Thứ Ba, 10 tháng 9, 2024
Vũ trụ trong một nguyên tử 2
Chương 5
↑ Chọn lọc tự nhiên là quá trình mà qua đó những tính năng
gen di truyền thích hợp trở nên phổ biến hơn trong các các thế hệ về sau trong
khi các tính năng di truyền không thích nghi sẽ bị đào thải dần và trở nên ít
phổ biến hơn. Chọn lọc tự nhiên tác động lên các đặc tính của các sinh thể bằng
cách những kiểu di truyền nào thích nghi hơn sẽ có nhiều cơ hội để sinh tồn và
ngược lại. Các kiểu gen di truyền phù hợp sẽ tăng trưởng dần theo thời gian qua
nhiều thế hệ. Tiến trình này có thể dẫn đến sự thích ứng về cách sinh sống của
các sinh thể nhất định trong môi trường sinh thái cá biệt và kết quả sau cùng
có thể dẫn đến những chủng loài mới. Nói cách khác, chọn lọc tự nhiên là cơ chế
tiến hoá của các quần thể sinh giới. "Natural Selection". Wikipedia.
Truy cập 2009..
Dù thế, còn có thêm một giới thứ ba của thực tại, đó là các cấu
hợp trừu tượng, mà không thể được miêu tả như là vật chất theo ý nghĩa chúng là
cấu hợp của các cấu trúc vật chất mà cũng không thể được miêu tả như là tinh thần
theo ý nghĩa là các kinh nghiệm chủ quan nội tâm. Bởi vậy, tôi muốn nói đến nhiều
tính năng của thực tại được tích hợp thành hiểu biết của ta về thế giới. Các
pháp như là thời gian, khái niệm, và các nguyên lý lập luận, mà chủ yếu được cấu
thành từ tâm thức của chúng ta thì khác biệt với hai giới đầu. Phải thừa nhận rằng,
tất cả các hiện tượng trong giới thứ ba này là tùy thuộc vào nội hàm của giới đầu
hay giới thứ nhì - tức là vật chất hay tinh thần - nhưng chúng có riêng các đặc
tính khác biệt với hai giới kia.
↑ Khi được dịch dưới dạng phiên âm thì Duy Thức tông còn được
gọi là Du-già hành tông (Yogacara).
Pháp Xứng còn đi xa hơn và nói rằng, không như các khả năng
thể chất, các phẩm chất của tâm có năng lực phát triển vô biên. Việc tương phản
giữa rèn luyện tinh thần với rèn luyện thể chất về điền kinh, đặc biệt các nhà
nhảy xa; Ngài luận rằng trong kỹ năng điền kinh, mặc dù có thể có một phạm vi rộng
các mức độ mà các điền kinh cá nhân khả dĩ mong mỏi, thì vẩn có một giới hạn
không thể vượt qua bởi bản năng và cấu trúc của thân thể con người, bất kể một
người có luyện tập đến đâu hay bản năng điền kinh của một người xuất sắc như thế
nào. Ngay cả sử dụng các thuốc cấm trong điền kinh hiện đại, mà vốn có thể mở rộng
thêm đường biên giới hạn của thân thể, thật ra cũng không thể đẩy thể chất con
người xa khỏi các giới hạn nền tảng về bản chất của chính nó. Ngược lại, Pháp Xứng
luận rằng các ràng buộc của ý thức thì ít hơn nhiều và có thể xóa bỏ được, vậy
nên về nguyên tắc là khả dĩ cho một phẩm chất tinh thần như từ bi phát triển đến
mức vô lượng. Nói đúng ra, với Pháp Xứng, thì sự vỹ đại của đức Phật như một vị
thầy tinh thần không nằm chủ yếu ở chỗ tri kiến bậc thầy của Người trong nhiều
lãnh vực mà ở chỗ đã đạt tới một lòng từ bi vô hạn tuyệt hảo[11] cho toàn thể
chúng sinh.
Một lãnh vực nghiên cứu về thiền có thể là điều mà truyền thống
Tây Tạng mô tả như là trải nghiệm của trạng thái tịnh quang. Đây là trạng thái
ý thức được hiểu là một tâm trạng cực kỳ vi tế hiển lộ một cách ngắn ngủi trên
tất cả con người vào thời điểm chết lâm sàn[23]. Có những tương tự rất ngắn ngủi
với trạng thái này có thể xảy ra một cách tự nhiên vào những lúc khác như là
trong lúc hắt hơi, ngất xỉu, ngủ sâu, và ở cực khoái của tình dục. Đặc tính nền
tảng của trạng thái này là sự tự phát hoàn toàn, không có ý thức về ngã hay ngã
chấp. Với thiền giả kinh nghiệm, thì trạng thái này có thể tạo ra một cách chủ
tâm qua các kỹ năng thiền, và khi nó xảy ra một cách tự nhiên vào lúc lìa đời
thì một cá nhân như thế có thể duy trì trạng thái này trong khi vẩn bảo lưu
toàn tâm trong một thời gian dài.
Tôi đã dùng rất nhiều thì giờ nghiên cứu về sự phân biệt giữa
kinh nghiệm thụ cảm và kinh nghiệm tinh thần. Một định nghĩa chuẩn mực về kinh
nghiệm thụ cảm là cơ hội để xảy đến của nó thuộc về một cơ quan thụ cảm riêng
biệt - như mắt, tai, vân vân. Có một sự nhận biết rõ ràng rằng mỗi nhận thức thụ
cảm thì phân biệt với các nhận thức khác và có một phạm vi riêng biệt, cho nên
mắt không thể truy cập được âm thanh hay tai không thể nếm được và vân vân. Như
được lưu ý bởi các tư tưởng gia Phật giáo thời trước, bao gồm Thánh Thiên và
Pháp Xứng, thì có những khác biệt quan trọng trong các tiến trình không-thời
gian bao gồm trong việc cảm thấy được các đối tượng trong các phạm vi thụ cảm
khác nhau. Nhận thức thị giác của một đối tượng có thể xảy ra trong một khoảng
cách rất lớn, việc nghe được âm thanh từ khoảng cách nhỏ hơn, trong khi kinh
nghiệm về một mùi hương đặc biệt xảy ra chỉ nội trong một tầm ngắn hơn nữa. Điều
tương phản hơn nữa là hai thụ cảm còn lại - phát khởi từ vị giác và xúc giác -
cần có trực tiếp tiếp xúc giữa các cơ quan thụ cảm này và các đối tượng tương ứng
của chúng. Theo ngôn ngữ khoa học, tôi đoán rằng, các khác nhau này sẽ được giải
thích trong khuôn khổ của các phương thức mà các thực thể vật lý như là các lượng
tử ánh sáng và các sóng âm thoát ra từ các đối tượng kích thích lên các cơ quan
thụ cảm.
Trong tâm lý học Phật giáo, một sự phân biệt quan trọng được
miêu tả giữa ý thức và nhiều cơ chế khác nhau mà qua đó nó biểu lộ, mà các thuật
ngữ chuyên môn Phật giáo gọi là "các yếu tố tâm thức[5]" Chẳng hạn
khi tôi thấy một người bạn từ xa, điều này sẽ cấu trúc một tình tiết mà có thể
xảy như là một sự kiện đơn nhất nhưng thật tế lại là một quá trình phức tạp
cao. Có năm yếu tố phổ dụng trong tất cả các sự kiện tinh thần - đó là thọ cảm
(trường hơp này là vui sướng), nhận biết, tác ý, chú tâm, và tiếp xúc[6] lên đối
tượng. Trong thí dụ này có thể có thêm các yếu tố khác như là tham chấp hay hứng
khởi tùy thuộc vào tâm trạng của người quan sát vào thời điểm đó và đối tượng đặc
thù đang trình hiện. Các yếu tố tâm thức không nên được xem xét như là các thực
thể tách biệt mà đúng hơn chúng là các khía cạnh, hay các tiến trình của cùng một
tình tiết tâm thức, được phân biệt trong khuôn khổ các chức năng của nó. Các
xúc cảm thuộc về lớp của các yếu tố tâm thức, tương phản với lớp ý thức [hay
tâm vương] tự nó.
↑ Tên Hán-Việt tương ứng của các phiền não dẫn xuất (hay tâm
sở phiền não) tùy theo nhóm là các chữ gạch dưới có nghĩa không hoàn toàn giống
với mô tả trong sách này: Phẫn (krodha); hận (upanāha); Não (pradāśa); Tật (īrṣyā);
Ác (vihiṃsā) Xan (mātsarya); Kiêu (mada); Trạo
cử (auddhatya); Phú (mrakṣa); Hôn trầm (styāna) Bất tín (āśraddhyā); Giải đãi
(kausīdya); Thất niệm (muṣitasmṛtitā); Bất chính tri (asaṃprajanya) Xiểm (māyā); Cuống (śāṭhya); Vô tàm (āhrīkya), Vô quý
(anapatrāpya, anapatrapā); Phóng dật (pramāda); Tán loạn (vikṣepa)
Tôi cảm thấy thời gian đã chín mùi cho việc khởi tác về khía
cạnh đạo đức của cuộc cách mạng di truyền học trong một phương thức vượt lên
trên các quan điểm thuyết lý của các tôn giáo riêng lẽ. Chúng ta phải có khả
năng đáp ứng với các thách đố về đạo đức như là các thành viên của cùng một gia
đình nhân loại, không phải như là một Phật giáo, một Do-thái giáo, một Ki-tô
giáo, một Ấn-độ giáo, một Hồi giáo. Cũng sẽ không đủ để ứng phó với các thử
thách đạo đức này nếu chỉ dựa vào các quan điểm lý tưởng chính trị tự do thuần
túy thế tục, chẳng hạn như các tự do về cá nhân, về chọn lựa, và bình đẳng.
Chúng ta cần thẩm tra các vấn đề này từ lập trường đạo đức toàn cầu có nền móng
của sự công nhận về các giá trị nhân bản cơ sở vượt lên trên cả tôn giáo và
khoa học.
Đâu là vị trí của khoa học trong nổ lực của toàn thể nhân loại?
Nó đã khảo sát mọi thứ từ con amoeba[1] nhỏ nhất cho đến hệ thống thần kinh
sinh học phức tạp của con người, từ sự hình thành của vũ trụ và sự xuất hiện của
sự sống trên trái đất cho đến chính bản chất của vật chất và năng lượng. Khoa học
thật là ngoạn mục trong việc thám hiểm thực tại. Nó không chỉ cách mạng hóa kiến
thức của chúng ta mà còn mở ra những con đường lớn cho việc hiểu biết. Nó đã bắt
đầu thâm nhập vào trong vấn đề phức tạp của ý thức - tức là tính năng chủ chốt
khiến chúng ta là loài hữu tình. Câu hỏi là liệu rằng khoa học có thể cung cấp
một hiểu biết đầy đủ về toàn thể phổ hàm của thực tại và sự hiện diện của con
người hay không.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Con Chó Chết Du học sinh từ Việt Nam sang Pháp thực cũng chẳng khác gì hoàn cảnh sinh viên từ các tỉnh miền quê lên thành phố lớn trọ ...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét