài chất chứa tất cả mọi sự.
- Thiên Chúa sao mà lầm lỗi được...
- Vậy mặt trời đang soi sáng tốt hay xấu?
- Nếu ánh sáng mặt trời không tốt thì làm sao cây cỏ mọc được, làm gì có sự sống trên mặt đất.
- Vậy nắng gắt thế này thì tốt cho người cấy con rau không?
- Đó là lỗi tại họ không biết suy tính đem con rau mà cấy vào lúc nắng chứ đâu phải tại mặt trời.
- Vậy dòng điện nấu cơm, thắp sáng đèn này tốt hay xấu.
- Dĩ nhiên là phải tốt, sao anh hỏi vớ vẩn.
- Vậy nếu điện chạm chết người hay cháy nhà tốt hay xấu?
- Cái đó là tại mình chứ sao lại nói dòng điện.
- Như vậy, mặt trời và dòng điện tự chúng không tốt không xấu mà tùy trường hợp áp dụng liên hệ đến con người tạo nên sự việc tốt xấu phải không?
- Có phải anh muốn nói tùy quan niệm hay lối nhìn của mình mà sự kiện khác biệt bởi tự chúng không tốt, không xấu...
- Ngay cả Thượng Đế cũng bị nhìn như thế. Do đó đã có câu nói "Cái bóng của Thượng Đế là quỉ vương." Thực ra, cảm nghiệm về Thượng Đế thường bị lệ thuộc tính chất cũng như thị dục của con người. Thế nên, đừng nói chi về Thượng Đế có lẽ tốt hơn vì chỉ mới nghĩ đến thực thể của Ngài nơi tạo vật thì ý nghĩ, suy tư của chúng ta đã vội đóng khuôn tâm trí vào một giới hạn không thoát ra được. Nếu Thượng Đế là đấng hoàn toàn thì Ngài phải có đủ mọi tính chất xấu cũng như tốt được xét theo quan niệm luân lý nhân sinh. Cũng thế, Thượng Đế có lòng xót thương tất nhiên sẽ là một Thượng Đế bất công như chị vừa nói. Bởi vậy, người ta đã có thể nhân danh Chúa, nhân danh dân tộc, nhân danh quan niệm của họ để lên án kẻ khác, lên án những kẻ không đứng về phe mình, không theo ý mình cũng chỉ vì không thoát khỏi ngục tù thị dục. Đức Giêsu rao giảng một Thiên Chúa vượt khỏi lối nhìn thị dục của con người, không tùy thuộc lối suy nghĩ của bất cứ ai hoặc quan niệm hay truyền thống nào. Bởi bất cứ gì được gọi là học thức, giáo điều, đều thuộc về quá khứ, chúng là những sản phẩm, cặn bã còn sót lại của sự biến động thăng tiến đã qua ngược lại với sự hiện hữu. Sự hiện hữu luôn luôn sống động nên biến đổi từng giây phút. Chị có thể nhốt ánh sáng vào một căn phòng kín hay một chiếc hộp không? Nếu không, sao có thể nói Thượng Đế là thế này, là thế kia, Ngài thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ. Thượng Đế chính là bản thể thần linh nơi mỗi người. Ngài cũng chính là sự hiện hữu đang biến chuyển từng giây từng phút của cuộc sống và đồng thời cũng là mục tiêu toàn hảo tự trong tâm khảm mọi người theo đuổi. Chị thấy rõ, tâm hồn con người còn sâu thẳm không thể thăm dò hoặc dự đoán phương chi đòi xác quyết về quyền lực tác thành nên họ. Bởi thế, con người chỉ có thể cảm nghiệm được Thượng Đế chứ không thể dùng lý do minh chứng hay lý luận để nói về Ngài.
- Thế anh đang nói gì vậy?
- Tôi đang nói về Thiên Chúa Đức Giêsu rao giảng, một Thượng Đế sống động không bị nhốt vào bất cứ giáo điều nào mà là "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Jacob! Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của người sống!" (Mt. 22:32).
- Ý anh muốn nói người chết sẽ không bị xét xử mà chỉ có người sống mới bị xét xử?
- Tôi biết ngay thế nào chị cũng hỏi câu này. Tôi nghĩ, có lẽ Phúc Âm trở thành cớ cho khối người vấp phạm. Chị thử đặt vấn đề chữ chết có hai nghĩa trong câu này sẽ thấy ngay.
- Anh nói hai nghĩa nào
- Tâm linh và hữu hình...
- Hình như câu này trong truyện bẩy anh em lấy một người đàn bà... thì người chết không bị lệ thuộc vào luật lệ của những người sống phải theo nữa...
- Rồi sao!
- Như vậy phỏng không phúc không tội sau khi chết vì không bị ràng buộc bởi luật lệ khi sống... Điều này có vẻ vô lý...
- Có phải chị e bị sai khi cho rằng câu Phúc Âm này mang nghĩa luật lệ không ảnh hưởng kẻ đã chết thì sự vi phạm luật lệ cũng không còn giá trị ràng buộc?
- Em chưa bao giờ nghĩ tới điều này mà chỉ nghe giảng là không ai là chồng của người đàn bà đó nữa mà thôi...
- Như vậy vẫn còn mang rượu mới đổ bì cũ... "Thiên Chúa không phải của kẻ chết" có nghĩa không thể dùng sự hiểu biết bình thường để áp dụng vào Phúc Âm được bởi mọi giáo điều, mọi quan niệm, mọi nhận thức nhân sinh lệ thuộc định giá xã hội như đúng sai, phải trái, là những gì đã chết. Thiên Chúa không được đo lường như vậy vì Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống, của phần không thể chết được nơi con người mà luôn luôn sinh động, tiếp tục biến chuyển. Thân xác chỉ như chiếc thuyền chở hồn qua bến bờ bên kia dòng sông cuộc sống hữu hình trong hành trình tâm linh. Đó cũng là ý nghĩa của câu "Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì" (Gioan 6:63). Quyền lực của ý định, ý muốn, ước mơ, được xác định rõ nơi câu này cũng như nơi câu nói "Phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng" (Mt. 5:28). Chính ước muốn, ý định, tạo nên luật "thế huynh" (Thứ Luật 25:5-10) để duy trì giòng giống và bảo tồn của cải gia đình chứ không phải tự nhiên mà có. Đàng khác, ý định, ước muốn, thực sự là công cụ của quyền lực hiện hữu; nói theo Phúc Âm, ý định, ước muốn là hoạt động của thần khí nơi con người do đó vượt hẳn giá trị những của luật lệ nhân sinh. Như vậy, Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng không xét xử theo lề luật mà thấu suốt tận đáy lòng, nơi ý định, ước mơ thầm kín của con người. Có thể nói đây là luật lương tâm...
- Nếu như vậy, trong trường hợp lương tâm bệnh hoạn thì sao?
- Chính người đó biết và nếu thực sự bệnh hoạn thì tất nhiên đâu phải do ý định của họ. Có ai đem con rắn hoặc con chó cắn người ra tòa xét xử đâu!
- Thế đâu cần lập pháp và hành pháp...
- Đó là những tổ chức thế tục cần phải có để ngăn ngừa sự lạm dụng và ổn định cuộc sống mọi người...
- Nhưng nếu có trường hợp xét xử sai lầm thì anh nghĩ sao?
- Nếu không thiên vị, tất nhiên có những lý do tạo nên những sai lầm và chắc chắn có những trường hợp chính người bị xét xử oan ức đã không biết lý do tạo nên sự Oan ức của mình nhưng bị ép chấp nhận lẽ công bằng theo quan niệm người đời... mà thật ra vẫn bị Oan. Tuy nhiên, trong trường hợp gian dối hay bất công, dù người đời không biết hoặc không hiểu nhưng tòa án lương tâm đâu có bao giờ tha thứ. Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng nắm giữ lề luật này...
- Thế sao Ngài nói hãy biết thương xót như Cha các con trên trời là Đấng hay thương xót. Đã thương xót thì đâu cần đặt vấn đề xét đoán...
- Câu đó cũng nói về đặc tính của Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng vượt khỏi những gì con người xưa nay thường nghĩ về Ngài. Phúc Âm viết, "Song các ngươi hãy mến yêu địch thù, và hãy thi ân, hãy cho vay mượn, cho dù không trông báo đền. Và phần thưởng của các ngươi sẽ lớn lao. Và các ngươi sẽ là những người con của Đấng Tối Cao, vì Người nhân lành với những kẻ vô ơn, độc ác. Các ngươi hãy biết thương xót như Cha các ngươi là Đấng thương xót" (Lc. 6:35). Những kẻ vô ơn và độc ác theo nhận định của con người về lối sống bên ngoài hay cách sống của ai đó. Chị thấy rõ, con người họp lại thành bè phái chống nghịch nhau bởi theo đuổi những quan niệm hay ước mơ khác nhau thế nên phát sinh những thái độ, cách đối xử tàn tệ và độc ác đối với những ai ngược lại đường lối của mình. Như vậy, nếu một người đứng ngoài hai phe đối nghịch, sẽ nhận thấy rõ ràng cả hai bên đều là nô lệ cho những quan niệm hay lý tưởng khác nhau nên trở thành địch thù của nhau. Các thành phần của cả hai bên đều đáng thương vì họ đâu nhận ra những điều ác độc làm hại đối phương lại là kết quả của sự nô lệ ý muốn, quan niệm. Họ thực sự là kẻ đáng thương đang quằn quại trong sự thù hằn như tác phẩm của tính chất nô lệ lý tưởng, con đẻ của ước muốn. Thế nên, thương xót nơi đây là lòng cảm thông bởi không xét đoán con người theo luân lý mà nhận thức được sự khốn khổ của con người đang bị đày đọa trong kiếp sống nô lệ của ý thức luân lý một chiều.
- Nhưng nếu nhân lành với những kẻ vô ơn, độc ác thì có phải là dung dưỡng họ hay không?
- Thế người phơi lúa gặp phải trời mưa la lối tùm lum tà la có ích gì không mà người ta vẫn kêu than, có khi chửi rủa, như vậy không được gọi là độc ác ư? Có phải chị cảm thấy e ngại vì hai chữ vô ơn và độc ác bởi chúng là những điều không nên xảy đến với mình? Vậy nếu xét theo khía cạnh nào đó vô ơn và độc ác lại trở thành cơ hội cho chị trở nên thiện hảo hơn mà chị không biết thì sao? Đặt vấn đề như vậy mới thấy thật khó mà tẩy rửa cho sạch được những quan niệm hữu vi đã thấm nhập tận xương tủy con người tạo thành tâm bệnh.
- Anh nói tâm bệnh về chuyện gì?
- Lấy cái mình ưa thích để chống lại những gì mình không ưa thích.
- Đó là lẽ đương nhiên...
- Nếu vậy chị minh chứng Đức Giêsu bất thường!
- Ah! Cái miệng của anh thật quá quắt! Rõ ràng chính anh vừa nói sao lại bảo rằng em minh chứng!
- Chị không nói lên điều đó nhưng suy luận theo quan điểm một chiều thị dục tất nhiên sẽ đưa đến lý luận cho rằng Đức Giêsu nói điều bất thường. Chị thấy rõ, tùy quan điểm làm gốc mà vấn đề được đặt ra sẽ được luận lý dẫn đến những kết luận như thế nào. Thử hỏi, theo quan điểm nào chị cho rằng lấy cái mình ưa thích để chống lại những gì mình không ưa thích là lẽ đương nhiên? Và nếu chỉ đứng về phe tốt lành là điều mình ưa thích thì tất nhiên nhân lành với những kẻ vô ơn, độc ác, tức là đồng lõa với tội ác, và như thế đã chứng minh Đức Giêsu nói lời bất thường theo nhãn quan nhân sinh chiều theo thị dục bình thường.
- Em xin lỗi, anh nói đúng, Đức Giêsu trình bày đặc tính một Thiên Chúa ngược hẳn lại bất cứ ý nghĩ nào. Mà dù có cảm nhận được cũng thật khó mà thực hiện bởi con người xưa nay thấm nhập những quan niệm bình thường quá nặng nề. Nếu anh không cho rằng em minh chứng Đức Giêsu bất thường thì có lẽ em không nhận ra điều mình cho là bình thường lại trái nghịch với Phúc Âm. Hèn chi có những câu không đổ rượu mới vào bì cũ, không vá mụn vải mới vào áo cũ, và cầm cày không quay trở lại...
- Đức Giêsu trình bày một Thiên Chúa ngược hẳn với quan niệm nơi Cựu Ước và của mọi người. Có điều hơi lạ, chúng ta đều có quan niệm giống như Cựu Ước nhưng khi đọc Cựu Ước thì lại khó chấp nhận một Thiên Chúa được trình bày như thế. Trái lại, khi đọc Phúc Âm, những điều kiện căn bản thường thì không được để ý. Đã từ lâu, tôi cứ thắc mắc tại sao Phúc Âm diễn tả lúc được gọi, các môn đồ bỏ chài lưới, ghe thuyền, cả bố đẻ, bạn thuyền, đi theo Đức Giêsu ngay lập tức. Bây giờ tôi mới hiểu, theo Phúc Âm, thái độ dứt khoát này phải là thái độ của con người đối với những quan niệm và tư tưởng được gọi là bình thường. Cho nên, khi còn thấy không chấp nhận được câu nói "Nhân lành với những kẻ vô ơn, độc ác" tức là mình vẫn còn bị lệ thuộc quan niệm thường tình trừng phạt kẻ độc ác và thân ái với người tốt lành. Phúc Âm đòi hỏi chúng ta đối xử nhân lành với kẻ độc ác chứ không xét xử. Độc ác là những hành động hữu vi không những chúng ta không thích mà còn e ngại, nhưng nếu nhìn sự độc ác như trời mưa lúc chúng ta phơi lúa thì mới có thể hiểu được Phúc Âm nói gì bởi Thiên Chúa của Đức Giêsu không xét đoán con người theo lẽ phải quấy, đúng sai, như lối nhìn thường tình thế nhân mà xét tận đáy lòng một người về sự lợi ích hay tác hại cho hành trình tâm linh, hành trình trở nên thiện hảo của quyền lực hiện hữu, quyền lực tác sinh, theo lẽ "ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi cũng ở đấy."
- Nếu có nhận thức như thế thì đâu cần phải đặt vấn đề lề luật và những hình thức bên ngoài vì giữ đạo là giữ tại tâm hồn mình. Như vậy, anh muốn nói không cần theo đạo hay giữ đạo?
Chị muốn dồn tôi vào bẫy lý luận theo lẽ đúng sai, phải trái, hoặc nên và chẳng nên dựa vào câu "Đạo tại tâm" phải không? Kính thầm nghĩ. Lẽ thường tình của con người bắt nguồn từ điểm này, và đó là chiều theo một trong hai cực đoan hoặc là đúng, hoặc là sai, nên hay không nên để lạm dụng. Áp dụng theo ý chị vừa hỏi, điều này có nghĩa khi đã nhận ra mọi hành động hay hình thức bên ngoài đều phát sinh tự tâm hồn thì không cần phải tuân theo bất cứ luật lệ, hình thức nào nữa mà mượn câu đạo tại tâm chống đỡ, hoặc làm bức màn che đậy ý đồ nào đó... Thực ra, xưa nay câu nói "Đạo tại tâm" đã bị hiểu lầm quá nhiều. Đại khái theo tôn giáo, giữ những qui luật hay không tùy thuộc tâm hồn mình là đủ để rồi mượn luôn câu nói "Khẩu Phật tâm xà" của nhà Phật mang ý khinh chê những người khác hầu tự trấn an cõi lòng thao thức vì đã không thực hiện bất cứ gì để đạt thành những khát vọng tâm linh. Đạo tại tâm là câu nói của Lão học bắt nguồn từ câu "Đạo khả Đạo phi thường Đạo." Câu này mang ý "Thiên Chúa mà có thể hiểu được thì không phải là Thiên Chúa" như Thomas Aquinas đã nói. Thế nên, Đạo tại tâm tức là Thượng Đế ở ngay nơi tâm hồn mỗi người. Nhà Phật cũng có câu nói tương tự: "Phật tại tâm." Câu nói của nhà Phật có nghĩa sự thức ngộ tự bởi tâm hồn mình, và đó cũng là lý do tại sao có câu "Buông dao đồ tể là trở thành Phật." Con dao đồ tể trong câu Phật học là ý định, ước muốn chẳng nên, chứ không phải con dao mổ bò, thái thịt. Do đó, thực hành đạo thường bị hiểu lầm là tuân giữ những lề luật và nghi thức tôn giáo, áp dụng những lề luật tôn giáo trong cuộc sống. Hiểu và thực hành như vậy lại rơi vào bẫy thường tình phe phái vì lề luật chỉ là ước định, giáo điều, luân lý, một chiều đối nghịch với Đạo tại tâm, ngược với đặc tính Thiên Chúa của Đức Giêsụ Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa của kẻ chết. Lề luật, giáo điều, thuộc về những ước định luân lý xã hội cứng ngắc một chiều nên là những thứ chết. Ai mà không biết câu Phúc Âm: "Còn ngươi bố thí thì tay trái đừng biết điều tay phải làm, hầu việc ngươi bố thí được giữ kín và Cha ngươi là Đấng thấu suốt kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi" (Mt. 6:3). Thiên Chúa của Đức Giêsu thấu suốt và nhìn nhận tận cõi lòng chứ không xét bề ngoài theo lối nhìn của con người. Cũng đồng một lẽ ấy, Đức Giêsu nói rõ: "Còn ngươi khi cầu nguyện thì hãy vào buồng, khóa cửa lại mà cầu nguyện với Cha ngươi, có mặt cả nơi kín ẩn; và Cha ngươi, Đấng thấu suốt cả nơi kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi. Cầu nguyện thì các ngươi chớ lải nhải như người ngoại! Chúng tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhậm. Chớ bắt chước chúng vì Cha các ngươi biết rõ các ngươi cần gì, trước khi các ngươi xin Người" (Mt. 6:6-8). Những điều Đức Giêsu rao giảng là những đề nghị áp dụng trong cuộc đời sống động, không lệ thuộc bất cứ hình thức hay giáo điều hoặc qui luật nào. Như vậy, cầu nguyện tức là xác định rõ ràng ý định, ước muốn trong lòng chứ không phải là phô trương hay để người khác biết mình nghĩ thế nào.
- Đây là lối sống nhận thức, và cảm nghiệm Thiên Chúa đang hiện hữu và hoạt động nơi mình, cảm nghiệm quyền lực hiện hữu nơi mình, dùng quyền lực hiện hữu để kiến tạo, để biến những ước muốn thành sự kiện chứ không phải dựa vào hình thức nào. Thế nên, nhận thức về Thượng Đế không thực hiện được chi hết vì đó chỉ là kiến thức. Ngược lại, cảm nghiệm và sống trong trạng thái Thượng Đế với mình là một, quyền năng của Thượng Đế đang ở ngay nơi mình mới là điểm mà Đức Giêsu rao giảng. Đó chính là danh hiệu của Ngài: "Emmanuel" Thiên Chúa ở cùng chúng tạ Đạt tới trạng thái này được gọi là tin. Theo đạo, giữ đạo là những phương thức biểu lộ cảm nghiệm lòng tin chứ không phải cùng đích của thực thể sống đạo.
- Phỏng nói như thế chỉ là lý thuyết vì chẳng lẽ biết bao người từ xưa tới nay mà chưa ai đạt được trạng thái này... Và như vậy, sao có thể lấy gì chứng minh sự suy luận của anh là đúng...
Chị này muốn nói mình chưa đạt tới trạng thái cảm nghiệm thì không nên nói vì có nói cũng chỉ đưa ra mộng tưởng! Cũng có lý và rất đúng với suy luận, nhưng thực tế chứng minh, những người thức ngộ, người có lòng tin, không bao giờ khoe khoang và lên án hoặc bảo người khác phải thế nọ, phải thế kia theo một giáo điều nào bao giờ. Có chăng, họ chỉ bị người đời nghi ngờ vì những gì họ nói ra đều có vẻ đối nghịch với sự suy nghĩ thường tình. Cứ theo Phúc Âm, Thượng Đế là quyền lực hiện hữu ở chính thực thể sự vật chứ không chỉ là quyền lực thay đổi sự vật. Đọc Phúc Âm ai không nhớ có đoạn: "Ai trong các ngươi chỉ lo mà có thể thêm cho đời mình một gang nữa. Còn về áo mặc các ngươi lo làm gì? Hãy ngắm hoa huệ ngoài đồng xem chúng lớn lên thế nào? Không nhọc nhằn, cũng chẳng canh cửi! Nhưng Ta bảo các ngươi: Salômôn trong tất cả vinh hoa đời ông cũng không ăn vận sánh tày một đóa hoa đó. Nếu cỏ đồng nội, nay còn, mai sẽ quăng lò, mà Thiên Chúa còn mặc cho như thế, thì huống chi là các ngươi, hỡi quân yếu tin!" (Mt. 6:27-30; Lc. 12:25-28). Chẳng những thế, khi cần thiết vì lợi ích cho sự nhận biết lòng tin nơi con người, chính Thiên Chúa của Đức Giêsu hoạt động ngay trong ý nghĩ của kẻ nói: "Hãy coi chừng người đời: họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Khi người ta nộp các ngươi, thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao, hay nói gì: vì ngay giờ đó, sẽ cho các ngươi biết phải nói gì, vì không phải các ngươi nói, mà là Thần khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi" (Mt. 10:17-20; Mc. 13:9-11; Lc. 12:11).
- Những thực thể để cảm nghiệm ngay ở trước mắt mọi người... Vấn đề chỉ là chúng ta có để ý hay không. Chị thấy rõ, ai có thể dạy con chim hót nếu nó không được sinh ra với bài ca vì không loài chim nào hót giống loài chim nào mà đồng loại thì lại chỉ líu lo một giọng điệu riêng biệt. Ai đã nhuộm những bông hồng thế mà bông thì đỏ, bông thì xanh, hồng, lại có cả bông vàng và bông trắng nếu chúng không được sinh ra với màu sắc riêng của chúng. Điều này chứng tỏ quyền lực hiện hữu hoạt động chan chứa nơi mọi thực thể hữu hình cũng như vô hình. Nhận thức như vậy có thể nói, Thượng Đế là một nghệ sĩ toàn hảo đóng đúng vai trò kiến tạo trong sự vật được kiến tạo, và người thức ngộ, người tin, hòa nhập nơi trạng thái này sao có thể nói được chi vì đó là cảm nghiệm, càng nói chỉ càng chẳng nói được gì.
- Nói như thế chẳng khác gì vô thần vì tự nơi mình đã có quyền lực thì cần gì đến Thượng Đế hay Thiên Chúa hoặc bất cứ thần thánh nào.
Dù cho rằng hữu thần hay vô thần thì xưa nay con người vẫn còn bị lệ thuộc sự tôn thờ qua hình tượng. Lời Phúc Âm từ hai ngàn năm nay nào ai thèm ngó ngàng; chẳng hạn, "Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12). Quyền lực nào cho kẻ tin vào Đức Giêsu trở nên như lời Ngài nói? Thế mà cứ Chúa phạt, Chúa thưởng, Chúa ban... chẳng khác gì tin vào quyền lực một ngẫu tượng. Thực tâm nhận định, khi những hình tượng tan thành cát bụi mới thấy chính cát bụi minh chứng quyền lực hiện hữu cao cả biết bao so với những hình tượng. Thực tế sẽ chứng minh, đến một mức độ nào đó, kẻ vô thần nhận ra quyền lực tối thượng nơi chính mình thì trở thành hữu thần, và người hữu thần lại trở thành vô thần vì ngẫu tượng trong tâm trí họ đã bị phá đổ. Thực ra, cuộc chiến giữa hữu thần và vô thần chỉ là Thượng Đế được gọi là Thượng Đế hay gọi bằng một tên khác trong khi lòng kính mến của con người với Thượng Đế được nhận ra bởi lòng chân thành tìm cách nhận ra và hòa nhập với Ngài hay chỉ là đòi hỏi hoặc kiếm tìm những ơn huệ.
- Chưa chắc kẻ vô thần đã là vô thần hay kẻ tự gọi mình hữu thần lại thực sự chỉ chạy theo ngẫu tượng hầu thỏa mãn thị dục. Đức Giêsu không phân biệt kẻ nào vô thần hay hữu thần và Ngài lại càng không đặt vấn đề hình thức thờ phượng bên ngoài như nơi câu truyện gặp người phụ nữ xứ Samaria, "Nhưng giờ sẽ đến và là ngay bây giờ, những kẻ thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Cha trong Thần khí và sự thật vì Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật" (Gioan 4:23-24). Như vậy, tất nhiên tự nơi con người có thần khí vì nếu thần khí ở ngoài thì chẳng có gì để nói, và dù cho có tuân theo những nghi thức thờ phượng nào mà không có thần khí thì cũng chẳng khác gì tôn thờ ngẫu tượng.
- Nói như thế có phải anh cho rằng tự mỗi người đã có sẵn thần khí?
- Tôi chẳng cho rằng gì hết mà Phúc Âm đã nói từ khuya nhưng ít được để ý. Nơi Phúc Âm Mathêu trong câu truyện Đức Giêsu hỏi các môn đồ nghĩ Ngài là ai, Phêrô trả lời Ngài là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống và Ngài nói với ông, "Simon, Baryôna, ngươi có phúc, vì không phải thịt, máu, đã mạc khải cho ngươi, mà là Cha Ta, Đấng ngự trên trời!" (Mt. 16:17). Thế nên, tôi nghĩ thần khí nơi con người là chính Thiên Chúa, chính quyền lực hiện hữu nơi từng tế bào, từng nhịp tim đập, từng hơi thở của mỗi người. Từ nhận thức này có thể nói, con người được sinh ra với tất cả những gì cần biết như hành trang cho hành trình tâm linh. Sách vở, những điều nghe hiểu, mọi môi trường trong cuộc sống hữu hình chỉ là phương tiện để tỉnh thức những gì đã có sẵn nơi người đó. Cũng có câu khác nơi Gioan được đặt vào lời nói của Đức Giêsu giúp tôi đoan chắc hơn về điểm này, "Trong các tiên tri đã có viết: Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta" (Gioan 6:45). Như vậy, thần khí nơi con người là những gì từ nơi Thiên Chúa mà mình đã có sẵn ngay từ khi được sinh ra, và Đức Giêsu chỉ đến để nhắc nhở cho mình nhận thực ra bản thể của mình mà thôi.
- Anh có nghĩ rằng chính sự suy luận bồi đắp cho sự tưởng tượng của con người không?
- Ý chị muốn nói gì? Phỏng chị muốn nói chưa chắc Phúc Âm mang ý nghĩa giống như người ta có thể suy luận? Hoặc cũng có thể sức tưởng tượng của con người quá dồi dào nên phóng đại Phúc Âm và tưởng rằng Phúc Âm nói về điều mình muốn đạt tới phải không? Bất cứ những gì con người có thể nghĩ tới đều có thể vì ít nhất đã có tư tưởng như vậy. Hơn nữa, ý nghĩ, ước mơ, tự chúng có quyền lực và bởi chúng cũng là sự hiện hữu, Thượng Đế chắc chắn ở đó. Bởi vậy, những ý nghĩ, suy tư, luận giải lời Phúc Âm tự chúng có giá trị của chúng dầu chỉ là tưởng tượng hay ước mợ Tuy nhiên, tôi thấy tất cả những gì có thể nghĩ tới bắt nguồn từ Phúc Âm hãy còn quá non dại nếu đem so sánh với những gì đã được viết trong đó dầu chỉ theo nghĩa đen. Chẳng hạn nơi Mác Cô có câu: "Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:22). Tôi không hiểu chị nghĩ gì về câu này; riêng tôi, dẫu cho rằng Đức Giêsu nói điều mộng tưởng thì mình đã đạt đến một vài điểm nhỏ nào Ngài nói tới đâu mà dám đặt vấn đề đúng sai hoặc thực hay mộng. Câu nói rõ ràng, không có cách nào suy định sự ám chỉ mà không dám nghĩ hoặc dám cho là có thể, đây là điểm mà tôi gọi là tối tăm hoặc mù lòa của chính tôi. Chính vì tôi không nghĩ rằng quyền lực của Thượng Đế ở nơi mình nên đã tự giới hạn thì hòng gì đạt tới những điều Phúc Âm nói. Thực ra, mới chỉ nghĩ đến giả sử lời đó là thật thì đã cảm thấy đầy mộng tưởng rồi còn nói chi đến tưởng tượng những gì mình muốn đạt tới vượt qua những điều được viết nơi Phúc Âm. Tôi nghĩ, có thể Đức Giêsu đã biết rõ tâm trạng này của con người nên mới có câu, "Tuy vậy Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?" (Lc. 18:8). Chính câu "Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa ra đui mù!" (Gioan 9:39) đã trở thành hấp lực giúp tôi cố gắng tìm hiểu thế nào là kẻ sáng trở nên mù lòa... trong khi kẻ mù lại được sáng...
- Dùng lý luận để may ra có thể làm sáng tỏ vấn đề hơn, chứ thực ra, khi đọc Phúc Âm để chọn ra những câu nói đến lòng tin, em bối rối quá vì cảm thấy hình như Phúc Âm nói về một thực thể nào đó chẳng khác gì mộng tưởng trong huyền thoại. Xưa nay, ai không nghĩ rằng tin vào điều gì hay chuyện gì thì chỉ có nghĩa điều đó hoặc chuyện đó có thực và biết chỉ để mà biết vậy. Đàng này, Phúc Âm nói cứ như có quyền năng cả thể nào đó nơi điều được gọi là lòng tin và chỉ cần có lòng tin thì có tất cả mọi sự. Chẳng những thế, lòng tin còn là sự cứu rỗi con người trong khi ai mà không nhận thực con người yếu hèn phải cần ơn cứu độ của Thiên Chúa. Em đã đặt rất nhiều giả thuyết nhưng không thể nào có được câu trả lời tạm gọi giúp cho mình an tâm; đó là lý do tại sao em phải mời anh tới dùng cơm để có giờ nói chuyện. Anh biết, xưa nay em chưa bao giờ tự ý hoặc có ý mời bạn bè ăn uống vì em cảm thấy càng đông người càng lạc lõng. Chỉ có nhà em muốn thì em nấu ăn và anh ấy thích mời ai thì mời. Thế nên, khi hỏi nhà em để mời anh lại dùng cơm, anh ấy rất ngạc nhiên và bảo rằng em bị mê hoặc bởi những lý luận ngang tàng của anh. Đến lúc nghe em giải thích tại sao, anh ấy hứa chỉ để mình em nói những thắc mắc khi đọc Phúc Âm. Anh thấy không, trong bữa ăn và sau đó anh ấy không có ý kiến gì vì đã hứa với em; vả lại, những vấn đề em đưa ra, anh ấy cũng không sao giải thích...
- Những vấn đề chị đặt ra tôi không cảm thấy lạ lùng chi vì chính tôi đã bị khốn khổ với chúng cả mấy năm trời... nhất là sự e sợ bị sai lầm. Cuối cùng, tôi đành chấp nhận thà sai lầm còn hơn trở nên mù lòa nên tôi tìm cách trả lời bất cứ những vấn đề nào có thể liên hệ đến những câu Phúc Âm coi bộ không hợp lý hợp tình với những gì có thể nghĩ tới. Tự thâm tâm, tôi nghĩ, hay thắc mắc và đặt quá nhiều câu hỏi hầu giúp mình thăng tiến, ít nhất là thỏa mãn lòng khát khao hiểu biết của mình, có thể chẳng khác gì kẻ đần độn do không chịu chấp nhận những gì được mọi người cho là bình thường. Tuy nhiên, tôi tự lý luận, nếu không tìm hiểu thì suốt đời mình đành chịu làm kẻ ngu đần. Thuở ban đầu, tôi cảm thấy thật bối rối vì hiểu theo nghĩa này thì lại đối nghịch với trường hợp kia. Chẳng hạn trường hợp chị nêu ra nơi câu truyện chiên và dệ Thực tại cho thấy, giúp người ta chưa chắc đã là việc tốt lành mà coi chừng là cách giết họ từ từ hoặc làm cho họ tê liệt khả năng tự liệu. Hơn nữa, tại sao mình sang tới đất nước này với hai bàn tay trắng, có miệng như câm và có tai như điếc, trong khi họ là dân bản xứ, không gặp trở ngại ngôn ngữ, có đầy đủ cơ hội tạo dựng cuộc sống thoải mái mà phải ngửa tay xin xỏ. Hơn nữa, chương trình trợ cấp ít nhất cũng giúp họ đủ tiền mua thực phẩm sống qua ngày... Họ làm gì với những sự giúp đỡ ấy... Đi chợ, đôi khi tôi vô tình thấy những người dùng phiếu trợ cấp mua những loại thực phẩm mà chính những người được gọi là khá giả không bao giờ dám ăn thử... Phỏng giúp những người được gọi là nghèo ấy là sự tốt lành hay chỉ làm hư họ đi trong khi Phúc Âm nói không giúp họ là không giúp Đức Giêsụ Đàng khác, có giúp đến bao nhiêu thì vẫn còn muôn ngàn người không được giúp, tại sao Phúc Âm không nói họ hãy tự lo liệu? Tại sao Phúc Âm muốn họ trở thành gánh nặng cho mình... thực là vô lý... Dần dần tôi mới nhận ra Phúc Âm không nói về luân lý nhưng đã bị hiểu theo quan niệm luân lý. Chị thấy không, ai là những người tin vào Đức Giêsu có thể chấp nhận được câu: "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Tạ Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta ắt không xứng với Tả" Thế rồi cứ gồng mình chấp nhận một cách không hài lòng rằng Đức Giêsu muốn chúng ta yêu mến Ngài hơn, hoặc tôn kính Ngài hơn! Đức Giêsu cần gì ai tôn kính! Bộ nếu không tôn kính thì Ngài ốm bớt hay mập lên hoặc không cảm thấy là quan trọng mà phải muốn người khác tôn kính mình! Lối nhìn luân lý đưa đến những đần độn ngớ ngẩn như thế thì chấp nhận sao được! Hơn nữa, tâm lý mà xét, kẻ muốn được người khác tôn kính thì đã tự tôn kính mình trước mà kẻ đã tự khinh khi mình thì có được cả thế giới này tôn kính cũng luôn luôn cảm thấy mình chẳng ra gì. Chị thấy không, chỉ kể lại mà tôi vẫn còn cảm thấy bực bội phương chi nói đến sự chấp nhận hiểu Phúc Âm theo nghĩa ấy. Hiểu Phúc Âm theo quan điểm luân lý chỉ bôi nhọ Đức Giêsu mà chớ. Tôi nghĩ, thế nào chị cũng phải trải qua trường hợp này vì không gặp trắc trở với Phúc Âm, chị sẽ không cảm nghiệm được Phúc Âm nói gì.
- Thực ra, nói chuyện với anh cả buổi chiều em thấy Phúc Âm càng khó hiểu hơn và càng thấy lòng tin sao vẫn vời vợi. Có thể nói em không có lòng tin... Vậy chả lẽ trong cuộc đời này không ai có được lòng tin như Phúc Âm nói sao? Nếu không ai có thể đạt tới thì Đức Giêsu rao giảng làm gì...
- Tôi nghĩ có những người đạt tới được một mức độ nào nhưng chính họ cũng không biết mà chỉ nghĩ rằng đó là ơn huệ đặc biệt Chúa ban cho bởi xưa nay chúng ta thường nghĩ rằng Chúa ngự trên chín tầng trời ban ơn huệ cho ai thì người ấy được chứ không ai nghĩ tới nếu Chúa mà như thế thì có vẻ bất công. Đàng khác, nếu đã là ơn huệ Chúa ban thì mình không được ban chẳng có gì phải thắc mắc bởi ơn huệ đâu phải cứ muốn mà được. Cũng có thể quan niệm con người tội lỗi không xứng đáng lãnh nhận ơn huệ mà ăn chay đánh tội hay sống khổ hạnh để được ân huệ theo ý muốn lại là cả vấn đề khó khăn ngược với bản tính ươn hèn nhân sinh nên đành chấp nhận được sao chịu vậy. Thêm vào đó, qua kinh nghiệm thực hành những điều tôn giáo dạy, chúng ta cầu nguyện luôn luôn chỉ là xin xỏ ơn nọ Ơn kia và đồng thời cũng chấp nhận Chúa cho thì tốt, chẳng cho vì có thể những gì mình kêu xin sẽ có hại đến mình sau này nên sự khó đã qua đi hoặc đã gắng sức chịu đựng được thì cũng tạm coi là yên ổn và tự an ủi mình rằng Chúa thương. Thử hỏi chị, bất cứ ai dành chừng vài phút trong một ngày trước khi ngủ tưởng nghĩ lại mình đã sống ra sao trong ngày qua mà không cảm thấy rằng mình đã có những thái độ hay lối sống chẳng nên... Có thể, chính sự chân thành này đem đến con người mặc cảm mình không ra gì... trong khi Phúc Âm chỉ nói về quyền lực đâu đâu mà lại được hiểu theo nghĩa luân lý thì sao có thể giúp mình dám đặt vấn đề tìm hiểu...
Chương 13
Tình tang tình tính tang... Chuông điện thoại mang âm điệu một dòng nhạc chợt vang lên...
- Xin lỗi anh... Chị Lữ nhấc điện thoại, hêllô...
- Kính còn ở đó không em?
- Anh hả, sao đi đón con mà lâu vậy?
- Anh gặp cha Hoàng đứng nói chuyện từ nãy giờ. Em nói Kính ở lại nói chuyện chờ anh đi mua mấy món nhậu về lai rai. Em làm dùm cho anh hai đĩa xà lách trộn dấm và hành là mọi sự đầy đủ...
- Anh có mời cha Hoàng ghé nhà mình không?
- Dĩ nhiên, trúng tủ cho em rồi...
- Em sẽ nói với anh Kính. Vậy anh định mua những món gì...
- Bê thui, dê xào lăn, nem thính bắc kỳ, cá kho tộ, và món xào thập cẩm, thêm rau trộn là quá dư rồi. Em đừng lo.
- Sao anh không mua thêm tiết canh bê...
- Trưa mới ăn tiết canh vịt bây giờ tiết canh bê đâu được...
- Thì mua mời cha Hoàng...
- Để anh hỏi nếu ngài thích, còn không, ngần ấy cũng dư chán. Nói Kính cỡ chừng nửa tiếng nữa anh và cha Hoàng cùng hai người khác về tới...
- Em sẽ nói. Anh gọi điện thoại bảo họ làm trước đi, đến nơi là vừa.
- OK, thôi bye.
- Bye.
- Nhà em nói mời anh ở lại dùng cơm tối, có cha Hoàng và đâu thêm hai người nữa sẽ tới.
- Cha Hoàng nào? Có phải cha Hoang Lỳ không?
- Ủa sao anh biết?
- Tôi có gặp ngài một lần hôm nhậu với đám thanh niên ở nhà anh Tùng. Chịu thua ngài thôi, dám bỏ tiền mua hai két bốn mươi tám lon "bớt oai" cho đâu gần chục tướng nhậu. Sau một vòng mỗi người hai lon, thế là cha con lần lượt kéo nhau vô phòng trên lầu, kẻ xưng người giải tội. Tướng ngài coi bộ hơi bụi đời nên có người sau khi xưng tội rồi xuống còn hỏi anh Tùng rằng cha thật hay giả, đúng là các tướng! Đến lúc anh Tùng nói cha thật, lại là em họ của anh Tùng, có tướng nói nếu cha nào cũng dễ như ông cha bụi đời này thì đâu ai sợ xưng tội. Cũng phải công nhận tướng ngài phiêu diêu làm sao ấy, nếu mới gặp mà không ai nói sẽ chẳng biết là linh mục...
- Ngài bị mấy cụ cho rằng không có oai của linh mục; cha gì mà cắt tóc ba phân giống như đầu phi trường nhà binh, áo mặc giống như mua ở chợ Hudson, đi giầy ba ta thể thao chẳng khác gì tụi choai choai. Một số cụ nói "Cha gì mà mặc áo không có cổ." Anh biết ngài trả lời sao không? "Thì cái đầu còn đang dính với cái thân chứ có rơi mất đâu!" Lại có cụ hỏi ngài sao không mặc áo đen đi ra ngoài nào ai biết mà chào hỏi. "Ối giời ơi... " Chị Lữ lên giọng, ngài nói, "Người ta để ý nhìn mình lỡ mòn bớt thân xác ốm om đi thì về nhà mẹ chửi chết!" Có lần ông Sinh gặp ngài ở nhà chú Thuần mà không biết, đưa tay bắt hỏi xã giao dạo này làm ăn thế nào. Cụ Tĩnh cũng đang ngồi chơi vội nói "cha đấy." Ông Sinh lỡ lời chữa "Cha mà ăn mặc như vầy sao ai biết." Ngài lững thững nói, "Có lẽ Chúa chọn lầm, giám mục truyền chức lộn mà"... Những chuyện liên quan về ngài cũng lắm giai thoại nhưng cứ như tàng tàng làm sao ấy...
- Tôi thấy ngài rất tự nhiên nếu không muốn nói là thoải mái. Đang ngồi nhậu nơi chiếc chiếu trải trên nền nhà mà đứng ngay dậy kiếm trái ớt ở tủ lạnh, chẳng cần sai bảo ai lấy cho... Nhưng cụ Nhan thì cứ rối lên, "Cha không nên làm thế, muốn gì thì cứ bảo cháu nó lấy, là cha ai lại đi lục tủ lạnh lấy trái ớt như vậy... " Thế rồi ngài trả lời làm cụ Nhan chưng hửng, "Không được, không được, cháu cụ mà nó lấy thì cay lắm ăn không được." Coi bộ sự tự nhiên thoải mái của ngài lại không đẹp lòng quí cụ; hình như bị quí cụ cho rằng làm như thế mất oai đi...
- Hôm nọ anh Tùng ghé nhà em ngồi chơi kể chuyện kỳ cha Hoàng về Việt Nam thăm bà cố mà cười muốn chết. Trời nóng, ngài cứ chiếc quần đùi và áo cụt cánh mặc khiến bà cố ngượng đến chín cả người. Ai đời nào các cụ hàng xóm khăn đóng áo dài tới thăm mà cha thì cứ quần đùi mà vận... tay thì kè kè ly bia, kẹp thêm điếu thuốc, bàn ghế lịch sự trong nhà không ngồi cứ chiếc ghế đẩu kê ở đầu hồi gần bụi tre cạnh bờ ao lui cui câu với kẹo. Các cụ thay nhau ra chào mừng cha mới mà cha miệng thì nói chuyện, mắt mũi chăm chăm chú chú vào chiếc dây câu... Đang nói dở câu chuyện bỗng giựt trật con cá, cha bèn thêm câu "mẹ nó, thôi hụt rồi." Bà cố nói thế nào cũng không được, năn nỉ chẳng xong, bảo ông anh, nhờ mấy người chú khuyên cha mặc quần dài thì chỉ được một lúc ngài lại tuột ra kêu ầm lên nóng chịu không nổi. Hôm ngài mới về, gia đình trình cha xứ xếp đặt để ngài dâng lễ năm giờ sáng hôm sau. Trời Việt Nam vào tháng hai thì nóng, gia đình lại sửa soạn cho ngài một chiếc giường nệm. Và thế là đến khuya lúc đi ngủ, ngài lôi ngay một chiếc chiếu ra giữa nhà trải xuống nằm dang tay dang chân ra ngủ chẳng gối chẳng mùng mền gì... khiến bà cố và mấy người chị lo lắng muỗi cắn cha nên phải căng mùng ngay giữa nhà trùm lên. Đã vậy, bốn giờ sáng lúc mọi người đã sửa soạn xong đâu đấy, bà cố mới rón rén đến gần khẽ gọi... "Cha à, dậy sửa soạn đi dâng lễ." Ông cha con mắt nhắm mắt mở đưa tay coi đồng hồ... "Lễ lạy gì giờ này, mới bốn giờ sáng mà đã gọi... cha còn đang phải ngủ... " Hôm mới chịu chức được một tuần, ngài về "Vực Sâu" New Orleans dâng lễ chiều thay cho cha xứ có công chuyện đi vắng. Sắp đến giờ lễ nên nhà thờ đông nghẹt người lại cứ thấy anh chàng thanh niên đi lên đi xuống ngay lối giữa nhà thờ tay chân vung vảy chẳng có phép tắc gì trông đến xốn mắt. Người gì ăn bận lếch thếch, chiếc quần jean quá cũ, vùng hai đầu gối bạc phếch lại còn bận chiếc áo loang lổ, chỗ thì hình vòng tròn màu đỏ, chỗ lại chấm vàng, chấm xanh to tướng không theo thứ tự nào, kèm theo cái đầu húi cua như đứa du côn. Mấy bà cụ xì xào bảo nhau thằng nào mà đi đứng trong nhà thờ láo vậy. Đến lúc ca đoàn hát nhập lễ, thấy đi sau ban giúp lễ và người đọc sách lại là anh chàng có cái đầu húi cua ban nãy, có bà cụ nhận ra chàng trai ngứa mắt lên tiếng... "Cái thằng đó mà là cha à?"... Em nghe cười đau cả bụng... Hèn chi mà ngài có tên là Hoang Lỳ.
- Sao lại gọi ngài là Hoang Lỳ?... Chị sửa soạn làm rau trộn là vừa, để tôi tới bàn ăn ngồi, chị vừa trộn rau vừa nói chuyện...
- Anh cứ tự nhiên nghen, để em vừa làm vừa nói cho vui... Ngài tên là Trần Vũ Linh Hoàng... Anh Tùng kể nghe đâu kỳ còn nhỏ ngài đánh nhau với trẻ đồng lứa lỳ lắm... nên được gọi là thằng lỳ. Năm bẩy lăm đang đi chơi ngoài Cấp bị cắt đường không về quê được, thế là theo gia đình người anh em họ sang Mỹ. Ở trường đại học và thần học không biết sao các thầy cùng trường đặt cho cái tên Hoang Lỳ; hình như kiểu cách của ngài có vẻ hơi phóng túng nên bị gọi là hoang. Hơn nữa, Hoang Lỳ là tiếng nói lái của Linh Hoàng... thì anh còn lạ gì nữa, hình như ở nhà trường thầy nào mà không có biệt danh, nhất quỉ nhì ma thứ ba nhà thầy... người ngoài nào ai biết đấy là đâu. Danh hiệu này cũng do mấy cha bạn của ngài thời kỳ còn đang học chung trong nhà trường phổ biến người ta mới biết...
- Bây giờ ngài làm việc ở đâu?
- Chừng như ở địa phận Lafayette, Louisianạ Nghe đâu bà cố mới được ngài bảo lãnh qua độ hơn ba tháng... Hôm đầu mới qua Mỹ, mấy bà con anh em tới thăm hỏi chẳng hiểu nói chuyện gì về cuộc sống liên hệ tới cha Hoàng, bà cố nói, "Chúa chọn thằng lười." Nhưng bây giờ có lẽ cụ cũng hiểu cuộc sống bên này đâu giống ở Việt Nam. Thế nên, cho dù muốn đi lễ bốn giờ sáng cũng chẳng có cha nào dâng lễ mà có nơi phải mãi năm, sáu giờ chiều bởi người ta còn phải đi làm kiếm kế sinh nhai...
Có tiếng xe quẹo vô garage kèm theo âm vang dập cửa... Bé Thúy con chị Lữ mở cửa hông bước vào đầu tiên, cha Hoàng hai tay bưng hai đĩa bịt kín giấy bạc, tiếp theo là anh Lữ và hai người đàn ông khác. Chợt nhìn thấy cha Hoàng, sự so sánh con người thực tại với những giai thoại bỗng nổi lên nơi tâm trí Kính. Đúng là dáng người thoải mái, thanh thoát, chứng tỏ một tâm hồn tự tại, và chiếc miệng lúc nào cũng như mang vẻ mỉm chi... Chỉ mới mấy bước chân của ngài đã giúp Kính nhận ra sự mực thước nếu không muốn nói là cả một thế giới kỷ luật thu gọn thành sức mạnh tiềm tàng nơi con người với dáng hơi nhỏ nhắn tạo nên những cử động không thừa, chẳng thiếu. Chính những cử điệu phối hợp gọn gàng này chứng tỏ một tâm hồn đã cắt bỏ được mọi loại hình thức vô bổ thừa thãi; thế nên, những tư cách giả hình, phô trương, không còn chỗ đứng nếu xét theo quan điểm tâm lý thực dụng. Phô bày bên ngoài những tính chất thực của con người ấy lại cả là một sự đối nghịch che mờ những cặp mắt khuôn mẫu thế nhân. Chiếc quần Jean nâu thẫm ôm vừa vặn bước đi đứng tránh bề vướng bận được phủ xuống từ phía trên với chiếc áo thung vàng nhãn hiệu con cá sấu nhỏ đang há miệng, cong đuôi, thêu trên ngực phía trái... dẫn nhận xét sơ khởi của người đối diện đến kết luận đây chỉ là một thanh niên tầm thường về mọi mặt nếu không được biết trước ngài là ai. Hình như gặp ngài mới tám tháng trước đây, chỉ một quãng thời gian ngắn ấy mà cha Hoàng bây giờ coi bộ vững chãi, tự tại hơn lần trước... Con người này thay đổi quá nhanh... hình như từng giây phút... Có bước tiến nào đó đã là nguyên nhân hướng dẫn thái độ và cử điệu bên ngoài chuyển biến... Kính thầm nghĩ.
- Xin chào chị Lữ. Ah! Chào anh Kính. Hình như có lần tôi đã gặp anh ở nhà anh Tùng phải không? Cha Hoàng lên tiếng khi vừa bước vô khỏi cửa đoạn bỏ hai đĩa giấy xuống bàn ăn.
- Chào chạ Vâng, hôm ấy có gần mười đấng đồng tế với cha và vô tình con cũng được tham dư... Mà hình như bia của thánh hương vị ngọt và đặm đà hơn bia mua chợ, con còn nhớ tướng Công khen như vậy.
- Hắn uống quỵt của tôi mấy lon hôm đó; thế nào hắn cũng phải đền tội thôi. Chịu thua các tướng...
- Hôm ấy nghe đâu anh ta nói một lon bia thánh trị giá một bữa nhậu nên hứa sẽ chịu đền tội một bữa cá hấp cho năm lon bia thánh mà...
- Ối giời! Có một kinh Sáng Danh mà hắn còn chạy dài phương chi bữa nhậu... Hắn lý luận xưng tội nhưng không chừa được nên cứ khất lần mãi... Chỉ có Chúa mới hiểu nổi hắn...
- Chuyện gì mà chạy dài lại liên hệ đến kinh Sáng Danh vậy thưa chả Chị Lữ lên tiếng.
- Có gì đâu, hôm ấy tôi đồng ý chịu hai két bốn mươi tám lon bia và anh Tùng nấu đồ nhậu với điều kiện cụ Nhan mời được ít nhất tám tướng nhà trời xưng tội. Tôi ra việc đền tội trước khi xưng là một kinh Sáng Danh cùng điều kiện đọc với hết lòng trí của mình, không cần biết gồm những loại tội gì và bao nhiêu. Thế mà ông tướng Công uống năm lon nhưng nhất quyết không xưng tội, ấy là tôi đã để mỗi tướng nuốt chửng hai lon lấy gân sức cho đỡ ngại ngùng rồi mới kéo lên lầu rửa ruột. Biết sao hơn, Chúa cũng phải tôn trọng quyền tự do của con người... nhưng mấy người hôm ấy hè nhau thúc đẩy hắn nên đã nói là ăn quỵt. Tôi nghĩ, chẳng nên nhắc lại e hắn có mặc cảm thì sao có cơ hội gặp gỡ. Cứ để tự nhiên, còn nước còn tát... mới năm lon mà... Coi chừng lúc tới cơ thì mình lời to vì nghe đâu tướng ấy mười mấy năm rồi... Nghĩ cũng vui... giải tội được tướng nào, mình có thêm một người bạn nhậu không lời to ư!
- Hôm nay có chuyện gì mà cha ghé qua đây vậy? Chị Lữ hỏi tiếp.
- Hai ông này hứng bất tử rủ tôi đi thăm sòng bài. Vừa lái xe tới định quẹo đường Maple vô bãi đậu của Grand Casino thì gặp anh Lữ đưa tay vẫy và bây giờ đang chuẩn bị đồng tế... với các anh chi...
- Cha xuống sòng bài lần nào chưa?
- Chưa nên định xuống cho biết. Mấy lần trước ghé qua đây đóng đô ở nhà anh Tùng... đâu có đi được... hôm nay đã cố tránh sự cản trở thì lại gặp anh Lữ. Kể như xong rồi đó, tầu bài có lẽ phải dành lại ngày khác vì sau khi ăn uống chẳng nên tới đó làm gì, chỉ bất lợi.
- Thì ghé qua cho biết và đừng thử đâu có gì bất lợi...
- Anh ghé qua cho biết thì được chứ tôi đàng nào cũng là con người, không dễ chi đâu, lại thêm cá tính đam mê coi chừng trống lổn...
- Cha đừng mang xuống nhiều, cỡ vài chục, thua hết ra về đâu đến nỗi nào.
- Tôi đâu đặt vấn đề thua với được khi đã chấp nhận bước xuống sòng bài, mà nắm chắc là thuạ Nhưng vấn đề lại là thử xem mình có đủ sáng suốt để nhận định lòng ham muốn thắng của mình lúc đó hay không... Chứ nếu chỉ xuống cho biết thì thiếu gì chuyện trong cuộc đời này cần phải biết...
- Thế cha thích đánh loại bài nào nhất...
- Tôi biết chơi bài nhưng không đam mệ Có dịp, rút phé đã hơn chơi mấy thứ mình không có quyền quyết định... coi bộ không phê chút nào...
- Xin mời cha và hai anh.
- Đây là anh Long và anh Hải. Anh Long là kỹ sư cơ khí đang làm việc tại hãng chế tạo máy cày ở Michigan về thăm bà con tại Baton Rougẹ Anh Hải là nha sĩ mở văn phòng gần xứ tôi ở.
- Xin chào hai anh, chị Lữ lên tiếng. Cha và hai anh dùng rượu hay bia?
- Chị cho tôi xin ly nước đá lạnh, tôi không uống được rượu bia...
- Anh Hải không uống được hay muốn nhận trách nhiệm lái xe lúc về? Đừng lo, cha Hoàng càng uống rượu lái xe càng tỉnh...
- Tỉnh đến nỗi lúc ngủ dậy không biết tại sao mình đang nằm trong phòng... Anh Hải không uống bia rượu, chị có nước ngọt không xin cho anh ấy một lon...
- Vâng, con có mấy thứ, cả cooler nữa, để tùy ý anh Hải lựa chọn. Còn cha, anh Kính, anh Long...
- Sao chủ nhà, anh quyết định đi thôi...
- Vâng lời trọng hơn của lễ. Có hai thứ, "thánh mờ mờ" và "bò đi ông" cha chọn thứ nào? Một trong hai hay cả cặp?
- Thôi thì đàng nào mình cũng con nhà có đạo phải giữ lễ kính các thánh trước rồi bò sau... Anh là chủ nhà, xin làm dấu...
- Mời cha chủ tế để kính thánh... cho phải phép...
- Vậy thì bắt đầu; nhân danh Cha... Nguyện kinh xong, cha Hoàng tiếp, xin mời anh chị Lữ, anh Kính, anh Long và anh Hải. Thôi thì cứ coi như mình đang thắng lớn. Nếu lúc ăn xong, hai anh thích xuống sòng bài cứ tự nhiên, tôi ở đây đợi... Bằng này đồ nhậu chắc chắn có đợi đến mai cũng không chết đói... Nào, lâu rồi bây giờ mới được thưởng thức lại món nem thính bắc kỳ... Hôm nọ đi Bayou Labatre, ông Phương đưa tới nhà người bạn của ông ta nhậu rắn xào lăn thật là tuyệt. Lần đầu tiên trong đời tôi mới được ăn thịt rắn. Hôm về Việt Nam thì lươn xào lăn cay cháy cả lưỡi mà uống với rượu đế thấy đã quên chết...
- Cho nên cha vẫn còn sống nhăn... Anh Lữ nói tiếp.
- Cũng có thể, món nem thính bắc kỳ ở đây họ làm ngon... Cha Hoàng sau khi chiêu miếng rượu, chiếu cố món nem...
- Ban nãy cha nói rắn xào lăn có phải loại rắn đất không thưa chả Kính lên tiếng.
- Không đâu, hình như con rắn ráo gì ấy, lớn bằng nửa cổ tay và nghe nói dài cả sãi... Nhưng tại sao anh đoán chừng là rắn hổ đất.
- Con nghĩ vì nó ăn đất nên đoán là rắn đất...
- Anh tưởng tôi giỏi lắm sao mà mở màn pháo vậy?
- Rắn sao lại ăn đất, Lữ nói, có phải anh Kính mới tìm đâu ra thứ rắn đó không?
- Anh Kính có ý chi mà nói có vẻ lạ kỳ vậy? Chị Lữ chêm vô.
- Tôi chỉ đoán mò, không đúng thì thôi đâu có sao...
- Chứ tại sao anh nói rắn ăn đất?
- Có lẽ vì nó ăn đất nên gọi là rắn đất. Con rắn hổ mang mà ăn đất gọi là rắn hổ đất; cũng như con giun ăn đất gọi là con giun đất. Dĩ nhiên, loài nào ăn đất thì được thêm chữ đất vào tên của loài ấy cho rõ nghĩa hơn, nếu tôi không lầm... Kính biện luận tàng tàng...
- Vậy con người ăn đất thì gọi là gì? Anh Long diễu diễu nhào vô góp chuyện.
- Thì gọi là tượng đất... Anh Hải chen vô.
- Và tượng gỗ là người ăn gỗ, tượng xi măng là người uống thuốc xi măng... Cha Hoàng nói diễu, thế những người đánh bài ăn tiền thì gọi là gì... Có điều tôi biết chắc người uống thuốc xi măng muôn đời an toàn, sẽ không bao giờ bị bệnh tật... và dứt khoát, tôi không muốn làm thánh vì làm thánh không có cơ hội thỏa mãn khẩu vi...
- Cha nói sao mà làm thánh không được thỏa mãn khẩu vị? Chị Lữ hỏi có vẻ lạ lùng.
- Có chi đâu mà chị không muốn hiểu, cha Hoàng nói không muốn làm thánh vì nếu là thánh sẽ bị đắp nên tượng đất sau này, và tượng đất là do người ăn đất biến thành; bởi vậy, người ăn uống thực phẩm không phải là tượng đất tức không phải là thánh... Kính giải thích...
- Vậy chứ sao ban nãy anh nói rắn ăn đất...
- Ban nãy anh Kính pháo tôi đó thôi. Chỉ có mỗi con rắn trong Kinh Thánh mới bị nguyền rủa ăn đất chứ làm gì trong cuộc đời này có rắn nào ăn đất, hoặc có mà mình chưa biết, hoặc rắn ngày xưa ăn đất mà ngày nay nó khôn hơn nên không ăn đất nữa chăng. Cách đây mấy tháng nhậu ở nhà anh Tùng, mấy tướng lúc ngà ngà cũng đưa vấn đề rắn ăn đất hay ăn chuột và cái trứng có trước hay con gà có trước rồi bắt tôi làm quan tòa thẩm định. Tôi nói không biết, mấy tướng viện lý các cha phải biết hết mọi sự rồi chia nhau quay tôi như quay dế khiến cho tướng Công có cớ ăn quỵt uống chùa. Hôm nay chắc anh Kính muốn đưa ra chuyện gì nữa đây nên mượn đề tài hôm nọ thôi phải không?
- Cha nói đúng. Cả buổi chiều nay chỉ có mỗi vấn đề lòng tin mà anh Kính càng giải thích, con càng cảm thấy mình không có lòng tin như Phúc Âm nói. Cha biết không, cuối cùng con nhận ra lòng tin trong Phúc Âm không giống với đức tin mà con đã được dạy dỗ từ bao lâu nay... Lại còn vấn đề Nước Thiên Chúa, Nước Trời nữa... Chị Lữ xác nhận.
- Vậy là có chuyện khốn khó đến rồi... cha Hoàng nói với giọng nhẹ nhàng nhưng đoan chắc. Không những thế, những e sợ trở thành rối đạo cũng làm phiền những kẻ muốn tìm hiểu lời Đức Kitô không ít... Nhưng chuyện đó phải xảy ra vì không có con đường thứ ba nào có thể giải quyết được mà hoặc là đứng hẳn về phe Đức Kitô hoặc đối nghịch lại với lời Ngài rao giảng để rồi mang mặc cảm sống cho qua nhưng lòng ngập đầy ấm ức. Có phải chị thấy Phúc Âm nói lên những điều thật phi lý không, và càng cố gắng tìm hiểu càng như rợ vô rừng...
- Cha nói đúng. Thà rằng cứ chấp nhận những gì được dạy dỗ như từ xưa tới nay thì yên thân, thoải mái an tâm. Thế nhưng mới chỉ dợm đặt vấn đề Phúc Âm nói gì, lạy Chúa tôi, càng cố gắng hiểu thì lại càng thấy mình giống quân vô đạo.
- Chị có biết Đức Kitô đạo gì không?
- Ngài thiết lập Giáo Hội thì...
- Có câu truyện kể rằng hôm ấy Đức Kitô đi coi đá banh, một đội thuộc giáo xứ Công Giáo và đội kia của nhà thờ Tin Lành. Hai đội banh đấu rất gay go vì bên nào cũng cố gắng để làm rạng danh niềm tin của mình bởi, lẽ tất nhiên, bên nào cầu nguyện và tin tưởng mạnh hơn, sống tốt lành hơn, sẽ được Chúa ban cho thắng lợi nhiều hơn... Hai đội banh bên tám lạng đàng nửa cân do đó điểm số giao đấu rất gay gọ Đội Công Giáo vừa thắng được một trái thì bên đội Tin Lành thắng hai trái tức là vượt một trái... Nơi khán đài, chật ních những cổ động viên của cả hai phe... các anh chị thừa hiểu, bên nào cổ võ mạnh hơn thì đội bên đó có tinh thần tranh thủ vững hơn. Bởi đó, cứ một trái thắng thì lại một bên la hò như sấm động và bên kia thái độ ỉu xìu... Đức Kitô ngồi trên khán đài, bên nào thắng Ngài cũng vỗ tay reo mừng cổ võ cho ho... Hơn nửa tiếng đồng hồ mà trận đấu vẫn bất phân thắng bại. Một ông ngồi ngay phía sau cứ thấy Ngài cổ võ cho phe đối nghịch nên cảm thấy hơi bực bội. Đến lúc gà nhà thắng hai trái liên tiếp, ông ta chợt nhận ra Đức Kitô nhảy lên tưng tưng, miệng la hò tùm lum, tay thì vỗ đôm đốp chừng muốn bể tan ra, coi bộ sung sướng lắm. Trái tiếp theo, bên kia thắng, ông ta lại thấy Ngài gân cổ lên mà gào, giơ tay múa chân như muốn khuyến khích phe địch nuốt trửng đội gà nhà của mình. Tức quá nhưng ông ta cố nén giận, đưa tay vỗ nhẹ vai Đức Kitô trong lúc Ngài đang la hò. Ngài quay lại; ông hỏi,
- Anh thuộc bên Công Giáo hả? Giọng ông có vẻ bực bội.
- Không!
- Vậy anh Tin Lành hả, đi nhà thờ nào? Nét mặt ông đổi thành niềm nở như chứng tỏ tâm hồn tốt lành bằng cách đối xử thân thiện với người không quen...
- Không phải!
- Vừa nghe thế, ông thở dài chán nản... Đúng là quân vô thần!
Giọng cha Hoàng sống động như chuyên viên truyền thanh đá bóng khuyến khích mọi người chú tâm theo dõi... Câu kết luận khiến ai cũng chưng hửng và phá lên cười... Kính cười nhẹ, thầm nghĩ, hèn chi thái độ ngài có vẻ phóng túng và cách ăn mặc chẳng khác gì dân bất cần... Anh thấy thấm thía câu "Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù!... " Mọi người tiếp tục ăn, nhưng Kính muốn nhân cơ hội hỏi cha Hoàng ít câu...
- Thưa cha, nhưng sao Phúc Âm có những câu khó nghĩ quá?
- Anh thực sự muốn nói Phúc Âm có những câu khó nghĩ hay nghịch nhĩ...
- Có thể, giọng nói của Kính tỏ vẻ hơi nể nang, cả hai, thưa cha.
- Có phải anh bị những câu, "Tuy vậy Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?" ở Phúc Âm Luca, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng lấy chân dày đạp và quay lại cắn xé các ngươi" nơi Mathêu, và rồi "Kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù" trong Gioan cũng như một số những câu khác khiến chẳng những khó chấp nhận mà còn như lên án chính anh phải không?
Thế mới biết ớt nào mà chẳng cay, Kính tư lự, những giai thoại về cha Hoàng phải xảy đến không những biến ngài thành mục tiêu che đậy sự bối rối tức giận của dân Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những ai sợ bị sai lầm... Kính cảm thông nỗi cô độc ẩn giấu phía sau những thái độ bất chấp hình thức nơi con người linh mục trẻ này. Mình có thể làm gì, nói gì để tỏ bày sự cảm thông? Phỏng ngài nghĩ gì qua những cảm nghiệm tâm linh đối nghịch với thực tại cuộc sống... Có nên thử đốt ngòi nổ may ra biết thêm ít điều bổ ích... Cùng lắm cứ coi như nói sai, chắc ngài cũng chẳng phiền... Kính nghĩ.
- Đặt câu hỏi như thế, có lẽ cha cũng đã trải qua chặng đường mù tối trong thân phận, con xin lỗi trước bởi không có cách nào diễn tả, cha đã cảm thấy rơi vào thân phận... của thánh...
- Ý anh muốn nói mình bị coi như chó và heo, không xứng đáng để hiểu lời Phúc Âm nói phải không?
- Cha nói đúng điều con đã cảm thấy.
- Không riêng mình anh đâu mà bất cứ ai không cảm nhận được như thế mới là chó và heo theo câu nói Phúc Âm. Những ai cảm thấy thế tất nhiên đã có chuyện xảy ra, và nếu tôi không lầm, Thánh Thần của Đức Kitô làm việc ngang ngược như vậy... Đúng sai, phải trái, tôi không biết... bởi dẫu sao mình chỉ là con người đầy thiếu sót đồng thời lại bị nhãn quan ước định nhân sinh che lấp. Có điều, càng nói thì lại càng chẳng nói được gì vì vấn đề là cảm nghiệm chứ không phải kiến thức. Tôi biết chắc, nếu bàn luận chỉ tạo thêm những phiền hà...
Chương 14
Cha Hoàng hơi e ngại vì sau sáu năm trong chức vụ linh mục ngài đã thấm đòn... Trung thực nhận xét, ngài vừa trải qua một cuộc lột xác tận gốc rễ từ lãnh vực tâm linh, tâm lý, tới quan điểm xã hội và ngay cả luân lý. Kết quả của sự lột xác này lại là thành quả cảm nhận hai câu, "Hãy nghiệm xét mọi sự" (1Thes. 5:21) và "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng lấy chân dày đạp và quay lại cắn xé các ngươi." Tuy nhiên, khởi đầu hành trình lột xác lại bắt nguồn từ sự thúc đẩy của câu Phúc Âm Mác cô, "Tuy vậy, Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?" Chịu chức linh mục được ba năm, vừa đúng một vòng Phúc Âm trong phụng vụ, suy tư soạn giảng đã dồn ngài vào khá nhiều bế tắc bởi quan điểm luân lý từ lối học kinh viện đem áp dụng hầu làm sáng tỏ Lời Chúa. Làm sao giải thích theo luân lý câu nói u mặc: "Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù!" Làm sao con người có thể chấp nhận được "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Tạ Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta ắt không xứng với Ta," và phỏng áp dụng thế nào trong thực tế khi giảng giải, "Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa?" Những sách diễn giải Kinh Thánh, đúng là kinh viện, chúng chết từ thuở nào với lối suy tư kinh viện. Những bộ sách soạn giảng đã chẳng nói lên điều gì có thể áp dụng mà nhiều khi lại còn dùng Chúa như bung xung để tránh phải đương đầu với nước bí luân lý, dùng những đề nghị không tưởng chẳng thể áp dụng vào thực tại con người đang phải gồng mình tranh đấu vượt qua những khó khăn cuộc sống. Nói chuyện với một vài người quen thân mong tìm cách giảng giải Phúc Âm hợp tình hợp lý hơn để sao có thể thuận với nỗi lòng dân Chúa, đã có những lần ngài được nghe lời than kinh hoàng: "Lời Chúa nói nghe đến độ chói tai. Thử hỏi làm sao chấp nhận được câu, 'Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo..,' vậy Phúc Âm coi mình chỉ là thứ chó và thứ heo thì nói gì đến cứu độ và cứu rỗi! Nơi khác Phúc Âm lại cũng nói, 'Họ nhìn lấy nhìn để mà không thấy, họ nghe lấy nghe để mà không hiểu, kẻo họ trở lại mà được thứ thạ' Thế chẳng lẽ Chúa muốn đày ải con người trong vòng u mê muôn đời?" Những báo, bài giảng mua hàng tháng cũng chẳng hơn gì vì chúng được viết do những bộ Óc quá nặng nề lệ thuộc truyền thống và lời Kinh Thánh một cách từ chương.
Thế rồi, chuyện phải đến đã đến! Câu Phúc Âm "Tuy vậy, Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?" như chiếc vồ vạn cân giáng đòn nặng nề không thương xót nơi lòng người linh mục trẻ với kinh nghiệm mục vụ và phụng vụ chỉ mới ba năm tròn và tiếp tục thêm ba năm ròng rã, Thánh Thần làm việc qua lời Phúc Âm và thực tại dân Chúa gây áp lực thay đổi tâm tư, biến cha Hoàng như trái banh dưới chân những chuyên viên bóng đá của hai đội đấu thủ nhà nghề, biến kiến thức kinh viện nơi ngài thành cảm nghiệm đạo sống. Đó là Tin Mừng Đức Kitô đem đến cho nhân loại, Tin Mừng đã bao lâu nay bị che mờ bởi những quan niệm luân lý, tâm lý, quan điểm xã hội thế tục, những quan niệm đã biến lời Phúc Âm, "Tuy vậy, Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không" trở thành câu hỏi lãng quên...
Cũng như bao tín đồ của các tôn giáo, đặc tính nghe sao biết vậy hoặc nghe cho qua để tưởng là quá đủ nhiệm vụ thực hành tôn giáo hay chu toàn trách nhiệm tâm linh đã đương nhiên trở thành thói quen khó tập mà cũng khó chừa nơi mọi người thuộc mọi thời bởi cho rằng đã có những nhà thuyết giáo suy nghĩ, chỉ đường lối thực hiện phương cách theo đạo... đồng thời khó chừa vì e sơ... Cha Hoàng đã tận tâm học hành và tuân theo tất cả những gì một tín hữu cần phải biết và phải giữ để được coi là một thành viên tốt lành của tôn giáo. Trải qua những năm tháng trong lò huấn luyện kinh viện và được chấp nhận trở nên nhà thuyết giáo, ngài chính thức phải đương đầu cuộc chiến nội tâm giữa hai phe, lời Phúc Âm và thực tại cuộc sống của tín hữu trong tổ chức tôn giáo bao gồm truyền thống, những nghi thức phụng vụ, mục vụ, xen lẫn giữa muôn ngàn dữ kiện tạo thành môi trường rắc rối, công ăn việc làm đối nghịch luật lệ tôn giáo, thực tại nhân sinh lấn át hệ thống luân lý một chiều từ ngàn xưa vẫn hằng bền vững. Con người lúc nào cũng bị chèn ép giữa hai cực đoan, luân lý phản nghịch tâm lý xã hội hoặc giữa tôn giáo và điều kiện thực tại. Hiện tượng những bước chân rời bỏ giáo đường không phải do sự bất mãn với vị thuyết giảng dầu cớ sự được coi như thế, mà thực thể lại là lòng khát vọng tâm linh nơi con người đã không được thỏa mãn... Con người đã quá sợ hãi với những đe dọa tôn giáo nên đã tìm đường tránh thoát hầu mong giải thoát bớt áp lực không cần thiết đè nặng tâm tư trong khi phải đối diện với thực tại khó khăn của cuộc sống.
Thao thức nơi vòng quay tổ chức của tôn giáo trong khi phải đối diện với thực trạng dân Chúa đói khát tâm linh, lời Phúc Âm "Tuy vậy, Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?" đã trở nên bản án tròng vào cổ người linh mục trẻ. Tại sao nghi ngờ lòng tin của con người?... hoặc là hiểu khác về lòng tin hoặc là không chấp nhận hay không thể đạt tới được? Nguyên nhân nào có sự nghi ngờ? Tin là gì? Phỏng tin có nghĩa nghĩ rằng, cho rằng, hoặc nhận thực rằng điều gì có thực? Định nghĩa đức tin qua sách vở và ngay cả nơi thư Hipri trở thành mù mờ, có để mà có, gượng ép với những ý nghĩa đầy kẽ hở, "Tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy" (Hipri 11:1). Hy vọng của tiền nhân như nơi thư Hipri đã chắc gì giống với hy vọng của những người khác. Hơn nữa, cách nhận thức các thực tại người ta không thấy đâu phải chỉ tin là đủ. Dẫu tin có không khí hay không thì mình vẫn đang thở! Dẫu tin có Thiên Chúa hay không thì Thiên Chúa vẫn hiện diện. Xét thế, tất cả những định nghĩa đức tin và ngay cả những điều phải tin đều trở thành những kiến thức không có bất cứ ảnh hưởng nào tạm coi là có thể giúp con người thăng tiến tâm linh. Cha Hoàng nghĩ, giả sử miệng nói tin mà lòng không nghĩ như thế, phỏng có gì thay đổi, phỏng có gì khác lạ xảy rả... Thưa rằng không... Câu trả lời thầm lặng mang sức mạnh chấn động lật đổ tất cả những gì được gọi là đức tin xưa nay ngài hằng chấp nhận... Và như vậy, áp lực của câu hỏi nơi Phúc Âm càng tăng, càng đẩy cha Hoàng vô góc tường tâm tưởng kiếm tìm đường giải thoát...
Nỗi thao thức không ngưng nghỉ gây áp lực tâm tư phát xuất từ câu hỏi về lòng tin nơi Phúc Âm có sức mạnh gây rối, làm đảo lộn tất cả những kiến thức xưa nay ngài đã chấp nhận, an phận tin tưởng theo truyền thống trao lại từ bao đời trước. Bao nhiêu lần nghĩ đến, bấy nhiêu lần ngài cố lãng quên thế mà vẫn không thoát khỏi. Đức tin ngài đã được dạy dỗ, truyền lại từ hai ngàn năm nay phỏng vì lý do gì, điều kiện nào, hoặc chuyện gì đã được tiên liệu để đến nỗi có thể bị xóa bỏ? Hội Thánh sẽ được tồn tại tới khi Đức Kitô trở lại tất nhiên đức tin phải tồn tại thế sao bị nghi ngờ về lòng tin? Thực ra, chính ý muốn tránh thoát đối diện sự thực chỉ càng làm tăng áp lực đày ải, cha Hoàng phải đương đầu với sự e ngại đặt vấn đề về một thực thể đã hai ngàn năm ngự trị nơi tâm trí Kitô hữu.
Không khí trong nhà thờ lúc nửa đêm không lạnh mà cha Hoàng run... cái run bắt nguồn từ sự nhận thực ra nhận thức của mình chỉ là mớ kiến thức kinh viện nền tảng được đặt trên đám cát giáo điều, có để mà có nhưng vô bổ, giống như những đồ trang sức pha trộn muôn vẻ màu mè củng cố mớ lề luật thống trị dân Chúa, che mờ nẻo tới tâm linh. Phỏng nếu không có luật giữ ngày Chủ Nhật sẽ được mấy ai tới nhà thờ? Phỏng nếu cho rằng hoặc nghĩ rằng Thiên Chúa không hiện hữu thì Ngài sẽ tự dưng biến mất và như thế cả vũ trụ này sụp đổ? Thực ra, nếu nói rằng Đức Giêsu không nhập thể thì Ngài cũng đã đến. Đức Giêsu đến đem Tin Mừng vậy Tin Mừng của Ngài là gì? Lòng tin là gì? Đức Giêsu nói gì về lòng tin?... Khóa cửa nhà thờ và chầm chậm bước về nhà xứ với dáng khoan thai mà lòng ngài đang cuồn cuộn nổi sóng. Đêm về khuya muôn sao lấp lánh đã bị ngài bỏ rơi trên bầu trời dẫu làn gió mát nhẹ nhàng cố quyện quanh như nhắc nhở con người đang trầm ngâm hãy trở về với thực tại. Nhưng không, bước chân ngài chợt dồn mau hơn cùng với cử điệu tay trái xỏ vô túi quần lấy xâu chìa khóa... ngài phải kiếm cho ra Phúc Âm nói gì về đức tin...
Máy điện toán được bật lên ngay khi ngài bước tới bàn viết. Cũng may, con người đã chế ra được những tiện nghi không những đem lại lợi ích cho cuộc sống vật chất mà ngay cả những phương tiện hiểu biết. Bản Kinh Thánh tiếng Anh chỉ rõ có 264 chữ "faith," ba Phúc Âm Mathêu, Mác Cô, và Luca nhắc đến 32 lần. Riêng động từ "believe" bốn cuốn Phúc Âm nhắc đến 93 lần mà đã 62 lần trong Gioan. Đọc qua những câu có chữ faith hiện trên màn ảnh, cha Hoàng cảm thấy bàng hoàng vì sự kiện không ngờ đã sẵn đó từ bao lâu nay mà ngài chưa bao giờ để ý; hình như nơi bản tiếng Anh chữ faith được nhắc tới mang quyền lực cả thể nào đó khác với chữ faith ngài thường nghe quen ở nhà trường mang nghĩa "đức tin." Không tin nơi mắt mình, ngài lấy cuốn sách Việt. Cuốn Kinh Thánh tiếng Việt bản dịch do linh mục Nguyễn Thế Thuấn dùng chữ "lòng tin" thay vì đức tin. Lật Mathêu theo thứ tự những câu có chữ faith nổi lên trên máy điện toán, lời Phúc Âm tiếp tục làm cha Hoàng càng ngạc nhiên...
"Ông đã tin sao, thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13).
"Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mt. 9:22).
"Các ngươi đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 9:29).
"Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" (Mt. 15:28).
"Quả thật, Ta bảo các ngươi: nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì các ngươi có bảo núi này: Hãy bỏ đây qua đó! nó cũng sẽ chuyển qua, và các ngươi sẽ không bất lực trước một điều gì" (Mt. 17:20).
"Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này: "Xê đi mà nhào xuống biển thì sự cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được!" (Mt. 21:21-22).
Không biết nghĩ sao hơn, cha Hoàng ngồi chết lặng trước cuốn Kinh Thánh và máy điện toán... trong lòng cuồn cuộn nổi sóng... tạo thành sự bàng hoàng gây áp lực muốn ngộp thở. Chưa bao giờ ngài gặp tình trạng này khi đọc Phúc Âm... Thời gian như ngưng đọng, không gian ngừng chuyển động... Thần lực sung mãn nào đó bao trùm tràn ngập khiến người trong bối cảnh sững sờ không kịp thời phản ứng... Tuy thế, dẫu thân xác bất động nhưng tâm trí ngài phần như reo vui, phần rạo rực e ngại... quay cuồng như bị cuốn hút vào mãnh lực cơn lốc thần linh đang vần vũ trình diễn quyền lực được tỏ bày qua ngôn ngữ loài người. Lòng tin Đức Kitô nói trong Phúc Âm mang quyền lực tự nó, tin sao thì được vậy, lòng tin của con cứu chữa con, muốn sao thì hãy được như vậy, sẽ không bất lực trước một điều gì, lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin các ngươi sẽ được... Ngài lặng thinh ngồi đó, tay khoanh trước ngực, hết nhìn cuốn Kinh Thánh được mở ở đoạn 20 Mathêu, lại nhìn màn ảnh xanh dương chi chít tiếng Anh, hình như bị điếc đối với dòng nhạc trữ tình của Chopin được chuyển hiện qua tiếng dương cầm êm dịu lan vào không gian nhỏ bé của căn phòng từ hai chiếc loa 14 watts của hệ thống C.D. gắn liền vào máy điện toán. Cảm giác chơi vơi nào đó len nhẹ vào hồn khiến thân xác muốn được tê dại ngừng thở bởi e hơi thở bình thường cũng quá mạnh bạo có thể đẩy tan giây phút linh thiêng tràn qua cửa kiếng lọt vào khoảng thinh không.
Ấy là mới chỉ một vài câu nơi Mathêu, còn những câu khác và ba Phúc Âm nữa, cha Hoàng thầm nghĩ đưa tay nhìn đồng hồ, 12 giờ 30 phút... đi ngủ, mai phải dậy lúc 5 giờ sáng... Ngài tắt máy, đưa chân đạp công tắc cắt dòng điện, từ từ đứng dậy sang phòng bên cạnh thay đồ, đưa tay ấn nút hai chiếc đồng hồ báo thức, chuẩn bị ngủ... Và giấc ngủ đã chẳng chịu tới bởi những lời Phúc Âm cứ thay phiên nhau vẫn vũ nơi tâm tưởng kèm theo một số câu hỏi... Tin sao thì được vậy... do quyền lực kiến tạo nào? Chữ tin ở đây có nghĩa gì? Phỏng có phải cứ nghĩ điều gì sẽ xảy ra thì chuyện đó sẽ đến và như vậy ý nghĩ tự nó mang quyền lực? Có câu Phúc Âm nào nói về quyền lực của ý nghĩ, ước muốn không? Lòng tin cứu chữa; tại sao lòng tin lại có quyền lực cứu chữa? Tại sao nơi Phúc Âm, Đức Kitô không nói tin vào Thiên Chúa, tin vào Ta thì Chúa chữa hoặc Ta chữa mà lại chỉ nói lòng tin cứu chữa? Như thế quyền lực nào đã sẵn có nơi lòng tin và lòng tin là gì? Phỏng đặt vào miệng Đức Kitô như thế có thể là một lối nói phóng đại?... Chợt nhận ra mình đang theo đuổi những ý nghĩ..., sáng mai sau lễ sẽ tính, ngài thầm nhủ, bây giờ phải ngủ, chỉ còn bốn tiếng rưỡi đồng hồ, không ngủ mai không dậy được... Dẫu đã cố gắng tập trung tư tưởng vào tiếng kêu tích tắc của chiếc đồng hồ báo thức hầu ngăn chặn chia trí, âm hưởng của mấy câu Phúc Âm như kẻ trộm đại tài tàng hình lọt vô tâm tưởng dẫn suy tư theo đuổi... Muốn sao thì hãy được như vậy... ngôn từ có được dịch chính xác không? Nếu đúng, ước muốn, ý định cũng tự có quyền lực kiến tạo. Muốn sao thì hãy được như vậy phỏng bao gồm cả những ý muốn chẳng nên... Sẽ không bất lực trước một điều gì... mang nghĩa thế nào? Câu nói quá bạo! Quyền lực nào có thể không bất lực trước một điều gì mà lại được ví chỉ cần lòng tin nhỏ bằng hạt cải không lớn hơn chiếc mắt muỗi! Phỏng đây chỉ là lối nói thăng hoa, không tưởng, cho xuôi câu văn với chủ đích nhấn mạnh về lòng tin? Vậy xưa nay bao nhiêu người đã có đức tin sao chưa thấy ai nghiệm chứng? Phỏng có thể ai cũng nghĩ rằng lời nói trong Phúc Âm không thật nên chẳng ai tin tưởng để mà thử? Tại sao nơi những sự kiện được gọi phép lạ, Đức Kitô lại bảo rằng đó là lòng tin chữa, lòng tin cứu? Tại sao Giáo Hội dạy Đức Kitô là Đấng Cứu Thế mà chính Ngài lại nói lòng tin cứu chữa? Tại sao nơi Phúc Âm Đức Kitô không nói Ngài chữa, Ngài cứu mà cứ đổ vạ cho lòng tin?... Lại một lần nữa cha Hoàng nhận ra tâm trí mình đang phiêu diêu theo đuổi những câu hỏi không hiểu từ đâu đến... Không dám nhìn đồng hồ báo thức để ngay đầu giường vì biết chắc đã hơn một giờ khuya, ngài lại cố dỗ giấc ngủ...
Một, hai, ba, bốn, năm,... cha Hoàng dồn tâm tưởng theo tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ thầm đếm... Phúc Âm nói gì về lòng tin... Lời tuyên xưng đức tin nơi kinh Tin Kính cô đọng những sự thật nơi Phúc Âm, một Thiên Chúa, Đấng tạo thành trời đất muôn vật, Đức Kitô nhập thể qua Đức Maria đồng trinh, Thánh Linh, Đấng ban sự sống, Giáo Hội thông công, sự sống lại và sự sống vĩnh cửu, bí tích hòa giải... Tính chất của sự tuyên xưng này chỉ nói lên thật lòng chấp nhận và cho rằng, nghĩ rằng đó là sự thực, đó là chân lý không sai... Đây là đức tin Công Giáo, ai chấp nhận hay không thì có niềm tin giống Công Giáo hay không... Sự chấp nhận, tin như vậy là ý thức hướng dẫn tất cả mọi suy luận Công Giáo... nhưng không mang quyền lực của lòng tin. Phúc Âm nói gì... Phúc Âm nói gì... tin sao thì được vậy, lòng tin của con cứu chữa con, muốn sao thì hãy được như vậy, sẽ không bất lực trước một điều gì, lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin các ngươi sẽ được... Cha Hoàng ngồi bật dậy... Ngồi dậy để làm gì? Ngài bàng hoàng! Phải ngủ, sáng mai phải thức dậy lúc 5 giờ... Chợt tỉnh thức do cử động vô thức ngồi dậy và tự hỏi để rồi nhủ thầm như thế nhưng lòng ngài xốn xang... Mãnh lực nào đó thúc đẩy tâm trí quay cuồng với những câu hỏi cuồn cuộn dồn tới tạo nên lòng khát khao tìm hiểu... Phỏng trong tình trạng này có ngủ được không, ngài tự hỏi, dẫu sao cũng đã lỡ... Quay lại nhìn đồng hồ, hàng số điện tử màu xanh lá mạ hiện rõ 2:32. Kể như hết đêm rồi Chúa ơi, cha Hoàng than thầm, lòng tin Ngài nói trong Phúc Âm đúng là báo hại... quyền lực đâu không thấy mà chưa chi đã mất ngủ... Đừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất mà là sự mất ngủ... Đức Kitô hôm nay hạ mình một - không... đành chấp nhận chứ biết sao hơn... môn đệ không bắt nạt được thầy mà có chăng ngược lại... Vừa thắt dây ngang lưng chiếc áo ngủ đồng thời bước sang phòng bên cạnh bật đèn, ngài vừa thầm nghĩ đến câu nói của Phúc Âm Mathêu áp dụng nơi thực tại mất ngủ của mình.
Máy điện toán lại một lần nữa nổi lên những chữ faith được tô đậm màu trắng giữa những hàng chữ nét nhỏ trên nền xanh dương của màn ảnh... Bởi muốn có nhận định rõ ràng và tổng quát, cha Hoàng lấy bút và giấy ghi lại những câu nói về lòng tin theo thứ tự Mathêu, Mác cô, Luca, và Gioan. Một số câu nơi Mác cô và Luca phần nào đó được lặp lại mang ý nghĩa bổ xung thêm những khía cạnh khác của quyền lực được gọi là lòng tin. Tiếp theo, ngài tìm những câu chứa đựng chữ believe và so sánh với bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt. Phúc Âm nói về lòng tin chứa đựng quyền lực lạ lùng chứ không mang nghĩa cho hoặc nghĩ rằng điều gì đúng hay sai... Tuy nhiên, vì được sắp xếp tùy thuộc cơ cấu những câu truyện, quyền lực lòng tin dẫu được giải thích bằng cách lặp đi lặp lại nhưng bị phân tán xen kẽ nơi các trường hợp khác nhau khiến những sự kiện che mờ tính chất quan yếu và ý nhấn mạnh do đó người đọc khó có thể nhận ra đặc tính quyền lực này... Điều lạ lùng hơn nữa là càng để ý, lòng tin càng được Phúc Âm đề cao dẫn tâm tưởng ngài đến sự nhận thực ra rằng ngài đã không có lòng tin giống như Kinh Thánh diễn tả. Đối diện với tâm tình này, ngài lại cảm thấy bàng hoàng... Cả bốn Phúc Âm nói về lòng tin một cách khác lạ nếu đem so sánh ý nghĩa nơi những câu nói đặt vào miệng Đức Kitô với hai tiếng "đức tin" được dùng làm căn bản học hỏi và giảng giải bao lâu naỵ Đã ai đặt vấn đề tại sao có những câu nói khác lạ trong Phúc Âm về lòng tin chưa? Tại sao sách vở, nơi những phần định nghĩa về đức tin, các tác giả đã không so sánh những tính chất của lòng tin nơi những câu nói ở Phúc Âm?... Nguyên nhân nào khiến họ phải tránh né đem so sánh những câu nói về lòng tin hầu đưa ra nhận định trung thực theo Phúc Âm? Tại sao có những câu nghi ngờ lòng tin của con người hoặc nghịch hẳn với quan niệm bình thường nếu không muốn nói là không tưởng được dùng để chỉ tính chất lòng tin? Thực hiện cách nào để có được lòng tin như Phúc Âm nói? Cha Hoàng ngồi đó như ngây như dại. Những hình ảnh di động, màu sắc thay đổi, bảo vệ màn ảnh điện toán nổi lên nhảy múa tự lúc nào ngài cũng chẳng cần biết... Dẫu nhìn chằm chằm vào màn ảnh nhưng tâm trí ngài còn đang mãi đâu đâu bởi những câu hỏi chưa bao giờ có thể ngờ bỗng như trận cuồng phong vũ bão nổi dậy cuốn hút suy tư... Hai chiếc đồng hồ báo thức chợt thi đua vang lên những tiếng bíp bíp vọng sang từ phòng ngủ khiến ngài chợt tỉnh... Thế là hết đêm, hai tiếng rưỡi qua mau trong nháy mắt mà thành quả gom tóm chỉ được hai trang giấy ghi những câu Phúc Âm rời rạc khiến tâm trí đảo lộn ảnh hưởng xác thân mệt nhừ, ngài thầm nghĩ, đoạn trở về phòng ngủ tắt đồng hồ báo thức và ra nhà bếp pha cà phê.
Bao nhiêu kiến thức thần học, triết học, luân lý, hôn nhân, giáo luật, lịch sử, qua những năm tháng trau giồi nơi nhà trường cấu tạo thành sự hiểu biết căn bản của người linh mục bị mấy câu Phúc Âm tàn phá tan tành như mây khói... Cha Hoàng mở cửa tủ chén lấy ly sành trong khi đợi cà phê mà tâm trí vẫn bị quay cuồng với nỗi bàng hoàng chưa có câu giải đáp tạo thành cảm nghĩ mông lung, hình như kiến thức thần học đã được trau giồi bị bứng tận gốc rễ. Đức Kitô đến rao giảng những gì? Tin Mừng của Đức Kitô bao gồm những chỉ Tại sao những người tin vào Đức Kitô lại có thể phân chia thành những chi nhánh khác nhau mà nguồn gốc của sự phân rẽ này chỉ là sự khác biệt giữa những sự tuyên xưng đức tin? Ai đúng, ai sai, và Đức Kitô sẽ có thái độ nào? Lòng tin nơi Phúc Âm chỉ có một, tuyên xưng điều mình cho là đúng thì lại có nhiều điểm khác biệt giữa những người cùng theo một lòng tin... Thế ra căn bản lòng tin đã không được để ý mà ngược lại chú tâm đến những quan niệm và đua tranh bày tỏ ý niệm riêng tạo nên phân rẽ; chính bởi đó, sự phân chia bắt nguồn từ không đồng quan điểm kiến thức chứ không phải vì lòng tin. Điều này cũng chẳng khác gì sự bất đồng ngôn từ chỉ về Thượng Đế và những quan niệm, thành quả của cảm nghiệm cá biệt, và ai cũng chỉ cho rằng cảm nghiệm của mình mới đúng, và người khác, vì không quan niệm giống thực trạng cảm nghiệm của mình, là sai. Phỏng đây cũng là nguyên nhân tạo nên sự hiểu lầm ý nghĩa của lòng tin do đó đã không có ai đặt vấn đề tìm định nghĩa của lòng tin được đề cập theo những câu nói Phúc Âm mà chỉ giãi bày lòng tin theo nhận định của mình bởi đã mang sẵn quan niệm tin có nghĩa cho rằng hoặc nghĩ rằng điều gì có thực hoặc sẽ xảy đến như dự đoán?
Bưng ly cà phê trở lại phòng làm việc, cha Hoàng đánh máy; những câu Phúc Âm về lòng tin được ngài ghi lại nơi hai trang giấy lần lượt nổi trên màn ảnh điện toán. Đặt lưng vô dựa ghế cho thoải mái, thân người ngài tựa như bức tượng được đắp dính liền với chiếc khung bốn chân giữ vững thế ngồi... Mười ngón tay lướt trên bàn chữ tạo thành những tiếng kêu lạch cạch liên tục không đồng điệu nhưng khá nhịp nhàng hòa nhập với từng nét, từng chữ nhỏ màu trắng, hàng hàng lớp lớp nổi lên xâm lấn nền đen màn ảnh. Khi chữ cuối cùng trên hai trang giấy trước mặt vừa dẫn dòng chữ ráp nối vào phần chót, mệnh lệnh giữ tài liệu đã được ban ra và màn ảnh chớp nhẹ thì bàn tay trái đồng thời cũng xoay nửa vòng cho chiếc đồng hồ đeo tay trình bày vòng số. 5 giờ 45 phút, đến giờ chuẩn bị ra nhà thờ, ngài thầm nghĩ... Ly cà phê mới cạn một phần ba, điếu thuốc cháy hết một nửa tắt ngúm để lại khúc tàn dài bởi bị chặn nơi mảng khuyết chiếc gạt tàn kẹp chặt, cả hai ngón đam mê ruột dường như trách móc ngài đã có thái độ lãng quên... Cà phê lại cạn và phần điếu thuốc dở được mồi một cách vội vã trong khi máy in vừa đẩy xong tờ giấy với lớp mực mới, tay trái dụi tàn thuốc và tay phải đẩy ngăn kéo đựng bàn chữ vô hộc, ngài đứng dậy bước trở lại phòng ngủ... và hai mươi phút sau vị linh mục trẻ đã có mặt đọc kinh nguyện nơi nhà thờ...
Kinh nhật tụng của ngày thứ hai tuần hai Mùa Vọng đã đến với ngài giống như nước chảy mây trôi... Mắt dõi theo từng chữ nhưng ý nghĩa đã bị chặn đứng bởi lòng tin đang luẩn quẩn nơi tâm trí khiến ngài cảm thấy giao động... Thôi thì đọc cho qua... Lời Chúa để Chúa hiểu... Và đúng là đọc cho qua kinh nhật tụng, ngài gấp sách bỏ sang bên cạnh, tiến lên bàn thờ rở sách trước khi mặc áo lễ. Thế nhưng, cũng như mọi lần, thời điểm sáng sớm của ngày thứ hai sau lễ ngài thường đọc qua một lần những bài đọc của Chủ Nhật sắp tới chuẩn bị soạn giảng... Nhân tiện có được ít phút, ngài lật bài đọc cho Chủ Nhật tới... Bài đọc thứ hai, thư thứ nhất gửi Giáo Đoàn Thessalonians của Chủ Nhật tuần ba mùa vọng năm B lại như nguồn năng lực bị dồn ép cách nào đó chợt bùng nổ khiến ngài thêm lần nữa bàng hoàng... "Đừng dập tắt thần khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy. Hãy kỵ điều dữ, bất cứ dưới hình thức nào" (Thes. 5:19-22).
Từ ngày chịu chức linh mục, đã bao nhiêu lần rửa tội cho trẻ nhỏ, đã bao nhiêu lần giảng giải về bí tích rửa tội trong đó bao gồm ân sủng tư tế, tiên tri, và vương quyền, của mọi tín hữu... thế mà giờ đây ngài mới cảm nghiệm... Suy luận làm sao, giải thích cách nào, cha Hoàng thầm nghĩ... và đành để cho lời thư, "Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự" đua nhau nhào lộn trong tâm trí... Ngài muốn nói lên nhưng nói gì? Nguồn thần lực nào đó bỗng như dạt dào tràn ngập tâm hồn đến độ ngài cảm thấy hình như bị trào ra... trào ra chan hòa nhà thờ lưa thưa đây đó vài giáo dân tham dự Thánh Lễ buổi sớm... Muốn cảm nghiệm cần nghiệm xét mọi sự, mà nghiệm xét tất nhiên mở rộng lòng cho Thần Khí làm việc... Câu nào đó nơi Phúc Âm Gioan hiện về nhắc nhở: "Ta còn lắm điều phải nói với các ngươi, nhưng hiện giờ, các ngươi không mang nổi. Song khi nào Ngài đến, vì là Thần Khí sự thật, Ngài sẽ đưa các ngươi vào tất cả sự thật" (Gioan 16:12). Cha Hoàng cảm thấy lâng lâng như bay bổng, đôi chân chơi vơi bước về phía phòng mặc áo chuẩn bị dâng lễ... Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sư... hãy nghiệm xét mọi sư...
Cũng như thường lệ sau lễ sáng thứ hai, cha Hoàng đọc những bài sách thánh hầu có thời gian dư dật suy gẫm cho bài giảng cuối tuần sắp tới. Hôm nay, tập sách bài đọc bị bỏ quên trong khi ngài ngồi đó, một mình chơ vơ nơi nhà thờ sáu trăm chỗ ngồi... tay khoanh trước ngực, đôi mắt khép kín, và ngả lưng nơi thành dựa băng ghế dài trước bàn thờ. Lời Phúc Âm vẫn vang vọng, "Ta còn lắm điều phải nói với các ngươi, nhưng hiện giờ, các ngươi không mang nổi... " thế thì những câu tuyên bố về quyền lực lòng tin vẫn còn là nhẹ nhàng... Sự thật nào mà con người thời đó không mang nổi, không thể chấp nhận, hay không đủ khả năng hiểu nổi? Lý do gì khiến con người không mang nổi? Tại sao Đức Kitô không chịu nói? Tại sao dùng động từ "mang" mà không dùng động từ "hiểu"? Phỏng Đức Kitô nói ra thì cũng không ai chấp nhận được? Tại sao không chấp nhận...? Cha Hoàng chợt tỉnh ngộ, những lời Phúc Âm nói về lòng tin gần hai mươi thế kỷ qua vẫn còn chưa được nghiệm chứng thì có nói thêm cũng bằng thừa... Đức Kitô mới chỉ nói "Ta và Cha là một" mà đã bị cho rằng phạm thượng (Gioan 10:30-33)... vì dám cho mình là Thiên Chúa... Ngài nói nghịch lại với tất cả những quan niệm của con người xưa nay... hèn chi "các ngươi không mang nổi"... Nhưng phải thế nào, phải áp dụng nguyên tắc hay đường lối nào để Thần Khí làm việc? Tại sao thư thứ nhất Thessalonians lại có lời khuyên đừng dập tắt Thần Khí mà phải nghiệm xét mọi sự?... Nếu nghiệm xét mọi sự phải là tự mình, phải đặt lại mọi vấn đề để tự tìm hiểu, tự chứng nghiệm... Nghiệm xét bao gồm chứng nghiệm và nhận xét; mà muốn chứng nghiệm cần thực nghiệm chứ không phải suy luận vì suy luận lệ thuộc kiến thức có sẵn... Chứng nghiệm đòi hỏi tính chất nghi ngờ hết mọi sự, nghi ngờ tất cả những kiến thức đã biết sẵn cũng như bất cứ quan niệm, kinh nghiệm nào đã lệ thuộc lý thuyết hay giáo điều... Như vậy, "nghiệm xét mọi sự" có nghĩa không thể dùng cảm nghiệm hay kinh nghiệm của kẻ khác vì đối với cùng một vấn đề hay sự kiện, mọi người đều có cảm nghiệm khác nhau... thí dụ ý thích về một chiếc xe, hay tình cảm đối với một người khác phái, hoặc tâm tình đối với nơi ăn chốn ở... Đồng ý rằng kinh nghiệm quá khứ giúp con người tránh khỏi những sai lầm chẳng may trùng hợp nơi hiện tại nhưng chỉ được giới hạn nơi cuộc sống vật chất và lối nhìn luân lý... Tuy nhiên, vì không ai có tâm tình giống ai nên cảm nghiệm của kinh nghiệm không giống nhau. Hơn nữa, cảm nghiệm kinh nghiệm về sức nóng của lửa khác với cảm nghiệm tình cảm nơi một người vì một đàng tùy thuộc cảm giác ngũ quan, đàng khác tùy thuộc tâm tình và tính chất cũng như quan niệm hay ý hướng... Như vậy, chỉ có thánh Phao lô bị quật ngã ngựa mới có thể nói lên được phải nghiệm xét mọi sự vì ông thuộc về hàng quí tộc và rất rành rẽ truyền thống Do Thái. Chỉ ông mới cảm nghiệm được muốn hiểu Đức Kitô nói gì, muốn hiểu Phúc Âm cần nghiệm xét mọi sự. Phỏng Phao Lô sau khi được khỏi mù lòa đã xóa bỏ hẳn quan niệm cũ của ông nên khuyên nghiệm xét mọi sự? Phao Lô rao giảng về Đức Kitô bị đóng đinh thập giá và Thần Khí Thiên Chúa... vậy Đức Kitô rao giảng những gì? Đức Kitô rao giảng Tin Mừng; vậy Tin Mừng là gì và bao gồm những gì? Có cần điều kiện nào để hiểu Tin Mừng không? Nếu nghiệm xét mọi sự một cách sai lầm sẽ thế nào? Phúc Âm nói gì về thái độ nghiệm xét?...
Có tiếng mở cửa nhà thờ và cha xứ xuất hiện cắt đứt suy tư, cha Hoàng trở về nhà xứ vì sắp đến giờ lễ tiếp theo. Cha xứ thường ra nhà thờ 15 phút trước khi lễ, vậy là đã một tiếng đồng hồ mình quên cả trời đất, ngài thầm nghĩ khi lững thững bước về nhà xứ... nhưng Phúc Âm nói gì? Tại sao lòng tin được trình bày thật khác lạ mà xưa nay vẫn không thấy ai nói đến tính chất quyền lực này? Tin Mừng Đức Kitô rao giảng là gì? Tại sao có câu "Người nghèo khó có Tin Mừng để nghe" mà không đặt vấn đề có thực phẩm để ăn? Đã bao lâu nay có ai áp dụng lời thư Phao Lô để nghiệm xét không? Nếu áp dụng nghiệm xét, tất nhiên sự tuyên xưng đức tin phải là cảm nghiệm sống chứ không thể chỉ là sự chấp nhận đúng sai, phải trái. Nghĩ đến đây, ngài chợt tự hỏi, chẳng lẽ xưa nay mình sống trong trạng thái không tưởng... không bao giờ dám đặt vấn đề tự nghĩ hay cảm nghiệm nghĩa là đã không dám nghiệm xét bất cứ điều gì bởi lối học kinh viện, nói không giống với những kiến thức đã được viết sẵn hoặc không kiếm được những điều chứng minh từ sách vở sẽ không được chấp nhận và lãnh chiếc mỏ lết to tổ bố để sửa xe... lâu dần thành quen và ngủ yên nơi những kiến thức được lặp đi lặp lại như con vẹt. Phỏng có thể nói mình bị đui mù vì đã không dám nghiệm xét Phúc Âm mà chỉ như con bò nhai lại những gì người khác đã mửa rả Phỏng đây là trạng thái của kẻ bị gọi là thấy được lại hóa ra đui mù? Tưởng rằng mình hiểu biết nhưng thật ra tất cả chỉ là mớ kiến thức kinh viện thiếu cảm nghiệm hướng dẫn tâm linh! Phúc Âm nói gì về nghiệm xét hoặc điều kiện để nghiệm xét mọi sự?...
Chương 15
Những cử điệu đặt ly cà phê nơi góc bàn phía tay trái, ngồi xuống, và tay phải kéo bộ chữ máy điện toán dường như xảy ra cùng thời điểm. Vài tiếng lạch cạch khô khan vang lên nhịp nhàng theo chuyển động của mấy ngón tay, và màn ảnh nổi lên những câu Phúc Âm nói về lòng tin. Cha Hoàng đọc lại bản được in trước lễ, dùng bút đỏ ghi số những câu trùng hợp đoạn sắp xếp theo thứ tự nơi Phúc Âm Máthêu... Một bản khác được đẩy ra từ máy in; ngài cầm lên đọc... lòng dạ xốn xang...
"Ông đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13).
"Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mt. 9:22; Mc. 5:34; Lc. 8:48).
"Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" (Mt. 15:28).
"Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì các ngươi có bảo núi này: Hãy bỏ đây qua đó, nó cũng sẽ chuyển qua, và các ngươi sẽ không bất lực trước một điều gì" (Mt. 17:20; Mc. 11:22).
"Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này 'xê đi mà nhào xuống biển' thì sự cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được" (Mt. 21:21-22; Lc. 17:6).
"Đừng sợ, hãy tin mà thôi" (Mc. 5:36; Lc. 8:50).
"Hãy đi! Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Mc. 10:52; Lc. 7:49).
"Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:24).
"Sao! Nếu có thể!... Mọi sự đều là có thể cho người tin!" (Mc. 9:23).
"Hãy chỗi dậy mà đi về; lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Lc. 17:19).
"Tuy vậy, Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?" (Luca 18:8b).
"Ngươi hãy được thấy, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Lc. 18:42).
"Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ nghe lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời, và khỏi đến tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào sự sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Giờ sẽ đến - và là ngay bây giờ - các kẻ chết sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ sống" (Gioan 5:24-25).
"Phục sinh và sự sống chính là Tạ Ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống; và mọi kẻ đang sống tin vào ta sẽ không phải chết bao giờ" (Gioan 11:25-26).
"Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12).
Chầm chậm đọc từng chữ, theo dõi ý tứ từng câu, cha Hoàng cảm thấy những hàng chữ nhảy múa tạo thành âm vang huyền hoặc nào đó dường như hét vào bên tai... Hãy mở mắt ra, mở lòng trí ra, hãy nhận định để so sánh lời Phúc Âm và đức tin... Hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sư... Và mọi kẻ đang sống tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ... Kẻ tin vào Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa... Cha Hoàng không tin vào mắt mình và nghi ngờ đã ghi sai... nên rở Kinh Thánh đối chiếu từng câu thêm một lần nữa... Lý do gì Phúc Âm được viết như thế? Những câu nói đầy vẻ không tưởng, hoang đường, nếu không muốn cho rằng huyền thoại hoặc thăng hoa lòng tin cho thêm vẻ quan trọng... Trận chiến đột nhiên bùng nổ nơi tâm trí... Phúc Âm đã được viết gần hai ngàn năm rồi tại sao không sách nào viết về lòng tin theo Phúc Âm? Phỏng các học giả Kinh Thánh đều cho rằng những câu nói này đều không thể thực hiện được? Điều gì đã che lấp sự tìm hiểu, so sánh những câu nói về lòng tin? Muốn nghiệm chứng phải thế nào? Cần những điều kiện gì? Phúc Âm có nói về điều kiện nghiệm chứng nào không? Cứ theo những lời này, lòng tin tự mang quyền lực và nếu có quyền lực này tất nhiên sẽ không bất lực trước một điều gì. Đây là lối diễn tả phóng đại hay Đức Kitô thực sự nói như thế? Phương pháp nào để đạt tới lòng tin? Tại sao Đức Kitô không nói tin vào Thiên Chúa thì Chúa cứu mà lòng tin cứu, lòng tin chữa? Lòng tin... lòng tin... Ông đã tin sao thì hãy được như vậy... Lòng tin của con đã cứu chữa con... Bà muốn sao thì hãy được như vậy... Hãy tin là đã được, và các ngươi đã thấy thành sư... Kẻ tin vào ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm... Đâu đây nơi tâm trí vang vọng, con chim hót vì nó có bài ca... Con người có thể suy nghĩ vì được sinh ra với khả năng suy nghĩ... Hãy tin là đã được... đây là ước muốn, ý định, ước mơ, lòng khát khao... Có câu Phúc Âm nào nói về quyền lực ý muốn, ý định...? Cha Hoàng nhắm mắt cố moi trí nhớ... Ngài cảm thấy máu dồn lên đầu theo từng nhịp đập quả tim, hai đường gân sau gáy hơi mỏi kéo chằng lên hai bên thái dương... Đâu đây phảng phất câu "Điều tự người ta ra, điều đó làm cho người ta ra nhơ uế. Vì tự bên trong, tự lòng người ta mà xuất ra những suy tính xấu xa... " Màn ảnh máy điện toán được đổi sang bộ Kinh Thánh... và câu này ở Mác Cô đoạn 7 câu 21. Ngài lật sách kiếm phần ghi chú những câu tương tự thì gặp Mt. 6:23... Lật Phúc Âm Máthêu lại là "con mắt vạy vò"... Hơi mệt vì đầu óc làm việc quá độ, ngài ngơ ngơ lật nghịch chiều trang sách từ đoạn 6 về đoạn 5... thì gặp đề mục "Luật Mới và Luật Cũ" và đưa mắt dõi theo... "Các ngươi đã nghe bảo: chớ ngoại tình. Còn Ta, Ta bảo các ngươi: Phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng." Câu nói nghe hơi kỳ, cha Hoàng thầm nghĩ, ngoại tình trong lòng thì ơn ích gì mà đặt vấn đề! Nhưng tại sao Phúc Âm lại nói đến điều vô bổ này? Ngài đọc lại, "Phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục... " Như chạm phải luồng điện khiến ngài chợt bàng hoàng, đưa tay cầm ly cà phê và cạn luôn một nửa đoạn mồi điếu thuốc... Hơi thuốc dài vừa được thở ra thì cà phê lại được cạn... Nhìn người nữ để thỏa mãn lòng dục thì tất nhiên đã có ý định, ước muốn dục với người nữ..., ngài suy luận, ý định, ước muốn chẳng nên này tạo nên một thực thể được gọi là ngoại tình trong lòng... Ngài chợt nhận ra, đã bao lâu nay dẫu đọc Kinh Thánh nhưng không để ý đến Phúc Âm nói về trạng thái nào của con người, tâm linh, luân lý, hay tâm lý... Thế nên, ngài đọc lại từ câu 20 của đoạn 5 nơi Máthêu, "Phàm ai tức giận anh em mình thì sẽ can án... " Sự tức giận được so sánh ngang bằng sự giết người (Mt. 5:22). Nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình (#28). Tức giận là ý nghĩ, cảm nghĩ cũng mang quyền lực như ý định ước muốn... Tin sao thì hãy được như vậy; muốn sao thì hãy được như vậy... như thế điều được gọi là "tin" hoặc lòng tin trong Phúc Âm nhiều trường hợp có cùng một nghĩa, và tin vào Đức Kitô có nghĩa cảm nhận được điều Ngài nói... Con chim hót vì nó đã có sẵn bài ca, bởi nó được sinh ra với bài ca đó. Con gà gáy khi mặt trời sắp mọc nhưng không phải tiếng gáy của con gà kéo mặt trời lên... Đức Kitô nói về quyền lực sẵn có nơi con người được gọi lòng tin vì nếu con người không sẵn có thì dẫu Ngài nói mấy cũng không có... Thế nên "Kẻ nào tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm... " phải được hiểu là kẻ nào nghiệm xét, cảm nghiệm được điều ta nói, cảm nghiệm được quyền lực nơi mình thì sẽ làm được mọi việc Ta đã làm... Phỏng câu, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và mọi điều dưới đất các ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt. 18:18) mang nghĩa chỉ về quyền lực của ý định, ước muốn ảnh hưởng nơi con người? Cha Hoàng sợ, sợ chính thành quả ý nghĩ, suy luận của mình... và đồng thời cũng sợ vì nhận ra mình đã không hiểu lòng tin như Phúc Âm được viết gần hai ngàn năm qua...
Đứng dậy cầm chiếc ly mà ngài thấy tay mình run... Chuyện đâu còn đó, việc gì phải e ngại, ngài tự nhủ, trong khi ra nhà bếp lấy thêm cà phệ Thế nhưng, những câu hỏi cứ dồn dập tới... Vậy Đức Kitô đã rao giảng những gì? Lòng tin liên hệ thế nào với điều Ngài rao giảng? Nguồn gốc tự đâu con người được sinh ra với quyền lực lòng tin? Phương cách nào đạt tới lòng tin được nhắc đến nơi Phúc Âm? Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa phải hiểu theo nghĩa nào? Đức Kitô nói gì về Thiên Chúa và sự liên hệ giữa con người với Thiên Chúa ra sao? Xưa nay Thiên Chúa chỉ được tuyên xưng công bình, yêu thương; Nước Thiên Chúa là triều đại thái hòa theo ước mơ của con người nhưng đã không cần biết Đức Kitô nói gì... ngay cả Thiên Chúa là gì cũng chỉ được hiểu theo quan niệm nơi sách Sáng Thế Ký... tạo dựng muôn vật hữu hình và vô hình, thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ... Vậy lành dữ ở đâu rả Lý do gì có con rắn độc hại? Tại sao có những cây thuốc chữa lành bệnh và đồng thời cũng có cây mang chất độc giết người? Tại sao sư tử, hổ, không ăn cỏ mà cứ giết các con vật khác để ăn thịt? Loài voi, trâu, bò, đâu cần ăn thịt mà thân xác vẫn to, vẫn khỏe!... Cảm nghĩ mất gốc chợt tràn ngập tâm hồn người linh mục trẻ. Xưa nay, một Thiên Chúa chỉ được mơ hồ chấp nhận thiếu nghiệm xét. Một Đức Kitô được nhai lại bằng mớ kiến thức kinh viện với những môn Kitô Học, Lịch Sử Ơn Cứu Độ để rồi chấp nhận thiếu nghiệm xét và đem Ngài ráp vào cũng một Thiên Chúa duy lý của kinh viện. Phúc Âm nói gì? Đức Kitô trình bày Thiên Chúa ra sao? Và Nước Trời như thế nào? Muốn đạt Nước Trời cần điều kiện chỉ...
Trở về phòng làm việc, màn ảnh lại được chuyển sang bộ Kinh Thánh để rồi hiện lên bằng tiếng Anh theo thứ tự những ngôn từ "God," "Father," "Kingdom of God," "Reign of God"... Cha Hoàng cảm thấy sững sờ với câu, "Còn Ta, Ta bảo các ngươi: hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác... Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:44-45,48). Thế ra Thiên Chúa của Đức Kitô không phạt kẻ dữ, chẳng thưởng kẻ lành và đặc tính này được gọi là trọn lành nghịch hẳn với nhận xét bình thường của con người, tốt lành thì được thưởng mà làm điều không nên thì bị phạt. Nơi Luca cũng có câu: "Song các ngươi hãy mến yêu địch thù, và hãy thi ân, hãy cho vay mượn dù không trông báo đền. Và phần thưởng của các ngươi sẽ lớn lao. Và các ngươi sẽ là những người con của Đấng Tối cao, vì người nhân lành với những kẻ vô ơn và độc ác. Các ngươi hãy biết thương xót, như Cha các ngươi là Đấng thương xót" (6:35-36). Đức Kitô không rao giảng Thiên Chúa công bình mà trọn lành và thương xót. Như vậy, xưa nay mình đã nghĩ ngược lại Phúc Âm vì nếu thương xót thì sao có thể công bình theo khuôn mẫu ý nghĩ, quan niệm của con người! Hơn nữa, hãy nên trọn lành và biết thương xót như Cha các ngươi... Làm sao con người có thể nên trọn lành hoặc thương xót như Thiên Chúa nếu không có sự liên hệ nội tại nào với Thiên Chúa? Làm sao con khỉ cư xử, nói năng như người vì cho dù con người ngu nhất trần đời vẫn có thái độ của con người... Đâu là động lực hay quyền lực để con người có thể thương xót và trọn lành như Thiên Chúa? Con người liên hệ với Thiên Chúa thế nào?
Đâu đây vọng nơi tâm tưởng câu "Thần Khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì" (Gioan 6:63), cha Hoàng tự hỏi, Thần Khí được nói đến ra sao nơi Phúc Âm? Và màn ảnh lại nhảy, "Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Khi người ta nộp các ngươi, thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao, hay nói gì: vì ngay giờ đó, sẽ cho các ngươi biết phải nói gì, vì không phải các ngươi nói, mà là Thần khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi" (Mt. 10:17-20; Mc. 13:9-11; Lc. 12:11). Thần Khí là quyền lực nơi con người nên mới có thể tác sinh... Phỏng Thần Khí được gọi là linh hồn? Như vậy, lòng tin là quyền lực của Thần Khí nơi con người... quyền lực của Thiên Chúa đã được Đức Kitô rao giảng... Thế ra xưa nay Thiên Chúa đã được quan niệm như một quyền lực tự trời cao, xa xôi thăm thẳm, luôn luôn theo dõi để thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, đứng về phe của dân Do Thái và bênh vực họ để chứng tỏ uy quyền tối thượng... Đây là quan niệm theo lối nhìn Do Thái. Đức Kitô rao giảng một Thiên Chúa khác biệt, Quyền Lực ngự trị ngay tại cung lòng con người... do đó đã có câu diễn tả một sợi tóc trên đầu rớt xuống cũng không ngoài ý của Quyền Lực này... và Quyền Lực này cũng ở nơi tạo vật vì, "Hai con chim sẻ há không bán một đồng tiền sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha các ngươi!" (Mt. 10:29). Trở nên trọn lành, biết thương xót như Cha các ngươi Đấng ngự trên trời... ngôn từ trong cách diễn tả đã che mờ sự nghiệm xét... Trời, đất, cũng chỉ như vô hình và hữu hình... Lòng tin là quyền lực của ý định, ý muốn, ước mơ vô hình nơi con người thì tất nhiên cầu nguyện chỉ là tỏ rõ ý định của mình...
Dõi theo những hàng chữ từ Mt. 10:30, câu "Đừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta là những người nhà mình" (Mt. 10:34-36), cha Hoàng cảm thấy ngại ngùng vì đã bao nhiêu lần đọc câu này mà không hiểu Đức Kitô nói gì. Tại sao chia rẽ? Chia rẽ để làm gì hoặc đem lại lợi ích gì? Lý do gì nói đến sự chia rẽ thân tộc? Sự gì thân thiết với con người hơn thân tộc? Để đó, ngài thầm nghĩ và đọc tiếp, "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Tạ Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta" (Mt. 10:37-38). Tại sao lại đặt vấn đề yêu cha mẹ và con cái hơn thì không xứng? Ngài chợt nhớ có câu truyện một người xin về chôn cất bố chết trước khi theo Đức Kitô và bị từ chối... Màn ảnh nhảy tới Luca 9:60 và câu tiếp theo, "Có người khác nói: 'Thưa Ngài, tôi xin theo ngài, nhưng cho phép tôi quay về trước đã để từ biệt người nhà tối. Nhưng Đức Giêsu bảo: Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa" (Lc. 9:61-62) lại càng khiến tâm trí ngài bị dồn vô vòng luẩn quẩn. Ngó lui sau để làm gì nếu đang cày? Ngó lui sau về phương diện nào? Tư tưởng, ý định, truyền thống, quan niệm... Đức Kitô rao giảng một Thiên Chúa không giống quan niệm của người Do Thái..., khác với quan niệm mọi người thường nghĩ về Thượng Đế... Rượu mới không đổ bì cũ... Không ai lấy mụn vải sống mà điền vào áo cũ... Cầm cày không quay trở lại... Cha Hoàng lại thêm lần nữa chợt cảm thấy như ngồi trên lửa... Phải cắt đứt, phải dứt khoát với những quan niệm cũ, quan niệm cá nhân cũng như thành kiến, truyền thống, thói quen đã được học hỏi, thấm nhuần trong quá khứ mới có thể hiểu được những gì Phúc Âm nói... "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Tạ Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Tạ" Kẻ nào còn bám víu vào những gì đã biết sẵn không thể nào hiểu nổi Đức Kitô nói gì... "Để kẻ chết chôn cất kẻ chết của chúng." Ôi câu nói nghịch thường! "Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của người sống!" Những người còn cố bám víu vào quá khứ, kinh nghiệm, học thức cũ, truyền thống, thói quen... đều là kẻ chết đối với Phúc Âm... "Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa"...
Mục đích, cũng như nhiệm vụ chính yếu của Đức Kitô là rao giảng Nước Trời, Nước Thiên Chúa... "Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến" (Mc. 1:38; Lc. 4:43; Mt. 4:23; 9:35). Chẳng những thế, mục đích Ngài sai các môn đồ ra đi cũng chỉ để rao giảng tin mừng Nước Trời, "Và Ngài sai họ đi rao giảng Nước Thiên Chúa... họ ra đi rảo khắp các làng, loan báo Tin Mừng... " (Lc. 9:2-6). Vậy Tin Mừng Ngài rao giảng là gì? Nước Trời như thế nào? Tại sao Nước Trời lại được coi là điều quan trọng hơn cả những nhu cầu chính yếu của con người, "Hãy tìm kiếm Nước trước đã, và sự công chính của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi" (Mt. 6:33)? Tại sao Phúc Âm được viết: "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: này ở đây hay ở đó vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:20-21)? Nước Thiên Chúa có liên hệ gì với lòng tin? Quyền lực lòng tin nơi con người, quyền lực này tại sao có nếu không bởi quyền lực của Đấng Toàn Năng nơi con người. Quyền lực này giúp con người có thể trở nên trọn lành và thương xót... quyền lực của Thần Khí, quyền lực của Thiên Chúa mà Đức Kitô gọi là Cha, quyền lực này nơi tạo vật, quyền lực hiện hữu... Sự gì có thể minh chứng rõ ràng quyền lực này? Trí khôn, suy tư, sự sống, nhịp tim đập... Cha Hoàng cảm thấy chẳng ngờ... Con tim đập tự nó; lá phổi thở tự nó; hàng tỉ tế bào cấu tạo thành thân xác con người đang tự chúng lớn lên, phân chia sinh sản, và chết đi... Quyền lực sự sống, quyền lực hiện hữu, quyền lực hòa hợp, nối kết những thực thể sinh động tràn ngập mọi nơi, mọi chốn mà không được để ý. Quyền lực này cũng ở nơi ý nghĩ, ước muốn nên gọi là lòng tin... Phúc Âm nói gì? Đoạn nào? Câu nào? Có câu nào nói về điểm này rõ hơn ý nghĩa câu "Thần khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi" không? Phỏng Tin Mừng Nước Trời chính là "Nước Thiên Chúa ở trong các ông"? Thiên Chúa là nguồn gốc sự sống, sự hiện hữu... Nước Thiên Chúa là chính Ngài... Nếu thế cần gì phải nói "Hãy tìm kiếm Nước trước đã!" Phỏng vì không ai nhận ra nên phải tìm kiếm? Tìm kiếm ở đâu? Tin Mừng đã được rao giảng tại sao lại còn phải tìm kiếm... "Nước Thiên Chúa ở trong các ông," "Nước Thiên Chúa ở trong các ông," cha Hoàng thầm lặp đi lặp lại câu nói... Nước Thiên Chúa là chính Ngài; phỏng câu "Nước Thiên Chúa ở trong các ông" có nghĩa Thiên Chúa ở trong các ông!... Ngài chợt như muốn nhảy nhổm lên... vì tâm trí vừa được gợi về chữ Emmanuel! Màn ảnh lại đổi và lời Phúc Âm hiện lên rõ ràng: "Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi." Đây là tên người ta gọi Đức Kitô... danh hiệu của Ngài... Vậy Tin Mừng mà Đức Kitô rao giảng là "Thiên Chúa ở cùng chúng tôi"... Ngài bị đóng đinh là phải... Thiên Chúa làm người... Thiên Chúa ở nơi mọi người... Rượu mới không đổ bì cũ... ; vải mới không vá áo cũ... ; cầm cày quay trở lại là bất kham! Tin Mừng Nước Trời, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi! Phúc Âm viết kiểu này chẳng khác gì "ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù!" Càng ỷ mình biết nhiều bao nhiêu, càng trở nên mù tối đối với Phúc Âm bấy nhiêu! Hèn chi có câu nói "Để kẻ chết chôn cất kẻ chết của chúng." Cha Hoàng cảm thấy như bị lọt vào một cánh rừng rậm bát ngát, cành lá, cây cỏ chằng chịt che lấp hết ánh mặt trời khiến không biết lối nào định phương hướng... Tâm trí ngài lại chẳng khác gì đám mây mù được cấu tạo bằng những câu Phúc Âm đang lao xao chuyển động, câu nọ xuyên câu kia không thứ tư... Quay, chúng quay với vận tốc kinh khủng chung quanh tâm điểm "Thiên Chúa ở cùng chúng tôi!" Hèn chi có câu nói, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: ai không đón nhận lấy Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ không vào được trong đó!" (Mc. 10:15; Lc. 18:17)... Phúc Âm viết ngược với sự thông thái thế tục nên làm cho những đầu óc kinh viện trở thành mù tối, ngài thầm nghĩ, bởi vậy mới có thể ứng nghiệm, "Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta" (Gioan 6:45)... "Ai tin thì sống đời đời" (Gn. 6:47). Câu nói vậy nhưng không phải vậy! Nói rằng tin nhưng không hiểu tin là gì cũng chỉ là mù tối...!
Đức Kitô rao giảng Tin Mừng và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta; vậy "Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:20-21) có ý nghĩa gì mà lại có những câu nghe đầy vẻ lạ kỳ: "Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng" (Mc. 1:15); gần bên mang nghĩa gì? Tại sao lại nói "... Còn các ngươi thì bị đuổi ra bên ngoài. Và người ta sẽ từ phương Đông phương Tây, từ phương Bắc phương Nam mà đến và được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Và này có những người cuối hết sẽ nên đầu hết, và có những kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết" (Lc. 13:29-30)? Tại sao "Quân thu thuế, lũ đàng điếm qua trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa (Mt. 21:31)? Tại sao Nước Thiên Chúa lại được ví như sự lớn lên của hạt cải (Lc. 13:19) hoặc men dậy bột (Lc. 13:21) hoặc những hạt giống (Mt. 13:18-23; Lc. 8:11-15)? Tại sao "Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có được vào nước Trời" (Mt. 19:24; Mc. 10:25; Lc. 18:25)? Cứ theo những kiểu nói này, Nước Thiên Chúa đã bao lâu nay bị hiểu lầm là thiên đàng, nơi chốn ước mơ của những lối nhìn thế tục... Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Nước Thiên Chúa ở trong các ông, tất nhiên, sự vào ra, trước sau phải là sự nhận biết hay không! Phỏng đây là trạng thái sự nhận biết, thức ngộ? Lý do gì khiến con người không nhận biết? Đức Kitô nói với các vị thượng tế và hàng niên trưởng, "Quân thu thuế, lũ đàng điếm qua trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa;" Ngài nói về một thực thể đối nghịch với quan niệm luân lý... Dám đem quân thu thuế và lũ đàng điếm, hạng người ai cũng khinh bỉ vào thời đó mà so sánh với các thượng tế và niên trưởng, những người được coi là đạo đức, gương mẫu, và cầm cân nảy mực cho dân chúng... như vậy, Đức Kitô không thèm đếm xỉa gì tới thứ đạo đức theo khuôn mẫu thế tục! Phỏng quân thu thuế và lũ đàng điếm qua trước những người được trọng vọng nơi dân chúng vì những người này lệ thuộc tổ chức thế tục không chấp nhận những điều Ngài rao giảng? Tại sao họ không chấp nhận? Họ có cả một truyền thống, luật lệ vững chắc làm khuôn mẫu từ bao đời trước để lại; chính những truyền thống, tập tục, và quan niệm tạo thành căn bản nhận thức đã khiến họ mù lòa đối với Tin Mừng Đức Kitô rao giảng. Câu trả lời khiến cha Hoàng cảm thấy khó nghĩ. Mình thì sao? Hèn chi hai ngàn năm trôi qua, Phúc Âm vẫn còn được coi như những bài học luân lý về Nước Trời... Hèn chi đem tin mừng cho người nghèo khó vẫn còn là một sự khó thể hiểu nổi. Có thể đây là nguyên nhân khiến người ta đã đuổi Ngài ra khỏi hội đường và định xô Ngài xuống triền núi (Lc. 4:29). Nước Thiên Chúa, sự thức ngộ tâm linh, đã bị những nhận thức, truyền thống, luân lý, quan niệm của lối nhìn thế tục che lấp. Thế nên, chẳng lạ gì, "Họ nhìn lấy nhìn để mà không thấy, họ nghe lấy nghe để mà không hiểu, kẻo họ trở lại mà được thứ tha" (Mc. 4:12; Lc. 8:10). Thứ tha hay mất những gì được coi là quí báu theo con mắt thế tục thì cũng cùng một nghĩa, cha Hoàng thầm nghĩ và cảm thấy lòng ngài chùng xuống! Thánh Thần chẳng kiên nhẫn cũng chẳng được vì nếu đập bể con đò nơi dòng sông, chắc chắn người trên đò phải lội nước!
Chương 16
Mặc dầu loài chim có đôi cánh để bay nhưng không phải vừa nở ra chim đã có thể baỵ Những bài học vỡ lòng trước khi có cơ hội làm quen với trời mây chắc chắn khiến những cánh chim bị tổn thương không ít, ấy là chưa kể đến những cánh chim chưa kịp bay bổng đã bị chú mèo hay con chồn hoang dại nào đó xơi tái. Phỏng nơi thực tại ai đã có thể đếm được bao nhiêu cánh chim chưa một lần có cơ hội lướt gió? Ai biết được bao nhiêu người sớm tỏ lộ tài năng báo hiệu một tương lai rực rỡ đã chẳng bao giờ được đếm xỉa tới? Phỏng hoa hồng nào không có gai, và thuốc nào chẳng đắng mà có thể đã tật? Nếu đem thực tại có thể nhận biết so sánh với cuộc đời một người, biết bao dữ kiện nghịch lý đôi khi được gọi phận số chẳng ngờ xảy đến, do mang tính chất huyền nhiệm nào đó, trở thành phương tiện trui luyện và cũng là cơ hội giúp con người thăng tiến hầu đạt tới sự thức ngô... Phần còn lại tùy thuộc ý thức và cõi lòng mở rộng cá nhân... thường được gọi là quyền tự do nơi mỗi người. Tuy nhiên, kinh nghiệm sống cho thấy, chết là chuyện phải đến không đáng sợ nhưng sợ chết đã gây nên biết bao nỗi thống khổ cho kiếp làm người. Hơn nữa, thực tại cuộc đời chứng minh, ngay thẳng sẽ luôn luôn bị chống đối; tôn quí không thể nào tránh khỏi những điều tiếng chê bai; đã làm bất cứ chuyện gì thì tất nhiên phải có thiếu sót, giỏi sẽ bị mưu lật bởi cản trở sự phát triển cái hèn của kẻ khác; dở lẽ thường sẽ bị khinh khi, và có danh không thoát khỏi bị lạm dụng bởi những kẻ chẳng ra gì muốn chứng tỏ cho mọi người thấy sự khôn ngoan xó bếp... Người thức ngộ cũng vậy, không thể nào tránh thoát những bài học nghịch lý cuộc đời đến với mình bởi cái vui thích của người trí làm người ngu thấy bực mình thì điều nên đối với người thức ngộ sẽ khiến kẻ còn đang u mê theo lẽ luân lý tuyệt đối cho là ngu si hoặc lý luận rởm. Ngược lại, chân lý của kẻ còn đang lệ thuộc trong vòng luẩn quẩn thế tục khiến người thức ngộ đau lòng, mà có miệng dẫu muốn nói ra cũng chẳng nói được gì, có chăng chỉ trở nên cớ cho kẻ khác vấp phạm đồng thời lại mang thêm mối tổn thương tâm tưởng. Thực tại này không lạ gì vì cho dù quyển sách có thể coi là một cái gương soi thì một con khỉ nhìn vào dĩ nhiên không thể có hình ảnh của một bậc thánh hiện lên! Hơn nữa, không ai có thể dạy bảo hoặc truyền lại cho ai sự thức ngộ bởi mỗi người phải tự mình tìm lấy. Người khác ăn mình không thể no được thì cảm nghiệm cũng thế, không mong gì ai giúp mình. Thực ra, một người khi đã thức ngộ lại vô phương diễn tả hay truyền bá cho kẻ khác. Phỏng đây cũng có thể là lý do Phúc Âm viết khó hiểu vì cần điều kiện cảm nghiệm? Không suy tư, không đặt vấn đề làm sao có thể nhận thức sự khôn ngoan và áp dụng trong cuộc đời và vì thế sẽ thấy Phúc Âm không có gì mới lạ ngoài những bài học luân lý lỗi thời, cổ hủ không thể áp dụng được bất cứ trường hợp nào nơi thực tế quá ư phức tạp, mà càng nhận thức Phúc Âm, càng thấy sống động, thì lại càng gặp nhiều bất trắc với những quan điểm luân lý một chiều chết ngắc thế tục. Như vậy nào lạ gì, thực trạng của người thức ngộ đối với cuộc đời đâu khác chi vai trò giám đốc nhà thương điên! Hơn nữa, người đã điên nào ai muốn tỉnh, do đó, giám đốc thì được chấp thuận nhưng dám làm chỉ càng thêm tội vạ!
Có tội phải vạ đã đành, không tội mang vạ lại là thành quả của sự liều lĩnh dại dột và nghịch thường đến độ dốt nát nếu nhìn theo con mắt thế tục nhưng đã được căn dặn trước... đối với những ai muốn theo thầy cho hợp câu, "Này Ta sai các ngươi đi như chiên vào giữa sói." Cảm nghiệm này chỉ có thể đến được với những ai ít nhất đã một lần thấy lòng sôi động vì lời Kinh Thánh bởi, "Lời Ta lại không bốc cháy như lửa sao? như búa đập đá tảng?" (Jer. 23:29). Hơn nữa, xưa nay đâu ai lạ chi chuyện thường tình "làm phúc phải tội;" những ý hướng tốt lành được đem ra thực hiện giữa một xã hội nhiễu nhương đầy thành kiến, dưới ảnh hưởng quá sâu đậm của quan niệm luân lý một chiều, chắc chắn phải đối diện với muôn ngàn chống đối bởi chính sự chân thật tốt lành theo Phúc Âm trở thành mối đe dọa làm lay động những lương tâm ngủ yên đã bao lâu naỵ Sự kiện tâm linh có thể ví với ánh sáng, chẳng đem lại ích lợi chi cho người mù, mà e rằng kẻ mù lòa bất chợt có thể nhìn thấy coi chừng lại bị đau đớn vì nổ mắt. Qua những lần chia sẻ thủ bản với những thành viên đã có chút tuổi trời của hội đạo binh, cha Hoàng đã bị coi như mối đe dọa có thể dẫn họ lầm đường lạc lối.
- Xưa nay chúng ta đã được dạy dỗ tin vào Chúa, tin vào Đức Kitô nhưng không ai để ý đến tin là thế nào, có đức tin là có điều gì... mà thường chúng ta chỉ cho rằng tin vào Chúa là nghĩ có Chúa thực sự hiện hữu; tin vào Đức Kitô có nghĩa chúng ta nghĩ và chấp nhận sự thật đã xảy ra và đó là Đức Kitô đã có thời gian sống nơi quả địa cầu này, Ngài rao giảng Tin Mừng, đã chết và đã sống lại. Qúi ông bà thử đặt vấn đề, nếu mình không cho rằng Thiên Chúa hiện hữu, chẳng lẽ vì mình không tin mà Ngài biến mất và như thế cả vũ trụ này cũng tiêu ma theo sao? Phỏng như thế có phải nói tin có Thiên Chúa hiện hữu vì mình sợ bị tiêu tan cuộc sống này! Nghĩ rằng có Thiên Chúa hiện hữu hay không hoặc có Đức Kitô thật sự đã sống nơi địa cầu hai ngàn năm trước hay không chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì lạ xảy ra... Như vậy, nói rằng tin hoặc không tin vào Chúa, vào Đức Kitô thì cũng thế thôi; do đó đức tin phải là sự gì khác với ý niệm chúng ta đã quen chấp nhận xưa nay...
- Thưa cha, nếu cha nói tin hay không cũng thế thì theo đạo làm gì? Giáo hội dạy rằng Đức Kitô xuống thế chuộc tội cho mọi người; ai tin thì được cứu rỗi; ai không tin sẽ bị luận phạt trong ngày sau hết... mà bây giờ cha nói vậy thì chẳng lẽ bao lâu nay Giáo Hội đã dạy dỗ sai lầm?... Mà quyền hành của Giáo Hội là do Đức Kitô ban cho thánh Phêrô và các giáo hoàng kế vị rồi truyền cho các giám mục, các linh mục... Con xin lỗi cha, lần đầu tiên trong cuộc đời hơn bẩy mươi năm theo đạo con nghe thấy cha nói thế là một...
Cha Hoàng cảm thấy sững sờ! Mình nói một đàng họ hiểu sang một nẻo. Mình muốn đặt vấn đề để họ suy nghĩ đưa đến nhận thức; họ khư khư bám vào lý luận Giáo Hội dạy. Khốn khổ! Nếu đã có Chúa chuộc tội thì cần gì phải ăn năn đánh tội? Nếu ăn năn đánh tội mà đạt tới sự cứu độ thì đâu cần đặt vấn đề ơn cứu độ. Ngay đức tin là gì mà không biết thì còn nói gì đến tin... Cách nào để giúp họ, dẫn họ tới nhận định về lòng tin theo Phúc Âm? Cha Hoàng thầm tính toán...
- Ông nói đúng về nguồn gốc căn bản của Giáo Hội là Đức Kitộ Vấn đề tôi đặt ra là Đức Kitô đến rao giảng những gì; Ngài là đường, là sự thật, và là sự sống; vậy con đường Ngài chỉ là con đường nào? Sự thật Ngài nói ra sao? Và sự sống thế nào? Chúng ta tin nơi Đức Kitô thì tin thế nào bởi trong Phúc Âm Ngài đã nói, "Không phải mọi kẻ nói với Ta: 'Lạy Chúa, lạy Chúá là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời" (Mt. 7:21). Vậy Nước Trời là gì? Ý Chúa là gì để chúng ta thi hành? Nơi Luca cũng có câu: "Tại sao các ngươi kêu với Ta: Lạy Chúa, lạy Chúa, mà điều Ta nói, các ngươi lại không làm?" (Lc. 6:46). Tôi khuyến khích quí ông bà nên đọc Phúc Âm để trả lời những câu hỏi này cho chính mình...
- Thưa cha, con nghĩ, Giáo Hội thay quyền Chúa Kitô để giảng dạy thì cứ tuân theo là đủ. Chúng con học hành ít làm sao có thể hiểu Phúc Âm nói gì!... Nếu nói rằng nên đọc để tìm hiểu thì chả lẽ chúng con không tin những điều Hội Thánh dạy...
Chịu thua, chịu thua, cha Hoàng thầm nghĩ. Có nói chi cũng không đem lại lợi ích gì... Họ đã hài hòa với lối sống nô lệ, bảo sao nghe vậy, thì ân huệ tự do có được ban cho chỉ trở nên những ngón đòn phản chủ. Xưa nay họ đã quen ăn cơm mớm nên bộ răng chẳng có cơ hội phát triển làm sao thưởng thức được bữa tiệc thịnh soạn với những món cao lương mỹ vị cần có thời gian nhâm nhi tiêu khiển. Họ giống như những người chỉ biết nghe mấy thầy bói đi coi voi về kể rồi lặp lại lý thuyết mơ hồ voi như thế này, như thế kia nhiều khi trái nghịch đến độ không thể chấp nhận được... Năm thầy bói rao giảng sẽ có năm chúa voi; mười thầy bói rao giảng sẽ có mười chúa voi... Lời Phúc Âm sờ sờ ra đó mà có thầy bói mù nào có thể rờ được vì Kinh Thánh không in chữ nổi... Cha Hoàng lựa lời nói cho qua, nghe chừng đâu đây vang vọng, "Vì lòng dân này đã ra chai lại, chúng đã nặng tai nghe, chúng đã nhắm mắt lại... " (Mt. 13:15).
Nhân một lần giảng cấm phòng vào cuối tuần chuẩn bị cho mùa chay nơi cộng đồng bạn, cha Hoàng đưa lên thao thức về sự nhận biết đức tin theo Phúc Âm. Một cụ già giơ tay vào thời điểm trả lời những câu thắc mắc,
- Thưa cha, theo như cha nói thì không ai có được đức tin giống như Phúc Âm đề cập tới vì đến ngay cả đức giáo hoàng cũng không thể nào thực hiện được như vậy. Xin cha cho biết cha nghĩ thế nào về hiện trạng này?
- Tôi không nghĩ gì hết bởi tôi chỉ đưa lên nhận xét theo những câu nói nơi Phúc Âm. Đây là thực trạng đã kéo dài hai ngàn năm chứ không phải mới xảy ra. Vấn đề được đặt ra là chúng ta cần có thái độ thế nào; chúng ta cần thực hiện những gì để đạt tới lòng tin như Đức Kitô rao giảng?...
- Thưa cha, như vậy là hơn sáu mươi năm theo đạo con đã chẳng có đức tin như lời cha nói... vì đến ngay giáo hoàng mà chưa thực hiện được những sự lạ lùng như Đức Kitô thì kể như chưa có đức tin... Chả lẽ hơn sáu mươi năm theo đạo của con uổng công?...
- Thực ra chẳng phải riêng ông cảm thấy như thế mà chính tôi cũng đành ngửa mặt lên trời tuyên xưng như vậy. Lời Phúc Âm còn đó, trải qua bao thế kỷ... lòng tin vẫn luôn là một thách đố cho mọi người chúng ta...
- Thưa cha, nếu cha không có đức tin thì tại sao cha đi tu làm linh mục... Một người khác bất chợt chen vào lên tiếng...
Và thế là có tin đồn loan truyền đến cả những cộng đồng Việt nơi thành phố lân cận... Cha Hoàng nói đức giáo hoàng không có đức tin... Ăn năn thì sự đã rồi... Có miệng nhưng không phương cách nào bào chữa, ngài chỉ biết âm thầm chịu đựng. Lời mình nói một đàng, họ bẻ quặt, bẻ quẹo sang một nẻo có thể vì lý do chạy trốn sự e sợ đang đày ải tâm não, hoặc lấp liếm mối bất an tâm khảm, và cũng có thể dùng những lời giảng dạy từ những người có vị thế quyền bính che lấp cõi lòng sôi động mong có được nỗi an tâm giả tạo. Chúa muốn gì? Đức Kitô muốn gì? Tại sao người ta có thể tạo dựng những điều trái nghịch với sự kiện xảy rả Hoặc họ hiểu lầm, cố ý hiểu lầm hay không dám đối diện sự thật nên kiếm lý lẽ bào chữa?
Thế nên, lòng nhiệt thành, ý hướng tốt lành chưa chắc đã giúp ích cho người khác mà có thể lại trở nên sự phiền hà cho chính mình. Mình cần đặt vấn đề thế nào, cha Hoàng tự hỏi. Tại sao khi nêu lên lòng tin theo Phúc Âm người ta cứ mượn cớ dựa trên ngôn từ "Giáo Hội dạy," bao nhiêu năm theo đạo,... chẳng những thế lại so sánh thực tại rỗng không của họ với sự nhận định riêng tư về người khác? Phỏng tại mình đã không biết cách lựa lời dẫn dắt, hoặc khuyến khích họ tự gây ý thức hướng dẫn sự tìm hiểu? Nhưng tại sao phải khuyến khích nếu họ đã không muốn? Làm sao có thể dùng lối nói luân lý hoặc tâm lý xã hội một chiều diễn tả sự khôn ngoan nơi Phúc Âm vì lối nhìn này xưa nay được áp dụng diễn giải Phúc Âm đã tạo nên muôn ngàn bế tắc không phương giải quyết để rồi cuối cùng phải o ép gán cho Thiên Chúa những đặc tính do chính sản phẩm thiếu sót được tạo nên từ đầu óc nặng nề thị dục; Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ; cầu nguyện xin Chúa ban cho gia đình êm ấm! Sống vô ý thức thì ấm sắt cũng bể chứ nói gì đến êm!... Phỏng đặt vấn đề khuyến dụ đã tự chất chứa sự nghi ngờ nên cần được người khác xác nhận bởi còn e ngại sai lầm hay thiếu sót? Cha Hoàng đặt câu hỏi mong có nhận định xác thực những dữ kiện đã xảy ra hầu tìm phương cách thích ứng. Không thể được, ngài thầm nghĩ, không thể nào diễn giải cảm nghiệm vì muốn chia sẻ, người nghe cần được chuẩn bị, cần có được một số điều kiện ý thức cũng như kiến thức và điểm đặc biệt nhất phải là lòng thực sự khao khát được thể hiện bằng sự chân thành tìm hiểu... Người ta có muốn tìm hiểu chi đâu mà chỉ bám víu vào những câu nói "được dạy dỗ thế này, tin thế kia, phải theo luật này, giữ điều kia... " Hình như tâm tưởng con người được nhất loạt đồng hóa để trở nên thùng rác vô tri tiện bề đổ vào đó những kiến thức như kết quả suy luận của một số nhà chuyên môn dễ bề thống trị tư tưởng. Những tiên tri rờ voi dùng cột nhà, cái trống, quạt mo, diễn tả nhận thức suy luận của mình đã có thể đoan chắc lời họ nói đối với một số kẻ muốn có sự bám víu dễ mường tượng hầu được nếm hương vị an bình giả tưởng thay thế nỗi bứt rứt do sự hối thúc của khát vọng tâm linh. Không có phương cách nào khuyến dụ những chiếc máy thâu băng tự tạo tiếng nói riêng của nó; chẳng hy vọng gì dạy dỗ những con khỉ trở thành nhạc sĩ; nếu cây chua đã không sinh được trái ngọt thì dẫu lấy đường làm phân bón, trái nó vẫn chua... Nghĩ đến đây cha Hoàng nhớ lại thời còn ở nhà trường ngài đã có lần lãnh một chiếc mỏ lết to tổ bố cũng chỉ vì dám viết những suy nghĩ, nhận thức cá nhân thay vì tìm tòi ghi chép lại những suy luận giáo điều nơi một bài viết cuối khóa học... Khi những bánh xe răng cưa đang vận chuyển hòa hợp nơi một hệ thống máy móc, bất cứ gì lọt vô đều bị nghiền nát... Có lẽ Thánh Thần phải đợi cho đến khi nào những răng cưa của bộ máy giáo điều bị mòn hết mới hy vọng có cơ hội đổi mới... hoặc muốn nhìn thấy bầu trời vô tận chỉ còn cách bước ra khỏi cửa, nếu không, phải phá huỷ tan tành mái nhà che lấp trên đầu... Càng đắm mình nơi tâm tưởng, cha Hoàng càng cảm nhận câu: "Hãy biết thương xót như Cha các ngươi là Đấng thương xót." Thương xót, thương xót, lời Kinh Thánh đẩy kẻ cảm nghiệm vào những con đường cùng. Làm sao có thể nhẫn nại đối diện với xót thương trong khi thực trạng sôi bỏng đang hoành hành thúc dục: "Người đã dụ dỗ tôi, lạy Yavê, và tôi đã để mình bị dụ. Người đã uy hiếp tôi và đã thắng: suốt ngày tôi đã nên trò cười, cả lũ chúng nhạo báng tôi... Tôi những tự nhủ: tôi sẽ không nghĩ đến nữa, tôi sẽ không nói nhân danh Người nữa! Nhưng nơi lòng tôi như lửa bừng bừng, bị dồn ép trong xương cốt tôi. Tôi hết sức nén lại, nhưng không tài nào nén được... " (Jer. 20: 7-9). Không thế mà Đức Kitô đã phải tiên báo: "Hãy coi chừng người đời; họ sẽ nộp các ngươi cho công nghi... Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua chúa... " (Mt. 10:17-18).
Càng đối diện với những lẩm cẩm phiền hà xảy đến nơi thực tại dân Chúa bao nhiêu, cha Hoàng càng cảm thấy mối đau lòng dâng cao bấy nhiêu! Tại sao đã bao nhiêu năm lời Phúc Âm vẫn bị che lấp, quyền lực lòng tin hãy còn chưa được nhận diện? Lý do gì Nước Thiên Chúa vẫn chỉ được coi như chốn ước mơ hầu tránh thoát đối diện với thực tại lắm phiền hà thế tục? Nguyên nhân nào khiến Tin Mừng Đức Kitô đem đến không mảy may tỏ lộ mà có chăng tất cả Phúc Âm đều bị nhận định dưới quan điểm luân lý, tâm lý xã hội? Phỏng mục đích của Phúc Âm chỉ để xoa dịu phần nào thống khổ nhân sinh?... Dẫu cho xoa dịu cách mấy thì nỗi thống khổ con người vẫn còn đó thế nên chỉ có thể nói Tin Mừng đã và đang được mơ tưởng loan báo từ bao lâu nay! Làm sao có thể mở miệng nói với người đang bị con bệnh hoành hành đồng thời lại bị dằn vặt nơi tâm tưởng vì mọi người thân cố tình bỏ rơi khi cần sự giúp đỡ...
- Thưa cha, con không biết Chúa muốn cho con thế nào, hay con đã phạm những tội lỗi gì để đến nỗi bây giờ phải chịu đau đớn như thế này. Mẹ con già yếu không ai trông nom; mấy người em thì ai cũng trốn tránh...
Cha Hoàng đứng như trời trồng nghe người đàn bà vừa sụt sùi khóc vừa kể lể. Thỉnh thoảng bà ta lại nhăn mặt vì cử động lau nước mắt vô tình ảnh hưởng đến vết mổ xương sống mới được ít tuần lễ không đem lại triệu chứng biến chuyển khá hơn. Tuần trước tới thăm, bà ta cho biết những công lao, tiền của giúp cho người em trai đã trở thành mối khổ tâm đổ ngược lên đầu khi những chuyện bất hòa xảy đến cũng chỉ vì nghi kỵ và lòng tham của mấy em lúc người mẹ quyết định bán nhà... Con người thời nào không thế, muốn giữ được lòng yêu thương tốt lành hãy nên sống xa nhau bởi chẳng lạ gì, "Năng mưa thời tốt lúa đường, năng đi năng lại coi thường nhau rạ" Những đứa con ở xa, giỏi lắm một năm vài lần gọi điện thoại thăm hỏi, vài ba câu chuyện nói cho qua, vài lời thân thiết từ phương xa ngàn dặm nào ai không dễ dàng tỏ lộ bởi những chuyện lẩm cẩm lỉnh kỉnh thuận mình nhưng gai người xảy ra thường ngày kẻ ở phương xa đâu phải chịu đựng, ấy là chưa nói đến chuyện gọi điện thoại "collect" thăm mẹ và tán hươu tán vượn hằng giờ, quên bẵng hoặc chủ đích quên vì mình không phải trả tiền, đôi khi còn tỏ ý ghen tị vì nghĩ rằng tiền của mẹ đổ hết vào túi người chị. Mấy em chia nhau tứ tán tiềm mẹ bán nhà vì người chị cả mua nhà đã từ lâu nên nhường hết cho các em còn đang túng thiếu phải đi ở thuệ Nhưng đến lúc chị chẳng may bị đau, chính mình còn không tự lo thì nói chi đến giúp mẹ, thế là đứa này xúi, đứa kia đẩy mẹ vào nhà dưỡng lão với đầy đủ lý do nguy hại cho mẹ nếu ở nhà mình. Mấy viên gạch tráng men khu làm bếp quá trơn trượt lỡ mẹ già rồi đi không vững té thì khổ... để khi nào thay nền nhựa mẹ về nhà em tiện hơn... và đã gần ba năm gạch tráng men vẫn sờ sờ ra đấy. Đứa ở Florida cả hai vợ chồng đi làm không ai ở nhà chăm sóc cho mẹ, lỡ có chuyện gì lấy ai kêu xe cấp cứu...
- Bây giờ bà cụ đang ở đâu?
- Mẹ con đang ở nơi viện dưỡng lão "Samaritan House," chỉ có một mình không ai giúp đỡ những khi cần thiết. Mấy lần con gọi điện thoại mẹ con có vẻ buồn lắm... rồi còn nghe đứa em bảo mọi chuyện đều lỗi tại con...
- Bà cụ tên gì?
- Natalie Hesse... Mẹ con năm nay tám mươi mốt tuổi, hơi lẩm cẩm và đi lại phải dùng gậy chống đỡ...
Cha Hoàng đâu lạ gì Samaritan House vì ngài thường ghé qua hàng tuần thăm những người già Công Giáo, có y tá, có người làm việc thường trực và thêm một số người đã có tuổi khỏe mạnh tình nguyện giúp những công việc vặt thường nhật. Ngài gặp bà cụ mấy lần, thấy cụ có vẻ an vui với nếp sống mới, mỗi người một phòng, dẫu có nhà ăn chung mà mỗi phòng vẫn có bếp riêng để tiện việc nấu nướng những món hợp khẩu nếu thích...
- Bà cụ mới vô đó được năm tuần rồi phải không...
- Sao cha biết?
- Tôi ghé đó hàng tuần và vẫn thường gặp bà cụ. Coi bộ cụ thích nghi ở đó lắm mà...
- Nhưng con sợ mẹ con buồn... Chẳng biết chừng nào con mới có thể đón mẹ con về... Hơn nữa, hôm qua đi bệnh viện, bác sĩ chụp hình nói xương nơi vết mổ vẫn chưa có gì biến chuyển nên phải thay thuốc khác... Bác sĩ còn bảo con sẽ phải nằm liệt giường ít nhất sáu tháng cho xương có thời gian mọc thêm, nhưng nếu không gì biến chuyển thì chẳng hiểu đến bao giờ vì đã có những người sau khi mổ trở nên bất toại... Bà ta lại sụt sùi, lại lau nước mắt, và lại nhăn mặt bởi cử điệu tác động tạo cơn đau... Một thân một mình lo cho bốn đứa nhỏ, con phải đi làm hai việc, nào dám bám víu hay nương tựa vào ai, thế mà giờ đây mẹ con nghe chúng nó đổ hết lỗi lên đầu con... Tiền bạc có chút đỉnh, đứa này vay mượn, đứa kia nhờ vả đứng tên mua nhà, mua tàu, rồi làm ăn thất bại để đến giờ liên hệ cả đến tiền trả nhà thương của con... Tại sao con phải chịu những điều tiếng này... Mấy đứa em con đã không biết lo lắng gì cho mẹ, chẳng nghĩ chi tới tình ruột thịt, chỉ biết lạm dụng lại còn nói lên điều ong tiếng ve làm cho con khốn khổ...
- Có phải họ cố tình bày chuyện để khỏi phải lo cho bà cụ cũng như xí xóa món nợ không muốn trả...
- Con cũng nghĩ vậy nhưng có đặt vấn đề gì đâu, mà sao cứ đứa này xúi mẹ con một câu, đứa khác một câu làm mẹ con buồn con... Cha xem, khi mẹ con ở đây, con đi làm hai việc, chúng nó đến, bao nhiêu đồ ăn thức uống mua dự trữ cho cả tuần lễ, mới chỉ một buổi tối đã bị tàn phá tiêu tan. Nấu món này không thích, chúng bỏ, lôi đồ khác ra ăn một cách phí phạm không nghĩ gì đến lý do tại sao có thực phẩm trong tủ lạnh. Ăn xong còn bày ra đấy coi như đã có mẹ con dọn dẹp... Mười giờ tối đi làm về, nhà con giống như một bãi rác hoang, chỗ này ly nước bỏ dở, chỗ kia bánh mì văng vãi, bàn ăn ngập ngụa đồ thừa và đĩa, dao dơ bẩn... Con ăn vội vài miếng lấy sức vì mệt quá rồi lại dọn dẹp mãi tới nửa đêm mới bước lên giường. Sáng tinh mơ hôm sau con đã phải chạy vội ra tiệm mua bánh mì, thịt nguội, và trứng về chiên cho mấy cháu ăn và mang đi học... Hình như tất cả những sự chịu đựng và lòng tốt con đã làm trở thành sự khốn khó cho con bây giờ...
- Bà nói đúng, chúng ta chỉ bị khốn khổ vì những điều tốt lành mình thực hiện bởi điều chẳng ra gì nào ai biết đấy là đâu, còn những điều tốt lành, ý muốn hướng thượng, đem ra thực hiện, tốt lành cho người này lại trở nên phiền hà cho kẻ khác. Nhất là thời buổi lấy tiền của làm tiêu chuẩn, bất cứ trường hợp nào đụng đến tiền bạc, con người dễ bị mù quáng lương tâm... Miễn sao cho có tiền nên người ta đã không từ chối một hành động tai hại nào để có được tiền... Tôi nghĩ, có thể bà cụ khi còn ở với bà, mấy người em tưởng tiền già của bà cụ được nhiều lắm. Nên từ bây giờ, vì bà cụ Ở nhà dưỡng lão chắc không ai làm phiền bà nữa đâu; hơn nữa, bệnh hoạn như thế này ai cũng sợ bị nhờ vả do đó họ tránh mặt là chuyện dĩ nhiên...
- Nhưng con có bao giờ nghĩ đến nhờ đứa nào giúp chi đâu mà chỉ có chúng nhờ con từ xưa tới nay...
- Đó là điều tốt lành bà đã thực hiện; tuy nhiên, có thể sự tốt lành ấy đã trở thành cơ hội cho họ lạm dụng. Tốt hay xấu tùy thuộc sự xử dụng của con người; thế nên, cũng cùng một sự kiện mà đối với người này thì thánh thiện, người khác độc ác. Bà thấy rõ, khi còn nhờ vả được, thái độ đối xử của họ đối với bà coi bộ tử tế, nhưng cũng con người đó giờ trở thành vô ơn vì e sợ bị phiền lụy. Bởi vậy, tôi nhận thấy nếu bà cứ để tâm nơi những sự phiền hà ấy thì xương bị mổ rất khó có thể chữa lành... do tâm trí, ý định của bà còn đang vướng bận nơi những chuyện chẳng ra gì chỉ làm bà thêm bực mình. Hiện giờ bà cụ đã có nơi ăn chốn ở dễ chịu và có người chăm sóc đầy đủ theo như tôi được biết vì nhà hưu dưỡng rất gần nhà thờ tôi làm việc. Những người em của bà không ghé qua hoặc không gọi điện thoại thăm hỏi có thể là điều tốt để bà có thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi cho tâm trí thảnh thơi. Họ không hỏi thăm mình khỏi phải nghĩ tới ơn huệ, mà còn tránh được những điều bực mình có khi vì lời nói vô tình... Nếu bà nghĩ tới họ nhiều quá thì chính bà tạo sự phiền não cho bà mà thôi.
- Làm sao mà không nghĩ đến họ được...
- Tôi xin ngắt lời bà. Bà có nhớ cách đây hơn hai năm có hai trận động đất kinh khủng ở California và Nhật Bản không?
- Con nhớ, có một lần con đang ở sở và mọi người đều xôn xao.
- Vậy hai trận động đất ấy có ảnh hưởng gì tới bà không? Có làm bà phiền não mất ăn mất ngủ chi không?
- Không, chỉ thấy kinh khủng quá!
- Bà thấy không, những trận động đất phá hủy bao nhiêu công trình, tổn ải bạc tỉ và làm chết khá nhiều người nhưng không ảnh hưởng chi tới bà chỉ vì bà không cho phép sự kinh khủng ấy ảnh hưởng tới mình. Đàng này, chỉ vài lời nói khiến bà buồn bực làm nguy hại cả tới vết mổ...
- Cha không nói con không để ý. Đúng vậy, con đã để những lời nói của mấy người em và mẹ con làm phiền đến buồn bực... Nhưng con phải làm sao bây giờ.
- Cầu nguyện và xin Chúa chúc lành cho họ, ban cho họ có cuộc sống an vui để khỏi làm phiền mình... Nhưng điều quan trọng nhất là bà phải chữa lành chính mình.
- Chữa làm sao con đâu biết!
- Có phải bây giờ bà cảm thấy rất khó chịu vì không thể làm được những gì bà muốn, nhất là không lo được cho chính mình.
- Vâng, con nản dễ sợ vì nằm yên một chỗ không quen khó chịu lắm.
- Đây là thời gian để bà nghỉ ngơi... Cả đời làm lụng vất vả quên cả thân mình... nên bà đã không nhận ra phải yêu thương mình trước hết. Sự kiện xảy đến để bắt bà phải nghỉ... Hơn nữa, muốn cho vết mổ mau lành, bà cần biết dùng đức tin để chữa nó lành. Tất cả các phương thuốc và sự nghỉ ngơi chỉ có mục đích giúp cơ thể điều hòa bình thường để tự nó chữa lành những vết thương vì quyền lực chữa lành là quyền lực của sự hiện hữu chứ không phải ở thuốc men...
- Con cầu nguyện mà có thấy gì đâu...
- Bà có biết đức tin là gì và cầu nguyện là gì không?
- Thì con tin là có Chúa giúp...
- Bà có bao giờ đọc Kinh Thánh không?
- Có, con hay đọc vào cuối tuần và đi nhà thờ đâu có bỏ bao giờ.
- Bà có nhớ trong Phúc Âm có những câu: "Đức tin con cứu con; đức tin con chữa con; đức tin con là ơn cứu độ của con" không?
- Con biết, có những câu đó.
- Quyền lực khiến con tim của bà hoạt động liên tục, lá phổi thở ngay cả khi ngủ, là quyền lực của Chúa ở nơi bà. Đây cũng được gọi là quyền lực của sự hiện hữu. Chính quyền lực Thiên Chúa đang làm việc nơi cuộc sống của bà từng giây từng phút ngay cả nơi ý nghĩ, ý định. Như vậy, quyền lực của ý định, ước muốn con người được gọi là lòng tin và đó là lý do tại sao Phúc Âm viết lòng tin con chữa con, cứu con. Thế nên, bà muốn mau khỏi, hãy ra lệnh cho xương sống của bà mau lành thì nó sẽ mau lành. Không cần biết lý do lành để làm gì, bà phải bảo nó lành thì nó sẽ lành... Đây là phương pháp dùng lòng tin chữa bệnh... vì Phúc Âm có nói: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:23-24). Vấn đề chỉ là bà có thực sự nghĩ rằng điều bà muốn xảy đến hay không mà thôi. Đó cũng là lý do tôi nói bà hãy ra lệnh cho nó lành thì nó sẽ mau lành...
- Đau bệnh như con thì ai không muốn lành, nhưng mà còn tùy ý Chúa chứ...
- Điều đó tùy bà, và tùy thuộc đức tin của bà... Tôi chỉ thấy Phúc Âm nói sao thì lặp lại làm vậy...
Đức tin của con dân Chúa như thế đấy, cha Hoàng ngậm ngùi thầm nghĩ mà lòng sôi sục, hèn chi Đức Kitô đã phải than lên: "Ôi! Thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ ở với các ngươi, và phải chịu đựng các ngươi?" Mục đích của Ngài đến trần gian để rao giảng Tin Mừng, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, mà con dân Ngài chỉ được nghe giảng về tội, về ngày phán xét, về luân lý, về hỏa ngục... Đã bao nhiêu năm rộng tháng dài câu Thánh Vịnh "Này trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi khi mới là thai bụng mẹ" (Tv. 51:7) gây nên những trọng tội làm khốn khổ dân Ngài? Đã bao nhiêu người tin rằng tội lỗi tác thành nên sự hiện hữu xác thân, chấp nhận cuộc sống khem khổ, hằng ngày lấy dây thừng thắt nút quật vào mình bắn cả máu ra để đền tội... Người ta đã muốn trở nên thánh do đó biến thành dã thú với chính họ cũng chỉ vì quan niệm tội lỗi tạo dựng nên con người. Hai mươi thế kỷ gần qua, lời Kinh Thánh vẫn như hét vào tai: "Thiên Chúa tạo dựng người theo hình ảnh mình" (Kn. 1:27) mà người ta cứ gầm thét "trong tà ác tôi đã sinh rạ" Tội lỗi, nhận định lầm lạc của con người, làm sao có quyền lực tạo dựng sự hiện hữu, và nếu được sinh ra trong tà ác thì đâu phải trách nhiệm của mình. Phỏng nói rằng trong tà ác tôi được sinh ra thì tà ác có thể là cội nguồn của sự hiện hữu... Như thế có lẽ phải nói chính điều mình cho rằng được sinh ra trong tội là nguồn gốc mọi sự tội! Cội nguồn mọi sự hiện hữu được gọi là Thiên Chúa, Thượng Đế... và đó là quyền lực thánh thiện. Sự hiện hữu của con người chỉ được phát sinh từ sự thánh thiện này và như vậy mới có thể trở nên toàn thiện giống Thiên Chúa. Đức Kitô nói sao về người mù từ thuở mới sinh khi các môn đồ hỏi ngài do tội ai, "Chẳng phải tội nó hay cha mẹ nó phạm, song để nơi nó, công việc Thiên Chúa được hiện tỏ" (Gioan 9:3). Như vậy, chúng tôi theo Chúa hay theo tổ chức tôn giáo? Chúng tôi muốn được hiểu lời rao giảng của Đức Kitô hay chỉ kiếm cách bám lấy bè phái? Tội lỗi của người trần mắt thịt này sao có thể lớn lao hơn tội nguyên tổ mà ông bà nguyên tổ cũng chỉ được phạt bằng cách bị quăng xuống mặt trái đất này làm người hữu hình, sinh con đẻ cái là chúng tôi... Chúng tôi hô hào, chúng tôi tuyên xưng Đức Kitô chết cho con người, chết vì tội lỗi con người nhưng chúng tôi không chấp nhận những gì Ngài rao giảng... không cần biết Phúc Âm nói gì, không chấp nhận vì lời của Ngài nghịch ý chúng tôi, lời của Ngài không hợp với lề lối chúng tôi đặt ra, không đem lại cho chúng tôi oai vọng, dẫu chúng tôi vẫn tuyên xưng tin vào Ngài... và thay vì máy thâu băng, chúng tôi tuyên xưng bằng mồm... cho giống với những kẻ khác... Nếu chúng tôi thực sự nhận ra mình là dân Pharisiêu... Cha Hoàng chợt tỉnh, người đàn bà bệnh hoạn vẫn tiếp tục nói, ngài tỉnh vì ý nghĩ mình là dân Pharisiêu...
Nhà thờ rộng lớn nhưng bên trong thật vắng lặng ngược hẳn với khung cảnh cành lá xào xạc, cát bay, sóng vỗ, bên ngoài do những làn gió biển lồng lộng thổi vào đất liền phảng phất đem theo mùi nước mặn. Những làn gió vô hình về khuya áng chừng muốn dùng cơ hội mọi người đã yên giấc phô bày quyền lực từ khoảng mênh mông nơi đại dương tạo thành chuyển động âm thầm đàn áp kỳ công cả thể của con người. Ngôi thánh đường mang vẻ ngậm ngùi dường như cố thu mình cho hòa nhập với khung cảnh bao la của trời mây, sóng nước, đang vần vũ dưới ánh trăng lung linh mờ ảo. Thật nhỏ, nếu so với dáng dấp của ngôi thánh đường về đêm, cha Hoàng ngồi thinh lặng như bức tượng gỗ nơi đầu một dãy ghế dài, mắt khép hờ, cố định thần đàn áp cơn bão nội tâm. Ngài ngồi đó đã hơn một tiếng đồng hồ, thỉnh thoảng lại cố nén tiếng thở dài... Có lẽ, cơn bão bên trong con người nhỏ bé ấy mang sức mạnh gấp bao nhiêu lần những làn gió biển tràn vào từ khoảng xa thẳm đại dương... Vâng, ngài đang phải làm trọng tài cho trận chiến giữa hai đối thủ, lòng nhiệt thành được hun đúc bởi quyền lực lòng tin từ Phúc Âm, và thực tại nhận thức đức tin mập mờ nơi dân Chúa được khởi đầu bởi ý nghĩ mình là dân Pharisiêu khi thăm người bệnh ban chiều... Lời Phúc Âm dội về từ tâm tưởng khiến ngài không rét mà run: "Khốn cho các ngươi, luật sĩ, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết! Chính các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại ngăn cản" (Lc. 11:52).
Tại sao luật sĩ có thể cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết?... Vì họ có quyền, có địa vị hướng dẫn. Cất đi là thế nào? Điều gì có thể che lấp hiểu biết?... Luật sĩ, Pharisiêu, có truyền thống lâu đời; họ có luật lệ phong tỏa và ngăn cấm cũng như đe dọa những người theo Do Thái Giáo. Họ giảng dạy theo khuôn mẫu đã được định sẵn... Mình thì sao? Đã bao nhiêu kiếp người câu nói "Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ" thống trị tâm não dân Chúa? Điều đúng của Galiléo phải những bao nhiêu năm mới được chấp nhận? Tại sao phải chờ đợi lâu như thế?... Phỏng vì e ngại những thành phần đa số lắm thế lực chống đối, lên án, nên đành ngậm miệng cho qua bởi nếu nói không giống những người khác sẽ bị tước mất vị thế họ đã ban chỏ Phỏng những câu nói bên ngoài có quyền lực đàn áp khiến con người trở thành hèn nhát không dám xử dụng hồng ân hiện hữu được thể hiện bằng lý trí và cảm nghiệm? Phỏng đã không ai dám nghiệm xét mọi sự? Phỏng con người cố bám víu vào những cặn bã đã được thải ra vì sợ mình không là gì nên hùa theo cho trở thành cái gì? Tại sao những điều luật ở sách Nhị Luật có giá trị liên thành với dân Do Thái ngày xưa mà nay không được chấp nhận? Những kiến thức cả trăm năm trước, đã đi vào quá khứ, đã chết, phỏng không cần được nghiệm xét lại? Đức Kitô có ý gì khi nói, "Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa" (Lc. 9:61-62)?
Chương 17
Phải áp dụng phương cách nào khi dân Chúa đã bị tiêm nhiễm quá nặng nề một đức tin mường tưởng đến nỗi không dám suy nghĩ bởi e sợ sai lầm... Tại sao họ e sợ sai lầm? Vì họ không dám suy nghĩ? Tại sao không dám suy nghĩ? Phỏng tại không có cơ hội nghe giảng dạy về Phúc Âm hoặc chỉ được nghe những điều phải thế nọ, phải thế kiả Con người không dám nghiệm xét mang điều lạ, và đó là khi những tấm gương hào hùng được truyền bá thì tư tưởng hào hùng thống trị lối sống của họ, và khi những điều chẳng ra gì được huênh hoang rao giảng, chắc chắn ai nấy đều lấy những điều không nên làm căn bản suy tự Đàng hiểu biết bị che mờ, lòng tin bị khuất lấp, thần khí bị dập tắt, ơn tiên tri bị coi thường chỉ vì kiến thức kinh viện đã chết tự ngàn đời đang làm chủ hệ thống tư duy, ám ảnh tâm tư thay cho nghiệm xét trong khi hình phạt và sự đe dọa được rêu rao. Thuyết giáo đâu phải sự dọn cỗ sẵn, hoặc mớm cơm cho kẻ khác ăn bởi dù cỗ ngon mấy thì cũng có những món thực khách không thể nuốt bởi nhiều lý dọ Thế nên, thuyết giáo cần được đóng vai trò khuyến khích tìm hiểu, khích lệ đặt lại vấn đề, chẳng khác gì đỡ đẻ cho nghiệm chứng và nhận xét hoạt động vì nhồi nhét vào tâm não người khác quan niệm của mình về Thiên Chúa mà không giúp họ có cơ hội cảm nghiệm thì chẳng khác gì đã giết chết Thượng Đế và đức tin nơi lòng họ, một lối ám ảnh biến Chúa thành tà thần nơi tâm não kẻ ngay lành. Điều này chẳng có chi lạ bởi những lối giải thích, diễn tả theo quan niệm thế tục, dùng những gì có thể mắt thấy tai nghe của thứ luân lý tuyệt đối một chiều mà trình bày cảm nghiệm thì không khác gì người ăn được cay huênh hoang quảng cáo, rao bán những trái ớt khiến kẻ muốn tìm hiểu mới nếm thử đã bị tiêu diệt vị giác. Lẽ tất nhiên, người ta chỉ có thể dắt con lừa tới bờ suối mà chẳng ai có thể uống nước dùm nó... Cha Hoàng đối diện trận chiến mà ngẩn ngơ bởi không tìm được phương cách giải quyết... Lời Phúc Âm vọng về: "Xin sẽ được, gõ sẽ mở cho, và tìm sẽ gặp." Tuy nhiên, nếu đã tưởng tượng có đức tin rồi còn xin làm gì, tìm làm chi, và nếu đã cho rằng cửa đã mở đâu ai cần gõ... Những kiến thức mường tượng về đức tin của thế nhân đã che lấp sự tìm hiểu lòng tin nơi Kinh Thánh... Nói làm sao, nghĩ thế nào, và phương cách nào có thể áp dụng trong thuyết giáo nơi thực tại hỗn mang này?... Cha không cần giảng nhiều, chỉ vài câu cho người ta quay quắt tự tìm hiểu... Nếu bây giờ họ không hiểu thì năm năm, mười năm sau họ sẽ hiểu, chỉ cách ấy mới mong giúp họ cảm nghiệm Phúc Âm. Lời cụ bạn già đã có lần khuyên như động lực đẩy cha Hoàng đứng lên rời ghế nhà thờ không thèm đến xỉa gì tới chiến trận chưa tới hồi ngã ngũ... bởi ngài biết, cho dù cố gắng đến mấy, khi chưa tới thời điểm cũng không thể có được giải đáp nào tạm ổn.
Suy nghĩ, đặt vấn đề vì lòng nhiệt thành mong muốn có được đường lối thực nghiệm khả dĩ hòa hợp với thực tế và nhận định thì dễ; đem áp dụng suy tư và cảm nghiệm nơi thực tại gom tóm bởi nhiều tầng lớp ý thức dân Chúa nào ai dám xác quyết phương pháp này hoặc hình thức kia mới có thể hay không có thể. Có lẽ cũng chính vì muốn tránh phải đối diện thực trạng thăng tiến tâm linh phức tạp tùy thuộc mỗi người nên đường lối khuôn mẫu hóa tâm tưởng đã được phát minh và đồng thời cũng chính ước muốn kiến tạo tâm thức căn bản giống nhau mà những kiểu mẫu giải thích đã phải dựa trên quan niệm luân lý hầu mong thăng tiến ít nhất căn bản chuẩn bị cho tiến trình tâm linh phát triển. Dĩ nhiên, nếu không sống vượt lên khỏi những điều kiện luân lý tối thiểu, đường vào tâm linh vẫn còn xa diệu vợi. Ngược lại, nếu hành trình tâm linh chỉ được coi như phương cách dẫn dắt con người trở nên toàn hảo trong giới hạn luân lý, chính giới hạn thấp kém này đẩy con người vào những ngã rẽ thị dục không cách nào thoát ra được...
Từ khi phong trào Thánh Linh được phát động ở vài địa phận phụ cận, một số anh chị em được gửi đi dự khóa học hỏi... Trở về, lúc mới đầu và vài tháng kế tiếp, mọi người tham dự khóa học đều sốt sắng chứng tỏ lòng nhiệt thành khá cao. Kẻ đề nghị nên thế này, người cho rằng phải tổ chức đoàn ngũ thế kia, và cuối cùng, vài vị lão thành đã có khá nhiều kinh nghiệm đoàn thể họp nhau quyết định thuở ban đầu nên có một chương trình xây dựng đền thờ tâm hồn nơi mỗi thành viên rồi sẽ đặt vấn đề đoàn ngũ hóa sau này. Họ chia ra từng nhóm sáu đến bẩy người học hỏi Phúc Âm và nhân tiện dành thời giờ cho từng người có giờ chia sẻ... Cha Hoàng lựa một nhóm tham dự mới được vài lần. Nhân một buổi họp, khi đến giờ chia sẻ anh Thông nói:
- Mặc dầu sau hơn mười tiếng đồng hồ bán hàng mỗi ngày, tôi đang tập thói quen trên đường về cố dành giờ tạt qua nhà thờ viếng Mình Thánh. Tôi cảm thấy mỗi lần bước ra khỏi nhà nguyện, lòng tôi thơ thới và thân xác như có nguồn sinh lực mới làm khoẻ khoắn hơn. Mấy đứa con tôi ngày trước lười lĩnh nhưng vì về cùng chuyến xe, chúng cũng có lòng đạo đức hơn... Đã mấy lần chúng đánh thức tôi dậy đi lễ 6:30 sáng.
- Vậy những ngày trước kia chưa ghé qua viếng Mình Thánh gia đình anh thế nào?
- Đi làm về, vợ chồng con cái ăn uống, chuẩn bị đi ngủ lấy sức cho ngày mai làm việc. Cuối tuần vợ chồng chúng tôi đôi khi xuống sòng bài... nhưng bây giờ tôi không xuống sòng bài nữa mà để giờ đi họp nhóm. Đôi khi vợ tôi tỏ vẻ hơi bất bình vì ngày xưa hai vợ chồng đi đánh bài vui vẻ mà bây giờ không ai đưa nhà tôi đi... Dẫu vậy lại đỡ tốn tiền chơi bài...
- Thế mục đích viếng Mình Thánh của anh là gì? Cha Hoàng hỏi.
- Thưa cha, để cầu nguyện cho gia đình được yên vui, hòa thuận, con cái biết vâng lời và chăm chỉ học hành, sống ngoan ngoãn hơn...
- Như vậy anh viếng Mình Thánh cho chính anh và gia đình chứ đâu phải vì kính mến Chúa... Đôi khi mình thực hiện công việc đạo đức vì lợi ích mình muốn đạt tới chứ không phải vì hành trình thăng tiến tâm linh... Cha Hoàng phân tích.
Ba tuần sau, đã có người nói đến tai ngài rằng mới chỉ mấy lần đi họp có cha Hoàng, anh Thông cảm thấy lòng mộ mến giảm đi... Nghe thế, ngài âm thầm tự hỏi, có phải vì ngài đã dám nói lên sự thật, vì thiếu hiểu biết, con người thường nhận lầm hoặc lạm dụng tâm tình tôn giáo, coi Đấng Tối Cao như quyền lực mình có thể xử dụng bằng vài câu kinh, chút thời giờ bỏ ra tưởng là thi hành việc đạo đức để đổi lấy điều mình mong muốn?... Phỏng cố gắng sống tốt lành theo quan niệm luân lý để cầu mong được phần thưởng sau này hoặc thực hiện ở hiền mong được gặp lành vẫn chỉ là lối sống theo thị dục? Anh Thông thấy lòng mộ mến giảm bớt do nhận ra đang theo đuổi thị dục, muốn gia đình có sự êm ấm nên chịu tốn phí thời giờ trong lúc mệt nhọc làm công việc đạo đức, bỏ con săn sắt bắt con cá rô, hay vì vài lời mình nói đã xóa bỏ phương tiện anh dùng để mong được người khác chiêm ngưỡng, nhận ra sự tốt lành nơi anh và gia đình? Tự đâu đó nơi tâm trí ngài gợi về điều kiện hiện thực nhắc nhở, nếu nước đã chẳng có thể sôi, dẫu đổ gạo vô nấu cũng không hòng gì có gạo luộc!
Đâu là phương pháp khả dĩ có thể giúp người khác cảm nghiệm Phúc Âm? Đâu là con đường một người cần theo vừa phù hợp lời Đức Kitô vừa đẹp lòng con người, tránh đụng chạm, và có thể thức tỉnh ý thức về thực thể thị dục hầu giúp họ thăng tiến tâm linh, kiến tạo đền thờ tâm hồn? Không ai có thể diễn giải hoặc chia sẻ hay giúp người khác có được cảm nghiệm tâm linh mà mỗi người phải tự thực hiện. Không ai có thể ăn dùm kẻ khác; ai ăn người ấy no, mà đối với những người không bao giờ ăn thịt thỏ thì sao có thể diễn giải cho họ thịt thỏ ngon thế nào!... Mình biết để làm gì? Được truyền chức linh mục để làm chỉ Đức Kitô đến và sai các môn đồ thực hiện công việc gì? Có cách nào từ từ hướng dẫn để ít nhất khuyến khích phần nào nhận thức tâm linh cho con người không? Xưa nay mọi người đã quen hiểu Phúc Âm theo lối nhìn luân lý, phải làm thế nào giúp họ có nền tảng nhận thức tâm linh khi tìm hiểu Kinh Thánh? Cha Hoàng mò mẫm thử... nơi một bữa ăn gần tàn tại nhà một người quen...
- Đối với tôi, muốn giải quyết mọi chuyện êm thắm cần phải có đức tin, phải cầu nguyện thì Chúa mới giúp cho mình sáng suốt... Không có đức tin thì chỉ có tan vỡ ông đi đường ông, bà đi đường bà, và con cái lang thang mà thôi...
Người thanh niên cỡ bốn mấy lên tiếng trong khi gắp miếng gỏi ốc vì mấy người nơi bàn ăn đang nói chuyện về sự lộn xộn của một gia đình mọi người đều biết mới xảy ra được vài hôm. Anh có tàu đánh tôm, công việc nhập nhằng mà cuộc sống vẫn tương đối dễ chịu. Anh thuộc típ người đạo đức cha truyền con nối, chẳng bao giờ làm mất lòng ai, và lòng đạo có vẻ hơi quá khích, bất cứ điều gì không giống với giáo lý đều được anh cho là nhảm nhí. Những chuyện nhà thờ, họ đạo, anh sẵn sàng hy sinh giờ giấc và tiền của đóng góp. Anh thuộc mẫu người sùng tín và được coi là giáo dân tốt lành, mẫu mực. Hình như gặp cha Hoàng hai hay ba lần, lẽ tất nhiên đối với anh, linh mục có kiểu cách như ngài phần nào được cho là quá trớn... Linh mục phải có diện mạo nghiêm trang, ăn nói chừng mực, quần áo đúng lề lối tu sĩ... Ngược lại cha Hoàng chẳng có vẻ gì để ý đến tướng tá, tư cách cũng như diện mạo của mình... thái độ lại cứ như một người chẳng chức tước gì làm mất vẻ oai của vị lãnh đạo tinh thần... Nói thì bạt mạng... nhiều khi ngang đến độ chối tai... chẳng có vẻ ông cha chút nào... cũng may anh đã biết ngài là linh mục...
- Anh nói giải quyết bằng đức tin và cầu nguyện nghĩa là như thế nào?
- Cha mà còn hỏi dùng đức tin và cầu nguyện như thế nào thì sao cha dạy cho con chiên?
- Nhân tiện câu chuyện, anh đưa ra vấn đề dùng đức tin để giải quyết việc lộn xộn nơi gia đình nên tôi muốn biết thêm vì tôi đâu bao giờ gặp cảnh khó khăn của những người có gia đình nên sao có thể biết... Đức tin với sự lộn xộn gia đình là hai vấn đề tách biệt chứ đâu phải cứ tin vào Chúa thì gia đình không lộn xộn đâu! Hơn nữa mình có đức tin mà người phối ngẫu mình không tin thì cũng không thể dùng đức tin làm điểm chung để giải quyết những vấn đề lộn xộn nơi gia đình được... Không hiểu tại sao anh này có lời nói gay gắt nên cha Hoàng e dè giải thích... Tại sao mình mới hỏi phương cách giải quyết những sự lộn xộn bằng đức tin và cầu nguyện mà anh ta lại chận họng bằng cách cho rằng cha thì phải đương nhiên dạy cho con chiên quan điểm ngu ngơ anh ta vừa đưa ra. Phỏng anh ta nói như thế vì muốn che đậy sự thiếu hiểu biết về đức tin trong khi lại muốn chứng tỏ sự khôn ngoan rởm hầu mong người khác nghĩ anh ta là người đạo đức?...
- Con chỉ muốn nói là phải có đức tin và cầu nguyện Chúa mới giúp để giải quyết những sự lộn xộn. Con thử hỏi cha, chứ nếu là người Công Giáo mà không có đức tin, không cầu nguyện thì sao có được gia đình êm ấm?
- Ý anh muốn nói đức tin như thế nào mà có thể làm gia đình êm ấm?
- Nếu cha không biết đức tin là gì tại sao cha làm linh mục?
Cha Hoàng muốn nhân cơ hội gợi ý cho anh ta đặt lại vấn đề đức tin và sự liên hệ nơi cuộc sống. Chẳng ngờ ý muốn tốt lành đã vô tình đẩy anh ta phải đối diện với vực thẳm của sự theo đạo thiếu ý thức... chỉ biết nhai lại những ngôn từ cho giống những người khác hầu chứng tỏ mình cũng tin Chúa, mình là người có đạo... đạo hùa theo, đạo a dua... Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời... Miệng cha Hoàng im tịt mà lòng dội lên niềm đau xót thương. Câu Phúc Âm xưa nay ngài cảm thấy khó hiểu chợt được gợi về phô bày ánh sáng: "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng lấy chân dày đạp và quay lại cắn xé các ngươi." Ngài thầm nghĩ, Phúc Âm nói kiểu này chỉ Chúa hiểu... Mà chẳng phải một lần như thế, lòng nhiệt thành thúc đẩy khiến ngài cố kiếm tìm phương cách khả dĩ có thể áp dụng sao cho được lòng Đức Kitô và đẹp lòng nhân thế đến nỗi quên bẵng những ngón đòn chó cùng cắn dậu nên lại cứ thử và lại bị cắn. Phỏng ý mình muốn cho người thức tỉnh hay muốn tỏ sự cả sáng của mình, bị quá nhiều lần ngài đặt lại vấn đề... và lần chót, ngài chợt nhận ra... lời Phúc Âm đã nói rõ ràng mà không chịu áp dụng, "Để kẻ chết chôn cất kẻ chết của chúng," cho đáng giá phải trả về lầm lỡ hay quên!
Lời Kinh Thánh đã bao lần nhắc nhở nhưng cha Hoàng chẳng chịu để ý... Đến khi nhận ra phận số của những kẻ đi giữa hai lằn đạn, bể đầu không biết, sứt trán chẳng hay, ấy là còn may vì chưa bị đóng đinh trên thập giá, ngài mới có thể cảm nghiệm được sự khôn ngoan quá thường đến độ dễ bị hiểu lầm do câu nói đã được sắp xếp liên hệ về tiền của nơi Phúc Âm, "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ" (Mt. 6:24; Lc. 16:13), càng cố gắng tìm kiếm con đường thứ ba sao cho vừa đẹp lòng người lại vừa hợp ý Đức Kitô thì chỉ càng vấp phạm lầm lỡ. Lẽ thường, người nhiệt thành, hăng say nhưng thiếu hiểu biết chỉ là kẻ phá hoại nếu nhận định theo quan điểm thực hiện những công việc thuộc tổ chức thế tục. Xét về phương diện tâm linh, lòng nhiệt thành, hăng say muốn làm men, làm muối, tất sẽ bị mọi người lên án, cười chê! Nào có chi lạ, Đức Kitô đã bị như thế, và Phúc Âm cũng có lời nói, "Môn đồ không lẽ hơn thầy, và tôi tớ hơn chủ" (Mt. 10:24). Ngài đã bị chế nhạo là điên dại mà môn đồ được trọng vọng, kính nể, chỉ có thể hợp với câu, "Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thế gian đã yêu dấu như của riêng nó" (Gn. 15:19). Thế rồi một hôm cha Hoàng đem tâm tình của mình nói chuyện với một cụ bạn già, cụ chợt cười lớn đầy vẻ cảm khái đoạn nói,
- Như vậy cha có thừa chứng tích để cảm nghiệm lời Kinh Thánh rồi. Hơn một năm trước, cha đã tỏ lộ lòng nhiệt thành muốn giúp người ta thức ngộ, con không dám nói chi bởi nghĩ rằng còn quá sớm... Bây giờ cha đã thấm đòn vì sự khôn ngoan Đức Giêsu đem đến nhưng chưa để ý đó thôi... Cha có nhớ câu, "Phải chi ngươi nóng hẳn hay lạnh hẳn đi! Vì ngươi hâm hẩm như thế, và chẳng nóng chẳng lạnh, thì Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng!" (K.H. 3:16). Không thể có con đường thứ ba, không thể bắt cá hai tay, mà chỉ có một trong hai, theo Đức Giêsu và chấp nhận bị coi là khùng điên như Ngài hoặc làm tôi thế gian để được yêu chuộng. Xưa nay người ta cứ khơi khơi tuyên dương công trạng "theo chân Chúa," "theo thầy," "hy sinh vì người khác," "dâng mình cho Chúa," "làm việc tông đồ," "rao giảng Nước Chúa,... " thôi thì đủ mọi danh hiệu, đủ mọi chức tước, và vô vàn những chuyện ruồi bu cả thể. Con nói cha đừng buồn vì đau lắm nhưng không biết tỏ lộ cùng ai; người ta đã dùng Chúa như món đồ rao bán kiếm lợi lộc; người ta coi Chúa như một vị thần dốt nát thèm khát lời tán tụng nên sẵn sàng ban cho họ những ý thích thế tục giết chết mầm sống tâm linh nơi họ hầu được nghe những lời lừa dối, được năn nỉ, quỵ luy... Người ta lạm dụng Chúa để đe dọa dựa trên căn bản sợ hãi của mọi người. Họ hy sinh, họ dâng mình, họ không theo thầy mà bắt thầy theo tớ như thế đó... Cha có biết quyền lực nào đang điều hành các tôn giáo không? Quyền lực sợ hãi!... Con hỏi cha, nếu kẻ nào đó không sợ chết phỏng đem cái chết ra mà đe dọa có ăn thua gì với nó không? Các cha mà không rao giảng về tội lỗi, con bảo đảm với cha, chẳng ma dại nào thèm đi nhà thờ nữa. Cha có hiểu vì sao cha muốn có con đường thứ ba không? Vì cha còn muốn được lòng thế gian, còn muốn được thế gian yêu mến! Đủ rồi, người ta mới chỉ nói không có đức tin tại sao làm linh mục chứ chưa lên án cha là rối đạo thì đã đủ chứng tỏ họ yêu mến cha lắm đó. Chắc cha nhớ câu, "Môn đồ không lẽ hơn thầy, và tôi tớ hơn chủ." Con đề nghị với cha, nhiệt thành như thế quá đủ, từ nay cha nên nhớ nằm lòng lời Đức Giêsu, "Để kẻ chết chôn cất kẻ chết của chúng." Sách Cách Ngôn có câu, "Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn, bởi nó sẽ khinh dể nét tinh tế của lời con nói" (23:9), và đồng thời cũng đề nghị, "Đừng trả lời kẻ ngu xuẩn theo sự điên dại của nó, kẻo cả con nữa, con cũng nên giống nó" (C.N. 26:4). Người thiếu ý thức tâm linh cha có biết Kinh Thánh nói sao không? Họ bị khinh thị như loài vật! Thực ra, lời khôn ngoan thoạt nghe rất chối tai lại mang đầy vẻ ích kỷ, độc ác, thế nhưng ứng nghiệm lời Phúc Âm, nếu tay ngươi, chân ngươi, mắt ngươi làm cớ ngươi vấp phạm thì chặt chúng, móc chúng vất đi... (Mt. 18:8; Mc. 9:43). Có phải cha muốn được người ta cho rằng cha giỏi, cha hay, cha thế này, cha thế kia, nào dễ mến, nào khôn ngoan không? Những khen tặng thế tục là tay chân, mắt mũi cha đó. Điều quan trọng cha đã thực hiện là học nơi Đức Giêsu, học nơi Phúc Âm nhưng chẳng nên giảng giải cho những đầu óc thế tục làm chi bởi không thể nào hòa hợp lối nhìn tâm linh và lối nhìn thế tục được. Lời Phúc Âm đã dùng những câu truyện, dụ ngôn có thể mắt thấy tai nghe để rao giảng lời khôn ngoan... Phỏng hai ngàn năm nay người ta hiểu được đến đâu hay chỉ biết lặp lại chỗ này Đức Giêsu làm phép lạ, chỗ kia Đức Giêsu chữa lành... Lâu nay hay nói chuyện với cha, con thấy cha thay đổi lạ lắm... Nhưng dù áp dụng bất cứ phương pháp, lý thuyết nào chăng nữa, cha không phải là Đức Giêsu, cha không thể và không có điều kiện hay được sinh ra để trở nên Đức Giêsu, hãy chỉ là cha, chẳng nên soi sáng cho những đầu óc mù tối vì lời khôn ngoan cũng có nói, "Như con chó trở lại đống nó vừa mửa, cũng vậy, kẻ ngu xuẩn trở về với sự điên dại của nó (C.N. 26:11). Bao nhiêu người mù thời đó mà Đức Giêsu chỉ đánh động được mấy người để họ nhìn thấy! Bao nhiêu người cùi hủi, và tại sao Phúc Âm ghi Đức Giêsu chữa lành có một số? Con người mù quáng chạy theo thị dục, hãy để họ yên, đó mới thực sự yêu thương họ vì khi ngày giờ đã được chuẩn bị cho họ, chuyện đến sẽ phải đến. Cha có cố gắng cũng vô ích... Càng thương xót họ, cha càng nên giữ lời Kinh Thánh: "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng lấy chân dày đạp và quay lại cắn xé các ngươi." Đức Giêsu không điên dại như người ta tưởng đâu; Thánh Thần chẳng ngốc nghếch để người ta lạm dụng đâu, nhưng việc phải xảy ra như thế, không thế không được. Chẳng vậy mà Phúc Âm cứ lặp đi lặp lại câu "Ai có tai thì hãy nghe!" Cha thấy không, Đức Giêsu cũng phải tôn trọng con người vì thật ra, dù muốn cứu độ, người ta cũng không muốn được cứu, không để cho mà cứu phương chi là giúp. Ngài chỉ nói những gì phải nói và còn nhiều điều không nói vì con người chưa xứng đáng để được nghe. Con biết cha còn nhiều điều muốn nói lắm nhưng từ nãy tới giờ vẫn kiên nhẫn không lên tiếng; con ngưng để cha nói; mà có phải cha đang nghĩ về nhiệm vụ rao giảng Nước Trời trong vị thế linh mục và lòng thôi thúc phải làm gì để giúp người ta thức ngộ sự khôn ngoan nơi Phúc Âm không?
- Cụ nói đúng, tôi đã nhiều lần tự hỏi tôi được truyền chức linh mục để làm gì và ý định làm linh mục thuở ban đầu cũng là giúp người ta sống đạo.
- Cha nói rất chân thành dẫu những lời vừa nói đối nghịch với tâm tư của cha bây giờ. Cha là linh mục lúc này vì cha đã được sinh ra để làm linh mục chứ không phải ý định, ý nghĩ muốn hay không. Tại sao cha không có ý định ý nghĩ làm tổng thống hay bộ trưởng, tỉnh trưởng? Tại sao cuộc đời biết bao nhiêu thiếu nữ đẹp đẽ, tốt lành, trông đến độ mát mắt mà cha không có ý định có một người vợ tuyệt vời như thế? Phải nhìn cho đúng, xin lỗi cha con mới dám nói, xét theo bản năng sinh lý đàn ông đương nhiên thích đàn bà, và đàn bà phải thích đàn ông bởi kẻ nào thích chuyện sinh lý với người cùng phái là bất thường... vì không hợp với bản năng sinh tồn. Mọi người được sinh ra như thế tự bản năng, hoặc là thường, hoặc là bất thường. Như vậy, xét theo bản năng sinh tồn, làm linh mục không sống theo bản năng đã được sinh ra... Hơn nữa, mọi sự vật, sự việc phải có lý riêng của nó; nó phải như thế vì không thế không được. Lửa thì phải nóng, nước đá phải lạnh... do đó, cha phải là linh mục vì cha được sinh ra để làm linh mục chứ không phải để lập gia đình như mọi người. Cha đưa ra lý lẽ thuở ban đầu nơi ý định đi tu là giúp người ta sống đạo. Con đồng ý cha đã có ước mơ đó, nhưng nó chỉ là phương tiện thúc đẩy cha tiến tới hành trình cha được sinh ra để theo. Cha thử nhận định xem, theo Phúc âm, Đức Giêsu đến rao giảng gì? Ngài sai các môn đồ làm những chuyện gì nếu không cùng công việc rao giảng Tin Mừng? Bây giờ người ta rao giảng gì? Cha muốn giúp người ta sống đạo tức là cha giảng đạo chứ không rao giảng Tin Mừng. Từ nhận xét này, cha phải công nhận rằng cha đã bị tuyên truyền và dạy dỗ không đúng mục đích Đức Giêsu đã làm và muốn các môn đệ làm... Có phải bây giờ cha chỉ muốn giúp người ta hiểu Phúc Âm, thăng tiến trên đường tâm linh không? Và như thế có phải mục đích ước mơ bây giờ của cha khác ngày xưa không?...
- Cụ nói đúng, nhưng Đức Giêsu rao giảng và sai môn đồ đi rao giảng Tin Mừng...
- Cha chỉ cần nói những điều phải nói mà thôi vì Đức Giêsu đã làm thế. Cha quên câu "Ai có tai thì hãy nghe" rồi sao! Thương xót họ mà cố giúp họ những điều không nên giúp là tự giết mình. Lý do vì họ ước muốn những điều có hại cho hành trình tâm linh, và nếu mình làm những điều đó tất nhiên hại mình. Hơn nữa, ngay cả nói cho họ những điều họ không đủ khả năng để hiểu, chưa đáng nghe, chỉ là cớ vấp phạm cho họ. Thương xót họ hãy chỉ nói những điều phải nói và cần biết tôn trọng tự do, quyền lực hiện hữu nơi họ. Họ muốn sống trong tối tăm hãy để họ an hưởng sự tăm tối vì đó là điều làm họ vui thích.
- Như vậy thì quá độc ác...
- Không độc ác chi hết, họ chưa đến lúc và nhiều kẻ chẳng bao giờ đạt tới trong suốt cuộc đời nơi trần thế vì họ không được sinh ra để có thể cảm nghiệm những sự khôn ngoan Phúc Âm mà chỉ để bắt chước theo lối nhìn thế tục. Thực ra, cùng lắm thì dẫu biết rằng giúp họ thỏa mãn phần nào thị dục chỉ làm cho họ hư đi thêm nhưng để tránh không làm cớ cho họ vấp phạm thì đành lờ đi. Cha hãy nhớ điều này, không ai cho trẻ em sơ sinh ăn những món sơn hào hải vị mà cho nó bú sữa... Đứa bé mới lọt lòng được một hai tuần mà bắt nó nuốt thịt bò chiên bơ chỉ giết chết nó thôi...
- Thưa cụ, nhưng phải làm thế nào để có thể giúp người ta thăng tiến tâm linh?
- Con xin lỗi cha đặt vấn đề như thế này, khi cha còn mong muốn giúp người khác thăng tiến tức là vẫn còn chạy theo thị dục, còn cho rằng mình là hơn, còn nghĩ người khác thấp kém, còn so sánh bông hoa lan đẹp hơn bông vạn thọ. Sự thánh thiện của cây lan là bông hoa lan; sự thánh thiện của cây vạn thọ là bông vạn thọ, không có gì để so sánh bông này đẹp hơn bông kia và ngược lại. Tại sao ai cũng sợ hãi con rắn độc rồi tìm cách giết chúng cho bằng được. Con rắn hổ có nọc độc hại đối với mình nhưng phải như thế mới là con rắn hổ, không như thế không được, nếu nó không có nọc độc hại tất nhiên nó không phải là con rắn hổ. Nếu cha ước muốn và hành động bất cứ cách nào để làm giảm nọc độc nơi loài rắn hổ hoặc giết chúng cho kỳ hết để tránh tai họa cho loài người thì cha đã không chấp nhận con rắn hổ là con rắn hổ mà muốn nó phải trở nên theo ý thích riêng của mình tức là vẫn chạy theo thị dục dù những hành động và ước muốn này có thể xóa bỏ được sự sợ hãi của loài người với giống rắn hổ. Xét như thế, cha còn mang ước muốn giúp người khác thăng tiến tất nhiên vẫn bị thị dục ảnh hưởng... Cha có biết Phúc Âm nói gì về điểm này không? "Chính các điều tự người ta ra là những điều làm cho người ta ra nhơ uế" (Mc. 7:15; Mt 15:18). Chính ý muốn, ý định làm con người khổ não! Tại sao cha mong muốn cho họ đạt đến sự cảm nghiệm tâm linh như chả Đức Giêsu đã thực hiện hai ngàn năm nay rồi mà nào được mấy ai để ý... vì nếu đã có những người đặt vấn đề, tại sao Kitô hữu không được tùy tiện đưa ra những giải thích Kinh Thánh theo sự cảm nghiệm của mình? Có phải thị dục đã và đang quay cuồng múa may chận đứng tất cả mọi sự thăng tiến tâm linh của con người từ bao lâu nay rồi không? Người ta đã muốn mọi bông lan phải có hương thơm của loài hoa huệ vì chưa nhận ra nét thanh quí của hương loài lan. Như vậy, cha chỉ có thể chọn một trong hai, con đường êm ái dễ chịu là "Hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như chim bồ câu." Cha sống như mọi người, hòa hợp với dòng đời nhưng trong lòng khác hẳn vì Phúc Âm đã nói, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng lấy chân dày đạp và quay lại cắn xé các ngươi." Hơn nữa, thực hiện bất cứ công việc gì dù khó hay dễ đều phải chấp nhận những bất trắc; do đó, để tránh phiền hà tốt nhất chẳng nên làm gì mà cần trui luyện tâm hồn mình trước đã bởi chuyện đến sẽ phải đến. Con đường khác chông gai, nhức nhối, phải nổi loạn, sẽ bị phản đối, bị kết án với nhiều chứng cớ và lý do cha sẽ không bao giờ có thể nghĩ tới đó là con đường Đức Giêsu đã đi quạ Mọi người chung quanh sẽ cho cha là khùng, là phạm thượng, là không vâng lời, là rối đạo, là đủ mọi sự khốn khổ bởi cha nói những điều nghịch lại với thị dục thế nhân... Với lòng thành vì chỗ quen biết và cảm mến, con khuyên cha hãy chấp nhận lời Đức Giêsu, "Để kẻ chết chôn cất kẻ chết của chúng." Vì thực ra, chính Ngài cũng đang bị ngăn cản công cuộc cứu độ con người thoát khỏi hỏa ngục thị dục... bởi người ta có muốn được cứu thoát đâu!...
Ra về nhưng lòng người linh mục trẻ khắc khoải không nguôi! Tại sao Phúc Âm nói "Các ngươi là muối cho đời,... Là ánh sáng cho thế gian" (Mt. 5:13,14)? Ông cụ có lòng tốt muốn bảo vệ mình vì e sợ tuổi trẻ dễ trở nên quá khích!... Con đường nào bắc nhịp cầu dẫn ánh sáng đến thế tục, chuyển muối ướp mặn đời? Con đường nào giao hòa tinh thần và thể xác? "Khi cha còn mong muốn giúp người khác thăng tiến tức là vẫn còn chạy theo thị dục;" lời ông cụ nhận xét rất đích đáng vì còn cho là nên thế này, không nên thế kia vẫn còn đứng về một phe chọn lựa... Đúng là gừng càng già càng cay; mới nghe thì tưởng rằng ông cụ diều hâu nhưng về sau đề nghị yếm thế... Dùng lời Phúc Âm "Hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như chim bồ câu" lại còn cho rằng êm ái dễ chịu... và đưa Đức Kitô để ngăn ngừa lòng nhiệt thành thiếu tính toán... sau khi nhấn mạnh, "Chẳng nên làm gì mà cần trui luyện tâm hồn trước đã bởi chuyện đến sẽ phải đến." Đâu là chân lý của câu nói dường như không tưởng, "Hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như chim bồ câu?" cha Hoàng thầm nghĩ, cố ghi nhận chờ cảm nghiệm.
Chương 18
Cha Hoàng hơi ngạc nhiên về những lời đắn đo của Kính nên tóm tắt bằng mấy câu coi bộ khá nghịch lý và khó hiểu đồng thời phải nói chặn trước nếu bàn luận chỉ tạo thêm những phiền hà. Tại sao anh ta lại nhận ra Phúc Âm có những câu vừa khó nghĩ vừa nghịch nhĩ vì không dễ gì có ai dám đặt vấn đề nghịch nhĩ mà thường chỉ dám chấp nhận nghĩ chưa tới. Anh ta nghĩ gì khi nói có lẽ mình cũng đã trải qua chặng đường mù tối... Anh này coi bộ ăn nói chững chạc nhưng ý tứ ngang tàng, chắc chất chứa nhiều suy tư, ngài lấy tiết canh một cách chậm chạp vì tâm trí còn đang vướng bận ý nghĩ về Kính... Trong lúc Kính lại đang nhìn đĩa tiết canh di chuyển theo cử điệu của vị linh mục trẻ; chiếc muỗng được lật nghiêng dùng cạnh cắt lấy một phần nhỏ rồi gạt xuống chén, sau khi trả đĩa tiết canh về chỗ cũ, ngài lại dùng đũa chia phần nơi chén làm ba rồi vắt chanh, lấy thêm lá thơm. Những chi tiết nhỏ nhặt gọn ghẽ không qua khỏi con mắt Kính, dẫu chỉ sửa soạn một miếng ăn đã có sẵn mà phải chuẩn bị cặn kẽ như thế hèn chi một vài lời nói coi bộ diễu chơi đã trở nên khó hiểu... Cha Hoàng nâng chén, chợt ngước lên thấy Kính vẫn chưa gắp thức ăn,
- Anh Kính, sao chưa bắt đầu?
- Vâng, xin mời cha, con phải từ từ cho nước thánh thấm rồi ăn mới phê... Sao hôm nay thứ bẩy mà cha có thể về đây thăm sòng bài...
- Phải nói định thăm sòng bài chứ đã xuống đâu... Sáng sớm tôi dâng lễ, chiều một đám ma, mười một rưỡi ngày mai tôi mới dâng lễ nên gặp hai ông này rủ đi xem sòng bài do đó theo cho biết...
- Vậy lỡ có chuyện cần kíp ở nhà xứ...
- Thì chuyện phải đến sẽ đến nhưng chẳng có mình còn cha xứ hoặc các cha khác...
- Sao con thấy người ta nói các cha bận lắm...
- Bận có từng lúc thôi... Nhưng có lẽ bởi tôi có hai mươi lăm giờ một ngày nên rảnh hơn. Ăn thôi, chút nữa mình nói chuyện...
Quay qua Long và Hải, ngài nói,
- Ăn xong nếu hai anh xuống sòng bài, tôi sẽ ở đây đợi... Cỡ mười rưỡi hai anh trở lại rồi mình về...
- Anh Lữ đưa anh Long và anh Hải đi thăm tàu, em ở nhà dọn dẹp... chị Lữ đề nghị.
- Được, hôm nay em đề nghị chí lý... Nhân tiện có cha Hoàng, tha hồ cho em nêu ý kiến...
- Có chuyện gì mà anh nói lây cả đến tôi nữa?
- Suốt từ hai giờ chiều đến bây giờ... Kính và nhà con bàn luận về Kinh Thánh... Tiện dịp có cha trong nghề có lẽ sự cùng sẽ tắc biến và đã biến chắc chắn phải thông...
- Hèn chi ban nãy anh Kính nêu lên rắn ăn đất... Nhưng anh mời tôi về nhà theo ý anh hay theo ý của chị ấy?
- Ơ cha, tại sao lại có ý con trong ấy... Nhà con gặp cha nên mời về chứ con có biết gì mà ý kiến; con chỉ phu xướng phụ tùy bộ cha không thấy sao? Chị Lữ phân bua.
- Anh Lữ vừa mới nói tha hồ cho chị nêu ý kiến thì vì chị mà anh ấy mời tôi về đây chứ nào có ý tốt lành gì! Anh ấy mượn bàn tay người đập đá...
- Như vậy cha muốn nói con lắm mồm lắm miệng nên nhà con chịu không nổi phải mời cha về sửa tri...
- Mọi người mắt thấy tai nghe chị Lữ vừa tự khai... Tôi biết mà, giấu đầu riết rồi cũng lòi đuôi lại còn đổ thừa cho là thấy tôi lang thang nên mời về...
- Không nói giấu gì cha và các anh, nhà con cũng dễ thương lắm nên con mới dám mời cha và hai anh không cần hỏi ý kiến đó chứ!
- Vậy nếu chị lắm mồm miệng thì đã có chuyện xảy ra phải không... À thì ra thế! Như vậy, phải có lý gì...
- Người ta bảo, "Anh em chém nhau đàng sống" nên vợ chồng... Long hùa theo...
- Mượn tay người đập đá... Hải chêm vô...
Kẻ nâng, người hứng, gây bầu không khí vui nhộn... Kính thừa cơ hội buông câu hỏi thử,
- Nhưng tại sao lại có câu "Anh em chém nhau đàng sống"? Kính đặt câu hỏi nhẹ nhàng giữa bầu không khí cởi mở nhưng mọi người chợt nhận ra câu hỏi mang vẻ khác lạ vì đặt vấn đề về lời nói bình thường nên hơi ngỡ ngàng chưa ai biết nói sao...
- Có gì đâu, vì chém đàng sống khó chữa hơn... Cha Hoàng giải thích.
Câu hỏi đã mang vẻ ngô nghê, câu trả lời lại nghịch thường... làm Kính cảm thấy nhận xét của mình về cha Hoàng có lý. Xưa nay đâu ai dám nghĩ đến chém đàng sống khó chữa lành hơn mà chỉ kinh nghiệm chém đàng lưỡi mang vết thương nặng nề hơn... Chỉ vài lời nói "chém đàng sống khó chữa hơn" đủ chứng minh sự thâm trầm trong ý nghĩ mặc dầu bên ngoài như bông cợt... Những người lòng dạ đơn sơ nói điều lỗ mãng dù đụng chạm, mất lòng nhưng rõ ràng, bộc bạch... Kẻ mưu đồ coi bộ ăn nói nhẹ nhàng quyến rũ chỉ là cạm bẫy đẩy con người vào đường cụt... Lời nói nghịch thường mang ý tứ sâu xa khiến kẻ nông cạn dễ bị vấp phạm. Hèn chi... Kính còn đang mãi suy nghĩ ý tứ câu trả lời ngược ấy, kỹ sư Long đã vội lên tiếng,
- Dẫu khó chữa cũng không bằng chém đàng lưỡi vì chết rồi thì còn gì để chữa. Câu nói rõ như một cộng một là hai mà vẫn có thể giải thích ngược lại... Nghĩ cũng hay...
Long nêu vấn đề cũng có lý nhưng vẫn bị gò bó thuận chiều phiếm diện, Kính nghĩ, để thử xem cha Hoàng nói sao, anh bèn giả say giả tỉnh nói,
- Thì có bao giờ một cộng với một không là hai nhưng người chém và kẻ bị chém phải là ba chứ?
Chị Lữ cảm thấy hơi lạ, cả buổi chiều Kính ăn nói thật chững chạc chứng tỏ một tâm hồn hiểu biết và một kiến thức rộng rãi thế sao lại nói câu này... Anh Lữ, Long, và Hải cũng nhìn Kính, hình như câu nói thức tỉnh họ nhận ra điều tầm thường mang tính chất đặc biệt nhưng chưa bao giờ được nghĩ tới. Cha Hoàng coi bộ như không mấy để ý, vẫn tiếp tục gắp món dê xào lăn... Câu nói của Kính khiến bầu không khí như ngưng đọng làm chị Lữ cầu cứu,
- Cha nghe thấy anh Kính nói gì không?
- Anh Kính nói một cộng với một không phải là hai nên có thể là ba và cũng có thể là một...
- Cha nói gì con không hiểu? Dược sĩ Hải lên tiếng.
- Nếu một với một có thể là ba thì cũng có thể là một...
- Tại sao lại là ba?
- Tôi nghĩ nên để anh Kính trả lời...
- Người bị chém đứt đôi. Kính nói gọn lỏn...
- Và tại sao là một?
- Vì không thể là hai... Kính trả lời càng mang vẻ ngây ngô và khó hiểu...
- Có lẽ chỉ cha mới biết anh Kính nói gì, chị Lữ muốn phá tan bầu không khí nặng nề. Cha làm ơn giải thích để anh Long và anh Hải còn đi xuống sòng bài với nhà con...
- Hồn với xác là hai, hợp lại với nhau là một người, sinh thêm tư tưởng, ý nghĩ, ý định, ước muốn tức là thành ba... Có lẽ các nhà tiến sĩ phải đặt lại vấn đề căn bản toán học...
- Thưa cha tại sao?
- Bởi dẫu hai thực thể đối nghịch vẫn có phương pháp hòa hợp.
- Đã đối nghịch làm sao hòa hợp thưa cha! Tỷ dụ như nước và lửa hòa hợp cách nào...
- Chị thực hiện thường ngày nhưng không để ý đó thôi!
- Nước dập tắt lửa chứ làm sao có thể dung hòa mà cha bảo con làm hằng ngày... Chị Lữ thắc mắc...
- Thế chị chưa bao giờ pha trà?
- Con uống trà thường ngày mà... Ý cha muốn nói... Ah!... Hèn chi quí cụ bảo cha nói ngang...
- Qúi cụ nói đúng đấy vì dẫu sao ông bẩy mươi vẫn phải học ông bẩy mốt...
Đã không ý kiến phản đối hay phê bình mà dám đương đường chấp nhận, Kính nghĩ. Nói kiểu này thì muôn đời không ai hiểu. Dùng ngay câu khuyên đời bình thường để ám chỉ ý ngược lại... Qúi cụ cho rằng ngài nói ngang không sai chút nào mà sai về phần quí cụ bởi có hiểu ngài nói gì đâu. Thoạt nghe tưởng sự bình thường thế rồi in trí cho là đúng, lúc chuyển tới câu kế tiếp sẽ mù tịt, và chính vì không dám nhận thực về mình nên đổ thừa cái dốt của mình thành điều chẳng nên cho kẻ khác. Thế nào chị Lữ cũng bị hố cho coi... Kính im lặng chờ diễn tiến...
- Thưa cha, ông bẩy mươi học ông bẩy mốt thì có chi là ngang...
- Ngang chứ, không nấu cơm bằng rơm mà bằng bếp điện thì ngang là cái chắc...
Biết ngay mà, Kính mỉm cười vì đã đoán đúng... Chưa chắc chị Lữ đã nhận ra ẩn ý ngài nói. Để coi, chị này chắc phải kêu trời như ngồi phải lửa...
- Bên này làm gì có rơm mà cha nói nấu cơm bằng rơm, mà có rơm muốn nấu cơm cũng không được... Cha nói gì kỳ...
- Ha! Ha! Cha Hoàng cười lớn... Ông bẩy mươi học ông bẩy mốt...
- Lạy Chúa tôi! Vậy mà cha không nói sớm. Đúng như Kính dự đoán, chị Lữ như ngồi phải lửa... Cha nói như vậy thì bố ai hiểu nổi; hèn gì cụ nào gặp cha rồi cũng kêu ca...
- Nào mình có thể thuyết phục được ai đâu bao giờ nên tốt nhất là không biện bác. Khi ý nghĩ nào đó đã ăn rễ sâu vào đầu óc họ rồi thì nó cũng giống như cây đinh, càng đập nó chỉ càng lún sâu vô mà thôi... Hơn nữa, khi chưa tới thời điểm cho một người thức ngộ thì lời mình nói chỉ trở thành cớ vấp phạm cho họ mà chớ. Thế nên, cố gắng làm vui lòng họ coi chừng là kiểu cách gạt gẫm bởi càng nói thật họ càng cho mình là nói ngang... và cũng chính vì họ muốn mình sống theo khuôn mẫu ưa thích của họ mà mình đã không làm... Chuyện gì chứ kiểu này không được...
- Con nghĩ, quí cụ cũng già rồi thì cha rán chiều quí cụ một chút đâu có sao...
Để xem ngài nói thế nào, Kính nghĩ, chị này đề nghị nghe hợp lý, hiền hòa nhưng không hợp tình. Là người ngoài cuộc nên dẫu đề nghị tốt lành đến mấy cũng chẳng khác chi đánh trống bỏ dùi, nói cho có nói hoặc nói để tỏ ra mình thế này, thế kia mà chớ. Chị này đâu biết, lừa người ta còn đem kết quả dạy khôn, nhưng chiều người ta là lối giết người một cách độc hại vì muốn hại ai thì cứ nói tốt cho họ thật nhiều...
- Chị nói cũng có lý, nhưng đối với quí cụ mà làm như thế là khinh họ quá đáng. Cha Hoàng chầm chậm buông câu trả lời.
- Cha nói sao, làm hài lòng họ mà khinh là thế nào?
Ngài quá thẳng thắn và ngắn gọn nên những người tầm thường không ưa là phải, Kính thầm phân tích. Chưa kịp giải thích, dẫn chứng mà chỉ tóm tắt một câu kết luận... mà kết luận lại ngược với sự hiểu biết bình thường thì những người thiếu suy luận làm sao có thể hiểu nổi mà có chăng chỉ thấy tự ái bị va chạm... Âu nào khác gì thổi kèn vào lỗ tai trâu hèn chi bị nó húc!
- Thứ nhất, hình thức tự nhiên của thứ tư tưởng không văn hóa là những gì tuyệt đối, một chiều, chỉ thế này mà không thế kia bởi thái độ thích những gì khuôn mẫu tuyệt đối chứng tỏ con người tầm thường. Tôi không nghĩ quí cụ qua bao năm sống lăn lộn với đời còn bị gò bó trong khuôn khổ này; vì dù sao, kinh nghiệm sống cũng đem lại cho quí cụ những sự khôn ngoan để nhận thức sự việc không phải chỉ là những gì phiếm diện có thể nhận thấy. Thứ hai, người khôn cần học nơi kẻ dại chứ kẻ dại không cần học nơi người khôn nên tốt nhất là không ý kiến, không đặt vấn đề làm hài lòng ai mà cứ để tự nhiên và như vậy mới nhận ra những gì mình cần học. Điểm sau cùng ai cũng biết, người ngu nhất là kẻ suốt đời không nói cũng không làm điều gì ngụ Như thế, chiều quí cụ sẽ trở nên kẻ lừa dối để hòng có sự thân thiện giả hình và chỉ làm mất cơ hội học hỏi sự khôn ngoan.
Hèn chi tướng tá cứ tàng tàng, Kính ngạc nhiên, ngài còn quá trẻ mà đã cảm nghiệm được sự khôn ngoan nơi những thái độ đối nghịch. Có lẽ chị Lữ sẽ yêu cầu ngài giải thích...
- Cha nói sao, lý do gì chiều quí cụ liên hệ đến sự tuyệt đối; vì cớ gì người khôn phải học kẻ dại... lại còn không làm, không nói điều ngu là kẻ ngu nhất... Như vậy chả lẽ cứ nói bậy nói bạ sẽ là kẻ khôn?
Hỏi kiểu này tới cả năm chẳng hết, Kính nghĩ thầm, có lẽ khi mấy người xuống tầu mình phải nhào vô nói chuyện đỡ tốn giờ nghe giải thích lằng nhằng...
- Người nào đã dám làm, dám nói là người phải có khả năng và dám suy luận tất nhiên có sự khôn ngoan nào đó. Lẽ thường, đã nói là sơ hở hoặc phiền hà vì tư tưởng, ý nghĩ của mình về một sự việc đâu giống mà có khi còn đối nghịch với nhận định của người khác. Làm việc cũng vậy, đã làm là có sai sẩy, thiếu sót không thể tránh được thất thiệt hay những chuyện chẳng ngờ. Người không nói sơ hở, thiếu sót là người chỉ lặp lại những điều người khác đã nói và như thế sai lầm không phải ở họ. Không làm gì sao thất thiệt hay ngu si, bởi vậy, kẻ ngu si đâu biết gì mà nói, đâu biết gì mà làm vì cùng lắm chỉ làm theo mệnh lệnh nên không bị cho là nói ngu, không bị cho là làm ngu... thì tất nhiên, là kẻ ngu nhất. Vấn đề kẻ khôn học người dại... nó đã dại làm sao biết điều khôn mà học do đó đâu cần học ai. Thế nên, chỉ kẻ khôn mới phải học từ kẻ dại để tránh cái dại. Sau hết, chỉ những người tầm thường, không dám suy nghĩ nên muốn có những điều luật, khuôn phép cố định cứ theo đó mà tuân giữ, mà sống, tránh phải đối diện với nhận thức về thực tại hay những diễn tiến đa dạng và phức tạp xảy ra nơi xã hội. Người tầm thường chỉ nhìn sự vật theo luân lý thị dục, hoặc đúng hoặc sai, tốt hay xấu... hai đối cực rõ ràng, phân biệt... Thực ra, cuộc đời này đâu phải cứ trắng thì không đen mà bất cứ chuyện gì, lý lẽ nào cũng vừa trắng lại vừa đen... tạo thành màu cà phê sữa...
- Nhưng nếu cứ im lặng chấp nhận những lời đồn đãi chẳng nên thì người ta sẽ nghĩ cha thế nào và rồi những kẻ không biết nhưng cứ nghe hơi nồi chõ mà nói bậy có phải họ tự tạo cái án phạt cho họ không?
- Không thể nói gì được ngoài cách chấp nhận bởi chị có thể thấy tận mắt, đâu phải vì bông Ngọc Lan hay bông Mộc Lan mà con chim đậu trên cành của chúng, nhưng chính vì những con sâu bọ trên ấy. Đàng khác, có câu nói, kẻ nào tìm cách cắn người khác, người ta có thể bị chảy máu nhưng vết thương sẽ lành. Ngược lại, cái miệng của người cắn coi chừng không còn cái răng nào và răng cũng chẳng thể mọc lại được. Tất nhiên, hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu. Thực tâm nhận xét, sự cao cả của con người sở dĩ được xem là cao cả bởi họ biết họ hèn mạt... ngược lại, ít ai nhận ra cái hèn của mình mà chỉ những kẻ chống đối mình mới nói lên sự hèn mạt của mình. Phải cám ơn họ mới đúng chứ tại sao lại đặt vấn đề hiểu lầm hay giải thích... Hơn nữa, chấp nhận những lời đồn thổi bất lợi vì chỉ những kẻ không thích mình mới không quên nhắc nhở đến mình chứ những người thân họ có thèm nhớ tới mình đâu! Đàng khác, người ta càng biết mình nhiều, càng phiền nhiều vì mình đã phần nào tự quảng bá cho người ta biết mình... Âu đó cũng là cái lầm lỗi thế tục đáng nhớ đời cho chừa tội bon chen... Nói cho cùng, chỉ đồng nghiệp mới có thể đánh giá kẻ cùng nghề vì kẻ làm ruộng sao có thể đánh giá mấy bộ trưởng, tỉnh trưởng trong chức nghiệp của ho... Chị không nhớ câu: "Chỉ đâu mà buộc ngang trời, tay đâu mà bịt miệng người thế gian," hoặc là "Lấp sông lấp biển ai lấp được miệng người" sao?... Con người là thế mà không sống với người thì sống với ai? Thôi, cứ im lặng là xong chuyện!... Phân bua, bày giải làm chi vì người thân đã biết rõ mình và những người không thích mình nào có bao giờ họ tin những gì mình nói...
Không hy vọng gì chị Lữ bắt kịp những tư tưởng của ngài. Những kẻ hình thức rởm, trí khôn bằng hột thóc nên thích tỏ ra oai vọng thì mọi người lại khúm núm kiêng nể, mà người có đầu óc vượt trổi nên coi thường mọi giá trị hình thức thế tục thì họ mù lòa không nhận ra. Trời bày lắm chuyện oái oăm, kẻ khôn ngoan, thông thái thường bị phận số lận đận chận vẻ kiêu căng để tạo thành hiền nhân, nghịch hẳn lối nhìn thế tục... Ví những kẻ thiển cận như con chim bắt sâu cho cành bông, thật tuyệt vời! Thế nên, không có kẻ bới móc không biết được người hiền! Nhận định vượt hẳn hạng phàm tục nên trở thành cớ cho họ bứt rứt mà không biết làm sao giải tỏa. So sánh kết quả của kẻ cắn và người bị cắn, có lẽ khó kiếm lối nói ám định nào hay hơn. Người bị cắn cuối cùng học được sự khôn ngoan và lành lặn; kẻ cắn chỉ mang hại bản thân. Suy ra, người đã khôn thì tìm đâu cũng thấy sự khôn ngoan, còn kẻ dại chỉ là con cờ thí, sống cũng như chết chẳng gì thay đổi. Kính còn đang mãi mê với ý nghĩ nhận định, chị Lữ đã lên tiếng,
- Nhưng nếu cha cứ để họ nói như vậy thật bất lợi cho cha!
- Chị đã bao giờ nghĩ đến có những sự việc làm cũng có tội mà không làm cũng có tội chưa? Thực ra, xét theo tâm thức, người càng thấy mình đạo đức, càng không có đạo đức, mà càng tự nhiên, bình thường, thì đó là phong độ do lòng khiêm nhường dẫn dắt vì khiêm nhường là sống thật với chính mình. Người càng ao ước giầu có, cho dù nhiều tiền của đến mấy vẫn là kẻ nghèo hèn so với lòng tham không đáy. Người càng chứng tỏ mình tin lại chẳng có đức tin mà có thể chỉ là sự tưởng tượng hay cố bám víu điều mình nghĩ là đang có để che đậy sự e sợ trống rỗng, nói cho đúng, sự u tối của mình. Bởi vậy, kẻ nào càng cảm thấy hãnh diện về một tổ chức hoặc danh hiệu nào thì chỉ càng cảm thấy mình trống rỗng bấy nhiêu bởi vì cảm thấy không là gì nên phải dùng danh hiệu nào đó cố đắp vá cho có cảm tưởng mình là một thứ gì! Do đó, nếu đóng cửa lại không cho bất cứ một sự sai lầm, thiếu sót nào vào được thì tất nhiên chân lý cũng ở ngoài luôn bởi những người thoát được sự phê bình thì không làm gì cả, không nói gì cả, và không là gì cả. Sự thánh thiện của lửa là sức nóng, của nước đá là sự lạnh lẽo, của cây hoa là cành bông. Nếu lửa không nóng, nước đá không lạnh, cây hường không sinh hoa thì còn gì để đặt vấn đề. Ngược lại, mình không được sinh ra có đôi cánh để bay thì sự bay không thể nào là sự thánh thiện để mình phải tiến tới. Cho nên dù cố đánh lừa để người ta tưởng mình bay thì muôn đời cánh cũng không mọc ra được.
Chỉ có kẻ trộm mới suy nghĩ giống kẻ trộm, ngược lại, miệng người công chính nói lời khôn ngoan. Đem những thí dụ điển hình đơn sơ ai cũng có thể nhận thấy thường ngày để trình bày sự khôn ngoan ít ai để ý, điều này nói lên tính chất suy tư thâm trầm và một tinh thần đạt quan hiếm người đạt tới. Cũng chẳng nên trách những người thiếu hiểu biết vì họ đã có những nhận định lệch lạc về ngài, Kính tự nhủ. Họ làm sao có thể nhận ra được sự khôn ngoan ẩn tàng nơi một người còn trẻ hơn tuổi con cái họ lại mang vẻ thật tầm thường, không lệ thuộc cung cách đã bao lâu nay quá quen thuộc đến độ bất cứ những gì không giống, không nằm trong khuôn khổ ấy đều bị coi là nghịch thường. Thế nhưng, nào ai đã bao giờ dám thử nghĩ tới điều "làm cũng có tội không làm cũng có tội?" Dưới những con mắt khuôn mẫu thì đúng và sai chứ không thể đàng nào cũng đúng hoặc đàng nào cũng sai. Sống thực với chính mình thì bị mọi người chê bai, giả hình với chính mình trở thành tội phạm với lương tâm, chỉ những con người thức ngộ mới có thể nhận ra điểm này. Đâu ai nghĩ tới thực sự khiêm nhường là sống thật với chính mình đồng thời cố gắng tỏ ra khiêm nhường lại chỉ là giả hình bởi còn ước muốn trở nên Phật thì vẫn chưa là Phật! Chân lý sự vật khi đã thông suốt thì lối nhìn ước định xã hội không còn chỗ đứng. Đâu ai có thể ngờ được sự toàn thiện lại mang đầy thiếu sót theo lối nhìn thế tục; trên đỉnh ngọn núi ngất trời chắc chắn không thể mang tính chất ẩm thấp nghẹt thở nơi đáy vực thẳm thì làm sao những loài giòi bọ đã quen sống ở đáy vực có thể tìm thấy chốn lý tưởng cho chúng cư ngụ? Nêu lên sự thánh thiện của lửa, của nước đá, của cây hoa để chống ngược lại sự giả hình chạy theo khuôn mẫu và hình thức phiếm diện tưởng không giả thuyết hoặc lý luận nào có thể hay hơn. Chỉ mấy lời nói suông cũng đủ chứng tỏ một tâm trí sâu sắc mà cũng tự nhiên, đơn giản... Ngài trở thành cớ cho khối kẻ vấp phạm chẳng lạ gì... Câu Kinh Thánh chợt được nhắc nhở nơi tâm tư Kính, "Họ nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu... " phỏng hợp với dữ kiện này? Kính còn đang nhận định về những lời cha Hoàng nói thì chị Lữ lại nêu ý kiến tiếp theo,
- Con nghĩ cha cũng cần giải thích cho họ hiểu vì khi một người nhận ra điều nên lẽ phải thì họ có thể phần nào tránh khỏi những sai lầm chẳng nên! Con là đàn bà do đó nhiều khi sự nhận định bị giới hạn trong khuôn khổ phái tính tạo nên cá tính chấp nhận trở thành thói quen lắm lúc làm mình bị thua thiệt bởi kẻ khác hiểu lầm. Nếu chỉ nhìn vẻ bên ngoài mà không hiểu biết gì về cha, người ta sẽ có sự so sánh không được đúng đắn, nhất là quí cụ xưa nay đã quen với những lề lối xét đoán phiếm diện. Thực ra, những điều cha giải thích con hiểu không kịp nhưng cũng được phần nào. Tuy nhiên, lòng dạ con người đâu ai hiểu thấu mà những hình thức bề ngoài thường gây ảnh hưởng đến tâm tình người đối diện. Như vậy, có cách nào để hòa hợp... ít nhất tránh cho người vô tình bị cái nhìn sai lệch...
- Chị muốn nói hòa hợp những chuyện gì?
- Khó cho con nói quá! Nó ngược ngược làm sao ấy...
- Có phải chị muốn nói sự đối nghịch giữa tâm tư và thái độ?
- Vâng, sao cha nói có mấy tiếng mà con nghĩ mãi không được. Nếu con nói sai cha cũng bỏ qua, nhưng tướng cha làm sao ấy; cha không có oai của linh mục mà lại có vẻ lè phè, ngang ngang, hèn chi không hợp nhãn quí cu...
Chị Lữ hôm nay đặt nhiều vấn đề quá mà vấn đề nào cũng thôi thúc phải hành động một việc gì. Thế ra chị ta vẫn không để ý đến điều ngài vừa nói, "có những sự việc làm cũng có tội mà không làm cũng có tội!" Ban chiều mình đã nhắc đến câu của Pascal "Kẻ muốn làm thánh lại biến thành thú" mà chị này vẫn không để ý. Không hiểu ngài sẽ trả lời thế nào... Biện hộ cho chính mình, có lẽ ngài không cần, nhưng để xem! Kính cảm thấy khó có thể đoán được cha Hoàng sẽ trả lời thế nào.
- Chị nói hợp lý và đúng sự thật vì sự thật cũng như chân lý, chúng bao gồm những điều đối nghịch không thể dung hòa nhưng lại gắn bó chẳng thể tách rời. Tỷ dụ, khi mình nhận ra điều gì tốt lành thì đã có sự chẳng lành. Mình còn cố gắng gò bó theo khuôn mẫu được cho là tốt lành nào đó thì mình đã tự hoang đàng... Các anh các chị thử nghĩ coi, nếu không có tội phạm nào ai cần xây nhà tù. Con người không hoang đàng đâu cần khuôn mẫu... mà tất cả những khuôn mẫu đều mang tính chất hình thức bên ngoài hầu mong ngăn cản sự thái quá nội tâm. Thế nên, thái độ bên ngoài thường ngược hẳn với tâm tình của một người. Những người thực sự có quyền lực rất ít khi và có thể không bao giờ xử dụng quyền hành; trái lại, kẻ không có quyền lực mới lạm dụng vị thế hoặc tỏ ra mình thế nọ thế kia cho kẻ khác nể nang. Bởi vậy, thường thì chúng ta chiêm ngưỡng những người sống gương mẫu nên gượng làm mẫu bởi vì còn chiêm ngưỡng thì còn chưa như thế dẫu rằng mỗi người là một mẫu gương. Mình không được sinh ra với đôi cánh mà cố gắng tập bay như chim thì đến muôn đời cũng không thể bay như chim, có chăng chỉ giả đò bay như chim để người khác tưởng mình là chim. Vì thế, nếu mình đã không phải là gì thì đâu cần phải trở thành gì! Mình đâu cần bắt chước bất cứ ai vì mình không phải là họ. Hơn nữa, chính vì những cố gắng vô bổ không đem lại lợi ích nên người ta đã quá coi trọng sự thành công hầu phần nào thỏa mãn khát vọng muốn trở thành một cái gì. Thật ra, tầm thường và lòn cúi thì việc gì cũng thành công, và bởi đó, chính những điệu bộ, những thái độ cố tỏ ra quan trọng thiếu tự nhiên chỉ là chiếc mặt nạ che lấp tự ti mặc cảm, kết quả của những cố gắng chẳng nên để có cảm nghĩ thành công. Tôi dám bảo đảm với quí anh quí chị, đa số con người đều không dám nói thật dẫu biết rằng lối đùa cợt hay nhất trên đời là nói thẳng sự thật. Làm sao mình biết sự thật nơi người khác nên dám nói thẳng sự thật nơi mình là dám sống thật với chính mình, mà sự thật thì lại ngây ngô nên người có bản lãnh rêu rao cái ngớ ngẩn của mình đâu cần đến những hình thức giả tạo che lấp... Như vậy, nếu mình đã không phải loài chim thì cứ thản nhiên đi bộ, chẳng cần tập hay giả hình bay nhảy như chim... và tất nhiên sẽ không có điệu bộ loài chim dẫu mọi người chiêm ngưỡng vẻ cao vời tự tại của giống cầm...
Ít ra phải như thế, Kính thầm nghĩ, cái vẻ bất cần gần như lè phè bên ngoài che dấu sự thức ngộ thâm sâu hèn chi khó được nhận ra. Nguyên nhân nào đã dẫn dắt ngài đạt tới trình độ này... Ngài còn quá trẻ để có thể nói gặp thất bại. Sáu năm trong chức vụ linh mục thì giỏi lắm mới gặp vài ba trường hợp khó xử giới hạn nơi một giáo xứ trong khi nhận thức của ngài lại bay bổng vượt khỏi những ước định xã hội. Đâu dễ chi có được sự thức ngộ "Đã không phải loài chim thì cứ thản nhiên đi bộ" mặc dầu sự việc tầm thường này ai mà không biết nhưng ý thâm sâu lại không dễ chi ghi nhận. Kinh nghiệm phải già dặn thế nào mới hiểu được người dám rêu rao cái ngớ ngẩn, ngây ngô của mình là lối đùa cợt hay nhất? Tự đâu ngài cảm nghiệm được cái giá phải trả của sự ham muốn thành công? Đâu ai có thể ngờ thái độ bên ngoài của một người lại đối nghịch với tâm tư! Điều làm Kính ngạc nhiên nhất là ngài đưa ra những yếu tố đối nghịch không thể dung hòa lại gắn bó nơi cùng một chân lý... Lối giải thích quá ngược ngạo nói lên thực thể sự kiện giúp mở rộng tầm suy xét, chướng tai mà thâm trầm, u mặc, khiến kẻ nào nông nổi chắc phải bực mình... Ngược lại, tất cả lý luận và dẫn chứng quá đơn giản mà ý tứ hiện thực, sống động, ai cũng có thể kiểm chứng ngay tại cuộc sống của mình và biến thành động lực thúc đẩy con người tự đặt vấn đề về chính mình... Phải hỏi cho biết nguyên nhân nào, Kính định bụng...
Kỹ sư Long và dược sĩ Hải đã ăn xong nên anh Lữ cùng với họ xuống sòng bài. Cha Hoàng và Kính ra phòng khách dùng trà trong khi chị Lữ lo thu dọn bàn ăn... Nhân cơ hội này, Kính lên tiếng,
- Con có một số thắc mắc nhưng nghĩ đi nghĩ lại chẳng hiểu có nên hỏi không vì con thấy hỏi cũng không cần thiết lắm mà không hỏi thì cứ luôn luôn ôm ấp nghi ngờ. Có điều, con hơi ngạc nhiên nên muốn biết nguyên nhân nào đã giúp cha có được lối nhìn khác hẳn với những quan niệm bình thường...
Mình đã nghi anh này có chiều sâu hiểu biết mà có lẽ đúng. Không hỏi những sự đúng sai, nên hay không nên, mà lại đặt vấn đề căn bản nhận định...
- Anh hỏi như vậy khiến tôi muốn biết anh thích cuốn sách nào nhất trước đã mới có thể trả lời được...
Ngài dọ dẫm gốc gác mình ở đâu để ngăn ngừa sự đối nghịch quan niệm và có thể cũng định xét xem mình thuộc loại người nào... Âu cũng là điều hay nên học...
- Con thích nhất cuốn Kinh Thánh đặc biệt là phần Phúc Âm, nhưng con cảm thấy rất khó hiểu và hình như những gì được viết có vẻ chống ngược lại tất cả những sự hiểu biết về nghi thức hoặc cách thức thực hành tôn giáo...
Mình là linh mục mà anh này lại cho rằng Phúc Âm chống lại những hiểu biết về nghi thức và cách thực hành tôn giáo... Anh ta nói thật lòng hay muốn khởi sự cuộc đấu lý...
- Tôi không muốn tranh biện vì mỗi sự việc, mỗi sự vật có lý riêng của nó; đồng thời tôi cũng không muốn nói đến sự đúng sai, phải trái, vì đúng với tôi chưa chắc đúng với anh và ngược lại, tùy theo quan điểm mỗi người. Tuy nhiên, tôi muốn hiểu rõ hơn về điều anh nói Phúc Âm viết chống ngược những gì và như thế nào về tôn giáo. Anh hiểu tôi muốn nói gì chứ?
Mình đề xướng câu hỏi lại biến thành bị thẩm vấn... Sự rào đón này cũng có lý vì tránh được những điều cải vã chẳng nên...
- Con nói thật tình, nhận thấy sao đặt vấn đề như vậy để tìm hiểu và suy luận. Con cũng không thích đấu lý hoặc tranh biện suông...
- Anh chỉ mới đưa ra hai câu hỏi đã bao quát tất cả những điều khôn ngoan nơi Phúc Âm đồng thời chiếu rọi tới sự thực hành tôn giáo. Hai câu hỏi này tôi chỉ có thể tóm gọn bằng hai câu Phúc Âm, Mác Cô đoạn 1 câu 15 và thư thứ nhất gửi Thessalônikê đoạn 5 câu 21.
- Hai câu đó, một câu nói rằng "Phỏng khi Con Người trở lại có còn thấy được lòng tin trên mặt đất nữa chăng," còn câu kia như thế nào con chưa bao giờ để ý; cha có thể cho con biết được không.
- Câu đó chỉ đơn sơ nói, "Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự." Thực ra câu này được đi kèm với hai câu 19 và 20, "Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kị điều dữ, bất cứ dưới hình thức nào!"
Mình đọc mấy thư thấy hình như được viết dưới quan điểm khuyên bảo các tín hữu sống tốt lành hơn, coi Phúc Âm như những bài học luân lý, và xử dụng Tân Ước cũng như Cựu Ước theo nghĩa từ chương được phụ họa bởi luận lý một chiều. Như vậy, chính những thư nơi Tân Ước làm người ta hiểu lầm Phúc Âm, sao có thể có câu nói đối nghịch với sự giảng dạy của giáo quyền Công Giáo như thế này! Phỏng câu này thuộc về thư mục vụ của thánh Phao Lổ Kính nghĩ thế nên dọ dẫm,
- Như vậy, phỏng xưa nay mọi người đã bị cấm đoán một cách chẳng nên...
- Anh muốn nói bị cấm đoán thế nào và về những điều gì?
- Nếu con không lầm thì Kitô hữu không được tùy tiện giải thích Kinh Thánh theo sự hiểu biết cá nhân ngoài đường lối đã được chính thức công nhận của giáo quyền và thường thì lại đặt nặng về vấn đề truyền thống.
Ah! Anh này có trình độ nhận thức khá cao nên đem ngay cái truyền thống gò bó này lên bàn mổ. Thật ra, không cấm đoán thì cũng chẳng mấy ai để ý mà khi đã có người được sinh ra làm những chuyện ngược lại cấm đoán đó thì có cấm cũng chẳng được, cùng lắm là cho rằng người ta không nghĩ giống mình rồi tự cho mình quyền chối bỏ người khác chứ được ơn ích gì đâu! Phỏng nơi giáo quyền có vị nào hơn được Phao Lô mà chính Phao Lô đã đưa ra lời khuyên cảm nghiệm như thế; chuyện phải đến sẽ đến, những cấm đoán này chẳng sớm thì chày cũng bị xóa bỏ giống như vụ án Galiléo mà chớ... Nhưng chẳng nên nói ra làm gì vì lợi đâu không thấy lại mang tiếng không tin vào lời dạy của Giáo Hội...
- Không phải mọi Kitô hữu đâu mà chỉ tín hữu Công Giáo mới bị ngăn cấm như thế!
- Thưa cha tại sao? Phỏng như vậy là ngăn cấm tự do tư tưởng.
- Không phải cấm đoán tự do tư tưởng bởi một người nghĩ bất cứ gì mà không nói ra thì đâu ai biết, và ai có thể ngăn được ý nghĩ của một người. Có chăng chỉ giáo dục, nói cách khác là nhồi sọ cho một số quan niệm tín ngưỡng căn bản theo đường hướng của tổ chức. Có thể vấn đề này chỉ giống như thống nhất hóa quan niệm của các thành viên. Ai quan niệm như những điều Công Giáo quảng bá thì thuộc về tư tưởng Công Giáo, ai nói lên điều gì không giống thì không phải là tư tưởng Công Giáo, chẳng gì hơn, chẳng gì kém.
- Như vậy cha có nghĩ rằng có sự hơn kém nếu so sánh Công Giáo với các tôn giáo khác không?
Anh này muốn đạt tới kết luận nào mà hỏi vòng vo về tôn giáo, cha Hoàng tự hỏi. Nói chuyện về tôn giáo nào ích lợi chi sao lại còn đặt vấn đề so sánh hơn kém. Hay là anh ta nghĩ rằng mình cũng chỉ lo bảo vệ tổ chức thế tục như mọi người...
- Tôn giáo chỉ là một tổ chức nhân sinh mang nhiệm vụ hướng dẫn con người tới ngưỡng cửa tâm linh. Mỗi người có con đường tâm linh riêng không ai giống ai và cũng không ai có thể giúp ai. Vấn đề này cũng giống như ăn uống, chẳng ai có thể ăn dùm người khác. Tuy nhiên, vì không nhận ra vai trò căn bản này của tôn giáo, tham vọng của những thành viên tạo thành tổ chức thế tục của tôn giáo đã vô tình tạo nên sự cạnh tranh mong sao cho tổ chức của mình lớn mạnh. Tôi nghĩ, anh không lạ gì thành quả của quan niệm dân chủ bị hiểu lệch lạc sinh ra sự chấp nhận đa số thắng tiểu số. Tương tự như thế, tôn giáo đông thành viên, nghĩa là có nhiều người theo, thì được những người trong tổ chức tôn giáo ấy cho là đúng, hợp hơn. Ngược lại, với những lối nhìn chật hẹp của những nhóm tôn giáo nhỏ nhoi, con người dễ bị sa lầy vào sự ganh tị hoặc sợ hãi mình đã đang đi sai nên tự tạo cho mình những lý thuyết chỉ trích hoặc kết án người khác hầu che lấp sự sợ hãi hay tự ti mặc cảm của mình. Vấn đề chính yếu của tôn giáo là hướng dẫn con người về tâm linh chứ thực ra tôn giáo không phải là cùng đích giải thoát con người. Nhìn theo khía cạnh ngược lại, tôn giáo là sự thể hiện phần nào mức độ tâm linh của con người chứ không phải con đường tâm linh. Bởi vậy, chẳng có gì đáng nói để so sánh tôn giáo. Nói đến so sánh tôn giáo cũng chỉ như so sánh hai bông hoa cùng loại hay khác loại, mỗi bông có vẻ đẹp riêng không thể so sánh.
Hèn chi ngài cứ bị những đầu óc lệch lạc phê bình. Đối với họ, nếu đem so sánh hai bông hoa nhất định phải có bông này đẹp hơn bông kia, đàng này, mỗi bông có vẻ đẹp riêng, và như thế, mỗi người có giá trị riêng không được đặt thành vấn đề hơn kém. Người ta nói ngài không có oai của linh mục không sai, vì khi đã nhận ra giá trị nơi mỗi người bình đẳng thì tỏ ra hơn kém trở thành trọng tội đối với lương tâm. Đức Giêsu ngày xưa cũng bị phê bình ăn nhậu với những kẻ tội lỗi... Con người của ngài quả là cả một kho tàng bí mật.
- Thưa cha, thế sao con nghe nói trước đây cỡ mấy chục năm, mọi người vẫn tin rằng ngoài Giáo Hội Công Giáo không có ơn cứu độ?
- Có lẽ bởi thế Công Đồng Vatican II mới phải đặt lại vấn đề dân Chúa và như vậy đâu còn ai được coi ngoài Giáo Hội đâu...
- Thế thì ít nhất là hai phần nhỏ truyền thống đã bị xóa bỏ.
- Anh muốn nói về vụ án Galiléo và quan niệm ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ! Nào có ai xóa đâu mà chỉ bỏ thôi... Thật ra, chúng chỉ là quan niệm hạn hẹp nhất thời của con người.
- Con nghĩ rằng không có quan niệm nào mà không nhất thời và nếu không muốn quan niệm bị nhất thời thì đừng quan niệm nữa bởi còn xử dụng lối nhìn phiếm diện về một thực thể thì vẫn còn thiếu sót...
Ít nhất trong cuộc đời còn có những người nhận ra được điều này, cha Hoàng cảm thấy vui vui. Từ xưa đến nay người ta đã nhân danh những sự được cho là tốt lành làm khốn khổ biết bao người mà nào có ai để ý. Những lý thuyết đao to búa lớn tự trời rơi xuống, sản phẩm của quan niệm có một Thượng Đế ngu ngơ ngự trị nơi xa thẳm được mệnh danh chín tầng trời phải nhờ những nhà chuyên môn diễn giải, cố gò ép con người vào những khuôn khổ vì ý muốn bảo vệ tổ chức thế tục, nô lệ cho những quan niệm như sản phẩm của thị dục tạo nên những lý thuyết hình phạt kinh hãi từ Thiên Chúa được mường tượng theo lối nhìn luân lý tuyệt đối. Thế ra con người khốn khổ vì tổ chức chứ không phải vì ơn cứu độ bởi còn ham muốn được cứu độ tức là vẫn chưa được cứu... Như vậy người ta đâu biết điều duy nhất phải sợ chính là sự sợ hãi.
Chương 19
Nói chuyện với anh thật ý vị. Thoạt đầu tôi nghĩ anh có ý định tấn công tôi nhưng đến giờ tôi thấy mình đã lầm. Thế nên, yêu cầu anh giải thích lối nhìn phiếm diện anh vừa nhắc tới để mình có thể tự do phát biểu hầu tránh sự e ngại bị phán đoán sai hoặc đúng...
- Con muốn nói tới đứng về phía mình cho là đúng để có cái nhìn thiên lệch về những gì mình cho là không đúng. Thật ra, đúng và sai chỉ là lối nhìn chiều theo thị dục mà còn chiều theo thị dục thì vẫn còn luẩn quẩn, vẫn còn chưa thoát ra được, vẫn chưa hiểu Phúc Âm nói gì. Sự vật nó là thế và nó phải là thế; thay vì tìm cách xử dụng sự vật cho hợp lý hợp tình, người ta đã lạm dụng, và để ngăn ngừa những sự lạm dụng cần phải có những luật lệ như một ước định xã hội và thế rồi con người bị chết chìm với những lẽ đúng sai thường tình. Chính vì vậy con thấy Phúc Âm viết một đàng, những tôn giáo lấy Phúc Âm làm chuẩn rao giảng một nẻo không cần biết Phúc Âm nói gì mà ngược lại cứ coi như là những bài học luân lý do đó đặt nặng vấn đề thưởng phạt.
- Anh có thể chứng minh được không?
- Con chỉ nêu lên mấy điểm chính yếu khác biệt giữa tôn giáo và Phúc Âm thử xem cha nghĩ thế nào. Theo Mác Cô (1:15), "Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng," vậy Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng là gì? Nước Thiên Chúa hay Nước Trời là gì mà tại sao con chỉ thấy nói về một thiên đàng theo óc tưởng tượng khác hẳn với những dụ ngôn Nước Trời? Thêm nữa, đức tin hay lòng tin là gì và tại sao những lời tuyên xưng của các giáo phái khác hẳn những gì Phúc Âm nói về lòng tin? Nếu con không lầm, lòng tin Phúc Âm rao giảng chỉ có một mà những giáo phái Kitô Giáo lại có những bản tuyên xưng đức tin khác nhau; phỏng sự phân rẽ thành nhiều giáo phái chỉ là kết quả của kiến thức về lòng tin hoặc kiến thức thần học hay không? Điểm khiến con ngạc nhiên nhất là những giáo phái Kitô Giáo chỉ rao giảng kiến thức suy luận về Phúc Âm theo kiến thức thần học và lẽ đúng sai luân lý chứ không phải rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu đem đến... Nói đúng hơn, rao giảng tôn giáo dựa trên căn bản e sợ sự luận phạt của con người... rồi đem một thiên đàng tưởng tượng làm mồi nhử; kẻ rao giảng giống như người ngồi trên lưng con lừa cầm đoạn cây treo nải chuối đưa về phía trước... kèm thêm bó đuốc đang cháy đeo lủng lẳng phía sau...
Cha Hoàng phá lên cười vì hình ảnh ví von mà Kính tạo nên để diễn giải khuôn khổ giảng đạo... Đã đến thời điểm Thánh Thần làm việc qua những nhận định của con người. Kinh Thánh đâu viết riêng cho một giới nào và lời Phúc Âm phải được ứng nghiệm. "Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta" (Gioan 6:45). Một giáo dân mà có được nhận định như vậy phỏng giới rao giảng sẽ phải đặt vấn đề như thế nào... Rồi sẽ đến thời điểm những con đê phân rẽ, đóng khung, trói buộc, và đàn áp lòng khao khát tâm linh phải bị phá vỡ để cho những môn sinh của Thiên Chúa tuyên dương Tin Mừng. Những dòng nước Thần Khí đang từ muôn phương, nơi mọi ngong ngách đổ về được hướng dẫn bằng quyền lực lòng tin sẽ tạo nên sức mạnh san bằng tất cả chướng ngại vật ngăn cản lòng khát khao Thần Khí... Niềm phấn khởi nào đó chợt bùng lên nơi tâm hồn người linh mục trẻ. Phải vậy mới được, ngài thầm nghĩ; Thánh Thần càng kiên nhẫn chỉ càng khốn khổ cho con cái loài người...
- Tôi cảm thấy hơi lạ vì anh thực hiện câu nói nơi thư gửi giáo đoàn Thessalônikê mà lại không biết câu này... Thế mới có thể nói Thần Khí của Đức Kitô làm việc bằng nhiều cách khác nhau...
- Con đọc Kinh Thánh nhưng nhận ra Phúc Âm viết khác hẳn Cựu Ước và các thự Theo nhận xét của con, Phúc Âm trình bày một Thiên Chúa đối nghịch với quan niệm thông thường của mọi người nhất là quan niệm Do Thái nơi Cựu Ước. Các thư đa số dùng Phúc Âm như những bài học luân lý theo quan niệm thế tục một chiều, đã không làm sáng tỏ mà có thể còn dẫn giải sai lạc Phúc Âm; do đó con không để ý đến câu "Hãy nghiệm xét mọi sự" mà chỉ tự đặt vấn đề rồi góp nhặt những câu nói trong Phúc Âm để so sánh.
- Anh không sợ bị rối đạo sao?
- Con nghĩ, Phúc Âm đâu phải viết riêng cho một giới đặc sủng nào mà cho mọi người. Tôn giáo không phải là cùng đích đời người cũng không phải là đường hướng tâm linh. Đức Giêsu nói "Ta là đường, là sự thật, và là sự sống" chứ không nói đạo này là đường, đạo kia là sự thật, hoặc đạo nào đó là sự sống. Hơn nữa, vì nhận thấy Phúc Âm trình bày khác hẳn nếu không muốn nói là đối nghịch với tất cả những sự thực hành tôn giáo nên ý tưởng rối đạo không có quyền lực trên con. Thực tâm mà nói, con không cho phép bất cứ sự sợ hãi nào ảnh hưởng đến mình do đó chẳng ai có thể hù con được...
- Trên đời này nào ai có thể hù được ai, nhưng sao anh lại nghĩ đến vấn đề này...?
- Theo kinh nghiệm tôn giáo so sánh với Phúc Âm, con nhận thấy Phúc Âm nói về một lòng tin, một Thiên Chúa, một Nước Trời khác biệt với tất cả những gì con được học nơi giáo lý... Thêm vào đó, con có cảm nhận những lời giảng giải của các vị thuyết giáo hình như cứ cố tình loan báo về tội chứ không thấy Tin Mừng đâu cả. Đã gọi là tin mừng sao cứ nói về hình phạt sợ muốn chết... nào lửa sinh lửa diêm, nào người này nhìn thấy đất nứt ra để lộ hỏa ngục, nào Chúa nổi cơn thịnh nô... Con thử hỏi cha, rao giảng một Thiên Chúa yêu thương vô bến bờ, và nhân từ, hay thương xót mà dám oang oang nói cũng Chúa ấy nổi cơn thịnh nộ thì tự lời rao giảng đã chống đối lẫn nhau. Phúc Âm rao giảng về sự tha thứ lầm lỗi bởi lối nhìn sai lầm thế tục mà đạo nào cũng chỉ rao giảng về tội; thế nên, có phải sự rao giảng trở thành cổ võ điều đối nghịch Phúc Âm hay không? Con không thể tưởng được phương pháp nào tàn tệ hơn cách dạy cho những người tốt lành đi nhà thờ về tội mà lại gọi đó là rao giảng Tin Mừng... Cha thử trả lời con xem, một Thiên Chúa nhân từ vô cùng có thể là một Thiên Chúa công thẳng, chính trực được không? Một Thiên Chúa yêu thương vô bờ bến có can đảm để phạt con người đời đời được không? Thiên Chúa của mấy nhà thuyết giáo kỳ cục vì đó chỉ là Thiên Chúa theo quan điểm thị dục của con người. Đức Giêsu rao giảng một Thiên Chúa "cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác" (Mt. 5:45) thế mà cứ hô ầm lên Chúa thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ. Có lẽ con rối đạo rồi nên không sợ rối vì Tin Mừng có thể chỉ được viết cho những người không có đạo mà thôi. Con trộm nghĩ, người có đạo không cần đến Tin Mừng vì nếu theo đúng Phúc Âm sẽ bị coi là rối đối với những tôn giáo lấy Phúc Âm làm chuẩn.
- Thế anh không sợ xuống hỏa ngục sao? Cha Hoàng mỉm cười hỏi diễu.
- Khi một người đã ở tận đáy vực thì còn nơi nào cho họ rơi nữa thưa chạ Kính thấy giọng ngài hỏi có vẻ dễ chịu nên ra bộ nghiêm trang nói. Có câu truyện kể rằng anh kia khi ngủ cứ hay trở mình tùm lum và nhiều lần lăn khỏi giường rớt xuống đất khiến anh ta giật mình rất khó chịu. Hỏi một cụ già xem có cách nào chữa trị để khỏi bị té lúc đang ngủ, cụ trả lời, thì đừng ngủ trên giường nữa sao anh có thể rơi xuống đất... Nếu nói theo Kinh Thánh, sau khi ông Adong và bà Evà phạm tội, và vì là tội nguyên tổ lớn lao hơn hết mọi tội nên Thượng Đế tức giận đuổi họ ra khỏi vườn địa đàng. Cả đôi rớt tõm xuống hỏa ngục sinh con đẻ cháu, làm ăn thịnh vượng, sung sướng đến độ vui thú không tha thiết gì đến cảnh buồn tẻ ở vườn địa đàng. Thấy lâu quá không có ai năn nỉ trở lại cảnh điền viên mát mẻ không rượu chè, cờ bạc, trai gái, sống mãi không già ấy, Ngài phải nhập thể làm người thử xem vì lý do gì. Ngài hiện thân thành Đức Giêsụ Đó là nguyên nhân tại sao Đức Giêsu bị quân Giurêu kêu trách đã ăn nhậu với bọn người tội lỗi.
Câu kết luận chẳng ngờ khiến cha Hoàng lại phá lên cười. Anh này đã nhận ra được sự giới hạn của ngôn ngữ diễn tả nơi Kinh Thánh hèn chi có được nhận định trung thực về ảnh hưởng thị dục của tổ chức thế tục nơi các tôn giáo. Đem so sánh sự sung sướng cuộc sống hữu hình với cảnh buồn tẻ theo con mắt thế tục về thiên đàng bao hàm ngụ ý chê bai sự hiểu biết hạn hẹp nhân sinh về con đường tâm linh, nói kiểu này chắc thiên hạ sẽ cho là ngang lắm đây. Thế mà lại còn ra bộ nghiêm trang kể chuyện không muốn rơi khỏi giường thì cứ dưới đất mà nằm... Đúng vậy, người nào đã suy niệm và tìm hiểu nơi Phúc Âm thì chẳng có quyền lực nào đe dọa họ được nữa; Lời Chúa giải thoát con người khỏi những lo âu kết quả của thị dục.
Chị Lữ cũng vừa dọn dẹp xong, nghe thấy cha Hoàng cười, mang bình nước nóng ra phòng khách, trong lúc châm thêm nước vào ấm trà, chị hỏi,
- Có chuyện gì mà hôm nay cha vui thế?
- Nếu tôi không lầm thì dân ở đây cho rằng anh Kính nói ngang lắm phải không?
- Anh ấy có biệt hiệu là Ngáng Kinh mà, thưa cha.
- Đem kèn thổi tai trâu không bị nó húc cho còn là may lắm...
- Anh ấy cũng bị vài vố rồi nhưng cũng may vì nếu không đúng cơ... lại ít nói.
- Bị như thế nào, cha Hoàng hỏi.
- Hôm ấy cũng nhậu ở nhà con, nhân đọc kinh giỗ ông nội anh Lữ nên có mời thêm mấy cụ chòm xóm... Chẳng biết đầu đuôi phát sinh từ đâu mà người bàn vô, kẻ tán ra về lợi ích của việc đọc kinh cầu nguyện cho người chết. Lúc mọi người đã ngà ngà, anh Thanh nói, lên thì lên rồi, xuống cũng xuống rồi, con cháu chỉ mượn cớ đọc kinh cầu nguyện cho ông bà để ăn nhậu. Hoa nến thì ít mà tiền bia tiền rượu thì nhiều; do đó, muốn tụ họp nhau ăn uống thì cứ nói thực chứ đừng mượn cớ, bởi đọc kinh, cầu nguyện thì ai đọc nhà nấy đâu tổn ải chi... Nói qua nói lại, cuối cùng anh Kính lên tiếng, "Đọc kinh thì cứ đọc và nhậu thì cứ nhậu, đàng nào cũng có lợi đâu hại chi mà phải bàn tán." Mấy người bạn hùa nhau bắt chứng minh lợi như thế nào bởi vì xưa nay anh Kính nổi tiếng nói ngang mà hợp lý... Thế rồi anh ấy mới lên giọng khiến mọi người tưởng là chuyện quan trọng lắm lo lắng tai nghe. "Thì đọc kinh, cầu xin từ miệng mình nên Chúa nghe mình mà ban cho mình chứ chẳng lẽ mình xin Chúa ban cho kẻ khác. Việc này cũng giống như sự đổi chác có lời, bỏ ra ít phút đổi lấy ơn huệ nọ, ơn huệ kia theo ý thích thì tất nhiên phải có lợi. Đàng khác, ăn nhậu mà không có lợi cho mình thì ai ăn làm chi, âu là nhất cử lưỡng tiện, vừa được đàng nọ lại được cả đàng kia. Có điều, Phúc Âm chỉ nhắc đến nào vua Đa-vít, vua Salômôn, Abraham, Lazarô, thánh Giuse, người trộm lành, ông nọ, bà kia, tất cả chẳng ai được rửa tội mà cũng không ai là Công Giáo... " Lạy Chúa tôi, mấy cái mỏ ngà ngà rượu đổ xô vào biện minh cho công lao giữ đạo của họ. Có cụ nói, "Anh nói gì giống quân chống đạo vậy? Đi nhà thờ nhà thánh không chịu nghe giảng giải lại nói thiên đàng không có người Công Giáo... "
Cha Hoàng lại cười... Thế mới biết, không dám suy nghĩ hoặc đặt vấn đề đối nghịch chỉ là sự lạm dụng những câu nói đã có sẵn một cách từ chương. Điều này chứng tỏ một nội tâm mù đặc hoặc ỷ lại... Như vậy mới giải thích được câu: "Không phải mọi kẻ nói với Ta lạy Chúa, lạy Chúa là sẽ vào được Nước Trời."
- Có lần khác, bố anh Thanh hí hửng vì đỡ đầu cho gia đình ông bà Tuyến mới sang trở lại đạo. Hôm rửa tội làm tiệc mừng linh đình. Anh Kính cũng ở đó vì anh Thanh cố kéo tới cho có bạn nhậu. Nơi bữa tiệc, thôi thì cụ này tuyên dương công trạng, cụ kia tỏ lời khôn ngoan khói lên... Tại nhóm xồn xồn, bia bung thi đua bật cứ như pháo rang. Anh Thanh được bữa làm chủ xị nên ngà ngà sớm bèn lên giọng: "Thiên đàng chỉ là hồ tắm bằng bia, không cần uống cũng hạnh phúc tràn đầy." Lời qua tiếng lại chẳng hiểu chuyện đi về đâu đến lúc anh Kính nói, "Thế là từ nay thêm một mớ bước vào con đường hẹp. Đường thênh thang không muốn, đường khốn khổ đầy hy sinh, chịu đựng lại cứ thích tỏ ra vinh quang tiến vào." Chẳng ai hiểu anh Kính nói gì, đến lúc gặn mãi, anh ấy mới giải thích, "Ở ngoài thì đâu có hỏa ngục mà xuống! Tại sao gọi là trở lại vì nào có ai vừa sinh ra đã là Công Giáo rồi bỏ trốn mà dùng tiếng trở lại. Nếu trở lại phải nói là trở lại với những gì mình đã được sinh ra với nó, tức là bỏ tất cả mọi sự hiểu biết đã được dạy dỗ để trở về với chính mình." Và thế là sau này có tin đồn cho rằng anh Kính chống đạo.
Con chim có thể bay vì đã được sinh ra với khả năng và đôi cánh để bay; con người có thể suy tư nên được sinh ra với khả năng và khối óc để tư tưởng... Anh này bị vạ vì không chiều theo nhận định được đa số chấp nhận mà dám dùng khả năng suy tư nghiệm xét... cha Hoàng nghĩ.
- Lần khác lại cũng trong bữa nhậu, số là anh Chỉnh có đứa em họ yêu thương một người ở Texas lỡ có bầu hai tháng... Đến khi biết chuyện, bố mẹ, ông bà họ hàng lo xốn vó lên bởi trái bom cứ từ từ tới thời điểm mà đàng trai, đàng gái dắt díu nhau đến gặp cha, không hiểu còn đang bận bịu chuyện gì và vì chẳng biết cái vụ bom nổ chậm, ngài cứ nói thong thả đã. Luật hôn nhân đòi phải gặp linh mục sáu tháng trước mà đã ba tuần, ba lần đi gặp cha, hãy còn bị trả lời thong thả nên gia đình đàng gái bắt đầu có điều ong tiếng ve... bởi e rằng đến ngày cưới cô dâu vác cái bụng chình ình ai coi cho được. Không hiểu người nào ngứa miệng đưa vấn đề này ra giữa lúc nhậu khi các tướng đã ngà ngà, và thế là kẻ đặt vấn đề phải kiếm cha khác, người nói nên đi gặp cha xứ Mỹ, lại có người dám cả gan đề nghị để con nhỏ sanh xong rồi ít tháng sau hãy cưới. Người bàn vô, kẻ tán ra thật gay cấn nhưng không ai nêu lên nổi ý kiến gì thiết thực có thể giải quyết vấn đề cho êm đẹp vì được đàng nọ lại mất đàng kia... Cuối cùng, không hiểu sao anh Kính đế vộ Cha biết không, từ đầu đến cuối, anh ấy chẳng nói chẳng rằng thế mà lúc chót lại quay ra phá ngang, "Tôi tưởng rằng không có bầu được mới sợ chứ đã có bầu rồi thì chẳng có phép cưới con bé vẫn đẻ." Ai cũng nghĩ anh ấy có ý kiến gì hay về cưới hỏi nên im lặng chăm chú nghe, nào ngờ chỉ bầu với đẻ khiến mọi người chưng hửng. Anh Chỉnh bô bô nói, "Mày nói như cái đếch, không có bầu chỉ có đái chứ sao có thể đẻ mà cũng nói." Con xin lỗi cha; thế rồi anh Kính bồi thêm một câu càng khiến mọi người xôn xao, "Bộ tao nói sai sao? Có bầu và cưới chuyện nào quan trọng hơn... " Đơn giản chỉ có thế mà có người sau này cho rằng anh Kính coi thường phép đạo.
Cha Hoàng ôm bụng cười... Chị này hôm nay kể chuyện thật sống động mà sao gặp mấy lần trước chị ta có vẻ im lìm như không để ý bất cứ ai nói gì, có được hỏi chỉ trả lời cho qua... Ngài thấy hơi lạ nhưng ngại hỏi vì e chị Lữ cụt hứng nên nói,
- Theo chị, lý do gì anh Kính bị họ nói như thế?
- Từ lâu con chỉ để ý nghe nhiều nhưng thấy mình không hợp với những chuyện vẫn thường được mọi người đề cập đến do đó chỉ ậm ừ cho quạ Con thấy anh Kính nói cũng hơi có lý nhưng không đặt vấn đề nhiều, chỉ nghe sao biết vậy bởi không có người nói chuyện hợp với mình nên ý nghĩ đến rồi đi. Sở dĩ từ nãy đến giờ con nói nhiều vì con mời anh Kính tới dùng cơm trưa rồi nói chuyện cả chiều nay nên quen miệng đó thôi... Con nghĩ để anh Kính giải thích vì chỉ anh ấy mới có thể nói đúng điều anh ấy ám chỉ...
- Sao anh Kính, lý do gì anh có thể đặt vấn đề về những chuyện như thế một cách vừa bình thường vừa khác thường như vậy.
- Thật sự, đó là những bài học trả giá về cái rởm của con thôi. Con đã biết rõ từ lâu có nói ra cũng vô ích và còn bị những người chung quanh lên án thế này thế kia, nhưng âu cũng là cái nghiệp con phải trải qua... mình trả cái nghiệp nhưng tội cho những người vô tình vấp phạm. Ở đây, nói với cha và chị Lữ con không có ý nghĩ gì hết vì thấy chẳng có gì đáng nói mà vì cha hỏi nên con tóm tắt đại khái... Đọc kinh là một điều tốt nhưng chủ đích đọc kinh trật bởi không đọc thì e người khác nói mình bất hiếu nọ kia và những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh đã khiến việc đọc kinh trở thành một loại thời trang a dua, thiếu hiểu biết do đó con cố nhịn, nhưng phần nào thấy cần thức tỉnh họ đôi chút nên ngứa miệng. Cha coi, những người được tôn trọng trong Phúc Âm có ai là Công Giáo đâu mà tại sao đã bao nhiêu năm câu nói "Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ" đã thống trị dân Chúa để rồi sinh ra không biết bao lòng khinh khi người khác là quân vô đạo, là quân ngoại... Cho đến bây giờ có lẽ vẫn còn những cụ già tin tưởng rằng ai không được rửa tội sẽ mất linh hồn. Khổ thật, chính mình cũng chẳng biết linh hồn của mình là thứ gì, to bé thế nào, hình dáng, màu mè ra sao mà cứ dựa vào danh hiệu tôn giáo một cách mù mờ tưởng rằng như thế là đủ, như thế là đáng được cứu. Theo con, chưa chắc họ đã hiểu họ mong được cứu thoát khỏi điều gì!
- Thì khỏi bị phạt, khỏi bị sa hỏa ngục chứ còn điều gì nữa!
- Ối giời ơi! Chị còn đủ can đảm để nói được câu này à?
- Em nói họ muốn được cứu thoát khỏi phải sa hỏa ngục.
- Chưa sa sao đã phải cứu?
- Thì sợ phải sa!
- Như vậy thì việc cứu thoát đầu tiên phải là cứu khỏi cái sợ. Thế nên, quyền lực đang hoành hành nơi họ là sự sợ hãi, không phải hỏa ngục. Chị thấy rõ chưa, Đức Giêsu đem đến Tin Mừng không ai thèm để ý tìm hiểu mà cứ làm tôi mọi cho sự sợ hãi thì có được cứu cũng vẫn còn sợ hãi.
- Anh Kính nói có lý nhưng khó có người dám chấp nhận vì có thể chưa đến lúc con người nhận ra hoặc không muốn được cứu... Cha Hoàng thêm vô.
- Cha nói sao, ai là người không muốn được cứu? Chị Lữ hỏi.
- Những người không dám nghiệm xét mọi sự!
- Cha có thể giải thích lý do nào khiến một người không dám nghiệm xét?
- Câu trả lời đúng nhất là chị tự hỏi. Có thể con người không muốn biết hoặc là không biết bởi không tìm hiểu, có thể sợ vì thấy sự suy nghĩ của mình không giống những điều người khác nói, có thể sợ bị cho là ngang, là rối, có thể cho rằng đã có Chúa cứu và mình chỉ làm theo những gì được bảo làm là được cứu... Thôi quá đủ, bây giờ phải trở lại chuyện của anh Kính để nghe giải thích lý do chống đạo... Cha Hoàng trả lời giọng nhẹ nhàng mang đậm nét tê tái...
- Con đâu bao giờ có ý nghĩ chống đạo nhưng đau lòng thì đúng hơn. Con tôn trọng những người không cùng tôn giáo với con thì sao lại phải chống đối ai! Chỉ có điều cảm thấy khắc khoải vì gần hai ngàn năm, lời Đức Giêsu rao giảng đã bị hiểu lầm và đạo đã trở thành mối đe dọa cho những người tin theo. Con đã nhiều lần tự hỏi, giả sử không có điều luật thứ ba giữ ngày Chủ Nhật thì phỏng có ai tới nhà thờ không? Họ tới nhà thờ vì sợ hay vì lý do gì? Tại sao những đạo khác chẳng hạn như Đạo Phật, Đạo Lão họ không có điều luật giữ ngày Chủ Nhật mà họ có thể xây được những đền đài lớn lao như thế? Nếu nói rằng không ở trong chăn không biết chăn có rận thì lại càng chứng tỏ tôn giáo đã không dẫn con người tới dòng suối tâm linh mà còn ngăn cản. Chính nhận định này giúp con cảm thấy thấm thía sự đau lòng của Đức Giêsu qua câu nói: "Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào... " và nhiều nữa nơi Phúc Âm Máthêu đoạn 23 từ câu 13 tới câu 39. Mới đọc thì con tưởng Đức Giêsu lên án họ nhưng sau khi đọc lại nhiều lần con cảm thấy Ngài đang hét lên cho vơi bớt nỗi thương tâm... Giọng Kính trở nên trầm buồn... Đức Giêsu đến rao giảng Tin Mừng mà hỏi Tin Mừng là gì nào ai biết! Nếu đã không biết Tin Mừng thì lại càng không hiểu gì về Nước Trời và lòng tin mà chỉ luật này luật kia, phải thế này, phải thế nọ, những cái phải không phải là mình mà thôi! Đâu phải phi lý mà Phúc Âm đặt vào miệng Đức Giêsu câu nói, "Hỡi con gái Yêrusalem đừng khóc thương Ta, song hãy khóc thương lấy mình và con cái các bà." Tại sao những người theo các tôn giáo khác họ vui tươi, phấn khởi khi nghe giảng thuyết về giải thoát, về thức ngộ; ngược lại, con dân Chúa càng nghe nói về Tin Mừng càng lo sợ xuống hỏa ngục? Phỏng như vậy được gọi là tin mừng hay tin buồn? Con nghĩ, cha là linh mục cha thấm thía nỗi cô độc của Đức Giêsu khi nhìn thấy dân Chúa đã bao nhiêu ngày giờ trải qua vẫn còn trầm luân trong vòng luẩn quẩn thị dục...
- Anh có hiểu tại sao không?
Kính trầm ngâm một chút bỗng lên tiếng với câu nói buông xuôi,
- Chuyện phải xảy ra vậy thôi cha ạ!
- Thế sao anh còn đặt vấn đề cảm thông?
- Đúng rồi, Kính như người vừa chợt tỉnh khỏi cơn mê, vẫn còn lệ thuộc...
Chị Lữ nghe cha Hoàng và Kính đối đáp có vẻ ngơ ngác bởi không hiểu họ nói gì... Thấy thế cha Hoàng nói,
- Tôi hỏi có vẻ kỳ, nhưng chị biết anh Kính nói gì chứ?
- Con hiểu nhưng vì đâu cha lại nói sao anh Kính còn đặt vấn đề cảm thông với Đức Giêsu?
Quay qua Kính, ngài đề nghị,
- Anh giải thích được không?
- Còn đứng về phe nên, cảm thương cho phe không nên thì vẫn còn lệ thuộc...
- Đó là lẽ đương nhiên nhưng cảm thông với Đức Giêsu lại là chuyện khác...
- Dẫu cho mình muốn cảm thông với Đức Giêsu cũng không được vì mình không phải là Ngài nên không thể nào cảm nghiệm được nỗi đau lòng của Ngài. Cha Hoàng thấy chị Lữ chưa thể chấp nhận thì dẫu có giải thích mấy cũng vô ích nên nói trớ về tính chất cảm nghiệm. Thế còn vấn đề không cưới mà có bầu anh giải thích thế nào? Cha Hoàng quay qua Kính hỏi.
Kính hiểu ý ngài; anh thầm nghĩ, từ nay mình không hy vọng hiểu được ngài thế nào nữa. Ngài đã vượt sang thế giới quá xa mà càng xa lại càng trở thành cớ vấp phạm cho nhiều người. Có bao giờ ngài đặt vấn đề về điểm này không, anh tự hỏi... và lại chợt nhận ra mình vẫn còn vương vấn với lẽ nên và không nên; anh nói,
- Có gì đâu thưa cha, người ta chỉ biết phải có bí tích hôn phối vì không có thì sẽ có tội, chết sa hỏa ngục bởi được dạy bảo thế và phải như thế để được yên tâm, và nếu là người Công Giáo mà không có phép cưới, họ hàng thôn xóm sẽ chê cười, ra nguýt, vào lườm. Họ sợ bị người khác nói thế nọ thế kia chứ không phải vì phép bí tích. Con thử hỏi, giả sử đôi bạn trẻ nào đó ăn ở với nhau chẳng phép tắc chi mà mãi không có bầu, phỏng đến gặp linh mục để chịu phép cưới thì có bầu được không? Con người được sinh ra với quyền lực hiện hữu tác tạo thì chẳng thèm nhận biết mà cứ lo mất mặt với chê cười; phỏng không có mặt sao mất? Vậy bao nhiêu triệu người không phép cưới từ ngàn xưa đến giờ họ thế nào? Thực ra, theo con nghĩ, phép bí tích là sự tuyên xưng, tuyên dương quyền lực hiện hữu nơi con người, quyền lực của Thiên Chúa đang tràn lan mọi nơi mọi chốn mới đúng. Đàng này, phải có phép cưới vì sợ thế này, sợ thế kia... sao con người khổ thế! Vậy linh mục nào thời đó làm phép cưới cho Đức Mẹ và thánh Giusẻ Ai rửa tội cho Abraham, Jacob, Đavít, Salômôn? Miệng thì oang oang theo Đức Giêsu mà lòng đầy những lo sợ trong khi Phúc Âm chẳng chịu tìm hiểu chỉ chờ được cứu. Ối giời! Có muốn được cứu đâu mà chờ! Câu cuối cùng Kính nói theo hơi thở dài!
- Nói như vậy có lẽ anh đã hiểu được câu Phúc Âm nơi Gioan, "Ngài đã có trong thế gian mà thế gian đã nhờ Ngài mà được có mà thế gian đã không biết Ngài" (1:10). Bất cứ nơi đâu người ta cũng có thể lấy được lửa mà đã phải những bao nhiêu thế kỷ con người mới biết lửa là gì... Sự thánh thiện của từng tạo vật vẫn chưa được nhận ra cũng chính bởi không muốn tự tìm hiểu trong khi cứ đinh ninh những sản phẩm suy tư, cặn bã của người khác để lại là khuôn mẫu để rồi cố gò ép mình trở nên những gì không phải là mình và hy vọng thần linh từ nơi xa thẳm nào đó đến phù hộ và cứu thoát do chẳng nhận ra quyền lực ngay nơi mình. Họ biết quá nhiều những điều không cần thiết nên không thể nào hiểu được câu "Hạnh phúc thay những kẻ ngu đần." Tuy nhiên, kinh nghiệm sống chứng minh, dù chỉ lời nói nghi ngờ sự chính đáng của qui ước một tổ chức cũng làm những người trong tổ chức đó phẫn nộ dẫu họ hiểu thế nào. Khi thời điểm chưa tới thì càng quay cuồng chỉ càng trở nên lệ thuộc cho ước muốn tốt lành. Thực ra, chẳng nên làm cho kẻ khác những gì mình muốn vì cái thích của họ khác của mình; đồng thời làm cho họ những gì họ muốn lại có thể là phương pháp giết họ một cách độc hại.
Giọng cha Hoàng trầm trầm, nhẹ nhàng nhưng chẳng khác gì những tiếng trống đập ngay nơi màng tang Kính. Con đường đi tới của mình còn dài, ngược lại còn muốn tới tất nhiên chưa tới, thôi thì đành chấp nhận chờ đến thời điểm cây đơm bông sẽ tự trổ bông, anh thầm nghĩ... Chị Lữ ngồi nghe mà cảm thấy cha Hoàng nói gì đâu lộn xộn. Thế nào là làm cho họ những gì họ muốn lại có thể là phương pháp giết họ một cách độc hại?...
Có tiếng vỏ xe cán trên sỏi lạo xạo bên ngoài; mấy phút sau anh Lữ, kỹ sư Long và nha sĩ Hải mở cửa bước vào. Theo câu chuyện kể lại, chẳng thà họ chịu nghe anh Lữ về sớm thì mỗi người được vài trăm... Tuy nhiên, anh Long biện luận, nếu số hên sẽ ôm về một mớ mà đã chẳng hên có cháy túi thì đã biết rõ trước khi xuống sòng bài... Sau ít phút nước non, cha Hoàng theo họ ra về, vẫn những bước đi gọn ghẽ với tướng nét tàng tàng. Kính thầm lặng, mang nặng lòng vương vấn, đếm bước dọc theo con đường nhỏ đây đó những bóng đèn đường chơ vơ tỏa ánh vàng đục như muốn chia nỗi cảm thông... Chị Lữ rửa chén tách, lau khô cất vào tủ mà ý nghĩ mông lung về câu nói nghịch thường từ cửa miệng người linh mục trẻ...
Chương 20
Dẫu những buổi họp mang nặng tính chất khuôn mẫu, theo sát từng tiết mục đúng chương trình đã được định sẵn kèm theo giới hạn thời gian nhiều khi đến độ buồn tẻ đối với Kính, anh vẫn tự dặn lòng chẳng nên đề nghị thay đổi vì tất cả những sự thay đổi bên ngoài chỉ là kết quả của sự thức ngộ tâm hồn. Muốn thay đổi một hệ thống phải hòa nhập vào nó trước, đó là lý do tại sao anh tham gia ba đoàn thể, ca đoàn, đạo binh, và liên minh thánh tâm. Thành viên của ca đoàn và liên minh thánh tâm thuộc lứa tuổi xồn xồn dễ cho anh hòa nhập, nhưng đạo binh, chẳng dễ gì, hãy để họ ngủ yên chờ cơ hội, anh thường nghĩ. Và cơ hội đã tới! Thế nên khi cụ Chánh tỏ vẻ e ngại về đạo Satan, Kính lên tiếng hòng có cơ hội giải thích...
- Theo tin tức, người đàn bà có cuộc sống cũng không tốt lành gì nếu xét dưới con mắt luân lý... Chị ta có ba đời chồng nhưng bây giờ sống riêng... và người ta cũng tìm thấy nơi nhà chị ta ở một vài dấu tích hút xì ke... Nhìn vào thực trạng, chúng ta nhận thấy con người sống nơi những đất nước giầu có, quá đầy đủ phương tiện vật chất đến độ chán ngấy mà vẫn không được thỏa mãn niềm khát vọng ẩn tàng luôn luôn thôi thúc nên tìm kiếm những gì vượt trỗi hơn. Sự kiếm tìm này đã đẩy khá nhiều người vào những con đường chẳng nên do thiếu ý thức tâm linh, chẳng hạn nghiện ngập, hút xách, chích choác, và xa hơn nữa, những phe nhóm gây cảm giác mạnh. Đạo Satan là một trong những hiện tượng này vì Satan không phải là một thực thể như chúng ta thường nghĩ mà chỉ là ước muốn thế tục quá mạnh ám ảnh khiến con người không thoát ra được. Chúng ta đi nhà thờ có lần nghe Phúc Âm nhắc đến việc Đức Giêsu gọi thánh Phêrô là Satan. Nói ngắn gọn, Satan chính là quyền lực của ý định, ước muốn chẳng nên nơi mỗi người chúng tạ Cũng thế, ma quỉ là những hồn bị ước muốn, ý định thế tục khi còn sống quá mạnh mẽ ám ảnh khiến không thể thoát ra được, do đó dẫu thân xác đã chết nhưng hồn vẫn bị chìm ngập trong tham vọng đó... Bởi vậy, đạo thờ quỉ gồm những người chấp nhận để cho những linh hồn chưa thoát khỏi tham vọng thế tục hoành hành, ảnh hưởng. Điều đặc biệt, theo những người chuyên môn nghiên cứu về đạo thờ quỉ và một số biên bản của cảnh sát tàng trữ, bất cứ ai không chấp nhận cho các hồn này có quyền trên mình, dứt khoát không bao giờ bị họ phiền hà vì hồn kẻ đã chết không được quyền đụng đến chúng ta nếu chúng ta không muốn...
- Anh nói như thế thì Satan không phải là tổng lãnh thiên thần kiêu ngạo nên bị phạt à? Giáo lý dạy rõ ràng mà anh lại nói Satan chỉ là hồn con người...
- Đây là lời giải thích dựa theo nhân viên chuyên môn nghiên cứu đạo Satan mà thôi. Họ không thuộc về Công Giáo nên đâu biết giáo lý là gì. Kính nói trớ bởi biết rằng có giải thích gì chăng nữa thì cũng chỉ khiến cho những đầu óc non nớt thêm bối rối...!
Và cuộc họp như thường lệ chiều ngày Chủ Nhật bắt đầu với nghi thức khai mạc...
Lã Mộng Thường
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét