Tiểu thuyết "Bụi trần" trên con đường
Một lần, khi tập Tuyệt đối yên tĩnh do Nhà xuất bản
Hội Nhà văn vừa ấn hành vào 2003, Trần Đức Tiến có nhắc tôi, nếu có nghĩ về anh
thì chớ nên quên tiểu thuyết Bụi trần. Cuốn sách được anh hoàn thành
khá sớm, vào cuối năm 1990. Nó không hề dài, như phong cách vốn có của
anh. Thế nhưng, nếu đặt vào con đường viết văn của anh mà nhìn nhận thì ý nghĩa
của nó lại thật dài. Khi ấy, anh đâu như chưa đến bốn mươi, lứa tuổi mà nhiều
cây bút văn xuôi cùng lứa còn đang loay hoay với câu hỏi: văn hay, hay thật
sự, hay đích thực ấy, là gì vậy? Đọc anh, nhiều người dễ nhận ra là chừng
như anh đã tiếp cận rất gần với câu trả lời được xem là thỏa đáng nhất. Quả là
văn anh đã kịp chín để bước nhanh vào giai đoạn mãn khai sau này. Không lạ nếu
anh nhận được nhiều Giải thưởng văn chương danh giá đến thế! Chúng như là sự
xác nhận đáng tin cậy cho hướng đi đúng ngay từ khởi đầu cho cả một sự nghiệp
văn chương rồi sẽ được nối dài về phía trước.
Nói vậy, vì tôi luôn tin rằng, một nhà văn nghĩ về văn chương
ra sao thì sẽ viết lách, cả bàn luận về văn chương nữa, đúng như thế. Nói một
cách khác, quan niệm văn chương của một người sẽ chi phối tất cả, làm nên thành
bại của cả một đời văn. Phải tìm đến một quan niệm đích thực nếu anh muốn có một
sự nghiệp đích thực. Lầm lẫn ở chỗ khác có thể sửa chữa. Nhanh hoặc chậm. Sớm
hoặc muộn. Riêng ở lĩnh vực quan niệm thì không thể. Lầm lạc ở đây có nghĩa là
mất hết. Vì là lệch hướng. Sẽ tiêu tan cả một sự nghiệp. Cũng có nghĩa là cả một
đời người. Thật chua xót! Nhà phê bình, vì vậy, gắng mà theo sát, biện giải, rồi
nắm bắt cho bằng được cái định hình chủ chốt ấy khi có ý định tìm hiểu một nhà
văn.
Mà khó thay, rất ít nhà văn ưa đưa ra những suy nghĩ trực tiếp
về nghề nghiệp. Ngay nói về quá trình sáng tạo của chính mình, họ cũng rất kiệm
lời nữa là. Theo phán đoán của nhà văn Nga Pautovski thì có lẽ họ e ngại rơi
vào tình cảnh khó xử của con cuốn chiếu trong câu chuyện ngụ ngôn nọ. Ai cũng
biết là giống cuốn chiếu rất nhiều chân, đến 40 cặp cả thảy. Một lần, nó nảy ra
ý muốn quan sát từng cặp trong đó di chuyển ra sao. Kết quả là… Nó đứng yên, gần
như bất động, không nhích lên nổi một bước. Nhà văn Trần Đức Tiến có lẽ thuộc
típ người như thế. Nhưng, như người đời thường nói, trong cái rủi lại nảy ra
cái may: ta buộc lòng phải lần tìm quan niệm bộc lộ qua tác phẩm, thấm trong
hình tượng của anh vậy. Như thế sẽ dễ tránh được nguy cơ rơi vào ngụy tín, ít
ra là tránh được khiên cưỡng, áp đặt. Bởi, như một nguyên tắc, chỉ có tác phẩm
mới có đủ thẩm quyền trình ra căn cước về một nhà văn!
Trở lại với tiểu thuyết Bụi trần của Trần Đức
Tiến. Đập ngay vào tâm trí người đọc là lời Đề từ nhấp nháy ý
nghĩa: “Rằng: nến đã tắt, đàn đã sai dây/ Lạc những nẻo buồn ai đi tìm ai…” Câu hát ẩn chứa nhiều tâm sự của người viết gợi nhiều tâm sự nơi người
đọc được chú rõ là hát một mình.
Đúng quá rồi! Văn chương là sản phẩm của xã hội và lịch sử. Cố nhiên! Nhưng suy cho cùng, muốn thật sự hiện hữu như một giá trị thì tác phẩm phải hóa thành chuyện riêng của mỗi người. Viết cũng thế mà đọc cũng thế. Nỗi riêng lớp lớp sóng giồi (Kiều). Cái chung không biến thành nỗi day dứt của từng nhà văn thì lấy đâu động lực để thăng hoa trong sáng tạo. Cũng vậy, những cái hay trong tác phẩm chỉ được người đọc tiếp nhận khi tự mỗi người tìm đến, bằng những ngả đường riêng, với tất cả sự cảm thông, chia sẻ cần thiết. Tôi nhớ tới nhân vật Vấn, cuộc đời đầy gian truân, lại được Trần Đức Tiến thể hiện với bao niềm ưu ái. Anh luôn nổi bật giữa “đám đông”, “bởi cái đầu cao vượt lên, nghênh nghênh bên nọ bên kia”. Dáng vẻ bề ngoài như báo trước sóng gió của đời anh. Giữa đường đời, quá khổ bao giờ cũng dễ gây phiền toái, nhất là quá khổ về trí lự. Là một giáo viên văn, anh nhiều tài, mà cũng lắm tật. Đáng nói nhất là hay ngơ ngẩn, hay đa mang. Chúng tồn tại hầu như tự nhiên trong anh. Như là nghiệp dĩ. Gắn với nghề nghiệp. Mà đó lại là nghiệp văn vốn bao giờ cũng mang hơi nóng của thời cuộc. Văn chương khi nào cũng bị điều kiện hóa. Cả cái hay và cái dở của hoàn cảnh.
Đúng quá rồi! Văn chương là sản phẩm của xã hội và lịch sử. Cố nhiên! Nhưng suy cho cùng, muốn thật sự hiện hữu như một giá trị thì tác phẩm phải hóa thành chuyện riêng của mỗi người. Viết cũng thế mà đọc cũng thế. Nỗi riêng lớp lớp sóng giồi (Kiều). Cái chung không biến thành nỗi day dứt của từng nhà văn thì lấy đâu động lực để thăng hoa trong sáng tạo. Cũng vậy, những cái hay trong tác phẩm chỉ được người đọc tiếp nhận khi tự mỗi người tìm đến, bằng những ngả đường riêng, với tất cả sự cảm thông, chia sẻ cần thiết. Tôi nhớ tới nhân vật Vấn, cuộc đời đầy gian truân, lại được Trần Đức Tiến thể hiện với bao niềm ưu ái. Anh luôn nổi bật giữa “đám đông”, “bởi cái đầu cao vượt lên, nghênh nghênh bên nọ bên kia”. Dáng vẻ bề ngoài như báo trước sóng gió của đời anh. Giữa đường đời, quá khổ bao giờ cũng dễ gây phiền toái, nhất là quá khổ về trí lự. Là một giáo viên văn, anh nhiều tài, mà cũng lắm tật. Đáng nói nhất là hay ngơ ngẩn, hay đa mang. Chúng tồn tại hầu như tự nhiên trong anh. Như là nghiệp dĩ. Gắn với nghề nghiệp. Mà đó lại là nghiệp văn vốn bao giờ cũng mang hơi nóng của thời cuộc. Văn chương khi nào cũng bị điều kiện hóa. Cả cái hay và cái dở của hoàn cảnh.
Còn nhớ, lúc mới ra trường, Vấn là cây “sáng tác” nổi đình nổi
đám. Anh ta làm thơ, viết truyện, cả kịch nữa, nhưng sở trường hơn cả là ca
dao, độc tấu… “Thì đấy, văn nghệ mà cứ như những thứ thầy xơi phải thường
xuyên trên sách báo đương thời, thì thầy cũng có thể làm văn nghệ được lắm”. Đó
là lời kể phập phồng tâm tưởng của người viết. Nhà văn như cười mỉa. Cái
thứ văn chương dễ dãi, nhợt nhạt tràn ngập trên báo chí một thời quả xa lạ với
anh. Trần Đức Tiến muốn làm một thứ văn chương khác, đủ sức dung chứa cuộc đời
rộng dài và sâu thẳm. Chẳng thế, nhà văn đã đặt vào lời cha Vấn, lúc hấp hối mới
mắng con mình: “Ta nói cho anh biết, cả đời ta không thèm cầm bút viết một
câu thơ, nhưng ta nghệ sỹ hơn anh nhiều. Là bởi vì ta đã trải mọi nỗi cực nhọc
của kiếp người, và cũng biết tận hưởng hết mọi lạc thú được làm người. Còn anh,
anh chưa sống. Anh phải tập làm người đi đã…”. Đó có thể xem cũng là cách
nghĩ của chính người viết. Ở đây, Trần Đức Tiến đã gặp gỡ nhiều nhà văn thuộc
những chân trời khác. Một cách tự nhiên, rất tự nhiên. Tưởng Huân chẳng hạn.
Nhà văn Đài Loan này cho rằng: “Nhạt là mùi vị sâu sắc lắm”. Ông giải
thích một cách thuyết phục cái vị nhạt của cuộc đời: “Tôi cảm thấy, sau
khi nếm trải mọi thứ mùi vị cay đắng ngọt bùi chua mặn, thì một vị giác cuối
cùng sẽ xuất hiện, đó là vị nhạt, mọi mùi vị đều đã nếm, bạn mới biết cái hay
cái tinh tế của vị nhạt…”
Lại nhớ lời trăng trối của người cha. Việc “tập làm người” trước
tiên theo ông là“ phải có gia đình, phải cưới lấy một cô vợ”. Vì như
ông bảo,“làm đàn ông, ngoài ba chục tuổi đầu, đâu biết gì về đàn bà mà đã dở thói
chữ nghĩa...”. Đã rõ cái ý của tác giả. Nếu không trải đời đến độ thấm
đời thì chỉ có cách là làm thứ văn nói dối, nghĩa là thứ văn giả. Có lẽ vì vậy
mà ngay sau đó, tác giả khéo để cho Vấn bâng khuâng trong một nỗi tâm tư rất
thật: “Tuổi thanh xuân sắp hết. Không lẽ hy sinh cả tuổi thanh xuân chỉ
làm một kẻ ngồi đồng đầu váng mắt hoa, múa may quay cuồng, hò hét lảm
nhảm vì bị sai khiến bởi hồn ma kẻ khác?”. Anh ta đã nghĩ đúng. Phải giải
thoát. Bằng mọi cách. Mà trước hết là phải sống thật với mình. Và với đời. Nghĩ
là thế, nhưng làm mới khó làm sao. Giữa Bụi trần, anh đã vấp ngã.
Không phải một lần. Nhưng, anh không thể sống khác. Đó là cái quý của anh.
Chính nó làm nên sức ám ảnh của hình tượng. Người đọc sẽ còn nhớ mãi mối tình của
anh dành cho Phượng Ly. Có người cho là phi lý. Họ khác nhau nhiều quá. Từ tuổi
tác đến tính khí. Tôi thì đứng về phía tác giả. Chính câu thành ngữ có một vế gắn
với… Cá tươi đưa anh tới mối tình nhiều oan nghiệt với Phượng Ly. Vậy nên,
khi họ đã trở nên gần gũi, cô ta thành thực giãi bày: “Một người từng nuôi
giấu những câu thành ngữ như vậy trong lòng, không thể là người nhạt nhẽo, dửng
dưng”. Không khó hiểu, mối tình của họ ấy, nếu gắn với chất văn, nghĩa là
chất người thẳm sâu trong tâm hồn họ. Chúng có tiếng nói riêng, vượt lên tất cả,
ràng buộc họ với nhau. Rồi khi hai người buộc phải chia tay một cách nghiệt
ngã, trong loạng choạng đến choáng váng, Vấn bị khựng lại bởi một âm thanh
trong trẻo bất ngờ dội thẳng vào ngực anh: “cá tươi!”. Đó là câu nói cuối
cùng anh nghe được từ miệng nàng, “bằng cái giọng cười cợt và cay đắng”, đúng
như chất giọng chung của Tạo hóa dành sẵn cho cuộc đời cả anh và
nàng.
Đến đây có thể nhận ra, với Trần Đức Tiến, văn chương
đích thực, không gì khác, chính là tiếng nói cất lên từ đáy sâu của cuộc thế trần
ai. Thật khó quên câu nói thẳng thừng của Bằng với Vấn trong Bụi trần: “Xin
lỗi ông anh, em chỉ là một thằng làm báo quèn, em cóc phải là nhà văn. Em đến
chơi với ông anh cốt để uống rượu tắc kè và nói chuyện đời. Như thế vui hơn, phải
lẽ tự nhiên hơn… Nhiều người cứ nghĩ đã ngồi với nhà văn là phải dở chuyện văn
chương ra bàn. Sai toét! Làm như thế nhiều khi quá bằng tra tấn họ”. Tôi
đoán, trong đời viết văn của bất kỳ ai, không riêng Trần Đức Tiến đâu, ối chuyện
xảy ra tương tự. Có điều, xem ra anh thấm hơn, mà còn bởi hợp với quan niệm của
anh hơn. Nên anh mới buộc lòng phải lên tiếng. Qua hệ thống nhân vật, tất
nhiên. Nhân vật Liễu nổi loạn cũng nằm trong mạch tư tưởng chung này.
Cô Liễu, lúc con người đàn bà thức dậy vào tuổi hồi xuân, hay
mơ tưởng tới “cái người đàn ông có mái tóc nghệ sĩ, có đôi mắt buồn buồn,
cái miệng cười rất duyên và cử chỉ thì rõ là hào hoa phong nhã”. Sau cái cảnh
cô ta ga lăng tạo ra cơ hội cho cặp tình nhân cũ gặp gỡ nhau, như là cách tháo
cũi sổ lồng cho chính mình, nhà văn để cho tâm trạng nhân vật trôi nổi theo
dòng cảm nghĩ phải nói là thành thật: “Tình yêu vẫn cứ là tình yêu, nó bất
chấp tất cả mọi thứ bèo bọt, nhếch nhác của cuộc đời. Trừ phi người ta già rồi,
máu cạn rồi, hết xí quách - như lũ trẻ vẫn nói. Còn không thì nó vẫn
ngủ, vẫn ngủ, chờ cơ hội…”.
Văn chương là thế, nó không né tránh gai góc của sự đời, như thường thấy, như vốn có. Cần nhất nơi nhà văn là niềm tin vào chính mình. Chân thật trong văn chương trước hết và trên hết là sự chân thật với lòng mình. Tôi muốn nhắc tới câu trả lời đốp chát có phần xấc xược của Liễu về cái gọi là nguyên tắc luân lý ở đời trước người chồng luôn làm nô lệ cho những sợi dây trói tinh thần của một thời đã lùi quá xa: “Ôi dào! Vứt mẹ cái nguyên tắc của ông đi. Nguyên với chả tắc. Ngủ với nhau thì chẳng có nguyên tắc chó nào hết. Miễn là đồng tình cả đôi bên. Suốt đời tôi đã trung thành với đủ các thứ nguyên tắc, bổn phận rồi. Mệt lắm. Ngán lắm”. Ngẫm ra, không ít nhà văn còn khư khư bám giữ, một cách vô lý, cả vô lối nữa, nhiều quan niệm văn chương cũ kỹ thực tế đã bị cuộc đời vượt qua đã từ lâu. Làm sao có thể hy vọng vào các giá trị, dẫu là mỏng manh, nảy ra dưới ngòi bút của họ cho được!
Văn chương là thế, nó không né tránh gai góc của sự đời, như thường thấy, như vốn có. Cần nhất nơi nhà văn là niềm tin vào chính mình. Chân thật trong văn chương trước hết và trên hết là sự chân thật với lòng mình. Tôi muốn nhắc tới câu trả lời đốp chát có phần xấc xược của Liễu về cái gọi là nguyên tắc luân lý ở đời trước người chồng luôn làm nô lệ cho những sợi dây trói tinh thần của một thời đã lùi quá xa: “Ôi dào! Vứt mẹ cái nguyên tắc của ông đi. Nguyên với chả tắc. Ngủ với nhau thì chẳng có nguyên tắc chó nào hết. Miễn là đồng tình cả đôi bên. Suốt đời tôi đã trung thành với đủ các thứ nguyên tắc, bổn phận rồi. Mệt lắm. Ngán lắm”. Ngẫm ra, không ít nhà văn còn khư khư bám giữ, một cách vô lý, cả vô lối nữa, nhiều quan niệm văn chương cũ kỹ thực tế đã bị cuộc đời vượt qua đã từ lâu. Làm sao có thể hy vọng vào các giá trị, dẫu là mỏng manh, nảy ra dưới ngòi bút của họ cho được!
Từ đó, tôi có được sự thích thú thật là đặc biệt trong khi lần
tìm ra nguyên cớ bên trong hối thúc người đã viết nên bài ca dao về vụ việc bị
xem là bê bối xảy ra trong quan hệ giữa Vấn và Liễu: “Trường huyện có chuyện
tày đình/ Hai ông bà giáo lình xình với nhau/ Đã hai thứ tóc trên đầu/ Còn
toan mò mẫm nông sâu sự đời/ Một đêm tắt lửa tối trời…”. Người làm ra thứ
cũng được gọi là văn chương ấy là chồng Thu, một anh chàng “xấu
xí, gầy nhom, sợ vợ một phép”. Đáng nói là trước đó anh ta lép vế so với vợ
về mọi phương diện trong quan hệ gia đình. Từ khi người vợ biết anh ta là tác
giả bài ca dao chứng tỏ một “tài năng bất ngờ phát lộ” nói trên, thì
điều kỳ diệu trong quan hệ vợ chồng giữa họ đã xảy ra. Bà vợ đối xử với anh ta
thiện chí tới mức “chăn gối của chàng bắt đầu được dọn qua giường vợ, và cậu
con trai sáu tuổi lập tức được coi là đã trưởng thành, cần phải cho ngủ
riêng”. Sức mạnh thực tế của thứ văn chương thứ cấp ấy lập tức
được phát lộ. Không thể bảo là không mạnh mẽ. “Thu, người đàn bà quen thói
bất công, ruồng rẫy chồng, có thể lờ mờ nhận ra: hạnh phúc gia đình chưa hẳn là
một cái gì thiên niên vạn đại, và khôn ngoan hơn là nên thay sự phũ phàng, riết
róng bằng thái độ mềm dẻo, phải lẽ hơn”. Tác động của thứ văn chương rẻ tiền
về mặt ấy thật lạ lùng quá đỗi! Tuy, tất cả mọi thứ, có khi quái đản, kỳ cục đến
khó lường, lại làm nên chính cái gọi là cõi người. Và, cái gọi là cõi văn.
Chưa hết. Người đọc còn lờ mờ nhận ra tác hại của cái thứ văn
chương bịa đặt vô lối, không chính đính, không sức sống qua sự tưởng tượng kỳ
quái của nhiều cây bút ở nhân vật Tưởng, chung quanh cái chuyện ngoại tình bằng mồm của
anh chàng:…“Y cứ thế thao thao khoe cái tài mèo mỡ của mình ra với Thức. Y càng
nói càng hăng, càng nói càng như người khát nước…Y bịa ra tất cả những câu chuyện
vừa rồi. Bịa hăng hái, bịa như thật. Nhưng sự thật thì y cũng chưa biết mùi người
đàn bà nào ngòai vợ, mặc dầu những người đàn bà ấy có nhung nhúc trong đầu y...
”. Tôi rất thú vị khi đọc lời kết của tác giả: “Y đã làm một việc
không vẻ vang gì cho lắm: thủ dâm bằng mồm…”. Là nhà văn, thì phải làm việc
bằng công cụ ngôn ngữ thôi. Nhưng chớ xem ngôn ngữ chỉ là phương tiện của
tư duy. Nó còn sản sinh ra tư tưởng nữa. Đặc biệt là trong tay các
nhà văn tài năng. Người đời gọi văn chương là nghệ thuật ngôn từ chủ yếu là
theo nghĩa này chăng? Văn phải giàu sức sống. Muốn vậy, ngôn từ phải giàu hơi
thở của sự sống. Không trải nghiệm cuộc đời đến độ cần phải có thì người viết
làm sao truyền được sức nóng cho lời, cho văn. Đọc Trần Đức Tiến, tôi muốn nói
to lên cái điều giản dị mà không phải nhà văn nào cũng đều thấm nhuần ấy.
Trần Đức Tiến rõ ràng đã có sự khởi đầu đúng hướng vào chặng
đường quyết định của văn nghiệp khi viết tiểu thuyết Bụi trần. Anh đã lầm
lũi đi tiếp cho tới giờ. Không ngưng nghỉ. Và tôi dám chắc là rồi anh sẽ tới
đích. Chỗ anh đến chính là cái nơi văn chương đích thực ngàn đời cần đến. Hạnh
phúc của một đời văn lẽ nào lại không phải thế!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét