Bấy lâu, ta nghe nói nhiều đến đổi mới tư duy văn học, đặc biệt
là tư duy tiểu thuyết. Đúng và trúng quá rồi! Đã đi vào quan niệm, nghĩa là vào
gốc gác của vấn đề. Nhưng xem ra, ta mới dừng ở lời nói, ở mong đợi hơn là ở
hành động. Cứ đọc bất cứ cuốn tiểu thuyết nào ra đời chừng mươi năm trở lại đây
là đủ rõ. Chúng từa tựa như nhau, từ lối dẫn chuyện đến cách kết cấu, từ kiểu
hành văn đến việc sử dụng chi tiết, từ thể hiện ý tưởng đến xây dựng nhân vật…
Đó chủ yếu là dạng tiểu thuyết hiện thực đã được khẳng định ở Pháp, Anh, Nga…
ngay từ thế kỷ thứ XIX, rồi được vận dụng khác nhau ở nước ta
trong thế kỷ XX. Chừng như không ai cảm thấy hài lòng. Riêng nhà văn thì thấy sốt
ruột. Càng chờ đợi càng sốt ruột. Nhìn qua nhìn lại, chưa thấy động tĩnh gì nhiều,
không sốt ruột sao được. Cuộc hội thảo mới đây về Đổi mới tư duy tiểu thuyết do
Hội Nhà văn tổ chức vào cuối năm 2002 đã phần nào chứng tỏ trạng huống ấy. Mong
mỏi phải nói là da diết. Bắt tay vào làm mới khó làm sao! Riêng quan niệm về tiểu
thuyết và cách viết tiểu thuyết thì hầu như chưa có gì là thật sự mới mẻ. Vậy
nên nghĩ và làm như thế nào đây? Tôi xin được góp đôi lời.
1. Nên tập một thói quen mới là biết từ bỏ những thói quen
cũ.
Ta luôn đòi hỏi sự sáng tạo trong nghề viết. Một đòi hỏi
không cùng, vì có lẽ là một đòi hỏi quan thiết nhất. Xắn tay lên làm mới thấy
khó trăm bề. Khó nhất là lối mòn trong cách nghĩ và cách viết. Nó níu kéo, nó
kìm giữ, chặt và dai lắm! Không dễ vùng thoát đâu. Chả cứ giới viết văn.
Bất kỳ ai có ý định ươm ướm ý nghĩ, cảm xúc của mình lên trang giấy đều cảm
thấy rất rõ điều này. Lãnh vực khác thì dễ cho qua, nghề viết lại không thể. Dấu
hiệu của một trí sáng tạo tầm vóc là tạo ra được bước nhảy bí ẩn trong
đầu óc. Trước tất cả mọi sự là sự can đảm - can đảm bứt ra khỏi lối mòn. Thật
thấm thía câu nói của nhà tâm lý học Mihali: Chúng ta cần tạo lập cho mình
một thói quen lâu lâu lại có ý thức tránh những lối mòn trong suy nghĩ hàng
ngày (Tia sáng, Số Xuân Nhâm Ngọ). Đặc biệt thích hợp với lao động của nhà
văn. Nghệ sĩ lớn bao giờ cũng đồng thời là nhà cách tân lớn. Lịch sử văn chương
đã cho ta không ít minh chứng. Những Rimbaub, Pruost, Kafka, Marquez, Kundera…
Không thể nào kể hết cho được. Để giải phóng sức sáng tạo tiềm ẩn, họ cố tình
vi phạm những quy ước trước đó. Chúng vốn tồn tại như những điển phạm. Nương
theo thì thành, không theo thì bại. Chừng như chúng muốn nói với mọi người như
vậy. Các thiên tài lại nghĩ khác. Họ không tin vào bất cứ điều luật nào. Họ chỉ
tin vào tài năng của chính mình. Có lẽ theo ý nghĩa này mà người ta đã gọi Giả
Bình Ao là một biện sĩ đi bộ một mình trên văn đàn Trung Quốc.
Cũng xin thú nhận là giới lý luận phê bình chúng tôi không phải
hoàn toàn vô can đâu. Lời trách cứ sau của Ôvetskin là hoàn toàn có thể chia sẻ
được: Người ta đẩy chúng tôi đi tìm những hình thức mới, những thể loại mới.
Thế mà khi chúng tôi đi tìm được chúng, thì các nhà nghiên cứu văn học lại
không tìm được những thuật ngữ mới (Nhà văn bàn về nghề văn, Tr.220). Bằng
việc tạo ra các phạm trù, các khái niệm, các nhà lý luận thực chất đã xây nền
móng cho thành trì những quy phạm, quy chuẩn. Hầu như ai cũng thấy nghịch lý ấy.
Nhà lý luận phải tạo dựng các chuẩn mực, hơn thế, các hệ thống chuẩn mực. Nhờ
có chúng mà mọi hoạt động văn chương trở nên tự giác và tích cực hơn nhiều.
Nhưng sinh ra rồi, thì chúng dễ quay lại chế ngự, trói buộc người sáng tác, nhất
là đối với những ai chưa trải nghề hoặc yếu bóng vía. Cần tháo gỡ thôi! Mà phải
tự mình làm, dần dà mà hiệu quả.
Đọc tiểu sử Ray Bradbury, một trong số ít nhà văn Mỹ đương đại
đang sống mà đã có tên trong Bách khoa toàn thư Britannica, tôi rút
ra nhiều điều rất thú vị. Thú vị nhất là ông chỉ mới hoàn tất trung học vào năm
1938, rồi sống tự lập bằng nghề làm báo và viết văn. Ông chưa từng học trường đại
học nào cả. Có lẽ vì vậy mà Ray Bradbury tránh khỏi làn gió của mọi chủ thuyết,
không bị chi phối bởi các lớp dạy viết văn. Ông chỉ đọc và viết những cái chính
ông cho là hay. Ở một ý nghĩa nhất định nào đó có thể nói ông không mất công sức,
thời giờ xóa bỏ những ràng buộc cũ, để đi ngay, đi nhanh trên con đường sáng tạo
của mình. Nói thế, tôi tuyệt nhiên không có ý xem thường lý thuyết. Tôi chỉ xem
thường những nhà văn bị lý thuyết chung ngự trị đến mức không cất đầu lên nổi.
2. Tuyệt nhiên không chỉ có một dạng tiểu thuyết duy nhất.
Ta vốn quen với dạng tiểu thuyết hiện thực, quen đọc và quen
viết. Lâu ngày quá nên nhiều người tưởng chỉ có một dạng tiểu thuyết ấy thôi.
Không đúng đâu, ngoài trời này còn có trời khác nữa! Mà chả cứ gì tiểu thuyết,
văn chương nói chung là vậy. Cuộc đời luôn đổi thay lẽ nào văn chương lại định
hình. Tôi tán thành với P.Meijer: Lịch sử của các thể loại văn học cần được
coi là một sự thay đổi liên tục của các cách hỗn hợp, những cách hỗn hợp này có
thời đã vững chắc đến mức làm người ta tưởng như chúng phải như thế (Đổi mới
tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, 2002, Tr. 294). Rồi sẽ còn xuất hiện những
thể tài, kể cả những loại hình văn chương chưa từng có bao giờ. Ta cần chuẩn bị
trước tâm thế này để có thể chấp nhận mọi điều lạ kỳ nhất sẽ xảy ra. Không thế,
ta sẽ trở thành kẻ đứng ngoài cuộc, tiếc và buồn lắm. Trong khi văn chương cũng
như cuộc đời cứ thẳng tiến về phía trước, không gì và không ai có thể ngăn cản
nổi.
Để thích ứng với những chuyển biến bất ngờ nhất, tôi nghĩ, có
lẽ ta nên lấy tinh thần văn chương, tính chất văn chương để mà xem
xét. Có nghĩa, cách nhìn phải thật sự phóng đạt và uyển chuyển. Thực tại vốn
huyền bí và biến đổi kia mà! Để lý giải thực tại ấy, lôgic cổ điển với những luật
đồng nhất, mâu thuẫn và bài trung, giờ đã phải nhường bước cho lôgic phi cổ điển:
lôgic xác suất, lôgic đa trị, và mới đây nhất là lôgic mơ hồ. Tôi đặc biệt
thích thú khi đọc bài thơ Fractan của Ngô Văn Phú. Fractan là gì? Đó
là quan niệm hình học chỉ một khối hỗn độn trên cùng một không gian gồm những
đường không rõ đường, mặt không rõ mặt, khối không rõ khối, hàng nghìn, hàng
triệu đơn vị tập hợp lại gây cảm giác vừa tỏ vừa mờ, vừa thật vừa ảo. Vẻ đẹp
Fractan là thế. Đó là vẻ đẹp của chính sự sống mà văn chương, nghệ thuật cần
giành giật, chiếm giữ. Vẻ đẹp Gờ của lá. Bờ của biển, đặc biệt vẻ đẹp
của con người Em đến giản đơn đâu là thần thánh/ Mà chính khi màu nhiệm,
hào quang, sự biến báo của đời người: Khi ta tưởng với tới thiên đường/ Tai
họa lại gần kề đâu đó. Câu kết ẩn chứa sự khái quát rộng rãi:
Bởi trải nghiệm muôn hình fractan thế sự
Anh mới có em trong hư tĩnh chiều nay.
Riêng với một nhà lý luận phê bình như tôi, quan niệm fractan
giúp bản thân có được sự hư tĩnh để chứng kiến mọi sự chuyển động,
xoay vần của đời sống văn chương. Chẳng hạn, tôi có thể chấp nhận được
cái nhìn của Kundera khi nhà văn danh tiếng người Czech này cho rằng, cái mà tiểu
thuyết khảo sát không phải là hiện thực mà là hiện sinh (tức
tình thế nhân sinh), nghĩa là những cảnh huống của con người cá nhân trên cõi đời
luôn thay đổi. Hay Kundera nói dứt khoát: Tiểu thuyết không phải là một thứ
tôn giáo của tác giả… nghĩa là không nhằm thuyết phục, truyền bá một tư tưởng,
mà nhằm gây hứng, đánh thức sự phát triển của tư tưởng khác, làm cho tư tưởng
đó chuyển động (Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Tr.281 & 280). Đối với những
ai chỉ tin vào tiểu thuyết hiện thực thì tôi xin đảm bảo là chính nó hiện cũng
đổi khác nhiều rồi. nhà văn Urugoay A.Graniva khẳng định: Theo ý tôi, chủ
nghĩa hiện thực hoàn toàn cho phép sử dụng trong văn chương những kết quả tưởng
tượng hoang đường nhất nếu như nhờ chúng mà đạt được cái nhìn trung thành vào
những mặt cốt yếu của đời sống xã hội. Trữ lượng của chủ nghĩa hiện thực chưa hề
vơi cạn, trữ lượng đó được phát triển thường xuyên chính vì thực tại hết sức biến
động, hết sức giàu có đến mức buộc nhà văn phải căng sức ra mà tìm tòi những
phương tiện để phản ánh nó đúng đắn (Số phận của tiểu thuyết, Nxb Tác phẩm
mới, 1983, Tr.304).
Cũng phải thừa nhận là những tiểu thuyết mới lạ chưa thể có
nhiều độc giả ngay được. Ý kiến của Tiến sĩ Phạm Thành Hưng về thực tế tiếp nhận
các tác phẩm của Kafka và Kundera đáng để chúng ta suy ngẫm: Đọc trọn vẹn,
đọc một cách hứng thú một tiểu thuyết của Kafka là chuyện không dễ. Những tác
phẩm của Kundera hiện nay cũng vậy. Đó là thứ văn chương khó đến được với độc
giả phổ thông. Cả hai ông đều đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa triết lý nhân
sinh, mang tính nhân loại sâu sắc (Văn nghệ, Số 14/2003). Từ đó tôi tán thành
với nhà thơ Phạm Đức là song song với sự thay đổi của tư duy sáng tạo cũng cần
tới sự đổi mới cả tư duy tiếp nhận tiểu thuyết nữa.
Tuy nhiên, khởi đầu bao giờ cũng từ người sáng tạo. Mà nói tới
tiểu thuyết là nói tới quy mô, tới rất nhiều công sức và thời giờ bỏ ra. Nhà
văn Ôvetskin hình dung thế này: Cứ viết xong một tác phẩm mới là một đoạn
đời bị tiêu ma. Và không tiêu ma một cách đơn giản như anh ngồi viết thì một đoạn
đời trôi qua: viết ba tháng thì hiển nhiên ba tháng đã mât đi khỏi cuộc đời.
Không. Viết ba tháng thì một năm bị tiêu ma. Viết một năm thì ba năm bị tiêu ma (Nhà
văn bàn về nghề văn, Tr,223). Ôi! Chuyện đó lại vào cái thời buổi con người
không thể sống thiếu thốn, kham khổ như trước được. Mình và cả người thân của
mình nữa chứ! Thế là người viết tiểu thuyết chạm ngay phải vấn đề cơm áo đời
thường. Ai đây trong chúng ta có thể nghĩ và làm được như Giả Bình Ao nhỉ? Ông
tự xác định: Chỉ cần có cơm ăn là tôi vẫn viết văn. Ta đành chờ đợi vậy!
Để kết thúc, tôi xin được tỏ bày hai điều:
1. Đã lâu rồi, tôi có đọc một ý nghĩ sau của Minh Hồng, người
Việt Nam đầu tiên đặt chân tới Nam Cực: Mình không thích một cuộc sống
bình lặng. Những thử thách và nỗ lực phấn đấu vượt qua thử thách - đó mới chính
là ý nghĩa của cuộc sống (Nhân dân hàng tháng, Số 9/1998). Liệu mỗi người
cầm bút chúng ta có thể học được gì từ cô gái nhỏ nhắn, trẻ trung này?
2. Còn mới đây, tôi được đọc bài thơ Những gợn sóng của
KoUn qua bản dịch của Nguyễn Quang Thiều. Nhà thơ Hàn Quốc này, theo sự giới
thiệu của Tổng thư ký Hữu Thỉnh, thì năm 2002 vừa qua ông được số phiếu đề cử
Giải Nobel Văn chương rất cao, chỉ đứng sau người trúng giải. Bài thơ cực
ngắn:
Hãy nhìn!
Có phải tất cả gợn sóng chuyển động
Bởi một gợn sóng bắt đầu chuyển động?
Không.
Tất cả những gợn sóng cùng chuyển động.
Mọi vật đều nghiêng từ cái thế bắt đầu.
Đừng e ngại thế nghiêng của sự bắt đầu. Cho
phép tôi được đặt niềm tin và lòng mong mỏi vào sự cùng chuyển động ở
tất cả chúng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét