Lê Hồng Sâm, những điều còn lại…
Ngày 25 tháng Ba năm 2003, Chính phủ Cộng hòa Pháp trao tặng Lê Hồng Sâm Huân chương Cành cọ Hàn lâm để tôn vinh những cống hiến không mệt mỏi của Bà trong gần nửa thế kỷ bền bỉ bắc cây cầu kết nối văn học – văn hóa Pháp với đời sống tinh thần Việt Nam. Nhưng từ lâu trước đó, tên tuổi Lê Hồng Sâm đã quen thuộc cùng học giới và văn đàn trong nước cũng như quốc tế khi nhắc tới văn chương Pháp ở Việt Nam.
1. Tên của Bà thường hiện diện ở trang bìa lót của nhiều tác
phẩm văn học Pháp được dịch và xuất bản tại Việt Nam. Bà dịch từ rất sớm, vì
công việc, và chủ yếu vì tinh thần trách nhiệm. Được giữ lại làm cán bộ giảng dạy
ở khoa Ngữ Văn – Đại học Tổng hợp Hà Nội (1963) rồi được phân công về tổ văn học
nước ngoài, Lê Hồng Sâm đảm trách phần văn học hiện thực phương Tây thế kỷ XIX.
Trong hoàn cảnh nhiều tác phấm chỉ được học trò biết đến qua những bài giới thiệu
của thầy cô khi lên lớp, Bà tự đặt nhiệm vụ cho mình: cố gắng cung cấp nguyên bản.
Và ngay sau đó, những truyện ngắn của Maupassant, rồi Một tấm lòng chất
phác(truyện hay nhất trong Ba truyện kể) của Flaubert, Vanina Vaninicủa
tác giả Bà yêu thích – Stendhal – và tất nhiên không thể thiếu một số truyện
trong Tấn trò đời của văn hào lỗi lạc Balzac, v.v… được in ronéo để
“phục vụ kịp thời” và được xuất bản dần dần, sau đó. Nhờ những bản dịch của Bà,
nhiều thế hệ sinh viên Văn khoa Tổng hợp không chỉ phải “nghe nói” về tác phẩm,
phần nào đã thoát khỏi cảnh “học chay”, được biết tường tận hơn bút pháp, hiểu
sâu sắc hơn tư tưởng một số nhà văn lớn của nước Pháp thế kỷ XIX.
Không chỉ vì trách nhiệm đối với học trò và lương tâm nghề
nghiệp đối với công việc giảng dạy, Lê Hồng Sâm dịch còn vì sở thích khám phá.
Ngoài trào lưu văn học hiện thực thế kỷ XIX, Bà còn quan tâm tới những hiện tượng
văn học khác, theo cách riêng của mình. Bà chú ý tới một số nữ tác gia lớn thuộc
thế kỷ XX, bởi nhìn thấy ở họ những nét tiêu biểu của văn học Pháp thế kỷ này:
sự tìm tòi, sáng tạo, tác động tương hỗ giữa các loại hình nghệ thuật, tinh thần
cởi mở trước các nền văn hóa khác. Đó là Nathalie Sarraute với cội rễ Nga, người
được coi như mở đầu trào lưu Tiểu thuyết Mới. Đó là Marguerite Yourcenar, với mỗi
trang viết không chỉ trĩu nặng kiến thức về nền văn hóa cổ Hy Lạp, La Mã, mà
còn là “kết quả của một quá trình nghiên cứu và một cách tiếp cận đầy suy tư”,
để vượt lên cao hơn sự thực có tính lịch sử, đem tới sự thực mang tầm nhân loại.
Và đặc biệt, là Marguerite Duras cùng những cách tân hiện đại để khám phá chất
Đông Dương tiềm thức. Dường như Lê Hồng Sâm có phần ưu ái khi dịch nhiều tác phẩm
của Duras, phải chăng vì Bà muốn tìm hiểu thêm về quê hương từ một góc nhìn
khác.
Những năm gần đây, khi thời gian cho phép Bà được dành “toàn
tâm toàn ý” cho công việc dịch thuật hằng yêu thích, Lê Hồng Sâm đáp ứng yêu cầu
mà các nhà xuất bản nhiều lần đề xuất và bắt tay vào những bản dịch đồ sộ, (tất
nhiên đó cũng là những tác phẩm chẳng dễ đọc – dễ hiểu chút nào). Để giúp độc
giả Việt Nam tiếp cận những tư tưởng lớn của nhân loại, bản dịch Émile hay
là về giáo dục (dịch chung cùng Ts. Trần Quốc Dương) và Những lời bộc
bạch của J.J. Rousseau (đều xấp xỉ ngàn trang) được ấn hành. Ở Nhật Bản, với
mục đích xây dựng bệ đỡ tri thức cho công cuộc Duy tân, từ cuối thế kỷ XIX, các
cuốn sách tinh hoa của thế giới đã được chuyển dịch một cách hệ thống. Còn ở
ta, khoảng trống ấy… rất may có những mảnh ghép khiêm tốn nhưng thực giá trị từ
những dịch giả lặng lẽ và cần mẫn như Lê Hồng Sâm. Để kỷ niệm 200 năm sinh của
Balzac, văn hào mà Bà có nhiều “duyên nợ” trong suốt bấy nhiêu năm nghiên cứu
và giảng dạy văn học Pháp, Bà chủ trì công trình dịch và giới thiệu có hệ thống
hầu như đầy đủ bộ Tấn trò đời (16 tập, Nxb Thế giới, 1999-2001) tới độc
giả Việt Nam. Có lẽ phải rất lâu sau nữa, một bản dịch trọn vẹn hơn của bộ tiểu
thuyết đồ sộ ấy mới lại được xuất bản. Và rồi, năm 2013, khi Bên phía nhà
Swann, cuốn đầu tiên trong bộ “tiểu thuyết cái của thế kỷ XX” – Đi tìm thời
gian đã mất – kỷ niệm 100 năm lần ra mắt đầu tiên, Bà lại cùng những đồng
nghiệp cũ trăn trở với những câu văn dài dằng dặc, xoắn bện vào nhau, vốn gây
khó khăn cho ngay cả độc giả bản ngữ, nhằm khởi động một công việc khó: đặt nền
móng cho thế hệ dịch giả sau tiếp tục “tìm thấy lại” M. Proust, cha đẻ của tiểu
thuyết hiện đại Pháp.Dịch thuật chưa bao giờ là một công việc dễ dàng, nếu
không muốn nói rằng đó là một sự lao động nhọc nhằn. Bà chấp nhận làm điều ít
ai muốn làm này vì trách nhiệm và cũng vì ưa thích.
2. Cùng với việc chuyển ngữ tác phẩm, Bà còn viết. Viết về những
gì Bà đã chiêm nghiệm rất kỹ, rất lâu, viết về văn học Pháp, nền văn học mà Bà
gần gũi và yêu mến từ thuở nhỏ. Có thể chia những bài viết của Bà thành ba nội
dung lớn: giới thiệu những gương mặt tác giả tiêu biểu; cảm nhận và suy tư về
văn chương; luận bàn về dịch thuật. Ba nội dung này gắn bó bền chặt với nhau tạo
thành công trình nghiên cứu mang phong cách Lê Hồng Sâm: gợi mở từ những suy ngẫm.
Là một người thầy, Bà bền bỉ làm công việc của người dẫn đường.
Cùng với những bản dịch, Lê Hồng Sâm thường viết giới thiệu. Nhưng Bà tìm một
cách viết khác lối trình bày tiểu sử tác giả và nội dung tác phẩm vốn đã quen
thuộc. Với kiến văn dồi dào, Bà luôn biết chọn những góc nhìn mới lạ để giới
thiệu một nhà văn lớn trong mối quan hệ bền chặt với những tác phẩm của họ. Bà
cho thấy cuộc đời đầy trắc trở của Rousseau cùng những nẻo đường dẫn tới sự
“xác lập một thể loại mới” với Những lời bộc bạch. Bà phân tích tính “bi
đát” trong số phận Flaubert để lý giải chủ trương nghệ thuật của văn hào cũng
như vẻ đẹp khác thường của Một tấm lòng chất phác. Với cây đại thụ Hugo,
chủ soái của trào lưu lãng mạn, Bà làm nổi rõ, qua “Hugo trong Balzac”, bóng
hình Hugo thế nhân, cũng như Hugo tác giả trong mắt một nhân chứng cùng thời
không kém kỳ vĩ – Balzac. Rồi các nhà văn nữ tiêu biểu của văn học Pháp như G.
Sand, M. Yourcenar, N. Sarraute, S. Beauvoir, M. Duras, v.v. đều được Bà giới
thiệu nhưng chẳng hề theo một mô thức cố định. Mỗi gương mặt, qua lăng kính thức
nhận của Lê Hồng Sâm, dù chỉ là một vài khía cạnh văn chương, đôi ba lát cắt cuộc
đời, đều xuất hiện sống động và độc đáo.
Bàn về văn chương Pháp, Lê Hồng Sâm ít dẫn những lý thuyết
hàn lâm kinh viện. Người đọc sẽ rất khó khăn khi kiếm tìm những trích dẫn kinh
điển về phân tâm học, về ký hiệu học, về xã hội học, v.v… nơi bài viết của Bà.
Nhưng ở bề sâu mỗi bài viết luôn thấp thoáng ẩn hiện những lý luận và phương
pháp tiếp cận văn chương hiện đại. Thử xem riêng về Balzac, Lê Hồng Sâm tìm hiểu
ý nghĩa tiềm ẩn của một số tiểu thuyết, cho thấy đề tài về hai anh em, về đứa
con bị ghét bỏ bộc lộ ẩn ức nơi nhà văn, nêu rõ những điều ở bề sâu vô thức, tiềm
thức của người viết, những điều mà bản thân tác giả chỉ cảm nhận mơ hồ song lại
được hình tượng văn học nói lên, đó chẳng phải là phê bình phân tâm học sao?
Tương tự, một phạm trù quan trọng của thi pháp học hiện đại – không gian nghệ
thuật – cũng được Bà tinh tế phát hiện và phân tích hiệu quả: không gian khép
kín ở Phòng cổ vật, “nơi nhân vật giam mình trong quá khứ, tự cô lập khỏi
cuộc sống đương thời” trong khi Vũ hội ở Sceaux lại là “chốn gặp gỡ
có tính chất biểu tượng giữa quá khứ và hiện tại, cảnh nhốn nháo thú vị giữa
giai cấp đang suy tàn và những tầng lớp đang đi lên”, còn với Lão
Goriot, sự di chuyển của nhân vật trong không gian tương ứng với những biến
đổi tâm lý hay xã hội, v.v.. Trong bài viết “Chabert, tấm gương phản chiếu bóng
hình bao thời đại, bao xứ sở”, Lê Hồng Sâm đặt Đại tá Chabert trong mối
tương liên để phân tích đối sánh với ba truyện ngắn Việt Nam Tướng về hưu, Hai
người đàn bà xóm trạivà Thủ tục làm người còn sống. Đó là cách nghiên cứu
của văn học so sánh. Có phải chăng Bà đã tiếp nhận những lý thuyết ấy nhuần
nhuyễn để khi lập ngôn, chúng tự nhiên như hơi thở, hòa quyện trong nguồn mạch
suy tư rất riêng của Bà?
Bên cạnh những nghiên cứu về văn học Pháp, Lê Hồng Sâm cũng
có một số bài viết chứa đựng nhiều trăn trở về Dịch, một công việc mà trọn đời
Bà yêu thích. Vẫn là ba yêu cầu: Tín – Đạt – Nhã nhưng làm sao để bản dịch vừa
không xa rời nguyên tác vừa dễ hiểu, dễ cảm nhận đối với người đọc không cùng
ngôn ngữ? Câu hỏi lớn này, từ lâu nay vẫn luôn là mối quan tâm của các dịch giả.
Lê Hồng Sâm nhiều lần nhắc tới khái niệm “Độ”. Với Bà, “độ” không thuộc về chủ
nghĩa chiết trung, không phải là bình quân giữa việc giữ nguyên tư tưởng của
tác giả và nền tảng nhận thức cũng như văn hóa bản địa của người đọc. “Độ” là một
điểm nút (theo đúng tinh thần quy luật Lượng – Chất của triết học), phụ thuộc
vào sự tinh tế và mẫn tiệp của người dịch, biết cân bằng mâu thuẫn kia trong
tính hài hòa của tổng thể dịch phẩm. Và dường như ý niệm “độ” của Bà ẩn chứa một
lời nhắn nhủ với bản thân, cũng là với các dịch giả, bởi nếu không cần mẫn đào
luyện thì chẳng bao giờ có thể cảm nhận được đâu là “độ” và thế nào là “chưa đủ
độ”!
3. Quả thực, con số khoảng mấy chục bài viết là quá khiêm nhường
so với vốn kiến văn dồi dào, phong phú của Bà. Có đồng nghiệp thân thiết đã nhiệt
tâm mà trách cứ: “Thời gian rảnh, chị làm gì?”. Bà mỉm cười nghĩ về gia đình bé
nhỏ của mình với người chồng luôn không được khỏe và cô con gái yếu ớt từ tấm
bé. Bà đã dành tất cả yêu thương và biết mấy thời gian, công sức, để làm điểm tựa
cho những đóng góp trọn đời với dân tộc, với nhân dân của Ông, để làm bệ đỡ vững
vàng cho những thành công ngày hôm nay của người con gái bé bỏng ngày nào. Cho
tới tận bây giờ, khi Ông vì bạo bệnh đã xa Bà trọn 30 năm, Bà vẫn nhắc tới Ông
bằng tất cả tình cảm như buổi ban đầu cô nữ sinh Đồng Khánh cùng người yêu lên
đường kháng chiến. Phải chăng truyền thống yêu nước từ cội nguồn gia đình đã
khơi dòng cho tình yêu mang đậm chất “lãng mạn cách mạng” để ông bà cùng nhau
băng qua cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, vượt lên những tháng ngày cực
nhọc của đất nước và bình thản đón nhận những rối ren của thời cuộc mà bên nhau
bằng tất cả tình cảm “không một chút gợn” như Bà thường hồi tưởng.
Giàu tình cảm nhưng không dễ bị cảm xúc chi phối, Lê Hồng Sâm
tinh tế, cẩn trọng và ẩn chứa bên trong là cả một tấm lòng. Bà là một
“nhà tổ chức” công tâm và tận tụy, để quy tụ mọi người, hỗ trợ mọi người, nhất
là những đồng nghiệp trẻ, cùng “làm” khoa học. Bộ Lịch sử Văn học Pháp (5
tập, Nxb Thế giới, 1990) do Bà và GS. Đỗ Đức Hiểu làm tổng chủ biên cho tới nay
vẫn là bộ sách tham khảo được nhiều nhà nghiên cứu tin cậy. Rồi với uy tín của
thành viên Hội nghiên cứu Balzac quốc tế, Bà thúc đẩy việc dịch, hiệu đính và kết
nối để hình thành bộ Tấn trò đời (16 tập, Nxb Thế giới, 1999-2001).
Những công trình đồ sộ ấy đều do những tên tuổi lớn và cả những người trẻ, một
số thuộc thế hệ học trò của Bà, tham gia biên soạn và biên dịch. Bà không quên
“tranh thủ” những đồng nghiệp “già” để truyền thụ, để chia sẻ, để bồi dưỡng cho
những đồng nghiệp trẻ. Một trong những thành viên tham gia dịch Tấn trò đời đã
khẳng định trong bài viết về bộ sách: “Trong quá trình thực hiện công trình,
nhiều dịch giả đã thực sự trưởng thành. Có thể nói một cách thành thực rằng đây
là một môi trường đào tạo lý tưởng cho các nhà nghiên cứu, bởi một khi công việc
nghiên cứu được kết hợp chặt chẽ với công việc dịch thuật, chắc chắn kết quả
làm việc sẽ có hiệu quả cao hơn.” [1]
Khác với một đôi người muốn người đi sau mãi mãi nấp dưới cái
bóng của mình, Lê Hồng Sâm không ngừng tạo cơ hội để thế hệ trẻ vươn xa và bay
cao. Từ những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, Bà đã đặt nền móng cho sự hợp
tác giữa hai bộ môn Văn học Pháp của hai trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Đại
học Paris 7 Denis Diderot. Hợp tác quốc tế để cùng nghiên cứu, và cũng để tạo
cơ hội cho những cán bộ trẻ được trau dồi, được đào tạo thêm. Với tư cách “điều
phối viên” phía Việt Nam, Bà đã góp phần giúp đỡ để nhiều học trò, đồng nghiệp
đi Pháp trao đổi và thực tập. Nhưng sự đời không phải lúc nào cũng trong suốt.
Khi có sự chia rẽ, vì chỉ nghĩ đến việc chung, vì trong sạch, không ngả về phía
nào, Bà từng chịu thiệt thòi. Ấy thế nhưng Bà vẫn làm việc, vẫn cống hiến,
không hề trách cứ ai, chỉ lo ảnh hưởng không tốt tới việc phát triển ngành và
đào tạo những thế hệ sau. Tấm lòng luôn nghĩ cho học trò ấy của một người Thầy,
theo đúng nghĩa viết hoa của từ này, có học trò nào đành quên? Có lẽ ai đã từng
tiếp xúc, dù thân hay sơ, cũng đều khó lẫn phong cách rất riêng vừa dịu dàng, mực
thước mà cũng thật lôi cuốn, gợi mởcủa Lê Hồng Sâm. Những người học trò gần gũi
như các thầy giáo khoa Ngữ văn ở Đại học Tổng hợp Hà Nội vẫn khâm phục những
bài giảng “không thừa và không thiếu chữ nào… như là những văn bản đã được gọt
giũa tu từ từ trước”[2]; những sinh viên ở miền Nam sau Thống nhất (mà nay cũng
đã thành danh), lưu giữ ấn tượng khó phai, từ chút ngạc nhiên thú vị “Cô giáo đầu
tiên đến từ Hà Nội lại xuất hiện ở giảng đường với chiếc áo dài cổ cao nền nã”
đến niềm quý trọng “Cô Lê Hồng Sâm là một trong số ít giảng viên giới thiệu
tinh hoa văn học thế giới đã khiến chúng tôi tâm phục ngay từ giờ giảng đầu
tiên, không những bằng nội dung khoa học mà còn bằng giọng nói và phong thái sư
phạm”, rồi tình thương mến “Hai năm ở Hà Nội, đối với tôi, cô là nguồn động
viên tinh thần lớn lao, giúp chúng tôi giữ được niềm say mê với văn học giữa những
biến đổi của thời thế [3]. Và mới đây, những lời trò chuyện bên bàn trà của
Bà làm cho những học trò thế hệ cuối 9x thốt lên “Trời ơi! Cô Sâm thật tuyệt vời!”.
Vâng, “cô Sâm” của các bạn đã sắp bước qua tuổi 90 rồi đấy!
Để có thể mãi lôi cuốn lớp lớp thế hệ học trò như vậy, không
hẳn chỉ vì thông tin thế sự luôn được cập nhật (ở tuổi 70, Bà đã làm quen với
máy tính, tự soạn thảo văn bản thành thạo và “lướt” web đọc tin tức hàng ngày),
Lê Hồng Sâm thực sự thông tuệ, để luôn hành xử một cách tế nhị và nhân ái. Sống
giữa cuộc đời, Bà có nhiều bạn – bạn thời đi học, bạn kháng chiến, bạn công
tác, bạn hàng xóm, bạn đồng hương, v.v…, một mạng lưới quan hệ chằng chịt và
cũng không kém phần phức tạp. Không phải Bà không nhận ra những mặt này mặt
khác của thế nhân, nhưng Bà luôn gắng tìm những điểm sáng trong mỗi người để thấy
cuộc đời vẫn còn trong trẻo quá (hay là để cho những thứ ô tạp kia chẳng thể
vương lại quanh mình). Bà yêu quý những người bạn của mình bằng những cách khác
nhau: khi thì sẵn sàng san sẻ không nề hà vốn tri thức dồi dào với bất kỳ ai muốn
biết, muốn hiểu, lúc lại bình tĩnh hàng giờ chỉ để lắng nghe một ý tưởng có phần
“đi ngược với thời đại” của một người bạn đang lâm vào khủng hoảng. Còn với những
mảnh đời chịu nhiều thiệt thòi, Bà xoay xỏa tìm cách đỡ đần hay đơn giản chỉ là
vững vàng để cảm thông cùng những tiếng thở dài não nề, những dòng nước mắt buồn
thương, cùng sẻ chia với những điều không may của bè bạn. Chẳng thế mà, tình cảm
quý trọng đối với Bà đã vượt khỏi không gian và thời gian. Những người cháu con
họ mạc rất xa ở quê ông vẫn thường gọi điện thoại “báo cáo” “tình hình” quê
hương với Bà, mặc cho quãng thời gian ngắn ngủi Bà về làm dâu ở vùng quê chiêm
trũng ấy đã lùi xa hai phần ba thế kỷ. Thường xuyên, Bà vẫn nhận được e-mail của
những người bạn từ nước Pháp xa xôi gửi tới hỏi thăm sức khỏe, chia sẻ ý tưởng
nghiên cứu hay đơn giản chỉ là cần gấp một lời khuyên… vì Bà là cả một
kho vốn sống và tình yêu thương.
Tôi vẫn thường ngồi say sưa nghe Bà kể chuyện đời, nói chuyện văn chương trong căn phòng sáng sủa và ngăn nắp của Bà để mà suy tư, để mà chiêm nghiệm. Tôi nhớ Bà từng nhắn nhủ: “Cuộc đời con người như bóng câu qua cửa sổ. Con thấy không, chỉ là cáibóng ngựa phi vút qua thôi nhé. Nhanh lắm đấy!”. Trong vũ trụ bao la này, mỗi con người chỉ như một hạt bụi trong thoáng chốc mà thôi. Và người ta có phải đến cuộc đời này để ghi lại một chút gì chăng khi tất thảy cõi nhân thế vốn chỉ là mây bay và gió thoảng. Riêng tôi, tôi vẫn luôn tin ở những điều còn lại…
Chú thích:
[1] Lộc Phương Thủy, Về bộ sách Tấn trò đờicủa Honoré de
Balzac, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 2002.
[2]Trần Hinh, Nhà giáo nhân dân Lê Hồng Sâm: Cánh chim không
mỏi.
[3] Huỳnh Như Phương, Từ phòng văn một người Hà Nội.
6/5/2020
Dương Xuân Quang
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét