Vài nét về tính dân tộc
Văn học cũng như mọi loại hình nghệ thuật khác đều là sản phẩm
tinh thần của một cá nhân nghệ sĩ. Mà cá nhân người nghệ sĩ đó lại thuộc về một
cộng đồng, một dân tộc nhất định. Mỗi tác phẩm văn học ít nhiều đều mang
dấu ấn riêng về văn hóa, phong tục tập quán hay tâm lý, tính cách đặc
trưng của dân tộc mình. Vậy tính dân tộc có thể được xem như là một thuộc tính
xã hội của văn học, là một “thuộc tính tất yếu của việc sáng tạo” (Bielinxki)
Tính dân tộc có thể được hiểu là những đặc điểm nổi bật của cộng
đồng người có chung lãnh thổ, ngôn ngữ, phương thức và chế độ chính trị
trải qua một thời kì lịch sử lâu dài. Tính dân tộc không bộc lộ một cách rõ
ràng, cụ thể thành yếu tố hữu hình mà nó thấm vào trong cảm xúc, trong cách
nhìn và phương thức thể hiện của tác phẩm. Nhà văn không phải cứ chăm chú miêu
tả về cảnh sắc thiên nhiên hay kể về những tên đất, tên làng gắn liền với
dân tộc mình đang sinh sống thì tác phẩm mới có tính dân tộc. Đọc tác phẩm
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du chúng ta thấy trong tác phẩm xuất hiện nhiều địa
danh, nhân vật, kể cả cốt truyện đều có nguồn gốc từ đất nước Trung Hoa, nhưng
người đọc vẫn cảm nhận được tâm hồn dân tộc thấm đẫm trong những trang Kiều.
Rõ ràng một tác phẩm có tính dân tộc là tác phẩm thể hiện
được “tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời” (1, 103). Tính
cách dân tộc là “những nét phẩm chất lặp đi lặp lại tạo thành bộ mặt tinh thần
của dân tộc” (1, 104). Chẳng hạn, người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay đều
có chung một nét tính cách phổ biến là chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh,
giàu lòng yêu thương và thủy chung, son sắt. Tính cách đó đã hình
thành từ thời xa xưa, được lưu giữ qua truyền thuyết, truyền tụng trong
nhiều bài ca dao và truyện kể khác.
Đến thời kỳ văn học trung đại ta bắt gặp tính cách ấy
trong hình tượng nàng Kiều - một người con gái rất mực xinh đẹp, tài hoa. Mặc
dù đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rũ màn che” nhưng khi gia đình gặp cơn
nguy biến, Kiều sẵn lòng hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ của mình với Kim Trọng, hy sinh cả bản thân mình để bán mình cứu cha “Làm con trước phải đền ơn sinh
thành”. Mười lăm năm lưu lạc với biết bao đau đớn, ê chề, tủi nhục cũng không
làm phai nhạt đi những nét tính cách, phẩm chất đáng quý của nàng mà ngược lại
chính hoàn cảnh éo le càng làm nổi bật thêm vẻ đẹp tâm hồn đó. Tác giả khắc họa một nàng Kiều đầy đủ nhất với tấm lòng trong trắng, thủy chung, giàu đức
hy sinh và luôn dành hết nỗi lo lắng, nhớ thương cho những người mà Kiều thương
yêu:
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
Dặm ngàn nước thẳm non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
Sân hòe đôi chút thơ ngây.
Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình?
Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
Khi về hỏi liễu Chương Đài,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay?
Tình sâu mong trả nghĩa dày,
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?
Ở đây, ta thấy một nàng Kiều có ý thức thật sự về thân phận, đó là con người dịu
dàng mà cương quyết, sẵn sàng hy sinh phẩm giá, mạng sống của mình cho những
người thương, cho lẽ phải và lòng tự trọng.
Tính cách ấy của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện cao đẹp
nhất trong thời kỳ văn học hiện đại với hình ảnh chị Sứ trong tiểu thuyết Hòn
đất của nhà văn Anh Đức, một người phụ nữ “chỉ sung sướng
bằng sự sung sướng của mẹ, cha anh em đồng chí và khi có con chị dành cho
con tất cả những gì mình có”, hay hình ảnh những cô gái thanh niên
xung phong sẵn sàng hy sinh tuổi xuân của mình cho dân tộc, cho nhân dân:
Cạnh giếng nước có bom từ trường
Em không rửa ngủ ngày chân lấm
Ngày em phá nhiều bom nổ chậm
Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà
(Gửi em cô thanh niên xung phong - Phạm Tiến Duật)
Phải chăng những tính cách, phẩm chất đó là điển hình cho vẻ đẹp tâm hồn người
phụ nữ trong tổng hòa những tính cách tiêu biểu mang đậm cốt cách, truyền
thống của con người Việt, dân tộc Việt ?
Tính dân tộc còn thể hiện ở cái nhìn dân tộc đối với thế giới xung quanh, là biểu
hiện đầy đủ nhất những cảm nhận của nhà văn, nhà thơ trước không gian, thời
gian và các mối quan hệ giữa con người với con người. Đọc thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm hay Nguyễn Khuyến ta nhận ra điệu hồn dân tộc thể hiện qua những
trăn trở, nghĩ suy về nhân tình thế thái hay đơn giản chỉ là những rung động, xúc cảm của các nhà thơ trước cảnh sắc thiên nhiên. Nguyễn
Trãi - một quan đại thần thời nhà Lê đã có lúc từ bỏ chốn quan trường với những
bon chen, đố kỵ, để tìm về núi Côn Sơn ở ẩn, sống chan hòa với
thiên nhiên cảnh vật:
Côn Sơn có khe,
Tiếng nước chảy rì rầm.
Ta lấy làm đàn cầm.
Côn Sơn có đá,
Mưa xối rêu xanh đậm,
Ta lấy làm chiếu thảm.
Trên núi có thông,
Muôn dặm rờn rơn biếc một vùng,
Ta tha hồ ngơi nghỉ ở trong.
Tiếng nước chảy rì rầm.
Ta lấy làm đàn cầm.
Côn Sơn có đá,
Mưa xối rêu xanh đậm,
Ta lấy làm chiếu thảm.
Trên núi có thông,
Muôn dặm rờn rơn biếc một vùng,
Ta tha hồ ngơi nghỉ ở trong.
(Côn Sơn ca, Nguyễn Trãi)
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng mang tâm trạng thoải mái, thanh thản
khi được sống một cuộc đời bình dị, thanh nhàn trong thế giới tự nhiên:
"Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Còn với Nguyễn Khuyến, người được mệnh danh là “Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam” thì bước vào thơ ông ta có cảm
tưởng như bước vào một thế giới riêng biệt, thế giới bên trong lũy tre làng,
tách hẳn với thế giới bên ngoài. Trong cái thế giới đó là khung cảnh làng quê với
bờ tre bụi trúc, cảnh nước lụt đồng chiêm, bầu trời thu xanh ngắt, ao thu lạnh
lẽo, lưng dậu phất phơ màu khói ... tất cả đều thân thương và nhuốm màu sắc
thôn quê Việt Nam. Rõ ràng sự cảm nhận, cái nhìn đối với thế giới xung
quanh của các nhà thơ trung đại là biểu hiện đặc trưng cho tính dân
tộc của những con người sinh sống ở một nước nông nghiệp trong một chế độ
phong kiến kéo dài hàng thế kỷ. Các nhà thơ trung đại suy nghĩ, cảm nhận và
chiêm nghiệm về cuộc đời, con người qua cảnh sắc thiên nhiên xung quanh và
thiên nhiên là nơi gửi gắm tâm tình, tình cảm, thậm chí thiên nhiên còn
trở thành thước đo cho vẻ đẹp của con người.
Bàn về tính dân tộc trong văn học nghệ thuật, nhà nghiên cứu người Nga
A.Tôn xtoi đã từng nhận định "Nghệ thuật dân tộc là nghệ thuật mang
mùi hương đất đai, trong tiếng mẹ đẻ mỗi từ dường như có hai lần ý nghĩa nghệ
thuật… ". Quan điểm đó rất đúng bởi vì tác phẩm văn học nghệ thuật
là sản phẩm riêng của cá nhân nghệ sĩ, nhưng đằng sau mỗi người nghệ
sĩ bao giờ cũng mang bóng dáng của dân tộc, giai cấp mà họ đang sống. Vậy nên
tinh thần dân tộc luôn thấm đẫm trong từng câu chữ, trong cách cảm cách nghĩ của
mỗi nhà văn, nhà thơ. Và cũng chính đặc thù của đời sống dân tộc đã mang lại
cho văn học của dân tộc ấy một bản sắc riêng độc đáo được bảo tồn lưu giữ qua
nhiều thế hệ.
Tài liệu tham khảo:
1. Phương Lựu ( chủ biên) - Lý luận văn
học, NXB Giáo dục, 2006
2. Tuyển tập một số tác gia văn học Việt
Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét