Một đóng góp của Xuân Diệu
vào nền thơ dân tộc
XUÂN DIỆU (1916 - 1985) LÀ MỘT TRONG NHỮNG GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU
NHẤT CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI (1932 - 1945). THƠ CỦA ÔNG RẠO RỰC, ĐẮM SAY TÌNH
YÊU VỚI ĐẤT NƯỚC, CON NGƯỜI, CUỘC ĐỜI, NHÂN THẾ. TỪ NĂM 1944, ÔNG THAM GIA
PHONG TRÀO VIỆT MINH, SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - 1945, ÔNG HOẠT ĐỘNG TRONG HỘI
VĂN HÓA CỨU QUỐC, TRỞ THÀNH HỘI VIÊN SÁNG LẬP HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM (1957). ÔNG
ĐÃ ĐƯỢC TẶNG GIẢI THƯỞNG Hồ Chí Minh VỀ VĂN HỌC NGHỆ THUẬT, ĐỢT I, 1996. CHÚNG
TÔI TRÍCH GIỚI THIỆU THAM LUẬN CỦA NHÀ THƠ VŨ QUẦN PHƯƠNG TẠI HỘI THẢO NHÂN KỶ
NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH NHÀ THƠ XUÂN DIỆU.
Cách mạng Tháng Tám - 1945 thành công, Xuân Diệu mới vào tuổi
ba mươi, nhưng ông đã nổi tiếng với hai tập thơ Thơ thơ và Gửi hương cho gió.
Chúng ta biết phong trào Thơ mới khai sinh nền thơ hiện đại khẳng định thắng lợi
bằng tập Mấy vần thơ (xuất bản lần đầu năm 1935) của Thế Lữ. Nhưng khi Xuân Diệu
xuất hiện với tập Thơ thơ (1939), do chính Thế Lữ giới thiệu, thì phong trào
Thơ mới mới chiếm thế thượng phong và Xuân Diệu trở thành nhà thơ có ảnh hưởng
nhất thời kỳ ấy. Lứa trước nhìn ra tài năng của lứa sau và lứa sau trân trọng
thành tựu của lứa trước trên một thi đàn đang cách tân biến động chưa từng có
quả là một dấu son tươi thắm trong tiến trình văn chương nước ta.
Xuân Diệu đã mang thêm gì cho nền thơ Việt hồi ấy?
Tôi xin phép không nhắc lại những điều đã được nói mà muốn
tìm trong thi pháp ông một đóng góp "mác" Xuân Diệu vào nền thơ dân tộc.
Ấy là đóng góp một không gian, một thế giới Xuân Diệu. Các cụ cổ điển không có
khuynh hướng tạo không gian đặc thù. Sâu sắc, thâm trầm, khái quát... nhưng
không gian thơ vẫn là không gian thực, không gian chung của cõi người. Thế Lữ
và đôi lúc Tản Đà, vươn tới phi thực bằng cách bay lên tiên. Tiên thì lãng mạn
quá rồi nhưng mất dấu mặt đất nó thiếu chất diệp lục của sự sống, của nắng trời.
Ôm cô tiên đẹp thì khác gì ôm bức tượng cẩm thạch. Xuân Diệu ôm “cô” trần gian
bằng tất cả cảm xúc trần gian của chính ông hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào
ngươi. Lãng mạn Thế Lữ là lãng mạn tiên cảnh kiêng khem và vô trùng. Lãng mạn
Xuân Diệu nồng ấm da thịt trần gian đa sự, giàu sức sống. Xuân Diệu bám lấy trần
gian rồi kỳ ảo hóa nó, tạo nên một trần gian kỳ ảo. Kỳ ảo mà đậm vị trần gian.
Thơ Việt Nam trước Xuân Diệu chưa có không gian ấy. Cảm được trời xanh đang đổ
mầu ngọc bích của mây chiều xuống muôn lá là thần tiên hóa buổi chiều của mặt đất
nơi ta hằng sống.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến - nơi nơi động tiếng
huyền.
Nhưng ngay đó, vẫn kỳ ảo nhưng sực nức hương và vị mặt đất:
Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang, nắng trở chiều
Rồi:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
Các chi tiết ấy là chất thực của đời, nhưng tạo nên mối liên
hệ rất kỳ ảo giữa các chi tiết ấy là do chất xúc tác của tâm hồn Xuân Diệu. Con
đường nhỏ nhỏ nên ngọn gió phải xiêu xiêu cho hợp con đường ấy. Mây bay gấp làm
cánh cò hóa phân vân. Trời rộng làm chim phải giang rộng cánh để chở che, để lấp
đầy. Trời rộng nên hoa lạnh. Hoa lạnh nên chiều thành thưa vắng, chiều làm động
lòng cho sương xuống mau. Tạo vật bù trì nhau mà cộng hưởng với hồn người. Hồn
người thì cảm giác hóa, tri giác hóa tạo vật.
Ngẩng đầu thi sĩ chưa xong nhớ Hoa bưởi thơm rồi: đêm đã
khuya.
Trong cặp câu thơ này Xuân Diệu lắng nghe mối giao cảm giữa
người với trời với nhịp đi của không gian hương và thời gian đêm. Nhà thơ
Bô-đơ-le (Beaudelaire) phát minh ra mối tương quan của mùi hương, mầu sắc và âm
thanh (les parfums, les couleurs et les sons se répondent), Xuân Diệu thì thấy
tất cả trong vũ trụ này đều tương hợp. Hương thì thơm rồi và đêm thì đã khuya
nghĩa là đã có quá trình mà thi sĩ vẫn chưa xong nhớ. Cơn nhớ trời cao hay cơn
lắng nghe lòng mình vẫn chưa hoàn thành.
Những mối tương quan tạo vật được nhận ra bằng cảm giác, bằng
tâm linh. Nó vô chứng cớ nhưng nghe ra có lý và nhất là có tình. Nó là đặc
trưng Xuân Diệu, cái ăng-ten tâm hồn ông tỏa ra tám hướng, bắt nhiều cung bậc tần
số và hòa trộn chúng tức thời tạo thành một chỉnh thể đan cài vật chất với tâm
linh, hư ảo hư vô mà thấm thía tình nghĩa cuộc đời mặt đất…
Không gian Xuân Diệu còn là không gian của khoảnh khắc. Ông
dùng thơ vĩnh cửu hóa khoảnh khắc đó lại. Vĩnh cửu trong sự sống chứ không phải
làm nó hóa thạch. Thơ Xuân Diệu không chụp ảnh. Mà là quay phim. Nó là không
gian bốn chiều, có chiều của thời gian Vườn rau hoa cải tưng bừng/ Đang bay, dừng
lại nửa chừng, lại bay… Nếu chỉ tả vườn rau với hoa cải bay, thì có đủ hai chi
tiết đấy nhưng không thấy quỹ đạo hoa bay thì không ra không gian Xuân Diệu.
Xuân Diệu có hơn nửa thế kỷ sáng tạo thơ. Từ Cách mạng Tháng
Tám - 1945, càng về sau ông càng gắn thơ vào công việc cụ thể của đời sống, ông
có mặt ở những mảng đề tài cần được cổ vũ biểu dương. Thơ có đích nhân sinh để
vươn tới, vươn tới bằng cảm hứng, cố nhiên, nhưng cũng bằng cả ý thức công dân.
Đó là sự dấn thân đáng quý của người cầm bút đã tự nguyện tập hợp dưới cờ cách
mạng. Nhưng thành tựu của tác phẩm lại không hoàn toàn đồng hành với tâm nguyện
ấy. Không gian thơ Xuân Diệu, thế giới đời thực được kỳ ảo hóa, nổi trội nhất
có lẽ ở tập thơ đầu Thơ thơ (1939), còn sau đó ông thâm nhập sâu hơn vào việc đời,
chuyện đời và chủ trương chân chân thật thật. Thế giới tạo vật trong thơ Xuân
Diệu khác đi nhiều. Thành công của ông không ở phía kỳ ảo hóa cuộc đời mặt đất
nữa mà lại trội hơn ở những phát hiện sâu nặng về đời và sức cảm nhận tinh tế.
Nó là một hướng biến hóa của năng lực Xuân Diệu. Nó không lạ hóa để thành huyền
diệu. Nó để mộc, diễn tả giản dị, có phần ngây thơ nữa, nhưng nó lắng nghe vào
cốt lõi của cảm xúc để phát hiện ra phần tinh túy của đời sống, thấm đẫm tình
yêu đất đai xứ sở.
Tôi nghĩ Xuân Diệu sau này dùng một thao tác ngược với thời
trẻ: ông trần gian những cảm nhận kỳ diệu, từ tình yêu sâu nặng của mình với cuộc
đời. Ấy là bài thơ Đêm ở Thái Bình, giữa những câu miêu tả cảnh quê chính xác bằng
mắt nhìn, bằng tai nghe, ân cần chăm chỉ bỗng lạc vào một cảm nhận có tính phát
hiện:
Nhất là chó sủa văng vẳng hay hay
Nói xóm làng, nói nhà cửa đêm nay
Thấy chó sủa là hay hay thì đúng là phát hiện của ông khách tỉnh
về quê, cái gì cũng lạ. Nhưng đến câu sau, nhận ra cái tiếng chó sủa trong đêm
quê ấy nó nói hồn vía của xóm làng, của nhà cửa đêm nay, thì cảm nhận của nhà
thơ tài tình quá, ông cho người đọc nhận biết một cảm giác sâu nặng về hồn quê.
Tôi thú thực sau khi đọc câu thơ này, tôi thấy tiếng chó sủa ở đêm quê hoàn
toàn khác trước.
Nghe chó sủa mà hình dung ra làng mạc bao đời, mà thương nhớ
xa xưa. Kỳ ảo hóa mặt đất trước kia hay trần gian hóa cảm xúc bây giờ, cả hai bổ
sung cho nhau và cùng nâng hiện thực lên cao hơn chính nó. Khi ông nghe tiếng
đàn kỳ ảo thuở nào:
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi…
Long lanh tiếng sỏi, vang vang
hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người
Mấy câu thơ này quả có óng ả hơn Đêm ở Thái Bình. Mộc mạc hay
óng chuốt là chiều khẩu vị của từng thời nhưng nội lực khám phá trong hai dạng
cảm thụ này có chung một nguồn là tạng cảm xúc trữ tình cá thể của Xuân Diệu đã
hòa trộn từ gốc với chiêm nghiệm văn hóa dân tộc. Nghiêng về phía trước (trữ
tình) thì thành kỳ ảo. Nghiêng về phía sau (chiêm nghiệm) thì đậm vị trần gian.
Còn gì nữa. Còn nhiều. Nhưng đại cương chỉ trong hai vòng ấy. Có chăng, cần kể
thêm một thứ trời cho, ấy là cái ánh sáng tinh khôi rọi lên trong không gian
Xuân Diệu, làm cho cảnh sắc và con người có vẻ khác biệt, sáng hơn, sống hơn, ấn
tượng hơn với không gian thực ở ngoài đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét