Cô Nhi nhỏ bé
CHƯƠNG 1
Ông nội tôi có hai vợ. Bà đầu người làng Đông, bên kia sông Nghèn,
con gái út cụ Lý Nhu. Lý là gọi tắt cái chức tước chính quyền phong kiến bán
cho ông mười hộc lúa và 50 quan tiền kẽm. Họ của cụ là Hoàng. Nên bà nội tôi mới
mang tên Hoàng Thị Mỹ Anh, một cái tên đẹp nhưng không thuận miệng dân làng.
Người làng tôi, tên tuổi cứ là nôm na theo những cái mắt thấy tai nghe quẩn
quanh bao đời: Mít, Bưởi, Chanh, Cam, Cò, Vạc, Vện, Nghê, Thóc, Lúa... vừa dễ gọi
vừa gần gụi. Tên đẹp làm gì khi vào bốn dài hai ngắn mà chưa biết cái phố huyện
nó cao thấp, béo, gầy ra làm sao, khi cái mặt mũi chân tay đến ngủ còn lấm lem
bùn đất và sặc mùi cứt bò, cứt lợn! Người ta nói vậy. Bà có nghe không, không
biết, chỉ thấy bà cứ vui vẻ, sạch sẽ, xởi lởi với mọi người. Người có học ai chẳng
khôn, mà bà tôi biết cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ thì hẳn là biết cách cư xử rồi. Mấy
năm ăn ở với ông tôi bụng bà vẫn cứ đuồn đuỗn. Thời ấy, đàn bà không có con
ngang bằng mụ Râu đỏ độc ác trong truyện cổ. Ông tôi buồn. Đã hai đời độc đinh
rồi, chẳng lẽ đến đời ông là xong, là chấm hết dòng họ Trần. Bà Anh đẹp vậy, dịu
dàng vậy mà ông tôi cũng không vui lên được, cứ âm thầm, lặng lẽ và động một tý
là cáu kỉnh. Thế nên bà Anh bỏ về với cha, lấy lý bảo để chữa bệnh vô sinh. Bấy
giờ là đầu năm 1920. Cuối năm ấy ông tôi bỏ làng ra làm việc ở đồn điền của một
người Pháp tên Xi dê chuyên trồng phi lao ven biển Nghi Xuân. Một thời gian
sau, bao nhiêu năm không biết nữa, ông tôi về làng với một người đàn bà khác.
Bà Năm. Bà Năm cùng làm phu trồng phi lao với ông. Bà mang thai cha tôi thì ông
tôi lại bỏ đi, không phải đi làm thuê cho Xi dê mà gia nhập nhóm Việt Nam độc lập
ở Hương Khê. Đến năm 1928, ông vào Đảng Tân Việt. Được mấy tháng thì bị khai trừ
vì người ta tìm ra mối quan hệ giữa ông và cụ Lý Nhu đang làm việc cho chính
quyền thực dân phong kiến. Cái quan hệ bố vợ - con rể nó gần gũi lắm, thông hiểu
nhau lắm. Người ta nghi ngờ ông đã ăn bả thực dân thời làm ở đồn điền trồng phi
lao, việc vào Tân Việt là ngoắt ngoéo lắm. Ông trở về làng, tóc bỗng bạc trắng,
tính tình khác hẳn. Ông vừa vỡ nhẽ ra cái gì đó, rồi đầu óc cứ bận ngẫm về cái
đó, trở nên âm thầm như một gốc cây. Cái sự âm thầm của ông lây sang cả bà Năm,
cả nhà cửa vườn tược, cả chó, mèo trong nhà.
Cha tôi vào tuổi mười sáu. Bấy giờ Nhật - Pháp đánh nhau,
phong trào Việt minh rầm rộ khắp nơi. ở làng tôi, thỉnh thoảng xuất hiện những
người lạ mặt. Người ta đồn Pháp và Nhật sắp về nước, chỉ còn Việt minh người của
ta.
Bà Năm lại ở cữ. Trong nhà ngoài ngõ thơm lừng khói vỏ bưởi
khô. Lần vượt cạn ấy, bà suýt chết. Đàn bà bốn mươi tuổi sinh nở cũng như lúa
chét trổ bông, nó khó khăn lắm vì không còn màu mỡ nữa. Thế nên cô Nhi sinh ra
nhỏ tí, khóc ngằn ngặt suốt ngày đêm.
Một hôm, cụ Lý Nhu đến nhà tôi. Cụ Nhu vẫn giắt cái túi đựng
triện trong cạp quần nhưng đã biết cái sự mong manh của nó lắm. Cụ lựa lời mãi
mới nói với cha tôi: "Cái duyên số con gái tôi với anh nó ngắn ngủi. Không
là vì anh, không là vì con nhưng tôi vẫn thấy ra có lỗi với anh vì giọt máu của
tôi không biết sinh ra giọt máu". Ông tôi nói: "Cụ đừng nói thế. Sao
lại là lỗi ở cụ. Nói thế thì con không yên dạ nổi đâu". Cụ Nhu nói:
"Con đã nói thì cho qua chuyện cũ vậy. Đời một giây một chuyện mới, giữ
chuyện cũ lại thêm nặng nề đời". Rồi cả hai trở nên vui vẻ, thoải mái hẳn.
Cuối cùng thì cụ Lý cũng thả ra cái ý định của mình, thả ra một nửa thôi, cụ nói:
"Tôi có con cháu họ là sinh viên trường thuốc, bỏ học về nhà vì tình hình
chính trị ở Huế không yên, cháu nó xinh người đẹp nết. Muốn nó thành con dâu
ông..." Ông tôi, như đã biết trước người con gái xinh người đẹp nết kia,
cũng có thể hình bóng bà Anh còn hiển hiện trong lòng ông, mới nói là rất mừng.
Cái nửa còn lại của ý định cụ Lý Nhu, ông tôi, cha tôi không nghĩ tới là việc
hôn nhân ấy mà thành, cụ Nhu sẽ có con rể là Việt minh. Cha tôi, đội trưởng tự
vệ là cái bóng trùm che lên chữ lý trưởng trong lý lịch cụ. Thế rồi đám cưới
cha tôi với mẹ tôi được tổ chức, vẫn trầu cau, mâm cỗ, người già vẫn áo dài,
khăn đóng nhưng thanh niên trong làng lại hát "cùng nhau đi hùng
binh". Đám cưới được vài tuần trăng thì Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Rồi
tôi ra đời. Cha và mẹ tôi bận nhiều việc, những việc có tên và không tên của
làng, xã bắt đầu bước vào cửa chế độ mới. Cô Nhi lên sáu tuổi oặt oẹo hông bồng
bế tôi.
Là kể qua về đời ông, đời cha để bắt vào câu chuyện cho nó có
nguyên, có cớ...
Từ thuở nào làng tôi đã mang tên Thượng Cồn, cái tên nghe
qua đã thấy nhói cộm trong đầu. Người có chữ bảo, đấy là kiểu ghép chữ vớ vẩn
như trẻ con chăn trâu sắp gốc rạ làm nhà. Thượng đã là cao rồi còn cồn nữa thì
hết chỗ bàn. Mà có ai bàn. Bao nhiêu cái tên gọi trong làng, trong xã có từ thuở
nào cứ thế mà gọi, như khoai luộc chín trong sảo cứ thế mà ăn. Sinh ra có bàn
tay, bàn tay có năm ngón, nào ai đã hỏi sao lại gọi là tay, là ngón. Cha tôi
nói, cái tên Thượng Cồn cô đặc mơ ước của dân làng. Chả là làng tôi năm ít nhất
cũng hai lần ngập lũ. Dân làng da dẻ cứ bờn bợt ra. Sau lũ cả làng nhuộm bùn. Rồi
đói xơ xác. Rồi chết. Chết sau lũ vẫn còn sướng hơn chết trong lũ. Chết trong
lũ không có đất mà chôn. Để lâu không được vì hôi thối, vì người sống không chịu
nổi nỗi đau khi ngồi cạnh người chết. Đã có chuyện buộc đá vào quan tài cho
chìm xuống huyệt. Lại có chuyện, ngày chôn cất, đêm lù lù trôi về đầu ngõ, trôi
vào trong sân nguyên cả cái quan tài. "Cái thế đất thấp phải chịu khổ vậy,
khổ lâu quá. Nên đổi tên làng. Chẳng tích sự gì.
Một hôm, từ câu chuyện đất đai, làng mạc, cha tôi nói:
- Sau cái đận bị gạt khỏi đảng Tân Việt, ông nội các con làm
mỗi việc đào đất nâng cao nền nhà, nâng cao vườn. Cái ao trước ngõ ấy là do ông
nội đào. Ông đào một mình. Đến đời cha, cha lên núi lấy đá về xây cổng, bó nền.
Mãi sau này, dân làng tôi còn kể chuyện cha tôi gánh đá trên
núi Sạc Sơn về nâng cao nhà như kể chuyện cổ tích. Cũng mở đầu: Ngày xưa có một
ông... Tình tiết chuyện thì ít nhưng không thiếu thứ hư hư, thực thực, từ ánh
trăng, con đường lờ nhờ, lửa ma trơi lập lòe, tiếng đòn gánh kẽo kẹt như ma đưa
võng, tiếng chó sủa, tiếng gà gáy ngứa rặm... cái bóng cha tôi lùi lũi, ẩn hiện.
Kết chuyện hệt ngụ ngôn: Nhờ siêng năng cần cù nên từ ấy, lũ lụt không bén mảng
tới nhà tôi, chỉ đến thăm nhà thiên hạ.
Cha tôi thì bảo:
- Hồi ấy cha buồn quá, buồn trong ngực và buồn cả tay chân,
bèn kiếm cái việc gánh đá. Xem ra cha đã làm ông khổng lồ như trong sách cổ.
Phải nói cha tôi là người hay đọc sách. Những quyển sách quăn
mép, giấy vàng, chữ mờ có từ thời cụ kỵ, ông bà nhà tôi. Nhưng tuyệt nhiên ông
không đưa nguyên lời trong sách dạy chúng tôi. Ông cứ nôm na, dễ hiểu. Chuyện
cao siêu đâu trong trời đất, sâu mờ của xã hội đất nước, đảng phái, cái lạ lùng
của công việc xã... ông đều tìm được cái tay sờ mắt thấy được để ví von. Tỷ như
hợp tác xã nông nghiệp cha bảo giống cái giỏ, dân làng là những con cua đồng...
Lần tôi hỏi xã là gì, huyện là gì, thì ông cả cười mà rằng: xã, huyện, tỉnh là
cái nhà, dân ăn, ngủ... trong ấy. Nhà che chắn cho họ.
Tôi há hốc mồm mà nghe, còn cô Nhi thì cứ tủm tỉm cười. Cô
cách cha tôi gần hai chục tuổi, nên chỉ hơn tôi năm tuổi. Trước, cô ở với bà Cựu
Thân. Chồng bà Cựu là em ruột ông nội tôi. Bà Cựu không có con, ông Cựu thì mê
tổ tôm, suốt ngày đêm vắng nhà, bà mới xin ông tôi được nuôi cô Nhi. Ông Cựu mất,
cô Nhi về ở với bố mẹ tôi. Mẹ tôi mất, cô trở thành người số một chăm lo, thu
vén gia đình. Bố tôi ngày mỗi lười. Là tôi nghĩ bụng thế, cái ý nghĩ nảy ra từ
tình cảm gắn bó với cô Nhi. Chả là cô Nhi chăm chút cho tôi, nói sau khi vả vào
miệng mình, còn hơn cả mẹ tôi chăm tôi. Sáu tuổi, tôi cao bằng cô. Tay chân săn
chắc hơn tay chân cô, vậy mà cô dội nước giếng đất trong vắt, mát lạnh ngọt lịm
và có mùi thơm nữa, tắm cho tôi, kỳ cọ từ kẽ ngón chân lên bẹn, lên vành tai
khiến da thịt tôi rân rân, có đến ngàn đời sau chưa chắc đã quên nổi.
Ngày ba tháng tám, làng tôi như động mồ, động mả, cứ nghe tiếng
chửi đằng đông, rồi tiếng quát tháo đằng tây, lại ồn ào phía nam, lao xao phía
Bắc, ngơ ngẩn nghĩ, người làng tôi chỉ còn mỗi miệng, những cái miệng đủ hình đủ
cỡ phát ra đủ loại từ ngữ từ thơm tho đến thối khẳn. Sự đầm ấm, êm đềm như nhà
tôi không nhiều. Cũng chẳng phải nhà tôi không bị cái khó bó cái khôn nên tính
xấu trong con người ngủ quên, mà bởi chúng tôi thật thương nhau. Nhiều người
sau những trận cãi cọ, chửi bới nhau, mặt mũi phờ phạc thốt lên rằng: "giá
sống tử tế được như nhà ông An!" (An là tên cha tôi).
Một sáng, tôi vừa ngủ dậy đang đứng đái ở góc sân, thích thú
nghe tiếng nước trong người mình chảy riu riu trên lá cà, thì con chó mực sủa
lên nhanh nhách, tôi ngoảnh lại thấy ba người xồng xộc đi vào nhà. Nét mặt hằm
hằm, mặt đỏ phừng của họ khiến cái tiếng riu riu thích thú kia tắt ngấm. Tôi nhận
ra anh Kinh, anh Phôi từng đến nhà tôi đánh cờ tướng và uống rượu suông. Còn
người thứ ba thì lạ hoắc. Người lạ hoắc đọc điều gì đó nơi tờ giấy căng giữa
hai bàn tay. Rồi cha tôi và cô Nhi ra khỏi nhà. Cha tôi và cô Nhi không nói gì
nhưng tôi đọc thấy nỗi kinh hoàng trong mắt họ. Cuối cùng, cô Nhi nắm tay kéo
tôi theo, tôi không dám mở miệng, dù trong đầu tôi căng nhức những câu hỏi. Người
ta dẫn chúng tôi đến nhà ông Tứ Say. Anh Kinh gừ gừ:
- Vào đi! Ăn sung mặc sướng nhiều rồi, cao ráo lắm rồi, giừ ở
nhà nông dân cho thấm thía cái khổ cực, hí.
Cánh cửa đóng lại sau lưng chúng tôi. Tôi cảm thấy như bị
rơi, hệt cảm giác những lần đứng trên cầu tre nhảy xuống sông tắm. Khác là tôi
không chạm vào nước, nước không chùm lên tôi. Mặt đất thì nhớp nháp. Khoảng
không thì lờ mờ sặc mùi ẩm mốc lẫn mùi cứt chuột cay cay. Không ai nói gì. Bàn
tay cô Nhi xoa xoa bờ vai tôi như thay cho lời muốn nói.
Trưa ấy có ai đó vứt qua cái cửa vào cho chúng tôi một chiếc
chiếu, một cái nồi nhôm méo không nắp đậy và một nắm khoai khô gói trong mảnh
ni lông rách. Cái nồi, gói khoai nằm lăn lóc giữa nền nhà. Còn bụng dạ nào mà
nghĩ đến cái ăn. Biết là bị đuổi ra khỏi nhà, nhưng mà vì sao? Cũng như không
biết bố tôi đang nghĩ gì, cô Nhi đang nghĩ gì. Họ ở trước mắt tôi đấy, thật đấy
mà như bóng ảnh, gần gang tấc mà cứ như tít mù đâu đâu. Mệt bã người, tôi ngã
xuống chiếc chiếu. Trong giấc ngủ, tôi mơ nhưng không thể kể được là mơ thấy
cái gì, nó lộn xộn, nó mất đuôi, cụt đầu. Lúc tôi tỉnh dậy, bốn phía chung
quanh đen như mực. Tiếng cha tôi phát ra từ một chỗ nào đó trong bóng đen nên
nó nặng trĩu và cũng khó nghe ra rõ ràng, hoặc nghe mà không hiểu được nghĩa.
Cha tôi bảo, gia đình tôi bị quy địa chủ. Nhưng địa chủ là cái gì, mà đột ngột
từ nhà tôi sang nhà ông Tứ Say chỉ khoảng giập miếng bã trầu.
Cha tôi nói:
- Em về bên nhà bà Cựu đi Nhi ạ. ở với anh, em bị liên lụy.
- Không - Cô Nhi đáp.
- Chịu cái khổ làm gì khi còn lối thoát - Cha tôi tìm cách
thuyết phục.
Cô Nhi lại nói, giọng lẫn trong tiếng khóc:
- Cho em ở lại. Còn cháu Thái, nó thương em, em thương nó.
- Thì tùy em - Cuối cùng cha tôi nói. Rồi thêm - Chẳng sao
đâu. Mấy đời nhà ta sống phúc đức, sẽ gặp nhân nghĩa thôi.
Cha tôi ít đi khỏi nhà, thường ngồi ngó mông ra vườn chỗ
lơ thơ mấy bông hoa giong riềng như những ngón tay út chĩa lên trời. Ông ngồi,
cái dáng bất động như đã chết, như chung quanh ông đã chết. Tôi nhìn cha và cảm
thấy nỗi đau ông đang chịu như tảng đá mắt thường không thấy được, đang đè nặng
lên người ông. ờ thì là nỗi đau. Nhưng còn cô Nhi, còn tôi? Còn cái ăn cho
chúng tôi? Tôi muốn hét lên với cha điều đó. Nhưng lời nói của tôi ì ọp trong
biển nước mắt đâu đấy không thoát ra được. Ngày hai lần cô Nhi ra đồng, lần nào
về cũng có cái ăn, khi thì vài củ khoai, khi thì gói gạo. Vậy mà ngày qua ngày,
chúng tôi như từng sống thế lâu lắm rồi, từ thời nảo nào rồi.
Đêm ấy tôi đang ngủ chợt tỉnh vì tiếng ầm ĩ. Mở mắt là thấy lửa
đuốc trôi lơ lửng vào sân. Rồi thấy cửa mở. Người ta nói gì đó, tôi nghe mà
không hiểu. Nỗi sợ hãi làm cho đầu tôi mù mịt, ngơ ngẩn. Tôi bíu vạt áo cô Nhi,
chạy theo cô, hai cẳng chân như không phải bước trên mặt đất mà là trôi trên tiếng
trống, tiếng mõ, tiếng hò hét, ánh lửa đuốc chập chờn. Lờ mờ trong trí nhớ của
tôi con đường đất tôi đang chạy, hai bên nó mơn mởn cỏ xanh, cào cào đạp cánh
tanh tách trong đám cỏ xanh ấy và cánh chúng cũng nhuốm màu xanh. Còn trong quầng
sáng vàng của ánh đuốc, lúc này lố nhố những đầu người đang lăn đi, lăn lại húc
vào nhau kia có một cây giới quả vàng mọng, xúm xít chim chào mào. Những mảng
nhớ kia bỗng chốc tan biến không để lại chút dấu vết khi tôi thấy cha tôi treo
lủng lẳng dưới cây giới, ngực và bụng phanh trần, trắng lóa lên. Người xúm đen,
xúm đỏ, tay khua khoắng một cách khó hiểu. Tôi nhận ra, như từ trí nhớ, những
người láng giềng. Ông Tứ Say, miệng móm mém, hai cái răng cửa cứ lập bập mỗi
khi trông thấy rượu. Bà Đăng môi ăn trầu đỏ màu tiết đông, cái mũi hếch, lỗ mũi
lúc rộng lúc hẹp như được làm bằng hai ống cao su nối với một quả bóng nhựa
trong lồng ngực lép kẹp. Anh Vằng kệ nệ cái sắc cốt đựng giấy loại và một tấm
ván xoan dày hai phân, mặt ván chi chít chữ ký loằng ngoằng, nhiều dạng kiểu vì
anh tập hàng năm ký tên mình để được một chữ ưng ý. Anh Phú, bạn thân cô Nhi, từng
ri rích dưới gốc chuối sau nhà tôi, một thanh niên đẹp trai, da trắng như bôi
vôi, trát phấn.
Cô Nhi sững lại. Tôi thấy khuôn mặt cô méo xệch, nghe tiếng
tim cô đập trong đầu mình thình thịch. Tiếng cô cũng như phát ra từ đâu đó
trong đầu tôi: "Quốc dân Đảng, con rể Lý trưởng..." Tôi giật mình,
sau gáy tóc rân rân dựng lên. Rồi như có ma ám, tôi nghe thế và tưởng tượng ra
cha tôi dắt súng sau vạt áo luồn lách trong rừng cây phía sau trụ sở ủy ban
xã... Cô Nhi kéo giật tay tôi:
- Về - Cô nói. Lần đầu tiên cô gắt gỏng, cụt ngủn và không cả
nhìn vào mặt tôi. Được một khoảng, thêm - Chỉ còn o cháu ta, Thái à.
CHƯƠNG 2
Một ngày kia, nắng hoe vàng, tôi gặp anh Phú ngoài gốc đa
làng. Cái áo vét ka ki sẫm bạc nhợt nhạt mở một hình tam giác xanh của cái áo
sơ mi nơi ngực, cái quần cũng vải ka ki nhưng là màu da lươn, đôi dép nhựa trắng
không một tý bụi dính. Làng tôi vẫn thế, vẫn như lần đầu tôi nhìn, lâu rồi, những
lối ngõ thẳng, lối ngõ cong. Thấy một chút sân, một mảng tường, một mảng mái
tranh hoặc ngói, sau những bụi tre. Đi trên đường làng cứ tưởng đang ở trong rừng,
không gan thì nổi cả da gà, da vịt. Tôi biết anh Phú đến gặp cô Nhi. Tôi có
thích anh không, cũng không rõ nữa, tôi đi cùng anh vì cần về nhà. Còn vì lời hứa
bằng thứ giọng trơn chuội của anh cứ chảy vào lòng tham của tôi. Anh bảo, sẽ
đưa tôi lên phố huyện ăn kem nhà hàng Lộc Na người Tàu, có đến năm cửa hàng kem
rải dọc miền Trung. Anh sẽ cho tôi mượn xe đạp tập đi, đi xe đạp như chim bay,
chỉ thấy gió reo bên tai.
- Sao anh không đi xe đạp? - Tôi hỏi.
- Anh chưa mua - Anh đáp gọn.
- Ra thế. Thì cưỡi trâu thay xe...
- Nào, thằng con... Anh sắp mua. Một cái xe Pavorit của Tiệp
Khắc, thứ tốt nhất trong làng xe ngang bằng giá 10 tạ lúa.
Tôi nhếch mép cười, xong nhận ra không nên thế.
- Nhà anh giàu vậy, sao không bị địa chủ? - Tôi nói, xong lại
thấy không nên nói.
Anh Phú tái mặt, cái mặt anh ta không những tái, còn bập bềnh
da thịt lên nữa. Bỗng anh cất tiếng cười ha hả. Cái sự thay đổi sắc mặt, chuyển
hướng đối phó, anh từng nổi tiếng. Không thế sao người ta cho anh làm bí thư xã
đoàn. Anh nói:
- Giàu có bằng sức lao động như nhà anh, khác với giàu có bằng
bóc lột, bằng quan hệ với tư sản, phong kiến. Là anh nói cái chung, không có ý
gì đâu. Gia đình em giờ là trung nông. Gia đình anh cũng trung nông. Như nhau
nhé.
Vừa lúc vào đến nhà. Vừa lúc tôi nghĩ ra một câu chửi xóc định
ném vào mặt anh ta. Vừa lúc cô Nhi ôm chầm lấy tôi. Vừa lúc tôi nhìn thấy cha
tôi và bà Đăng, mẹ anh Phú xếp bằng trên phản gỗ. Tôi ghé đít ngồi xuống cạnh
cha tôi. Tôi chán cái khoanh tròn trên đầu và đôi môi màu tiết đông của bà Đăng
mới ngoảnh về phía cô Nhi. Cô Nhi ngồi trên chõng tre, ống quần tuột lên cao để
lộ hai cổ chân tròn lẳn trắng mịn. Đàn bà, con gái làng chẳng ai có cái màu da ấy,
chẳng ai có khuôn mặt dịu dàng như cô tôi. Còn cái dáng người thon thả, mềm mại
cứ làm tôi nghĩ tới cái lưng mèo. Thì tôi mừng vì cô đẹp. Nhưng cô càng đẹp thì
cô càng mau xa tôi. Nên buồn. Tôi thở dài. Cha tôi hích khuỷu tay vào vai tôi ý
bảo tôi ra chỗ khác. Người lớn có chuyện người lớn, trẻ con có chuyện trẻ con,
muôn đời người ta dạy thế. Tôi mười ba tuổi, vẫn trẻ con, mấy năm nữa thì là
người lớn? Tôi luồn qua cửa, ra thềm ngồi. Nắng không vàng hoe nữa mà vàng óng,
cũng có thể vì đống rơm vàng giữa sân.
- Kính bác - Bà Đăng choi chói trong nhà - Ông tơ bà nguyệt
đã xe duyên cho thằng Phú và cô Nhi. Có chút lễ mọn sang xin bác cái ngày lành
tháng tốt để cô Nhi nhập tục nhà em. Chẳng giấu gì bác, nhà em neo người. Thằng
Phú thì giữ chức lãnh đạo xã, việc xã một nửa, việc huyện, việc tỉnh một nửa, cứ
là sôi nồi cơm mới. Phận em đứt duyên ở tuổi bốn mươi, không tái giá, phận bác
đứt gánh tuổi hơn em, không tục huyền. ấy là môn đăng hộ đối...
Cha tôi ngắt lời bà Đăng một cách vội vã:
- Tôi... tôi biết rồi. Nhưng tôi nói với bà là em Nhi không
gánh vác nổi gia đình bà đâu. Neo đơn, neo kép thế nào là chuyện của bà.
- Thì là tôi...
- Tôi nói thẳng cái ruột ngựa rằng, thằng Phú cô Nhi ưng nhau
là được. Ngày cưới bà chọn. Lễ cưới đã có xã, có đoàn Thanh niên lo theo nếp sống
mới.
- Vậy ngày này tháng tới ông nhỉ? Tôi đã đi gặp bà Liễu trên
phố huyện bốc quẻ, lấy ngày. Bà Liễu hai đời làm nghề bói toán, giỏi như thánh.
Bảo sao ra vậy. Uy tín đến mức, hôm tôi đến gặp cả vợ đồng chí bí thư Huyện ủy
cơ đấy.
Tiếng anh Phú:
- Mẹ nói năng lung tung mất thôi.
- ờ thì tao im. Tao không động tới ông bí thư của mày.
Tiếp là một chuỗi cười lanh lảnh, lòng thòng.
* * Đám cưới của cô Nhi không thành.
Hôm ấy mưa lui phui, gió như đuôi rắn lạnh lẽo quấn lấy người.
Cô Nhi dắt tôi cắt ngang đồng sang nhà anh Phú. Đồng làng rộng. Làm ăn Hợp tác
xã nên trời mới nhỏ hạt mưa mà đồng đã không một bóng người. Chỉ mỗi cô Nhi và
tôi. Cô bảo tôi đi cùng, giờ mới vỡ nhẽ ra là có lý. Một mình cô cái lẻ loi sẽ
gấp hai lần. Một tay cô bỏ trong túi áo. Tôi biết trong ấy có mảnh giấy anh Phú
gửi cho cô. Cô Nhi cho tôi biết: Huyện có ý đưa anh Phú lên làm phó chủ tịch xã
mà phó chủ tịch không thể làm con rể một gia đình địa chủ thông gia với cụ Lý
Nhu. Thì sự đã rõ, cô gặp anh Phú làm gì nữa. Chao ôi, cái tình yêu nó làm đầu
óc cô tôi mờ mịt như làn mưa trên đồng không mông quạnh rồi. Mà sao tôi không
can ngăn cô; thậm chí còn tỏ ra nhanh nhẩu đi cùng. Đáng lẽ... đáng lẽ... những
ý nghĩ rành rọt trách nhiệm vuốt đuôi ấy phần vào làm tôi nguôi ngoai. Tôi hăng
hái đi thẳng vào sân nhà anh Phú. Trong nhà anh người đông, nghe nhiều tiếng
nói, như đang họp hành. Một con chó vàng nhỏ bằng bắp chân gâu gâu đón tôi. Rồi
anh Phú hiện ra nơi cửa. Cái máu phi trâu đánh trận giả chảy rần rật trong người,
tôi nói với cái bản mặt dưng dưng cách tôi một màn mưa:
- Cô Nhi cần gặp anh... ngoài ngõ ấy.
Anh Phú quay nhìn vào nhà. Rồi vội vàng đẩy vào vai tôi. Anh
đi ra ngõ, lại quay nhìn vào nhà. Té ra anh gặp cô Nhi cũng phải lén lút, phải
giấu diếm. Cô tôi sợ lây nhiễm bệnh tật ở anh chứ anh thì chỉ được cái thơm thảo
của cô thôi. Tôi nghĩ, đứng nép vào gốc chuối, cách chỗ cô Nhi và anh Phú một
đoạn nghe rõ từng lời của họ.
Cô Nhi:
- Em đọc thư, không biết vì sao lại thế. Nên mới đội mưa sang
đây, hỏi cho ra môn ra khoai.
Anh Phú:
- Có nhiều chuyện liên quan đến công việc của anh mà phải dừng
đám cưới lại. Quyền lợi chính trị của anh, cũng là của em.
- Anh viết rõ là hủy bỏ đám cưới cơ mà.
- Đó là mẹo để có ai đọc trộm thư cũng tin là anh bỏ em thật.
- Là không còn liên quan gì đến gia đình địa chủ chứ gì?
- Chỉ giả vờ thôi mà.
- Giả vờ? Tôi là thứ rơm, rạ, là con cua, con tép để anh đưa
ra giả vờ à? Rồi thiên hạ bảo, tôi bị anh bỏ, bị anh đổ rượu đặt trầu vào mặt...
- Nhưng... nếu anh không làm thế thì cái chuyện đề bạt...
- Anh về với cái đề, cái bạt của anh - Cô Nhi nói xong thì bỏ
đi.
Anh Phú nhìn trước ngó sau rồi chạy vào nhà. Tôi ngửa mặt, há
miệng uống nước mưa. Cô Nhi quặt tay kéo tôi ra khỏi vườn chuối, ra khỏi cái tiếng
lộp độp trên lá chuối, khỏi tiếng ễnh ương ì... oạp. Rẽ xuống đường chạy giữa đồng,
cô buông tay tôi. Tà áo xòe rộng, mái tóc ướt nước nhưng vẫn bay xõa ra, cô giống
một con chim lớn muốn cất cánh bay mà không bay nổi.
Đêm hôm ấy cha tôi và cô Nhi rì rầm nói chuyện với nhau lâu lắm.
Mờ sáng, tôi dậy đã thấy trên bàn một rá gạo nếp trắng tinh, một buồng cau quả
xum xuê, một chai rượu trắng. Bà Cựu đã ngồi bên bàn từ bao giờ.
- Rửa mặt mũi rồi đi với bà và cô - Bà Cựu nhả miếng bã trầu
ra lòng bàn tay, nói.
Tôi xách chai rượu, cô Nhi đội rá nếp, bà Cựu đội buồng cau
theo đường cái quan sang làng Đông. Cha tôi bỏ xuống sông Nghèn thả vó đánh cá
chép. Như là ông không muốn thấy chúng tôi đi. Dân làng soi mói nhìn, xì xào
bàn tán, giống cái nhìn, cái lao xao hôm cô Lê ở phố huyện thất tình tìm về bến
sông làng tôi tự tử.
Bà Đăng là thần nanh mỏ đỏ thì bà Cựu là người đỏ mỏ thần
nanh. Lúc đầu còn hết thưa cùng gửi, sau họ vứt tuột mọi thứ kín trên người vào
mặt nhau. Rồi họ mổ, xẻ cái xấu của cô Nhi, của anh Phú, những cái xấu họ thích
sao nghĩ vậy. Bà Đăng bảo cô Nhi là gái đổ đốn, chuyện vợ chồng mà coi như trò bịt
mắt bắt dê, không chửa hoang thì rồi cũng cô quạnh. Bà Cựu độc địa hơn, bảo anh
Phú là loại người đào mả tổ tiên lấy xương cốt đổi chác chức quan, là thứ lươn
chạch rúc bùn, rúc cứt...
Cô Nhi phải kéo bà Cựu ra về. Dường như hai người đàn bà, bà
Cựu và cô Nhi ấy, hả lòng hả dạ lắm, mặt họ đỏ bừng và có cái gì đó tỏa ra từ sắc
thái đỏ bừng ấy làm tôi thấy vui vui.
2 - Những gì xẩy ra sau đó? - Anh Hải, đại đội trưởng, người
từng nhận làm dượng tôi, cho dù anh chưa một lần gặp cô Nhi như không chịu được
sự im lặng của tôi, cất tiếng hỏi.
Tôi và anh ngồi trong cái hang đá, vòm hang màu xám tỏa những
làn hơi lạnh mờ mịt. Bên ngoài cửa hang thì nắng chói chang, khói những đám
cháy rừng bay vẩn vơ, cái thứ vẩn vơ không gợi nhàn tản mà gợi buồn lo. Tôi và
anh sống với nhau ở biên giới này đã hai năm. Anh cởi mở, chân thật đủ cho tôi
tin, kể hết mọi chuyện mà không chút băn khoăn giữ ý, giữ tứ gì. Thì chẳng đã xảy
ra chuyện những người giấu tiểu sử của mình sợ người khác biết sẽ ảnh hưởng tới
thành tích đó sao. Có lần anh nói với tôi: "Mẹ nó, giấu như mèo giấu cứt.
Mèo giấu cứt, người ta không thấy cứt nhưng mà nghe mùi thối hoăng". ấy là
anh nói anh Ngụ giấu chuyện bỏ vợ đầu vì anh ruột vợ dại dột vượt tuyến bị bắt ở
phía nam cầu Hiền Lương. Trách anh Ngụ sao đặng, khi mà người ta coi việc hát
giọt mưa thu thánh thót rơi, chiều vắng u buồn nghiêm trang hơn nửa lá phổi
trong lồng ngực bị đạn địch bắn nát.
- Kể đi! - Anh Hải lại giục.
- ừ... thì kể - Tôi nói, cảm thấy mệt mỏi, chẳng là tôi đã
bày ra trên mặt đá lạnh trước mắt anh cả gia đình tôi, một việc làm quá sức tôi
- Sau đó, em vào học cấp ba, trường học ở xa làng, phải ở trọ.
- Em cái con tườu. Chiến sĩ quân đội hẳn hoi, cứ phải xưng
tôi, tôi là khẳng định cái cá nhân - Anh Hải bực bội.
Tôi nói tiếp:
- Một bữa, nghe tin làng bị Mỹ ném bom, về đến nơi thì nhà đã
cháy, cha đã chết. Tôi bỏ học vào bộ đội. Cô Nhi đi thanh niên xung phong trước
đó. Cô ở tổng đội 55 tận Vĩnh Linh nên không biết cha tôi mất. Mà biết cũng
không thể về được, ngót 300 cây số mà. Mãi sau bảy lăm tôi và cô mới gặp nhau.
Cô là đại đội trưởng, là đảng viên, còn Bí thư chi bộ nữa, nên cô chuyển ngành
ngon ơ, chuyển sang làm báo. Cô không học trường lớp nào, nhưng cô là cây bút
có tiếng ngay từ mấy bài báo in đầu tiên.
Anh Hải bỗng trầm ngâm. Cái vẻ trầm ngâm của những con người
khỏe mạnh coi thường mọi thứ trên đời thật dễ làm ta mủi lòng.
- Vậy mà rốt cuộc là cái gì? - Tự nhiên người tôi run lên, da
thịt giật giật.
Anh Hải đặt tay lên vai tôi lắc lắc:
- Thôi! Tôi cho cậu về xem rốt cuộc là cái sự gì trong mấy chữ
"Cô cần gặp cháu" trong thư cô Nhi.
- Nhất định đã xảy ra chuyện gì rồi! Mẹ kiếp!
- Cậu quát nạt ai vậy?
Phải, tôi quát nạt ai cơ chứ? Khi còn một mình giữa vùng đồi
vắng, có gió trời dịu mát thổi xào xạc trong những chùm lá cây hai bên lối đi,
tôi ngẫm ra rằng, đấy là mình quát nạt một kẻ vô hình có khuôn mặt gớm ghiếc,
cái bụng tà gian bao nhiêu là năm tháng lẽo đẽo theo tôi. Mỗi lần cơn giận dữ
ào trào trong tôi thì nó biến mất, tôi nhũn người lặng lẽ nó hiện lên, lại lẽo
đẽo chực chụp lấy tôi, phía đằng sau gáy, đè gục tôi xuống. Bất giác tôi vung một
câu chửi tục, cũng chỉ để cho hắn nghe: "Đ. mẹ cái mặt mày". Chửi
xong, ngượng, thấy mặt nóng lên. Tôi chạy. Rồi đi. Rồi chạy. Sau gặp một chiếc
xe chẳng rõ là loại xe gì, được anh lái cho ngồi trên thùng. Trưa thì đến ga
Hàng Cỏ. Người rồng rắn trước cửa bán vé. Vẩn vơ nghĩ cứ như thiên hạ chỉ mỗi
việc đi tàu. Không ai nhường ai, không kể ưu tiên ưu phật. Ai cũng cần đi trước.
Ai cũng mạnh và ai cũng có tiền. Cứ chen chúc, chửi bới, ném hết tục tĩu vào mặt
nhau. Tôi lùi ra sân ga chịu thua như từng chịu thua trong mọi cuộc chen lấn,
tranh giành, xô đẩy mà nghĩ rằng mình khôn ngoan, thức thời. Cách ấy đã biến
tôi thành cái bóng mờ nhạt, có cũng được mà không cũng chẳng sao. Thế nên cái
xe tải lấy người về Vinh kiếm thêm tiền mở cả tấm ván chắn thùng chở khách mà
tôi cũng không dám trèo lên để anh lái xe hét vào mặt: "Mẹ kiếp! Gốc chuối
có đi thì nhanh chân lên, không biến!" Gốc chuối cũng chẳng sao, đời không
ai coi khinh gốc chuối. Tôi tặc lưỡi và làm gốc chuối nép vào một góc trên cái
sàn xe đầy bụi bặm và cứ chao lắc như động rồ. Xe dừng, tôi là người xuống sau
cùng. Anh lái nhìn tôi rõ lâu, rồi nói:
- Chú em là bộ đội ở xa về, miễn tiền. Vất vả lắm à? Chú nhìn
xem, trong lúc tôi thế này, chú thế kia mà thiên hạ vẫn nhởn nhơ chơi nhởi, ào ạt
chơi nhởi. Nào, bắt tay một cái, trước lạ sau quen. Mà không có sau quen nữa
thì kiếp khác. Thế nào rồi tôi và chú cũng thành đất, linh hồn tôi và chú bay
lượn lại cụng nhau.
Đầu tôi đã ngổn ngang trăm mối, nghe thêm giọng lưỡi của anh
ta, nó cứ ong ong, u u và nặng trĩu như đeo đá. Tôi nghĩ, thôi thì bỏ qua mọi
chuyện bằng cách chỉ nhìn xuống mặt đường và mau mau về với cô Nhi. Tôi nhớ rõ
lắm, cái cảm giác êm đềm xưa kia mỗi khi sà vào lòng cô hoặc là được bàn tay cô
đặt lên đầu, lên vai. Bao nhiêu lần như thế, không nhớ rõ, nhưng mà nhiều, như
cả đời.
Cô Nhi ở trong tập thể của cơ quan Báo N. Nó làm từ lâu lắm rồi,
đã bao lần di dịch. Chiến tranh di dịch ra khỏi thành phố, về một vùng quê. Mỹ
ném bom hạn chế di dịch lên rừng. Hòa bình năm 1975 lại di dịch về chỗ cũ. Tính
tuổi ngôi nhà tròn mười một. Ba gian, gian giữa sụm xuống như bị gãy đòn dông.
Mái lợp giấy dầu mốc da thằn lằn, những cây tre chống bão chằng ngang, buộc dọc
lâu ngày quá bị gãy, tạo thành những hình thù kỳ dị trên cái mảng da thằn lằn ấy.
Những bức phên nứa xộc xệch, có chỗ đứt lạt buộc đổ xuống co quắp để lộ những mảng
trống tối om. Cánh cửa chính bằng sàn gỗ, mọt ăn lẹm từng mảnh khiến tôi nghĩ tới
tấm lưng bị bỏng na pan. Gió reo u u đâu đó, tôi tưởng ra rồi một ngày kia người
ta đưa ngôi nhà này vào viện bảo tàng và khách trong nước, khách nước ngoài tới
xem nó như một chứng tích về sự chịu đựng của người nước ta trong chiến tranh
đánh Mỹ. Biết đâu rồi trong ngôi nhà thành di tích ấy...
Tiếng kẹt cửa cắt ngang ý nghĩ vớ vẩn không lấy gì làm nhẹ
nhàng của tôi. Cô Nhi hiện ra. Tôi nhận ra cô trước cả khi nhìn thấy khuôn mặt
quen thuộc của cô.
Cô đi nhanh ra sân, về phía tôi, vừa đi vừa kêu lên mừng rỡ:
- Thằng Thái của cô. Chao, nó chững chạc, oai vệ thế này!
- Cô Nhi... - Tôi lúng búng, tiếng nói mắc nghẹn trong cuống
họng. Khuôn mặt xinh đẹp của cô mờ nhòa dần trong mắt tôi. Chúng tôi ôm chầm lấy
nhau. Cô Nhi xuýt xoa, cô nói nhiều, tôi nghe câu được câu chăng. Rồi chúng tôi
buông nhau ra. Hơi thở và hơi da thịt của cô vẫn ấm nóng trên ngực tôi. Cô mở rộng
cánh cửa. Bột gỗ do mọt nghiền ra rơi lả tả trên tà áo cô. Gian phòng trống trải,
một cái bàn, một cái ghế, một cái tủ gỗ một cánh, ba cái thùng đựng lương khô
đã rỉ nâu. Một cái giường rộng rãi sạch sẽ và chẳng hiểu sao tôi cứ nghĩ rằng
nó mới đóng, còn thoảng mùi gỗ thơm phức.
Tối ấy, cô dẫn tôi ra phố. Chúng tôi vào một nhà hàng nhỏ kề
bên một hồ nước. Khá đông người cạnh những cái bàn tròn, ồn ào và sặc sụa đủ thứ
mùi, mùi thơm, mùi hăng hắc, mùi thum thủm. Tiếng cười nói, tiếng cốc chén chạm
nhau, tiếng xê dịch bàn ghế, tiếng nhạc giật cục trong cái đài to tổ bố đặt
trong góc nhà làm tôi khó chịu, chẳng biết từ bao giờ tôi đã khó chịu những thứ
ấy, nhưng tôi vẫn vui vẻ chọn một cái bàn trống cho hai cô cháu. Cô bảo, tôi ăn
gì thì gọi. Tôi cũng bảo, cô ưng gì thì gọi. Cuối cùng thì trên bàn toàn là thức
ăn quê mùa: Canh cua nấu khế, cá tràu kho mật, lươn bọc lá lốt, rau muống xào tỏi,
nước mắm ớt, vừng đen giã nhỏ. Thì ra cái cốt cách ăn uống ở làng còn đậm đặc lắm
trong cô cháu tôi. Thế là hay, hay dở, không biết mà cũng chẳng cần biết. Có khối
người thích cái này cái nọ nhưng lại không theo cái thích ấy, vì thấy chung
quanh mình thiên hạ không thích như mình.
Mặt cô Nhi nhuốm buồn. Rồi nói, giọng cũng buồn, day dứt nữa:
- Lương của cô mỗi tháng được mấy chục đĩa cá kho này? Hai chục
hay ba? Còn tiền mua năm cân gạo với tám cân hột bo bo. Chiến tranh qua, đất nước
khó khăn là lẽ đương nhiên. Nhưng cái khó nó kéo dài lâu quá, nên mỏi mệt. Những
người hết mình với công việc, không ăn cắp của nhà nước, không lừa trên, dối dưới,
không móc ngoặc, đổi chác thì đời sống thật khó khăn. Ăn sáng lo trưa, ăn trưa
lo tối, rồi nhà cửa, vợ con... Cái đầu ai cũng chia ô, chia khoảnh ra mà tính
toán, lấy đâu ra tư duy, sáng tạo. Thành phố thì tràn ngập một loại người, hoặc
từ nông thôn ra, hoặc từ thị tứ, thị trấn đến, không hộ khẩu, không nghề nghiệp,
không cần tên gọi. Họ buôn bán, đổi chác. Anh dân nghèo, anh cán bộ bị họ túm
tóc lên mà lắc mà quay như con quay - Cô im bặt, chợt cười rồi tiếp - Cô xin lỗi.
Ai lại nói những điều trên vào lúc này, Thái nhỉ?
Tôi cố nén để không buột ra câu hỏi về sự gì vừa xảy ra mà cô
cần có tôi ở kề cạnh. Tôi sợ chút vui gặp gỡ nó mất đi. Rồi tôi ngợ ra rằng, cô
nói những điều ấy là bắt đầu vào cái sự kia. Thế nên tôi giục:
- Cô nói nữa đi... cháu đang muốn nghe.
- ờ... ừ... - Cô đăm chiêu, cắn cắn cái tăm tre giữa hai hàm
răng trắng, đều tắp. Đoạn, nói - Về nhà thôi cháu. Về nhà cô sẽ kể cháu nghe
nhiều chuyện, những chuyện chỉ kể được trong sự im lặng.
Vậy là rồi cô Nhi và tôi ngồi giữa sân, trong sự yên lặng như
cô nói. Đêm đã rụng sương, dịu mát. Trên trời vầng trăng lúc ẩn lúc hiện sau
mây xám, sao thì nhiều vô kể, không gian bàng bạc. Tôi hít sâu không khí vào lồng
ngực, nghĩ rằng tiếng chuột cắn nhau chí chóe dưới chân vách cạnh chỗ tôi và cô
Nhi ngồi chỉ là do tôi tưởng tượng lông bông mà ra.
- Ở quê có nhiều đêm thế này, nhiều nên không ai để ý - Cô
Nhi nói, tôi nhận ra giọng cô vẫn trong trẻo, dịu dàng chắc cô chỉ dành cho
riêng tôi chứ thiên hạ nháo nhào khác xưa làm sao cô dùng cái giọng ngày xưa.
Cô kể, hồi xưa nơi đây đông đúc, vui vẻ và đầm ấm lắm. Người
độc thân, hộ gia đình ở cách nhau một bức vách, chung sân, chung giếng. Ngày liền
đêm khắp nơi rộn tiếng máy chữ lạch cạch và tiếng lật giấy lạt xạt. Rồi nhà nước
xây xong khu nhà dân dụng, cơ quan Báo được phân hai mươi mốt căn hộ. Hai mươi
hai người, hai mốt căn hộ. Cô độc thân, cô là con gái. Con gái thì sớm muộn gì
cũng có chồng. Thuyền theo lái, gái theo chồng. Người ta lý luận cái chuyện cô ở
lại nhà cơ quan vậy. Một cuộc chuyển dời ồn ào. Năm ngày sau còn mỗi cô với
ngôi nhà. Những ngôi nhà khác được bán nhanh chóng, được tháo dỡ chớp nhoáng.
Thay vào đó là nhà gỗ mít, nhà xây gạch. Những khoảng đất trống bị dân chung
quanh, cả những người không rõ tung tích chiếm đoạt. Thật là quân hồi vô lệnh.
Rốt cuộc, một khu dân cư mới ra đời. Chen chúc đủ loại: Cán bộ vật tư nông nghiệp,
vật tư thủy lợi, vật tư hải sản... Người buôn đường ngắn, đường dài, người làm
nghề thủ công, cầu thủ bóng đá, diễn viên sân khấu... Khối người đứng một chân
trong cơ quan để giữ cái sổ gạo, cái phiếu thực phẩm, nhì nhằng cho đến cuối đời
về hưu, chân kia khua khoắng ba phương, năm hướng để kiếm tiền. Ngỡ như không
ai biết ai, chẳng ai nhìn ai, mải tính việc cả trong cơn ngủ. Cô lọt thỏm, bị
đóng đinh trong cái phố chẳng ra phố, làng chẳng ra làng ấy. Nhiều lần cô tính
chuyển đi nơi khác nhưng chỉ thực hiện được trong suy nghĩ, trong mơ ước. Khu
dân cư ư? - Cô là kẻ độc thân. Cơ quan ư? - Chỉ dành để làm việc. Xin mảnh đất ở
một làng ven thành phố ư? - Lại chưa là hộ gia đình. Sửa lại ngôi nhà cơ quan
cho cao to ư? - Cô không có tiền. Mọi tính toán cựa quậy trong đầu cô một dạo,
rồi mệt mỏi, im thít. Còn chuyện cơ quan riềng néo nữa. Cô là cái gai trong mắt
ông Tổng biên tập mới. Mà khi thủ trưởng coi cô là cái gai thì người trong cơ
quan né tránh cô với cảm giác vừa hư vừa thực về những cái gai trên con người
cô. Cô vờ như không biết. Rồi không chịu được cái sự vờ của chính mình, cô thể
hiện cái tính cách cứng cỏi, bất cần. Nào cô làm được gì. Giống như kẻ lơ lửng
chân không bám đất, cật không chạm trời.
Cô đột ngột hỏi tôi:
- Cháu nhớ Nguyễn Hoàng Phú không?
- Phú làng Đông? - Tôi hỏi.
- Phải chính hắn.
CHƯƠNG 3
Cái tính toán giành chức chủ tịch xã của hắn chỉ có cô Nhi,
mưa, vườn chuối biết, còn việc cô Nhi trả lễ chạm ngõ cho hắn, cô Nhi bỏ hắn
thì đầu làng cuối xã mục sở thị. Cô Nhi đội gạo nếp đi dọc đường cái quan như
diễu, như trình bàn dân thiên hạ. Hắn nghĩ danh dự hắn bị cô Nhi xúc phạm. Thoạt
đầu hắn tự vấn bụng là đã ổn một bề. Các đồng chí lãnh đạo ở huyện, ở xã không
bận cái tơ cái sợi trong quan hệ hắn với gia đình ông An. Nhưng rồi cái tình là
cái tình chi, hắn không gạt được cô Nhi ra khỏi đầu, khỏi tim gan hắn. Hắn nhớ
với những tơ vò giăng mắc, hắn mong chờ với sự thấp thỏm ngọt ngào. Có đêm, hắn
mơ thấy mình đang làm tình với Nhi, sáng dậy chiếu chăn ướt nhòe thứ nước trắng
như dãi mèo, tanh lợm. Một bữa hắn tìm gặp cô Nhi, hắn nói như trẻ con đọc bài
thuộc lòng trước cô giáo:
- Anh không quên em đâu, Nhi, không nỡ lòng quên em. Anh và
em phải thành vợ chồng. Dễ thôi em, chỉ cần em viết tờ giấy li khai ông An...
Cô Nhi không hé răng, quay ngoắt bỏ đi. Cái lưng mềm mại của
cô chập chờn trước mắt hắn, tới khi Nhi không còn trên đường làng nữa thì cái
dáng thon thả, mềm mại của cô vẫn cứ chập chờn. Một ngày kia, ông Thọ, Bí thư Đảng
ủy xã gặp hắn.
- Hỏng bét rồi mày ạ. Huyện không đồng ý cho mày làm chủ tịch
vì còn trẻ quá. Tao nói sùi cả bọt mép mà không được. Người ta bỏ phiếu cho ông
Sỹ. Ông ta vớ bở. Học chưa hết hai bốn chữ cái, dịch chữ Lê nin không xong...
Mà thôi, mày làm cái Phó chủ tịch cho tốt, năm sau tính.
Hắn suýt nổi khùng. Xôi hỏng bỏng không. Chó má cho cái thân
hắn. Nhưng hắn không nổi khùng. Hắn còn nhiều không ngoan để không nổi khùng, để
nói với ông Bí thư như đang buồn theo cái sự buồn của hắn, một câu thật thấu
tình đạt lý:
- Cảm ơn bác đã nhiệt tình với cháu như với con đẻ ruột rà.
Thì cháu còn trẻ, cháu sẽ cố gắng già dặn sau.
- Phải, mày nghĩ thế là phải lắm. Còn cái chuyện con Nhi? Yêu
nó thì nối lại đi, cưới đi. Khéo lại trắng tay.
Hắn nói, giọng run lên:
- Trắng tay rồi, bác ạ.
- Sao thế được? Mày phải luôn có chí tiến thủ chứ.
Ông Thọ nói xong rồi bỏ đi. Hắn đóng cửa nằm vùi đầu vào cái
gối bông mới sắm. Cảm giác mất mát giày vò hắn. Hắn nhìn ra những khoảng trống
hoang hoác trong lòng, trước mặt, bốn phía chung quanh. Rồi thì ngẫm. Bao nhiêu
là năm, bao nhiêu là năm không nhớ, nhưng những chức việc mà tổ chức cho hắn đảm
nhận thì hắn nhớ mồn một. Nhỏ, to gì hắn cũng làm: Đội trưởng đội thiếu nhi,
chi đoàn trưởng, xã đoàn trưởng, đi học thì lớp trưởng. Hắn không lên cấp 3 vì
thiếu điểm, thiếu điểm là vì hắn dồn sức cho công việc lớp trưởng. Sự học với hắn
ngay từ thời còn viết a, bê, xê hắn đã thấy mịt mù đâu đâu. Thì chẳng đã bao
nhiêu người trong thiên hạ học mắt gà mắt vịt chẳng ra làm sao mà vẫn làm nên
vai vế. Có vai vế là có tiền mà tiền là thứ phù phép ra nhiều thứ khác. Hắn làm
Phó chủ tịch xã có uy với dân, với cấp trên. Lý ra cứ thế lên chủ tịch rồi nấc
dần lên huyện, lên tỉnh. Lý lịch hắn rõ ràng, người hắn rõ ràng, giữa đám cán bộ
xã nhôm nhoam a, bờ, cờ, hắn nổi bật hẳn lên. Sao huyện lại xử sự thế. Họ không
biết hắn mất Nhi là để được cái họ không cho hắn ư? Thế thì hắn sẽ chọn đường
khác, sẽ đi khỏi xã. Để xem người thay hắn ra sao? Để khi cái lão Sỹ già nua,
huyện thắp đuốc đỏ đèn mà tìm người thay thế. Cái đuốc, cái đèn chỉ dùng để bắt
ếch, bắt chim cuốc mà thôi. Và hắn quyết định đi bộ đội. Bà Đăng tái mặt, toàn
thân run rẩy như bị động kinh. Bộ dạng mẹ khiến hắn chùn. Hắn thương mẹ. Bố hắn
làm nghề chọc tiết lợn cho dân làng, cho cửa hàng thực phẩm chợ Nhu. Đã thay đến
bốn con dao phay. Mũi dao trong tay ông trúng phập ba ngàn bảy trăm linh một quả
tim lợn. ấy là tính đến ngày ông lâm bệnh chết. Mẹ hắn ở vậy nuôi hắn mà nuôi
khổ, nuôi cực. Nên hắn không nỡ bỏ mẹ ở nhà khi hắn chưa trả cho mẹ được chút
gì.
Bữa nọ, ông Thọ cho hắn biết cô Nhi có đơn viết bằng máu xin đi
bộ đội. Như chỉ thông tin, không có ý gì. ấy vậy mà hắn ngó đăm vào mắt ông ta,
soi tìm thái độ vị bí thư xã để rành mạch cái lờ mờ trong đầu. Thường nhìn nó đọc
ra ý lãnh đạo. Nay thì không. Thế nên hắn bối rối.
- Còn tiếc hả? - Ông Thọ nháy mắt, nhay nhay cái đầu thuốc lá
giọng nhơn nhớt - Tiếc là phải. Mơn mởn thế, mông, vú phổng phao thế.
Nói rồi, cười khùng khục.
Hắn lại thấy bóng dáng Nhi. Lần này cái bóng ấy khiến hắn tức
tối. Sự tức tối ngoài ý muốn của hắn. Tại sao thế, nếu không là vì người bí thư
đang sừng sững trước mắt hắn. Hắn như vỡ nhẽ ra một cái gì đó lâu nay bịt bùng
trong đầu, nhưng mà cái gì thì hắn không rành mạch nổi. Hắn khẽ nhắm mắt, tập
trung nghĩ. ờ... rất có thể là lão, lão tâu lên Huyện ủy những cái nhược điểm của
hắn. nên mới có sự thay đổi vị trí Chủ tịch xã. Vậy rồi, cái tức tối Nhi nhường
chỗ cho sự nghi ngờ, hậm hực ông Thọ. Hắn thở hắt ra. Mỗi lần gặp ông Thọ ra về
hắn vẫn thường tự hỏi, không biết ông ta có thật bụng với mình không, giờ thì
biết rồi, ông ta là con rắn cạp nong, cắn sau lưng người, người chết vẫn không
nhìn thấy mặt nó. Vậy mà hắn toàn tâm toàn ý vì ông ta. Thì rõ vân bàn tay cái
ý nghĩ trong đầu ông ta về tuổi già đang thắt vòng trước mặt sẽ thít vào cổ ông
ta khi có những người trẻ tuổi, tài năng như hắn kề bên cái ghế ngồi... Hắn lại
thở hắt ra lần nữa, rồi nói, giọng rành rọt pha chút dọa dẫm:
- Ông Thọ, tôi cần nói với ông điều này. Ông giải quyết cho
Nguyễn Kim Nhi vào bộ đội à? Theo ý tôi, trường hợp này chúng ta phải bàn kỹ.
Vì tình hình chính trị ở chiến trường địch, ta đan răng lược mà phải bàn. Bỏ
riêng tư ra một bên để ta bàn.
Ông Thọ trợn tròn mắt.
- Dào, người ta xung phong đi bộ đội, chứ có phải xung phong
đi dự hội, đi nghỉ mát đâu mà bàn với chả ghế.
- Nếu cô ta theo giặc?
- Vớ vẩn! Con gái xinh đẹp thế, mông má vú vê ngộn như vồng
khoai thế, dại theo giặc để nát bét ra à? Mà sao anh cuống lên thế hả? Anh quên
anh là phó chủ tịch, người làm giấy tờ à? Ghi đúng như có. Rồi đơn vị nhận quân
họ tính. Tôi chẳng dính dáng vụ việc cụ thể đâu đấy.
Hắn ghi đúng như có, chỉ thêm, bớt dăm bảy điều. Thêm cái điều
bà mẹ họ Hoàng mất tích, cái điều cha bất mãn, đọc tiểu thuyết Tàu... Và bớt nhận
xét tư cách đạo đức. Hắn hình dung ra vẻ mặt của Nhi lúc tập trung tân binh, rồi
vẻ mặt thiểu não của Nhi lúc bị đơn vị nhận quân trả về. Hắn chợt thấy rân rân
trên da mặt, cái cảm giác xấu hổ có lúc vẫn xuất hiện trong hắn. Thế là hắn
nghĩ sang chuyện khác, hắn đủ khôn ranh để không bị cảm giác ấy thực hiện quyền
năng là làm thay đổi ý định mình.
Lần này thì hắn đã tính toán sai. Cô Nhi không bị trả về. Cô
được phiên chế vào đơn vị thông tin. Đêm đầu tiên sau khi tiễn chân 28 thanh
niên nam lẫn nữ của xã trong đó có Nhi lên đường nhập ngũ, hắn đã mơ một giấc
mơ như hồi lên chín lên mười từng mơ. Hồi ấy, những giấc mơ của hắn thường có
chim, vì bố hắn thường bẫy chim trong bãi lác ven sông Nghèn. Hắn bắt được
chim, nhiều chim, buộc chùm vòng quanh người. Hắn biến thành một con chim làm bằng
nhiều con chim bay lơ lửng. Còn đêm ấy, trước mắt hắn chỉ có một con chim bã trầu,
mỏ vàng, ngực đỏ, cánh xanh, đẹp rực rỡ đậu trên cành tre, đôi mắt tròn lóng
lánh chớp những tia sáng hình vòng cung trước mắt hắn. Hắn vươn hai tay chộp.
Chim bã trầu bay vút mất. Hắn ngã gục xuống bùn, ì ọp trong bùn... Tỉnh dậy,
người hắn nhớp nháp mồ hôi. Giấc mơ làm hắn buồn lắm, xót lắm. Rồi hắn tự nhủ,
sự đã qua coi như không có mối tình đầu với cô Nhi, coi như làng xã này từ thuở
khai thiên tịch chưa từng có Nhi. Hắn còn bịa đặt ra bao nhiêu thứ khác nữa để
trấn an mình, rồi bắt toàn con người hắn tin vào cái giả dối ấy. Lạ là hắn đã
làm được. Hắn quên Nhi, hắn lao vào công việc một cách sốt sắng và đầy mẹo mực,
thứ mẹo mực thiên phú, chính hắn cũng không biết được. Nó giống như mẹo mực
đánh bẫy chim, chẳng có bài bản nào truyền nối mà thành kỹ thuật, thành nghệ
thuật.
Một buổi, mẹ hắn nói, khi hắn còn ngồi trên thềm ngó mông ra
trời.
- Chán chê chưa? Là tao nói cái bùa ngải con Nhi ấy. Gớm! Hay
hớm gì cái thứ gái lật lọng ấy mà tiếc với lại nuối. Mày nghe mẹ mày nói không
đấy?
Hắn đáp, hờ hững:
- Có nghe.
Mẹ hắn hỏi:
- Quên được chưa?
- Rồi.
- Bẻ cái càng cua, mẹ mừng lắm. Đứa nào ở đâu, làm gì thì mặc
xác, chứ ở làng xã này mà làm con trai bà khổ là không được.
Hắn cười trước sự hiểu biết "cúi đầu bốc khoai luộc
trong ấm đất" của mẹ. ừ, thì rõ là, cùng lứa tuổi tác hắn chẳng thua kém kẻ
nào ở trong làng, trong xã. Nhưng là làng này, xã này, là nhất mẹ, nhì con. Chứ
thiên hạ đông đúc thì ta là cái gì? ờ... Mà tại sao ta lại không lăn xả vào
thiên hạ để thấy ai ngoi lên được nhỉ?
Hắn khoát tay, hắn nói, nói như trước hắn không phải chỉ có mẹ,
bóng đêm, cây cối trong vườn cựa quậy những hình thù kỳ dị mà là cả thiên hạ:
- Chiến tranh ngày càng ác liệt. Tôi phải đi, phải tìm điều
kiện, hoàn cảnh để phát triển. Nhất xanh cỏ, nhì đỏ ngực. Xanh cỏ thì chẳng còn
chi mà nói, nhưng đỏ ngực là cơ sở cho vận may. ở quê, đời sang tiểu mới thành
ông này, vị khác...
- Mày nói... vả vào cái miệng mày - Bà Đăng thống thiết - Cha
mày mất sớm, còn mỗi mày, tao nuôi mỗi mày, tao sống với mỗi mày, tao phải giữ.
Chẳng có cơn cớ ngô khoai nào to bằng việc con phải ở nhà với mẹ. Mày đi, tao
chết, tao nhảy ao, nhảy hồ, nhảy giếng, tao treo dây ngọn cây, treo dây xà nhà,
tao chết.
Thái độ dứt khoát của mẹ khiến hắn chùn, hắn không thực hiện
được ý đồ thoát ly, làm cán bộ nhà nước, hay vào bộ đội, thanh niên xung phong.
Năm tháng sau hắn cưới vợ. Rồi vợ hắn có thai, bụng vợ hắn lùm lùm thì hắn được
huyện cho làm đội trưởng đội xe thồ thuộc công ty vận tải quốc doanh mới thành
lập do yêu cầu chiến trường.
CHƯƠNG 4
Ngày ở chiến trường dài dằng dặc, bởi chất chứa bao nhiêu là sự,
là chuyện, từ cái sống, cái chết, nỗi buồn, niềm vui, đến thất vọng, mơ ước,
yêu thương, thù hận... Qua rồi, ngoảnh nhìn, lại thấy sao mà thấm thoắt, sao mới
khoác cái áo vải xanh thơm mùi hồ, chật căng ngực đã ngấp nghé tuổi ba mươi. Rồi
bỗng lại thấy những ngày đầu hòa bình, cứ phẳng lặng, nhàn nhạt. Nên lặp đi lặp
lại thứ tâm trạng bâng khuâng, vẩn vơ. Cứ muốn vào một chốn ồn ào, mày tao chi
tớ, môn khoai, cá ruốc không từ. Nhưng mấp mé chốn ấy thì nhận ra nó không hợp
với mình, không dành cho mình. Thì cứ thử xem sao, biết đâu viết được cái gì đó
về đời sống sinh hoạt thành phố. Đủ cả đèn xanh, đỏ, rượu ngoại, thuốc ngoại,
rượu nội, thuốc nội, thịt rừng, cá biển, người già, kẻ trẻ, người mặc quân phục,
người com lê, kẻ sơ vin... Mình là nhà báo, dù là bao nhiêu năm biết nghĩ để
tính đường đi cho đời mình, cô chưa nghĩ mình thành nhà báo. Lớp 7 xong, vào bộ
đội, đọc mỗi báo Nhân dân, báo Quân đội, dăm bảy cuốn sách chữ nghĩa đựng vừa nửa
lòng mũ tai bèo. Gặp anh Thuần nhà báo, anh nài nỉ: "Cô viết cho tôi về tiểu
đội của cô. Cứ thấy sao viết vậy. Làm việc gì, ăn uống ra sao, Mỹ ném bom thì xử
sự thế nào. Xong việc ở Sư bộ, tôi xuống lấy." Bốn trang giấy học sinh kín
chữ cô chép trong hai đêm. Tưởng anh ta sẽ nhặt lấy vài chục chữ cho bài viết của
anh ta. Hóa ra đấy là bài báo đầu tiên được in của cô. Sau đó cô còn gặp anh
Thuần mấy lần nữa. Nhờ anh mà khi chiến tranh kết thúc cô được chuyển về báo tỉnh.
Anh bảo: "Đừng nghĩ viết báo khó. Khối người dốt như me đặc, chữ nghĩa nhì
nhằng, kiến thức thực tiễn mỏng như giấy Pơ luya mà cũng trưởng ban, phó tổng.
So với cô, bọn ấy chưa là cái gì. Cứ viết đi, vài tháng thấy không ổn, bảo tôi,
tôi xin cho cô bán hàng thương nghiệp. Chốn ấy là hũ mỡ lợn. Cô muốn thành con
chuột đói không?"
Cô đáp: "Không". Giờ thì anh Thuần không biết ở
chân trời góc biển nào. Chiến tranh làm tan tác mỗi người mỗi ngả, hòa bình
cũng thế, không kém. Cứ nghĩ, ngày tháng qua đi, cái khoảng trống chung quanh
càng rộng ra. Như cốc nước chanh đang cạn dần trước mắt. Từ bao giờ Nhi hay
nghĩ vẩn vơ, còn triết lý vụn nữa. Nhất là những lúc ngồi một mình, như bây giờ,
cô lắng nghe những ý nghĩ, nhấm nháp những triết lý của mình.
Một người từ bàn bên cạnh bước tới.
- Có phải Nhi? Tôi làm sao quên được cô.
Nhi từ từ ngước lên, thận trọng nhìn, toan thốt: "Anh
Phú", nhưng rồi lại chỉ mấp máy môi như không nhận ra, con người mặc bộ quần
áo công nhân màu xanh rõ những vết dầu mỡ như bị ai bôi rành mạch mảng, miếng
trước mắt mình là Phú.
- Nhìn kỹ vào. Nhi không thể quên tôi.
Bụng bảo dạ: Phải xử sự khôn khéo, nếu không muốn làm con
thiêu thân, Nhi tỏ ra vồn vã:
- Anh Phú chứ còn ai nữa. Không ngờ lại gặp anh, thấy anh khỏe,
trẻ thế này. Cô nói và không tin đấy là lời của mình. Rồi tự khuyên mình cứ dối
lòng mình một tí chẳng ảnh hưởng gì đến tư cách đạo đức vì để có tư cách phải
được yên ổn mà cái bản mặt kia cứ gợi cho cô một thắc thỏm bất an.
- Một mình thôi à? Nào, xin mời ngồi cùng bàn - Phú nói và
xòe rộng bàn tay ra.
Nhi đứng dậy theo Phú. Anh ta ngồi cách chỗ cô hai bàn và chắc
đã ngồi lâu với nhiều người vì trên bàn la liệt đủ thứ, lơm nhơm dở dang. Một
cô gái quen quen, Nhi cố nhớ mà không nhận ra. Cái môi tô son đỏ quá, phấn trắng
dày quá, cổ áo không ra Tây, chẳng ra ta... Một người đàn bà nửa quê nửa tỉnh,
hai phần quê, một phần tỉnh.
Phú nói, không nhìn người đàn bà, giọng dửng dưng, cả khó chịu
nữa:
- Vợ tôi, Nguyệt xóm chợ.
Nguyệt con bà Bá, nhà cổng chợ Nhu. Hồi Nhi ở quê cô ta bán
cháo lòng cùng mẹ. Nổi tiếng chanh chua. Thì nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp
vung méo. Khôn ngoan, tàn bạo Phú gặp chanh chua Nguyệt. Nhưng về hình thức thì
lệch lắm. Cái mẽ đẹp trai, lịch lãm của Phú với vẻ thô nhám, bèn bẹt của chị
ta. Phú tự giới thiệu về mình, không thể không nói được là anh ta khoe khoang:
- Nhi đi rồi, mấy tháng sau tôi cũng đi. Lãnh đạo một đội xe
vận tải, cứ là lăn giữa bom đạn. Nổi tiếng cả vùng khu Bốn. Thế nên xong chiến
tranh, tỉnh điều sang làm đại đội trưởng đội thủy lợi, mở kênh Vách Nam. Rồi
sang Liên Xô học. Hồi ở quê tôi và Nhi học hành được mấy con chữ, còn bị rơi rụng
xuống bờ xuống ruộng nữa. Những thầy Thi, thầy Ngõa, cô Thóc, cô Song thuộc lớp
cổ lai hy, chữ Pháp loằng ngoằng, chữ Quốc ngữ thì què quặt. Hỏi học trò như
chúng ta khá lên sao được.
- Ba hoa chích chòe vừa thôi ông - Cô vợ ngấm ngoảy nhìn Nhi
bực bội vung toẹt ra vậy.
- Im cái miệng đi bà lão. Tôi nói đến chỗ làm thư ký cho Phó
chủ tịch rồi phải không. Đấy, tóm lược công việc mấy năm xa Nhi là thế. Giờ thì
ổn rồi, tốt rồi. Nhưng mà mệt, việc chồng chất. Ông Phó chủ tịch đi đâu, tôi phải
có mặt ở đó. Về, phải phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn báo cáo trước thường
vụ. Cơ giới hóa nông nghiệp là một cuộc cách mạng mang tính lịch sử. Giờ thì
tôi đang đặc trách theo dõi huyện X, huyện thí điểm. Làng mạc cho lên núi lên đồi,
còn lại đồng lúa, mênh mông đồng, thế thì máy cày, máy gặt đập liên hợp mới
tung hoành được. Nhi biết chứ?
Nhi bảo, biết. Rồi đưa hai bàn tay áp vào hai bên thái dương
để nghe cái dòng chảy thao thao bất tận từ đôi môi mấp máy. Thực tình Nhi cứ lờ
mờ, cứ lâng lâng về một chuỗi ký ức xa xăm. Sao hai con người ấy lại kết hợp
thành vợ, chồng. Nguyệt chắc đã khổ, rồi sẽ còn khổ mất thôi. Mộc mạc, thô nháp
như chị thì làm sao...
- Cô vẫn ở Báo à? - Đột ngột Phú hỏi.
- Vâng, vẫn - Nhi đáp. Rồi đứng dậy vì tự dưng cô thấy bụng dạ
cồn cào, cứ muốn nôn. Và nói tiếp - Tôi có việc xin về trước.
Nguyệt nói:
- Về đi.
Phú nói:
- Rồi còn gặp nhau, tất nhiên rồi còn gặp nhau. Có khó khăn,
có cần gì cứ gặp người này nhé. Người này sẵn sàng giúp. Gì đi nữa cũng là đồng
hương.
Phú không làm Nhi khó chịu mà chỉ thấy chán. Không muốn nghĩ
về cái chán ấy, nên càng không biết chán về cái gì. Nhưng ám ảnh thì rõ. Nhi bị
Phú ám ảnh đến nỗi xuất hiện một linh cảm tai họa mơ hồ. Nhi đi ngủ, hình ảnh
Phú cứ chờn vờn, biến dạng. Khi thì là người, khi không là người. Điện không đủ
sáng, Nhi vặn to ngọn đèn dầu hỏa. Khói đèn đen bốc ngoằn ngoèo. Gián và nhện
bò trên tấm lá cót trần nhà. Một đêm trường thức trắng.
Mấy ngày sau, ông Tổng biên tập gọi Nhi lên phòng làm việc.
- Cô xuống huyện "ba cùng" với nhân dân, viết cho
được một bài thật sâu sắc về phong trào của Đảng bộ và nhân dân... Đi ngay đi.
Chưa xong bài, chưa về. Cô nhớ câu hát "chưa hết giặc chưa về" không?
Thế nhé. Hãy sâu sắc vào, vừa khái quát vừa cụ thể vào.
Từ bao giờ, người ta thích nói nhiều với thứ ngôn từ to tát
thế? Cứ như để cuộc cách mạng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thành công thì mọi
thứ cũng phải lớn theo, từ làm lớn đến ăn lớn, nói lớn. Cờ quạt cũng phải lớn.
Nhi đạp xe đi dưới bóng cây và cả bóng cờ, bóng khẩu hiệu, biểu ngữ. Khẩu hiệu
kẻ bằng vôi trên nống, trên cót, trên những bức tường ngoảnh mặt ra đường, rồi
cả trên những sườn núi lô xô dọc theo đường lớn. Tiếng trống to, nhỏ nơi này,
chỗ kia, như có hội làng. Mà hội làng thật. Người nhâm nhi khắp nơi. Gặp ai
cũng nghe nói về tương lai, một tương lai đầy máy móc, với điệp điệp lời trích
dẫn... Sự hào hứng của khối người hữu hình và cả vô hình lây sang Nhi, làm cô cảm
thấy rạo rực, thấy trong người cứ căng ý tưởng, thấy ngón tay cứ ngọ nguậy muốn
viết.
Nhi gặp một người đàn ông thấp, nhỏ, ngực lực lép đi khập khiễng
trước cổng trụ sở Huyện. Ông ta chằng chằng nhìn Nhi. Rồi hỏi:
- Cô là nhà báo?
- Phải.
- Đi thực tế, viết bài?
- Vâng.
- Viết cho tử tế nhé. Phản ảnh cho thật trung thực chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, nhân dân ta trong sản xuất và xây dựng. Cái tinh thần
"mo cơm, quả cà, tấm lòng cộng sản" phải nêu nổi bật lên.
Nhi định nói rằng, ông không phải dậy tôi viết như thế nào,
nhưng chưa kịp nói thì ông đã bỏ đi. Một quãng, ông ngoảnh lại:
- Nhớ gặp anh Nguyễn Hoàng Phú, thư ký của tôi, đặc trách chỉ
đạo huyện này mà xin tài liệu. Anh ấy sẽ không làm cô thất vọng đâu. Đấy là
nhân vật tích cực của tác phẩm văn học, báo chí hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Nhi sững người. Nhi biết ra con người kia là Phó chủ tịch tỉnh.
Rồi cũng giống như những con người yếu bóng vía nhan nhản khắp nơi, Nhi nhớ lại
những câu đối đáp của mình vừa rồi. Nó trúng nhưng không hết ý, không xởi lởi,
không nhiệt tình. Nếu biết trước là Phó chủ tịch tỉnh thì mình sẽ làm gì, cười
toe toét hay cúi xuống thưa, dạ, bẩm? Ra những cái gọi là ý thức cá nhân, là bản
lĩnh... của Nhi lâu nay cũng chỉ mới là nghĩ. Mới biết cái nghĩ chẳng khó khăn
gì mấy. Bất giác Nhi thấy mặt nóng phừng. Đáng ra đi vào trụ sở ủy ban Huyện
thì cô lại quay ngoắt trở ra. Nhi mới gặp Phú hôm qua. Thế cứ gặp lại, gặp với
tư cách nhà báo đến làm việc.
Người ta chỉ cho Nhi một ngôi nhà giữa đồng, cột tre, mái che
vải bạt. Cho có vẻ chiến trận hay thực tế cần phải thế. Nhi cứ nghĩ rằng, thứ
nhà mang vẻ chiến trận ấy mới hợp với Phú, rồi lại ngẫm ra mình cố chấp, ra
mình không ưa đổ thừa cho xấu. Chuyện xưa rồi sao mình cứ khư khư giữ trong
mình.
Phú ngồi sau cái bàn gỗ chất chồng những giấy tờ với sách vở.
Xúm xít quanh anh ta là những người cán bộ huyện, cán bộ xã (Nhi đoán thế) vẻ tất
bật, mệt mỏi nhưng mồm miệng luôn cười. Phú nói với người này, chỉ tay vào người
kia, nhanh nhẹn, dứt khoát và lộ rõ cái vẻ cố tỏ ra mình có quyền năng. Vãn
khách, anh ta ngước lên. Khuôn mặt co lại, đôi mắt hẹp dần. Rồi anh ta đứng dậy
thong thả vươn vai, vung tay trái ra phía trước làm một động tác dứt khoát, như
để giãn xương cốt, như đánh vào một vật vô hình nào đấy. Cuối cùng thì vồn vã:
- Nhà báo Nguyễn Kim Nhi. Sao không nói trước tôi cho xe đến
đón cùng đi. Tôi cũng mới ra sáng nay. Mụ vợ nghi ngờ tôi và Nhi có tình ý. Khỉ
thế. Chẳng là hôm trước gặp Nhi ở quán Cửa Tiền, cái đẹp của Nhi đã làm mụ táng
đảm.
Mù mịt thế, Nhi chỉ biết nghe, nghe bập bõm và đưa tay văn văn
ngọn tóc. Lại tiếng Phú:
- Nhi nên cố gắng viết một bài cho tử tế vào. Ông Phó chủ tịch
đang thèm báo ca ngợi tốc độ dời làng lên núi. Cứ bớt ngày, tăng số lượng, tức
là bớt t tăng m là thành tăng tốc độ. Ha! ha!...
Thì ra vẫn Phú làng Đông của hàng chục năm trước, có liến thoắng
hơn, từ ngữ rổn rảng hơn. Bất ngờ Nhi thấy khó chịu, thấy lại cái cảm giác chiều
mưa xưa, khi Phú bảo, dừng đám cưới lại để được đề bạt Chủ tịch xã. Xưa, cảm
giác ấy rát tâm can làm người bải hoải rỗng roãng, nay cảm giác ấy bốc cháy rần
rật trong người Nhi. Cái giọng nói của Nhi cũng rần rật, hay chỉ là do Nhi cảm
thấy vậy.
- Anh quên là tôi không biết dối trá rồi à? Xưa, không dối,
nay cũng không. Với lại, cứ mở mắt nhìn ra bốn phía, phơi phới cờ, băng khẩu hiệu...
- Tôi nói đùa, vì quen biết nhau mà đùa tý - Phú ngắt lời
Nhi. Rồi nét mặt Phú đổi khác, nó trịnh trọng, nó trang nghiêm, nó cay nghiệt.
Đoạn, nói - Cô cần tư liệu gì đây? Chẳng sách vở, tôi thuộc lòng. Cô ghi, viết
theo ý cô. Nhưng mà...
Phú bỗng dừng, khẽ lắc đầu, chém tay vào khoảng không. Là cảnh
báo, là đe nẹt? Là trò trẻ con. Nhi nghĩ, lờ mờ rồi rõ dần, ra trước mắt anh
ta, Nhi vẫn là kẻ dưới quyền, yếu thế, là cái cô Nhi em ông An, thông gia Lý
Nhu ở làng Thượng Cồn. Trước cái buổi chiều hôm kia, nghĩa là trước khi gặp
Phú, Phú không tồn tại trong cô, còn từ ấy đến giờ Phú cứ ám ảnh cô. Chút tơ
vương của mối tình xưa cũ thì không rồi, có ngẫm hàng năm cũng sẽ thấy không.
Nhưng trong anh ta biết đâu còn có Nhi. Thế vẫn hơn thù hận. Nhi bối rối thật sự.
Nếu Phú cứ gật gật đầu, cứ he hé mắt và chém tay vào không khí nữa thì Nhi sẽ
không còn đủ khôn ngoan để đối đáp. Thế nên, Nhi nói:
- Tôi chưa có ý định viết về cái gì. Đi xem, nhận biết không
khí lao động sôi nổi khẩn trương, rồi gặp lại anh sau.
- Cũng được - Phú hờ hững. Thoáng cái, anh ta đã cúi xuống
bàn viết, như chưa từng có Nhi trong ngôi nhà tạm, lúc này gió thổi thông thống.
Nhi dắt xe đi về phía sông Ninh. ở đó đang có một công trình
thủ công đắp đập, xây cống để ngăn nước mặn tràn lên những lúc triều cường.
Không biết cơ man nào là người, người già, trẻ con, đàn ông, đàn bà khắp các
ngõ ngách, xó xỉnh trong cả huyện được điều về đông nghìn nghịt.
Kèn, kèn trầm, kèn bổng; trống, trống cái, trống ếch, cờ đuôi
nheo, cờ lá chuối, cờ rước thần, cờ đỏ sao vàng... trùm lên tất cả những cái ấy,
những thứ ấy là sang sảng, hào hùng tiếng loa buộc trên những cây tre chôn dọc
bờ sông, thông báo công việc, thành tích năng suất...
Nếu viết một bài văn tả cảnh chắc là hay. Nhi nghĩ và chợt nhớ
lời ông Tổng biên tập lại đâm lo. Ông Trịnh Hòa ấy thì đừng có mong sự châm chước,
tha thứ. Nguyên thượng tá quân đội ở Ban tuyên huấn Sư đoàn, ông đưa tác phong
quân đội vào báo chí. Cứ nghe rắp! rắp! Ông cần ý tứ, không cần chữ nghĩa diễn
đạt, có sai ngữ pháp, chính tả chả sao. Nhà văn, nhà báo làm ra ngữ pháp, chính
tả chứ ai làm. "Sự thật là trên hết" - Ông nói, không những nói mà
hét lên.
Đang đi, Nhi giật mình. Một hòn sỏi rơi vào cổ.
Người ném sỏi cười rinh rích đằng sau bụi cây chạc chìu. Nhi
nhận ra Đông, phóng viên Đài phát thanh tỉnh. Đông leo qua quãng đất mới đào
nham nhở, giẫm bừa qua bụi cây, cành lá ngoằn ngoèo khô xác về phía Nhi.
- May quá gặp mày.
- Tao đang mong được gặp ai đó.
- Mày chẳng vừa gặp ông Phú thư ký Phó chủ tịch, một nhân vật
thời đại đó sao?
- Định lấy tư liệu, bỗng thấy chán, mình bỏ đi.
- Dào, cái tay cơ hội số một, máu gái số hai, thủ đoạn số ba,
tao lạ gì.
Đông quay đầu nhìn quanh như sợ ai nghe thấy. Rồi kéo Nhi lại
gần mình nói tiếp.
- Tao kể mày nghe chuyện này. Nhưng có dám viết không?
- Chuyện gì mới được chứ? Mà sao mày không viết?
- Nếu tao có cái đầu của mày...
Đông kể về vụ sập cống Hòa Hải làm 8 người chết, 2 công nhân
thủy lợi, 6 thanh niên làng Nghĩa Khang.
- Làm dối, làm ẩu, hám thành tích cho thông cống trước thời
gian kỹ thuật cho phép, nên sập. Ai lệnh thông cống, mày biết không? Phó chủ tịch.
Nhưng trận cờ này đã có mấy con tốt. Thí tốt. Giám đốc Sở Thủy lợi, tay Hà Hồng
làm tốt đen, vào tù để an dân.
Trời trưa mênh mang. Nhi bất giác ngưng thở, đặt vội tay lên
ngực, có cái gì đó nhói lên trong tim.
CHƯƠNG 5
Đội xe thồ, gồm toàn anh chị em nông dân, những người có xe đạp,
bất kể xe đạp gì, là thành ra công nhân của đội. Hồ sơ mỏng thé một tờ đơn, một
tờ lý lịch, chữ mực xanh mực tím ba bảy hai mốt ngày bay màu là mờ mịt. Còn về
tổ chức, quản lý cũng lờ mờ không ra dạng kiểu nào. Mỗi mục đích rõ ràng, dứt
khoát là đã bỏ hàng lên xe phải đưa đến địa điểm quy định, không sứt mẻ, suy
suyển một ly dù có bom phản lực, bom B.52, bom bi hay xe thủng lốp, gãy vành.
Thông thoáng thế, nhôm nhoam thế nên tuần hắn về nhà một lần, có khi hơn, để
cái dạ dày đỡ lạo xạo hạt bo bo, để mẹ hắn bôi lên môi lớp mỡ lợn trơn nhẫy,
thơm phức. Chung quanh thế cả, từ lãnh đạo đến dân thường luôn thiếu ăn, thiếu
chất dinh dưỡng. Một bữa hắn về nhà đã thấy cô Nguyệt đang xoắn xuýt bên mẹ hắn:
Cái cô Nguyệt con bà Liên bán cháo lòng ở ngõ chợ Nhu hắn chẳng lạ. Thời làm
phó chủ tịch có việc phải ăn tập thể là lãnh đạo xã kéo ra đó, lố nhố trên giường,
dưới đất chơi món cổ hũ vừa trắng vừa giòn và ném trộm cái mắt lên bộ ngực ngồn
ngộn, phập phồng của cô ta. Là sau khi bị Nhi trả lễ chạm ngõ, hắn mới thấy cái
bộ ngực ấy. Nhiều lần, cô ta nhìn hắn lả lơi lắm, còn đầu hắn ngoằn ngoèo những
ý định chẳng lấy gì làm tốt đẹp, là thứ định của khối thằng đàn ông trước đàn
bà. Hắn phải vận sức tưởng tượng ra cảnh làm chồng một khuôn mặt bèn bẹt, mắt
thì lồi, mũi thì hênh hếch để thoát khỏi làn hơi nóng từ bộ ngực cô ta táp vào
người. Vậy mà đêm ấy, sau khi ăn uống no nê, hắn và Nguyệt ra ngồi bên bờ ao hứng
gió nồm thổi hiu hiu từ biển lên, rồi hắn và cô ta cùng ngả xuống cỏ, cùng hừng
hực cả lên. Xong, hắn ân hận. Rồi mong không để lại trong người cô ta cái giòng
giống của hắn. Hắn biền biệt hai tháng. Tháng thứ ba kể từ cái đêm gió nồm hiu
hiu ấy hắn quyết định về nhà. ừ, thì trắng ra trắng, đen ra đen khỏi phải thắc
thỏm. Vừa vào đến sân thì đụng cái bụng lùm lùm trắng lốp của Nguyệt. Cô ta kéo
áo lên khoe, trời ạ. Vậy là hắn có vợ, có con. Hắn sang Liên Xô học. Về, lên tỉnh
làm thư ký cho Phó chủ tịch. Những người muốn hắn biết sự nhiệt tình của mình
bàn hắn đưa vợ con ra thành phố. Hắn mệt mỏi nói rằng công việc của đồng chí
Phó chủ tịch nhiều quá, rằng hắn đang tập trung học ngoại ngữ. Học thế nào,
không biết, nhưng hắn đã có bằng, từng mảnh nho nhỏ, màu đỏ, chữ nhũ vàng. Ai đến
phòng hắn cũng được nom thấy vì hắn lồng chúng vào khung kính treo trên tường.
Ai cũng ngước lên nhìn, ngắm, chỉ mỗi vợ hắn là không buồn rảy mắt ngó. Tháng bốn
tuần, bốn chủ nhật, phòng ở của hắn cứ thình thịch tiếng chân cô ta, Nguyệt lặn
lội đò giang, đường sá ngót năm chục cây số ra ở với hắn một ngày đêm, rồi cung
cúc về với mẹ hắn, với lúa, khoai, lợn gà. Vậy là mụ thỏa mãn, không trách cứ,
không rền rẫm. Chao ôi, vợ hắn sao mà tuyệt vời. Như giờ đây mặt mũi mụ đỏ phừng.
Mụ đang vui, đang chờ được hắn khen món thịt gà xào sả rằng ngon.
Chuông điện thoại réo. Cái sự chuông điện thoại réo trước giờ
ăn cơm, trong lúc ăn cơm với hắn là thường tình. Ông Phó chủ tịch Quảng gọi, bạn
bè gọi, người quen biết gọi để nhờ vả. Nguyệt thì giật mình, không phải vì tiếng
chuông lảnh lói quá, rền vang quá mà bởi cô ta biết sau tiếng chuông khỉ gió
kia, mụ sẽ phải ăn một mình như kẻ góa chồng.
Hắn cúp máy, quay về phía vợ nói:
- Tôi phải đi rồi.
Nguyệt rền rĩ:
- Bữa nào cũng thế - Rồi nổi khùng, cơn khùng của đàn bà thường
chỉ nhìn thấy ngón chân cái của chính mình - Nó là đứa nào? Đồ chó má cái họ
hàng tông tộc nhà nó.
Hắn chồm tới đưa tay bịt miệng vợ. Mắt hắn nhìn quanh, không
phải để tìm kiếm cái gì, mà để ý xem có ai luẩn quẩn đâu đó không. Hắn nói, như
những tiếng thì thào:
- Đồng chí Phó chủ tịch gọi, nghe thủng chưa hả? Sao mãi rồi
mà cô chưa hết ngu.
Nguyệt gỡ tay chồng:
- Phó chủ tịch à?
Nói xong đổ cả nồi thịt gà xào sả xuống nền nhà. Những cái
bong bóng mỡ vàng ươm li ti, lềnh bềnh.
Hắn xách cặp ra khỏi phòng, không buồn cả đóng cửa. Đêm bàng
bạc và tĩnh lặng. Đường phố vắng vẻ, cứ như bao lâu rồi nó đã như thế. Vợ hắn
thô nháp từ người đến cách ăn nói, nhưng bụng ả thì thương hắn trước sau như một.
Chỉ vì ả không biết mối quan hệ rường cột giữa hắn và ông Phó chủ tịch. Trách ả
tội nghiệp. Hắn có bao giờ kể chuyện công việc ra cho ả nghe đâu. Riêng gì ả,
khối người trong cơ quan ngày cụng mặt nhau dăm bảy lần cũng không biết nữa là.
Cái thời buổi lao xao khôn sống vống chết này. Ông Phó chủ tịch ba nóng bảy rét
thì hắn cứ phải bảy rét, ba nóng. Nghe bảo, ông trưởng thành từ một trưởng trại
nuôi lợn, chăm học nên đạt bằng đại học Nông lâm lại thêm bằng trung cấp chính
trị. Chẳng biết ông học hành thế nào mà có những cái bằng đỏ gặp thời, đắc địa,
chứ cái đầu ông lồi lõm những khoảng trống. Hắn phải viết những điều ông cần ra
giấy để ông đọc mà khỏa lấp đi cái khoảng trống mà theo hắn mọt kiếp vẫn cứ trống.
Có điều, hắn thành được cánh tay phải của ông nhờ vào khoảng trống kia. Đêm nay
chắc một khoảng trống nào đó của ông đang cần hắn, một chuyện gì đó ông ta
không giải nổi phải cần trí thông minh mẹo mực của hắn. Hắn chứ không phải là
Chánh văn phòng. Linh tính về một chuyện không hay làm hắn lo lắng. Hắn nghĩ tới
chuyện sập cống Hòa Hải. Hiện lên trước mắt hắn những xác người chết, xói vào
tai hắn những tiếng khóc gào. Thì hắn đã dàn xếp êm thấm, những con tốt đen đã
được tung ra thực hiện phận sự của loài tốt đâu vào đó. Sau vụ ấy, ông Quảng
nói với hắn: "Tôi ơn anh" - "Ơn huệ gì, đấy là trách nhiệm của
tôi bảo vệ uy tín cho tổ chức". Hắn nói mà bụng thì mở ra cười. Cảm ơn
chưa đủ đâu - hắn thầm thì - Nếu mà không có hắn, những người ghét ông sẽ trùm
lưới sắt lên đầu ông. Nhân dân sẽ cho tung toé văn nghệ dân gian ra. Thứ vũ khí
ấy chẳng có gì chống nổi. Lâu nay nhan nhản thơ, vè, câu đối, truyện tiếu lâm
nhằm đả kích lớp người lãnh đạo như sông, như suối, như lạch chảy từ thành phố
về nông thôn, tràn từ nông thôn ra thành phố. Cái tư tưởng chống đối ấy từ đâu
ra? Rốt cuộc truy về nguồn gốc thì là từ những việc làm sai trái của lớp người
lãnh đạo kia. Là ngẫm thế, biết với mình thế. Hắn không đến nỗi ngu để nói với
ông Quảng suy nghĩ của mình. Cống Hòa Hải sập hôm trước thì hôm sau đã nghe câu
đối: "Cái cống sập vùi dân đen xuống đất / Cánh cửa mở đẩy Quảng Lơ lên trời".
Thứ tư tưởng chống đối không thể để tồn tại, nhưng chẳng thể bịt miệng thế gian
mà phải làm cho thế gian tự bịt miệng lại.
Tưởng chỉ là chuyện hỏi han công việc như bao lần khác, tại
nhà riêng, nên hắn xởi lởi suồng sã tí chút, cả cười thành tiếng từ ngoài ngõ,
nào ngờ ông Quảng cau có ném vào người hắn một tờ báo. Hắn quờ tay giữ tờ báo
và ép vào ngực mình, chưa hết sững sờ. Chẳng phải vì tờ báo bay tới đột ngột
quá mà vì vẻ mặt giận dữ của Phó chủ tịch.
- Anh còn đứng ngẩn tò te ra đó à? Đọc đi - Ông Quảng nói rồi
ngả lưng vào thành ghế.
Vậy là người gặp vạ là hắn rồi. Cách tốt nhất là trốn khỏi
cơn giận của ông, chờ ông nguôi ngoai. Bao nhiêu người đã khôn ngoan làm thế.
Không trốn được thì cứ phải mềm nhũn ra, luồn lách theo lời ông. Cái gàn ông Đồ
Nghệ, cái nhỏ nhen ông nông dân sản xuất nhỏ trộn với tính độc đoán anh cán bộ
xã cuối thời chống Pháp của ông Quảng, từng làm khổ hắn nhiều lần.
"Rật!" - Ông Quảng đập tay vào đệm xa lông và giật
giọng:
- Ngay trang một, nó viết cống Hòa Hải, nó viết về tôi, về
cái tỉnh này. Nó muốn phủ nhận cuộc cách mạng sản xuất lớn XHCN. Hừ, còn nước mắt,
khói hương. ở đâu ra thứ ấy nằm chườn ườn trên báo vậy? Hả?
Hắn đưa tờ báo vào gần ngọn đèn trên bàn làm việc của ông Phó
chủ tịch. Những dòng chữ to tướng "Một tai nạn đáng tiếc" đập vào mắt
hắn, nhảy múa trước mắt hắn. Đúng sự thật cả, dù không muốn, dù như ngậm ớt, hắn
cũng phải nghĩ vậy, cũng phải thấy ra không có gì sai ở cái chuyện sập cống được
chữ nghĩa vẽ lên có đầu có đuôi vậy. Đến dòng chữ dưới đít bài báo thì hắn giật
mình táng đảm ra: Nguyễn Kim Nhi - tác giả bài báo - Cô gái làng Thượng Cồn ấy...
Bữa nọ ở huyện, trước khi về, cô ta mượn hắn cặp tài liệu về cống Hòa Hải trong
đó đủ cả luận chứng, bản vẽ thiết kế, dự toán, nói là để tham khảo. Hắn đã thấy
lờ mờ cái gì đó nhưng cái gì đó cứ mãi lờ mờ đằng sau khuôn mặt trắng trẻo có nụ
cười hớp hồn hắn. Thế nên hắn đã bị lừa. Dẫu sao thì...
- Bài báo viết y như thật! - Hắn buông giọng, ma xui quỷ khiến
thế nào để hắn buông ra một câu thật lòng ấy?
Ông Quảng như bị roi quất vào người, chồm dậy, bước khỏi ghế
xa lông, cái chân bị tật của ông bần bật trên nền gạch:
- Anh bảo sao? - Mắt ông trợn tròn lên - Sự thật à? Sự thật
cái con khỉ. Định hướng văn hóa, văn nghệ ở đâu? Văn nghệ, báo chí là để phục vụ
nhiệm vụ chính trị. Có những sự thật không được viết, vì nó ảnh hưởng xấu đến
phong trào, tới uy tín lãnh đạo, đơn giản thế mà không nghĩ ra à? Thế mà cũng
nhà văn, nhà báo à? Các đồng chí ở Trung ương mà đọc bài báo này thì mặt mũi của
tỉnh ta còn màu mè gì. Nếu dân mà đọc thì dân nghi ngờ chủ trương đúng đắn của
tỉnh. Còn lọt vào kẻ thù chống đối thì nó sẽ nắm lấy mà lu loa chửi con đường
xã hội chủ nghĩa. Đơn giản thế mà cũng không nghĩ ra à? Mà tôi hỏi anh, ai cung
cấp tài liệu cống Hòa Hải cho cô ta?
- Dạ, tôi không biết ạ. Hôm gặp tôi ở huyện, cái hôm anh hỏi
tôi cô ta có xuống công trường làm nại muối không, tôi đã trả lời anh là không
và cô ta về rồi. Từ ấy lại nay tôi không gặp cô ta.
Ông Quảng nói:
- Tôi không bảo anh cung cấp tài liệu mà hỏi ai cung cấp tài
liệu, cứ gì anh phân bua. Giờ tôi mới hỏi anh là xử lý việc này ra sao đây?
Hắn trở lại cái vị trí của mình trước Phó chủ tịch Quảng, vừa
là thư ký, vừa là quân sư. Hắn nói:
- Trước tiên phải lệnh thu hồi số báo này. Sau mới tính phóng
viên Nguyễn Kim Nhi và Tổng biên tập.
Ông Quảng đã lại ngồi xuống ghế:
- Thu hồi? Kịp không?
- Tôi sẽ đi ngay bây giờ.
- Chú đi đi. Gọi xe thằng Huy mà đi. Xong việc lúc nào về gặp
tôi lúc ấy. Sáng mai tôi đã phải có mặt ở Cửa Biển sớm để đón tàu chở mì bột
vào cảng. Làm lúa từ khi có con người đến nay mà không đủ gạo ăn. Mà anh phát
nhanh cái công văn về việc cán bộ công nhân viên một năm tự túc hai tháng lương
thực. Trăm nỗi cho cái ăn cái mặc mà báo chí còn quậy. Thật chẳng ra làm sao.
Hắn thống thiết:
- Tôi từng đề xuất với anh đưa cán bộ chính trị xuống nắm giữ
các cơ quan tuyên truyền như báo, đài, văn nghệ thì anh mới yên tâm được. Nhân
chuyện bài báo này, tôi xin anh phải rắn tay lên.
CHƯƠNG 6
Cạnh cửa chính vào cái hội trường ba gian của tòa soạn báo kê
mấy cái ghế gỗ làm chỗ ngồi cho những ai đến họp muộn, hoặc cho kẻ ngồi chờ để
được gọi vào làm việc. Lâu ngày, nhiều người ngồi đến nỗi gờ ghế ăn lún vào vữa
tường thành lỗ, thành rãnh. Sáng nay thì chỉ mỗi Nhi ngồi, như một người lạ đến
cơ quan chờ làm việc vậy. Nhiều người đi qua trước mặt Nhi ra vẻ đang mải chuyện
trò, đang dở một suy nghĩ mà không nhận ra Nhi. Nhiều người mặc rặt com lê màu
sẫm, dận giày đen, giống trang phục thường thấy ở những đám tang hơn là ở Câu lạc
bộ Nhà Báo tổ chức tháng một lần. Mỗi việc Phó chủ tịch tỉnh tới dự sinh hoạt
câu lạc bộ đã thấy cái sự không bình thường. Cái sự không bình thường ấy mới
sinh ra những sự không bình thường khác mà Nhi nhìn vào đâu cũng thấy. Chúng hữu
hình, vô hình và thảy đều lành lạnh.
Nhi nhớ cô từng ngồi ở đây hai lần, không hơn. Một lần ngồi
chờ bắt thăm săm xe đạp. Cả cơ quan hai mươi chín người, hai mươi sáu cái xe mà
Công ty thương nghiệp phân phối cho năm cái săm Sao Vàng. Ai cũng cần vì săm cũ
vá nhăm nhít, vì phải đi công tác. Nên không ai nhường ai. Lần khác thì ngồi chờ
nhận phần thịt lợn. áp tết, gió bấc lạnh, bụng càng lạnh cứ như thiếu mỡ trong
người mà sinh ra cái lạnh vậy. Vẫn những khuôn mặt trong cơ quan, quen đến nhẵn
lì nhưng trước chút quyền lợi nó như biến dạng đi theo nỗi mong đợi, hy vọng. Cứ
nghĩ mang mang như vậy, Nhi không biết là chẳng còn ai đi qua trước mặt mình nữa.
Nhi đứng dậy, đúng lúc một người ló mặt ra cái cửa sổ ở ngay trên đầu cô.
- Cô Nhi vào phòng! - Khuôn mặt ấy nói, như ra lệnh.
Còn một cái ghế để trống. ấy là chỗ ngồi của Nhi, người ta sắp
đặt trước cái vị trí cô được ngồi. Lần đầu tiên Nhi nhận ra những người thân
quen, những người từng trọng phục năng lực viết lách của mình lạnh nhạt với
mình. Thì đã bao nhiêu lần gặp "con Kỳ nhông" của Sêkhốp trong đời
còn ngạc nhiên cái nỗi gì. Người ta phải thay đổi người ta vì người ta. Nhi ngồi
xuống, cúi đầu xuống, đầu óc bỗng nhiên căng ra. Trước khi có cái buổi sinh hoạt
Câu lạc bộ nhà báo này, Tổng biên tập mặt choắt trán hói đã gặp Nhi. Thay vì
khen ngợi sự sâu sắc của Nhi trong các bài viết như nhiều lần gặp trước, ông ta
bảo cô là ngựa non háu đá, là kẻ ăn cháo đá bát, đang yên lành bỗng dưng viết một
bài báo có ảnh hưởng xấu tới con đường sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ông lại
nói cô to gan, mắt bị mộng mị đi kết tội lãnh đạo tỉnh về cái chết của những
người nông dân và công nhân ở cống Hòa Hải. Còn bảo, bài báo của cô ra đời được
là vì ông đi vắng, tay phó tổng biên tập thì gà mờ. Rồi khuyên cô nhận khuyết
điểm cho thành thật. Sau ông Trịnh Hòa là Nguyễn Hoàng Phú. Anh ta đến tận căn
phòng 12 mét vuông lợp giấy dầu lúc nào cũng tối lờ mờ, còn mang theo một cân
đường, hai hộp sữa. Lúc ấy nhìn anh ta cứng ngắc trong bộ áo quần đen đến bên
giường Nhi nằm, từ từ cúi xuống, Nhi cứ nghĩ tới một vị linh mục với cuốn kinh
thánh mở sẵn mà tưởng mình sắp chết thật rồi. Phú chẳng đả động gì tới báo biếc,
chỉ kể chuyện làng Thượng Cồn, làng Đông, như cái sợi tơ tình dăng dít thời xưa
ấy là quan trọng nhất. Nhi ậm ờ nghe, ậm ờ đáp. Đoạn rồi Phú cũng phải nói ra
cái dẫn anh ta đến: "Bài báo ấy mà... Tôi đánh giá là viết theo sự thật,
có điều rằng nó chưa nên ra đời lúc cả tỉnh đang sôi nổi khẩn trương thực hiện
cuộc cách mạng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Sự đã rồi, như bát nước đã đổ,
không sửa được. Tôi đã thu hồi số báo có bài của Nhi để yên cái chuyện đi,
nhưng bọn nó đã phát hành năm trăm bản. Tôi nể Nhi đưa cho Nhi tập tài liệu cống
Hòa Hải, Nhi giữ im cho, chuyện ấy chỉ tôi và Nhi biết thôi. Nhi nghe tôi nói
không?" Mệt bã người, Nhi vội nói: "Tôi nghe, tôi nghe rồi, sẽ không
nhắc đến tên anh đâu".
- Bắt đầu làm việc! - Cái loa ở góc phòng giật lên bốn tiếng,
chắc vì âm ly chưa điều chỉnh kịp. Nhi ngó quanh. Bàn ghế xếp hình chữ U. Người
ta dù muốn hay không cũng chẳng tránh được ánh mắt nhau. Và kẻ yếu bóng vía thì
khó gạt ra khỏi đầu ý nghĩ là kẻ khác đang theo dõi mình, đang đánh giá mình. Từ
bao giờ có cách xếp bàn ghế kiểu này. Kẻ nào nghĩ ra nó không thể là tình cờ.
Người ta đang nhìn Nhi, không chỉ là cảm giác nữa rồi. Ông Phó chủ tịch tỉnh
đang nhìn Nhi, cái nhìn sâu thẳm, lạnh băng, vận hết sự từng trải ra Nhi cũng
không đoán được ông ta đang nghĩ gì. Rồi nhiều đôi mắt khác nữa, nhác về phía
nào cũng thấy chúng, cũng lạnh băng cả ra. Người Nhi sẽ đông cứng, nếu cứ thấy
thứ mắt kia, Nhi nghĩ vậy, biết vậy, nên dán cái nhìn vào cái bục gỗ, ván cong
vênh lùm lùm như bụng người đàn bà chửa đẻ. Trên tấm ván ấy là một cái máy ghi
âm. Hai sợi dây điện một xanh một đỏ xoắn vào nhau, loằng ngoằng trên nền nhà
lát gạch nâu chạy về phía loa thùng cuối phòng. Ông Trịnh Hòa nực nội trong bộ
com lê chật căng, vừa nói vừa nghiêng đầu sang phải, sang trái làm những sợi
tóc mềm bay lơ phơ:
- Thưa đồng chí Phó chủ tịch tỉnh kính mến, thưa đồng chí
Nguyễn Hoàng Phú, thưa đồng chí... thưa đồng chí...
Cứ thế kéo dài vài phút rồi tiếng vỗ tay ran ran.
Cái máy ghi âm bắt đầu chạy xè xè.
Giọng nói của ông Trịnh Hòa bỗng cao hơn, gấp gáp hơn:
- Hôm nay chúng ta trao đổi thẳng thắn, nghiêm túc, không né
tránh, không khoan nhượng, không nể nang cá nhân về bài báo "Một tai nạn
đáng tiếc" của đồng... của cô Nguyễn Thị Kim Nhi. Mục đích là qua Câu lạc
bộ này các nhà báo chúng ta rút kinh nghiệm, thêm một lần nữa hiểu về vai trò
trách nhiệm của người làm báo với nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Đầu tiên tôi
trân trọng kính mời đồng chí Phó chủ tịch truyền đạt ý kiến.
Ông Quảng chống hai tay vào bàn đứng dậy. Nguyễn Hoàng Phú
nâng cái mi cờ rô trên bục xuống đặt lên tấm vải hoa đỏ trước mặt ông Quảng.
Ông là người duy nhất trong phòng không mặc com lê. Cái áo vải ka ky bốn túi
cài khuy cổ, tóc mềm, da mặt trắng, miệng vừa phải, mũi cao gần khoằm. Ông
không giống nông dân vùng đồng chiêm trũng dù gốc gác ông ở đồng chiêm thật chứ
chẳng phải bịa bọt gì. Ông vào bộ đội, đi đánh Pháp ở Điện Biên Phủ, lên chức
trung đội trưởng rồi đại đội trưởng. Đeo lon thiếu tá ông mới học thêm chữ, chứ
trước đó chỉ ngoáy vài chục chữ một lần viết, cơ bản là chữ ký, chục chữ như một,
đố kẻ nào giả mạo được. Hòa bình năm 1954, ông chuyển ngành làm cán bộ Phòng
Nông nghiệp tỉnh. Lại học, học bổ túc, học trường Trung cấp chính trị. Bằng cấp
hẳn hoi. Nhưng mà kiến thức thực tiễn còn quan trọng hơn bằng cấp. Ông nói thế
và phấn đấu nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý của mình theo quan điểm ấy. Là
thế, nhưng trong cái cặp phồng cứng quai cặp xoắn thêm một cái thép bọc nhựa
ông xách theo người, từ cái hồi còn là chủ tịch huyện, rồi lên tỉnh, bao giờ
cũng có những cái mảnh bằng đỏ nằm ở chỗ dễ thấy nhất, cứ mở nắp cặp là táp thẳng
vào mắt thiên hạ.
Nhi nghĩ không biết ý nghĩ đi đến đâu, nếu không được người
ngồi cạnh giật áo.
Các đồng chí cứ coi tôi đến đây như một nhà báo, một bạn đọc
khó tính, một công dân có trách nhiệm. Thế mới có không khí cởi mở, bình đẳng.
Hãy nói những gì các đồng chí thấy nên nói, cần nói. Tỉnh tin ở các nhà báo.
Nào, anh Hòa cho bắt đầu đi thôi.
Một cánh tay... hai cánh tay... rồi ba, bốn, năm... tua tủa
những cánh tay giơ lên. Ngọ nguậy nữa. Hồi nào đấy, lâu rồi, tiểu đội thông tin
của Nhi bị B.52 vùi, có những cánh tay thọc khỏi lớp đất nâu, cũng ngọ nguậy,
cũng tua tủa như thế. Hôm ấy may không ai chết, đất tơi nên đào bới dễ. Lâu sau
đó Nhi còn bất chợt thấy những bàn tay ấy vẫy về phía mình. Giờ chẳng còn bàn
tay nào vẫy về phía Nhi. Thế mà cứ nghĩ rồi sẽ có. Vậy là nổi lên trong lòng sự
chờ đợi. Có thể có một ai đó... Nhi không biết Nguyễn Hoàng Phú đã chuẩn bị kỹ
càng, chu đáo khâu nhân sự. Mời ai, không mời ai chẳng phải chuyện đùa.
Máy ghi âm chạy xè xè...
- Tôi đề nghị Ban biên tập báo kiểm điểm về sự lơi lỏng giáo
dục chính trị, tư tưởng cho phóng viên Nguyễn Kim Nhi - Một người trạc bốn mươi
lăm tuổi, thẳng đơ gốc cây dựng vững chãi sau bục gỗ, nói sang sảng - Tôi đọc
bài "Một tai nạn đáng tiếc" xong thì nghi ngờ là người viết bài này
không phải Đảng viên Đảng lao động Việt Nam, không phải phóng viên báo chí Cách
mạng. Tôi băn khoăn, tờ báo in bài báo này là báo Hải ngoại. Mười lăm năm tuổi
Đảng, một lòng vì Đảng vì dân, thưa đồng chí, tôi thấy xót xa quá, xót xa vì xuất
hiện một sản phẩm báo chí như thế.
Máy ghi âm xè xè...
Một người loắt choắt, đầu to quá cỡ, có cái mũi đỏ như quả cà
chua vươn cổ về phía mi cờ rô:
- Kính thưa đồng chí Phó chủ tịch tỉnh kính mến! Tôi nhiệt liệt
hoan nghênh cuộc họp kịp thời đầy tính Đảng này. Cần có thêm nhiều cuộc họp thế
này để mà uốn nắn, chôn vùi những lệch lạc sai sót trong tuyên truyền nhiệm vụ
chính trị. Bài báo của Nguyễn Kim Nhi là lệch lạc, sai sót. Tác giả có ý đồ
dùng từ ám chỉ, dùng câu mang biểu tượng hai mặt. Tôi ví dụ "chất lượng
không tốt" chất lượng gì không tốt hả? Chất lượng cán bộ à? Chất lượng Đảng
viên à? Chất lượng cuộc sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa à? Rồi tác giả viết
"Tôi ra về khi hoàng hôn đã buông, bóng tối bắt đầu loang ra đường".
Cái gì là hoàng hôn ở huyện hả? Bóng tối đây là cái gì hả? Bi quan, chán nản
thì đã rõ. Còn cả phủ nhận, cả chống đối.
Máy ghi âm xè xè.
Ôi, cái tiếng xè xè đều đều, lặp lại, đều đều, nếu bình thường
nó sẽ đưa con người vào giấc ngủ ngon, đằng này, lúc này nó chẳng ăn nhập, chẳng
át, chẳng mờ đi được những điều người ta đang nói dồn dập, nén chặt, xổ tung,
vút nhọn, khoan xoáy...
- Thưa... - Nhi không ngửng lên nhìn người nói nữa. Là không
đủ sức ngẩng đầu, là chán ghét, là thoát khỏi chung quanh, nhấm nháp ý nghĩ
riêng? Cái tiếng nói cứ chạy từ mi cờ rô theo sợi dây xanh đỏ để túa ra đầu loa
thùng.
- Ta có thể kết luận cho rằng: Nguyễn Kim Nhi có thái độ chống
đối cách mạng và thái độ ấy đã biểu hiện ra giấy trắng mực đen. Tôi không muốn
nói điều đó, nhưng đồng chí Phó chủ tịch tỉnh chỉ thị nói thẳng thắn. Tôi thẳng
thắng thế. Tôi hỏi, cái gì đẩy Nguyễn Kim Nhi tới sai lầm ấy. Thành phần ư? Bất
mãn ư? Các đồng chí giúp tôi phân tích thêm. Một vấn đề khác nữa, chúng ta cần
quan tâm. Đấy là trong công cuộc cách mạng thay trời, đổi đất, xếp đặt lại
giang sơn vĩ đại của nhân dân tỉnh ta đã có nhiều phần tử xấu đả kích bằng ca
dao, câu đối, truyện cười.
Máy ghi âm xè xè.
Tiếp một giọng khác, chói gắt:
- Bài báo của Nguyễn Kim Nhi là một viên thuốc độc bọc đường.
Cô ta nhằm ném ra cho quần chúng nhân dân...
Giờ thì Nhi lo lắng thật sự, lo đến lạnh gáy, bởi vì những điều
người ta nói về bài báo, về Nhi nó đã nằm cả ra ngoài bài báo, ngoài bản thân
Nhi. Cái hôm qua, hôm kia Nhi lấy để vấn an, để cho những suy nghĩ chới với bíu
vào là sự hiện thực phản ánh thoạt chốc bay biến. Trong cơn bấn loạn, Nhi đưa mắt
nhìn thẳng vào những khuôn mặt chung quanh. Cái nhìn lộ vẻ cầu cứu, mặc nó. Lý
trí chửi rủa: Đồ hèn, cũng kệ. Nhi đang lơ lửng, sợi dây giữ Nhi lại trên mặt đất
sắp đứt, mà dưới kia thì hun hút trống hoang hoác.
- Tôi phản đối ý kiến các bác, các anh - Một giọng trẻ trung
vang lên - Các bác, các anh phân tích đánh giá về một tác phẩm báo chí mà không
trung thực với chính mình. Quy chụp gần với vu oan giá họa, các đồng chí đã...
Đám đông ồn ào, tiếng xô bàn ghế, tiếng la hét. Nguyễn Hoàng
Phú áp đến bên bục gỗ, một tay giơ lên giật cái mi cờ rô, tay phải đẩy vào vai
anh thanh niên. Anh thanh niên gỡ kính ra lau, đôi mắt bị cận đã lồi càng to
ra, ngơ ngác ra. Rồi anh ta lắc đầu rời bục gỗ lách giữa những dãy ghế đi ra khỏi
phòng họp. Không khí bỗng lịm đi.
- Người ấy là ai? - Ông Quảng quay sang hỏi Trịnh Hòa.
- Nguyễn Hưng, sinh viên Trường Sư phạm, khoa Văn - Trịnh Hòa
lắp bắp đáp, mặt trông dài dại, đờ đẫn khác hẳn.
- Tiếp tục - Tiếng ông Quảng.
Máy ghi âm chạy xè xè...
Hình như ông Trịnh Hòa tổng kết Câu lạc bộ. Hình như là ông
tuyên bố gác bút Nhi. Nhi đã hết cả sợ hãi, hết cả ngạc nhiên, chỉ nghèn nghẹn
trong cổ họng và mắt thì như đóng màng, thấy người đi qua trước mặt mà chẳng nhận
ra ai.
Nhi đi, không biết mình đi nhưng rồi cũng mò ra khỏi được căn
phòng, giờ chỉ còn bàn với ghế ngổn ngang, rồi cũng về được nhà. Không dép, để
cả mũ vải trên đầu Nhi nằm vật xuống giường và khóc.
CHƯƠNG 7
Tám tháng sau.
Ông Quảng và Phú ngồi chung ô tô, trên đường từ huyện về tỉnh.
Cả hai đều có vẻ buồn chán. Biết nhau quá rõ không còn phải che đậy, giấu diếm
tình cảm nên cái buồn cái chán ấy lộ cả ra lời nói.
- Chủ trương sai hay quá trình chỉ đạo sai nhỉ? - Ông Quảng
nói như nói cho mình nghe.
Hắn quay lại. Có thể được xem gan ruột phèo phổi của ông Phó
chủ tịch và hắn sẽ đủ ranh ma để nhuộm lời hắn vào thứ máu gan ruột phèo phổi ấy.
Mới biết tư duy nó dính dấp với nghề nghiệp thật bền. Vợ hắn bán cháo lòng, mấy
tháng sau khi xuất ngũ chờ đi học nghề ở Liên Xô, cứ lờ mờ sáng hắn thọc tay
vào cái đám ruột lợn bèo nhèo. Nên lời trò chuyện cứ dính tên những thứ trong bụng
lợn. Suốt hàng chục năm làm cán bộ hắn vẫn không quên nổi cái mùi vị của lòng lợn.
Dạo làm thư ký cho ông Quảng thì thôi, thì bỏ hẳn còn trước đó hắn thường có mặt
ở quán cháo lòng trước cổng Ty Thủy lợi.
- Cậu trả lời đi! - Ông Quảng cựa quậy quay người về phía hắn.
Hắn nói.
- Chủ trương cơ giới hóa nông nghiệp là đúng quá chứ anh. Tôi
biết giai đoạn sản xuất này trong sách từ hồi học trường chính trị tỉnh. Nhưng
anh từng trải, anh rõ là trên đời này không phải cái gì đúng cũng đưa đến thắng
lợi. Từ cái chủ trương đúng đến thắng lợi dích dắc hàng quãng dài. ở những cái
quãng ấy sinh ra bao nhiêu là việc, việc con người, việc cơ sở vật chất.
- ấy đấy... Vậy cái quãng của huyện ta?
Hắn hùng hồn hơn:
- Là quãng sau đại thắng của dân tộc, khí thế hừng hực, thừa
thắng xốc tới. Nên chủ quan. Là tôi nói phong trào quần chúng đấy. Hừng hực
quá, xốc lên quá mà chóng mỏi. Dân đang mỏi. Nghỉ ngơi thời gian rồi đâu lại
vào đấy, nhân dân ta lại hừng hực cho anh xem.
Ông Quảng khoát tay:
- Hừng hực cái con khỉ. Hỏng bét rồi. Tôi hỏi anh là tôi có hỏng
không? Hỏng ở đâu?
- Anh không hỏng. Cái hỏng là các điều kiện vật chất. Lê Nin
bảo...
- Thôi đi! Cứ sách vở...
Công cuộc "Xếp đặt lại giang sơn", cơ giới hóa ở
huyện có thất bại hắn cũng là người ngoài cuộc. Thư ký là cái đếch gì. Thư là
sách, là giấy, ký là viết mà lại viết theo ý người khác. Ăn theo nói leo, loại
người như hắn có ở khắp nơi, như ruồi nhặng, yên thì bu đến, động thì bay vù
đi, đố thấy một bóng. Hắn nghĩ và quyết định nhanh là phải trấn an khích lệ ông
Phó chủ tịch. Cái tuổi 57, 58, ván cầu rung tí chút cũng có thể ngã. Ngã một
mình là nhẽ khác, đằng này kéo hắn ngã theo thì thật nguy.
- Anh không sai, lãnh đạo tỉnh không sai. Rồi anh sẽ biết tôi
nói đúng vì là cái cuộc huyện nhà nằm ở quãng đầu trên con đường sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa. Anh đừng cho tôi sách vở. Anh từng dạy tôi phải có lý luận
sách vở đó sao.
- ờ... ừ.
Xe về đến trụ sở ủy ban Tỉnh thì trời tối. Sân bãi vắng hiu,
cửa ngõ im ỉm. Ông Quảng bảo hắn vào phòng thư ký xem công văn thư tín có cái
nào in mũi tên đỏ "hỏa tốc" không. Còn dặn, nếu có báo ngay cho ông.
Ngày nào hắn chả làm việc ấy. Mở phong bì, đọc, cái cần trình ông thì trình,
cái không cần thì vất vào sọt rác. Thời buổi loạn công văn chỉ thị, có trời mới
đọc hết. Hôm nay hắn xem kỹ từng cái, linh tính bảo hắn có chuyện gì đó. Thông
báo của Tổng biên tập báo treo bút, hạ lương Nguyễn Kim Nhi. Oan cho cô ta,
nhưng cần phải thế. Chuyện này tính sau, còn dính vào nhau lâu đây. Công điện của
Trung ương dừng ngay việc phá làng mạc dời dân lên núi... Hắn lờ mờ kết cục này
từ bao giờ, hắn không rõ, nhưng đúng là lờ mờ. Giờ thì rõ. Hắn đứng dậy đi ra cửa.
Thấy ông Quảng ngồi một mình trong phòng làm việc, vẻ mệt mỏi lắm nên hắn nhét
tờ công điện vào túi áo.
- Báo cáo anh không có gì anh phải lo nghĩ đâu ạ.
Rồi hắn sẽ phải trình ông, phải trình nhanh là vì điện, nhưng
không phải lúc này, lúc chập tối trước một đêm mà đêm mùa thu thì cứ dài dằng dặc
ra...
Hắn chưa về nhà vội, hắn nhấc máy điện thoại, bấm số máy Huyền
Minh. Định rủ cô ta đến quán lòng lợn Hải Yến, chợt nhớ là tối thứ bảy, chồng
Huyền Minh có thể về nhà, lại nghĩ ra mụ vợ ở quê lên, nên hắn vội dập ống nghe
xuống. Sao cứ lặp đi lặp lại cái sự không muốn là tối thứ bảy vợ lên? Hắn đi ra
phố, và chẳng biết sao hắn bước vào quán Cửa Tiền. Cái bàn hôm trước cô ta ngồi
trước kia. Sau cú bị dập vùi ấy, Nhi thế nào, hắn không rõ, chỉ nghe láng máng
là cô ta không tới tòa soạn báo, ngày 24 giờ thì nằm đọc sách 15 giờ. Cái quyết
định gác bút của Nhi hắn mới đọc, chắc cô ta chưa hay biết. Nhiều cô gái đã qua
tay hắn, gái ta và cả gái Tây, vậy mà thật trớ trêu là hắn chỉ nhớ mỗi Nhi. Cái
mùi thơm da thịt Nhi lẫn với mùi cỏ tươi ở làng hắn không quên được. Thấy bức bối
trong người, hắn không gọi thức ăn mà đứng phắt dậy đi ra khỏi quán. Đêm rộng
rênh, cái lạnh vừa đủ cho ý nghĩ se lại, mạch lạc ra.
Ông Quảng sẽ không yên về cái vụ ở huyện, hắn biết thế, tin
thế. Gan ruột các ông trong ủy ban Tỉnh hắn nhìn thấy như nhìn trên sàng, trong
sảo vậy. Người ta thì dậu đổ bìm leo, còn hắn thì dậu đổ là mất choãi. Chừng
nào ông Quảng còn là hắn còn choãi. Nên hắn mới nghĩ phải lợi dụng cái choãi
ông Quảng. Rồi hắn đến gõ cửa nhà ông.
CHƯƠNG 8
Tất cả nằm ở ngón tay cái và ngón tay trỏ của ông Quảng. Không
ký roạch vào quyết định. Dĩ nhiên là thế rồi. Cơ mà vài dòng thư tay, dăm chữ
ghi xiên, ngả rạp vào nhau bên lề tờ trình hay tờ đề nghị gì đấy là ra cái quyết
định kia. Nên việc Nguyễn Hoàng Phú thành Tổng biên tập báo thay Trịnh Hòa diễn
ra chóng vánh trong vòng ba ngày, trước bữa ông Quảng chuyển ra Bộ Nông nghiệp
đúng một tháng. Nhi nghe tin ấy qua bản tin thời sự của Đài phát thanh tỉnh từ
cái máy ori ông tông cũ kỹ mặt trận B5 tặng thưởng tại Đại hội công nông binh
năm 1968. Cũ nên âm thanh cứ rè rè, không phân biệt nổi giọng nam hay giọng nữ.
Nhi nghe xong thấy giọng nao buồn, còn buồn về cái gì, không biết. Không viết
lách nữa thì ai làm Tổng biên tập cũng thế cả, không có dính dáng gì đến mình.
Mỗi căn phòng đang ở không là của Nhi. Họ lấy là Nhi bơ vơ. Thì Nhi sẽ về quê
là xã viên Hợp tác xã, làm bà o, có khô quắt người, mồm miệng càu nhàu như nhai
ghẻ rách cũng được cái thanh thản. Giá có ai góa vợ đem lòng yêu thương mình...
Cứ mù mịt nghĩ thế cho đến lúc nghe bước chân ai đó bước lên thềm, Nhi rùng
mình khi nhận ra Nguyễn Hoàng Phú. Có chục, có trăm để mà tưởng, nhưng không tưởng
gương mặt Phú. Mới vỡ nhẽ ra, nhận ra lâu nay nghĩ về Phú mà không có hình người
anh ta. Nhi cứ tròn mắt nhìn rồi lúng túng, không biết nên làm gì, nói gì, Phú
thì vẫn đứng nơi ngưỡng cửa vẻ như chờ một lời mời của Nhi vậy.
- Ra là anh - Nhi nói dửng dưng.
Phú cười khùng khục:
- Không mời mà đến. Nhưng không sao, khách này vào nhà nào là
tốt lành vào theo.
Nhi ném cái gối nãy giờ ôm trong lòng xuống giường, ngả người
ra cầm thanh tre chống cao cánh cửa sổ làm bằng cót ép lên, rồi nói:
- Nhà này dư thừa tốt lành rồi.
- Móc máy nhau làm gì? - Phú dài giọng - Quả đất tròn, rốt cuộc
tôi lại cùng cơ quan với cô, Nhi biết tôi thay Trịnh Hòa làm Tổng biên tập rồi
chứ.
- Rồi. Biết rồi - Nhi nói lạnh băng - Tiếc là tôi không còn
cán bộ của báo nữa.
- Việc ấy tôi sẽ xem lại - Phú vừa nói vừa bước vào phòng, mắt
soi mói vào khắp nơi rồi tiếp - Nhi ăn ở tuềnh toàng sơ sài thế này à?
Nhi cứ dần dần nghe Phú nói mà ngờ ngợ có lẽ anh ta ngạc
nhiên thật, anh ta động lòng thương Nhi thật. ờ, người ta có ranh ma quỷ quái,
có nhẫn tâm đến đâu cũng có thể có lúc nào đó biết xúc động. Phú xúc động. Chuyện
vớ vẩn, nực cười. Từ lâu lắm rồi cô đã mất hết trơn lòng tin về anh ta. Nhi
không chờ gì hết, có chết cô cũng không nhận sự thương hại. Đến đó thì Nhi nổi
giận lên. Chẳng là anh ta đang thương hại Nhi đó sao, chẳng là cái nhìn anh ta
đang lục lọi trên người Nhi đó sao.
Nhi đưa tay ôm lấy ngực, thấy nên nói toạc ra ý nghĩ của
mình. Nhưng chưa kịp nói thì Phú đã bỏ đi. Ra thềm, anh ta ngoảnh lại.
- Tôi sẽ thu xếp để cô trở lại làm việc, trước mắt ở phòng bạn
đọc - Nói xong thì nháy mắt một cách khó hiểu.
Đọc hết cả "Miếng da lừa", Nhi ngỡ như mình cũng
đang teo lại, đang mòn dần, thế nên mới có chuyến ra phố. Gặp ngày nắng, không
gian đầy bụi và ngộp một thứ mùi nồng nồng. Nhìn quanh thấy lô nhô nhà đang xây,
giàn giáo tua tủa, xe chở xi măng, vôi cát nhảy chồm chồm, rít còi inh ỏi. Cứ
thấy cựa quậy đâu đó, cái gì trên mặt đất cũng đang cựa quậy. Loanh quanh thế
nào Nhi rơi vào cửa hàng Cửa Tiền. Và gặp cô Huyền Minh. Vẫn thế, trắng trẻo,
ngồn ngộn, mắt ướt rượt, khác lần Nhi gặp trước đây là tóc xõa tung, rối lên
như nùm rơm. Cô ta sững lại, nhìn Nhi đăm đăm:
- Tôi nhớ ra chị rồi - Huyền Minh nói - Dạo này nom chị ốm o
quá lắm. Làm việc vừa vừa thôi. Tăng cường chơi nhởi. Chơi nhởi nó sinh sản ca
lo. Lý thuyết là vậy, nhưng phải có chừng mực, đến ngưỡng thì dừng - Nói tuồn
tuột một thôi như không thở, rồi bỗng Huyền Minh ghé sát tai Nhi thì thào - Có
thấy hắn không?
Nhi nói:
- Hắn là ai và chẳng thấy hắn nào cả.
Huyền Minh nói tiếp:
- Ông Phú ấy. Em rạc cẳng tìm hắn mà không thấy. Hay là hắn
trốn em? Hắn có gan thế lắm chị hí.
- Mà là chuyện gì? - Nhi hỏi, cái thói tò mò đàn bà lộ ra ở
giọng nói vội vã, ở cái mắt nhìn không chớp.
- Vì hắn mà thằng chồng em nó bỏ em. Quá ngưỡng mà. Em đã bảo
nhịn thèm vài bữa, không nghe, cứ sồng sộc mò đến nhà, thằng chồng em rình sẵn...
Bỗng ả thì thào:
- Chắc hắn vào viện vì cái bình hoa thằng chồng em ném vào đầu
hắn. Là ném sau khi hắn đã xổ hết tiền trong túi, cả nhẫn vàng nơi ngón tay ra,
"đền danh dự" chồng em để nó im thóc cho. Chị đi cùng em không. Đến
viện thăm hắn tí. Thỉnh thoảng lúc ăn nằm với em nó có nhắc tên chị, có bữa tức
quá em hất hắn rơi xuống giường đấy.
Nhi thấy lờm lợm.
- Không phải việc của tôi - Nói xong thì quay ngoắt, lẫn vào
giữa đám đông. Bất giác, cô bỗng nhớ chị Nguyệt. Là thứ bảy, chắc chị ta đang
chờ hắn về ăn món lòng lợn ở quê lên, cũng có thể đang đi tìm hắn. Có hai người
đàn bà đi tìm hắn. Mà sao Nhi lại nghĩ luẩn quẩn về hắn. Thì cũng là thói thường
miệng bảo không phải việc của mình, mặc kệ người ta, nhưng trong bụng lại mong
cho mọi chuyện rối tung lên, ồn ào lên càng hả dạ. Và Nhi cứ thấy thắc thoải,
nghĩ mãi thì hiểu ra là mình đang chờ đợi kết cục cái quan hệ chim chuột của
Nguyễn Hoàng Phú.
Nhi quên quấy lời nói của hắn là đưa cô trở lại cơ quan Báo.
Có lẽ lý trí mách bảo cô hay rằng, đấy là lời nói quấy quá, đãi bôi thôi. Cũng
quên nốt cuộc gặp cô Huyền Minh.
Bẵng đi mấy bữa, một đêm hắn xuất hiện trước cửa phòng Nhi. Mất
điện ngọn lửa nến nhỏ xíu như cái ngòi bút càng khiến cho bóng đêm dày đặc
thêm. Nhi ngồi dậy, khoác cả cái chăn chiên lên người, mắt không nhìn hắn mà
nhìn cái ô cửa sổ mở rộng ra mảnh đất hoang mọc toàn cây trinh nữ. Xa hơn chút
là hồ nước, không sâu lắm, ngập đến thắt lưng là cùng. Bên kia có cái cầu tre,
thường ngày bọn trẻ con ngồi trên ấy câu cá...
Hắn lù lù tiến về phía Nhi. Loáng thoáng giọng nói của hắn
trong những làn gió lạnh lẽo ùa qua cửa.
- Tôi đây... Phú đây... Tôi thấy Nhi cô đơn...
Nhi lùi lại, lùi lại, lưng đụng vào bức phên nứa. Cái tình thế
nguy bức, Nhi đã ang áng khi hắn hiện nơi cửa. Nhi ngó nghiêng muốn tìm một vật
gì tự vệ, rồi thoắt cái nhanh như chớp cô nhoài người, tuồi hai chân qua cửa sổ.
Cô chạy qua bãi cây trinh nữ đến bờ hồ nước. Có thể đứng lại được rồi. Một gan
chứ mười gan Phú cũng không dám đuổi theo. Thế nhưng Nhi nhảy ào xuống hồ. Tiếng
côn trùng lặng im, chỉ có tiếng người Nhi rẽ nước loạp roạp.
Thế mà Nhi còn đưa tay quờ những tàu sen khô quắt, rồi nghe
lá sen cũng khô quắp chạm vào nhau lào rào. Đoạn rồi Nhi chập chững leo lên chiếc
cầu tre, ngồi lẩn mẩn lăn tròn chân quần lên bắp đùi, nước nhỏ long tong. Nhi
nhìn chỉ thấy lờ mờ một mảnh màu thiếc, một vệt ngoằn ngoèo cũng màu thiếc cựa
quậy trên cầu ao ngay dưới bắp vế mình. Chuyện như không có thật, vẻ như Nhi tưởng
tượng ra cái bóng đen đi vào phòng rồi hoang mang, rồi hãi mà bỏ chạy chứ hắn
có khối ả mơn mởn lúng liếng kiểu dạng như Huyền Minh. Nhi bíu vào ý nghĩ ấy để
vấn an mình, để nghĩ tiếp rằng không có chuyện mộng mơ hắn đến với Nhi là đến với
cái hình ảnh tươi nguyên ngày xưa, hắn từng khao khát, từng thù hận. Rằng,
không có chuyện hắn rắp tâm chiếm đoạt Nhi để lấy cái đã mất, cái đáng ra là của
hắn. Thì ra ở đời có thứ thủ đoạn người ta không nghĩ tới được, không hình dung
nổi, không tin được nó là của con người. Nhi thông minh, cũng nhiều từng trải
nhưng cũng chỉ là lớp người ấy.
Nhi dụi mắt, giẫm bừa lên cây dại trên bờ hồ đi về nhà. Mọi
thứ không suy suyển trừ tấm phên nứa dưới cái cửa sổ bên giường sụm hình lòng
thuyền. Lại luẩn quẩn nghĩ ngợi, nửa tin, nửa không, ngờ ngợ cả trí nhớ của
mình, Nhi xòe tay rờ rẫm khắp người, những chỗ nào bàn tay có thể với tới.
Sáng được một lúc thì anh Mận, trưởng phòng hành chính tới
đưa cho Nhi cái quyết định đình chỉ công tác cô. Anh ta ngồi lại với Nhi một
lúc, rủ rỉ vài lời an ủi, rồi lặng lẽ ra về. Đến cửa thì đứng lại, ngoảnh đầu về
phía Nhi, độp hỏi:
- Chị đã làm gì để ông ấy tức giận? - Rồi làu bàu - Hôm qua bảo
tôi làm giấy gọi chị đến nhận việc, sáng nay lại bảo làm cái quyết định ngày.
Nhi bất giác ngưng thở, đưa bàn tay áp lên ngực, trong ngực
đang nhói lên một cái gì đó. Cô quay phắt lại, nhìn vào tấm phên hình lòng thuyền
dưới cửa sổ, nhìn ra bãi cây trình nữ. Tối qua Nhi chạy qua đấy để ra hồ nước.
CHƯƠNG 9
Tôi khuyên cô Nhi về làng ở bao lâu chưa biết, nhưng phải về,
phải kéo cô khỏi ngôi nhà lợp giấy dầu mở mắt ra là thấy chuột với lại gián.
Làng còn ngôi nhà của bố tôi để lại làm nhà thờ họ, còn mảnh vườn đất tơi mịn lọt
giữa những bụi tre dày như thành, như lũy. Tôi sẽ chặt tre, cắt lá tro dựng một
ngôi nhà nhỏ. Mai kia tôi về, ở với cô, chăm sóc cô.
Cô Nhi nghe tôi hào hứng và thống thiết nói xong thì cười.
Tôi nhận ra nụ cười cô còn thật trẻ và bỗng sững người nghi ngờ cái ý định của
mình. Cô đẩy mạnh vào vai tôi:
- Rồi làm bà cô ở làng, mua thêm cuốn sách tướng số của Thiệu
Vĩ Hoa nữa... Không đâu anh chiến binh trẻ ạ. Trong cuộc đời nhuôm nhoam những
khuôn mặt tối, những khuôn mặt sáng này chưa phải là hết chỗ cho cô.
- Tất nhiên rồi. Cháu thấy rõ điều đó - Tôi vội vã - Là cháu
nghĩ, cô cháu ta về dăm bảy ngày thôi. Hay thế này, cô ra đơn vị cháu chơi. Làm
chuyến thực tế chiến trường luôn. Cháu sẽ nói với anh Hải bố trí cho cô ở nơi
yên ổn.
Cô Nhi đăm chiêu, tư lự. Rồi khe khẽ gật đầu.
Sáng hôm sau, chúng tôi lên chuyến xe khách đầu tiên chạy ra
Bắc. Đấy là một bước ngoặt, thêm một bước ngoặt nữa trong cuộc đời cô Nhi.
Thì cũng phải bố trí cho cô Nhi một việc gì đó để mà động cựa
tay, chân, để mà quên những thứ buồn bực mang theo từ quê ra, anh Hải nói vậy rồi
quyết định nhờ cô phụ giúp mấy anh chiến sĩ ở nhà bếp. Thắm thoắt, cô Nhi đã ở
với tôi gần hai tháng. Cô nhanh nhẹn lên, có da, có thịt ra và đôi mắt cô đã lại
lấp lánh.
Ngày nọ, cô bảo với tôi là cô sẽ về, về xem cái hạn đình chỉ
công tác trong tờ giấy có chữ ký loằng ngoằng, đuôi hất ngược lên trời của Nguyễn
Hoàng Phú đã hết chưa. Hết rồi cũng để biết được làm việc gì, mà nếu chưa hết
thì cô sẽ lại trở lại "ăn nhờ ở đậu" đơn vị chúng tôi rồi tính toán
sau. Người đưa cô về không phải là tôi mà là anh Hải. Anh bịa một chuyến đi
công tác thẩm tra lý lịch kết nạp Đảng cho cậu Hùng ở tỉnh N nó hợp lý quá,
"khách quan" không chê vào đâu được. Cô Nhi tỏ ra mừng, mừng vì không
phải đi một mình, hay là mừng vì sao đó nữa tôi không biết.
Một tuần sau, cứ chiều xuống là tôi ra ngoài đồi ngóng xuôi
chờ anh Hải và cô Nhi về. Lại mong chỉ thấy mỗi anh Hải thôi, mỗi anh Hải ra tức
là cô đã trở lại làm việc ở cơ quan Báo. Rồi áy náy nghĩ ngợi lan man về những
chuyện chưa xảy ra với anh. Tất nhiên càng nghĩ càng áy náy tợn hơn, càng thấy
ý nghĩ chỉ rành rõ những chuyện ngán ngẩm chẳng ra gì. Đừng nghĩ nữa, quyết thế
mà không dẹp nổi, ý nghĩ cứ đâm mầm, đâm nhánh trong đầu nhức buốt lên. Không
biết rồi cái đầu tôi nó sẽ thế nào. May mà anh Hải đã lù lù xuất hiện. Tôi chưa
kịp hỏi, thì anh đã chộp hai bàn tay vào vai tôi, nói:
- Tốt rồi! Tốt lắm rồi! Lưới trời lồng lộng - Anh ấn tôi ngồi
xuống, rồi anh ngồi xuống theo, đối diện với tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi bằng
cái nhìn vui vẻ lắm, rồi tiếp - Thằng ấy bị truy tố rồi.
Anh không nói thằng nào nhưng tôi bỗng thở phào nghĩ ra là
Nguyễn Hoàng Phú.
Anh Hải lại tiếp.
- Sao cái làng Thượng Cồn nhà cậu lại đẻ ra một thằng như hắn.
Hắn dính vào phết, phẩy A, B trong xây dựng, còn thêm gái gủng, vợ con. Tèm
nhem, nhuôm nhoam không chịu được. Tội hắn xâu chuỗi thành dây, thành rợ, quấn
mấy vòng quanh người.
Theo lời anh Hải thì cô Huyền Minh mắt xanh, môi đỏ ấy nhăng
nhít với hắn từ thuở nào thì ai cũng biết rồi. Hắn lột của cải của mình để mua
cái "danh dự" cũng rồi. Tiếng tăm cứ loang ra như dầu đổ trên tôn kẽm.
Chị Nguyệt, vợ hắn biết, đánh ghen. Tội nghiệp chị, thật thà cục đất, hạt lúa,
thương chồng đến đần độn ra thì làm sao đánh ghen nổi loại mèo mả gà đồng như
cô Huyền Minh. Không trị được cô ta lại bị cô ta thuê bọn vô công rồi nghề chẹn
đường đánh cho thâm tím mặt mũi. Nguyễn Hoàng Phú biết hết, chạy lên, chạy xuống,
rẽ ngang rẽ dọc bưng bịt, dẹp yên mọi chuyện. Yên rồi hắn lại tính nào tật ấy,
lại theo một cái mốt bồ nhí, bồ nhéo của loại người tiền bạc lật phật trong
túi. Lần này chị vợ về quê kéo cả mẹ, bà Bấc làng Đông ra. Mẹ con chị chưa biết
a xít là gì, chưa có cái thứ chất lỏng đánh ghen tàn nhẫn số một trong đầu. Nên
họ sử dụng thứ nước quen thuộc với họ. Họ thủ một bọc ni lông lông lợn trộn máu
lợn, tìm gặp Nguyễn Hoàng Phú và cô Huyền Minh ngồi trong nhà hàng Cửa Tiền mới
bất ngờ tháo dây buộc, dọng cái thứ đỏ lòm hôi hám kia lên đầu hai đứa. Lúc ấy,
có khối người ở chung quanh. Thế mới nhục. Lại thấy thằng tình nhân của mình
không bảo vệ mình, xoa vuốt vợ nó, dẫn mẹ vợ và vợ cút thẳng. Huyền Minh nổi
máu khùng, sẵn sông nước kề cạnh mới nhảy ào xuống không ai kịp ngăn giữ và
cũng không ai nhảy xuống cứu vớt. Huyền Minh chết. Tiếng tăm Nguyễn Hoàng Phú nổi
đình nổi đám. Sau khi chôn cất vợ xong, chồng cô Huyền Minh mới thấy mình là kẻ
thiệt thòi nhất: mất vợ, mất tiền bồi hoàn danh dự Phú cống nộp hàng tuần, hàng
tháng. Người anh ta cứ sôi sùng sục lên vì tức giận. Trước, lợi dụng quan hệ
Nguyễn Hoàng Phú với vợ (thì là quan hệ đã rồi, không lợi dụng thì cũng chẳng cứu
vãn nổi nữa), anh ta nhận trọn gói thầu xây dựng trụ sở Báo, nay thấy nhục, thấy
mình bị lừa, thấy mọi thứ chẳng ra gì. Trâu chết, bò cũng lột da, anh ta mới viết
đơn kiện Nguyễn Hoàng Phú.
Anh Hải đọc một câu, bảo là trong kinh thánh, bằng thứ giọng
kéo dài ê a, trầm bổng như tiếng vọng trong vòm cuốn nhà thờ Thiên chúa giáo:
Thiên hạ có người tốt kẻ xấu, Chúa mới sinh ra luật thưởng, luật phạt. Ta bảo
các con, hãy nghĩ tới luật trước khi hành sự.
Một tuần sau, tôi và anh Hải về N. Anh ta cứ gọi tôi là cháu
và bắt tôi gọi anh là chú, cứ như cô Nhi đã đồng ý làm vợ anh vậy.
1/1/2001 Đức Ban
1/1/2001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét