Cho đến những ngày gần đây, nhiều người vẫn còn đặt câu hỏi:
“Phê bình văn chương là khoa học hay là nghệ thuật?” Tôi nghiêng về ý kiến xem
phê bình là nghệ thuật, và cứ nghĩ, nếu một ai đó có coi nó là khoa học thì chắc
cũng phải thấy, đấy là một chi ngành khoa học đặc biệt, không cách xa nghệ
thuật là mấy, hơn thế lắm khi ranh giới giữa chúng gần như bị xóa nhòa. Bằng cớ
ư? Chẳng phải ta vẫn gọi nhà phê bình văn chương là nhà văn, và chẳng phải lịch
sử văn chương khi nào cũng bao hàm diễn biến của một bộ phận quan trọng là các
hoạt động và các sản phẩm phê bình đó sao!
Và một khi còn xem phê bình là nghệ thuật hoặc gần gũi với
nghệ thuật thì sự tồn tại của “cái tôi” trong phê bình vẫn là sự thật hiển
nhiên, chả phải bàn cãi làm gì. Thực tế, tôi chưa hề thấy một bài phê bình giá
trị nào lại không được viết ra bởi sự thúc bách mãnh liệt từ bên trong. Nhà phê
bình để lại dấu ấn riêng của mình trên trang sách như nhà sáng tạo lưu lại hình
bóng riêng của mình trên trang viết. Sâu đậm nhất là quan niệm nghệ thuật và lý
tưởng thẩm mỹ. Cùng thổ lộ tâm sự và thể hiện cái nhìn của mình về đời sống,
nhưng nhà văn thì qua chất liệu của chính đời sống, còn nhà phê bình thì lại bằng
chất liệu của bản thân văn chương.
Trong cuộc tranh luận sôi động xung quanh “Chân dung và Đối thoại” vào đầu năm
1999, tôi để ý tới nhận xét sau: Không, Trần Đăng Khoa không vẽ “chân dung”
của ai đâu mà vẽ “ hân dung” của chính mình, không “đối thoại” với ai khác mà
“đối thoại” với chính mình vậy. Phải nói là khá tinh tường! Nhưng từ đó,
nhiều người đi tới quy kết một cách cực đoan rằng, “cái tôi” của người nghệ sĩ
viết phê bình là thế, rất dễ bộc lộ và rất khó chế ngự.
Không hẳn vậy đâu! Bất cứ ai cầm bút viết phê bình đều có thể rơi vào tình thế
giằng co giữa lý và tình, giữa tỉnh và say. Lại thêm một bằng cớ giúp cho việc
phân tách phê bình ra khỏi nghiên cứu. Theo tôi, nhà nghiên cứu văn chương là một
nhà khoa học thuần túy. (Cố nhiên, đây là nhà khoa học xã hội, nhà
khoa học nhân văn; phẩm chất và hoạt động của họ mang nhiều nét đặc thù so với
các nhà khoa học tự nhiên và khoa học trừu tượng). Ơ đây, càng hạn chế bộc lộ
“cái tôi” thì càng có điều kiện tiếp cận chân lý khoa học khách quan.
Nói thế, không phải ta phủ nhận hoặc xem nhẹ tính khách quan của phê bình đâu.
Người ta yêu cầu sự cảm thông của nhà phê bình đối với nhà văn. Người ta đồng
thời đề cao tính định hướng, tính chuẩn mực của phê bình. Không thể đánh giá thấp
mặt nào, đặc biệt là mặt sau. Theo ý nghĩa đó, phê bình là phần tỉnh thức của ý
thức văn chương - sự tỉnh thức này đặc biệt cần thiết vào giao điểm của các thời
kỳ, khi có sự xáo trộn nhất định giữa các thang bậc giá trị ,khi cái mới và cái
cũ tranh chấp ảnh hưởng, không ai chịu nhường ai. Nhưng dẫu thế nào, bảo đảm sự
hài hòa giữa hai mặt đó luôn là thách thức đối với bản lĩnh của một nhà phê
bình. Làm sao phải thật sự sống với tác phẩm mà lại không rời xa tiêu chí thẩm
định, phải luôn đứng gần tác giả mà vẫn giữ được khoảng cách cần phải có - điều
đó luôn nằm trong mong ước nghề nghiệp của một nhà phê bình chân chính.
“Cái tôi” của nhà phê bình văn chương có liên quan tới một điểm khu biệt khác
giữa phê bình và nghiên cứu: Phê bình quan tâm nhiều hơn tới các hiện tượng
văn chương đương đại, trong khi nghiên cứu lại chủ yếu hướng về những hiện tượng
văn chương đã tương đối định hình trong quá khứ. Văn chương đương đại đang diễn
ra, giá trị chưa ổn định, rất cần nhà phê bình bày tỏ chủ kiến của mình một
cách kịp thời và trực tiếp. Và chính ở đây, “cái tôi” của nhà phê bình có cơ bộc
lộ. Chăm chú lắng nghe những ý kiến tản mát hồn nhiên của người đọc, trên tầm
cao của quan điểm thẩm mỹ tiên tiến mà thời đại cho phép, nhà phê bình cần biết
trình bày thuyết phục cách xem xét, sự đánh giá của bản thân, nhằm đáp ứng nỗi
trông đợi của nhiều người. Sự trông đợi tiếng nói phê bình đặc biệt khẩn thiết
khi các cuộc tranh luận văn chương nổ ra. Lý do không phải vì đây là tiếng nói
quyết định cuối cùng của “ngự sử văn chương” - đã và sẽ không bao giờ có tiếng
nói quyết định kiểu ấy. Lý do đơn giản chỉ vì đây là tiếng nói có trách nhiệm của
những người trong nghề; sự tin cậy nhờ vậy mà tăng lên.
Xin nói ngay, người viết phê bình thì nhiều, còn người tạo nên được sự tin cậy
chắc chắn trong đông đảo bạn đọc lại chẳng được bao nhiêu. Tất cả tùy thuộc vào
lương tâm và năng lực nghề nghiệp, và nói chung không ra ngoài cái gọi là tài
năng của nhà phê bình. Tựa như trong sáng tác, phong cách là thước đo chính
xác đánh giá độ chín của tài năng phê bình. Phong cách là sự ổn định;
phong cách còn là sự phát triển, biến đổi trong sự ổn định ấy. Việc trau dồi và
bồi dưỡng phong cách thường xuyên được đặt ra là vì thế.
Phong cách phê bình là sự kết tinh hài hòa giữa nhiều yếu tố, cơ bản và không
cơ bản, trong đó thị hiếu, quan điểm, lý tưởng thẩm mỹ của nhà phê bình bao giờ
cũng là những nhân tố mang ý nghĩa nền tảng. Sự lành mạnh của thị hiếu, sự đúng
đắn của quan điểm, sự tiến bộ của lý tưởng đi liền với tính hiện đại của phong
cách khi nào cũng nằm trong ý nguyện da diết của nhà phê bình chân chính, đồng
thời là mong mỏi thường xuyên của nền văn chương ở độ trưởng thành. Điều này
thì dễ thống nhất và dễ nhìn thấy. Riêng “chất văn” của một phong cách phê bình
thì dường như khó nhận biết và khó nhất trí hơn.
Có nhà phê bình thành thực nghĩ, trong sử dụng ngôn từ, cứ làm theo phương châm
của Đức Khổng Tử “Từ đạt nhi dĩ hỹ” (nếu từ đã diễn đạt được đầy đủ thì không
đòi hỏi gì thêm nữa) là được. Họ quên rằng, chính bậc Thánh nhân còn dạy: “Ngôn
chi vô văn, hành nhi bất viễn” (lời không có văn vẻ, không truyền đi xa được).
Theo ý tôi, không thể có phong cách phê bình khi chưa đạt tới chất văn. Như chất
văn của một công trình sáng tạo đích thực, bàì phê bình cần giàu có trong ngôn
từ, uyển chuyển trong cách nói, biến báo trong giọng điệu, hoàn chỉnh trong cấu
trúc… nhằm tạo ra dấu ấn sâu đậm của phê bình ở sức thuyết phục cao
mà tự nhiên, ý tứ sâu mà thanh đạm, thiên hướng rõ mà trầm thấm…, nghĩa là vươn
tới được “cái đạo” của một thứ phê bình nghệ thuật trong dạng thức lý tưởng.
Thế nhưng trên hết, trước hết và sau cùng cần phải tôn trọng chân lý văn
chương. Vậy nên, “cái tôi” dung hợp với “cái ta” vẫn còn là khâu chính cần tiếp tục tháo gỡ để góp phần nâng cao chất lượng phê bình văn chương hiện nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét