Thứ Ba, 10 tháng 9, 2024

Vũ trụ trong một nguyên tử 1

Vũ trụ trong một nguyên tử 1

Lời cảm ơn
Con xin cảm tạ đức Dalai Lama đã cho phép chuyển dịch sách này.
Chúng con xin chân thành đảnh lễ và cảm tạ đến đức Dalai Lama người đã dành hầu hết thời gian của cuộc đời để hoằng hóa giáo pháp từ bi của đức Phật với mong muốn đem lại hạnh phúc thật sự cho chúng sinh. Xin kính dâng lên Ngài bản dịch của quyển sách.
Xin ghi ơn đến học giả TS Thupten Jinpa, thành viên của ban giám đốc Học Viện Tâm Thức và Đời Sống, dịch giả của bản Anh ngữ của tác phẩm đã tận tình trao đổi chỉ dẫn các chi tiết liên quan đến sách này.
Xin cảm tạ GS TS Alan Wallace viện trưởng Học viện Santa Barbara về Các Nghiên Cứu về Ý thức, thành viên danh dự của Học Viện Tâm Thức và Đời Sống đã hoan hỉ nhận viết lời mở đầu đặc biệt dành riêng cho bản dịch sang việt ngữ này.
Chân thành cảm ơn tất cả các đạo hữu, và anh chị làm việc trong những tổ chức khác nhau đã góp phần phổ biến đăng tải, qua đó, đem các lời giáo huấn và các ý kiến dạy trong sách này đến với đại chúng và các đồng nghiệp đang làm việc trong các ngành khoa học khác nhau.
Xin cảm tạ đến TS Cao Xuân Hiếu và PGS TS Nguyễn Hoàng Hải đã bỏ nhiều thì giờ đọc và điều chỉnh bản thảo.
Sách này cũng không thể hình thành được nếu không có sự tham dự của tất cả độc giả ở khắp nơi. Xin cảm ơn tất cả.
Trong lúc dịch khó tránh khỏi các lỗi lầm - Người dịch xin hoàn toàn nhận lỗi và xin cảm tạ sự tha thứ hay phê phán của người đọc.
Namo Shakyamuni.
Lời Mở Đầu Của Gs. Ts. B. Alan Wallac
Mặc dù được xem như là một tôn giáo, thì Phật giáo vẩn là một trong các truyền thống tri kiến vĩ đại nhất của thế giới, được dựa trên cơ sở về trải nghiệm và lập luận hơn là việc tin tưởng không điều kiện vào thần quyền. Trong nhiều thế kỷ, đạo Phật đã đối thoại với các truyền thống khác ở châu Á như là Ấn giáo, Khổng và Lão giáo, đó là các truyền thống vốn có các luận điểm riêng về thực tại. Nhưng đến kỷ nguyên mới này, thì sự thống trị thuộc về khoa học hiện đại vốn là một hệ thống truy cứu và tri kiến về thế giới tự nhiên một cách có lập luận, cho nên nếu muốn duy trì vị thế sẵn có như là một truyền thống thực nghiệm và tập luận truy cứu nghiêm cẩn, thì Phật giáo phải đối mặt với khoa học.
Đây chính là điều mà Thánh đức Dalai Lama thực hiện qua tác phẩm Vũ Trụ Trong Một Nguyên Tử. Trong khi quyển sách mở ra với lời tự thuật cá nhân về việc sớm chạm trán với khoa học, tức là việc Ngài tiến hành thảo luận về mối quan hệ giữa Phật giáo với vật lý hiện đại cũng như là với vũ trụ học, sinh học, các khoa học về tư tưởng, và đạo đức, thì chúng ta tìm thấy được ở Ngài một tâm trí sáng chói trong công việc khi vật lộn với hầu hết các nan đề thúc bách mà loài người đang đối mặt ngày nay.
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất. Nếu sự nghiên cứu vốn bao gồm nhiều ngành học này diễn ra trong thế kỷ thứ 19, khi mà tưởng chừng Cơ học cổ điển đã đạt đến lời chung kết, thì việc so sánh với Phật giáo sẽ không đáng kể. Song, bởi do sự hình thành của thuyết tương đối và vật lý lượng tử, thì bản chất của vũ trụ vật lý và mối quan hệ với những phương cách mà các nhà khoa học nghiên cứu vũ trụ này đã phải được đánh giá lại một cách nền tảng. Thật có ý nghĩa gì chăng khi cố gắng mô tả vũ trụ một cách độc lập bằng các hệ thống đo lường của chính chúng ta? Phải chăng vật chất là cấu trúc tối hậu cho thế giới tự nhiên hay phải chăng chính khái niệm về vật chất được thoát thai từ một điều chi đó cơ bản hơn, cụ thể là thông tin [sự định danh]? Với sự quan tâm từ lâu trong vật lý và nhiều tiếp xúc cá nhân với các nhà vật lý lỗi lạc của thế kỷ XX, Ngài mang đến một mức sâu sắc tuyệt vời và một sự trưởng thành về mặt tư tưởng cho những câu hỏi thâm thúy, thể hiện phương cách mà triết lý Phật giáo, đặc biệt là thuyết Trung Đạo được đề ra bởi thánh giả Long Thọ, có thể làm sáng tỏ các vấn đề này.
Trong lúc những đột phá vật lý đã nổi bật vào thế kỷ XX, thì nhiều người hiện nay tin rằng sinh học đang nắm giữ chìa khóa cho những khám phá quan trọng nhất trong thế kỷ hiện nay. Lý thuyết tiến hóa đã trở thành trung tâm của toàn thể bộ môn sinh học ngày nay, và nó thường được trình bày như là một tiến trình vật chất thuần túy, mặc dù các nhà khoa học và thần học vẫn tiếp tục tranh luận về các khả năng xảy ra của một "thiết kế thông minh" từ một đấng Tạo Hóa toàn năng. Ở đây Ngài đi vào lĩnh vực đầy tranh cãi này bằng việc thảo luận quan điểm của Phật giáo về nghiệp, kiểm tra cách thức mà chúng có thể tương thích với sự nảy sinh của đời sống chúng sinh trên hành tinh của chúng ta. Đây là một tầm nhìn quan trọng khác so với các cuộc tranh luận chuẩn giữa giữa các nhà duy vật triệt để và các nhà thần học, vì Phật giáo bác bỏ cả lòng tin rằng thế giới tự nhiên tương đương với thế giới vật chất lẫn lòng tin vào một Đấng sáng tạo toàn năng người thết kế và thống trị thế giới tự nhiên
Một trong những mãng gây hứng thú lớn của các khoa học tư tưởng ngày nay thuộc về bản chất và nguồn gốc của ý thức trong thiên nhiên rộng lớn và đặc biệt là trong con người. Trong khi tiến bộ phi thường của khoa học đã được thực hiện trong các khuôn khổ về việc nghiên cứu những chức năng thần kinh góp phần vào sự xuất hiện của ý thức và các tiến trình tinh thần cụ thể, thì bản chất thực tế của các sự kiện tinh thần này và những nguyên nhân cần và đủ cho sự nảy sinh của chúng vẫn còn là một bí ẩn. Tâm luôn luôn là một mối quan tâm chủ yếu của Phật giáo, vì nó đóng một vai trò trung tâm trong từng chân lý của Tứ Diệu Đế về đau khổ, nguồn gốc của đau khổ, sự chấm dứt của khổ đau, và đạo pháp đến sự diệt khổ. Không giống như khoa học hiện đại, Phật giáo đã phát triển và tinh lọc nên các phương tiện cực kỳ tinh tế của việc quan sát tâm trực tiếp và thẩm tra một cách chứng nghiệm nguồn gốc của nó, quan hệ của nó với phần còn lại của thế giới, và tiềm năng của nó. Trong thảo luận về phổ của ý thức, đức Dalai Lama chỉ ra rằng Phật giáo với toàn bộ sức mạnh của nó, tạo được hết khẳng định gây ngạc nhiên này đến khẳng định gây ngạc nhiên khác. Nhiều điều trong số đó thách thức đến các tín điều duy vật nền tảng nhất về tâm và vai trò của tâm trong tự nhiên.
Sự tham gia của Phật giáo với hiểu biết về tâm chủ yếu là chứng nghiệm, vì chủ đề chính của các giáo huấn của đức Đức Phật là việc vượt qua đau khổ và nguồn của đau khổ. Cấu trúc cốt lõi của lộ trình Phật giáo bao gồm giới, định, và tuệ bằng cách truy cứu quán chiếu. Toàn bộ lộ trình hoàn toàn dựa trên giới luật, và điều này cũng đã trở thành một vấn đề ngày càng quan trọng trong khoa học hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực di truyền học. Một lần nữa Ngài mang tâm trí bén nhạy và trái tim từ bi của mình đến với các vấn đề được nêu ra trong sinh học hiện đại và kỹ thuật di truyền, chỉ ra cách thức làm thế nào để khoa học và tâm linh có thể bổ sung cho nhau. Chỉ có thông qua sự cộng tác tôn trọng lẫn nhau và sự bắt tay giữa khoa học với các tôn giáo lớn trên thế giới thì nhân loại mới hoàn toàn có thể giải quyết nổi những thách thức nhiều bức xúc mà chúng ta phải đối mặt ngày hôm nay. Thật sự khó tìm thấy một người cố vấn thông tuệ hơn hay nhiều từ bi hơn để hướng dẫn chúng ta trong nhiệm vụ này như là với Thánh đức Dalai Lama thứ XIV
Chương 1
Quán chiếu
Tôi đã có nhiều năm suy ngẫm về những phát triển đáng ghi dấu của khoa học. Chỉ nội trong khoảnh khắc ngắn ngủi của đời tôi, thì tác động của khoa học và công nghệ lên con người đã thật to lớn. Mặc dù mối quan tâm của tôi đến khoa học bắt đầu bởi tính tò mò về một thế giới được chi phối bởi công nghệ, thì khi đó khoa học còn khá lạ lẫm với tôi. Mối quan tâm này đã lóe ra trong trí tôi không lâu trước khi khoa học ảnh hưởng to tát lên nhân loại - đặc biệt là sau khi tôi lưu vong trong năm 1959. Ngày nay thì hầu như không có một lãnh vực nào của nhân sinh mà không đính dáng đến các hiệu quả của khoa học và công nghệ. Dù chúng ta đã rõ vị trí của khoa học trong toàn bộ đời sống con người - thì điều gì đúng ra khoa học nên được tiến hành và điều gì khoa học nên chịu sự quản lý? Điểm thứ nhì trong câu hỏi này thật sự quan yếu bởi vì trừ khi hướng đi của khoa học được dẫn dắt bởi một động lực đạo đức có ý thức, đặc biệt là lòng từ ái, nếu không thì các hậu quả của nó có thể thất bại trong việc mang lại lợi ích. Chúng dĩ nhiên còn có thể gây tác hại vô cùng.
Việc thấy được tầm quan trọng to lớn của khoa học và nhận biết địa vị thống trị không tránh khỏi của nó trong thế giới đã thay đổi một cách cơ bản thái độ của tôi với khoa học, từ chỗ tò mò trở thành một kiểu hành động gấp rút. Trong Phật giáo, lý tưởng tâm linh cao nhất là để nuôi dưỡng lòng từ bi cho mọi chúng sinh hữu tình[1] và đề làm cho phúc lợi của họ được mở rộng tối đa. Từ khi còn rất ấu thơ, tôi đã được tạo duyên để chăm chút cho lý tưởng này và cố gắng để thi hành nó trong mọi hành vi. Vậy nên, tôi đã muốn hiểu biết khoa học vì nó cho tôi một lãnh vực mới để thám sát trong cuộc truy tầm để hiểu được bản chất về thực tại của tôi. Tôi cũng muốn học hỏi nó, bởi vì nó là cách thức mạnh mẽ để liên lạc với các thấu hiểu được góp nhặt từ chính truyền thống tâm linh của mình. Cho nên, với tôi, nhu cầu làm việc với lực lượng [khoa học] mạnh mẽ này trong thế giới của chúng ta cũng đã trở thành một loại sứ mệnh tâm linh. Câu hỏi trọng tâm - trọng tâm cho sự tồn tại và hoàn thiện của thế giới chúng ta - là làm sao có thể tạo ra các phát triển khoa học tuyệt diệu cho các đối tượng (hay sự vật) nào mà nó cống hiến dịch vụ vị tha và từ bi cho nhu cầu của con người và các chúng sinh hữu tình vốn đang cùng chia sẻ trái đất này với chúng ta.
Đạo đức có chiếm một địa vị nào trong khoa học hay không? Tôi tin rằng có. Trước tiên, giống như một trang cụ bất kì, khoa học có thể đặt vào chỗ hữu dụng hay tai hại. Trạng thái tâm thức của người đang vận hành trang cụ đó sẽ quyết định hậu quả sau cùng của việc sử dụng. Thứ đến, các phát hiện khoa học ảnh hưởng lên cách mà chúng ta hiểu về thế giới và về vị trí của mình trong đó. Điều này có hậu quả đến hệ thống ứng xử cuả chúng ta. Chẳng hạn, hiểu biết về cơ giới của thế giới đã dẫn tới cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ[2], trong đó, khai thác thiên nhiên trở thành hoạt động chuẩn mực. Mặc dù vậy, có một giả thiết chung cho rằng đạo đức chỉ thích hợp đến ứng dụng của khoa học, mà không phải là mưu cầu thực tại của khoa học. Trong mô hình này, mỗi khoa học gia như là một cá thể và cộng đồng các nhà khoa học nói chung giữ vị trí trung tính về đạo đức không chịu trách nhiệm cho hậu quả của những gì mà họ khám phá ra. Nhưng có nhiều khám phá khoa học quan trọng, và riêng những phát kiến công nghệ được các khám phá này dẫn tới hay tạo ra những điều kiện mới và mở ra nhiều khả năng xuất hiện các thách thức mới về đạo đức và tâm linh. Chúng ta không thể đơn thuần miễn trừ những hành vi tạo tác khoa học và cả chính cá nhân các nhà khoa học ra khỏi trách nhiệm cho việc đóng góp vào sự nảy sinh của một thực tế mới.
Có lẽ điểm tối quan trọng là đảm bảo được rằng khoa học không bao giờ tách rời khỏi cảm xúc nhân bản về sự cảm thông với các chúng sinh đồng đẳng của ta. Cũng như là các ngón tay của một người chỉ có thể hơạt động trong mối quan hệ với bàn tay, các khoa học gia phải luôn nhận biết mối tương quan của họ với xã hội bên ngoài. Khoa học thì vô cùng quan trọng nhưng nó chỉ là một ngón trên cánh tay của nhân loại, và năng lực vỹ đại nhất của nó chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta ghi nhớ cẩn thận điều này. Ngược lại, ta có nguy cơ đánh mất ý nghĩa của các thứ tự ưu tiên. Con người có thể đi đến chỗ phục vụ cho các quan tâm về tiến bộ khoa học hơn là theo chiều hướng ngược lại [tức là khoa học phục vụ cho con người] Khoa học và công nghệ là những công cụ mạnh, nhưng ta phải quyết định sử dụng chúng sao cho tốt nhất. Đứng trên tất cả những điều đó là động lực để quản lý việc ứng dụng khoa học và công nghệ, để cho tâm và trí được hài hòa thống nhất một cách lý tưởng.
Với tôi, khoa học, trước và trên hết, là một bộ môn thực nghiệm cung ứng cho nhân loại một phương thức truy cập mạnh để tìm hiểu bản chất của thế giới sống và thế giới vật chất. Một cách cơ bản, nó là một lối truy cứu cung cấp cho chúng ta một tri thức tỉ mỉ tuyệt vời về thế giới thực nghiệm và các quy luật vận hành bên trong của thiên nhiên, mà ta rút ra được từ các dữ liệu thực nghiệm. Khoa học tiến hành bằng các giá trị của một phương pháp rất đặc biệt bao gồm đo đạc, định lượng, và kiểm nghiệm đa chủ thể [3] thông qua các thí nghiệm lặp lại. Điều này tối thiểu là một tính chất căn bản của phương pháp khoa học khi mà nó có mặt trong mẫu hình khoa học hiện nay. Trong mô hình này, thì nhiều khía cạnh về sự tồn tại của con người, bao gồm các câu hỏi về các giá trị, sự sáng tạo, và tâm linh cũng như là các câu hỏi siêu hình ở mức sâu hơn sẽ nằm ngoài nội dung của truy cứu khoa học.
Mặc dù có nhiều lãnh vực của đời sống và kiến thức nằm ngoài phạm vi của khoa học, tôi nhận thấy nhiều người giữ ý định cho rằng quan điểm khoa học của thế giới phải nên là cơ sở cho tất cả tri thức và tất cả những gì khả kiến. Đây là chủ nghĩa duy vật khoa học. Mặc dù tôi không nhận thấy có trường phái tư tưởng nào đề xướng ý này, nhưng nó dường như là một tiền lệ chung không được kiểm nghiệm lại. Quan điểm này duy trì lòng tin vào thế giới khách quan, cho rằng thế giới này độc lập với sự ngẫu nhiên của những người quan sát nó. Nó cho rằng dữ liệu được phân tích trong một thí nghiệm là độc lập với các nhận thức thành kiến, và sự trâi nghiệm của nhà khoa học dùng phân tích chúng.
Ẩn đàng sau của quan điểm này là sự thừa nhận rằng, trong phân tích tối hậu, thì vật chất, sẽ như là được mô tả bởi vật lý và như là nó chịu tác động bởi các luật vật lý là tất cả hiện hữu. Theo đó, quan điểm này cho rằng tâm lý học có thể được quy giảm về sinh học, sinh học quy về hóa học và hóa học quy về vật lý. Ở đây, tôi không quan tâm nhiều đến việc tranh luận chống lại luận điểm của chủ nghĩa quy giảm [4] (dù rằng chính tôi cũng không đồng tình với quan điểm này) mà là để lưu ý tới một điểm vô cùng quan trọng: là những ý kiến đó không tạo dựng nên tri kiến khoa học; đúng hơn, chúng đại diện cho một luận điểm triết học, thật ra là một luận điểm siêu hình. Quan điểm cho rằng tất cả các khía cạnh của thực tại đều có thể quy giảm về vật chất và các hạt vật lý của nó, theo ý tôi, có vị trí siêu hình tương đương không thua gì với vị trí siêu hình của quan điểm cho rằng có một cơ chế thông minh đã sáng tạo ra và điều khiển thực tại.
Một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật khoa học trọng căn là nó dẫn tới tầm nhìn thiển cận và có thể nảy sinh ra chủ nghĩa hư vô. Chủ nghiã hư vô, chủ nghiã duy vật, và chủ nghĩa quy giảm tất cả có các vấn đề nêu trên từ tầm nhìn triết học, đặc biệt là tầm nhìn con người, bởi vì chúng có tiềm lực làm nghèo kiệt đi cách thức mà chúng ta nhìn chính mình. Thí dụ, khi ta nhìn chính mình như là các sinh vật hữu cơ ngẫu nhiên hay như là các chúng sinh đặc biệt được phú cho phương diện về ý thức và khả năng đạo đức sẽ tạo nên tác động lớn đến cách mà ta cảm thấy về chính mình và cách đối xử với tha nhân. Trong cách nhìn này, nhiều khía cạnh của toàn bộ thực tại trong các phạm trù thuộc tính của con người như nghệ thuật, đạo đức, lòng tốt, nét đẹp, và trên tất cả la ý thức - hoặc sẽ bị quy giảm về các phản ứng hoá học của các tế bào thần kinh hay được xem như là một sự kiện đơn thuần của các cấu trúc tưởng tượng. Điều nguy hại tiếp sau đó là con người có thể bị quy giảm xuống không hơn gì những máy móc sinh học, các các sản phẩm của sự tình cờ đơn thuần trong tổ hợp ngẫu nhiên của các gen, với không có mục đích nào khác hơn là sự cưỡng bách sinh học của việc tái sinh sản.
Thật là khó để thấy được bằng cách nào các vấn đề như là ý nghĩa của cuộc sống hay thiện và ác có thể tương hợp được bên trong một thế giới quan như vậy. Vấn đề không phải ở các dữ kiện thực nghiệm của khoa học mà ở luận điểm cho rằng các dữ liệu này một mình chúng cấu trúc được nền tảng hợp lệ cho việc phát triển một thế giới quan toàn diện hay một giá trị thoả đáng để trả lời cho các vấn đề của thế giới. Có nhiều điều về sự tồn tại của con người và về tự bản thân thực tại mà khoa học hiện nay chưa đủ khả năng cho chúng ta truy cập tới.
Bởi cùng cách biểu hiện, tâm linh phải được làm mạnh bởi các phát kiến và thấu hiểu của khoa học. Nếu như những người thực hành tâm linh chúng tôi không đếm xỉa đến các phát kiến của khoa học, thì thực hành của chúng tôi cũng bị nghèo kiệt đi, giống như là sự cố chấp có thể dẫn đến chủ nghĩa kinh điển[5]. Đây là một trong những lý do khiến tôi khuyến khích các Phật tử đồng môn tiếp nhận nghiên cứu khoa học, có như vậy, các thấu hiểu của khoa học có thể được tích hợp vào trong thế giới quan Phật giáo.
Chú thích

↑ Cụm từ Chúng sinh hữu tình bao gồm hai vế. Vế thứ nhất "chúng sinh" tức là những thể sống có khả năng tạo sinh ra các thế hệ mới, có khả năng hấp thụ dinh dưỡng, thải chất cặn bã, vv. Động và thực vật đều là chúng sinh nhưng đất, nước, không khí tinh khiết không phải là chúng sinh. Vế thứ nhì "hữu tình" để ám chỉ khả năng có xúc cảm, và tùy theo mức độ có các khả năng khác về tinh thần, tri giác. Như vậy giới động vật được xem là thuộc về hữu tình. Sự phân định chi tiết một số loài thuộc cực hạn giữa hữu tinh và vô tình là con tùy theo tiêu chuẩn. Riêng sự phân định cực hạn giữa các loại (như giữa động vật và thực vật) đã dẫn đến theo cách phân chia khác -- như giữa các loại tế bào không có nhân (eukaryotes -- chúng không thuộc về cả động hay thực vật) và loại tế bào có nhân prokaryotes bao gồm cả động thực vật, nấm,..)
↑ Cách Mạng Kỹ Nghệ xảy ra vào thế kỷ 18 và 19 trong đó có sự thay đổi lớn chủ yếu trong nông nghiệp, công nghiệp, khai thác mỏ và lưu thông đã tạo ra hiệu quả sâu sắc lên các điều kiện về kinh tế xã hội và văn hóa bắt đầu nổ ra tại Anh lan khắp châu Âu, bắc Mỹ và thế giới. cuộc cách mạng này mở ra một trang sử mới cho nhân loại và ảnh hưởng đến hầu như mọi khía cạnh của cuộc sống. "Industrial Revolution". Wikipedia. Truy cập 11/01/2010
↑ Dịch từ chữ "intersubjective verification": Tức là cách thức kiểm tra lại các lý thuyết thông qua việc áp dụng lý thuyết đó lên các chủ thể khác nhau mà chúng có chia sẽ cùng đặc tính (kinh nghiệm) và thoả mãn tiền đề của lý thuyết. "Intersubjective Verifiability". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009
↑ Chủ trương quy giảm là một chủ trương để tìm hiểu bản chất phức tạp của các sự vật bằng cách quy giảm chúng vào các tương tác của các bộ phận nhỏ hơn của chúng, hay quy giảm đến các sự vật nền tảng và đơn giản hơn. "Reductionism". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009.
↑ Từ chữ "Fundamentalism": Chủ trương tin tưởng tuyệt đối vào kinh điển. Kinh điển là tuyệt đối không có sai sót và không có lỗi lầm.
Chương 2
Đối diện với khoa học
Tôi sinh trong một gia đình của những nhà nông mộc mạc, là những người dùng ngựa để cày bừa cho cánh đồng của họ, và khi lúa mạch chín mùa, thì dùng sức ngựa dẫm để giả lúa. Có lẽ các thứ khả dĩ được mô tả như là có tính chất kỹ thuật trong thế giới thơ ấu của tôi là những con dao găm mà những người lính du mục địa phương kiếm được từ Anh-Ấn, Nga, hay Trung Quốc. Vào lúc 6 tuổi tôi đã lên ngôi Dalai Lama thư 14 tại thủ đô Tây Tạng, Lhasa, và dấn thân vào việc tu học trong tất cả các phương diện của Phật giáo. Tôi có các gia sư hàng ngày dạy tôi đọc, viết, triết học Phật giáo cơ bản, và học thuộc lòng các kinh văn và nghi lễ. Tôi cũng có nhiều tsenshap, nghiã là những "người trợ giúp về triết học" Phận sự chính của họ là đem đến cho tôi cuộc thảo luận về các đề tài của tư tưởng Phật giáo. Thêm vào đó, tôi có tham gia các cuộc cầu nguyện và thiền định trong nhiều giờ. Tôi tham dự các thời kỳ nhập thất với các gia sư và và ngồi theo quy định trong hai giờ một lần và 4 lần trong ngày trong một buổi thiền định. Đây là việc rèn luyện điển hình cho một vị lạt-ma cao cấp trong truyền thống Tây Tạng. Nhưng tôi đã không được giáo dục về toán, địa lý, hóa học, sinh học, hay vật lý. Thậm chí tôi cũng không biết là chúng có tồn tại hay không nữa.
Điện Potala là nhà ở mùa đông chính thức của tôi. Đó là một công trình xây dựng đồ sộ, chiếm hết một bên của một trái núi, và nó phải có đến hàng nghìn phòng - Tôi chưa bao giờ tự đếm chúng. Trong những lúc rảnh khi còn là một cậu bé, tôi tự giải trí bằng cách thăm dò vài nơi trong các căn buồng của nó. Giống như là một cuộc săn lùng châu báu bất tận. Ở đó có tất cả mọi thứ đồ đạc, chủ yếu thuộc về các Dalai Lama tiền nhiệm và đặc biệt là của vị ngay trước tôi, được dành riêng ra ở đó. Trong số các nội dung nổi bật của cung điện là những tháp xá lợi chứa những phần thân thể còn lại của các Dalai Lama trước đây, cho đến tận đời Dalai Lama thứ 5, người sống trong thế kỉ thứ 17 và đã mở rộng điện Potala như hình dáng hiện thời. Giữa các hiện vật bày biện, tôi tìm thấy một vài đồ đạc cơ khí thuộc về đức Dalai Lama thứ 13. Đáng chú ý nhất là một kính thiên văn xếp được được làm từ đồng thau và có thể gắn lên một chạc ba chân, và một đồng hồ cơ học lên dây cót với một quả cầu quay được trên một giá đỡ cho biết thời gian trong những múi giờ khác nhau. Ở đó cũng có chỗ bí mật lớn chứa những cuốn sách có minh họa bằng Anh ngữ về Thế Chiến Thứ Nhất.
Một số trong chúng là quà tặng cho đức Dalai Lama thứ 13 từ người bạn Sir Charles Bell[1]. Bell là nhà chính trị Anh nói được Tạng ngữ tại Sikkim[2]. Ông ta là người cho đức Dalai Lama thứ 13 lưu trú trong khoảng thời gian ngắn tại Anh-Ấn, sau khi trốn đi trong năm 1910 bởi nguy cơ xâm chiếm của quân địch thuộc chính quyền Đế chế cuối cùng của Trung Hoa [nhà Mãn Thanh]. Điều đáng hiếu kỳ là việc lưu vong tại Tây Tạng và tìm hiểu văn hóa của khoa học là những điểm được truyền lại cho tôi từ người tiền nhiệm [tức là đức Dalai Lama thứ 13]. Với đức Dalai Lama 13, sau này tôi nhận ra việc ở lại Anh-Ấn đã là một kinh nghiệm bất ngờ dẫn tới nhận thức về nhu cầu của các cải cách lớn về xã hội và chính trị tại Tây Tạng. Trong chuyến trở lại Lhasa, Ngài đã mở đường điện tín, cài đặt dịch vụ bưu chính, xây dựng một nhà máy phát điện nhỏ để đốt các ngọn đèn đầu tiên tại Tây Tạng, và thiết lập nha ngân khố để in tiền kim loại và giấy bạc. Ngài cũng đã đạt tới nhận thức về tầm quan trọng của nền giáo dục thế tục hiện đại và đã tuyển chọn một nhóm trẻ Tây Tạng gửi đi học tại Ruhby School tại Anh. Đức Dalai Lama 13 để lại một chúc thư vào phút cuối tiên đoán nhiều thứ về thảm kịch chính trị sẽ xãy ra, và chính quyền [Tây Tạng] tiếp nối đã thất bại để hiểu hết hay lưu tâm tới chúc thư này.[3]
Trong những món đồ cơ khí lý thú thu được bởi đức Dalai Lama 13 là một chiếc đồng hồ bỏ túi, hai máy chiếu phim, và ba chiếc xe hơi - Hai trong chúng là "Baby Austin" đời 1927 và "American Dodge" đời 1931[4]. Lúc đó, không có đường để có thể chạy xe trong toàn vùng Hymalaya hay chính ngay tại Tây Tạng, những chiếc xe này đã bị tháo rời ra tại Ấn và được mang xuyên qua các vùng núi bởi các công nhân khuân vác, người lao động, và bởi lừa trước khi được lắp ráp lại cho đức Dalai Lama. Trong một thời gian dài, đây là 3 chiếc xe hơi duy nhất của cả Tây Tạng - và chúng khá là vô dụng, vì không có đường xá bên ngoài Lhasa để cho người ta có thể lái chúng. Những món đồ khác nhau này để lộ các dấu hiệu của một nền văn hóa kỹ nghệ, đã trui rèn nên một đam mê to tát của một cậu nhỏ với bản năng hiếu kì và một chút năng động. Một lần tôi còn nhớ rất rõ, tôi đã chơi nghịch với các thứ này thay vì học giáo lý hay nhớ bài. Ngày nay, tôi có thể vẫn thấy những thứ này cũng không hơn các món đồ chơi, nhưng chúng khêu gợi đến một thế giới tri thức và kinh nghiệm mà tôi đã không truy cập tới được và sự có mặt của chúng là một hấp dẫn vô cùng. Một cách để hiểu, thì sách này viết về lộ trình để phát hiện thế giới đó và những thứ tuyệt diệu mà nó cống hiến.
Tôi không thấy khó khăn về cái kính thiên văn. Không hiểu sao việc dùng nó để làm gì có vẻ hiển nhiên với tôi; và ngay sau đó dùng nó để quan sát cuộc sống tất bật của phố xá Lhasa, đặc biệt là ở các khu chợ. Tôi thèm muốn cái cảnh của sự tự do với những đứa trẻ đồng trang lứa chạy tung tăng ngoài đường trong khi mà tôi phải học hành. Sau đó, tôi dùng kính viễn vọng để quan sát bầu trời đêm ở Potala - nơi có được một vị trí cao của Tây Tạng, nơi có tầm ngắm tuyệt hảo nhất đến các vì sao. Tôi hỏi những người giúp việc các tên của các tinh tú và những chòm sao. Tôi biết cái đồng hồ bỏ túi để làm gì nhưng muốn biết nhiều hơn vì bị hấp dẫn bởi cách nó vận hành. Tôi gặp khó khăn về điều này ít lâu cho tới khi không nhịn tò mò và tôi đã mở vỏ để nhìn vào bên trong. Chẳng bao lâu sau, tôi tháo tung toàn bộ và điều thách thức là lắp đặt chúng lại với nhau sao cho nó thực sự vận hành. Thế là bắt đầu một lòng ham thích lâu dài về việc tháo rời và lắp ráp trở lại các đồ vật cơ khí. Tôi thông thạo tiến trình này đến nổi trở thành một người sửa chữa quan trọng cho nhiều người chủ của các đồng hồ đeo tay và treo tường mà tôi quen biết ở Lhasa. Sau này tại Ấn Độ, tôi không có nhiều may mắn với chiếc đồng hồ cúc-cu của mình, khi mà cúc-cu bị phá hỏng bởi con mèo của tôi và không thể phục hồi. Khi đồng hồ pin tự động trở nên thông dụng, sự ham thích của tôi giảm đi nhiều - nếu bạn mở một cái đồng hồ như vậy, bạn sẽ hầu như khó tìm thấy bộ phận cơ khí nào.
Việc tìm tòi cách sử dụng hai máy chiếu phim quay tay của đức Dalai Lama 13 khó khăn hơn nhiều. Một trong những người giúp việc của tôi là một vị sư đức độ, đã tìm ra cách làm cho một máy trong chúng hoạt động. Tôi hỏi ông ấy chuẩn bị nó để tôi có thể xem một vài phim mà chúng tôi có. Sau này chúng tôi có dùng được một máy chiếu phim 16 ly chạy điện; nhưng hay bị hỏng, một lần vì chiếc máy phát không cung cấp điện đúng. Trong khoảng thời gian này, tôi đoán là vào năm 1945, Heinrich Harrer và Peter Aufschnaiter[5] những người Áo đã vượt thoát qua dãy Hymalaya đến Lhasa từ một nhà tù của Anh thuộc về một trại tù chiến tranh [trong Thế Chiến Thứ Hai] ở miền Bắc Ấn Độ. Harrer trở thành một người bạn của tôi, và tôi thỉnh thoảng chuyển ông ấy sang giúp sửa máy chiếu. Chúng tôi đã không kiếm được nhiều phim, nhưng có nhiều cuốn tin tức về các sự kiện lớn của Thế Chiến thứ II được đem xuyên qua Ấn-độ cung cấp các đề tài về quan điểm của Đồng Minh. Cũng có những cuốn về VE Day [Viết tắt của chữ "Victory in Europe Day" tức là ngày Đức đầu hàng Đồng Minh: 7 và 8 tháng 5 năm 1945], về lễ đăng quang của vua George đệ lục của nước Anh và Phim của soạn giả Laurence Oliver về tác phẩm của Shakespeare "Henry V", cũng như là một số phim không lời của Charlie Chaplin.
Sự đam mê của tôi về khoa học bắt đầu từ công nghệ, và dĩ nhiên tôi đã không phân biệt được khác nhau giữa hai phạm trù này. Khi gặp Harrer, người biết nhiều về cơ khí hơn bất kì ai mà tôi biết ở Lhasa, tôi cho là sự tinh thông trong khoa học của ông sẽ sâu sắc như là sự thành thạo của ông ta trên một số đồ vật cơ khí mà chúng tôi có được ở Potala. Thật là tức cười là những năm sau này tôi phát hiện ông ấy không có nền tảng chuyên môn khoa học - Thời đó, tôi nghĩ tất cả đàn ông da trắng đều có hiểu biết sâu sắc về khoa học.
Cảm hứng bởi sự thành công trong việc tháo mở các đồng hồ và sửa máy chiếu phim, tôi có nhiều hoài bão hơn. Đề tài tiếp sau của tôi là tìm hiểu về cơ khí của xe hơi. Người chịu trách nhiệm lái và trông coi những chiếc xe là Lhakpa Tsering; Ông ta là người bộc trực nổi tiếng là nóng nảy. Nếu lỡ bị đụng đầu trong khi làm việc dưới gầm xe thì ông ta sẽ trở nên nóng giận và đập và đụng đầu thêm. Tôi đánh bạn với ông để ông ta cho tôi được kiểm nghiệm máy móc trong khi ông ấy sửa chữa nó và dần dần chỉ tôi cách lái xe.
Một ngày nọ, tôi lén lấy một chiếc Austin ra và lái một mình nhưng lại gây ra một tai nạn nhỏ và làm bể đèn pha bên trái. Tôi đã hốt hoảng về điều mà Babu Tashi, một người chịu trách nhiệm khác về những chiếc xe, có thể nói ra ngoài, nên đã xoay sở kiếm được một đèn pha thay thế, nhưng nó lại là loại thủy tinh không màu, trong khi cái nguyên thủy có màu đục. Sau một ít suy nghĩ, tôi tìm ra giải pháp. Tôi tái tạo màu dục bằng cách phủ lên nó lớp đường chảy. Tôi không bao giờ nghĩ tới nếu Babu Tashi sẽ phát hiện ra. Nếu có, thì ít nhất ông ấy sẽ không bao giờ trừng phạt tôi.
Có một lãnh vực quan trọng của khoa học hiện đại, mà Harrer giúp ích nhiều nhất cho tôi; đó là địa lý. Trong thư viện cá nhân của tôi có một bộ sưu tập các sách về Thế Chiến thứ II, trong đó cung cấp nhiều giải thích chi tiết về sự tham chiến của nhiều nước lớn kể cả Nhật. Những thám hiểm của tôi vào máy chiếu phim, sửa chữa các đồng hồ, và thử lái xe cho tôi một gợi ý sơ lược về thế giới khoa học và công nghệ có thể nói về những điều gì. Ở một mức nghiêm chỉnh hơn, sau khi đã được trao quyền lãnh đạo Tây Tạng ở tuổi 16, việc tôi dấn thân vào các thăm viếng Trung Quốc vào năm 1954 và Ấn Độ vào năm 1956 đã để lại cho tôi một ấn tượng mạnh. Quân đội Trung Quốc đã chiếm đóng nước tôi, và tôi đã tham dự trong một cuộc đàm phán lâu dài và đặc biệt nhằm tìm kiếm cho một sự hoà giải với chính quyền Trung Quốc.
Chuyến công du nước ngoài đầu tiên, khi tuổi gần đôi mươi, đưa tôi đến Trung Quốc, nơi mà tôi gặp chủ tịch Mao, Chu Ân Lai, và các vị lãnh đạo khác của chính quyền. Chuyến viếng thăm quốc gia bao gồm một chuỗi các cuộc tham quan những cánh đồng hợp tác và những công trình công cộng như các đập thủy điện. Đây không chỉ là lần đầu tiên tôi ở trong một thành phố hiện đại với đường xá và xe hơi mà còn là lần đầu tiên tôi gặp gỡ các khoa học gia.
Trong năm 1956, tôi đến Ấn Độ tham dự lễ kỷ niệm 2500 năm đức Phật nhập diệt mà sự kiện chính được diễn ra tại Delhi. Sau đó, thủ tướng Ấn, ngài Jawaharlal Nehru [6] trở thành như là một cố vấn và một ngưòi bạn, cũng như là người tiếp nhận tôi tỵ nạn. Nehru là người có đầu óc khoa học; Ngài nhìn thấy tương lai Ấn Độ trong khuôn khổ phát triển về kỹ nghệ và công nghiệp và có tầm nhìn sâu sắc về sự tiến bộ. Sau buổi lễ chính thức kỷ niệm đức Phật qua đời, tôi được tường lãm nhiều nơi của Ấn Độ - không những các thánh địa hành hương như Bodhgaya[7], nơi đức Phật thành đạo, mà cả các thành phố lớn, các nhà máy liên hợp kỹ nghệ, và các đại học.
Sau đó lần đầu tiên tôi gặp gỡ với các nhà truyền giáo đang tìm kiếm một sự tích hợp giữa khoa học và tâm linh như là các thành viên của Theosophical Society [tạm dịch là "Thần Trí Hội"] tại Madras [Thủ phủ bang Tamil Nadu Ấn Độ]. Thần Trí học đã là một phong trào tâm linh quan trọng trong thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 mưu cầu phát triển một sự tổng hợp của tri kiến nhân loại, Đông và Tây, tôn giáo và khoa học. Những nhà sáng lập của phong trào bao gồm Madame Blavatsky và Annie Besant[8] là người Tây Phương nhưng có nhiều thời gian sống tại Ấn.
Ngay cả trước các chuyến đi chính thức như thế, tôi đã nhận biết được rằng công nghệ thật ra là thành quả hay là biểu thị một cách thức đặc trưng của hiểu biết về thế giới. Khoa học là cơ sở của các biểu thị đó. Dù sao, khoa học là dạng đặc biệt của sự truy cứu và là khối kiến thức bắt nguồn từ nó mà hình thành được hiểu biết về thế giới. Vậy nên dù sự đam mê ban đầu của tôi là với các hình thức công nghệ, - tức là dạng khoa học của sự truy cứu hơn là thứ đồ chơi cơ khi hay kỹ thuật đặc thù - đã làm tôi suy gẩm sâu nhất.
Như là kết quả của các mạn đàm với nghiều người, đặc biệt là các khoa học gia chuyên môn về khoa học, tôi nhận thấy nhiều sự tương tự chắc chắn trong tinh thần của việc truy cứu giữa khoa học và tư tưởng Phật giáo - Những sự tương tự mà tôi vẫn còn thấy là nổi bật. Các phương pháp khoa học theo tôi hiểu, xuất phát từ sự quan sát những hiện tượng chắc chắn trong thế giới vật chất dẫn tới một tổng quát hoá về lý thuyết; mà lý thuyết đó tiên đoán được các sự kiện và kết quả sẽ hình thành, nếu các hiện tượng đó được cứu xét trong một cách thức đặc thù; và sau đó kiểm nghiệm lại dự đoán bằng các thí nghiệm. Kết quả được chấp nhận như là một bộ phận của khối kiến thức khoa học rộng lớn hơn nếu thí nghiệm kết xuất ra là đúng và có thể lập lại được. Nhưng nếu thí nghiệm mâu thuẫn với lý thuyết, thì lý thuyết cần phải được điều hợp lại - vì quan sát thực nghiệm của hiện tượng là ưu tiên. Một cách hiệu quả, khoa học chuyển từ kinh nghiệm thực nghiệm qua một tiến trình tư tưởng nhận thức bao gồm sự áp dụng và hoàn thiện trong kinh nghiệm thực nghiệm xa hơn để kiểm tra lại hiểu biết đem đến bởi lập luận. Tôi từ lâu đã giữ sự đam mê về tương quan song song giữa hình thức khảo sát thực nghiệm và những điều mà tôi học hỏi được qua đào tạo trong triết học Phật giáo và tu hành.
Mặc dù Phật giáo đến từ một tôn giáo với các đặc tính của kinh điển và lễ nghi, nói một cách chính xác, trong Phật giáo, thẩm quyền kinh điển không thể có nhiều giá trị hơn một hiểu biết dựa trên lập luận và kinh nghiệm. Thực ra, chính đức Phật, trong một phát biểu nổi tiếng, đã giảm nhẹ thẩm quyền kinh điển của chính những phát ngôn của mình khi Ngài tuyên thuyết với các đệ tử đừng chấp nhận giá trị các lời dạy của Ngài vì chỉ đơn giản dựa trên sự tôn kính đạo sư. Cũng như người thợ luyện vàng dày dạn sẽ kiểm nghiệm sự tinh khiết số vàng của mình thông qua tiến trình thật kỹ càng của sự kiểm tra[9]; đức Phật khuyên nhủ rằng người ta nên kiểm nghiệm sự thật của điều mà Ngài đã dạy thông qua sự kiểm tra lập luận và thử nghiệm cá nhân. Do đó, khi đi đến việc đánh giá sự chân thật của một luận điểm, chiếu theo thẩm quyền lớn nhất là từ kinh nghiệm, tiếp theo là với lập luận, và sau cùng mới là kinh điển. Các đại sư thuộc đại học Nalanda của Phật giáo Ấn Độ, mà từ đó bắt nguồn cho Phật giáo Tây Tạng, đã tiếp tục áp dụng tinh thần của lời khuyên dạy của đức Phật trong việc kiểm tra chặt chẽ và chính xác đối với chính lời dạy của đức Phật.
Có một ý nghĩa mà các phương pháp khoa học và Phật giáo khác nhau: khảo sát khoa học khởi đầu từ thí nghiệm, dùng các dụng cụ để phân tích các hiện tượng bên ngoài, trong khi việc tu hành khởi đầu bằng việc phát triển chú tâm tinh tế, mà sau đó được sử dụng dưới sự kiểm soát tính tự cảnh tỉnh [tỉnh thức] của kinh nghiệm nội tại. Nhưng cả hai cùng chia sẻ chung một cơ bản thực nghiệm mạnh mẽ: nếu khoa học chỉ ra được điều nào đó tồn tại hay không tồn tại (điều này không đồng nhất với việc không tìm thấy điều đó), thì chúng tôi phải thừa nhận điều đó như là một sự thật. Nếu một lý thuyết đã được kiểm nghiệm và tìm thấy là chân thật, thì chúng tôi phải chấp nhận nó. Cũng vậy, Phật giáo phải chấp nhận những sự thật - bất kể là được tìm thấy bởi khoa học hay là bởi tuệ giác thiền định. Nếu khi khảo sát sự việc nào đó, ta tìm thấy lý do và chứng minh được nó thì ta phải thừa nhận điều đó như là thực tại - ngay cả nếu nó mâu thuẫn với một giải thích kinh điển theo nghĩa đen đã lưu giữ ảnh hưởng trong nhiều thế kỉ hay mâu thuẫn với ý kiến quan điểm đã được lưu giữ rất sâu. Vậy nên, một thái độ căn bản chia sẻ chung bởi Phật giáo và khoa học là nguyện ước giữ gìn sự truy lùng thực tại bởi những giá trị thực nghiệm và mong muốn loại bỏ những quan điểm đã lưu giữ lâu đời hay đã được thừa nhận nếu sự tìm tòi của chúng ta thấy ra rằng sự thật thì khác biệt [với thực tại].
Tương phản với tôn giáo, một đặc tính của khoa học thiếu vắng một phương sách tới thẩm quyền kinh điển như là một nguồn các luận điểm chân lý hiệu lực. Tất cả các sự thật trong khoa học phải được biểu thị hoặc thông qua thí nghiệm hoặc thông qua chứng minh toán học. Ý kiến cho rằng điều nào đó phải y như thế, chỉ bởi vì Newton[10] hay Einstein[11] đã nói như vậy thì đơn giản không phải là khoa học. Vậy nên, việc truy cứu phải bắt đầu từ một động thái cởi mở với sự tôn trọng câu hỏi đến nội dung đề tài và tôn trọng điều mà câu trả lời sẽ có thể có, tức là một trạng thái tâm thức mà tôi cho là một chủ trương nghi ngờ lành mạnh. Loại cởi mở này có thể làm cho các cá nhân dễ tiếp thu những thấu hiểu mới và những phát hiện mới; và khi nó được kết hợp với sự truy tầm có tính bản năng của con người cho sự hiểu biết; thái độ này có thể dẫn đến một sự mở rộng sâu xa của chân trời [tri thức] của chúng ta. Dĩ nhiên, điều này không có nghiã là tất cả các nhà thực nghiệm khoa học phải sống với lý tưởng này. Một số người quả có thể vướng mắc trong các mô thức trước đây.
Nói về các truyền thống khảo sát Phật giáo, thì chúng tôi, những người Tây Tạng mang món nợ lớn từ cổ Ấn Độ, nơi ra đời của tư tưởng triết học Phật giáo. Người Tây Tạng luôn luôn nói Ấn Độ là "Vùng đất của những thánh nhân". Quốc gia này là nơi sinh của đức Phật, và hàng loạt các đại sư Ấn Độ mà các bản luận của họ đã làm khuôn mẫu nền tảng cho tư tưởng triết học và truyền thống tâm linh cho người TâyTạng - như là Thánh giả Long Thụ triết gia thế kỉ thứ 2, ngài Vô Trước ngôi sao sáng thế kỉ thứ 4 và người anh của ông là ngài Thế Thân, ngài Tịch Thiên đại sư giới luật vĩ đại, và ngài Pháp Xứng luận sư thế kỉ 17[12].
Kể từ sau chuyến bay của tôi từ Tây Tạng trong tháng 3 năm 1959, một số lớn người dân Tây Tạng tị nạn và tôi có được duyên may vô cùng để tìm được một nơi trú ngụ thứ hai tại Ấn. Tổng thống Ấn Độ trong những năm đầu tôi tị nạn là Tiến Sĩ Rajendra Prasad[13], một người tâm linh sâu sắc, một học giả luật pháp khả kính. Phó tổng thống, người sau này đã trở thành tổng thống, là Tiến Sĩ Sarvepalli Radhakrishnan[14], ông được biết đến một cách rộng rãi là một học giả triết học chuyên nghệp và tư nhân. Tôi nhớ rõ một lần khi đang giữa một buổi thảo luận về vấn đề triết học, ngài Radhakrishnan trích dẫn một cách không ngập ngừng một bài kệ từ tác phẩm cổ điển "Căn Bản Trung Quán Luận"[15] của thánh giả Long Thụ. Đó là điều đáng ghi nhớ nhất từ khi độc lập vào năm 1947, Ấn Độ đã lưu giữ truyền thống kinh điển vào việc trao quyền lãnh đạo quốc gia cho những nhà tư tưởng đáng lưu ý và những nhà khoa học.
Sau một thập kỷ khó khăn của việc điều tiết, việc giúp đỡ để định cư cộng đồng vào khoảng 80.000 dân tị nạn Tây Tạng trong nhiều bộ phận của xứ Ấn, việc xếp đặt các trường học cho giới trẻ, và việc nổ lực để giữ gìn các truyền thống của một nền văn hoá bị đe dọa [hủy hoại], tôi bắt đầu các cuộc chu du quốc tế ít lâu trước cuối thập niên 1960. Thêm vào đó, để chia sẻ hiểu biết của tôi về các giá trị nhân bản, tán thành hài hoà và hiểu biết giữa các tôn giáo, và vận động cho nhân quyền và tự do của người Tây Tạng, tôi đã có nhiều cơ hội trong những lúc chu du để gặp gỡ các nhà khoa học riêng biệt để thảo luận về mối quan tâm, mở rộng kiến thức và đào sâu hơn bao giờ hết sự hiểu biết của tôi về khoa học và các phương pháp của nó. Ngay cả vào thời gian còn sớm trong thập niên 1960, Tôi đã bàn thảo về nhiều khiá cạnh của giao diện gìữa tôn giáo và khoa học với một số khách thăm viếng có năng lực tại chỗ lưu trú của tôi ở Dharamsala ở miền bắc Ấn Độ. Hai cuộc gặp gỡ đáng nhớ nhất trong thời kì này là với tu sĩ nhà dòng. Thomas Merton[16], là người quan tâm sâu sắc đến Phật giáo và dẫn nhập cho tôi về đạo Cơ Đốc, và học giả về tôn giáo Huston Smith [17]
Chú thích
↑ Charles Alfred Bell: Chính trị gia và là nhà Tây Tạng học sinh tại Calcutta (nay thuộc Ấn Độ). Ông là tác giả của cuốn Portrait of a Dalai Lama, ấn hành 1946. "Charles Alfred Bell". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
↑ Sikkim (còn gọi là Sikhim) là một bang thuộc Tây Bắc Ấn-độ trên dãy Himalaya. Nơi đây dân cư thưa thớt, Bắc và Đông giáp Tây Tạng, Tây giáp Nepal và Đông Nam giáp Bhutan. "Sikkim". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
↑ Xem thêm về cuộc đời của đức Dalai Lama thứ 13 (1876 - 1933) http://en.wikipedia.org/wiki/Thubten_Gyatso,_13th_Dalai_Lama.
Các tài liệu về việc tiên đoán vận mệnh nước Tây Tạng có thể thể tìm ở rất nhiều nơi. Xin xem thêm:
1. "A History of Modern Tibet, 1913-1951: The Demise of the LamaistState". Google Books. Resultby Melvyn C. Goldstein, Gelek Rimpoche - 1991 - History - 936 pages -- Trang 205 (dùng google tìm từ khoá: "A History of Modern Tibet" will certainly be forced either from within or without)
2. http://www.reversespins.com/buddhistprophecy.html
↑ Đây là tên kiểu xe của nhà thiết kế xe người Anh là Herbert Austin (1866-1941). "Herbert Austin, 1st Baron Austin". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
Kiểu xe Dodge xuất phát từ hãng Dodge Brothers. Sau đó được Walter Chrysler mua lại (1928) Tuy nhiên hiệu Dodge vẩn còn tồn tại cho đến ngày nay. "Walter_Chrysler". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009
↑ Heinrich Harrer (1912 - 2006) nhà leo núi, thể thao, địa lý người Áo. Ông được biết nhiều qua tác phẩm "Seven Years in Tibet" (Bảy năm tại Tây Tạng) --được dịch sang 53 thứ tiếng và chuyển thành phim cùng tên. "Heinrich Harrer". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009
Peter Aufschnaiter (1899 - 1973) là một nhà leo núi, khoa học nông nghiệp, địa lý, và bản đồ người Áo. "Peter Aufschnaiter". Wikipedia. Truy cập 28/02/2009.
↑ Jawaharlal Nehru (1889 - 1964) là nhà lãnh đạo chính trị quan trọng của đảng Quốc Đại, ông là biểu tượng đặc trưng cho phong trào đấu tranh giành độc lập Ấn Độ khỏi người Anh, là thủ tướng đầu tiên và phục vụ cương vị này lâu nhất của Cộng Hoà Ấn Độ. Ông cũng là hình ảnh chủ chốt trong chính trường quốc tế thời hậu chiến, được xem là lãnh dạo của Phong trào Phi Liên Kết. "Jawaharlal Nehru". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
↑ Bodhgaya còn có tên phiên âm là Bồ-đề Đạo tràng, nằm ở vùng Đông Bắc Ấn Độ (24°41′43″ Vĩ tuyến Bắc, 84°59′38″ Kinh Tuyến Đông). Đây là thánh tích hành hương quan trọng nhất của các Phật tử được xếp vào danh mục Di Sản thế Giới của UNESCO.
↑ Có nhiều bài viết mô tả và gìới thiệu về thánh tích này. "Phật Tích và Danh Thắng". Đạo Phật Ngày Nay. Truy cập 18/02/2009.
Tên thật là Helena Blavatsky (Елена Блаватская) (1831 - 1891), là người gốc Nga sáng lập Thần Trí Hội. "Madame Blavatsky". Wikipedia. Truy cập 13/01/2010
Annie Wood Besant (1847 - 1933) Người Anh là một thành viên kỳ cựu của Thần Trí Hội, một người đấu tranh cho nữ quyền, mọt tác giả, nhà hùng biện, và người ủng hộ cho Ấn-độ tự trị. "Annie Besant". Wikipedia. Truy cập 13/01/2010
↑ Lời dạy này được trích từ bản sớ giải Vimalaprabhā về Kālachakra, mặc dù nó cũng thấy xuất hiện trong Kinh tạng Pali. Phần tiếng Sanskrit được trích dẫn trong Tattvasagraha, do D. Shastri biên tập (Vārāasī: Bauddhabharari, 1968), k. 3587.
↑ Issac Newton (1643-1727) nhà vật lý, toán học, thiên văn vĩ đại người Anh. Ông là người đặt nền móng cho cơ học cổ điển với việc mô tả luật vạn vận hấp dẫn và các luật của chuyển động trong cơ học cổ điển và nó trở thành bộ môn khoa học chiếm ưu thế trong suốt 3 thế kỉ. Đồng thời với Gottfried Leibniz, ông phát triển giải tích toán học cổ điển tức là các phép vi và tích phân. Các đóng góp của ông được xem là khởi đầu cho nền vật lý cổ điển. "Isaac Newton". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
↑ Albert Einstein (1879-1955 -- Nobel Vật lý 1921) người gốc Đức, được xem là nhà vật lý xuất sắc nhất trong mọi thời đại. Ông có nhiều đóng góp lớn trong các lĩnh vục khác nhau của vật lý và toán học như vũ trụ học, cơ học, lượng tử, sác xuất thông kê... Ông được biết đến nhiều là do phát minh ra lý thuyết tương đối Hẹp (1905) và thuyết tương đối rộng (1916), cũng như là người nêu ra công thức chuyển hoá giữa khối lượng và năng lượng E=mc2. Tuy vậy, giải Nobel dành cho ông lại không phải do các công trình đó mà là là vì công mô tả luật về hiệu hứng ánh ánh. "Albert Einstein". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
↑ Theo nhiều tài liệu thì đức Dalai Lama có nhắc đến các đại sư tài ba Ấn Độ khác (17 vị) đều xuất thân từ truyền thừa Nalanda và đức Dalai Lama cũng xác nhận mình thuộc dòng truyền thừa này. Ở đây, Ngài chỉ nêu gọn vài tên tuổi các đại sư trong dòng truyền thừa. (Số đại sư khác chưa được kể tên là Āryadeva (Thánh Thiên), Buddhapālita (Phật Hộ), Bhāvaviveka (Thanh Biện), Candrakīrti (Nguyệt Xứng), Śāntideva (Tịch thiên), Śāntarakṣita (Tịch Hộ), Kamalaśīla (Liên Hoa giới), Dināga (Vực Long), Vimuktisena (Giải Thoát Quân). Haribhadrā (Sư Tử Hiền), Guabhadrā (Đức Quang), và Śākyaprabha (Thích-ca Quang)). Danh tính của các đại sư đã được viết thành kệ. "Illuminating the Threefold Faith: An invocation of the Seventeen Great Scholarly Adepts of Glorious Nalanda". Dalai Lama 14. Lamrim Tibetan Buddhist Center.Truy cập 18/02/2009..
Riêng về các đại sư được đề cập:
1.1. Long Thụ (sa. nāgārjuna; bo. klu sgrub ཀླུ་ས ྒྲུབ་), dịch âm là Na-già-át-thụ-na (zh. 那伽閼樹那), thế kỷ 1-2, là một trong những luận sư vĩ đại nhất của lịch sử Phật giáo. Sư là người sáng lập Trung quán tông (sa. mādhyamika), sống trong thế kỉ thứ 1-2. Có rất nhiều tác phẩm mang danh của Sư nhưng có lẽ được nhiều tác giả khác biên soạn. Sư cũng được xem là Tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ. "Long Thụ". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
1.2. Vô Trước (sa. asaga, nghĩa là "không bị ô nhiễm, vướng mắc"), cũng được dịch âm là A-tăng-già, khoảng thế kỷ 4, là một Đại luận sư của Phật giáo Ấn Độ, người sáng lập Duy thức tông (sa. vijñānavādin). Sư khước từ quan điểm của Thánh giả Long Thụ (sa. nāgārjuna) về tính Không tuyệt đối và thiết lập giáo pháp của mình dưới ảnh hưởng của Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivādin). Tương truyền Sư được Bồ Tát Di-lặc trực tiếp giáo hoá. Có một số luận sư cho rằng Di-lặc này là một nhân vật lịch sử với tên Maitreyanatha (sa. maitreyanātha). "Vô Trước". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
1.3. Thế Thân (sa. vasubandhu, bo. dbyig gnyen དབྱིག་གཉེན་), ~316-396, cũng được dịch là Thiên Thân, gọi theo Hán âm là Bà-tu-bàn-đầu, Bà-tẩu-bàn-đậu, là một Luận sư xuất sắc của Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivādin) và Duy thức tông (sa. vijñānavādin), được xem là Tổ thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Người ta cho rằng Sư sinh tại Peshāwar (địa danh ngày nay), sống tại Kashmir và mất tại A-du-đà (ayodhyā). Sư vừa là em vừa là đệ tử của ngài Vô Trước (sa. asaga), người sáng lập phái Duy thức. Vô Trước là người đã khuyến dụ Thế Thân theo Đại thừa. "Thế Thân". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
19.4. Pháp Xứng (sa. dharmakīrti) Một trong những Luận sư quan trọng nhất của triết học đạo Phật, đại điện quan điểm của Duy thức tông (sa. vijñānavādin) và Nhân minh học (sa. hetuvidyā), sống trong thế kỉ thứ 7 (~ 600-650) tại Nam Ấn Độ và là môn đệ của Hộ Pháp(sa. dharmapāla) tại Na-lan-đà. "Pháp Xứng". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
↑ Rajendra Prasad (1884 - 963) tổng thống đầu tiên của nước Ấn từ 1948 đến 1950, là lãnh đạo đảng Quốc Đại. "Rajendra Prasad". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.

↑ Sarvepalli Radhakrishnan (1888-1975), là một triết gia Ấn. Ông được xem là người có công đặt cầu nối giữa các tư tưởng triết học Đông-Tây. Là người du nhập lý tưởng Tây phương vào Ấn và ngược lại Trình bày các các triết lý tôn giáo và tiết học Ấn sang Anh ngữ. Ông là phó tổng thống đầu tiên của Ấn (1962-1967). "Sarvepalli Radhakrishnan". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
↑ Căn bản trung quán luận tụng (*) (sa. [mūla-] madhyamaka-kārikā), cũng được gọi là Trung quán luận tụng, hoặc Trung quán luận (sa. madhyamaka-śāstra), được ngài Cưu-ma-la-thập dịch Hán văn. Tác phẩm này còn lưu giữ trong Phạn ngữ. Xem nguyên văn Phạn ngữ và bản dịch Việt của Thích Chân HIền từ bản tiếng Hán của Ngài Cưu Ma La thập
↑ Thomas Merton (1915-1968) Là một trong những tác giả Thiên chúa giáo có nhiều ảnh hưởng nhất của thế kỉ thức 20, ông thuộc dòng Trappist. "Thomas Merton". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
↑ Huston Cummings Smith (1919 --??) là một trong những nhà nghiên cứu về tôn giáo xuất sắc. Tác phẩm của ông mang tên "The World's Religions" (Các Tôn Giáo của Thế Giới) là một tác phẩm bán được hơn hai triệu bản. "Huston Smith". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
Một trong những người thầy đầu tiên của tôi về khoa học - và là một trong những người bạn khoa học thân cận nhất - là nhà vật lý và triết học người Đức Carl von Weizsäcker [1]một người anh của tổng thống Tây Đức. Mặc dù ông ta tự mô tả mình như là một giáo sư hoạt động triết lý chính trị, vốn được đào tạo trong ngành vật lý, thì trong thập niên 30 von Weizsäcker đã làm phụ tá cho nhà vật lý lượng tử Werner Heisenberg[2]. Tôi sẽ chẳng bao giờ quên thí dụ truyền cảm và gợi hứng của Weizsäcker như là một người lúc nào cũng lo lắng về các hậu quả của khoa học - đặc biệt là các hậu quả về đạo đức và chính trị. Ông ta theo đuổi một cách không mệt mỏi để ứng dụng sự nghiêm ngặt của truy cứu triết học lên hành vi của khoa học, để thử thách nó một cách liên tục.
Ngoài các cuộc thảo luận không chính thức dài, tôi còn may mắn nhận được một số buổi học chính thức từ von Weizsäcker về các đề tài khoa học. Những điều này tạo nên một kiểu cách không khác chi những buổi chuyển giao tri thức một (thầy) - một (trò), tức là một dạng quen thuộc của việc giảng dạy trong truyền thống Phật giáo của riêng chúng tôi. Có vài dịp, chúng tôi đã có thể xếp riêng hai ngày tròn cho một lần nhập thất khi mà ngài von Weizsäcker hướng dẫn tôi một khoá học cấp tốc về vật lý lượng tử và các hệ lụy triết học của nó. Tôi cảm thấy biết ơn sâu sắc về lòng tốt - ông dành cho tôi nhiều thì giờ quý báu cũng như sự kiên nhẫn bền bỉ của mình, đặc biệt là khi tôi tự thấy chật vật với một khái niệm khó hiểu nào đó, mà tôi phải thú nhận là cũng không ít tình huống như thế. Von Weizsäcker thường nhấn mạnh về tầm quan trọng của chủ trương thực nghiệm trong khoa học. Ông ta nói, sự kiện có thể được nhận thức theo hai cách - nó có thể được xảy ra như một hiện tượng hay nó có thể được suy luận ra. Chẳng hạn, một đốm nâu trên một trái táo có thể thấy bằng mắt; đó là xảy ra một cách hiện tượng. Nhưng việc có một con sâu bên trong trái táo là sự kiện mà ta có thể suy luận từ cái đốm và từ hiểu biết tổng quát về các trái táo và các con sâu.
Trong triết học Phật giáo, có một nguyên lý cho rằng các giá trị cho bởi một đề xuất đặc biệt được kiểm nghiệm phải nên phù hợp với bản chất của chủ thể được phân tích[3]. Chẳng hạn, nếu một đề xuất có liên hệ tới các dữ kiện thật có thể quan sát được trong thế giới, bao gồm cả sự tồn tại của chính nó thì qua kinh nghiệm thực nghiệm, đề xuất đó có thể được xác nhận hay bị bác bỏ. Do đó, Phật giáo đặt phương pháp thực nghiệm của việc trực tiếp quan sát lên trên hết. Ngược lại, nếu đề xuất đó quan hệ đến sự tổng quát hoá dẫn xuất từ kinh nghiệm của chúng ta về thế giới (thí dụ như bản chất ngắn ngủi của cuộc sống hay mối quan hệ tương hỗ của thực tại), thì bởi do nó chủ yếu là một hình thức của suy luận, nên đề xuất có thể được chấp nhận hay bác bỏ. Cho nên, Phật giáo chấp nhận phương pháp suy luận - giống nhiều với mô hình được trình bày bởi von Weizsäcker.
Sau cùng từ quan điểm Phật giáo, còn có một mức xa hơn của thực tại, nó có thể còn bị che mờ đối với tâm thức chưa giác ngộ. Một minh họa truyền thống cho điều này là những vận hành vi tế nhất của luật về nghiệp [4], và câu hỏi lý do nào có rất nhiều chủng loại chúng sinh trên thế giới. Chỉ riêng trong phạm vi này về những lời xác nhận thì kinh điển được trích dẫn như là một nguồn thẩm quyền đúng đắn một cách mạnh mẽ, dựa trên một cơ sở đặc biệt mà đối với các Phật tử, lời tuyên thuyết của đức Phật đã được chứng minh là khả tín trong việc kiểm nghiệm về bản chất của sự tồn tại và lộ trình để giải thoát. Mặc dù nguyên lý về ba phương pháp để kiểm nghiệm - tức là kinh nghiệm trực tiếp, suy luận, và dựa vào thẩm quyền[5] [của kinh điển hay của người đã giác ngộ] - được ẩn chứa trong các phát triển sơ khai nhất của tư tưởng Phật giáo, nó đã được các nhà luận lý học[6] Ấn Độ Vực Long (thế kỉ thứ 5) [7] và Pháp Xứng (thế kỉ thứ 7) là người đầu tiên công thức hoá nó như là một phương pháp luận triết học hệ thống. Trong thí dụ sau cùng này, thì Phật giáo và khoa học rõ ràng có phần chung, vì khoa học, tối thiểu về nguyên tắc, không tiếp nhận bất kì một dạng nào của thẩm quyền kinh điển[8]. Nhưng trong hai phương diện đầu - tức là ứng dụng của kinh nghiệm thực nghiệm và lập luận - có một sự hội tụ to tát giữa hai truyền thống khảo sát. Mặc dù thế, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường hay và có thói quen sử dụng phương pháp thứ ba để kiểm thử lại các luận điểm về thực tại. Chẳng hạn, ta chấp nhận ngày sinh của mình qua chứng thực bằng miệng của những người họ hàng của ta và trong mối quan hệ với chứng thực bằng giấy tờ của giấy khai sinh. Ngay cả trong khoa học, ta chấp nhận các kết quả được công bố bởi những người thực hành trong các tạp chí chuyên môn[9] mà không có sự tái lập thí nghiệm từ chính mình.
Ý hướng của tôi về khoa học một cách không nghi ngờ gì đã trở thành một ý tưởng sâu sắc hơn nhiều nhờ việc gặp gỡ nhà vật lý đáng ghi nhận là David Bohm[10], một trí thức vĩ đại và một người cởi mở nhất mà tôi từng được giao tiếp. Tôi gặp ông ấy lần đầu tại Anh năm 1979 trong lần chuyến đi thứ nhì của tôi thăm châu Âu, và chúng tôi cảm thấy có quan hệ ngay lập tức - dĩ nhiên, sau này tôi tìm ra rằng ngài Bohm cũng là dân tỵ nạn, ông đã buộc phải rời Mỹ trong vụ ngược đãi của thời kì McCarthy[11]. Chúng tôi đã trở thành một đôi bạn tri kỷ và là một cuộc mạo hiểm trí thức chung. Ngài David Bohm đã hướng dẫn cho hiểu biết của tôi về các khía cạnh vi tế nhất của tư tưởng khoa học, đặc biệt là trong vật lý, và vạch ra cho tôi phương diện tốt đẹp nhất của thế giới quan khoa học. Trong khi lắng nghe cẩn thận trong cuộc đối thoại chi tiết với một nhà vật lý như là Bohm hay von Weizsäcker, tôi cảm thấy là mình có thể nắm bắt được các điểm phức tạp của toàn bộ lý lẽ; thật không may, khi các buổi mạn đàm qua đi thì thường không còn gì lớn lao ở lại! Bàn thảo của tôi với Bohm hơn 2 thập niên đã kích khởi tư duy của chính tôi về những cách mà các phương pháp Phật giáo truy cứu có thể quan hệ tới các phương pháp được dùng trong khoa học hiện đại.
Tôi đặc biệt thán phục sự cởi mở hết sức của ngài Bohm đối với tất cả các lãnh vực kinh nghiệm về con người, không chỉ trong thế giới vật chất thuộc chuyên môn của ông mà còn trong tất cả các khiá cạnh chủ quan, bao gồm vấn đề về ý thức. Trong cuộc đối thoại, tôi cảm thấy sự hiện diện của một tâm hồn khoa học vĩ đại sẵn sàng tiếp nhận giá trị của sự quan sát và các thấu suốt từ những cơ chế khác của tri thức hơn là kiến thức khoa học khách quan.
Một trong các phẩm chất riêng biệt mà Bohm là một điển hình chính là sự đam mê và phương pháp triết học cơ bản về việc dẫn xuất của một truy cứu khoa học từ các giá trị của các thí nghiệm suy tưởng. Diễn tả đơn giản là, thực hành này gợi ra một tình huống tưởng tượng trong đó một giả thuyết đặc biệt được thử nghiệm bằng việc kiểm tra các hậu quả mà nó có thể có với các thừa nhận thường được cho là không thể tránh khỏi. Một công lao lớn của Einstein về tính tương đối giữa không và thời gian[12] đã được dẫn xuất từ các giá trị của những thí nghiệm đã được suy tưởng, mà các thí nghiệm đó đã thử thách sự hiểu biết về vật lý trong thời của ông ta. Một thí dụ nổi tiếng là nghịch lý trẻ sinh đôi[13], trong đó một người anh em ở lại trái đất trong khi người kia du lịch trong một phi thuyền không gian với vận tốc đủ gần vận tốc ánh sáng. Với người ở trong con tàu thì thời gian phải nên chậm lại. Nếu người này trở về sau 10 năm thì anh ta phải thấy ra rằng người anh em của mình ở trên trái đất phải già hơn mình một cách đáng kể. Việc đánh giá đầy đủ của nghịch lý này đòi hỏi hiểu biết về các phương trình toán phức tạp vượt khỏi kỹ năng của tôi.
Trong ý hướng đối với khoa học, tôi luôn hứng thú rất mạnh tới phương pháp phân tích vì sự song hành gần gũi của nó với tư tưởng triết lý Phật giáo. Trước khi chúng tôi gặp nhau, Bohm đã dành nhiều thì giờ nghiên cứu nhà tư tưởng Ấn Độ là Jiddu Krishnamurti[14], và ngay cả tham dự một số cuộc đối thoại với ông ấy. Trong nhiều dịp Bohm và tôi tìm hiểu các cách thức mà phương pháp khoa học có thể quan hệ tới thực hành thiền định, điều mà theo quan điểm Phật giáo là có thực nghiệm tính như nhau.
Ảnh minh họa buồng bọt: Với phát minh buồng bọt này, nhà vật lý và thần kinh sinh học Donald A. Glaser (1926 - ) nhận giải Nobel vật lý (1952). Hình chụp cho thấy qũy đạo của các hạt vật lý trong buồng bọt của Brookhaven National Laboratory.
Mặc dù có cơ sở nhấn mạnh lên thực nghiệm và lập luận tương tự nhau, Phật giáo và khoa học có nhiều khác biệt sâu sắc về cấu trúc của kinh nghiệm thực nghiệm và các hình thức của lập luận được dùng bởi hai hệ thống này. Khi Phật giáo nói về kinh nghiệm thực nghiệm[15], có một sự hiểu biết rộng hơn của chủ trương thực nghiệm bao gồm các trạng thái thiền định cũng như là bằng chứng về các tri giác. Do sự phát triển của công nghệ trong vòng hai trăm năm cuối này, khoa học có thể mở rộng khả năng của các tri giác tới mức không thể tưởng tượng được [so với] trong thời gian trước đó. Do đó, các nhà khoa học có thể dùng mắt trần với sự giúp đỡ của các công cụ mạnh như các kính hiển vi và các kính thiên văn, để quan sát một cách đáng ghi nhận cả hiện tượng trong phút chốc như là các tế bào và các cấu trúc nguyên tử phức hợp, lẫn các kết cấu khổng lồ của vũ trụ. Trên cơ sở về các chân trời rộng mở cho các tri giác thì khoa học đã có thể đẩy lui các giới hạn của sự suy luận xa khỏi mức mà tri kiến nhân loại chưa từng đạt tới. Giờ đây, trong câu trả lời về những dấu vết để lại trong các buồng bọt, các nhà khoa học có thể suy đoán được sự tồn tại của các hạt cấu trúc nên các nguyên tử, bao gồm ngay cả các phần tử bên trong của hạt neutron như là các quark và gluon[16].

Khi còn là đứa bé thí nghiệm với kính thiên văn của đức Dalai Lama thứ 13, tôi có một kinh nghiệm rõ ràng về năng lực của sự suy luận dựa trên quan sát thực nghiệm. Trong chuyện dân gian Tây Tạng chúng tôi kể về thỏ và mặt trăng [Ngọc Thố và Hằng Nga] - Tôi tin rằng người Âu châu thấy một người đàn ông thay vì một con thỏ. Cách nào đi chăng nữa, thì trong một đêm trung thu, khi ánh trăng sáng rõ đặc biệt, tôi quyết định kiểm tra con thỏ bằng kính viễn vọng. Thật ngạc nhiên, tôi thấy cái dáng giống như các bóng đen. Tôi đã hứng thú đến mức yêu cầu hai người trợ giảng đến và nhìn qua kính viễn vọng. Tôi tranh luận rằng sự có mặt của các bóng đen trên mặt trăng là bằng chứng mặt trăng được chiếu rọi bởi ánh sáng mặt trời cùng một cách như là trái đất. Họ trông bối rối nhưng đã đồng ý với nhận thức về các bóng đen trên mặt trăng là không thể nghi ngờ được. Sau đó, khi nhìn thấy các ảnh chụp các miệng hố mặt trăng, nhận ra cùng một hiệu quả - là trong nội miệng hố thì đã có một bóng đen về một phía nhưng không ở phía bên kia. Từ đây, tôi suy diễn rằng phải có một nguồn sáng làm hắt các bóng đen, như là trên mặt đất. Tôi kết luận mặt trời phải là nguồn ánh sáng tạo nên các bóng đen của các hố trên mặt trăng. Tôi đã rất hứng thú khi sau này phát hiện ra điều đó là sự thật.
Nói một cách nghiêm túc, tiến trình lập luận này không hoàn toàn là của riêng Phật giáo hay của riêng khoa học; đúng hơn, nó phản ảnh hoạt động cơ bản của tâm thức con người mà chúng ta sử dụng một cách tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày. Việc dẫn nhập chính thức về sự suy luận như là một nguyên lý của luận lý học cho các tu sĩ thực tập trẻ tham gia vào việc minh họa về cách mà người ta có thể suy luận về sự hiện diện của lửa từ xa bởi vì nhìn thấy một cột khói bốc lên phía bên kia núi, và từ lửa, ở Tây Tạng sẽ dễ dàng suy ra về sự cư trú của con người. Người ta có thể tưởng tượng một cách dễ dàng về một lữ khách, đói khát sau một ngày dài đi bộ, sẽ cảm thấy sự cần thiết của một tách nước trà. Ông ta thấy khói và do đó suy luận về lửa và chỗ dừng chân, nơi mà ông ta có thể có chỗ trọ qua đêm. Trên cơ sở của sự suy luận này, người lữ khách có thể thoả mãn thèm muốn được uống trà. Từ một hiện tượng quan sát được, một chứng cớ trực tiếp cho tri giác, người ta có thể suy luận đến điều vẫn còn là ẩn số. Hình thức lập luận này thông dụng trong Phật giáo và khoa học.
Trong suốt lần viếng thăm đầu tiên tại châu Âu vào năm 1973, tôi hân hạnh được gặp gỡ một trong tư tưởng vĩ đại của thế kỷ thứ 20, là nhà triết học Sir Karl Popper[17]. Cũng như tôi, Popper đã một lần đào tỵ - khỏi quê hương Vienna [thuộc nước Áo] của ông trong thời kỳ Quốc-xã - và ông ta trở thành nhà phê phán mạnh mẽ lên chủ nghĩa chuyên chế. Nên chúng tôi tìm thấy có nhiều điểm chung. Popper đã cao tuổi khi tôi gặp ông, hơn 70, với mắt sáng và trí óc rất nhạy bén. Tôi có thể đoán ra được ông ta đã phải mạnh mẽ như thế nào trong thời trai trẻ do cảm xúc mạnh mà ông ta lộ ra khi chúng tôi bàn thảo về vấn đề của các chính quyền độc tài. Trong cuộc gặp gỡ này, Popper đã lo lắng nhiều về sự đe dọa ngày càng lớn của chủ nghĩa cộng sản, về hiểm họa của các hệ thống chính trị độc tài, về những thách thức về việc bảo vệ quyền tự do cá nhân, và về sự duy trì của một xã hội cởi mở hơn là việc ông ta thích thú trong sự khám phá các câu hỏi gắn liền đến các mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo. Nhưng chúng tôi đã bàn thảo đến các vấn đề về phương pháp trong khoa học.
Anh ngữ của tôi đã không tốt như hiện nay, và người thông dịch thì cũng không mấy thành thạo. Không như khoa học thực nghiệm, triết học và phương pháp đòi hỏi nhiều thảo luận hơn nhiều. Kết quả là tôi được lợi ích từ cơ hội gặp gỡ với Popper có lẽ ít hơn là từ các cuộc gặp mặt với những người như là David Bohm và Carl von Weizsäcker. Nhưng chúng tôi trở một tình bằng hữu, và tôi lại thăm ông ta mỗi khi đến Anh, kể cả một cuộc viếng thăm đáng nhớ vào năm 1987 để uống trà ở nhà ông ta tại Kenley, Surrey[18], tôi có một tình cảm đặc biệt với các loài hoa và vườn cây, đặc biệt là hoa lan, và Sir Karl rất tự hào cho tôi tham quan mảnh vườn và nhà kính yêu quý của ông. Lần đó, tôi phát hiện ra ảnh hưởng của Popper lớn như thế nào vào triết lý của khoa học, và đặc biệt là về vấn đề của phương pháp khoa học.
Một trong những đóng góp cơ sở của Popper là việc làm rõ các vai trò quan hệ giữa lập luận quy nạp và lập luận suy diễn trong việc khẳng định và chứng minh một lý thuyết khoa học. Bằng quy nạp, ta có ý xây dựng sự tổng quát hóa từ một chuỗi các thí dụ được quan sát một cách thực nghiệm. Có nhiều kiến thức hằng ngày của chúng về các mối quan hệ của nguyên nhân và hậu quả đều là quy nạp; chẳng hạn, trên cơ sở các quan sát lập đi lập lại về quan hệ tương hỗ giữa khói và lửa, ta tổng quát hoá thành nơi nào có khói thì nơi đó có lửa. Suy diễn thì lại là quá trình ngược lại, dẫn ra từ hiểu biết về sự chân thật tổng quát lên các quan sát riêng biệt. Chẳng hạn, người ta biết rằng tất cả các xe hơi sản xuất tại châu Âu kể từ sau 1995 chỉ sử dụng xăng không pha chì[19], thì khi người ta nghe về một chiếc xe riêng đời 2000 của người bạn, người đó có thể suy diễn rằng xe đó phải dùng xăng không pha chì. Dĩ nhiên, trong khoa học thì các hình thức này sẽ phức tạp hơn nhiều, đặc biệt là suy luận suy diễn, vì nó bao gồm cả việc sử dụng toán cao cấp.
Một trong những lãnh vực về lập luận mà Phật giáo khác với khoa học thuộc về vai trò của suy diễn. Điều khác biệt nhất của lập luận trong khoa học so với lập luận trong Phật giáo là ứng dụng của nó được phát triển cao trong việc lập luận toán học phức tạp. Phật giáo, như tất cả triết học Ấn-Độ cổ điển khác, một cách lịch sử, việc sử dụng luận lý học được giữ lại rất cụ thể, ở chỗ lập luận không bao giờ tách rời khỏi nột nội dung cụ thể. Ngược lại, việc lập luận toán học của khoa học cho phép một mức độ trừu tượng rất lớn, cho nên hiệu lực hay bất hiệu lực của một lý lẽ có thể được xác quyết đơn thuần trên cở sở của sự đúng đắn của một phương trình toán học. Do đó, trong một ý nghĩa thì tổng quát hoá đạt được thông qua toán học sẽ ở cấp độ cao hơn nhiều mà các hình thức lập luận truyền thống khả dĩ đạt tới. Với thành công tuyệt vời của toán học, thật không có gì đáng ngạc nhiên khi một số người tin rằng các luật của toán học là tuyệt đối và rằng toán học là ngôn ngữ chân thật của thực tại, chính là bản chất của tự nhiên.
Một trong những khác nhau nữa giữa khoa học và Phật giáo, mà tôi thấy, nằm trong việc thiết lập một lý thuyết có hiệu lực. Ở đây, cũng vậy, phát họa của Popper về nội hàm của một câu hỏi khoa học nghiêm túc là điển hình cho một thấu suốt to tát. Đây là luận điểm khả phản bác[20] của chủ trương Popper, cho rằng mỗi lý thuyết khoa học phải dung chứa trong nó các điều kiện mà qua đó lý thuyết khoa học này có thể trở thành sai. Chẳng hạn, Lý thuyết cho rằng Thượng Đế sáng tạo ra thế giới sẽ không bao giờ là một lý thuyết khoa học vì nó không thể hàm chứa một giải thích về các điều kiện mà qua đó lý thuyết này có thể được chứng minh là sai. Nếu ta tiếp nhận tiêu chuẩn này một cách nghiêm túc, thì nhiều vấn đề liên quan đến sự có mặt của con người như là đạo đức, mỹ thuật, và tâm linh sẽ nằm bên ngoài nội hàm của khoa học. Ngược lại, nội hàm của sự truy cứu trong Phật giáo không có giới hạn về đối tượng. Nó cũng bao hàm cả thế giới chủ thể cũng như là câu hỏi về các giá trị. Nói cách khác, khoa học làm việc với các dữ kiện thực nghiệm nhưng không quan hệ với siêu hình và đạo đức; trong khi Phật giáo, thì truy cứu phê phán lên tất cả ba đối tượng này là cốt yếu.
Chủ thuyết khả phản bác của Popper hoà điệu với một nguyên lý phương pháp luận chủ yếu trong truyền thống triết học Phật giáo Tây Tạng của chính tôi. Chúng ta có thể gọi là "nguyên lý về nội hàm của sự phủ nhận". Nguyên lý này phát biểu rằng có một sự khác nhau nền tảng giữa hai thuật ngữ "không tìm thấy" và "tìm thấy rằng [nó] không tồn tại". Nếu tôi tìm kiếm điều gì đó mà thất bại để kiếm ra nó thì không có nghĩa là điều mà tôi đi tìm không tồn tại. Việc không nhìn thấy một sự vật không đồng nhất với việc nhìn thấy sự không tồn tại của nó. Để có được một trùng hợp giữa việc không thấy một sự vật và việc thấy sự không tồn tại của nó, thì phương pháp của việc tìm kiếm và trạng thái của hiện tượng phải tương xứng. Thí dụ, việc không nhìn thấy một con bọ cạp trên trang giấy mà bạn đang đọc là bằng chứng xứng hợp rằng không có con bọ cạp nào trên trang giấy. Vì nếu có một con bọ cạp trên trang giấy này thì nó phải thấy được bởi mắt trần. Mặc dù vậy, việc không thấy acid trong giấy trên đó trang này được in thì không đồng nhất với với việc thấy là giấy này không có acid[21], bởi vì để thấy được acid trong giấy người ta phải dùng các dụng cụ khác hơn là mắt trần. Thêm vào đó, triết gia của thế kỷ 14, Tsongkhapa[22], nhận định tương tự rằng có một sự khác biệt giữa điều bị phủ nhận bởi lập luận và điều không được xác nhận bởi lập luận, cũng như là sự khác biệt giữa điều không thể đứng vững qua phân tích đánh giá và điều bị làm yếu đi bởi sự phân tích như thế.
Sự phân biệt phương pháp luận này có thể dường như tế nhị, nhưng chúng có thể tạo ra những sự phân nhánh quan trọng cho hiểu biết của một người về nội hàm của phân tích khoa học. Chẳng hạn, thực sự khoa học không chứng minh được sự tồn tại của Thượng Đế không có nghĩa là Thượng Đế không tồn tại đối với những người thực hành trong một truyền thống hữu thần. Tương tự, chỉ vì khoa học chưa có chứng minh nào vượt qua được bóng đen của sự nghi ngờ về các chúng sinh đều tái sinh không có nghĩa rằng việc đầu thai không thể xãy ra. Trong khoa học, thực sự cho đến nay việc chúng ta không tìm thấy sự sống trên hành tinh nào ngoài trái đất của ta, không chứng minh được rằng sự sống không tồn tại ở nơi nào khác.
Cho đến giữa thập niên 1980, trong nhiều chuyến đi từ Ấn, tôi đã gặp nhiều nhà khoa học và triết học và đã tham dự nhiều cuộc đàm thoại với họ, kể cả riêng tư và công cộng. Một số trong họ đặc biệt vào lúc ban đầu, đã không dễ chịu. Một lần tại Moscow, ở cao điểm của thời Chiến Tranh Lạnh, tôi có gặp một vài nhà khoa học, khi đó cuộc bàn thảo của tôi về ý thức đã gặp phải sự chống đối ngay lập tức về khái niệm tôn giáo về linh hồn, khái niệm mà họ nghĩ rằng tôi cổ súy. Tại Úc, một khoa học gia đã mở bài diễn trình với một tuyên bố không mấy thân thiện về phương cách mà ông ta ở đó để tự vệ cho khoa học nếu có bất kì tấn công nào từ phía tôn giáo. Mặc dù vậy, năm 1987 đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong hoạt động của tôi với khoa học. Đó là năm lần đầu tiên hội nghị Mind and Life [23]tiến hành tại nơi tôi trú ngụ là Dharamsala.
Cuộc gặp gỡ này đã được tổ chức bởi nhà thần kinh học người Chi Lê Francisco Varela[24], giảng dạy tại Paris, và nhà thương mãi Hoa Kì Adam Engle[25]. Varela và Engle tiếp cận tôi với một đề xuất là họ sẽ mang đến một nhóm các nhà khoa học từ nhiều lãnh vực mà họ có cảm tình với tinh thần của đối thoại và rằng tôi tiến hành một cuộc bàn thảo không giới hạn và tư nhân không chính thức trong vòng một tuần lễ. Tôi nắm lấy ý kiến này. Đây là một cơ hội hiếm để học hỏi nhiều hơn về khoa học và để khám phá về các nghiên cứu và tiến bộ trong tư duy khoa học. Tất cả những người tham dự ở lần đầu tiên đã rất hứng khởi cho nên tiến trình này đã tiếp diễn cho đến nay với một tuần lễ dài gặp mặt sau mỗi hai năm.
Tôi gặp Valera lần đầu tiên tại một hội nghị ở Áo. Trong cùng năm đó tôi có cơ hội gặp riêng ông và lập tức bắt đầu một tình bạn. Valera là một người gầy ốm, đeo kính, và ăn nói rất mềm mại. Ông tà là sự kết hợp giữa tâm thức lý luận và tế nhị với sự rõ ràng trong biểu thị, khiến cho ông trở thành một nhà giáo tài năng. Ông ta nhận thức triết học Phật giáo và truyền thống thiền định của nó rất nghiêm túc, nhưng trong bài diễn giải của mình, ông lại chuyển tải suy nghĩ hiện có trong dòng tư duy của khoa học theo một cách không tô vẽ và không thiên vị. Tôi không đủ từ để nói lên lời biết ơn của mình đối với Valera và Engle cũng như là Barry Hershey người đã cống hiến một việc làm giá trị lớn là đem các nhà khoa học đến Dharamsala. Tôi được một sự hỗ trợ trong các đối thoại này bởi hai người thông dịch học giả Phật giáo Hoa Kỳ là Alan Wallace và người chuyển dịch của tôi Thupten Jinpa[26]
Trong lần hội nghị Tâm Thức và Đời Sống đầu, tôi đã được nghe trình bày lần đầu tiên một đánh giá lịch sử đầy đủ về các phát triển của phương pháp khoa học ở Phương Tây. Tôi đặc biệt hứng thú vào ý kiến về sự dịch chuyển mẫu hình[27] - tức là những thay đổi nền tảng trong thế giới quan của một nền văn hóa và các tác động của chúng lên mọi khía cạnh của hiểu biết khoa học. Một thí dụ cổ điển là việc chuyển đổi xảy ra ở đầu thế kỷ 20 từ vật lý Newton cổ điển sang thuyết tương đối và cơ học lượng tử. Ban đầu ý niệm chuyển mẫu hình đến như là một cú sốc với tôi. Tôi đã thấy khoa học như là một sự tìm kiếm vô cảm đến chân lý tối hậu về thực tại, trong đó những khám phá mới điển hình cho những bước tiến trong việc góp nhặt và tăng trưởng tri thức về thế giới của nhân loại. Lý tưởng của tiến trình này mà chúng ta có thể đạt tới là giai đoạn cuối cùng của kiến thức đầy đủ và hoàn thiện. Giờ thì tôi được nghe rằng có những phần tử chủ quan[28] tham gia trong sự hình thành của mẫu hình riêng biệt bất kì và rằng do đó có cơ sở để lưu ý trong lời nói về thực tại khách quan hoàn toàn mà khoa học cho phép ta truy cập.
Khi nói chuyện với các nhà khoa học và triết học cởi mở, thì thì rõ ràng họ có một hiểu biết sâu sắc và khoa học và một sự công nhận về các giới hạn của kiến thức khoa học. Đồng thời có nhiều người, cả bên ngoài lẫn bên trong giới khoa học gia có vẻ tin rằng tất cả các khía cạnh của thực tại phải và sẽ rơi vào trong nội hàm của khoa học. Giả định này đôi khi được tạo ra, như là từ các tiến bộ xã hội, khoa học sẽ liên tục phát giác ra những sai lầm của các tín tưởng của chúng ta - đặc biệt là các tín ngưỡng - cho nên một xã hội thế tục giác ngộ có thể dần dần hình thành. Quan điểm này được chia sẻ bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng Marxist, mà tôi phát hiện ra khi quan hệ với các lãnh đạo Cộng Sản Trung Hoa trong thập niên 1950 và trong khoá học của tôi về tư tưởng chủ nghiã Marx[29]tại Tây Tạng. Trong quan điểm này, khoa học được hiểu như là việc làm phản bác nhiều luận điểm của tôn giáo, chẳng hạn như sự tồn tại của Thượng Đế, ơn trời, và linh hồn vĩnh cửu. Và trong khuôn khổ khái niệm này, mọi thứ vốn không được chứng minh hay khẳng định bởi khoa học đều bằng một cách nào đó hoặc là sai hoặc là không quan trọng. Những quan điểm như thế là các giả định triết học phản ảnh một cách hiệu lực các thành kiến siêu hình của người những lập luận của chúng. Tương tự như khi ta phải tránh chủ nghĩã giáo điều trong khoa học, thì chúng ta phải bảo đảm rằng tâm linh cũng không có cùng các giới hạn như vậy.
Khoa học đối diện với khía cạnh đó của thực tại và với kinh nghiệm nhân loại mà nó tự bổ xung bằng một phương pháp riêng biệt về sự truy cứu nhạy cảm với quan sát thực nghiệm, với định lượng và đo lường, với sự lập di lập lại, và với sự kiểm nghiệm chủ quan tương hỗ - tức là có nhiều hơn một người có khả năng lên tiếng "Vâng, tôi cũng chứng kiến cùng một sự kiện. Tôi nhận được cùng kết quả". Vậy nên, việc nghiên cứu khoa học chính thống bị giới hạn vào thế giới vật lý, bao gồm cơ thể người, các vật thể thiên văn, năng lượng có thể đo được, và cách thức mà các cấu trúc hoạt động. Những tìm tòi thực nghiệm được tiến hành theo cách này sẽ tạo thành cơ sở cho việc thử nghiệm xa hơn và cho các tổng quát hóa mà có thể được kết hợp vào nội dung rộng lớn hơn của tri kiến. Một cách hệ quả, đây là mẫu hình hiện tại của cơ cấu khoa học. Thật rõ ràng mẫu hình này không và không thể nghiên cứu hết tất cả mọi khiá cạnh của thực tại, đặc biệt là về bản chất của sự tồn tại con người. Cộng thêm vào thế giới khách quan vật chất mà khoa học là kẻ thám hiểm bậc thầy, còn có tồn tại thế giới chủ quan của các cảm giác, các xúc động, các tư tưởng, và các giá trị và ước vọng tinh thần dựa trên chúng. Nếu ta đối xử với thế giới này như là nghĩ rằng nó không có vai trò cấu thành trong sự hiểu biết về thực tại, thì ta đã đánh mất sự phong phú về sự tồn tại của chúng ta và hiểu biết của ta sẽ không thể nào toàn vẹn. Thực tế, bao gồm cả sự tồn tại của chính chúng ta, thì phức tạp hơn nhiều so với những điều mà chủ nghĩa duy vật khoa học khách quan cho phép.
Chú thích
↑ Carl Friedrich Freiherr von Weizsäcker (1912 - 2007) nhà vật lý và triết học Đức và là anh ruột của tổng thống Tây Đức Richard von Weizsäcker(1920--) Lĩnh vực nghiên cứu của ông là về Vật lý nguyên tử và hạt nhân. "Carl Friedrich von Weizsäcker". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
↑ Werner Heisenberg (1901 --1976) nhà vật lý lý thuyết người Đức ông nghiên cứu trong các lĩnh vự cơ học lượng tử, vật lý hạt nhân, lý thuyết trường lượng tử và vật lý các hạt. Ông được giải Nobel vật lý 1932. "Werner Heisenberg" Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
↑ Đây là một trong 4 nguyên lý của lập luận, (nguyên lý chứng minh hợp lý) trong Phật giáo. Xin xem thêm chi tiết trong dịch phẩm "Tứ Diệu Đế" phần Nghiệp và Thế Giới Tự Nhiên và Phụ Lục 2 Các Quán Chiếu Phật Giáo. Tải về tại: http://rongmotamhon.0fees.net/taive.htm
↑ Nghiệp (sa. karma), là thuật ngữ được dịch từ chữ karma tiếng Phạn. Karma được dịch ý là Nghiệp và cũng được phiên âm là Yết-ma, và đặc biệt có sự phân biệt giữa cách dùng. Một số giải thích chi tiết về nghiệp có thể tìm thấy ở nhiều phần trong dịch phẩm "Tứ Diệu Đế".
↑ Xem thêm chi tiết về phát biểu của phương pháp suy diễn này trong dịch phẩm "Tứ Diệu Đế", phụ lục 2 -- phần Sự Thật về Con Đường Diệt Khổ
↑ Bộ môn này trong Phật giáo được gọi là Nhân Minh Học. "Phật học Cơ Bản Tập 4 - GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NHÂN MINH HỌC PHẬT GIÁO". BuddhaSasana. Minh Chi.
↑ Trần-na (sa. (mahā-)dignāga, dināga), ~480-540, cũng được gọi theo tên dịch nghĩa là (Đại) Vực Long, là một Luận sư nổi tiếng của Duy thức tông (sa. vijñānavādin, yogācārin). Sư là người cải cách và phát triển ngành Nhân minh học (sa. hetuvidyā). "Trần-na". Wikipedia. Truy cập 2009.
↑ Tuy nhiên, việc phủ nhận một cách tuyệt đối các "thẩm quyền" trong khoa học có thể đã không xãy ra hoàn toàn. "Ứng dụng các Nguyên Lý Phật giáo vào Nghiên Cứu và Phát Triển trong Khoa Học". Làng Đậu. So sánh các ý tưởng khoa học trong lòng tin vào các luận điểm khoa học với ý trưởng lòng tin vào quyền năng kinh điển của Phật học. Thư Viện Hoa Sen. Truy cập 2009.
↑ Từ chữ "peer-viewed Journals" tức là các tạp chí đã được đọc qua và chấp thuận bởi các chuyên gia khác với tác giả trước khi đề tài đó được công bố.
↑ David Joseph Bohm (1917-1992) Nhà vật lý lượng tử Hoa Kỳ, Ông là người có đóng góp lớn vào các lãnh vực vật lý lý thuyết, triết học, và thần kinh học. "David Bohm". Wikipedia. Truy cập 2009.

↑ Chủ trương McCathy thuộc vào chiến tranh lạnh với Liên Xô; thời kỳ nghi ngờ và chống cộng mạnh mẽ tại Hoa Kỳ từ cuối thập niên 1940 cho đến cuối thập niên 1950. Bohm bị nghi ngờ vì trước đó ông có các hoạt động tham gia tổ chức Young Communist League (Liên Minh Cộng Sản Trẻ). "McCathyism". Wikipedia. Truy cập 2009.
↑ Đức Dalai Lama đề cập đến kết quả của các thí nghiệm cho thấy sự mâu thuẫn với các hiểu biết về vất lý đương thời. Einstein đã đề xuất thành tuyết tương đối hẹp vào năm 1905 giải thích được các kết quả này. "History of Special Relativity". Wikipedia. Truy cập 2009.
↑ Xem thêm chi tiết tính toán:
↑ Jiddu Krishnamurti (1895-1986) một tác giả và diễn giả nổi tiếng người Ấn về triết học và các đề tài tâm linh. Các chủ đề của ông bao gồm: mục tiêu của thiền định, các mối quan hệ con người, và làm thế nào để tạo ra biến đổi tốt trong xã hội toàn cầu. "Jiddu Krishnamurti". Wikipedia. Truy cập 2009.
↑ Thuật ngữ thường dùng trong Phật giáo là chứng ngộ hay chứng nghiệm
↑ Neutron là một hạt cấu trúc thành phần của hạt nhân (thành phần còn lại là proton) Khối lượng neutron hơi lớn hơn proton một ít. "Neutron". Wikipedia. Truy cập 2009.
Quark là loại hạt vật lý tổng quát tương tác qua 4 loại lực cơ bản (lực hạt nhân, lực điện từ, lực yếu và lực hấp dẫn) và tạo thành một trong hai cấu trúc cơ bản của vất chất (cấu trúc còn lại là lepton). Các quark có thể kết hợp theo những cách đặc biệt để tạo thành proton và neutron. "Quark". Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.
Gluon là hạt cơ bản làm cho các quark tương tác và gián tiếp tạo nên liên kết giữa các proton và neutron trong một nhân nguyên tử. "gluon". Wikipedia. Truy cập 2009.
↑ Sir Karl Popper ( 1902 - 1994) là một nhà triết học người Áo, người đề xuất các ý tưởng về một xã hội mở, một xã hội mà ở đó sự bất đồng chính kiến được chấp nhận và đó được xem như một tiền đề để tiến tới việc xây dựng một xã hội hoàn thiện. Ông cũng được xem như là người sáng lập Chủ nghĩa Duy lý phê phán. "Karl Popper". Wikipedia. Truy cập 2009.
↑ Kenley, Surrey là một thị trấn nhỏ thuộc phần mở rộng phía nam Luân Đôn, Anh quốc. "Kenley". Wikipedia. Truy cập 2009.
↑ Trước đây (trước 1 tháng Giêng 1996 tại Hoa Kì) thì người ta thường pha thêm một lượng nhỏ nguyên tố chì (Pb) -- trong dạng hợp chất tetra-ethyl chì -- vào trong xăng giảm trừ hiện tượng máy bi tự đánh lửa trong buồng máy (dựa trên các nghiên cứu của. A.H. Gibson và Harry Ricardo ở Anh và Thomas Midgley và Thomas Boyd ở Hoa Kỳ) Nhưng sau đó người ta tìm ra chì có khả năng gây hại cho sức khoẻ và môi trường nên dần dần đã bị cấm hẳn tại các nước phương Tây. Và người ta thay thế nó bởi các chất khác bao gồm aromatic hydrocarbons, ether, và rượu (thường là ethanol hay methanol)."Gasoline". Wikipedia. Truy cập 2009.
↑ Từ chữ "falsifiability". được hiểu là khả năng logíc để cho một khẳng định nào đó trở thành sai bởi một sự quan sát hay bởi một thí nghiệm vật lý. Nói rằng điều gì đó là khả phản bác không có nghiã là điều đó sai mà đúng hơn nó có nghĩa là nếu điều gì đó sai thì ta có thể chỉ ra được bởi quan sát hay thí nghiệm. Một điều mà Popper đi xa hơn là ông khẳng định rằng một lý thuyết là khoa hoc chỉ khi nó là khả phản bác. "Falsifiability". Wikipedia. Truy cập 2009.
↑ Từ chữ "acid-free". Giấy có độ acid trung tính hay kiềm (pH>=7) sẽ có độ bền cao hơn ít bị ngã màu vàng hơn theo thời gian hơn là giấy có độ acid cao (độ pH < 7).
↑ Tsongkhapa (Tibetan: ཙོང་ཁ་པ་; Wylie: Tsong-kha-pa) (1357 - 1419) còn được phiên âm là Tông Khách Ba, tên của ngài được dịch nghĩa là "Người từ thung lũng củ hành", là một đại sư nổi tiếng và là sơ tổ của tông phái Cách Lỗ (Geluk) một trường phái Phật giáo quan trọng nhất ở Tây Tạng. Ngài còn có Pháp danh là Lobsang Drakpa (Blo-bzang Grags-pa) hay đơn giản là "Je Rinpoche" (Rje Rin-po-che). "Tsongkhapa". Wikipedia. Truy cập 2009.
↑ Dịch nghĩa là Tâm thức và Đời sống, Hội nghị này do chính đức Dalai Lama khởi xướng với sự tham gia của nhiều nhà khoa học về các chuyên ngành khác nhau để tạo nhịp cầu đối thoại, tìm những ứng dụng thực tiễn, và bổ túc giữa khoa học và Phật học. Mind & Life Institute. Truy cập 2009.
↑ Francisco Javier Varela García (1946 - 2001) là nhà sinh học, triết học và thần kinh học. Ông cùng với người thầy là giáo sư Humberto Maturana đưa ra khái niệm tự sinh tồn (autopoiesis) trong sinh học. "Francisco Valera". Wikipedia. Truy cập 2009..
↑ Adam Engle là một luật sư, nhà kinh doanh và thầu khoán --Ông hoạt động trong cả hai lãnh vực bất vụ lợi và vụ lợi. Ông là người sáng lập Mind and Life Institute (học viện Tâm Thức và Đời Sống) năm 1990. The Science and Clinical Applications of Meditation. 2003. Mind and Life Instiute. Truy cập 2009..
↑ B. Alan Wallace (1950 - ) là tác giả, dịch giả, thông dịch viên, giáo chức, nhà nghiên cứu và Phật tử người Hoa Kỳ. Ông hoạt động nhiều trong những nghiên cứu về liên hệ giữa khoa học và các lĩnh vực ý thức. B. Alan Wallace. Truy cập 2009.
Thupten Jinpa (1958-) người gốc Tây Tạng là tiến sĩ triết học tại đại học Cambridge, ông là người thông dịch cho đức Dalai Lama từ 1985. Ông cũng là người hiệu đính và chuyển dịch nhiều sách Phật giáo Tây Tạng sang Anh ngữ. "Thupten Jinpa". Wikipedia. Truy cập 2009.
↑ Từ chữ "paradigm shift". Khái niệm này được định nghĩa lần đầu tiên bởi Thomas Kuhn. Xem thêm các minh họa về khái niệm dịch chuyển mẫu hình tại "Mẫu Hình". Wikipedia. Truy cập 2009..
↑ Một trường hợp khả dĩ của sự chủ quan này có thể tiềm ẩn trong dạng các tiên đề (trong toán học và trong vật lý lý thuyết) được công nhận không có chứng minh. Chẳng hạn, trong mô hình cơ học của Newton, thì tính chủ quan này đã xãy ra qua việc mặc nhiên công nhận thời gian trôi đều và hoàn toàn độc lập với không gian.
↑ Trong khi Lý thuyết tương đối đã loại bỏ điều này để đi đến một nền cơ học tương đối chính xác hơn.
Karl Heinrich Marx (thường được phiên âm là "Các Mác") (1818 -- 1883) là nhà tư tưởng, nhà kinh tế chính trị, nhà lãnh đạo cách mạng của Hiệp hội Người lao động Quốc tế. Marx được nhắc đến với nhiều chủ đề khác nhau, nhưng ông nổi tiếng nhất với những phân tích lịch sử dựa trên thuật ngữ đấu tranh giai cấp, được tổng kết lại trong những lời mở đầu cho Tuyên ngôn Đảng Cộng sản. "Karl Marx". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009.
Chương 3
Tính không, thuyết tương đối và vật lý lượng tử
Một trong những điều hấp dẫn nhất về khoa học là sự thay đổi hiểu biết của ta về thế giới được chiếu rọi bởi ánh sáng của những khám phá mới. Ngành vật lý vẫn đang đấu tranh với việc tiềm tàng một dịch chuyển mẫu hình mà nó trải qua như là kết quả của việc xuất hiện lý thuyết tương đối và cơ học lượng tử ở cuối thế kỉ 20. Các nhà khoa học cũng như triết học đã không ngớt sống với các mô hình mâu thuẫn nhau về thực tại - Mô hình Newton, thừa nhận về một vũ trụ cơ học và dư đoán được, trong khi lý thuyết tương đối và cơ học lượng tử thừa nhận về một vũ trụ hỗn độn hơn. Sự tiềm tàng của mô hình thứ nhì cho hiểu biết của chúng ta về thế giới chưa hoàn toàn rõ nét.
Thế giới quan của riêng tôi thì có nền tảng trong triết học và giáo pháp Phật giáo, được hình thành trong môi trường tri thức của Ấn Độ cổ đại. Tôi đã được học hỏi về triết học Ấn Độ cổ đại ở tuổi còn bé. Các thầy giáo của tôi lúc đó là nhiếp chánh của Tây Tạng là Tadrak Rinpoche và Ling Rinpoche[1]. Ngài Tadrak Rinpoche là người cao niên, rất được kính trọng và tương đối nghiêm khắc. Ling Rinpoche thì trẻ hơn nhiều;
ngài luôn luôn dịu ngọt, nói năng nhỏ nhẹ, và học sâu hiểu rộng, nhưng không phải là một người lắm lời (ít nhất khi tôi còn là đứa trẻ). Tôi còn nhớ mình rất kinh hãi mỗi khi có mặt của cả hai người. Tôi có nhiều người trợ giúp về triết lý để bàn luận về những điều được dạy dỗ. Trong đó có Trijang Rinpoche[2] và đại sư học giả nổi tiếng Ngodrup Tsoknyi. Khi ngài Tadrak Rinpoche mất, Ling Rinpoche trở thành người thái sư[3] bậc cao và Trijang Pinpoche được thăng cấp thành thái sư.
Hai người này vẫn còn là thái sư cho đến khi hoàn tất chương trình học vấn chính thức, và tôi tiếp tục nhận được nhiều di sản Phật giáo Tây Tạng của nhiều dòng truyền thừa khác nhau từ hai ngài. Họ là những người bạn thân nhưng lại có các cá tính rất khác nhau. Ling Rinpoche là một người rắn chắc với đầu trọc láng bóng, và mỗi khi ông cười thì toàn thân cũng rung theo. Ông có vóc dáng to lớn nhưng đôi mắt nhỏ. Trijang Rinpoche là người cao gầy với có dáng khoan thai và thanh lịch với mũi cao nhọn so với người Tây Tạng. Ông ta rất hoà nhã và chất giọng sâu lắng, đặc biệt nhiều nhạc tính khi ông ấy tụng kinh. Ling Rinpoche là một triết gia sâu sắc với một tâm thức luận lý[4] nhạy bén và là một biệt tài hùng biện với trí nhớ truyệt vời. Trijang Rinpoche là một trong những nhà thơ vỹ đại với một khả năng chiết trung[5] thành thạo về nghệ thuật và văn chương thời bấy giờ. Nói về khí chất và các năng khiếu của tôi thì tôi cho rằng mình gần gũi với Ling Rinpoche hơn bất kỳ người thái sư nào. Có lẽ công bằng mà nói thì ngài Ling Rinpoche đã có ảnh hưởng nhiều nhất lên cuộc đời tôi.
Khi bắt đầu học nhiều giáo pháp khác nhau của các trường phái Ấn Độ cổ đại, thì tôi đã không có cách để liên hệ được chúng với bất kỳ khía cạnh nào của kinh nghiệm bản thân. Chẳng hạn, thuyết nhân quả của trường phái Sākhya[6] cho rằng một hậu quả bất kỳ đều là một sự biểu thị của một phần đã có sẵn bên trong của nguyên nhân; thuyết của phái Vaiśeṣika[7] về vũ trụ đề xướng rằng sự đa dạng của một lớp các vật thể bất kỳ có tính chất tổng quát lý tưởng thường hằng là nó phụ thuộc vào tất cả các tính chất đặc thù của nó. Đã có các luận diểm hữu thần Ấn Độ chứng minh sự tồn tại của đấng Tạo Hoá và các luận điểm bài bác của Phật giáo mô tả điều ngược lại. Thêm vào đó tôi phải học nhiều điểm phức tạp khác nhau trong các giáo pháp của nhiều trường phái Phật giáo. Chúng thật quá bí hiểm để trực tiếp phù hợp cho một cậu bé mười mấy tuổi đầu mà sự ham thích của cậu ta chỉ đặt nhiều hơn vào tháo và lắp các đồng hồ, hay là các xe hơi và nghiền ngẫm các bức hình về Thế Chiến thứ II trong những tập sách và các ấn bản của tạp chí Life. Thật ra, khi Babu Tashi tháo rời và rửa chiếc máy phát điện thì tôi đứng đó để phụ giúp. Tôi thật vui thú với tiến trình này đến nổi hay quên các buổi học và ngay cả các bữa ăn. Khi những người trợ giúp triết học đến để giúp tôi ôn tập, thì tâm trí tôi lại miên man về máy phát điện và nhiều bộ phận của nó.
Nhưng mọi thứ thay đổi khi tôi lên 16. Các sự kiện chuyển biến nhanh chóng, quan đội Trung Quốc tiến đến biên giới Tây Tạng vào muà hè năm 1950, ngài nhiếp chánh, Tadrak Rinpoche cho rằng thời điểm để tôi nắm lấy toàn quyền lãnh đạo của quốc gia đã đến. Có lẽ việc đó đã đánh mất tuổi thanh xuân, trói buộc tôi bằng thực tế đen tối của cuộc khủng hoảng đang bắt đầu xảy ra, khiến tôi hiểu rõ được giá trị của việc giáo dục [ở đây là việc giảng dạy về các triết thuyết cụ thể của Phật giáo đến giai đoạn này được tác giả áp dụng vào thực tế]. Dù với nguyên nhân nào đi nữa, thì ở lứa tuổi 16 hoạt động học tập của tôi về triết học, tâm lý học, và thần học đã tạo được sự khác biệt về chất lượng. Tôi không những đã dồn hết tâm sức để đảm bảo việc học tập chúng mà còn liên hệ được nhiều khiá cạnh của sự học này với hiểu biết của chính tôi về cuộc sống và những sự kiện của thế giới bên ngoài.

Khi tôi bắt đầu đào sâu vào việc học tập, quán chiếu, và thiền định về các tư tưởng và thực hành Phật giáo, thì việc đương đầu của Tây Tạng với các lực lượng Trung Quốc trong lãnh thổ - nhằm thử dàn xếp để đem đến sự thoả thuận chính trị cho cả hai - đã trở nên ngày càng phức tạp. Cuối cùng ngay sau khi tôi kết thúc chương trình học chính thức và ngồi trước sự hiện diện của hàng ngàn tăng sĩ trong kỳ sát hạch Geshe[8] tại vùng đất thánh thành phố Lhasa đã là một sự kiện đánh dấu đỉnh cao về các nghiên cứu hàn lâm chính thức và cho đến hôm nay sự kiện này vẫn là một nguồn vui lớn của tôi, thì cuộc khủng hoảng ở trung tâm Tây Tạng buộc tôi lánh khỏi quê nhà sang Ấn Độ, để dấn thân vào cuộc đời tị nạn không quốc tịch. Điều này vẫn còn là tình trạng hợp lệ của tôi. Nhưng mất quyền công dân ở quê hương, tôi tìm thấy một ý nghĩa lớn hơn, có thể nói một cách chân thành rằng tôi là một công dân của thế giới.
Một trong những tuệ giác[9] quan trọng nhất trong Phật giáo đến từ điều được biết như là thuyết lý về tính Không[10]. Trọng tâm của giáo thuyết này là sự công nhận sấu sắc rằng có một khác biệt nền tảng giữa cách mà ta nhận thức về thế giới, bao gồm cả sự tồn của chúng ta trong đó với cách mà sự vật thực sự có; trong kinh nghiệm hằng ngày, ta có xu hướng liên hệ đến thế giới và đến chính mình như là các thực thể chiếm hữu một thực tại tự tồn, định danh được, tách biệt, và lâu bền. Chẳng hạn, nếu ta thẩm tra tri kiến của chính mình về bản ngã, sẽ thấy rằng ta có xu hướng tin vào sự có mặt của một trung tâm cốt yếu cho con người chúng ta mà nó đặc trưng cho cá nhân và nhận diện như là một cái tôi riêng biệt, độc lập với các thành tố tinh thần và thể chất đã cấu trúc nên sự tồn tại của ta. Thuyết lý về tính Không phát hiện ra điều này chẳng những là một sai sót nền tảng mà còn là cơ sở cho tham ái, bám chấp, và là sự phát triển của nhiều loại thành kiến của ta.
Theo lý thuyết về tính Không, thì một lòng tin bất kỳ vào một thực tế khách quan có nền tảng dựa trên một giả định về sự tồn tại bản chất độc lập thì sẽ không hợp lý lẽ. Tất cả sự vật và hiện tượng, bất kể là vật chất, tinh thần hay các khái niệm trườu tượng như là thời gian, đều thiếu vắng tính tồn tại khách thể độc lập. Để có được sự tồn tại độc lập, bản chất như thế sẽ phải ngụ ý rằng những sự vật và hiện tượng đó tự chúng bằng cách nào đó đầy đủ và do đó hoàn toàn tự nội tại[11]. Điều này có nghĩa là không sự vật gì có khả năng tương tác và gây được ảnh hưởng lên các hiện tượng khác. Nhưng ta biết rằng có nhân và quả[12]- Vặn chìa khoá khởi động, bu-gi đánh lửa, máy nổ, động cơ chuyển vận, xăng và nhớt được đốt. Trong một vũ trụ của các sự vật tự nội tại, tồn tại một cách tự tính[13], thì những sự kiện như thế không thể xảy ra. Tôi sẽ không thể viết lên giấy, và bạn sẽ không thể nào đọc những chữ trên trang giấy này. Nhưng bởi vì chúng ta tương tác và thay đổi lẫn nhau, nên ta phải thừa nhận rằng ta không độc lập mặc dù ta có thể cảm thấy hay trực giác rằng chúng ta có sự độc lập.
Một trong các hệ quả là quan điểm về sự tồn tại độc lập tự tính thì không phù hợp với luật nhân quả. Lý do là vì luật nhân quả bao hàm khả năng xảy đến và sự phụ thuộc, trong khi vật bất kỳ nào có đặc tính tồn tại độc lập thì bất khả biến và tự đóng kín. Mọi vật đều là sự hợp thành của các sự kiện quan hệ một cách phụ thuộc, của các hiện tượng tương tác nhau một cách liên tục với bản chất không thường hằng không có xếp đặt từ trước, mà những hiện tượng đó tự chúng cũng nằm trong các mối tương quan động thường biến. Các sự vật và hiện tượng đều là "Không" trong ý nghĩa là chúng không có bản chất bất khả biến, không có thực chất tự tính, hay không là một "thực thể" tuyệt đối có khả năng độc lập. Chân lý nền tảng này về "cách mà sự vật thật sự có" được mô tả trong kinh văn Phật giáo là "tính Không" hay śūnya trong Phạn ngữ.
Trong quan điểm thông dụng hay ngây thơ của mình, chúng ta liên hệ đến sự vật và sự kiện như là chúng có một thực tại tự tính lâu bền. Ta có xu hướng tin rằng thế giới này được làm ra từ những sự vật và hiện tượng mà mỗi phần tử trong chúng đều có một thực tại độc lập tách biệt cho tự chính nó và những sự vật thế này tương tác với sự vật khác bằng một sự độc lập và những đặc trưng tách biệt. Chúng ta tin rằng những hạt giống thực một cách tự tính sẽ sản sinh những vụ mùa thực ở một thời điểm thực và tại một nơi thật sự và các yếu tố này đều có mặt một cách tự tính. Mỗi thành viên trong mối quan hệ nhân quả này - tức là hạt giống, thời gian, nơi chốn và hậu quả - được ta gán cho trạng thái bản thể rắn chắc. Quan điểm về một thế giới như là được làm từ các đối tượng rắn chắc và các đặc tính tự tính còn được cũng cố thêm bởi ngôn ngữ của chúng ta về các chủ ngữ và vị ngữ mà được cấu trúc một mặt bởi các danh từ và tính từ mang tính chất tồn tại độc lập và mặt khác bởi các động từ chủ động. Nhưng mọi vật được cấu thành bởi các bộ phận - một người thì bao gồm cả hai: thân lẫn tâm. Xa hơn nữa, mỗi đặc trưng của các sự vật còn tùy thuộc vào nhiều nhân tố, chẳng hạn như là các tên mà ta gán cho chúng, các chức năng, và các khái niệm mà ta có về chúng.
Mặc dù đuợc đặt nền móng bởi sự phiên dịch của các kinh điển cổ, mà được cho là từ đức Phật lịch sử[14], thì lý thuyết tính Không này đã được chú giải lần đầu tiên một cách hệ thống bởi luận sư vỹ đại Long Thụ[15] (thế kỉ thứ 2). Người ta biết không nhiều về đời sống cá nhân, ngài đến từ miền Nam Ấn Độ - và chỉ sau đức Phật - Ngài là hình ảnh quan trọng nhất cho việc lý giải về Phật giáo tại Ấn Độ. Các nhà sử học cho rằng ngài có công trong sự hình thành của trường phái Trung Đạo[16] của Phật giáo Đại thừa mà vẫn còn là trường phái chiếm ưu thế tại Tây Tạng cho đến ngày nay. Tác phẩm triết học gây ảnh hưởng nhiều nhất của ngài là Căn Bản Trung Quán Luận mà vẫn còn được tiếp tục học thuộc lòng, nghiên cứu và luận bàn trong các đại học Phật giáo ở Tây Tạng.
Tôi đã dành nhiều thì giờ nghiên cứu chi tiết về các vấn đề được nêu lên trong bản luận này đồng thời thảo luận với các thầy giáo và đồng môn. Vào thập niên 1960, trong suốt thập niên đầu trong cuộc đời tị nạn tại Ấn, tôi đã có thể đào bới một cách sâu sắc và rất cá nhân vào thuyết lý tính Không. Không như ngày nay, hồi đó tôi được nghĩ ngơi một cách hợp lý, chỉ với một ít hoạt động chính quy, tôi vẫn chưa bắt đầu đi chu du thế giới, một quá trình mà giờ đây chiếm phần chính thời gian của tôi. Trong suốt thập kỷ trước, tôi đã có nhiều cơ hội sử dụng hàng giờ với các thầy giáo riêng, mà cả hai đều là những chuyên gia trong các thực hành triết học và thiền định về tính Không.
Tôi cũng có được các giảng huấn từ một học giả Tây Tạng khiêm tốn nhưng tài ba tên là Nyima Gyalsen[17]. Một cách trìu mến được biết đến đưới tên Gen Nyima, ngài là một trong những người hiếm hoi với tài biểu thị một cách mạch lạc các tuệ giác thâm sâu bằng những thuật ngữ mà hầu như có thể truy cập tới được. Ông ấy hơi hói và đeo một đôi kính mát tròn và to. Mắt phải của ngài bị chứng co giật khiến phải nháy thường xuyên. Nhưng năng lực tập trung tinh thần đặc biệt khi theo dõi một chuỗi dài các ý tưởng và đào bới sâu vào một điểm của ông thì thật đáng kinh ngạc - quả là một huyền thoại. Ông ta có thể trở nên rành mạch hoàn toàn với những gì xảy ra ở xung quanh một khi mà ông ở một trong các trạng thái này. Thật sự thuyết lý tính Không đã là chuyên môn đặc biệt của Gen Nyima khiến những giờ trao đổi của tôi với ngài tất cả trở nên đích đáng hơn.
Một trong những điều đặc biệt và sôi nổi nhất về vật lý hiện đại là cách mà thế giới vi mô của cơ học lượng tử thách thức hiểu biết chung của chúng ta. Những dữ kiện về lưỡng tính sóng-hạt của ánh sáng và về nguyên lý bất định[18] phát biểu rằng ta không thể nào xác định được cùng lúc trạng thái chuyển động và vị trí của nó, và về khái niệm của sự chồng chập lượng tử[19]; tất cả nói lên một cách hiểu hoàn toàn khác về thế giới so với vật lý cổ điển cho rằng các vật thể hoạt động trong một cách thức xác lập và dự đoán được. Chẳng hạn, trong thí dụ nổi tiếng về chú mèo của Schrödinger[20], trong đó, chú mèo được đặt trong một hộp có nguồn phóng xạ mà có đến 50% cơ hội để thoát ra độc tố gây tử vong, ta buộc phải chấp nhận rằng, cho đến khi nắp hộp được mở ra, thì chú mèo vừa sống và vừa chết, điều này dường như không tuân theo luật mâu thuẫn.
Đối với một Phật tử Đại thừa được giàn trải tư tưởng của thánh giả Long Thụ, có một sự cộng hưởng không thể sai lầm giữa khái niệm tính Không và vật lý mới. Nếu trong cấp độ lượng tử, vật chất tỏ ra ít rắn chắc và khó xác định hơn như là sự trình hiện của chúng, thì dường như, đối với tôi, khoa học đang tiến gần hơn đến với các tuệ giác Phật giáo về tính Không và sự tương thuộc lẫn nhau. Ở một hội nghị tại New Delhi, tôi đã có lần được nghe Raja Ramanan[21], một nhà vật lý được sánh như là Sakharov[22] của Ấn Độ, đã mô tả sự song hành giữa thuyết lý tính Không của Long Thụ với cơ học lượng tử. Qua nhiều năm, sau khi được tiếp chuyện với nhiều nhà khoa học bạn bè, tôi cho rằng những phát kiến to lớn kể từ thời Copernicus[23] đã đem lại một thấu hiểu rõ ràng là thực tại thì không giống như trình hiện của nó trước mắt ta. Khi đặt thế giới dưới một góc nhìn nghiêm túc của việc khảo sát - tức là dùng phương pháp và thí nghiệm khoa học hay phân tích luận lý về tính Không hoặc phương pháp phân tích thiền định (thiền quán -ND) - người ta có thể thấy được các sự vật ở mức vi tế hơn, và ngay cả trong một số trường hợp thấy được mâu thuẫn với các giả định của quan niệm thông thường về thế giới của chúng ta.
Ngoài việc miêu tả không đúng thực tại, người ta có thể hỏi thêm gì về các sai sót khi tin vào việc tồn tại độc lập tự tính của sự vật? Đối với ngài Long Thụ, niềm tin này có những hậu quả tiêu cực nghiêm trọng. Long Thụ luận rằng niềm tin vào sự tồn tại tự tính chứa đựng cơ sở chức năng sai lạc có tính tự ngã trường cửu trong các tiếp giao của ta với thế giới và với những chúng sinh đồng loại. Khi đối xử với các đặc tính tự tính hấp dẫn, thì ta phản ứng đến các đối tượng và sự vật với sự luyến ái lừa dối, trong khi đó, lúc đối với các đặc tính tự tính khó ưa thì ta lại phản ứng ghét bỏ. Nói cách khác, Long Thụ biện minh rằng việc bám chấp vào tính tồn tại độc lập của sự vật dẫn tới phiền não, mà theo đó, sẽ khởi tiếp một chuỗi các hành vi phản ứng hủy hoại và đau khổ. Trong phân tích sau cùng, theo Long Thụ, thuyết lý về tính Không không phải chỉ là vấn đề hiểu biết khái niệm về thực tại. Nó dính líu chặt chẽ với đạo đức và tâm lý một cách sâu sắc.
Có lần tôi hỏi người bằng hữu, nhà vật lý David Bohm, câu hỏi rằng trong quan điểm khoa học hiện đại, ngoài vấn đề miêu tả sai lạc, thì điều điều gì sai trái khi tin vào sự tồn tại độc lập của các sự vật? Câu trả lời của ông ấy rất đích đáng. Ông ta bảo rằng nếu ta kiểm điểm lại những hệ tư tưởng vốn có xu hướng phân chia nhân loại như là chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa quốc gia quá khích, và tầng lớp đấu tranh chủ nghĩa Mác, thì một trong những nhân tố chính yếu từ trong cội nguồn của các chủ trương đó là chiều hướng nhận thức các sự vật bị chia biệt và rời rạc một cách tự tính. Từ nhận thức sai lầm này, kích khởi lên lòng tin rằng mỗi thành phần trong trong các sự phân chia đó là độc lập một cách bản chất và tự tồn. Trả lời của ngài Bohm, người có nhân thân trong hoạt động về vật lý lượng tử, đã lập lại một mối quan tâm đạo đức về việc chứa chấp các tín điều mà ngài Long Thụ đã lo ngại nêu ra trước đó gần 2000 năm. Nói một cách nghiêm túc, cho là khoa học không có trách nhiệm với những vấn đề các đạo đức và các phán xét đánh giá; sự thật là khoa học, một nổ lực của nhân loại, vẫn phải liên hệ tới câu hỏi cơ bản về sự hoàn thiện của con người. Vậy nên, trong một ý nghĩa nào đó thì không có gì đáng ngạc nhiên về câu trả lời của Bohm. Tôi ước có thêm nhiều khoa học gia đồng ý với suy nghĩ của ông ấy về mối liên hệ lẫn nhau giữa khoa học với các khuôn khổ nhận thức và tính nhân bản.
Theo tôi biết thì khoa học hiện đại đã đối mặt với một cuộc khủng hoảng trong đầu thế kỉ thứ 20. Công trình vỹ đại về vật lý cổ điển được dựng lên bởi Isaac Newton, James Maxwell[24] và nhiều nhà khoa học khác đã cung ứng các giải thích dường như rất hiệu quả về những thực tại được nhận thấy về thế giới và các giải thích đó khế hợp với các ý tưởng thông thường. Công trình đó đã bị làm suy yếu bởi việc phát hiện ra thuyết tương đối và bởi ứng hoạt kỳ lạ của vật chất cấp mức độ nhỏ hơn nguyên tử [hạ nguyên tử], mà đã được tìm hiểu trong vật lý lượng tử. Như Carl von Weizsäcker có lần giải thích với tôi rằng vật lý cổ điển chấp nhận một thế giới quan cơ giới trong đó các luật vật lý phổ dụng chắc chắn bao gồm trọng lực và các định luật cơ học, đã xác lập một cách hiệu quả mô hình của các hành vi tự nhiên. Trong mô hình này, có bốn thực tại khách quan - là các vật thể, các lực, không gian và thời gian - và luôn luôn có một sự khác nhau rõ ràng giữa các đối tượng được biết và chủ thể là người nhận biết. Nhưng trong thuyết tương đối và cơ học lượng tử, theo von Weizsäcker, thì ta phải từ bỏ vấn đề có tính nguyên lý là sự biệt lập giữa chủ thể và đối tượng, và từ bỏ tất cả những chắc chắn của ta về khả năng khách quan của các dữ kiện thực nghiệm. Dẫu sao - và đây là điều mà von Weizsäcker xác quyết: những khái niệm duy nhất mà ta có cho việc mô tả cơ lượng tử và các thí nghiệm để kiểm nhận bức tranh mới của nó [cơ lương tử] về thực tại lại là những thứ thuộc về vật lý cổ điển [là bộ môn] vốn đã bị lượng tử lý thuyết bác bỏ. Mặc dù với các vấn đề này, von Weizsäcker luận rằng chúng ta cần liên tục tìm kiếm về sự gắn kết nhau trong tự nhiên và về sự hiểu biết của thực tại, của khoa học, và của chỗ đứng của nhân loại mà chúng đúng đắn hơn theo kiến thức khoa học mới nhất.
Dưới ánh sáng của các phát kiến khoa học, tôi cảm thấy rằng Phật giáo cũng phải quyết tâm thích ứng với vật lý cơ bản về các lý thuyết "nguyên tử" của nó, bất kể thẩm quyền được xác lập từ lâu của chúng trong truyền thống Phật giáo. Chẳng hạn, học thuyết cổ sơ Phật giáo về "nguyên tử" chưa bao giờ trải qua một sự tu chỉnh lớn nào, đã đề xuất rằng vật chất thì được cấu trúc bởi một tập hợp của bộ tám "nguyên tử" căn bản: đất, nước, lửa, và gió; tạo thành tứ đại và sắc, hương, vị, và xúc[25] được gọi là bốn dẫn xuất căn bản. Đất có tính rắn đặc, nước có tính kết dính uyển chuyển, lửa có tính năng lực, và gió có tính năng động. Một "nguyên tử" thấy được như là tổ hợp của tám yếu tố căn bản, và đựa trên cơ sở của sự kết hợp[26] của các "nguyên tử" thành phần, mà sự tồn tại của các đối thể trong thế giới vi mô được giải thích. Theo một trường phái Phật giáo cổ nhất là Tì-bà-sa Luận[27] thì những "nguyên tử" căn bản riêng lẽ là các cấu trúc nhỏ nhất của vật chất, không phân chia được (bất khả phân) và do đó không có các bộ phận. Khi các "nguyên tử" như thế kết hợp để hình thành các đối thể, thì những người theo phái Tì-bà-sa khẳng định rằng các "nguyên tử" riêng lẽ không hề chạm nhau. Sự hỗ trợ của thành tố gió và các lực lượng khác trong tự nhiên giúp cho các thành tố cấu trúc được kết hợp thành một hệ thống hơn là việc sụp đổ vào bên trong hay giản nở vô hạn định.
Sẽ bằng thừa nếu nói rằng những lý thuyết như vậy phải được phát triển thông qua sự tranh luận kịch liệt với các trường phái triết học Ấn khác, đặc biệt là các hệ thống lập luận của Nyaya[28] và Vaisheshika. Nếu kiểm nghiệm lại các văn liệu triết học Ấn từ thời cổ, thì người ta sẽ cảm nhận được một nền văn hóa giàu tính tranh luận, bàn bạc, và đối thoại giữa những người theo đuổi các trường phái và hệ thống khác nhau.
Các trường phái cổ Ấn này - như là Phật giáo, Nyaya, Vaisheshika, Mimamsa, Samkhya, và Aidvaidavadanta[29] - cùng chia sẻ các lợi lạc và phương pháp của sự phân tích. Loại tranh luận kịch liệt này giữa các trường phái tư tưởng đã là nhân tố chính trong sự phát triển của tri kiến và tinh lọc các ý tưởng triết học, từ thời Phật giáo cổ Ấn đến trung cổ và thời Tây Tạng hiện đại.
Những nguồn giáo pháp cổ xưa nhất được biết đến về lý thuyết "nguyên tử" của phái Tì-bà-sa có thể từ tác phẩm A-tỳ-đàm Tâm Luận của ngài Dharmaśrī và tác phẩm được tôn vinh Đại-tì-bà-sa luận[30]. Tác phẩm đầu được các nhà nghiên cứu hiện nay cho là có mặt vào khoảng thế kỉ thứ 2 trước Tây lịch và thế kỉ thứ 1. Mặc dù nó chưa bao giờ được dịch sang Tạng ngữ, tôi đã được cho biết rằng bản Hán ngữ đã được tạo ra vào thế kỉ thứ 3. Bài luận của ngài Pháp Thắng thể hiện một nổ lực tinh tế nhằm hệ thống hoá các quan điểm tinh yếu của triết lý Phật giáo trước đó, khá nhiều ý tưởng cơ sở của nó chắc chắn đã có mặt một thời gian trước khi bài luận đó được soạn thảo. Ngược lại, tập Đại-tì-bà-sa luận là một bài thuyết giảng được soạn thảo vào khoảng giữa thế kỉ thứ nhất và thứ ba sau Tây lịch thiết lập các giáo lý của một trường phái Phật giáo đặc biệt như là giáo pháp chính thống và trả lời cho nhiều phản bác khác nhau chống lại các giáo lý này bằng cách đưa ra một nền tảng lập luận triết lý. Mặc dù các luận điểm của Đại-tì-bà-sa luận rất quen thuộc với Phật giáo Tây Tạng, thì tác phẩm này tự nó cũng chưa hề thực sự được chuyển dịch đầy đủ sang Tạng ngữ.
Trên cơ sở của hai luận văn này, đặc biệt là bản Đại-tì-bà-sa, thì Thế Thân, một đại sư triết học nhiều uy tín người Ấn, đã soạn tác phẩm A-tì-đàm-câu-xá Luận trong thế kỉ thứ tư[31]. Tác phẩm này tổng kết các điểm tinh yếu của Đại-tì-bà-sa luận đưa chúng ra để phân tích xa hơn. Nó đã trở thành việc làm chuẩn mực cho ngành tâm lý học và triết học.
Phật giáo cổ sơ tại Tây Tạng; thí dụ, khi còn là một tu sĩ trẻ, tôi phải học thuộc lòng chính văn của bài luận này.
Như là sự hợp thành của các "nguyên tử" và mối quan hệ tương hỗ giữa các "nguyên tử" với những đặc tính cấu trúc của chúng, Phật giáo cổ sơ đã sản sinh ra tất cả các loại lý thuyết suy diễn. Điểm lý thú là A-tì-đàm-câu-xá thậm chí còn bàn thảo về kích thước vật lý của các "nguyên tử" khác nhau. Hạt tử tuyệt đối nhỏ nhất được tả là khoảng 1 phần 2.400 lần cở của một "nguyên tử" của con thỏ, theo một ý nghĩa nào đó. Tôi không biết bằng cách nào ngài Thế Thân tính ra được như vậy!
Trong khi chấp nhận thuyết nguyên tử, các trường phái Phật giáo khác đã đặt nghi vấn về quan điểm các nguyên tử không chia được. Mốt số còn truy cứu đến điều cho rằng bốn yếu tố sắc, hương, vị, và xúc như là một cơ sở cấu thành vật chất. Chẳng hạn, Thế Thân đã nổi tiếng vì việc ngài tự mình chỉ trích quan điểm về những nguyên tử thực tại khách quan không chia được. Ngài phản bác rằng, nếu các nguyên tử độc lập bất khả phân tồn tại, thì không thể nào có được sự hình thành của các vật thể trong thế giới thường ngày. Để các vật thể như thế được hình thành, phải có một cách giải thích phương thức mà các nguyên tử đơn giản liên kết nhau trong các hệ thống phức hợp.

Nếu một sự kết hợp như thế xảy ra, như là nó phải có, thì hãy mường tượng một nguyên tử đơn lẽ được vây quanh bởi 6 nguyên tử khác, mỗi nguyên tử phân bố theo các hướng chính và một phía trên, một phía dưới. Sau đó, ta có thể đặt nghi vấn là: Phải chăng cùng một bộ phận của nguyên tử ở trung tâm giao tiếp với nguyên tử ở phía đông và đồng thời giao tiếp với nguyên tử ở phía bắc? Nếu không thì nguyên tử ở trung tâm phải có nhiều hơn 1 bộ phận và do đó ít nhất trên nguyên tắc phải chia cắt được. Nguyên tử ở giữa phải có một bộ phận giao tiếp nguyên tử ở phía đông nhưng không giao tiếp với nguyên tử ở phía bắc. Nếu ngược lại, phần phía đông này không giao tiếp với nguyên tử ở phía bắc, thì cũng không có gì ngăn cản phần đó giao tiếp với các nguyên tử trong tất cả các hướng khác. Trong trường hợp như vậy, Thế Thân tranh luận rằng, các vị trí không gian của tất cả bảy nguyên tử - một ở giữa và 6 xung quanh - sẽ là một, và do đó tất cả sẽ sụp đổ vào trong một nguyên tử đơn nhất. Như là kết quả của thí nghiệm suy tưởng này, ngài Thế Thân phản bác rằng không thể nào có các vật thể của thế giới vi mô trong ý nghĩa của sự kết hợp vật chất đơn thuần như là các nguyên tử không phân chia được.
Một cách cá nhân thì tôi không thể nào hiểu ý nghĩ cho rằng các phẩm chất như hương, vị, và xúc là cơ sở cấu thành của các vật thể vật chất. Tôi có thể thấy được cách thức mà người ta phát triển một lý thuyết nguyên tử liên kết của vật chất trên cơ sở của bốn thành tố như là các cấu trúc. Trong mọi trường hợp thì tôi cảm thấy rằng phương diện tư tưởng Phật giáo này, chủ yếu là một dạng của vật lý sơ đẳng, suy diễn, giờ đây phải được điều chỉnh dưới ánh sáng của vật lý hiện đại mà đã được chi tiết hóa và được kiểm tra việc hiểu biết về cơ sở các cấu trúc của vật chất một cách có thử nghiệm trong khuôn khổ của các hạt vật lý như là các hạt điện tử quay quanh một hạt nhân với dương điện tử và trung hoà tử[32]. Khi người ta nghe nói về các mô tả về các hạt hạ nguyên tử, như là quark và lepton[33] trong vật lý hiện đại, thì đó là bằng chứng rằng các lý truyết nguyên tử Phật giáo cổ xưa và nhận thức của chúng về các hạt vật chất nhỏ nhất bất khả phân quá lắm chỉ là những mô hình thô thiển. Mặc dù vậy, điểm nhấn mạnh cơ bản của các luận sư Phật giáo cho là ngay cả với những cấu trúc tinh vi nhất của vật chất đều phải được hiểu dưới dạng của các thành phần kết hợp có vẻ đã đi đúng đường.
Một trong những động lực cơ bản đứng sau việc truy cứu về triết lý và khoa học lên các cấu trúc cơ sở của vật chất là để tìm ra viên gạch xây dựng không thể rút nhỏ hơn được. Điều này không chỉ đúng trong triết học cổ Ấn độ và vật lý hiện đại mà cả với các nhà khoa học cổ Hy Lạp, chẳng hạn như các lý thuyết gia chủ trương "nguyên tử". Một cách chính xác, thì đây là cuộc truy lùng vào bản chất tối hậu của thực tại, dù rằng còn tùy theo cách định nghĩa. Tư tưởng Phật giáo luận đàm trên các nền tảng lô-gíc rằng cuộc truy tìm này là bị lạc lối. Đã có một thời, khoa học tin vào việc tìm ra nguyên tử là đã tìm thấy được cấu trúc tối hậu của vật chất; nhưng các thí nghiệm vật lý thế kỉ thứ 20 đã phân chia được nguyên tử thành các hạt vi tế hơn. Mặc dù ít ra có một quan điểm trong cơ học lượng tử cho rằng ta sẽ không bao giờ tìm được hạt không thể rút nhỏ hơn thực sự một cách khách quan, thì nhiều nhà khoa học vẫn sống trong niềm hy vọng về sự phát hiện của bộ môn này.
Trong mùa hè 1998, Tôi có viếng thăm phòng thí nghiệm của nhà vật lý người Áo Anton Zeilinger tại đại học Innsbruck[34]. Anton hướng dẫn tôi dùng thiết bị cho phép người ta quan sát một nguyên tử riêng lẽ được ion hóa. Tôi đã cố thử hết khả năng nhưng vẫn không thấy nổi nó. Có lẽ duyên nghiệp của tôi không đủ chín mùi để được hưởng hình ảnh tuyệt vời này. Tôi gặp Anton lần đầu tiên khi mà ông ta tham dự hội nghị Life and Mind[35] tại Dharamsala vào năm 1997. Bằng một cách nào đó thì trái ngược với David Bohm, ông ta to lớn với râu quai nón và mang kiếng, có tài hài hước, và tiếng cười rung cả toàn thân. Là một nhà vật lý thực nghiệm, ông ta cởi mở một cách đáng ghi nhận đối với mọi cải cách của các đề tài lý thuyết dưới ánh sáng của các kết quả thực nghiệm mới nhất. Ông ta hứng thú đối thoại với Phật giáo trong việc so sánh các lý thuyết của tri thức - vật lý lượng tử và Phật giáo - bởi vì ông ta thấy rằng cả hai đều loại bỏ bất kỳ ý niệm nào về một thực tại khách quan độc lập.
Cũng trong lần đó, tôi đã gặp nhà vật lý Hoa kỳ Athur Zajonc[36]; một người nói năng nhỏ nhẹ và có cặp mắt sắc xảo, đặc biệt khi ông ta chăm chú mạnh vào một điểm; là một giáo viên thiên tài với khả năng làm cho ngay cả một đề tài phức tạp nhất trở nên rõ ràng. Trong vai trò giới thiệu, Athur tổng kết và tóm tắt các bàn thảo một cách thật súc tích khiến chúng trở nên rất hữu dụng cho tôi.
Nhiều năm trước đó, tôi đã có may mắn được đến thăm học viện Niels Bohr[37] ở Copenhagen [thủ đô Đan Mạch] để tham dự một cuộc đàm thoại không chính thức. Vài ngày trước chuyến viếng thăm, trong khi đang ở tạm tại Luân-đôn, tôi có bữa ăn trưa với David Bohm và vợ ông ta tại khách sạn mà tôi trú. Do có thông báo với ông ta rằng tôi sẽ tham dự cuộc đối thoại về triết học vật lý và Phật giáo tại học viện Bohr, nên Bohm đã nhiệt tình đem đến cho tôi hai trang tổng kết của chính ngài Bohr về các quan điểm triết học đối với bản chất của thực tại. Thật là tuyệt vời khi nghe Bohm kể về mô hình hành tinh Bohr của nguyên tử và mô hình nguyên tử của Rutherford[38] như là một hạt nhân với các điện tử xoay quanh, cả hai đều nhắm phản ứng lại mô hình "plum pudding" [giống như chè thạch - mận].
Mô hình plum pudding đã hình thành từ cuối thế kỉ 19 sau khi J.J. Thomson[39] phát hiện các điện tử tích điện âm; và mô hình đó cho rằng lượng điện tích dương cân bằng với lượng điện tích âm của các điện tử đã trải đều trong nguyên tử như là chè thạch, trong đó các điện tử là những trái mận. Trong đầu thế kỉ 20, Ernest Rutherford phát hiện ra rằng khi các hạt alpha tích điện dương được bắn vào một lá vàng mỏng, thì hầu hết xuyên qua ngoại trừ một số bị dội lại. Ông ta kết luận một cách đúng đắn là các phần tích điện dương của vàng không thể trải đều trong những nguyên tử như chè thạch mà phải tập trung bên trong trung tâm của chúng: khi hạt alpha va chạm với trung tâm của nguyên tử vàng, phần tích điện dương đủ mạnh để đẩy ngược nó trở lại. Từ đây, Rutherford hệ thống hóa thành mô hình "hệ thống mặt trời" của nguyên tử, với hạt nhân tích điện dương và được xoay quanh bởi các điện tử tích điện âm. Sau đó, Niels Bohr đã điều chỉnh mô hìnhcủa Rutherford bằng mô hình hành tinh của nguyên tử mà điều đó trong nhiều chiều hướng là cha đẻ của cơ học lượng tử.
Trong cuộc đàm thoại, Bohm cũng cho tôi một cái nhìn lướt qua về cuộc tranh luận lâu dài giữa Bohr và Einstein đối với việc diễn giải về vật lý lượng tử. Cốt yếu cuả cuộc bàn cãi xoay quanh việc Einstein phủ nhận giá trị của nguyên lý bất định; trung tâm của tranh luận là vấn đề liệu thực tại ở cấp nền tảng có là không xác định, là không thể dự đoán, và là xác suất hay không. Einstein đã chống lại mạnh mẽ với khả năng này, như là sự phản ánh mệnh đề cảm thán nổi tiếng của ông: "Thượng Đế không chơi trò súc sắc!" Tất cả điều này gợi cho tôi nhớ về lịch sử Phật giáo truyền thống của tôi, trong đó tranh luận giữ vai trò trọng yếu trong sự hình thành và tinh lọc nhiều ý tưởng triết học.
Không như các luận sư Phật giáo thời cổ, các khoa học gia có thể nâng cao năng lực của đôi mắt nhìn một cách to tát thông qua các trang cụ khoa học như các kính thiên văn khổng lồ, thí dụ như kính thiên văn Hubble[40], hay thông qua các kính hiển vi điện tử. Kết quả là một tri thức thực nghiệm về các đối tượng vất chất vượt xa ngay cả sự tưởng tượng trong thời cổ. Trong cái nhìn về khả năng này, trong nhiều dịp, tôi đã nhấn mạnh cho việc nhập môn vật lý cơ sở vào các ngành học của các trường cao đẳng Phật giáo Tây Tạng. Tôi cho rằng chúng tôi, thật ra, sẽ không mở ra bộ môn mới mà đúng hơn chúng tôi sẽ cập nhật chương trình học vốn có. Tôi cảm thấy vui sướng là giờ đây các học viện cao đẳng Phật giáo đã tiến hành thường xuyên các hội thảo về vật lý hiện đại. Những hội thảo này được thực hiện bởi các giáo sư vật lý và một số sinh viên tốt nghiệp của họ tại các đại học Tây Phương. Tôi hy vọng rằng sự khởi động này sẽ cuối cùng đạt kết quả nhập môn đầy đủ của vật lý hiện đại vào trong chương trình triết học bắt buộc trong các tự viện Tây Tạng.
Chú thích
↑ Tadrak Rinpoche Ngawang Sungrab (wyl. stag brag rin po che ngag dbang gsung rab) (1875 -??) là người thái sư của đức Dalai Lama. Ông làm nhiếp chánh tại Tây Tạng năm 1941, rời chức vụ năm 1950.
Kyabje Ling Rinpoche (1903-1983) là người thái sư thứ nhì cho đức Dalai Lama 14. Ngài là người giữ ngôi truyền thừa thứ 97 kể từ sơ tổ Tsongkhapa (Tông-khách-ba) của phái Gelug (Cụ Duyên) Phật giáo Tây Tạng. "HH Ling Rinpoche's Biography". Lama Yeshe Wisdom Archive. Truy cập 17/02/2009.
Chữ Rinpoche trong Tạng ngữ có nghĩa là "một người cao quý". Đây là một danh hiệu thường chỉ dành cho những lạt-ma (đại sư) tái sinh và những người được công nhận bởi một quyền chính chức trong một dòng truyền thừa Phật giáo TâyTạng.)
↑ Kyabje Trjang Rinpoche (1900-1981) làm một vị lạt-ma của dòng Gelug người từng giữ nhiều vai trò quan trọng trong trường phái Gelug và là người chịu trách nhiệm soạn thảo pháp môn tiệm tu Lamrim cổ điển "Giải Thoát trong Lòng Bàn Tay". "Trijang Rinpoche". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009
↑ Thái sư: là một chức vụ thầy giáo riêng của vua hay quốc trưởng. Đức Dalai Lama lúc bấy giờ được tấn phong lãnh đạo nước Tây Tạng (ngài lên ngai năm 1940)
↑ Nhiều sách dịch chữ "logic" theo lối phiên âm là lô-gíc. Ở đây nghĩa Việt hóa có thể dịch là luận lý, lập luận, (hay hợp lý nếu là tính từ). Bộ môn toán học nghiên cứu các lập luận hợp lý gọi là luận lý học hay lô-gíc học.
↑ Chiết trung là một quan điểm nhằm pha trộn nhiều khía cạnh tích cực khác nhau của các triết lý.
↑ Samkhya (sa. Sākhya) Ra đời vào khoảng thế kỉ thứ 3 do công của triết gia Maharishi Kapila. Có tác giả dịch là phái số luận có chủ trương hữu thần và "tâm (Purusha ) vật (Prakriti ) nhị nguyên" tức là công nhận có một bản ngã độc lập với thế giới vật chất và chúng thường hằng; tuy nhiên, họ cũng chấp nhận ý tưởng về luật nhân quả. "Samkhya". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009
Xin nhắc thêm triết học cổ Ấn độ ngoài Phật giáo ra, còn có sáu nguồn triết lý chính là: Upanishad, Vedanta, Mimansa, Nyaya, Vaisesika và Samkhya. Xem thêm phần 5.3 Các triết thuyết Vệ Đà chính thống.
↑ Vaisheshika (sa. Vaiśeṣika) Có tác giả dịch là phái Thắng Luận, xuất phát từ triết gia Kaāda vào thế kỉ thứ 6 trước công nguyên. Là một trong 6 trường phái triết học quan trọng cổ Ấn Độ ngoài Phật giáo. Phái này theo chủ trương nguyên tử cho rằng tất cả các vật thể trong vũ trụ vật lý đều có thể quy giảm về một số hữu hạn các nguyên tử. Ngoài ra, theo phái này thì mọi vật tồn tại đều có thể nhận biệt được và là đối tượng của nhận thức. Tất cả các đối tượng của nhận thức đều có thể chia thành 6 lớp: dravya (thực chất), gua (phẩm chất), karma (hành vi), sāmānya (tính tổng quát), viśeṣa (tính đặc thù) "Vaisheshika". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009
↑ Geshe (Tib. dge shes, "virtuous friend"; cognate of Skt. kalyanamitra) là học vị của Phật giáo Tây Tạng dành cho các tăng sĩ. Học vị này được nhấn mạnh chủ yếu trong truyền thừa Gelug. Học vị này được nhiều tác giả Tây Phương cho là tương đương với học vị tiến sĩ. Chương trình đào tạo sẽ bao gồm 6 bộ môn chính trải rộng hầu hết các thuyết lý cơ bản của Phật học: Trí huệ Ba-la-mật (Prajraparamita), Trung Quán (Madhyamika), Nhân Minh Luận (Pramana), Giới Luật (Vinaya) và Vi Diệu Pháp luận (Abhidharma). Chương trình học có thể kéo dài nhiều trong thập niên. Sau khi hoàn tất thí sinh sẽ phải đợi đến kỳ khảo hạch geshe. Trong thời gian chờ đợi thí sinh sẽ có thể tiếp tục rèn luyện về khả năng biện luận Phật giáo. "Geshe". Central Tibet Administrator. Truy cập 2009.
↑ Tuệ giác: là trực giác đặc biệt thấu suốt. Trong Phật giáo thì tuệ có thể có được thông qua luyện tập thiền định đúng đắn.
↑ Tính Không (sa. śūnya, tính từ, sa. śūnyatā, danh từ, bo. stong pa nyid) có nghĩa là thiếu vắng. Đây là khái niệm tối quan trọng và rất trừu tượng trong Phật giáo. Tính Không đã được nhắc đến trong các kinh điển thời đạo Phật nguyên thủy cho rằng mọi sự vật là tạm hợp trống rỗng vô thường và vô ngã. Sau này tính Không đuợc khai triển rộng trong các bộ kinh Bát Nhã của đại thừa và được Thánh giả Long Thọ và các đệ tử nhấn mạnh diễn giải chi tiết hơn làm nền tảng cho giáo thuyết Trung Quán. Tuỳ theo truyền thống tu học, cách hiểu về tính Không có thể sai biệt ít nhiều cũng như phương pháp để tu chứng và thể nghiệm tính Không này cũng rất khác nhau. Ở đây có thể hiểu tính Không là đặc tính phổ quát mà mọi sự vật kể cả tâm thức hay vật chất đều thiếu vắng đi một bản chất (hay đặc tính) tự tồn, vĩnh cữu. Vạn vật đều tồn tại một cách phụ thuộc vào nhân duyên và đều tồn tại chỉ do danh định. Xin xem thêm định nghiã và giảng giải sâu hơn về tính Không trong quyển "Tứ Diệu Đế" của cùng tác giả.

↑ Từ chữ "entirely self-contained": Có nghĩa là sự vật hay hiện tượng mà tất cả các tương tác và hoạt động của nó sẽ tự đóng khung bên trong chính bản thân nó và không chuyển bất kỳ thông tin nào ra ngoài, tự tồn tại mà không tương tác với bên ngoài. Do đó, ngược lại, tất cả các sư vật bên ngoài không thể nào tương tác hay trao đổi thông tin với hiện tượng hay sự như thế và do đó không thể phát hiện được và cũng không thể bị/chịu các hiện tượng và vật thể này tác động ngược lại. (đọc thêm chi tiết bài giảng Anh và Tạng ngữ "Praise of Depended Origination" (Xưng Tụng Duyên Khởi) tại San Francisco Hoa Kỳ tháng 4 năm 2007 của đức Dalai Lama, tải về máy tại trang ). Dalai Lama in the Bay area 2007. Truy cập 15/01/2010)
Một số điểm có thể liên hệ đến đề tài gần tương tự khi xem xét vấn đề nóng bỏng của vật lý thiên văn hiện đại là "liệu thông tin từ bên trong hố đen sẽ có thể phát hiện hay thoát ra để có thể thu được bằng các đo đạc vật lý hay không?"
↑ Nhân (nguyên nhân) và quả (hậu quả) là hai phạm trù thành phần quan trọng trong thuyết duyên khởi Phật giáo, một chủ thyết được xem là định luật bao trùm của toàn thể thế giới hiện tượng và là nền tảng của triết lý Phật giáo. Một cách ngắn gọn thì thuyết này cho rằng mọi sự kiện và hiện tượng (hậu quả) khởi lên (hình thành) đều là do sự tổng hợp của các nguyên nhân và các điều kiện thích hợp (duyên) với hậu quả đó. Xem thêm "tứ Diệu Đế" của cùng tác giả và "Pháp Duyên Khởi". BuddhaSasana. Mahàsi Sayadaw. Thích Minh Huệ dịch.
↑ Thuật ngữ Tự tính được dịch từ các chữ có gốc inherent hay intrinsic -- tức là bản chất thực hay bẩm tính cốt lõi sẵn có từ bên trong.
↑ Đây ý chỉ đức Phật Thích-ca Mâu-ni: Siddhārtha Gautama (Sa, Siddhattha Gotama) còn gọi là Phật Cồ-đàm tức là người đầu tiên giác ngộ và truyền bá tư tưởng Phật giáo cho nhân loại. Nhiều người cho rằng Ngài sinh ra vào 563 và mất 483 trước Tây lịch. "Gautama_Buddha". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009.
↑ Long Thụ (sa. nāgārjuna, bo. klu sgrub), dịch âm là Na-già-át-thụ-na, thế kỷ 1-2, là một trong những luận sư vỹ đại nhất của lịch sử Phật giáo -sau đức Phật. Người ta xem sự xuất hiện của Sư là lần chuyển pháp luân thứ hai của Phật giáo (lần thứ nhất do Phật Thích-ca Mâu-ni, lần thứ ba là sự xuất hiện của giáo pháp Đát-đặc-la). Đại thừa Ấn Độ xếp Sư vào "Sáu Bảo Trang của Ấn Độ" - năm vị khác là Thánh Thiên (sa. āryadeva), Vô Trước (sa. asaga), Thế Thân (sa. vasubandhu), Trần-na (sa. dināga, dignāga), Pháp Xứng (sa. dharmakīrti). Sư là người sáng lập Trung quán tông (sa. mādhyamika), sống trong thế kỉ thứ 1-2. Ngài viết nhiều tác phẩm trong đó quan trọng nhất là Căn Bản Trung Quán Luận và Bảo Hành Vương Chính Luận. Sư cũng được xem là Tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ. "Long thụ". Wikipedia. 17/02/2009
↑ Madhyamaka (Madhyamaka, còn gọi là Śunyavada) là một truyền thống Đại thừa Phật giáo được hệ thống hoá bởi thánh giả Long thụ theo đó quan điểm về tính Không được nhấn mạnh. Được gọi là Trung Đạo vì nó tránh được chủ nghĩa hư vô và chủ nghĩa thường hằng về cả vật chất và tâm thức. "Madhyamaka". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009
↑ Tulku Nyima Gyaltsen Rinpoche (1942 -) tại địa phận Tromtha vùng Kham Tây Tạng. Ngài được xem là vị lạt ma tái sinh của vị đại sư vỹ đại thuộc dòng truyền thừa Sakya và Nyingma. Ngài là người lãnh dạo tối cao của nhiều tự viện ở Tây Tạng kể từ năm` 1985 và giảng dạy tại nhiều đại học Tây Tạng và Hoa Kỳ. "Tulku Nyima's Biography". Sakya Dokho Choling. Truy cập 14/01/2010.
↑ Nguyên lý bất định do nhà vật lý người Đức là Werner Heisenberg (1901-1976 -- Nobel vật lý 1932) đề xuất trong lúc nổ lực đặt nền móng toán học cho cơ học lượng tử tại học viện Niels Bohr Copenhagen (Đan Mạch) vào năm 1925. Ở đây nên hiểu trạng thái chuyển động có nghĩa là momentum. Xem bài viết GS Trịnh Xuân Thuận "Nguyên lý bất định trong cơ học lượng tử". Vietsciences. Truy cập 17/02/2009
↑ Chồng chập lượng tử hay còn gọi là chồng chất lượng tử, xếp lớp lượng tử (quantum superposition) là cách dùng lý thuyết xác suất thống kê trên trường số phức để mô tả mọi trạng thái có thể của hiện tượng vật lý và có thể hiểu một cách sơ lược như sau: nếu một thế giới có thể ở trong một cấu hình bất kỳ, ở trong một sự sắp xếp khả dĩ của các hạt và các trường vật lý bất kỳ, và nếu thế giới này cũng có thể ở trong một cấu hình khác thì thế giới đó có thể ở trong một trạng thái là tổ hợp tuyến tính của cả hai cấu hình trong đó thành lượng (hệ số) của mỗi cấu hình được xác định là một số phức. Thí dụ, một hạt vật lý có thể có hai vị trí A và B, thì nó có thể ở trong một trạng thái C có dạng tổ hợp C = αA + βB; trong đó, α và β là hai số phức bất kỳ. "Quantum_superposition". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009
↑ Erwin Rudolf Josef Alexander Schrödinger (1887 - 1961 -- Nobel Vật lý 1933) là một nhà vật lý lượng tử người Áo, đóng góp đặc biệt của ông là phương trình mang tên ông mô tả trạng thái lượng tử về sự thay đổi của một hệ thống vật lý theo thời gian. Thí nghiệm suy tưởng về chú mèo mà ông mô tả còn được gọi là nghịch lý chú mèo Schrödinger. Tuy nhiên, điều nên lưu ý là các ý tưởng lượng tử hiện chỉ áp dụng cho thế giới vi mô ở mức lượng tử chứ không phải cho sinh giới hay vỹ mô. "Schrödinger's cat". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009.
↑ Tên viết thông dụng là Raja Ramanna (1925 -), GS vật lý hạt nhân và nhạc sĩ dương cầm người Ấn. Ông được xem là cha đẻ của vật lý hạt nhân Ấn. Ông cũng từng là bộ trưởng quốc phòng cũng như là nghị viên quốc hội Ấn. "Raja Ramanna - India's Most Eminent Nuclear Physicist". Vigyan Prasar Science Portal. Subodh Mahanti. Truy cập 15/01/2010
↑ Andrei Dmitrievich Sakharov (Russian:Андре́й Дми́триевич Са́харов) (1921 -1989 -- Nobel hoà bình 1975) nhà vật lý hạt nhân xuất sắc người Nga và sau đó là nhà hoạt động cho nhân quyền, viện sĩ viện hàn lâm Sô Viết đã có đóng góp lớn trong việc chế tạo bom tổng hợp hạch nhân từ Hydrogen. "Andrei Sakharov". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009
↑ Nicolaus Copernicus (1473 - 1543) là một nhà thiên văn học đã đầu tiên nêu ra ý tưởng của thuyết nhật tâm (Mặt Trời ở trung tâm) trong cuốn sách "De revolutionibus orbium coelestium" (Về sự chuyển động quay của các thiên thể ). Việc ra đời của thuyết nhật tâm đã cho thấy các quan sát biểu kiến xuông không thể được xem là chân lý và chính thuyết này đã đi ngược lại tin tưởng của truyền thống tôn giáo lúc bấy giờ (thiên chúa giáo) cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ. "Nicolaus Copernicus". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009
↑ James Clerk Maxwell (1831 - 18790 là nhà toán học và vật lý lý thuyết. Ông là người đã phát triểnn lý thuyết điện từ trường tổng hợp các quan sát thí nghiệm rời rạc về điện từ và ngay cả ánh sáng vào trong một lý thuyết trường điện từ. "James Clerk Maxwell" Wikipedia. Truy cập 17/02/2009
↑ Sắc hương vị xúc tương ứng lần lược là các cơ quan cảm thụ mắt, mũi, lưỡi, và thân thể.
↑ Thuật ngữ chính xác hơn trong Phật giáo gọi là Uẩn: Có 5 uẩn (ngũ uẩn) cũng gọi là Ngũ ấm, là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm. Ngoài ngũ uẩn đó ra không thể tìm thấy cái gọi là "ta". Ngũ uẩn bao gồm:
Sắc (sa., pi. rūpa), chỉ thân và sáu giác quan (Lục căn), do Tứ đại chủng (sa., pi. mahābhūta) tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng.
Thụ (sa., pi. vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính.
Tưởng (sa. sajñā, pi. saññā), là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị..., kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.
Hành (sa. saskāra, pi. sakhāra), là những hoạt động tâm lí sau khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác...
Thức (sa. vijñāna, pi. viññāa), bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
↑ Tì-bà-sa Luận (Vaibhashika) là một trong những trường phái Phật giáo cổ nhất. Tôn chỉ chính của phái này cho rằng "một niệm" (mental concept -- ý tưởng) chỉ có thể được tạo thành bởi tương tác giữa tâm, thông qua các các cơ quan nhận thức gọi là các uẩn (bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành, và thức) và các đối tượng bên ngoài. "Vaibhashika". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009.
↑ Nyāya (sa. nyāya (ni-āyá)) nghĩa là "hồi quy", được dùng trong ý nghĩa "tam đoạn luận, suy diễn". Còn được phiên âm là phái Ni-dạ-da Đây một trong 6 trường phái triết học chính thời cổ Ấn, trường phái này đặc biệt về lập luận. Kinh điển chính của trường phái này dựa trên các bản kinh cùng tên được viết bởi triết gia Akṣapāda Gautama vào thế kỉ thứ 2 trước Tây lịch. "Nyaya". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009 Xin nhắc thêm ở đây, tam đọan luận là phương pháp lập luận cơ bản được sử dụng rộng rãi trong cả Phật học lẫn khoa học, dạng đơn giản nhất của nó có thể được hiểu qua thí dụ: (1) Mọi phần tử của A đều có chất X, b là phần tử của A, kết luận b có tính chất X.
↑ Mīmāsā còn được phiên âm là Di-mạn-sai, có nghiã là "truy cứu" là một trong 6 trường phái triết học cổ Ấn chủ yếu dùng phương pháp thẩm tra để tìm đến bản chất của Pháp dựa trên chủ trương diễn dịch hay chú giải hệ thống Vệ-đà. Các tôn chỉ chính là việc cầu kinh, chống chủ trương khổ hạnh, và chủ trương thần bí. "Mimamsa". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009.
Aidvaidavadanta Trong Anh ngữ thường được viết tách ra là Advaita Vedanta là bộ phận của trường phái mang tên Vedānta (có nghĩa là cứu cánh của Vệ Đà) Đây được xem là triết lý độc thần xác định cá nhân là một tiểu ngã và Phạm thiên tức là đại ngã các kinh điển chính là Upanishad, Bhagavad Gita và Brahma Sutra. Người đầu tiên hệ thống hóa rõ rệt các nguyên lý của phái Advaita Vedanta là Adi Shankara. "Advaita Vedanta". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009.
↑ Dharmaśrī còn được dịch là Pháp Thắng hay phiên âm thành Đạt-ma-thi-la, một đại sư Phật giáo Ấn một trong hai tác phẩm của ngài đã được dịch dang Hán ngữ là bộ 4 quyển là A-ti-đàm Tâm Luận còn bộ kia nguyên văn Anh ngữ là "Greate Treaties on Instantiation" được dịch thành Đại-tì-bà-sa luận (từ chữ Abhidharma-mahāvibhāṣā-śāstra). Bộ luận này theo nhiều nhà nghiên cứu thì nó được soạn ra tại Hội Nghị Kết Tập Phật giáo lần thứ tư ở Kashmir (Xem thêm http://vi.wikipedia.org/wiki/Huy%E1%BB%81n_Trang). Trong lịch sử Phật giáo còn có người cùng tên là ngài Lochen Dharmaśrī (1654-1717) tuy nhiên đây là một đại sư thuộc Phái Ninh Mã Tây Tạng, không phải là tác giả của bộ A-tì-đàm.
↑ Thế Thân (sa. vasubandhu, bo. dbyig gnyen), ~316-396, cũng được dịch là Thiên Thân, gọi theo Hán âm là Bà-tu-bàn-đầu, Bà-tẩu-bàn-đậu, là một Luận sư xuất sắc của Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivādin) và Duy thức tông (sa. vijñānavādin), được xem là Tổ thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Người ta cho rằng Sư sinh tại Peshāwar (địa danh ngày nay), sống tại Kashmir và chết tại A-du-đà (ayodhyā). Sư vừa là em vừa là đệ tử của Vô Trước (sa. asaga), người sáng lập phái Duy thức. Vô Trước là người đã khuyến khích Thế Thân theo Đại thừa. "Thế Thân". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009 Về bản luận giải A-tì-đàm-câu-xá (sa. abhidharmakośa-śāstra), thường được gọi tắt là Câu-xá luận, nghĩa là "Báu vật của Vi Diệu Pháp", tên khác là Thông minh luận, là bộ luận quan trọng nhất của Thuyết nhất thiết hữu bộ, được Thế Thân (sa. vasubandhu) soạn vào thế kỉ thứ 5 sau Công nguyên tại Kashmir. Luận gồm có hai phần: sưu tập khoảng 600 kệ Vi Diệu Pháp câu-xá luận bản tụng (sa. abhidharmakośakārikā) và Vi Diệu Pháp câu-xá luận thích (sa. abhidharmakośa-bhāṣya), bình giải về những câu kệ đó. Ngày nay người ta còn giữ bản tiếng Hán và tiếng Tây Tạng của luận này, đó là những tác phẩm đầy đủ nhất để trả lời các câu hỏi về kinh điển. Toàn văn bài luận này đã được Thích Tuệ Sĩ dịch Việt từ Phạn ngữ. "Câu Xá Luận". Phật Việt". Truy cập 17/02/2009.
↑ Dương điện tử và trung hoà tử lần lượt còn được gọi dưới các tên phiên âm là prô-tôn và nơ-tron từ chữ proton và neutron.
↑ Theo Vật lý hạt sơ cấp thì Quark và lepton là hai loại hạt cơ bản Fermi, cả hai là cơ sở cấu tạo nên vật chất. Trong khi Quark có thể tương tác qua tương tác mạnh của vũ trụ thì lepton không có đặc tính này. Có 6 loại quark và tổ hợp của các quark lập thành các thành phần hạt nhân của nguyên tử như proton và neutron. Có 6 loại lepton trong đó điện tử và các neutrino là những lepton trong sáu loại này. "Quark" và "Lepton". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009 và.
↑ Anton Zeilinger (1945 - ) nhà vật lý lượng tử người Áo hiện là trưởng phân khoa Quang học Lượng tử và Thông tin Lượng tử tại đạh học Vienna. Ông được xem là tiên phong trong ngành Thông tin Lượng tử. "Anton_Zeilinger". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009. Đại học Innsbruck là đại học có cơ hở hạ tầng lớn nhất nước Áo và có chỉ số sinh viên theo học đông hàng thứ ba của nước này. Trường được thành lập từ năm 1669. "University of Innsbruck". Wikipedia. Truy cập 14/01/2010.
↑ Tức là Hội nghị Tâm thức và Đời sống được tổ chứ vài năm một lần giữa các nhà khoa học quốc tế và Phật giáo mà đứng đầu là đức Dalai Lama. Lần đầu tiên tổ chức vào năm 1987. Hội nghị gần đây nhất (lần thứ 18) diễn ra vào tháng 10 năm 2008 tại Berlin. Mind & Life Institue. Truy cập 14/01/2010..
↑ Arthur Guy Zajonc (1949 - ) hiện là giáo sư trưởng khoa vật lý tại đại học Amherst Hoa kỳ. Arthur Zajonc. Truy cập 17/02/2009.
↑ Niels Henrik David Bohr (1885-1962 -- Nobel Vật lý 1922) là nhà vật lý Đan Mạch đã đóng góp cho nền tảng hiểu biết về cấu trúc nguyên tử và cơ học lượng tử. Ông được xem là một trong những nhà vật lý có nhiều ảnh hưởng nhất trong thế ki 20. "Niels_Bohr". Wikipedia. Truy Cập 17/02/2009 Học viện Niels Bohr là một bộ phận của viện vật lý thiên văn và địa vật lý cùng tên. Niels Bohr đã làm việc tại đây từ 1914. Nhân sinh nhật lần thứ 80 của Niels Bohr, trường được đổi sang tên ông (7 tháng 10 năm 1965). Trong suốt các thập niên 1910 cho đến 1930, nơi đây đã là trung tâm nghiên cứu phát triển vất lý nguyên tử xuyên suốt châu Âu. "Niels Bohr Institute". Wikipedia. Truy cập 14/01/2010.
↑ Ernest Rutherford, 1st Baron Rutherford of Nelson (1871-1937 -- Nobel hóa học 1908) nhà vật lý người Tân-Tây-Lan được xem là cha đẻ của vật lý hạt nhân. Người đã thành công trong lý thuyết quỹ đạo của nguyên tử thông qua phát hiện của ông về thí nghiệm bắn phá nguyên tử của một lá vàng mỏng. "Ernest Rutherford". Wikipedia. Truy cập 14/01/2010
↑ Sir Joseph John "J.J." Thomson, (1856-1940 -- Nobel Vật lý 1906) là nhà Vật lý Anh. có công trong việc phát hiện điện tử và nguyên tố đồng vị và la người phát minh của quang phổ khối lượng. "J.J._Thomson". Wikipedia. Truy cập 14/01/2010.
↑ Kính viễn vọng không gian này mang tên nhà thiên văn Edwin P. Hubble (1889-1953) đây là đài quan sát nằm ngoài không gian khổng lồ được xem là cuộc cách mạng do việc cung cấp được các ảnh rõ và sâu của vũ trụ, trong khoảng từ hệ Mặt trời cho đến các thiên hà xa xăm được hình thành không lâu sau vụ nổ lớn 13.7 tỉ năm trước. HubbleSite và "Hubble Fact". NASA..
Mặc dù tôi đã nghe nói về lý thuyết tương đối hẹp của Einstein từ lâu, David Bohm lần đầu tiên giải thích lại kèm theo đó với một số ý tưởng triết học cho tôi. Vì không có căn bản toán học, nên việc giảng dạy cho tôi về vật lý hiện đại, đặc biệt là các đề tài bí hiểm như thuyết tương đối, thực sự không dễ dàng. Khi nghĩ đến sự nhẫn nại của Bohm, giọng nói êm dịu, cử chỉ thanh lịch, và sự cẩn thận, để chắc chắn là tôi theo kịp được lời giảng của ông, tôi thiệt nhớ ông ta.
Như bất cứ người thường nào đã thử tìm hiểu về lý thuyết này đều biết rằng ngay cả một sự nắm bắt cơ bản về nguyên lý của Einstein đều cần có một mong ước vượt qua các ý tưởng thông thường. Einstein đưa ra hai định đề: vận tốc ánh sáng là không đổi và nguyên lý tương đối của ông, cho rằng mọi định luật vật lý phải tác động chính xác như nhau cho tất cả người quan sát trong chuyển động tương đối. Với hai tiền đề này, Einstein đã cách mạng hóa sự hiểu biết khoa học về không và thời gian.
Lý thuyết tương đối của ông ấy cho ta một phương trình nổi tiếng về vật chất và năng lượng, E=mc2, phải thừa nhận là phương trình khoa học duy nhất mà tôi biết (ngày nay chúng ta có thể thấy nó ngay cả trên các áo thun), và nó là nguồn của các thí nghiệm suy tưởng có tính thách đố và giải trí. Nhiều thí nghiệm trong đó, như là nghịch lý trẻ sinh đôi về lý thuyết tương đối hẹp, thời gian giản nở, hay sự thu nhỏ của các vật thể ở vận tốc cao, giờ đây đã được xác nhận một cách thực nghiệm. Nghịch lý trẻ sinh đôi, trong đó một người anh em bay đi trong một tàu không gian ở vận tốc gần ánh sáng đến một vì sao cho là cách xa 20 năm ánh sáng và sau đó trở về trái đất, ông ta sẽ thấy rằng người anh em song sinh già hơn mình, đã gợi nhớ cho tôi về câu chuyện về ngài Vô Trước[1] bằng cách nào đó đã đến được cõi trời của đức Di Lặc[2], nơi đó ông nhận được 5 bản kinh, là một bộ kinh luận Đại thừa quan trọng trong của ngài Di Lặc, tất cả xảy ra trong khuôn khổ của thời gian nghĩ uống trà. Nhưng khi ngài trở về trái đất thì 50 năm đã trôi qua.
Việc đánh giá được toàn bộ bản chất của nghịch lý trẻ sinh đôi sẽ dính dáng đến hiểu biết về một số tính toán phức tạp mà tôi e rằng sẽ quá sức tôi[3]. Theo như tôi hiểu thì ý tưởng quan trọng nhất của lý thuyết tương đối của Einstein là quan điểm về không gian, thời gian, và khối lượng không thể được xem như là tuyệt đối, tự tồn tại trong chúng như là những thực thể hay những bản thể trường cửu, không đổi. Không gian thì không độc lập, 3 chiều, và thời gian thì không là một thực thể đứng riêng, đúng hơn chúng tồn tại cùng nhau như là một dòng tương liên 4 chiều của "không-thời gian". Một cách cô đọng, lý thuyết tương đối hẹp của Einstein bao hàm rằng trong khi vận tốc ánh sáng không đổi, thì không có khuôn khổ tuyệt đối, ưu tiên của sự tham chiếu và mọi vật, kể cả không gian và thời gian là tương đối hoàn toàn. Đây là phát hiện thật đáng ghi nhớ.
Trong thế giới triết học Phật giáo thì quan điểm về thời gian tương đối thì không xa lạ. Trước đây ở thế kỉ thứ hai trường phái Kinh Lượng Bộ[4] đã bài bác quan điểm về thời gian tuyệt đối. Trong việc phân chia tiến trình thời gian thành quá khứ, hiện tại, và tương lai, Kinh Lượng bộ đã biểu thị sự phụ thuộc lẫn nhau của cả ba và luận rằng bất kỳ quan điểm nào về quá khứ, hiện tại, và tương lai [tam thời] thực sự độc lập đều không thể đứng vững. Họ chỉ ra rằng thời gian không thể được nhận thức như là một thực thể tự tính tồn tại độc lập với các hiện tượng thời gian mà phải được hiểu như là một tập hợp của các quan hệ giữa các hiện tượng thời gian. Ngoài các hiện tượng thời gian mà ta cấu trúc nên khái niệm về thời gian nói trên, không có thời gian thực mà bằng cách nào đó nó là một bình chứa vỹ đại như một sự tuyệt đối tự tồn, mà trong đó các sự vật và hiện tượng xảy đến.
Những luận điểm về tính tương đối của thời gian này, sau đó được ngài Long Thụ phát triển, chủ yếu là trong triết học, nhưng sự thật còn lại là thời gian đã được nhận thức có tính tương đối trong truyền thống triết học Phật giáo gần hai ngàn năm. Mặc dù tôi đã được bảo rằng một số nhà khoa học xem không-thời gian bốn chiều của Einstein như là một bình chứa vỹ đại với tính năng tồn tại tự tính trong đó các hiện tượng xảy ra; đối với một người nghiên cứu Phật giáo quen thuộc với các luận điểm của Thánh giả Long Thụ thì biểu thức của Einstein về tính tương đối của thời gian, đặc biệt thông qua các thí nghiệm suy tưởng nổi tiếng của ông trở nên vô cùng hữu ích trong việc đào sâu hiểu biết về bản chất tương đối của thời gian.
Sự nắm bắt của tôi về thuyết lượng tử, thành thật mà nói, thì chẳng có gì hay ho... mặc dù tôi đã cố gắng rất nhiều! Tôi được nghe về một trong những lý thuyết gia lượng tử vỹ đại nhất, Richard Feynman[5] đã viết "Tôi nghĩ tôi có thể nói một cách an toàn rằng không ai hiểu nổi vật lý lượng tử", như vậy thì ít nhất tôi cảm thấy mình đồng hội đồng thuyền. Nhưng ngay cả với một người nào đó như tôi đây không thể theo dõi các chi tiết toán học phức tạp của lý thuyết này - thực ra, toán học là một lãnh vực của khoa học hiện đại mà dường như tôi không có duyên nghiệp với nó chút nào - thì hiển nhiên là ta không thể nói về các hạt sơ cấp như là các thực thể xác định được, độc lập, hay tương quan loại trừ nhau. Các cấu trúc cơ sở của vật chất và các photon (đó là các vật liệu cơ bản lần lượt của vật chất và của ánh sáng) có thể hoặc có tính hạt hay tính sóng hay có cả hai [lưỡng tính sóng-hạt]. (Sự thật là người đoạt giải Nobel vì đã chỉ ra điện tử có tính sóng George Thomson[6], là con của một người cũng đã nhận giải thưởng này do công chứng tỏ rằng điện tử có tính hạt, tức là J.J. Thomson). Cho dù người ta nhận thức các điện tử cách nào sóng hay hạt thì tôi được nghe rằng thì điều đó phụ thuộc vào hành vi của người quan sát và các lựa chọn dụng cụ thí nghiệm và đo đạc.
Mặc dù đã từ lâu tôi nghe về bản chất mâu thuẫn của ánh sáng, chỉ đến năm 1997 khi mà nhà vật lý thực nghiệm Anton Zeilinger giải thích cho tôi với các minh họa chi tiết - tôi đã cảm thấy cuối cùng thì cũng nắm bắt được vấn đề. Anton chỉ ra cách mà thí nghiệm tự nó xác minh được khi nào một điện tử hành xử như là một hạt hay một sóng. Trong thí nghiệm khe hở đôi nổi tiếng, chùm điện tử được bắn từng đợt qua một tấm chắn có hai khe hở (song song) và được ghi ảnh lên vật liệu như là bề mặt ảnh chụp ở phiá sau của tấm chắn. Nếu chỉ có một khe hở được mở ra, mỗi điện tử sẽ ghi lại dấu vết trên bề mặt ảnh chụp theo kiểu cách của một hạt. Mặc dù vậy, nếu cả hai khe hở được mở ra, khi lượng lớn điện tử được bắn ra thì dấu vết trên bề mặt ảnh chụp cho thấy rằng chúng đã đi qua cả hai khe hở cùng lúc, để lại một dạng tựa như sóng.
Anton đã đem đến dụng cụ có thể lập lại thí nghiệm này trên một kích cở nhỏ, và tất cả mọi người tham gia đã thật vui vẻ. Anton thích coi trọng các khía cạnh thực nghiệm của cơ học lượng tử, toàn bộ hiểu biết của ông ta có nền tảng trên những điều mà ta có thể học trực tiếp từ các thí nghiệm. Điều này khác nhiều với cách tiếp cận của David Bohm, người chủ yếu hứng thú trong lý thuyết và ý nghĩa triết học của cơ học lượng tử. Sau này tôi biết thêm là Anton đã và giữ vững lập trường cổ vũ cho điều được gọi là diễn dịch Copenhagen[7] về cơ học lượng tử, trong khi David Bohm lại là người phê phán nó mãnh liệt nhất.
Phải thừa nhận là tôi cũng không biết chắc toàn bộ các ý nghiã triết học và nhận thức về nghịch lý lưỡng tính sóng-hạt có thể là gì. Tôi không gặp trở ngại trong việc chấp nhận ý nghĩa triết học cơ bản mà ở mức nhỏ hơn nguyên tử thì chính ý niệm về thực tại không thể tách rời khỏi các hệ thống đo đạc được dùng bởi người quan sát, và do đó, không thể nói rằng hoàn toàn khách quan. Dầu sao, thì nghịch lý này cũng dường như nói lên rằng - ngoại trừ người ta đính kèm theo một loại khả năng thu thập thông tin nào đó từ các điện tử - thì ở mức thấp hơn nguyên tử, hai nguyên lý quan trọng nhất của lô-gíc, là luật mâu thuẫn và luật loại trừ trạng thái trung gian, dường như bị vi phạm[8]. Trong một thí nghiệm thông thường, chúng ta sẽ đoán rằng đã ở dạng sóng thì không thể nào là hạt, nhưng ở mức độ lượng tử, ánh sáng thể hiện mâu thuẫn với điều này vì nó hành xử như là cả hai dạng. Tương tự trong thí nghiệm khe hở đôi, có sự thể hiện như một số photon đã đi qua cả hai khe hở đồng thời, do đó vi phạm luật loại trừ trạng thái trung gian, mà được dự đoán là chúng chỉ đi qua hoặc một trong hai khe hở mà thôi.
Ảnh Minh Họa cho thấy bản chất sóng của ánh sáng qua thí nghiệm khe hở đôi.
Đối với ý nghĩa nhận thức của các kết quả của thí nghiệm khe hở đôi, tôi nghĩ rằng vẫn còn có điều đáng bàn thảo ở đây, nguyên lý bất định nổi tiếng của Heisenberg phát biểu rằng sự đo đạc vị trí của một nguyên tử càng chính xác bao nhiêu thì càng không thể biết rõ được trạng thái moment chuyển động của nó, và ngược lại, càng đo đạc chính xác trạng thái moment của nó thì càng không thể tìm rõ được vị trí của nó. Một lần nữa điều này cho thấy người quan sát có vai trò nền tảng: khi chọn nghiên cứu moment chuyển động của điện tử, thì ta bị loại trừ khỏi việc tìm hiểu vị trí của nó; và khi chọn nghiên cứu vị trí thì lại bị loại trừ việc tìm hiểu moment chuyển động của nó. Vậy người quan sát là một thành phần tham gia một cách hiệu quả trong thực thể đang được quan sát. Tôi nhận ra rằng vấn đề vai trò của người quan sát là một trong những câu hỏi gai góc nhất của cơ học lượng tử. Quả vậy, tại hội nghị Mind and Life trong năm 1997, nhiều thành viên khoa học có những quan điểm mang sắc thái khác nhau. Một số cho rằng vai trò của người quan sát giới hạn trong việc lựa chọn các thiết bị đo đạc, trong khi số khác chấp nhận tầm quan trọng to tát của người quan sát như là mộ thành tố cấu trúc trong thực thể được quan sát.

Vấn đề này từ lâu đã được chú ý bàn thảo trong hệ tư tuởng Phật giáo. Một thái cực là những nhà "duy vật"[9] Phật giáo là những người tin rằng thế giới vật chất được hợp thành bởi các hạt tử bất khả phân mà chúng có một thực tại khách quan độc lập với tâm thức. Thái cực khác là những nhà "duy tâm", được gọi là trường phái Duy Thức[10], họ bác bỏ bất kỳ mức độ nào của thực tại khách quan trong thế giới bên ngoài. Trong phân tích cuối cùng, họ nhận thức thế giới vật chất bên ngoài là một sự mở rộng của tâm thức quán tưởng. Tuy nhiên, có một quan điểm thứ ba, là lập trường của trường phái Trung Quán Cụ Duyên[11], được kính trọng nhất bởi truyền thống Tây Tạng. Theo quan điểm này, thì mặc dù thực tại của thế giới bên ngoài thì không bị bác bỏ, nó phải được hiểu với tính tương đối. Nó còn tùy thuộc vào ngôn ngữ của chúng ta, vào tập quán xã hội, và các nhận thức được chia sẽ chung. Ý niệm về thực tại độc lập với người quan sát thì không thể đứng vững. Như trong vật lý hiện nay, vật chất không thể được nhận thức hay được mô tả tách rời khỏi người quan sát - vật chất và tâm thức là hai thành phần phụ thuộc nhau.
Sự thừa nhận bản chất phụ thuộc một cách nền tảng của thực tại trong Phật giáo được gọi là "duyên khởi" - là tâm điểm của hiểu biết Phật giáo về thế giới và về bản chất sự tồn tại của con người chúng ta. Một cách tinh yếu, nguyên lý duyên khởi có thể hiểu được theo ba cách sau đây. Thứ nhất, tất cả các sự vật và hiện tượng duyên sinh [pháp hữu vi] đều chỉ được hình thành như là kết quả sự tượng tác của các nguyên nhân [nhân] và các điều kiện [duyên] chúng không tự hình thành, hay được tạo ra hoàn bị. Thứ nhì, có một sự phụ thuộc tương hỗ giữa các thành phần và toàn thể; thiếu các thành phần thì không thể có toàn thể, không có toàn thể thì nói về các thành phần là điều vô nghĩa. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành phần và toàn thể này áp dụng trong cả khuôn khổ về không gian và thời gian. Vật bất kỳ chỉ tồn tại và là một tập hợp của các đặc trưng[12] bên trong mạng lưới tổng thể của mọi vật mà chúng có một mối quan hệ tiềm năng hay khả dĩ với vật đó. Không có hiện tượng nào tồn tại với tập hợp đặc thù độc lập hay tự tính của mình.
Và thế giới thì được tạo thành bởi mạng lưới phức tạp của các mối quan hệ lẫn nhau. Ta không thể nói về một thực tại của một thực thể cách biệt bên ngoài nội dung của chuỗi các mối quan hệ lẫn nhau của nó với môi trường và các hiện tượng khác, kể cả ngôn ngữ, các khái niệm, và các tập quán khác. Do đó, không thể có các chủ thể mà không có các đối tượng mà bởi đó chúng được định nghĩa; không thể có các đối tượng mà không có các chủ thể để nhận thức chúng; không thể có những người làm mà không có các sự vật được làm [tức các đối tượng của việc làm]. Không thể có các chiếc ghế mà không có các chân, chỗ để ngồi, lưng ghế, gỗ, các đinh ốc, nền mà trên đó nó đặt lên, các bức tường để xác định gian phòng mà nó nằm bên trong, những người chế tạo ra nó, và những cá nhân nào đã đồng ý để gọi tên nó là ghế và công nhận nó là vật để ngồi lên. Theo nguyên lý này thì các sự vật và hiện tượng không chỉ hoàn toàn tương thuộc mà mỗi một đặc trưng của chúng đều phụ thuộc một cách xuyên suốt vào những sự vật và hiện tượng khác.
Trong vật lý, bản chất phụ thuộc sâu xa của thực tại đã được nhấn mạnh sắc bén bởi nghịch lý được gọi là EPR - là tên gợi ý bởi những người tạo ra nó, Albert Einstein, Boris Podolsky, và Nathan Rosen[13] - nguyên, nó được tạo thành để thử thách cơ học lượng tử. Giả sử một cặp hạt sơ cấp được tạo thành và sau đó bị tách rời, chuyển động ra xa theo hai hướng ngược nhau - cho là đến những vị trí cách nhau rất xa, chẳn hạn Dharamsala, nơi tôi sống và New York. Một trong những thuộc tính của cặp hạt này là spin[14] [sự quay] của chúng phải ngược nhau - tức là nếu một hạt đo được chiều hướng "lên" thì hạt kia sẽ có chiều "xuống". Theo cơ học lượng tử thì mối tương quan của sự đo lường (chẳng hạn khi một hạt spin lên thì hạt kia spin xuống) phải tồn tại ngay cả khi các thuộc tính của từng hạt chưa được xác định cho đến khi những người làm thí nghiệm tiến hành đo kiểm một trong các hạt, thí dụ như hạt tại New York. Tại thời điểm đó một người ở New York sẽ thu được một giá trị - giả sử là lên - trong trường hợp này thì hạt kia phải đồng thời trở thành xuống. Những sự xác định của lên và xuống là tức thì, ngay cả đối với hạt ở Dharamsala, chưa hề được đo kiểm. Bất chấp sự phân cách giữa chúng, hai hạt này trình hiện như là một thực thể quấn quít nhau. Theo cơ học lượng tử, dường như có một sự nối kết lẫn nhau sâu sắc và đáng ngạc nhiên trong trọng tâm của môn vất lý này.
Tại một buổi diễn thuyết công cộng ở Đức, tôi đã gây được sự chú ý lớn trong giới khoa học gia nghiêm túc khi nói đến tuệ giác về thế giới của các truyền thống thiền định. Tôi đã nói về nền tảng gặp gỡ giữa truyền thống Phật giáo của chính tôi và khoa học hiện đại - đặc biệt là trong các luận điểm của Phật giáo về tính tương đối của thời gian và bác bỏ chủ trương thực tính[15]. Sau đó tôi nhận thấy von Weizsäcker trong các thính giả, và khi nói đến món nợ tôi mang đối với ông ta bởi một ít hiểu biết về vật lý lượng tử thì Weizsäcker lịch sự rào đón rằng nếu vị thầy của ông ấy là Werner Heisenberg có mặt ở đó, thì ông ấy sẽ rất hứng khởi khi được nghe về sự song song cộng hưởng giữa triết học Phật giáo và sự thấu suốt khoa học của ông ấy.
Một loạt các vấn đề quan trọng khác trong cơ học lượng tử quan tâm đến câu hỏi về sự đo kiểm. Tóm lại, tôi thấy thật ra toàn bộ lãnh vực nghiên cứu đều dành cho điều này. Nhiều khoa học gia cho rằng hành vi đo kiểm gây ra sự "sụp đổ" của một trong hai tính năng sóng hay hạt của hạt sơ cấp, tùy thuộc vào hệ thống đo kiểm được sử dụng trong thí nghiệm; chỉ có sự đo kiểm này có tiềm năng làm điều đó xảy ra. Nhưng ta sống trong thế giới của các đối tượng thường ngày. Vậy nên câu hỏi là: Làm thế nào từ quan điểm của vật lý, chúng ta dung hợp được giữa một bên là các ý niệm thông thường về thế giới thường ngày của các đối tượng và các đặc tính của chúng, với phía bên kia là thế giới kỳ lạ của cơ học lượng tử? Có thể nào cả hai tầm nhìn này dung hợp được với nhau? Phải chăng ta bị tuyên án là không thích nghi để sống với điều dường như là một quan điểm phân liệt về thế giới?
Trong hai ngày tu học về các vấn đề nhận thức luận có liên quan đến nền tảng của cơ học lượng tử và triết học Trung đạo Phật giáo tại Innsbruck, nơi mà tôi, Anton Zeilinger và Arthur Zajone gặp gỡ để đối thoại, thì Anton đã nói với tôi về một đồng nghiệp nổi tiếng của ông ta đã có lần nhận xét rằng hầu hết các nhà vật lý lượng tử liên hệ đến lãnh vực của họ trong một kiểu cách phân liệt. Khi ở trong phòng thí nghiệm, họ và đùa nghịch với các đồ vật, họ là những người duy vật. Họ nói về các photon và các điện tử dịch chuyển đây đó. Mặc dù vậy, ở thời điểm mà bạn chuyển sang bàn thảo về triết học và hỏi họ về nền tảng cơ học lượng tử, thì hầu hết họ sẽ nói rằng không có gì thực sự tồn tại nếu không có thiết bị để định nghĩa chúng.
Một số nghi vấn tương tự đã xuất hiện trong triết học Phật giáo liên hệ đến sự phân cực giữa quan điểm thông thường của chúng ta về thế giới và tầm nhìn được gợi lên bởi triết lý của ngài Long Thụ về tính Không. Thánh giả Long Thụ viện dẫn quan điểm về hai chân lý [nhị đế] bao hàm tục đế [thông thường] và chân đế [tối hậu], tương ứng với kinh nghiệm về thế giới thường ngày, và sự vật và hiện tượng trong dạng thức tối hậu, tức là ở mức độ của tính Không. Trong mức độ thông thường, ta có thể nói về một thế giới đa nguyên của sự vật và hiện tượng với các đặc trưng riêng biệt và tiến trình nguyên nhân. Đây là giới mà ta có thể trông đợi luật nhân quả, và các luật về lô-gic - như là các nguyên lý xác định, mâu thuẫn, và luật loại trừ trung gian - tác động mà không có sự vi phạm. Thế giới kinh nghiệm thực nghiệm thì không phải là một ảo tưởng, cũng không phải không thật. Nó là thật mà trong đó ta thể nghiệm. Một hạt lúa có sản sinh thành cây lúa, mà nó cuối cùng hình thành lúa chín hạt. Sử dụng độc tố có thể gây tử vong, và tương tự dùng thuốc có thể chữa được bệnh. Mặc dù vậy, trong tầm nhìn của chân đế, sự vật và hiện tượng không chiếm hữu các thực tại độc lập riêng biệt. Thể trạng tối hậu của chúng là "thiếu vắng" trong đó không có gì chiếm hữu bất kỳ một bản chất thực tính hay tự tính.
Tôi có thể hình dung điều tương tự với nguyên lý nhị đế này khi áp dụng vào của vật lý. Chẳng hạn, ta có thể nói rằng mô hình Newton là một áp dụng cho thế giới thông thường như là chúng ta biết về nó, trong khi thuyết tương đối Einstein - cơ bản dựa trên những giả định khác về gốc rể - điển hình cho việc cộng thêm vào mô hình xuất sắc của một phạm vi nội hàm khác biệt hay lớn hơn. Mô hình Einstein mô tả các khía cạnh của thực tại trong trường hợp mà các trạng thái chuyển động tương đối là thiết yếu nhưng không thực sự ảnh hưởng đến hình ảnh thông thường của chúng ta trong hầu hết các tình huống. Tương tự, các mô hình vật lý lượng tử về thực tại thể hiện các hoạt động trong một nội hàm khác - hầu như "suy diễn" thực tại của các hạt sơ cấp, đặc biệt trong thế giới vi mô. Mỗi một trong các mô hình trên đều vượt trội trong lãnh vực của mình và trong các mục tiêu mà nó được thiết kế, nhưng nếu chúng ta tin vào một mô hình bất kỳ nào trong chúng là được cấu trúc bởi các sự vật thực sự tự tính thì chúng ta lọt vào tầm mức của sự thất vọng.
Tôi thấy rằng thật hữu ích khi quán chiếu lên một sự phân biệt quan trọng được miêu tả bởi ngài Nguyệt Xứng[16] (thế kỉ thứ 7) trong mối quan hệ giữa các nội hàm của luận đàm về tục đế và chân đế của sự vật. Nguyệt Xứng luận rằng, khi hệ thống hóa hiểu biết về thực tại, người ta phải nhạy cảm với nội dung và các tham biến của một phương thức truy cứu đặc thù. Chẳng hạn, ngài cho rằng sự bác bỏ các đặc trưng, nhân quả, và nguồn gốc riêng biệt trong thế giới thường ngày, như một số luận giả về triết học tính Không đã nêu lên, sẽ thiết lập nên một sai lầm có tính phương pháp.
Trên mức độ thông thường, ta luôn nhìn thấy nguyên nhân và hậu quả. Khi cố tìm xem ai có lỗi trong một tai nạn, thì ta lại không đào sâu nghiên cứu vào bản chất cửa thực tại, nơi mà dòng tương tục vô tận của các sự kiện khiến cho tai nạn đó không thể nào có chỗ để quy lỗi. Khi ta chấp thuận những đặc tính như thế như là các nhân và quả trong thế giới thực nghiệm, ta đã không làm việc trên cơ sở của một phân tích siêu hình điều tra đến tận trạng thái bản thể tối hậu của các sự vật và các tính chất của chúng. Ta chỉ làm nội trong giới hạn của tập quán, ngôn ngữ, và lập luận thường ngày. Ngược lại, Nguyệt Xứng luận rằng các định đề siêu hình của các trường phái triết học, như là khái niệm về Thượng Đế hay kinh hồn vĩnh cửu có thể bị bác bỏ thông qua phân tích về trạng thái bản thể tối hậu của chúng. Điều này có được là vì những thực thể này được đặt trên cơ sở của một sự tìm hiểu vào cơ chế tối hậu về sự có mặt của sự vật.
Một cách tinh yếu, Long Thụ và Nguyệt Xứng đề xuất rằng: Khi liên hệ đến thế giới thực nghiệm của kinh nghiệm, chừng nào chúng ta vẫn không khoác lên các sự vật tính tồn tại tự tính độc lập, thì các quan điểm về nhân quả, đặc trưng, và phân biệt cũng như là các nguyên lý của lô-gíc sẽ vẫn còn đứng vững. Dẫu sao thì hiệu lực của chúng bị giới hạn trong một khuôn khổ tương đối của tục đế[17]. Việc tìm kiếm đến các ý niệm nền tảng như là đặc trưng, sự tồn tại, và nhân quả trong một sự tồn tại độc lập khách quan thì sẽ vượt quá biên giới của lô-gíc, ngôn ngữ, và thường tục. Ta không nhất thiết phải mặc nhiên chấp nhận sự tồn tại độc lập khách quan của sự vật, bởi vì chúng ta có thể nhận thức được thực tại không xác định riêng lẽ, thiết thực của các sự vật và hiện tượng - thực tại đó không chỉ xác lập các chức năng thường ngày mà ngay cả cung cấp một cơ sở vững chắc cho các hành vi tinh thần và đạo đức. Thế giới theo triết học tính Không, được cấu hình bởi một mạng lưới của những thực tại có nguồn gốc phụ thuộc và liên hệ lẫn nhau, trong đó, nguồn gốc phụ thuộc tạo nên sự hình thành các hậu quả có nguồn gốc phụ thuộc tương ứng theo luật duyên khởi về nhân quả. Những gì ta làm và suy nghĩ trong các kiếp sống, sau đó, trở nên cực kỳ quan trọng khi nó ảnh hưởng đến mọi thứ mà ta kết nối tới.
Bản chất nghịch lý của thực tại biểu lộ trong cả triết học Phật giáo về tính Không và vật lý hiện đại điển hình cho một thách thức đối với các giới hạn hiểu biết của con người. Cốt lõi của vấn đề là ở tri thức luận: Làm thế nào ta định danh hoá và hiểu biết thực tại một cách mạch lạc? Các luận sư Phật giáo về tính Không không những đã phát triển một hiểu biết toàn vẹn về thế giới dựa trên việc loại bỏ sự cuốn hút tận thâm căn xem thực tại như là sự kết thành của các thực thể khách quan chân thật một cách tự tính, mà họ cũng phấn đấu để nuôi sống các tuệ giác này trong đời sống thường nhật của mình. Giải pháp Phật giáo cho điều có vẻ như là mâu thuẫn về tri thức luận này bao gồm việc hiểu biết thực tại trong các nội dung về thuyết lý của Nhị Đế. Khoa vật lý cần phát triển một ngành tri thức học nhằm giúp giải quyết hố sâu ngăn cách có vẻ như không thể bắt được nhịp cầu nối giữa bản vẽ của thực tại trong thế giới vật lý cổ điển và kinh nghiệm thường ngày với bản vẽ đối chiếu của họ trong vật lý lượng tử. Điều áp dụng của nhị đế trong vật lý ra sao, thì tôi thật không có ý kiến. Ở tận gốc rễ, vấn đề triết học mà vật lý đang đối đầu do sự đánh thức của vật lý lượng tử chính là quan điểm về thực tại - được định nghĩa trong nội dung của các cấu trúc thực một cách cốt lõi - liệu [quan điểm đó] có đứng vững được hay không? Điều mà triết học Phật giáo về tính Không có thể dâng hiến là một mô hình chặt chẽ của việc hiểu biết về thực tại, đó là đặc tính phi bản thể. Điều này có thể chứng tỏ lợi ích hay không thì chỉ có thời gian mới trả lời được.
Chú thích
↑ Vô Trước (sa. asaga, nghĩa là "không bị ô nhiễm, vướng mắc"), cũng được dịch âm là A-tăng-già, khoảng thế kỷ 4, là một Đại luận sư của Phật giáo Ấn Độ, người sáng lập Duy thức tông (sa. vijñānavādin). Sư khước từ quan điểm của Long Thụ (sa. nāgārjuna) về tính Không và thiết lập giáo pháp của mình dưới ảnh hưởng của Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivādin). Tương truyền Sư được Bồ Tát Di-lặc trực tiếp giáo hoá. "Vô Trước". Wikipedia. Truy cập 14/01/2010.
↑ Di-lặc (sa. maitreya, pi. metteyya là cách phiên âm, dịch nghĩa là Từ Thị (慈氏), "người có lòng từ", cũng có tên khác là Vô Năng Thắng (sa. ajita), phiên âm Hán-Việt là A-dật-đa, là một vị Bồ Tát và cũng là vị Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trên trái Đất. Trong Phật giáo Tây Tạng, Bồ Tát Di-lặc được thờ cúng rất rộng rãi. Cõi giáo hóa của Bồ Tát hiện nay là trời Đâu-suất (sa. tuṣita). Theo kinh điển, Bồ Tát Di-lặc sẽ giáng sinh trong khoảng 30.000 năm nữa. "Maitreya". Wikipedia. Truy cập 14/01/2010.
↑ Xem thêm chi tiết tính toán:.
↑ Kinh lượng bộ (sa. sautrāntika), là một nhánh của Tiểu thừa xuất phát từ Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivādin) khoảng 150 năm trước Công nguyên. Như tên gọi cho thấy (sautrāntika xuất phát từ sūtrānta, có nghĩa là Kinh phần, chỉ Kinh tạng của Tam tạng), bộ này chỉ đặt nền tảng trên Kinh tạng (sa. sūtrapiaka) và phản bác Luận tạng (sa. abhidharmapiaka) cũng như quan điểm "Nhất thiết hữu" (tất cả đều hiện hữu, đều có) của Thuyết nhất thiết hữu bộ. "Sautrantika".Wikipedia. Truy cập 17/02/2009.
↑ Richard Phillips Feynman (1918 - 1988 -- Nobel vật lý 1965) là nhà Vật lý Hoa Kỳ, giáo sư đại học Caltech. Ông được biết đến bởi công thức tích phân đường của cơ học lượng tử, lý thuyết về điện động học lượng tử, vật lý siêu lỏng của helium lỏng siêu lạnh, và vật lý hạt. Ông cũng đã đưa ra mô hình toán học mô tả ứng xử của các hạt cấp nhỏ hơn nguyên tử được mang tên "giản đồ Feynman". "Richard Feynman". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009.
↑ Sir George Paget Thomson (1892 - 1975 -- Nobel Vật lý 1937) nhà vật lý người Anh có công phát hiện (cùng với Clinton Davission) các đặc tính sóng của điện tử. "George Paget Thonmpson". Nobelprize.org. Truy cập 15/01/2010.
↑ Diễn dịch Copenhagen (Copenhagen interpretation) là một cách giải thích cơ học lượng tử trong đó ý tưởng chính cho rằng trạng thái của mỗi hạt sơ cấp được mô tả bởi một phương trình sóng được dùng để tính xác suất tìm thấy hạt đó tại một địa phương. Một cách hệ quả thì hành vi đo đạc khiến cho tập hợp các tính toán về sác xuất bị "sụp đổ" vào trong giá trị được định nghĩa bởi phép đo đạc. Tính năng biểu thị toán học này đưọc gọi là hàm sóng sụp đổ. "Copenhagen_interpretation". Wikipedia. Truy cập 15/01/2010.
↑ Đây là hai tiền đề quan trong nhất của lô-gíc toán học. Luật [loại trừ] mâu thuẫn cho rằng một mệnh đề chỉ có thể có đúng một giá chân lý. Trong khi luật loại trừ trạng thái trung gian cho rằng ngoài hai trạng thái đúng và sai thì không có mệnh đề não có giá trị nằm giữa hai mức này hay có cả hai giá trị.
↑ Có lẽ đức Dalai Lama ám chỉ những người ủng hộ chủ trương của phái Tì-bà-sa.
↑ Duy thức (sa. vijñāptimātratā), đồng nghĩa với danh từ Duy tâm (sa. cittamātra, cittamātratā), nghĩa là "chỉ có thức", các pháp đều từ Thức mà sinh ra, không có gì nằm ngoài thức. Giáo lí này chủ trương tất cả mọi sự hiện hữu đều do tâm, và vì vậy, không một hiện tượng nào tồn tại ngoài tâm. Duy thức là một tư tưởng chủ đạo của Duy thức tông. Các học giả Duy thức giải thích quy luật và sự liên kết của các giác quan nhờ vào tàng thức hay A-lại-da thức (sa. ālaya-vijñāna), Mạt-na thức và từ tập hợp của sáu giác quan trước (tiền ngũ thức). "Duy Thức". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009.
↑ Trung Quán Cụ Duyên (sa. Prasagika) là các quan điểm chủ yếu theo các luận giải của ngài Nguyệt Xứng và cũng như của ngài Phật Hộ về các pháp giảng của thánh giả Long Thụ. Ngài Long thụ sử dụng các hệ quả lập luận để bác bỏ các quan điểm sai lầm chủ yếu là phương pháp Quy mậu biện chứng (tức là mượn chính lập luận của đối phương dẫn đến các hậu quả mâu thuẫn) nhằm xác lập chẩn đế bên trong vòng hiểu biết của học thuyết nhị đế. "Prasangika". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009..
↑ Chữ nguyên văn là "identity" ở đây có tức là một bộ các đặc tính và ứng xử hay hành vi mà qua đó một sự vật có thể được nhận biết.
↑ Xem thêm chi tiết. Boris Podolsky (1896 - 1966) (Борис Подольский) là nhà vật lý Nga gốc Do Thái. "Boris_Podolsky". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009.. Nathan Rosen (1909-1995) là nhà vật lý Do Thái. Năm 1935 ông là người phụ giảng của Albert Einstein tại Institute for Advanced Study (Học viện Nghiên cứu Cao cấp) thành phố Princeton bang New-Jersey cho đến 1945. Ông là đồng tác giả với Einstein và Boris Podolsky về nghịch lý EPR trong vật lý lượng tử về mối quan hệ giữa các giá trị vật lý quan sát được của các đại lượng vật lý và các giá trị mà có thể được tính đến bởi một lý thuyết vật lý. Ông là nhà sáng lập Học viện Vật lý ở Technion, Hailfa Do Thái. Ông cũng là Hiệu trưởng Đại Học Ben-Gurion tại Negrev trong thập niên 1970. "Nathan_Rosen". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009. Nghịch lý EPR là tên viết tắt của 3 người tìm ra nó có nội dung nói về quan hệ giữa các giá trị quan sát của các đại lượng vật lý và các giá trị mà có thể tính được cho bởi một lý thuyết vật lý:
Kết qủa của sự đo đạc tiến hành trên một bộ phận A của một hệ thống lượng tử sẽ có một hiệu ứng "phi địa phương" lên thực tại vật lý một bộ phận cách xa B khác, trong ý nghĩa cơ học lượng tử về việc khả dĩ dự đoán những kết qủa logic của các đo đạc nào đó từ B; hay là...
Cơ học lượng tử thì không hoàn thiện trong ý nghĩa rằng một phần tử vật lý thực tại nào đó tương ứng với B sẽ không thể tính được bởi cơ học lượng tử (nghĩa là, cần có thêm những biến số nào khác để tính toán nó).
↑ Trong cơ học lượng tử, spin là thuộc tính nền tảng của hạt nhân nguyên tử, của các hạt hadron, và các hạt cơ bản (tức là đặc tính quay). Đối với các hạt có spin khác không, thì chiều quay là một độ tự do bản chất. "Spin (physics)". Wikipeida. Truy cập 14/02/2009..
↑ Trong triết học thì chủ trương thực tính là quan điểm cho rằng với mọi loại thực thể đặc thù, tồn tại một tập hợp các đặc trưng hay thuộc tính mà với thực thể bất kỳ của loại đó phải có đủ. Quan điểm này trái ngược với quan điểm phi thực tính cho rằng với một loại thực thể bất kỳ cho trước thì không tồn tại dấu vết nào để các thực thể thuộc loại đó phải có. "Essentialism". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009..

↑ Nguyệt Xứng (sa. candrakīrti, bo. zla ba grags pa), (thế kỉ k. 6/7), được xem là luận sư quan trọng nhất trong tông Trung quán sau Long Thụ. Sư quê ở Nam Ấn, xuất gia từ lúc nhỏ tuổi. Nhân lúc đọc trứ tác của Long Thụ, sư bỗng liễu ngộ. Sau, sư trở thành viện trưởng của Nalanda và viết nhiều bài luận chú giải về các tác phẩm của Long Thụ. Các tác phẩm quan trọng của Sư là Minh cú luận, còn nguyên bản Phạn ngữ), Nhập trung quán luận. "Nguyệt Xứng". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009..
↑ Theo Bát Nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh, một trong những bản kinh rất quan trọng của Đại thừa Trung Quán Tông thì ở mức tối hậu các khái niệm như sắc tướng, cảm xúc, tư duy, hành động, ý thức,...thậm chí đến Tứ Diệu Đế và không có cả sự chứng đắc đều không thể xác lập. Xem thêm "Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh". Wikipedia. Truy cập 15/01/2009
Chương 4
Vụ nổ lớn và vũ trụ phật giáo không có khởi nguồn
Có ai không cảm thấy cảm giác kinh hãi khi ngắm nhìn bầu trời đêm trong vắt thăm thẳm thắp sáng bởi vô vàn các tinh tú? Có ai lại không thản thốt ngạc nhiên về việc có hay không môt nền văn minh tìm ẩn trong vũ trụ? Ai không tự hỏi phải chăng đây là hành tinh duy nhất của mình hỗ trợ cho các sinh thể? Với tôi, đây là những câu hỏi tò mò tự nhiên trong tâm thức con người. Xuyên suốt lịch sử văn minh nhân loại, có một niềm thôi thúc thật sự để tìm kiếm câu trả lời cho những vấn đề trên. Hơn bao giờ hết, một trong những thành tựu to tát của khoa học hiện đại là dường như nó đem ta tới gần hơn với sự hiểu biết về những điều kiện và tiến trình phức tạp ẩn chứa nguồn gốc vũ trụ của ta.
Như nhiều nền văn hoá cổ đại, Tây Tạng có một hệ thống chiêm tinh học phức hợp mà nó bao gồm nhiều thành tố, mà dựa vào đó, nền văn minh hiện đại sẽ gọi là thiên văn học; như thế, hầu hết các vì sao thấy được bằng mắt trần đều có tên bằng tiếng Tây Tạng. Thật ra, người Tây Tạng và người Ấn Độ từ lâu đã có thể dự đoán các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực với một độ chính xác cao dựa trên các quan sát thiên văn của họ. Khi còn là đứa trẻ ở Tây Tạng, tôi đã tiêu tốn nhiều đêm vào việc quan sát bầu trời bằng kính viễn vọng của mình, vào việc học hỏi các hình dạng và tên của các chòm sao.
Tôi nhớ đến cái ngày tôi cảm thấy vui sướng khi có thể thăm viếng một đài quan sát thiên văn thực sự tại Delhi ở Planetarium Birla[1]. Năm 1973, trong thời gian công du lần tiên đến Tây Phương. Tôi đã được đại học Cambridge Anh Quốc mời thuyết giảng ở Senate House và khoa Thần học. Khi ngài hiệu phó hỏi xem tôi có muốn làm điều chi đặc biệt tại Cambridge, tôi đã trả lời không ngần ngại mong muốn được thăm kính viễn vọng vô tuyến[2] nổi tiếng ở phân khoa Thiên văn học.
Một lần tại các Hội Nghị Tâm thức và Đời sống ở Dharamsala, nhà thiên văn vật lý Piet Hut[3], từ Học viện Nghiên cứu Cấp Cao tại Princeton, đã trình diễn một mô phỏng bằng máy tính về cách thức mà các nhà thiên văn hình dung các sự kiện vũ trụ sẽ dàn trải ra khi các thiên hà va chạm nhau. Đó là một cảnh tượng tuyệt vời, một quang cảnh sống thực. Những hoạt cảnh bằng máy tính như vậy giúp người ta hình dung được cách thức mà vũ trụ bung nở ra trong suốt thời gian nó diễn tiến theo các định luật cơ bản của vũ trụ học. Sau phần trình bày của Piet Hut, chúng tôi đã có một buổi thảo luận mở. Hai người tham dự khác ở buổi gặp gỡ là David Finkelstein và George Greenstein[4], đã thử biểu diễn hiện tượng vũ trụ giản nở bằng các băng đàn hồi với các vành khuyên trên đó. Tôi nhớ rõ điều này vì cả hai người thông dịch và tôi gặp một số khó khăn trong việc hình dung vũ trụ giản nở của biểu diễn này. Sau đó, tất cả các nhà khoa học trong buổi gặp gỡ đã cộng tác nhau cố gắng để đơn giản hóa sự giải thích, mà dĩ nhiên có hiệu quả giảm bối rối của chúng tôi hơn.
Vũ trụ học hiện đại - như những ngành khác trong các khoa học vật lý - được sáng lập bởi lý thuyết tương đối của Einstein. Trong vũ trụ học các dữ liệu quan trắc thiên văn được sử dụng cùng với lý thuyết tương đối tổng quát, mà nó tái hệ thống hóa trọng trường như là một dạng uốn cong của không-thời gian, đã cho thấy rằng vũ trụ của chúng ta chẳng những không vĩnh hằng mà cũng không tĩnh yên trong dạng hiện tại của nó. Nó tiến hoá và giản nở liên lục. Phát hiện này tương hợp với hiểu biết trực giác cơ bản của các nhà thiên văn Phật giáo cổ đại, là những người đã nhận thức được rằng mọi hệ thống vũ trụ đặc trưng bất kỳ đều trải qua các giai đoạn hình thành, phát triển và sau cùng là hủy diệt[5]. Trong vũ trụ học hiện đại, vào thập niên 1920, cả dự đoán trong lý thuyết (của Alexander Friedmann[6]) lẫn quan sát thực nghiệm chi tiết (bởi Edwin Hubble), như là quan sát về hiệu ứng dịch chuyển đỏ[7] thì giá trị đo được từ nguồn ánh sáng phát ra từ các thiên hà ở xa lại lớn hơn giá trị đo được từ các thiên hà ở gần - đã biểu biểu thị một cách thuyết phục là vũ trụ thì cong và đang giản nở.
[[Image:]]Ảnh Minh Họa: Vũ Trụ Giản Nở theo trục thời gian
Sự giản nở này hình thành từ sự bùng nổ vũ trụ vỹ đại - Vụ nổ lớn nổi tiếng, mà được cho rằng đã xảy ra từ khoảng 12 đến 15 tỉ năm trước. Hầu hết các nhà thiên văn học ngày nay đều tin rằng vài giây sau vụ nổ, thì nhiệt độ giảm xuống đến một điểm mà ở đó các phản ứng đã xảy ra bắt đầu tạo nên hạt nhân của các nguyên tố nhẹ mà từ đây một thời gian rất lâu hơn sau vật chất trong vũ trụ được hình thành. Như vậy mọi thứ không gian, thời gian, vật chất và năng lượng mà ta biết và kinh nghiệm đến, được hình thành từ quả cầu lửa vật chất và phóng xạ này. Trong thập niên 1960 thì bức xạ nền vi sóng[8] đã được đã được phát hiện khắp nơi trong vũ trụ; nó được nhận biết như là một âm vang hay một sự hậu phát quang của các hậu quả của vụ nổ lớn[9]. Các đo đạc chính xác về quang phổ, phân cực và phân bố không gian của bức xạ nền đã được xác nhận rộng rãi, ít nhất là về nguyên tắc chung, trong các mô hình lý thuyết hiện tại về nguồn gốc vũ trụ.
Cho đến khi tình cờ phát hiện được các nhiễu loạn vi sóng nền này thì đã có các tranh luận đang diễn ra giữa hai trường phái lớn trong vũ trụ học hiện đại. Một số đã đưa ra hiểu biết về sự giản nở của vũ trụ theo như lý thuyết trạng thái ổn định, nghĩa là vũ trụ đang giản nở ở một tỉ lệ đều đặn với việc áp dụng các định luật thường hằng của vật lý tại mọi thời điểm. Ngược lại, số khác đã nhìn nhận sự tiến hóa trong các khuôn khổ của một vụ bùng nổ vũ trụ. Tôi đã được cho biết trong số những người chống lại mô hình trạng thái ổn định bao gồm một số tư tưởng lớn của vũ trụ học hiện đại như là Fred Hoyle[10]. Thật ra ở một điểm trong trí nhớ hiện tiền thì lý thuyết này đã một thời là quan điểm khoa học của dòng chính về nguồn gốc vũ trụ. Ngày nay, dường như hầu hết các nhà vũ trụ học đều tin rằng nhiễu loạn nền vi sóng biểu thị một cách dứt khoát giá trị của lý thuyết vụ nổ lớn. Đây là một thí dụ tuyệt vời về cách thức trong khoa học, qua sự phân tích sau cùng, mà các bằng chứng thực nghiệm thể hiện cho phán quyết đúng đắn tối hậu. Ít nhất về nguyên lý thì điều này cũng đúng trong tư tưởng Phật giáo, khi mà nó phát biểu rằng việc không tuân thủ theo quyền năng của bằng chứng chứng nghiệm tức là tự loại bỏ chính mình như là một điều có giá trị về luận chứng trong một cuộc đối thoại.
Tại Tây Tạng đã có những huyền thoại phức tạp về sự sáng thế phát nguồn từ tôn giáo trước thời Phật giáo là đạo Bön[11]. Chủ đề trung tâm trong các huyền thoại này là việc mang lại một trật tự từ sự hỗn độn, đem ánh sáng đến nơi tối tăm, đem ngày đến cho đêm, đem sự tồn tại cho trống rỗng. Những hành vi này là hậu quả của một đấng siêu nhiên, là người tạo ra vạn vật từ tiềm năng thuần khiết. Một tập hợp các huyền thoại khác miêu tả vũ trụ như là một cơ thể sống được sinh ra từ một trứng vũ trụ. Trong các truyền thống phong phú về tinh thần và triết lý cổ Ấn Độ, nhiều quan điểm mâu thuẫn về vũ trụ đã được phát triển. Các quan điểm này bao gồm những hệ thống trình bày phân hóa: như là lý thuyết của phái Số luận cổ về vật chất ban sơ vốn mô tả nguồn gốc của vũ trụ và sự sống trong đó như một sự thể hiện của tầng cơ sở tuyệt đối ẩn bên dưới; như là chủ trương nguyên tử của phái Thắng luận, vốn thay thế một số nhiều các "nguyên tử" bất khả phân như những đơn vị cơ bản của thực tại cho một tầng bên dưới đơn nhất; như là nhiều lý thuyết khác về các thánh thần Đại ngã hay Thượng đế[12] như một cội nguồn về sự sáng tạo thánh linh; và như là lý thuyết duy vật trọng căn của trường phái Charvaka[13] về tiến hóa của vũ trụ qua một sự phát triển ngẫu nhiên không mục đích của vật chất. Quan điểm Charvaka không khác nhiều với niềm tin của chủ nghĩa duy vật khoa học rằng tâm thức có thể sản sinh từ thực chất sinh hóa và thần kinh và những thứ này đến lượt lại có thực tế của vật lý. Phật giáo, ngược lại, giải thích tiến hóa của vũ trụ trong khuôn khổ nguyên lý về nguồn gốc phụ thuộc (lý duyên khởi), trong đó nguồn gốc và sự tồn tại của vạn vật phải được hiểu trong nội dung về một mạng lưới phức tạp của các nguyên nhân (nhân) và các điều kiện (duyên) nối kết lẫn nhau. Điều này áp dụng cho cả ý thức lẫn vật chất.
Theo các kinh điển sơ khai, đức Phật tự thân chưa bao giờ trực tiếp trả lời các câu hỏi đặt ra cho Ngài về nguồn gốc của vũ trụ. Trong một ẩn dụ nổi tiếng, Đức Phật nêu cho người hỏi về những vấn đề như thế tựa như một người bị thương bởi một mũi tên độc[14]. Thay vì để cho người chữa thương lấy mũi tên ra, thì người bị thương lại nhất nhất trước tiên đòi tìm ra địa vị, tên, và tộc của người đàn ông đã bắn mũi tên đó; để xem người bắn tên đen, ngâm hay vừa; xem ông ta trong làng, thị tứ hay thành phố; xem vũ khí được dùng là cung hay nỏ; xem dây căng cánh cung là sợi bông, cỏ tranh, dây gai, dây gân, hay vỏ cây; để xem mũi tên được làm từ gỗ rừng hay từ cây trồng; và vân vân. Các diễn dịch về ý nghĩa của sự từ chối trả lời của đức Phật cho những câu hỏi này thì khác nhau rõ rệt. Một quan điểm về sự từ chối của đức Phật là vì những câu hỏi siêu hình học này không trực tiếp liên quan đến sự giải thoát. Một quan điểm khác, chủ yếu luận giải bởi Long Thụ, là ở mức mà các câu hỏi đã bị đóng khung trong quan điểm thực tại tự tính[15] của sự vật và không theo quan điểm duyên khởi, thì việc trả lời sẽ dẫn tới làm sâu chắc thêm lòng tin vào sự tồn tại tự tính, vững chắc.
Những câu hỏi được phân nhóm một cách hơi khác nhau tùy theo các truyền thống Phật giáo riêng rẽ. Kinh điển Pali[16] liệt kê 10 câu hỏi "không giải đáp" như vậy, trong khi truyền thống cổ điển Ấn Độ được tiếp thụ bởi người Tây Tạng liệt kê 14 câu hỏi sau:
Phải chăng ngã và vũ trụ là vĩnh hằng?
Phải chăng ngã và vũ trụ đoạn diệt?
Phải chăng ngã và vũ trụ vừa vĩnh hằng vừa đoạn diệt?
Phải chăng ngã và vũ trụ vừa không vĩnh hằng vừa không đoạn diệt?
Phải chăng ngã và vũ trụ có khởi đầu?
Phải chăng ngã và vũ trụ không có khởi đầu?
Phải chăng ngã và vũ trụ vừa có khởi đầu vừa không có khởi đầu?
Phải chăng ngã và vũ trụ vừa không có khởi đầu vừa không có không khởi đầu?
Phải chăng Đấng Hỉ Lạc tồn tại sau khi viên tịch?
Phải chăng Đấng Hỉ Lạc không tồn tại sau khi viên tịch?
Phải chăng Đấng Hỉ Lạc vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi viên tịch?
Phải chăng Đấng Hỉ Lạc vừa không tồn tại vừa không không tồn tại sau khi viên tịch?
Phải chăng tâm chính là thân?
Phải chăng tâm và thân là hai thực thể tách biệt?
Mặc dù với truyền thống kinh điển về sự từ khước tiến hành diễn thuyết siêu hình ở mức này, Phật giáo như là một hệ thống triết học trong thời cổ Ấn Độ, đã phát triển một lịch sử lâu dài của việc nghiên cứu sâu vào những câu hỏi lâu đời và nền tảng về sự tồn tại và về thế giới mà chúng ta sống trong đó. Truyền thống Tây Tạng của riêng tôi cũng đã thừa hưởng di sản triết học này.
Có hai truyền thống về vũ trụ quan trong Phật giáo. Một là hệ thống Vi Diệu Pháp[17], được chia sẽ bởi nhiều trường phái Phật giáo như là Phật giáo Nguyên Thuỷ, mà là tuyền thống chủ đạo ngày nay ở các nước như là Thái Lan, Tích Lan, Burma, Campuchia, và Lào. Mặc dù truyền thống của Phật giáo đến Tây Tạng là Phật giáo Đại thừa, một cách đặc biệt, đó là phiên bản của Phật giáo Ấn Độ được biết như là truyền thống Nalanda, tâm lý học và vũ trụ học Vi Diệu Pháp trở thành bộ phận quan trọng của cảnh quang tri thức Tây Tạng. Tập luận Vi Diệu Pháp Báu Luận[18] của ngài Thế Thân đã đem lại cho Tây Tạng một hệ thống Vi Diệu Pháp về thiên văn học. Truyền thống thứ nhì về vũ trụ học ở Tây Tạng được tìm thấy trong một tập hợp tài liệu Phật giáo Kim Cương Thừa quan trọng thuộc loại kinh điển lý thuyết và thực hành Kalachakra[19], nghĩa là "bánh xe thời gian". Mặc dù truyền thống [Tây Tạng] quy các giáo pháp cốt lõi của thời kỳ Kalachakra là từ đức Phật, nhưng thật khó để xác minh chính xác niên đại thời gian khởi nguồn của các hoạt động đã biết trong hệ thống này. Theo các dịch thuật của các kinh điển chính yếu về Kalachakra từ Phạn ngữ sang Tạng ngữ trong thế kỉ 11, thì Thời Luân giữ một vị trí quan trọng trong di sản Phật giáo Tây Tạng.

Vào lứa tuổi 20, tôi bắt đầu học hệ thống các kinh điển bàn về vũ trụ quan Vi Diệu Pháp, lúc đó tôi đã biết thế giới tròn, đã quan sác các ảnh chụp các miệng núi lửa trên bề mặt của mặt trăng trong các tạp chí, và một bản in nào đó về qũy đạo quay của trái đất và mặt trăng quanh mặt trời. Nên phải thừa nhận rằng tôi đã nghiên cứu sự trình bày cổ điển của Ngài Thế Thân về hệ thống vũ trụ Vi Diệu Pháp mà không bị lôi cuốn nhiều.
Vũ trụ quan Vi Diệu Pháp mô tả mặt đất phẳng, xung quanh là các thiên thể thuộc cõi khác như mặt trời và mặt trăng quay quanh. Theo thuyết này thì trái đất là một trong bốn "châu lục" - thật ra là châu lục phía nam (Nam Thiệm Bộ Châu) - các châu lục nằm theo các phương hướng chính của một ngọn núi cao lớn vượt trội là núi Tu Di[20] ở trung tâm của vũ trụ. Bên sườn mỗi châu lục như thế là hai châu lục nhỏ hơn, mà khoảng cách giữa chúng được phủ đầy bởi các đại dương lớn. Toàn bộ hệ thống thế giới này được hỗ trợ bởi một "nền", mà đến lượt nó, được treo lại trong không gian trống rỗng. Năng lực của "khí" giữ cho nền móng được trôi trong không gian trống rỗng. Thế Thân cung cấp một mô tả chi tiết về đường quỹ đạo của mặt trời và mặt trăng, kích thước và khoảng cách của chúng tới mặt đất.
Các kích thước và khoảng cách này hoàn toàn mâu thuẫn với các bằng chứng thực nghiệm của khoa học thiên văn hiện đại. Có một châm ngôn trong triết học Phật giáo là việc duy trì một giáo thuyết với lý lẽ mâu thuẫn là hủy hoại tín nhiệm của chính mình; còn duy trì giáo thuyết mâu thuẫn với bằng chứng thực nghiệm thì lại là sự sai lầm lớn hơn. Vậy thì thật là khó để mà chấp nhận vũ trụ quan Vi Diệu Pháp theo nghĩa đen. Thật thế, ngay cả khi không nhờ vào khoa học hiện đại, thì cũng có đủ một dãy các mô hình mâu thuẫn về vũ trụ quan nội trong tư tưởng Phật giáo để đặt câu hỏi về sự thật đúng đắn của bất kỳ phiên bản đặc biệt nào. Quan điểm riêng tôi là Phật giáo phải từ bỏ nhiều khía cạnh của vũ trụ quan Vi Diệu Pháp.
Điều gì khiến cho chính ngài Thế Thân tìn vào thế giới quan Vi Diệu Pháp thì vẫn còn là câu hỏi bỏ ngõ. Ngài trình bày một cách có hệ thống nhiều giả định khác nhau đã có thời đó tại Ấn Độ. Nói một cách nghiêm túc, sự mô tả vũ trụ và những nguồn gốc của nó - tức là điều mà kinh điển Phật giáo định nghĩa như là một "chỗ chứa" [tạng giới] - là thứ yếu so với bản chất và nguồn gốc của chúng sinh hữu tình, những sinh thể "được chứa". Học giả người Tạng là Gedün Chöphel, là người đã châu du xuyên suốt lục địa Ấn-độ trong thập niên 1930, đã cho rằng Vi Diệu Pháp mô tả trái đất như là lục địa phương nam biểu thị một bản đồ cổ của trung tâm Ấn-độ. Cho dù trực cảm này đúng hay cho dù các nơi đó thật sự được đặt tên "các lục địa" được nghĩ là bao bọc núi Tu Di thì đây vẫn là câu hỏi chưa khép...
Trong vài kinh điển cổ xưa, các hành tinh được mô tả như là các thiên thể hình cầu treo lơ lững trong không gian trống rỗng, không mấy khác biệt với khái niệm về các hệ hành tinh trong vũ trụ học hiện đại. Trong Vũ trụ học Thời Luân, một chuỗi xác định được biết về sự tiến hoá của các thiên thể trong thiên hà hiện tại của chúng ta. Trước tiên các ngôi sao được tạo nên, sau đó hệ mặt trời hình thành, và vân vân. Điều đáng chú ý trong cả hai vũ trụ quan Kalachakra và Vi Diệu Pháp là bức tranh hùng vỹ chúng cung cấp về nguồn gốc của vũ trụ. Có một sự công nhận là thế giới của chúng ta chỉ là một trong vô số các hệ thống thế giới. Cả Vi Diệu Pháp và Kalachakra đều cung ứng một thuật ngữ chuyên môn là Tam Thiên Đại Thiên Thế giới (mà tôi tin là vào khoảng một tỉ hệ thống thế giới) để chuyển đạt ý kiến về các hệ thống vũ trụ khổng lồ, và cả hai đều cho là có vô số các hệ thống như thế. Vậy về nguyên lý, dù không có điểm "khởi đầu" hay "kết thúc" vũ trụ như một toàn thể, thì vẫn có tiến trình thời gian xác định của một điểm khởi đầu (thành), ở giữa (trụ), và kết thúc (diệt) trong quan hệ đến bất kỳ hệ thống thế giới riêng lẽ nào.
Sự tiến hoá của một vũ trụ đặc thù thì được hiểu trong khuôn khổ của bốn đại kiếp, được biết như là các giai đoạn của (1) trống rỗng [Không], hình thành [Thành], ổn định [Trụ], và sau cùng là hủy hoại [Hoại Diệt]. Mỗi giai đoạn được cho là tồn tại trong một thời gian rất lâu, hai "trung kiếp"[21], và chỉ có trong trung kiếp sau cùng của giai đoạn Thành thì chúng sinh hữu tình [sinh giới] mới phát triển. Sự hủy diệt của hệ thống vũ trụ có thể gây ra bởi bất kỳ một trong 3 thành tố khác hơn đất và không gian - đúng hơn đó là nước, lửa, và gió. Thành tố nào dẫn dắt đến sự hủy hoại của hệ thống thế giới trước sẽ tác động như là cơ sở cho sự tạo thành của một vũ trụ mới.
Do đó, trọng tâm của vũ trụ quan Phật giáo không chỉ là ý kiến về việc có nhiều hệ thống thế giới - theo một số kinh văn thì số này nhiều vô lượng hơn cả cát ở sông Hằng[22] - mà cả ý kiến về trạng thái không ngừng của các thế giới được hình thành và các thế giới chết đi. Điều này có nghĩa là vũ trụ không có khởi đầu tuyệt đối. Ý kiến này cũng là những câu hỏi nền tảng cho khoa học. Phải chăng chỉ có một vụ nổ lớn hay có nhiều? Phải chăng có một vũ trụ hay có nhiều, hay ngay cả có vô số? Vũ trụ có giới hạn hay không có giới hạn như đức Phật đã khẳng định? Liệu vũ trụ của chúng ta sẽ giản nở vô cùng tận hay sự giản nở của nó sẽ chậm lại và ngay cả có rút, như vậy cuối cùng sẽ kết thúc bởi một vụ sập đổ lớn[23]? Có phải vũ trụ của chúng ta là một phần của việc tái sinh vũ trụ thường xuyên? Các nhà khoa học đang bàn cải những vấn đề này rất kịch liệt. Từ một quan điểm Phật giáo, có thêm câu hỏi xa hơn. Ngay cả khi cho rằng chỉ có một vụ nổ vũ trụ, ta vẫn có thể đặt câu hỏi, phải chăng đây là nguồn gốc của toàn bộ vũ trụ hay hay điều này chỉ đánh dấu nguồn gốc của một hệ thống vũ trụ riêng biệt? Vậy nên câu hỏi chià khóa là phải chăng Vụ Nổ Lớn - mà theo vũ trụ học hiện đại, là điểm bắt đầu hệ thống vũ trụ của chúng ta - là một bắt đầu thật sự của mọi thứ.
Theo nhãn quan Phật giáo, thì ý tưởng cho rằng chỉ có một khởi đầu xác định có vấn đề lớn. Nếu có một khởi đầu tuyệt đối như vậy, nói một cách hợp lý, thì điều này đem lại hai lựa chọn. Một là chủ trương hữu thần, đề xuất rằng vũ trụ được tạo ra bởi một đấng thông tuệ tuyệt đối siêu việt, và do đó đứng ngoài các quy luật nhân quả. Lựa chọn thứ hai là vũ trụ được hình thành từ không có nguyên nhân nào cả. Phật giáo bác bỏ cả hai lựa chọn trên. Nếu vũ trụ được tạo bởi một đấng thông tưệ trước đó, thì các câu hỏi về trạng thái bản thể của một đấng thông tuệ như thế và loại thực tại nào mà đấng đó lưu giữ.
Nhà lập luận và suy lý vỹ đại Pháp Xứng (thế kỉ thứ 7) đã trình bày một cách thuyết phục về một phê phán có tính Phật giáo mẫu mực lên chủ trương vô thần. Trong tác phẩm "Lượng quyết Định Luận"[24] đã phê phán dữ dội một số trong các "chứng minh" có tầm ảnh hưởng lớn nhất về sự tồn tại của Đấng sáng tạo, được hệ thống hóa bởi các trường phái triết học hữu thần Ấn Độ. Một cách yếu lược, các luận điểm bên vực hữu thần là như sau: các thế giới của kinh nghiệm nội tâm và của vật chất bên ngoài được tạo ra bởi một đấng thông tuệ, bởi vì (a) như các công cụ của người thợ mộc, chúng vận hành theo một dãy liền nhau theo một trật tự; (b) như những đồ vật nhân tạo chẳng hạn các chiếc bình, chúng có các hình dáng; và (c) như các vật dụng hàng ngày, chúng có hệu lực nhân quả.
Những lý lẽ này, tôi nghĩ, có sự giống nhau với một luận điểm hữu thần trong truyền thống triết học Tây phương được biết đến như là Thiết kế luận[25]. Luận điểm này coi trọng trật tự mà ta lãnh hội từ tự nhiên như là bằng chứng cho một sự thông tuệ đã phải đem lại cho sự vật. Cũng giống như là người ta không thể nhận thức về một chiếc đồng hồ nếu như không có người thợ làm đồng hồ, Vậy nên thật khó để nhận thức về một vũ trụ trật tự mà thiếu một đấng thông tuệ đứng đàng sau nó.
Các trường phái triết học cổ Ấn Độ có dàn trải một hiểu biết hữu thần về nguồn gốc vũ trụ thì cũng phân hóa như là các bộ phận tương ứng ở Tây Phương. Phân nhánh của một trong những trường phái cổ nhất là Shamkhya, duy trì quan điểm cho rằng vũ trụ hình thành thông qua sự tác động có tính sáng tạo lẫn nhau của điều mà họ gọi là "vật chất nguyên thủy", là prakit và Ishava, là Thượng đế. Đây là một lý thuyết siêu hình tinh tế dựa trên luật tự nhiên về nhân quả, giải thích vai trò của Thần Thánh cho nội dung của những chức năng bí ẩn hơn của thực tại, như là sự sáng thế, mục đích của sự tồn tại, và những vấn đề khác.
Điểm then chốt trong phê phán của ngài Pháp Xứng bao gồm việc biểu thị một mâu thuẫn nền tảng mà ngài nhận thấy trong trong lập trường hữu thần. Ngài chỉ ra rằng chính nổ lực để giải thích nguồn gốc của vũ trụ trong các nội dung hữu thần được tác ý từ nguyên lý nhân quả, nhưng - trong phân tích tối hậu - chủ trương hữu thần lại buộc phải loại bỏ nguyên lý này. Bằng việc đặt ra một sự bắt đầu tuyệt đối cho một chuỗi nhân quả, những nhà thần học đang ngầm công nhận rằng khả dĩ có một sự việc nào đó, ít nhất đó là một nguyên nhân, mà tự nó nằm ngoài luật nhân quả, và tự chính nó không có nguyên do [tạo ra chính nó]. Nguyên nhân đầu tiên này sẽ phải là một nguyên lý vĩnh hằng và tuyệt đối. Nếu vậy thì làm thế thế nào người ta có thể biện giải cho khả năng để tạo ra các sự vật và hiện tượng mà chúng là vô thường? Pháp Xứng luận rằng không một hiệu lực có tính nguyên nhân nào có thể phù hợp với nguyên lý vĩnh hằng như thế. Một cách cốt lõi, Ngài tuyên thuyết rằng sự mặc nhận của một nguyên nhân đầu tiên sẽ phải là giả thuyết siêu hình chủ quan. Nó không chứng minh được.
Sư Vô Trước, viết trong thế kỉ thứ tư, rằng đã hiểu rõ nguồn gốc của vũ trụ trong khuôn khổ của lý thuyết duyên khởi. Thuyết này khẳng định tất cả mọi sự vật khởi lên và đi đến kết thúc trong sự phụ thuộc vào các nguyên nhân và điều kiện. Ngài Vô Trước nhận diện 3 diều kiện cốt lõi bao trùm duyên khởi. Thứ nhất là điều kiện không có mặt của một đấng thông tuệ đứng trên nó. Ngài bác bỏ khả năng một vũ trụ có từ sự sáng tạo của một đấng thông tuệ đứng trên, luận rằng nếu có một đấng có một sự thông tuệ như thế, thì đấng đó phải hoàn toàn siêu việt khỏi nhân quả. Đấng tuyệt đối thường hằng, siêu việt, và qua khỏi nội hàm của luật nhân quả sẽ không thể có khả năng tương tác với nguyên nhân và hậu quả, và do đó, không thể khởi động hay làm ngừng một việc gì đó. Thứ nhì là điều kiện về vô thường, xác định rằng chính các nhân và duyên tạo ra sự hình thành thế giới duyên khởi tự chính chúng là vô thường và tạo ra sự thay đổi. Thứ ba là điều kiện về tiềm năng: Nguyên lý này đề cập đến sự kiện rằng một sự vật nào đó không thể được tạo sinh chỉ bởi vật bất kỳ. Mà đúng hơn, với một tập hợp của các nhân duyên đặc thù tạo khởi lên các hậu quả hay các dãy sự kiện đặc thù, thì phải có một kiểu quan hệ nào đó giữa chúng. Ngài Vô Trước khẳng định rằng nguồn gốc của vũ trụ phải được hiểu trong khuôn khổ của nguyên lý về một chuỗi vô hạn của nhân quả không có đấng thông tuệ siêu việt hay đứng trên nó.
Khoa học và Phật giáo cùng chia sẽ sự không hài lòng cơ bản về sự mặc định của một đấng siêu việt như là nguồn gốc của vạn vật. Thật là một điều ngạc nhiên khó tin rằng cả hai truyền thống nghiên cứu này đều chủ yếu có tính vô thần trong các ý hướng triết học của chúng. Dù sao thì, nếu một mặt vụ nổ lớn được xem là sự khởi đầu tuyệt đối, tức là hàm ý rằng vũ trụ có một thời điểm gốc tuyệt đối, ngoại trừ việc từ chối truy cứu xa hơn vụ nổ vũ trụ này, thì các nhà vũ trụ học dù muốn hay không phải chấp nhận một loại nguyên lý siêu việt nào đó như là nguyên do của vũ trụ. Đấng này có thể không phải cùng một Thượng đế mà các nhà thần học mặc nhiên thừa nhận; dù vậy, trong vai trò cơ bản của nó như là một đấng sáng tạo, thì nguyên lý siêu việt này sẽ là một loại thánh thần.
Mặt khác, nếu (như một số nhà khoa học đã lên tiếng) vụ nổ lớn ít có ý nghiã như là thời điểm khởi đầu hơn, mà là thời điểm của sự mất cân bằng nhiệt động học, thì sẽ có thêm chỗ cho việc hiểu biết với nhiều sắc thái và phức tạp hơn về sự kiện vũ trụ này. Tôi đã được cho biết là nhiều nhà khoa học cảm thấy nhiệm vụ thẩm định thì vẫn còn để xem liệu Vụ nổ lớn có phải là sự khởi đầu tuyệt đối của vạn vật hay không. Cho đến nay, tôi cũng được biết thêm, là bằng chứng thực nghiệm có tính thuyết phục duy nhất là môi trường vũ trụ của chúng ta dường như đã tiến hoá từ một trạng thái cực kỳ nóng và đậm đặc. Cho đến khi có thêm bằng chứng có tính thuyết phục được tìm ra trong nhiều khía cạnh khác nhau của lý thuyết vụ nổ lớn, và những tri kiến quan trọng của vật lý lượng tử và lý thuyết tương đối được tích hợp nhau hoàn toàn, thì nhiều vấn đề vũ trụ học đã nảy sinh ở đây sẽ vẫn còn trong vòng siêu hình, chưa phải khoa học thực nghiệm.
Theo vũ trụ quan Phật giáo, thế giới được cấu trúc bởi năm thành tố: thành tố hỗ trợ không gian và 4 thành tố cơ bản [Tứ Đại] là đất, nước, lửa, và gió. Không gian cho phép sự tồn tại và việc vận hành của tất cả thành tố khác. Hệ thống Thời Luân trình bày không gian không như là một sự trống rỗng hoàn toàn, nhưng là một loại chất liệu "những hạt trống rỗng" hay "những hạt không gian", chúng được cho là các hạt "vật chất" cực kỳ vi tế. Thành tố không gian này là cơ sở cho sự tiến hoá và tan rã của bốn thành tố vốn được tạo thành từ thành tố không gian và trở lại cuốn hút vào trong nó. Tiến trình phân hủy xảy ra theo thứ tự: đất, nước, lửa, và gió. Tiến trình thành lập xảy ra theo thứ tự: gió, lửa, nước, và đất.
Ngài Vô Trước khẳng định rằng các thành tố cơ bản này, vốn được ngài mô tả như là "tứ đại", sẽ không được hiểu trong khuôn khổ ý nghĩa nghiêm ngặt về vật chất. Ngài miêu tả sự khác nhau giữa "tứ đại", mà phần nhiều giống như là các tiềm năng, và bốn thành tố cấu thành của các sắc uẩn. Có lẽ bốn thành tố trong một đối tượng vật chất có thể hiểu tốt hơn như là thể rắn (đất), thể lỏng (nước), nhiệt (lửa) và động năng (gió). Bốn thành tố này được tạo ra từ mức vi tế cho thế mức thô, từ nguyên nhân bên dưới của các hạt trống rỗng, và chúng phân hủy từ mức thô thiển đến vi tế trở về các hạt trống rỗng của không gian. Không gian, với những hạt trống rỗng là cơ sở cho toàn bộ tiến trình. Thuật ngữ hạt có lẽ không được chính xác khi dùng tới trong những hiện tượng này, bởi vì nó bao hàm các thực tại vật chất có hình thái. Thật không may, có rất ít miêu tả trong các kinh luận giúp cho việc định nghĩa những hạt không gian rõ hơn.
Vũ trụ quan Phật giáo xác lập chu kỳ của vũ trụ theo cách sau đây: truớc tiên là thời kỳ hình thành [thành], kế đến là giai đoạn tồn tại [trụ], sau đến là thời kỳ mà nó bị tiêu hủy [hoại diệt], tiếp theo đó là giai đoạn không trước khi thành lập một vũ trụ mới. Trong suốt thời kí thứ tư của tính Không, thì các hạt tử không gian vẫn tồn tại và chính từ những hạt không gian này mà tất cả vật chất trong một vũ trụ mới được thành hình. Các hạt không gian mà chúng ta tìm thấy này chính là nguyên nhân nền tảng của toàn bộ thế giới vật lý. Nếu mong muốn mô tả sự hình thành của vũ trụ và các thể vật lý của chúng sinh, ta cần phân tích cách thức các thành tố khác nhau cấu trúc sao cho vũ trụ đã có thể tạo lập từ các hạt không gian này.
Dựa trên cơ sở về tiềm năng đặc biệt của các hạt đó mà các cấu trúc của vũ trụ và vạn vật bên trong nó có mặt - bao gồm các hành tinh, các vì sao, chúng sinh hữu tình như là con người và cầm thú. Nếu truy ngược đến nguyên do tối hậu của các vật thể vật chất của thế giới, cuối cùng ta sẽ tìm đến các hạt không gian. Chúng có trước vụ nổ lớn (mà ta nói là đối với bất kỳ sự bắt đầu nào) và thật sự vẫn lưu lại từ vũ trụ đã bị phân rã trước đó. Tôi có được nghe một số nhà vũ trụ học ủng hộ ý kiến cho rằng vũ trụ của chúng ta hởi lên như là sự giao động từ điều được gọi là chân không lượng tử[26]. Đối với tôi, ý tưởng này âm vang lại lý thuyết Thời Luân về các hạt tử không gian.

Từ quan điểm vũ trụ học hiện đại, thì việc tìm hiểu về nguồn gốc của vũ trụ trong thời gian vài giây đầu đặt ra một thử thách hầu như không vượt qua nổi. Một phần của nan đề nằm trong việc bốn lực cơ bản - bao gồm trọng lực, lực điện từ trường, lực yếu và lực mạnh - không hoạt dụng tại thời điểm này. Chúng chỉ khởi tác sau đó, khi mà mật độ và nhiệt độ của giai đoạn phát khởi đã giảm một cách đáng kể khiến cho các hạt cơ bản của vật chất, [và sau đó] như là [các hạt nhân] Hydro và Helium bắt đầu được tạo thành. Sự khởi đầu chính xác của vụ nổ lớn là điều được gọi là một "kỳ dị"[27]. Tại đây, tất cả các phương trình toán học và các định luật vật lý đều bị gãy đổ. Các đại lượng thông thường có thể đo đạc được như là mật độ và nhiệt độ, trở nên không xác định tại thời điểm như thế.
Vì nghiên cứu khoa học về nguồn gốc vũ trụ đòi hỏi ứng dụng của các phương trình toán và giả thiết về tính hiệu lực của các định luật vật lý, nên có vẻ rằng, nếu các phương trình và các định luật này bị gãy đổ, thì ta phải tự hỏi phải chăng chúng ta có thể một lúc nào đó đạt tới một hiểu biết hoàn thiện về vài giây khởi đầu của vụ nổ lớn. Những bằng hữu khoa học gia đã cho tôi hay rằng một số trong những ý tưởng kiệt suất nhất đã khởi động trong việc tìm tòi về câu chuyện của các giai đoạn đầu thành lập vũ trụ của chúng ta. Tôi nghe rằng một số tin tưởng vào lời giải đáp cho điều đang thể hiện như là các nan đề phải nằm trong viêc tìm ra một lý thuyết thống nhất mới, giúp tổng hợp tất cả các luật vật lý đã biết. Có vẻ như nó khả dĩ phối hợp được hai mẫu hình về vật lý hiện đại mà dường như là mâu thuẫn lẫn nhau - đó là, lý thuyết tương đối và cơ học lượng tử. Tôi được cho biết rằng các giả thiết tiên đề của hai lý thuyết này đến nay chứng tỏ không thể hoà hợp được. Lý thuyết tương đối thừa nhận rằng sự tính toán đúng về điều kiện chuẩn xác của vũ trụ ở một thời điểm trước bất kỳ thì có thể đạt được nếu người ta có đủ dữ kiện. Cơ học lượng tử, ngược lại, khẳng định rằng thế giới các hạt vi mô có thể được hiểu chỉ trong các khái niệm xác suất, bởi vì ở mức nền tảng, thế giới bao gồm những khối hay lượng vật chất (do vậy có tên vật lý lượng tử), mà lại là chủ thể của nguyên lý bất định. Các lý thuyết với tên lạ lẫm như là thuyết siêu dây[28] hay thuyết M[29] đang được đề xuất như là các ứng viên cho lý thuyết thống nhất mới.
Một thách đố xa hơn nữa vào chính tầm ngắm của việc thâu nhận tri thức đầy đủ về sự khởi mào nguồn cội vũ trụ của chúng ta. Ở mức nền tảng, cơ học lượng tử nói cho ta biết tính bất khả tiên đoán chính xác về cách thức mà một hạt có thể ứng hoạt trong một tình trạng biết trước. Do đó, người ta chỉ có thể đưa ra các dự đoán về ứng hoạt đó của các hạt trên cơ sở xác suất. Nếu vậy, bất kể các công cụ toán học có mạnh đến thế nào, thì vì tri thức của chúng ta về các điều kiện khởi đầu của một hiện tượng hay một sự kiện cho trước sẽ luôn luôn không hoàn bị, nên chúng ta không thể hiểu biết hoàn toàn cách mà phần còn lại của câu chuyện mở ra. Một cách tối hảo là ta có thể đưa ra các giả định gần đúng, nhưng sẽ không bao giờ đạt tới một mô tả hoàn bị ngay cả của chỉ một nguyên tử chứ chưa nói đến toàn bộ vũ trụ.
Trong thế giới Phật giáo, có một thừa nhận về sự bất khả thực thi về việc đạt tới tri kiến toàn bộ về nguồn gốc của vũ trụ. Trong một bản kinh Đại thừa tựa đề "Kinh Hoa Nghiêm"[30] có một phần bàn luận dài về các hệ thống vũ trụ không biên giới và các giới hạn của kiến thức nhân loại. Một phẩm có tên gọi là "A Tăng Kỳ" cung cấp một dãy các tính toán về một con số cực lớn, lên đến tột độ trong các thuật ngữ như là "không thể tính được", "không thể suy lường", "không giới hạn" và "không so sánh được". Con số lớn nhất là "bình phương không kể xiết", được giảng là một hàm số của "bất khả thuyết" nhân cho chính nó! Một người bạn bảo cho tôi biết là số này có thể viết vào khoảng 1059. Kinh Hoa Nghiêm áp những con số bất khả tư nghì [không thể nghĩ bàn] này lên các hệ thống vũ trụ, cho rằng nếu thế số thế giới không kể xiết được giảm nhỏ thành các nguyên tử và mỗi nguyên tử chứa không kể xiết các thế giới, thì số các thế giới sẽ không bị đếm hết.
Tương tự, trong một bài kệ hay, kinh này so sánh thực tại của thế giới nối kết lẫn nhau một mạng lưới vô hạn các châu báu một cách phức tạp và sâu sắc gọi là "lưới ngọc Đế Thích[31]" mà đạt tới được vô hạn không gian. Tại mỗi mắt lưới là một tinh thể ngọc nối kết với tất cả các viên ngọc khác và phản chiếu trong chính nó tất cả các viên ngọc khác. Trên lưới như thế, không có viên châu báu nào ở trung tâm hay ở ngoài cạnh. Chính mỗi viên ngọc là ở trung tâm trong ý nghĩa là nó phản chiếu tất cả các viên ngọc khác trên lưới. Đồng thời, nó là ở cạnh ngoài trong ý nghĩa tự nó được phản chiếu trong tất cả những viên ngọc khác[32]. Cho trước một sự nối kết lẫn nhau sâu sắc của mọi thứ trong vũ trụ, thì không thể có một hiểu biết toàn bộ của ngay cả chỉ một nguyên tử ngoại trừ đó là nhất thiết trí. Để hiểu biết ngay chỉ một nguyên tử hoàn toàn sẽ bao hàm tri thức về các quan hệ của nó với tất cả hiện tượng trong vũ trụ vô hạn.
Kinh văn Thời Luân cho là, trước lúc hình thành, mỗi vũ trụ đặc thù bất kỳ lưu lại trong trạng thái Không, ở đó tất cả các thành tố vật chất của nó tồn tại trong dạng tiềm năng như là "các hạt không gian". Tại một thời điểm nào đó, khi các xu hướng nghiệp của các chúng sinh hữu tình - là những sinh thể thích hợp để tiến hóa trong vũ trụ đặc thù này - được chín mùi, thì "các hạt gió" bắt đầu tụ lại nhau, tạo nên gió vũ trụ. Sau đó "các hạt lửa" kết cấu theo cùng một cách thức tạo nên các thu nạp "nhiệt" mạnh mẽ du hành xuyên suốt khoảng không. Tiếp theo sau đó, các "hạt nước" tích tụ và tạo thành "mưa" như thác đi kèm với sấm chớp. Cuối cùng, "các hạt đất" tích tụ và kết hợp với những thành tố khác, bắt đầu tiếp tục sự tạo thành của sự rắn đặc. Thành tố thứ năm, "không gian" được cho là ngập khắp tất cả các thành tố khác và như là một lực nội tại và do đó không chiếm giữ một sự tồn tại riêng biệt. Qua một tiến trình thời gian dài, các thành tố này giản nở để hình thành vũ trụ vật lý như là chúng ta biết và trải nghiệm nó.
Cho đến giờ chúng ta đã nói về nguồn gốc vũ trụ với ý tưởng như là nó chỉ bao gồm một trộn lẫn của vật liệu không sống động và năng lượng - tức là sự ra đời của các thiên hà, các ngôi sao, các hành tình, và đủ loại các hạt hạ nguyên tử. Tuy nhiên, từ quan điểm Phật giáo, có một vấn đề kịch tính về vai trò của ý thức. Chẳng hạn, vốn có trong cả vũ trụ quan Thời Luân lẫn Vi Diệu Pháp là ý kiến về sự hình thành một hệ thống vũ trụ đặc thù được nối kết một cách mật thiết với các xu hướng nghiệp của các chúng sinh hữu tình. Trong ngôn ngữ hiện đại, các vũ trụ quan Phật giáo này có thể được xem như là việc đề xuất rằng hành tinh của chúng ta tiến hoá trong một cách thức mà nó có thể hỗ trợ sự tiến hoá của chúng sinh hữu tình trong các dạng vô số các chủng loại tồn tại ngày nay trên trái đất.
Nhắc đến nghiệp ở đây, tôi không cho rằng theo Phật giáo thì mọi thứ đều là chức năng của nghiệp. Chúng ta phải phân định khác nhau giữa sự vận hành của luật tự nhiên về nhân quả mà bởi đó, một khi một tập hợp của các điều kiện nào đó áp đặt lên trong sự vận hành thì chúng sẽ có một tập hợp các hậu quả tương ứng nào đó, và luật về nghiệp, bởi đó hành động chủ tâm sẽ gặt hái về những thành quả. Vậy nên chẳng hạn nếu một đám lửa trại đã bị bỏ lại trong một khu rừng và bén vào những cành khô, dẫn tới một trận cháy rừng, sự thật là một khi các cây rừng bắt lửa chúng cháy, trở thành than và khói thì đơn giản là sự vận hành của luật nhân quả, được tạo ra bởi bản chất của lửa và các vật liệu bị cháy. Không có nghiệp dính líu vào trong dãy các sự kiện này. Nhưng có một người lựa chọn đốt lửa trại và quên không dập tắt nó - và khởi đầu cho chuỗi các sự kiện - thì ở đây nhân quả có tính nghiệp đã dính líu vào.
Theo quan điểm riêng của tôi thì toàn bộ tiến trình dàn trải của một hệ thống vũ trụ là vấn đề của luật tự nhiên về nhân quả. Tôi hình dung nghiệp tham gia vào tiến trình này ở hai điểm. Khi vũ trụ đã tiến hóa đến một giai đoạn mà nó có thể hỗ trợ sự sống của các chúng sinh hữu tình, thì số phận của vũ trụ đã trở nên dính mắc cùng với nghiệp của các chúng sinh sẽ sống trong đó. Điểm khó khăn hơn có lẽ là sự can gián lần đầu tiên của nghiệp vốn là một sự chín mùi một cách có hiệu quả của tiềm năng nghiệp của các chúng sinh hữu tình là giới sẽ chiếm hữu vũ trụ; nghiệp đó cũng xếp đặt trong sự vận hành của việc hình thành của vũ trụ.
Thấy được chính xác ở chỗ nào nghiệp giao thoa với luật tự nhiên về nhân quả thì theo truyền thống được cho là chỉ nằm trong khả năng tâm thức nhất thiết trí của đức Phật. Câu hỏi là làm sao để hoà hợp hai bộ phận của lời giải thích - thứ nhất, một hệ thống vũ trụ bất kỳ và các chúng sinh bên trong sẽ khởi lên từ nghiệp, và thứ nhì, là có một tiến trình tự nhiên của nhân và quả, mà nó chỉ dàn trải ra. Các kinh điển Phật giáo cổ xưa cho rằng vật chất một phía và ý thức phiá bên kia quan hệ theo tiến trình nhân quả riêng của chúng, mà các tiến trình đó giúp khởi lên những tập hợp chức năng và đặt tính mới cho cả hai phía. Trên cơ sở hiểu biết về bản chất, các quan hệ nhân quả, và các chức năng của chúng người ta có thể đạt tới sư suy luận - cho cả cật chất lẫn ý thức - đem lại sự tăng trưởng cho ý tri thức. Các giai đoạn này đã được hệ thống hoá thành "bốn nguyên lý"[33] - bao gồm nguyên lý về bản chất, nguyên lý về sự phụ thuộc, nguyên lý về công năng, và nguyên lý về chứng cớ.
Như vậy thì câu hỏi là, có phải bốn nguyên lý này (mà được cấu trúc một cách hiệu quả thành luật của tự nhiên theo triết học Phật giáo) tự chúng độc lập với nghiệp, hay ngay cả sự tồn tại của chúng ràng buộc vào với nghiệp của các chúng sinh sống trong vũ trụ mà trong đó chúng vận hành? Vấn đề này tương tự với các câu hỏi nảy sinh trong mối quan hệ đến trạng thái của các định luật vật lý. Có thể có hay không một tập hợp các định luật vật lý hoàn toàn khác trong một vũ trụ khác, hay là các luật vật lý mà chúng đang hiểu biết vẫn giữ giá trị chân lý trong tất cả các vũ trụ có thể có? Nếu câu trả lời là một tập hợp các luật khác có thể vận hành trong một hệ thống vũ trụ nào đó, thì điều này nói lên rằng (theo quan điểm Phật giáo) ngay cả các luật của vật lý cũng dính mắc với nghiệp của các chúng sinh hữu tình mà sẽ hình thành trong vũ trụ đó.
Bằng cách nào các lý thuyết vũ trụ học Phật giáo nhìn thấy sự dàn trải của mối quan hệ giữa các thiên hướng nghiệp của các chúng sinh hữu tình và sự tiến hóa của một vũ trụ vật lý? Cơ chế nào mà bởi đó nghiệp kết nối với sự tiến hóa của một hệ thống vật lý? Nhìn chung, các văn kiện Vi Diệu Pháp không đề cập nhiều đến các câu hỏi này, riêng từ quan điểm tổng quát rằng môi trường, nơi mà chúng sinh hữu tình tồn tại là một "hệ quả môi trường" của nghiệp tích lũy của các chúng sinh đuợc chia sẻ chung với vô số chúng sinh khác. Dù vậy, trong các kinh điển Thời Luân, có những mối tương quan gần gũi được miêu tả giữa vũ trụ và các thân thể của các chúng sinh hữu tình sống trong đó, giữa các thành tố tự nhiên trong vũ trụ vật lý bên ngoài và những thành tố nội trong thân thể của các chúng sinh hữu tình, và giữa những sự chuyển pha của các thiên thể và các thay đổi nội trong thân thể của những chúng sinh hữu tình. Kalachakra trình bày một bức tranh chi tiết về các mối tương quan và những biểu hiện của chúng trong sự trải nghiệm của mỗi sinh vật hữu tình. Chẳng hạn, các kinh điển nói về cách thức nhật thực hay nguyệt thực có thể ảnh hưởng lên thân thể của một chúng sinh hữu tình thông qua việc thay đổi của các kiểu thức trong hệ hô hấp. Thật là lý thú để đưa một số vấn đề trong các lời được nhận là thực nghiệm này ra trước sự điều nghiên của khoa học.
Ngay cả với tất cả các lý thuyết khoa học sâu sắc về nguồn gốc của vũ trụ, tôi rẽ ngang với những câu hỏi nghiêm túc: Điều gì tồn tại trước vụ nổ lớn? Vụ nổ lớn từ đâu đến? Nguyên nhân của nó là gì? Tại sao hành tinh của chúng ta tiến hóa hỗ trợ sự sống? Có mối quan hệ gì giữa vũ trụ và và các thực thể đã đang tiến hoá bên trong nó? Các nhà khoa học có thể gạt bỏ những câu hỏi này như là những điều vô nghĩa, hay họ có thể công nhận tầm quan trọng của chúng nhưng không cho rằng rằng chúng thuộc về nội hàm của sự truy cứu khoa học. Dù sao, cả hai sự tiếp cận đều lãnh hậu quả về việc công nhận những giới hạn hữu hạn của tri kiến khoa học về nguồn gốc vũ trụ của chúng ta. Tôi không truy vấn những gượng ép lý tưởng hay chuyên nghiệp của một quan điểm vất chất cực đoan. Và trong Phật giáo vũ trụ được xem như là vô biên và không có khởi đầu, nên tôi thật hoan hỉ để mạo hiểm xa khỏi vụ nổ lớn và suy đoán về các trạng thái khả dĩ của các sự việc trước đó.
Chú thích
↑ Birla Planetarium tại Kolkata là một cung mô hình thiên văn (planetarium) gần văn phòng du lịch của chính phủ Ấn Độ cung cấp các cuộc tham quan ảo của các tinh tú và hệ mặt trời. thật sự tại Ấn Độ còn có hai cung mô hình thiên văn cùng tên nữa. Một đặt tại thành phố công nghệ Hyderabad. Tuy nhiên, cung này chỉ mới được khánh thành vào 1985 và cung còn lại đặt tại Chennai. Dữ liệu trong sách đã có thỗ không được rõ. Tuy vậy, trong tất cả các cung mô hình thiên văn này, riêng chỉ có cung Birla tại Kolkata (Calcuta) là có thêm đài quan sát thiên văn. Ngoài ra, tại Delhhi cũng không có cung mô hình thiên văn nào đáng kể hay có cùng tên. Do đó, theo suy đoán có thể chỗ mà đức Dalai Lama thuật lại chính là Birla Planetarium tại Kolkata. M.P. Birla Planetarium. Truy cập 15/01/2010..
↑ Kính viễn vọng vô tuyến là một dạng ăng-ten vô tuyến định hướng sử dụng trong ngành thiên văn vô tuyến và trong việc theo dõi thu thập dữ liệu từ các vệ tinh nhân tạo và các phi hành thám hiểm không gian. Nó khác với kính viễn vọng quang học ở chỗ vận hành ở phần tần số vô tuyến của phổ điện từ trường. "Radio Telescope". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009..
↑ Xem thêm chi tiết về nhà khoa học này tại trang nhà của ông:. Ông chuyên nghiên cứu về lịch sử và cấu trúc của vũ trụ, địa học và cổ sinh vật học, cũng như khoa học sử dụng máy tính điện tử (Computational Science).
↑ David Finkelstein (1929 - ) hiện là GS danh dư của đại học Georgia Institute of Technology. Trươc đó ông là Gs tại đại học YeshivaUniversity. Công việc của ông tập trung vào nghiên cứu quan hệ giữa logic và vật lý cũng như là các cấu trúc toán học cổ điển với lượng tử. Georgia Institute of Technology. Personal data. Truy cập 15/01/2010. George Greenstein là giáo sư phân khoa thiên văn trường Cao đẳng Amherst. Xem trang nhà của ông tại:
↑ Có nhiều diễn giải về các giai đoạn thành trụ hoại diệt này tùy theo tường phái Phật giáo. Nhưng tất cả đều quy về nguyên do chính là kết quả của luật vô thường và duyên khởi.
↑ Alexander Alexandrovich Friedmann (Russian: Александр Александрович Фридман) (1888, 1925) nhà toán và vũ trụ học người Nga là người tìm ra lời giải về vũ trụ giản nở cho các phương trình trường tương đối tổng quát. "Alexander Friedmann". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009.
↑ Dịch chuyển đỏ là một hiện tượng vật lý, trong đó ánh sáng phát ra từ các vật thể đang chuyển động ra xa khỏi người quan sát đo đạt sẽ trở nên đỏ hơn. Hiện tượng này là hệ quả của hiệu ứng Doppler, khi các vạch phổ trong phần ánh sáng biểu kiến chuyển dịch về phía phổ đỏ do tần số sóng điện từ (của ánh sáng, sóng vô tuyến...) của các thiên hà, quasar hay các thiên thể xa khác bị giảm xuống. Từ đó mà xuất hiện tên "chuyển dịch đỏ". Chuyển dịch đỏ càng lớn thì vật thể quang sát chuyển động ra xa khỏi người quan sát càng nhanh. "Red Shift". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009.
↑ Bức xạ nền vi sóng (còn được viết là CMB, CMBR -- cosmic radio wave background hay relic radiation) là một dạng bức xạ điện từ lấp đầy trong vũ trụ. Đối với một kính thiên văn quang học thì không gian ở giữa các vì sao và thiên hà là màu cực đen nhưng với kính thiên văn vô tuyến có một lớp phát sáng yếu hầu như đồng nhất theo mọi hướng mà không liên hệ gì tới ngôi sao, thiên hà, hay các thiên thể khác. Lớp phát sáng này mạnh nhất ở vùng sóng vi ba (microwave) của phổ sóng bức xạ. CMB được phát hiện năm 1964 bởi hai nhà thiên văn Arno Penzias và Robert Wilson. Việc này đem lại cho họ giải Nobel 1978. "Cosmic microwave background radiation". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009..
↑ Hậu phát quang (afterglow) hay còn gọi là chớp Gamma (Gamma-ray bursts (GRBs) là những hiện tượng chớp sáng điện từ trường trong vũ trụ từ khi có Vụ Nổ Lớn. chúng là các chớp sáng của các tia gamma dường như xảy ra ở những nơi ngẫu nhiên trong không gian sâu thẳm và tại các thời điểm ngẫu nhiên. khoảng thời gian cho vụ hậu phát quang thường vài giây, sự khởi động thường đi theo bởi một phát xạ chớp Gamma lâu hơn ở các bước sóng dài hơn. Các vụ hậu phát quang được phát hiện bởi các vệ tinh nhân tạo khoảng 2 đến 3 lần trong một tuần lễ. "Afterglow (gamma ray burst)". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009.
↑ Sir Fred Hoyle FRS (1915 - 2001) là nhà thiên văn Anh. Đóng góp chính của ông là trong lý thuyết về tổng hợp hạt nhân tinh tú (stellar nucleosynthesis). Ông có nhiều tranh luận về vũ trụ và các đề tài khoa học đặc biệt là do ông bài bác thuyết Vụ Nổ Lớn. "Fred Hoyle". Wikipdia. Truy cập 14/02/2009.
↑ Bön là truyền thống tinh thần cổ nhất ở TâyTạng. Đức Dalai Lama đã công nhận đạo này như là trường phái tinhthần thứ 5 ở Tây Tạng sau 4 trường phái Phật giáo lớn. Đạo này thường được mô tả như là truyền thống tin vào linh hồn và vào khả năng liên lạc với các thần linh tại vùng Hymalaya trước khi Phật giáo trở nên thịnh hành vào thế kỉ thứ 7. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho thấy truyền thống này phong phú và nhiều màu sắc văn hóa hơn không như sự đánh giá ban đầu của các học giả Tây Phương. "Bön". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009. http://en.wikipedia.org/wiki/B%C3%B6n.
↑ Dịch từ chữ Brahman và Ishvara. Xem thêm "Bản Chất Triết Học Bà-la-môn dưới cái nhìn của đạo phật". Thư Viện Hoa Sen. Thích Quảng Nguyên. Truy cập 15/01/2010.
↑ Cārvāka là hệ thống triết học Ấn Độ tin theo các dạng khác nhau của chủ nghĩa hoài nghi triết học và tính bất dị biệt về tôn giáo. Nó còn được biết bởi tên gọi Lokāyata. hệ thống này mang tên của người sáng lập ra nó, tức là Cārvāka, là rác giả của các bộ kinh Bārhaspatya. Nó được phân loại như là trường phái tư tưởng của chủ nghĩa vô thần và vật chất. "Charvaka". Wikipedia. Truy cập 14/02/2009.
↑ Đức Dalai Lama đã trích dẫn từ "Kinh Dụ Mũi Tên". Xem thêm "Phật Nói Kinh Dụ Mũi Tên. Thích Chánh Lạc dịch. Truy cập 15/01/2010.
↑ Từ chữ intrinsic tứa là đặc tính bản chất thường hằng không thay đổi.
↑ Ở đây đức Dalai Lama chỉ chung các bộ phái có trong thời gian còn sử dụng tiếng Pali có trước so với các trường phái đại thừa sau này.
↑ A-tì-đạt-ma hay còn gọi là Vi Diệu Pháp, A-tì-đàm, hay Thắng Pháp (zsa. abhidharma, pi. abhidhamma, bo. chos mngon pa) hoặc Tì-đàm giải thích Trí huệ. Vi Diệu Pháp là tạng thứ ba trong Tam tạng. Tạng này chứa đựng các bài giảng của đức Phật và các đệ tử với các bài phân tích về Tâm và hiện tượng của tâm. Xem như được thành hình giữa thế kỉ thứ 3 trước và thế kỉ thứ 3 sau Công nguyên. Lần kết tập cuối cùng của Vi Diệu Pháp là khoảng giữa năm 400 và 450 sau Công nguyên. Có nhiều dạng Vi Diệu Pháp như dạng của Thượng toạ bộ (pi. theravāda), của Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivāda)... Người ta dùng nó để luận giảng các bài Kinh (sa. sūtra, pi. sutta). "A-tì-đạt-ma". Wilipedia. Truy cập 14/02/2009.
↑ Tường gọi là A-tì-đạt-ma-câu-xá luận (sa. abhidharmakośa-śāstra),thường được gọi tắt là Câu-xá luận, nghĩa là "Báu vật của Vi Diệu Pháp", tên khác là Thông minh luận, là bộ luận quan trọng nhất của Thuyết nhất thiết hữu bộ, được Thế Thân (sa. vasubandhu) soạn vào thế kỉ thứ 5 sau Công nguyên tại Kashmir. Luận gồm có hai phần: sưu tập khoảng 600 kệ Vi Diệu Pháp Báu Luận luận bản tụng (sa. abhidharmakośakārikā) và Vi Diệu Pháp câu-xá luận thích (sa. abhidharmakośa-bhāṣya), bình giải về những câu kệ đó. Ngày nay người ta còn giữ bản tiếng Hán và tiếng Tây Tạng của luận này, đó là những tác phẩm đầy đủ nhất để trả lời các câu hỏi về kinh điển. "Vi Diệu Pháp-câu-xá-luận". Wikipedia. Truy cập 15/01/2010.
↑ Kālachakra: Đây là chữ gốc Phạn, trong Phật giáo Mật tông có nghĩa là "bánh xe thời gian" ("thời luân") hay "các chu trình thời gian". Nó vừa là các Giác Thể (deity) của Kim cang thừa và vừa là các thực hành y khoa và triết học bao gồm trong Mật điển Thời Luân và các chú giải của nó. Tên gọi đúng hơn của Mật điển Thời luân là Kalachakra Laghutantra, và là một dạng tóm lược của kinh điển nguyên thủy tên là Kalachakra Mulatantra đã bị thất truyền. Một số đại sư Phật giáo khẳng định Thời Luân là dạng phát triển nhất của thực hành Kim cang thừa; nó là một trong những hệ thống phức tạp nhất trong Phật giáo Mật tông. Truyền thống Thời Luân đề cập quanh khái niệm về thời gian (kāla) và chu kỳ (chakra): từ các chu kỳ của các tinh tú, đến các chu kỳ thở của người, và nó đạt tới sự thực hành tác động lên việc vận hành các năng lực vi tế nhất trong cơ thể người trên con đường giác ngộ. Giác thể Kalachakra đại diện cho một vị Phật và do đó là nhất thiết trí (trí thấy biết tất cả cùng lúc -- còn gọi là toàn giác). Vì Kalachakra là thời gian mà mọi thứ đều chịu ảnh hưởng của thời gian nên Kalachakra biết tất cả. Bánh xe Thời Luân không có khởi đầu và không có kết thúc. "Introduction to Kalachakra". International Kalachakra Network. Truy cập 15/01/1020.
↑ Núi Tu-di được xem là trung tâm của mỗi thế giới. Các châu lục bao quanh gồm: 1. Phất-bà-đề tại phương đông (Pūrvavideha, cũng dịch là Đông Thắng Thần châu) -, 2. Cù-da-ni tại phương tây (Aparagodāniya - cũng dịch là Tây Ngưu Hóa châu -, 3. Diêm-phù-đề tại phương nam (Jambudvipa - cũng dịch là Nam Thiệm Bộ châu). 4. Uất-đan-việt tại phương bắc. (Uttarakuru - cũng dịch là Bắc Cù Lô châu). Bốn châu này trong kinh điển thường được gọi chung là Tứ thiên hạ.
↑ Chữ aeon đôi khi còn được dịch là "A-tăng-kỳ kiếp". Có một số tài liệu Việt ngữ (nguồn gốc Hán) thì dịch là mỗi giai đoạn là trung kiếp gồm 20 tiểu kiếp. "Đại Cương về Luận Câu Xá". Phẩm Phân Biệt Thế Gian. BuddhaSasana. Thích Thiện Siêu. Truy cập 1999..
↑ Sông Hằng (hay Hằng Hà -- Devanāgarī: गंगा) là một trong các sông chính của tiểu lục địa Ấn Độ dài 2510 Km bắt nguồn từ miền Bắc Ấn chảy đến tận Bangladesh. Nó có các phụ lưu từ trên dãy Hymalaya. "Ganges". Wikipedia. Truy cập 2009..
↑ Trong vũ trụ học, Vụ Sập Đổ Lớn (Big Crunch") là một khả năng cho số phận của vũ trụ trong đó độ đo về tính giản nở của vũ trụ cuối cùng đảo ngược và vũ trụ bị sập -- kết thúc như là một lỗ đen. Điều này có thể xảy ra nếu như vũ trụ ở một trạng thái không còn tăng trưởng và chịu ảnh hưởng của lực hấp dẫn co lại rồi cuối cùng tất cả đều bị hút vào một hố đen hay một thể kỳ dị (singularity). "Big Crunch". Wikipdia. Truy cập 2009..
↑ Lượng quyết định luận (sa. pramāaviniścaya), chỉ còn bản Tạng ngữ. Bộ luận này được chia làm 3 phần với chủ đề thụ tưởng, kết luận, và trình bày phương pháp suy diễn tam đoạn luận (en. syllogism). Luận này được xem là bản nhỏ của Lượng thích luận vì hơn nửa phần được trích ra từ đây.
↑ Luận cứ thiết kế hay một Luận cứ mục đích là một luận cứ bênh vực cho sự tồn tại của một đấng sáng tạo, dựa trên các bằng chứng tri giác được về trật tự, mục đích, thiết kế và/hoặc hướng trong thiên nhiên. Thiết kế luận (teleology) là thuyết cho rằng có một nguyên lý có mục đích hoặc có định hướng trong hoạt động và các tiến trình của tự nhiên. Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Teleological_argument.
↑ Theo lý thuyết trường lượng tử thì "chân không lượng tử" là trạng thái của một hệ thống lượng tử theo tính toán đạt mức năng lượng nhỏ nhất. Nói chung ở trạng thái này không có các hạt vật lý. Tuy nhiên, nó không có nghĩa là một trạng thái hoàn toàn không có gì cả mà trạng thái chân không này bao gồm các sóng điện từ trường chóng vánh và các hạt (sơ cấp) biến mất và thành hình. Như vậy rõ ràng có sự tương tự trong các giải thích Phật học và lượng tử. "Quantum State". Wikipedia. Truy cập 2009..
↑ Kỳ dị trọng lực, một cách tiếp cận, là nơi mà các đại lượng để đo đạc trọng trường trở thành vô hạn. Các đại lượng này bao gồm các đáp tuyến không-thời gian hay là mật độ của vật chất. "Gravitational_singularity". Wikipedia. Truy cập 2009.
↑ Thuyết siêu dây là một nổ lực để giải thích một cách thống nhất về các hạt vật lý và các lực nền tảng của vũ trụ thông qua mô hình về các giao động của các "dây" siêu đối xứng. Các Thuyết này được xem như là một trong những ứng viên hứa hẹn nhất của vật lý hiện đại. "Superstring_theory". Wikipedia. Cập nhật 15/01/2010.
↑ Theo vật lý lý thuyết, thuyết M là một mở rộng mới cho thuyết Dây với 11 chiều không thời gian mà có thể nhận diện được. Vì nó bao gồm được nhiều thuyết siêu dây nên đươc tin là một thuyết cơ bản hơn và thống nhất được tất cả các thuyết dây. Việc mô tả hoàn bị về thuyết này chưa hoàn tất. "M Theory". Wikipedia. Truy cập 15/01/2010.
↑ Tên đầy đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh (sa. buddhāvatasaka-mahāvaipulyasūtra, ja. daihō kōbutsu kegonkyō), thường được gọi tắt là Hoa nghiêm kinh (sa. avatasakasūtra hoặc gaṇḍavyūha) là một bộ kinh Đại thừa, lập giáo lí căn bản của Hoa Nghiêm tông. Kinh nhấn mạnh đến tính "vô ngại" của mọi hiện tượng và chủ trương rằng tâm con người chính là vũ trụ và đồng thể với tâm Phật. Quan điểm này của Đại thừa hay được Thiền tông nhấn mạnh và vì thế, kinh này cũng thường được tông này nhắc đến. Xem "Kinh Hoa Nghiêm". Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà. Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh. Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983. "Kinh Hoa Nghiêm". Quảng Đức. Truy cập 2009. Phẩm A Tăng Kỳ thuộc quyển 40 (Tập 5). Chữ "A Tăng Kỳ" có nghĩa là số vô cùng lớn không đếm được.
↑ Lưới ngọc Đế Thích (skt: indrāī) đôi khi còn được phiên âm thành "Nhân Đà La", hay lưới châu báu Đế thích có khi được dịch thành "Nhân Đà La Võng". "Yếu chỉ Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm Kinh". Du Tắc Thiền sư giảng lược. Thư Viện Hoa Sen. Truy cập 2009.
↑ Điều mô tả này có thể ít nhiều so sánh với trường hợp ý tưởng về nguyên lý "Vị Nhân" (anthropic principle) trong vũ trụ học. Nguyên lý này khẳng định về sự cần thiết tính đến cuộc sống của con người, vì nó được tạo thành từ vũ trụ (và do đó phản ánh các luật vật lý). Nguyên lý này có thể trình bày dưới các quan điểm mạnh yếu khác nhau. "Anthropic principle". Wikipedia. Truy cập 15/01/2010
↑ Xin xem thêm chi tiết về các nguyên lý của lập luận trong dịch phẩm "Tứ Diệu Đế" phần Nghiệp và Thế Giới Tự Nhiên và Phụ Lục 2 Các Quán Chiếu Phật Giáo. Tải về tại http://rongmotamhon.net/.
Dalai Lama
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXPhiên bản 2

Phiên bản 2 CHƯƠNG 15 Khi anh trở về làm cảnh sát khu vực phường Đường Tàu thì em đã thành một con lưu manh thực thụ rồi. Sau vụ đốt chợ...