Hoài Thanh, xét về mặt
kích thước, có thể dài rộng hơn Thi nhân Việt
Nam, nhưng ở bình diện
phẩm tính, Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam là một. Thậm chí, chỉ ở Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh mới thực sự là Hoài Thanh. Chả thế, trước khi nhắm
mắt, ông cho gọi Từ Sơn vào và nói: “Cha biết văn chương của cha cũng vầy vậy
thôi. Nếu không có cuốn Thi nhân Việt Nam thì chắc gì người ta đã công nhận cha thực sự
là một nhà văn” (Từ Sơn: Di bút và di cảo, Văn học, H., 1993). Thế là đứa con hoang (Sau năm 1945 nhiều nhà văn, nhà phê bình công khai chối bỏ những
tác phẩm viết trước đó của mình như trường hợp Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam,
Vũ Ngọc Phan với Nhà văn hiện đại (và về sau Nguyễn Đình Thi với Thơ không vần),
coi đó là đứa con hoang. Nhưng trớ trêu thay, lũ con hoang - kết quả của thứ
tình yêu nồng nàn, bồng bột - ấy lại cứ thông minh, cứ kháu khỉnh và đặc biệt
(quả không biết điều tí nào) cứ giống cha hơn hẳn những đứa con hợp pháp được
sinh ra trên giường êm nệm ấm theo một thứ nghĩa vụ nào đó) mà già nửa đời sau Hoài Thanh một mực không
nhận, rốt cuộc đã được người con trưởng chính thức ghi danh vào gia phả. Con
chim trước khi chết quả đã kêu thiêng.
Ở Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã hiển lộ một trực giác nghệ
thuật tuyệt vời. Nhờ linh khiếu này, nên dù không phân tích, mổ xẻ, mà chỉ
“uốn lượn quanh tác phẩm” (J.Lemaitre), Hoài Thanh đã chỉ đúng phoóc những
nét riêng của từng thi sĩ: “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một
lần, một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như
Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như
Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên... và thiết tha rạo rực, băn khoăn như
Xuân Diệu”. Những ấn tượng trên được Hoài Thanh phô diễn bằng một ngôn ngữ
tinh tế, giàu cảm xúc, hình ảnh, nhịp điệu - thứ ngôn ngữ mà các nhà dân tộc
chí thường dùng để nắm bắt cái tâm hồn bàng bạc của thổ dân mỗi khi ngôn ngữ
khoa học bất lực. Có thể nói, Thi nhân Việt Nam là thế giới nghệ thuật riêng của Hoài Thanh,
một thế giới đầy âm thanh, màu sắc, ấn tượng hồn nhiên, tươi mới: Thơ Mới đã
được cảm nhận bằng chính tâm hồn nhà phê bình theo sự tương thông của những
vũ trụ đồng đẳng. Hoài Thanh làm phê bình mà cứ như làm thơ, đúng hơn, phát
biểu những ấn tượng thơ. Có điều, nếu thi nhân lấy vật liệu từ đời sống thì
ông lấy vật liệu từ thi phẩm.
Lối phê bình “chỉ dựa vào ấn tượng, cảm xúc, rung động của mình khi đọc tác
phẩm” này của Hoài Thanh được/bị Trương Chính gọi là phê bình ấn tượng. Và
“gắn liền với phương pháp phê bình ấn tượng là phê bình chủ quan, tách tác
giả với tác phẩm, không cần biết tác giả, chỉ biết tác phẩm” (Lời giới thiệu Tuyển tập Hoài Thanh). Nhiều nhà “Hoài Thanh học” không tán thành cái định danh này của
Trương Chính. Người này cho biết không thấy Hoài Thanh trực tiếp nói gì về
phương pháp này. Các nhà phê bình trước 45, tôi nghĩ, ít ai giới thiệu họ
hàng ngoại (có lẽ Trương Tửu là một ngoại lệ), bởi Việt Nam bấy giờ tương
thông với Pháp, các phê bình gia phương Tây được giảng dạy ngay trong nhà
trường, nên ích gì cái việc biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Vì thế, việc truy
nguyên ngày nay chỉ nên xét ở việc làm, tức đường lối tác phẩm. Người khác e
gọi phê bình Hoài Thanh là ấn tượng sẽ làm giảm giá Thi nhân Việt Nam, bởi họ nghĩ phê bình ấn tượng là “không có lý thuyết”, là đồng nghĩa
với “hời hợt”, “ít đọc sách” (Nguyễn Văn Hạnh tâm
sự: “Qua những lời bộc bạch của tác giả Thi nhân Việt Nam về cung cách và ứng xử của ông với thơ, ta dễ có cảm tưởng ông là một nhà phê bình “ấn tượng chủ nghĩa”,
“tài tử”. Chính người viết bài này cùng bạn bè của mình khi còn học ở chuyên
khoa và có lẽ cả trong năm đầu đại học cũng đã nghĩ như vậy về ông. Nhưng
càng có hiểu biết và kinh nghiệm trong nghiên cứu văn chương, tôi và các bạn
bè tôi thời ấy đều biết rằng mình đã rất sai lầm” (tr.228). Hoàng Ngọc Hiến
thì thống thiết: “Tôi bàng hoàng nhận thấy trình độ phê bình của ta hiện nay
kém hơn Hoài Thanh thời bấy giờ. Mặc dù hiện nay chúng ta đông hơn, đọc nhiều
hơn, đủ các thứ lý luận nhưng trình độ vẫn kém hơn. Viết phê bình, Hoài Thanh
“nhả” ra những phán đoán riêng của ông, có bao nhiêu, “nhả” ra bấy nhiêu, có
tác giả ông chỉ viết dăm bảy dòng và rất trúng. Ta thường gọi phê bình của
Hoài Thanh là “ấn tượng” này, ai cũng nói như vậy, mà đúng là như vậy, nhưng
để có những “ấn tượng” này, nhà phê bình đã đọc rất nhiều sách, nghiên cứu
sâu rộng không ít lý thuyết đâu”(tr.124). Thực ra, Hoài Thanh không phải là người hời hợt và ít đọc sách,
còn phê bình ấn tượng thì lại càng không phải là không có lý thuyết, dù là
thứ lý thuyết về sự không có lý thuyết. Có điều chúng ta phải thừa nhận là,
trong tư duy Việt Nam, truyền thống lý thuyết không phải là một nhịp mạnh.
Bởi thế, mọi thứ isme, ít nhất là trong văn học, vào nước ta đều bị quy giản
và lệch lạc.
Phê bình ấn tượng chủ nghĩa, có lẽ bắt nguồn từ W.Dilthey (1833-1911), nhà
triết học Đức theo trường phái tinh thần luận, người đầu tiên đặt vấn đề tính tự trị (autonomie)
của khoa học nhân văn. Theo ông, sự khác nhau giữa khoa học tự nhiên và khoa
học nhân văn là ở phương pháp nhận thức. Thiên nhiên thì vô hồn, không có mục
đích, không có cấu trúc tư tưởng, còn con người thì có tình cảm và ý chí. Đó
là hai hiện thực khác nhau về chất. Thiên nhiên - đối tượng của khoa học tự
nhiên - chỉ là vật liệu của kinh nghiệm “bề ngoài” của con người. Ngược lại,
khoa học nhân văn nghiên cứu con người ở chính cái nơi mà chủ thể và khách
thể trùng nhau: đó là tinh thần của con người. Bởi vậy, muốn hiểu được con
người phải xuyên thấu vào động cơ, lý tưởng, quan niệm của nó, vào thế giới tinh thần trọn vẹn của nó. Khoa học văn chương (mà phê bình là bộ phận
nhạy cảm nhất của nó) với tư cách là khoa học nhân văn cần phải nghiên cứu
thế giới bên trong, mà phương pháp nghiên cứu, đúng hơn phương pháp nhận thức
đối tượng, là đồng nhất mình với đối
tượng để tự xem xét. Tức
xoá nhoà đường biên giữa chủ thể và khách thể, biến việc đứng ngoài quan sát
thành sự tự quan sát, chiêm nghiệm từ bên trong.
Phương pháp của Dilthey cũng gần như cách của thiền gia. Muốn vẽ một cây trúc
thì hãy chiêm nghiệm nó đến lúc biến mình thành cây trúc thì mới cầm bút vẽ.
Lúc ấy cây trúc qua ngọn bút hoạ sĩ làm trung gian sẽ tự hiện lên trên mặt
giấy. Cũng vậy, muốn hiểu một tác phẩm thì hãy nhập thân vào nó, trở thành
chính nó thì mới có thể trình ra những ấn tượng về nó. Bấy giờ, vọt từ suối
ra chỉ có thể là nước. Lối phê bình này rất hợp với mỹ cảm lãng mạn và hiện
sinh, nên đã được Xuân Diệu, một con chim đến từ núi lạ, ngứa cổ “tuyên
ngôn”:
Ai đem phân chất một mùi hương
Một bản cầm ca, tôi chỉ thương,
Chỉ lặng chuồi theo dòng cảm xúc,
Như thuyền ngư phủ lạc trong sương.
Có
thể chưa đọc Dilthey, nhưng cũng như tác giả này, ở Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh chú ý trước hết đến tính tự trị của
tác phẩm văn học. Bởi vậy, ông thấy chỉ cần nghiên cứu bài thơ là đủ, khỏi
cần phải quan tâm đến người thơ với tư cách là tác giả. Sau đó, Hoài Thanh
chú trọng tìm hiểu khái niệm tinh thần, đặc biệt là
tinh thần thời đại. Bởi
vậy, mở đầu Thi nhân Việt Nam ông viết hẳn một thiên đại luận để chứng minh
Thơ Mới là Một thời đại trong thi
ca Việt Nam. Ông định danh tinh
thần của thời đại này là cái tôi, khác với thời đại cái ta của toàn bộ nền văn
học trung đại. Đây cũng là thời đại của tinh thần lãng mạn mà hầu hết các nhà
Thơ Mới đều hấp thụ. Hoài Thanh đã gọi cái tinh thần ấy là hồn, hồn thơ, hồn thời đại. Cái hồn chung này là cơ sở để nhà phê bình tìm hiểu thơ của các Thi nhân Việt Nam bằng con đường giao cảm, cảm thông,
thông hiểu. “Tôi đã sống trong lòng thời đại (ĐLT nhấn), kể lại lịch sử thời đại, làm sao có thể không nhớ
lại những năm vừa qua trong đời tôi”. Từ đó, “gặp thơ hay, tôi triền miên
trong đó. Tôi ngâm đi ngâm lại hoài, cố
lấy hồn tôi để hiểu hồn người” (ĐLT nhấn). Có thể nói, đây là “lý thuyết phê bình không lý
thuyết” của Hoài Thanh, rất gần với lý thuyết của phê bình ấn tượng chủ nghĩa
ở châu Âu.
Lối phê bình ấn tượng của Hoài Thanh trong Thi
nhân Việt Nam mau chóng đạt tới một
đỉnh cao như vậy, hẳn nó hội được vào mình cả hai thế mạnh. Trước hết, phê
bình ấn tượng Hoài Thanh kế thừa được nhưng ưu thế của lối phê điểm trong văn
học trung đại. Lối phê điểm trung đại của Việt Nam, tuy không nâng lên được
thành phê bình trung đại với những Chung Vinh, Lưu Hiệp, Thánh Thán, Viên
Mai... như ở Trung Hoa, nhưng cũng đã để lại nhiều nhận xét, bình luận sắc
sảo, nhiều áng văn thâm trầm qua các bài Bình,
Tổng bình, Tựa, Tự, Bạt... Bằng một học vấn uyên thâm, bằng sự trải nghiệm sâu sắc mọi nước
đời, bằng một niềm tin chắc vào sự bất biến của các quan niệm Nho giáo, các
cụ nhà ta có thể đưa ra những nhận xét làm kinh động quỷ thần. Chúng ta hãy
thử nghe Mộng Liên Đường chủ nhân bàn về bút lực của Nguyễn Du: “Tố Như Tử
dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không
phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì
tài nào có cái bút lực ấy”. Phê bình ấn tượng của Hoài Thanh, nếu chỉ hoàn
toàn đến từ phương Tây mà không có sự kế thừa nội địa nào, một nội lực nào từ
văn học trung đại Việt Nam (điều mà phê bình khách quan khoa học không có)
thì khó mà có thể đạt tới thiên đỉnh mau đến như vậy.
Tuy nhiên, thành tựu ấy còn một lý do khác nữa: phê bình ấn tượng tự trong
bản chất là không thể tách rời đối tượng được/bị phê bình và chủ thể phê
bình, tức Thơ Mới và Hoài Thanh. Thơ Mới, như tôi đã chứng minh ở Mắt Thơ,
là tiếng nói của ý thức cá nhân, của con người cá nhân, của văn hóa đô thị
hiện đại. Các nhà Thơ Mới, bởi vậy, đều nhìn thế giới qua cái tôi riêng biệt
và duy nhất của mình. Thơ của mỗi người trong họ đều có một phong cách riêng
tượng trưng cho cái nhìn thế giới của họ. Hoài Thanh, tôi nghĩ, cũng là một nhà
Thơ Mới như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu... Có điều, số phận đã đóng đinh ông lên
cây thánh giá phê bình. Nhưng ở ông, cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ hệt như ở
các nhà Thơ Mới. Ông là người đồng điệu với họ, là kẻ song sinh, hoặc nói
theo Dostoievski kẻ song trùng, của họ. Vì thế, Hoài Thanh nói về họ mà cứ
như tự họ nói ra. Và chỉ nói ấn tượng thôi mà cứ như từ trong gan ruột. “Nghe
thế nào, thấy thế nào, ta cảm xúc, ta suy nghĩ thế nào, ta cứ thế mà viết lên
mặt giấy. Nếu ta có tài thì tác phẩm ta sẽ sống, bằng không chẳng có sự bày
đặt gì, chẳng có phép tắc gì thay được sự bất tài của ta. Hai chữ thành thực
ta sẽ cho nó một địa vị danh dự trong văn chương”. Ở đây, chỉ xin một lưu ý
nhỏ là hai chữ thành thực không nên hiểu như một thái độ sống, một khát
vọng đạo đức xã hội, mà phải hiểu, theo lý thuyết ấn tượng, là sự truyền đạt
trung thành ra ngôn ngữ những cảm xúc, ấn tượng của nhà phê bình.
Như vậy, sự kế thừa truyền thống phê điểm trung đại và con người cá nhân hiện
đại là hai chiếc cánh đưa Hoài Thanh và Thi
nhân Việt Nam bay lên đỉnh cao của
phê bình ấn tượng. Có thể nói, ở Việt Nam, trên ngọn cô sơn của dòng phê bình
này, ông là một thiên tài đơn độc. Đến đây, tôi xin mở một ngoặc đơn để nêu
ra một ngoại lệ nhằm làm sáng rõ quy luật: Sau 1945, Hoài Thanh không còn
phát ngôn theo cái tôi cá nhân nữa, mà trên cái ta, hoặc cái tôi đoàn thể (Hoài Thanh viết: “Đoàn thể đã tái tạo chúng tôi và trong bầu
không khí mới của giang sơn, chúng tôi, những nạn nhân của thời đại chữ
“tôi”, hay gọi tội nhân cũng được - chúng tôi thấy rằng đời sống riêng của cá
nhân không có nghĩa gì trong đời sống bao la của đoàn thể” Tiền phong, N03, 16-12-1945), nên ngòi bút của
ông mất đi trực giác nghệ thuật, mất đi những ấn tượng chủ quan tươi mới. Phê
bình ấn tượng của ông, vì thế, trở thành bình giảng, còn sự tinh tế thì trở
thành tinh vi. Phê bình Hoài Thanh với chính Hoài Thanh còn như vậy, huống hồ
với những cây bút muốn nối dõi ông.
Lệ thường, một nhà phê bình, khi viết phải thoát khỏi cái tôi của mình để
nhìn đối tượng, dù là một đối tượng thẩm mỹ, một cách khách quan. Nhưng nhà
phê bình ấn tượng lại không chủ trương vượt thoát khỏi cái tôi chủ quan của
mình, mà dùng nó làm thước đo vạn vật, đúng hơn dùng ấn tượng của tôi ở đây và bây giờ làm thước đo vạn vật: “Có những bài thơ mà tôi
say mê, mà người sau sẽ thấy không có gì. Thì mặc họ chứ. Nói gì người sau.
Chính tôi mai đây biết có còn rung động vì tất cả những bài thơ hôm nay tôi
thích?”. Đem cái tôi của mình ra đánh cược như vậy, một mặt Hoài Thanh phát
huy đến tận cùng sức mạnh của nó, mặt khác ông bị “cầm tù” bởi những nhược
điểm của nó. Mà cái tôi nào, với tư cách là “sản phẩm” của những thời - không
gian cụ thể, mà chả bị hạn chế. Hoài Thanh hẳn không đứng ngoài thông lệ đó.
Hạn chế chủ yếu của cái tôi Hoài Thanh, tôi nghĩ, là ở quan niệm thẩm mỹ.
Trước đây, nhiều nhà nghiên cứu cứ ngộ nhận rằng Thơ Mới là thơ lãng mạn.
Thực ra, văn học 32-45 của Việt Nam là sự rút ngắn của hơn một thế kỷ văn
chương Pháp. Nhất Linh khởi đầu thành công với Đoạn
tuyệt, loại tiểu thuyết luận
đề lãng mạn đầu thế kỷ XIX và kết thúc sự nghiệp (không kể đoạn nối dài sau
1954 ở miền Nam) với Bướm trắng rất gần với tiểu thuyết hiện đại của André
Gide gần giữa thế kỷ XX. Thơ Mới cũng phải làm một tốc hành như vậy. Nếu ga
đầu là Thế Lữ, Phạm Huy Thông, Lưu Trọng Lư lãng mạn, thì ga sau là Xuân
Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương đã chớm sang tượng trưng, tiếp đến Đinh Hùng,
Bích Khê thì đã tượng trưng, còn ga chót thì với một Hàn Mặc Tử đặt nửa chân
vào siêu thực và một Nguyễn Xuân Sanh đứng trước cửa ngõ Tiền Phong. Hoài
Thanh tuy phóng mắt bao quát cả Một thời đại trong thi
ca, nhưng cái lòng riêng, riêng những mến yêu ấy thì vẫn dành cho các nhà lãng mạn. Điều
này đã để lại nhiều dấu vết ở Thi nhân Việt Nam.
Cuốn sách tuyển bình
thơ của 45 nhà, theo Hoài Thanh, là tiêu biểu cho cả cái thời đại thi ca ấy.
Nhưng đến nay neo được trên dòng nước bạc thời gian, hỏi được mấy người? Các
khuôn mặt khác, phần lớn, đã nhạt nhoà. Vì thời gian một phần, phần khác quan
trọng hơn, bởi đương thì họ cũng chỉ là nhà thơ “bàn nhì, bàn ba”, nhưng là
lãng mạn, nên vẫn được Hoài Thanh thích tự chiều mình mà tuyển vào (“Biết làm sao chiều được tất cả mọi người? Âu là tôi chỉ chiều
tôi vậy”). Lại cũng do thị hiếu
thẩm mỹ, chỉ dừng lại ở lãng mạn, nên Hoài Thanh đã bỏ qua Đinh Hùng, một thi
tài lớn. Đinh Hùng lúc ấy, tuy chỉ mới trích in vài bài, nhưng tập thơ tượng
trưng Mê hồn ca của ông đã được nhiều người truyền chép. Hơn nữa, chỉ một Bài ca man rợ, Đinh Hùng đã làm nhiều nhà thơ đàn anh như Thế Lữ, Vũ Hoàng
Chương phải bái phục. Còn Bích Khê, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử tuy có được
tuyển, nhưng không hợp tạng, nên thái độ của Hoài Thanh vẫn rất nhiều xa cách
và e ngại. Có khi ông dẫn lời chì chiết của một Xuân Diệu lãng mạn để đánh
giá một Hàn Mặc Tử siêu thực (“Hãy so sánh thái độ
can đảm kia (thái độ của những nhà chân thi sĩ) với những cách đột nhiên mà
khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: tôi điên đây! tôi điên
đây! Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt
hơn là hãy cứ tỉnh táo như thường và yên lặng sống”), có khi thì trực tiếp nói cảm tượng của mình về
một Chế Lan Viên (“Riêng tôi, mỗi lần nấn
ná trên ấy (tức tháp Chàm = tập
thơ Điêu tàn - ĐLT) quá lâu, đầu tôi
choáng váng: không còn biết mình là người hay là ma. Và tôi sung sướng biết
bao lúc thoát giấc mơ dữ dội, tôi trở xuống, thấy chim vẫn kêu, người ta vẫn
hát, cuộc đời vẫn bình dị, trời xa vẫn trong xanh”).
Một nhược điểm khác
của Thi nhân Việt Nam (và cũng là của phê bình ấn tượng) là, khi
nghiên cứu tác phẩm, không chấp nhận các lý thuyết và phương pháp khoa học,
mặc dù cũng có cả một luận thuyết để khước từ nó. Đấy cũng không phải là lối
phê bình nghệ sĩ hoặc phê bình bậc thầy (thuật ngữ chỉ loại hình phê bình của các nhà
văn, nhà thơ viết “tay trái” như Baudelaire, Proust, Valéry...), bởi không
đâu xa, chính phê bình của Chế Lan Viên ngoài trực giác ra cũng đầy các lý
thuyết khoa học. Còn Hoài Thanh chỉ dựa vào mỗi trực giác. Và trực giác nghệ
thuật của ông thuở Thi nhân Việt Nam mới dồi dào làm sao! Và sự mách bảo của nó mới
chính xác và tinh tế làm sao! Có lẽ vì vậy mà Hoài Thanh chỉ chuyên đi bình cái hay, cái đẹp,
tránh phê cái dở, cái xấu. ở đây, thiết nghĩ, không cần nêu ra một thứ
biện chứng dung tục đã trở nên nhàm để “lên lớp” Hoài Thanh là chống (cái dở) cũng là xây (cái hay), thậm chí
còn là xây một cách có hiệu quả nhất! Chỉ chuyên nói cái hay là quyền của
nhà bình luận, nhưng điều đáng nói là ở chỗ phê bình Hoài Thanh thường chỉ
dừng lại ở việc đi tìm những nhãn tự, thần cú, những cảm giác. Vì thế, mặc dù nhà phê bình
rất chú ý đến chữ, đến câu, đến vần điệu mà vẫn không phải là chú ý đến văn bản
(texte) như có người lầm tưởng. Bởi, văn bản, một khái niệm của phê bình văn
học hiện đại, là một hệ thống các ký hiệu được tập hợp theo một ý đồ nghệ
thuật nào đó có nhiều lớp nghĩa khác nhau và mỗi một ký hiệu lại có khả năng
phát ra những nghĩa khác nhau tuỳ theo nó nằm trong những mối quan hệ nào. Và
có lẽ vì thế, phê bình Hoài Thanh, xét cho cùng, chỉ là một cuộc thăm quan
thẩm mỹ đi từ tâm hồn nhà thơ này đến tâm hồn nhà thơ khác qua những tác phẩm
của họ trên cái xa lộ chung là tinh thần thời đại.
Chuyến du hành của Hoài Thanh, tuy vậy không phải bao giờ cũng thuận buồm
xuôi gió. Phương thức coi “mỗi bài thơ là một cánh cửa mở cho tôi đi vào một
tâm hồn” không phải là không gặp sự cố gì. Bởi lẽ, nhiều khi, như đứng trước
thơ Hàn Mặc Tử, Nguyễn Xuân Sanh, ông thấy đó là “những tâm hồn không có lối
vào, những tâm hồn bưng bít, mà chủ nhân không mở cửa thì tôi đành chịu đứng
ngoài, thì tôi còn biết gì mà nói”. Như vậy, Hoài Thanh, có thể là một cách
vô thức, đã thừa nhận những giới hạn của lối phê bình ấn tượng của mình. Và,
ở nơi mà phê bình Hoài Thanh dừng lại, bắt đầu một phương pháp phê bình mới,
khách quan và khoa học. Tuy không phải là chiếc chìa khoá vạn năng, nhưng nó
có cách mở giúp Hoài Thanh những cánh cửa thơ thực ra không bao giờ đóng kín.
Thi nhân Việt Nam không được người đương thời đánh giá cao.
Nguyễn Vỹ, một nhà thơ thuộc nhóm Bạch Nga, chê năng lực phê bình của Hoài
Thanh. Còn Vũ Ngọc Phan, tác giả Nhà văn hiện đại (1942), thì cho rằng Thi nhân Việt Nam không mang cái tên phê bình cũng phải (...). Vậy thì Thi nhân Việt Nam cũng chỉ là một “quyển hợp tuyển” mà điều cốt yếu trong một
quyển hợp tuyển là sự lựa chọn (...). Nhưng đọc Thi
nhân Việt Nam, người ta thấy Hoài
Thanh lựa chọn dễ dàng, rộng rãi quá, người ta thấy ông thiên về lượng hơn
phẩm (...). Nếu đứng vào phương diện biên khảo mà xét (thì) Thi nhân Việt Nam chỉ là một quyển hợp tuyển có tiến tới (tìm) nguồn gốc phong
trào thơ mới theo lối “nhân quả thuyết” như lối chép sử (...). Theo tôi (Thi nhân Việt Nam) là một quyển hợp tuyển có tính chất gần như một quyển phê bình”.
Sở dĩ có sự coi nhẹ như vậy, phải chăng do tâm lý người đương thời bao giờ
cũng trọng cổ hơn kim, nhất là “cái kim” ấy không phải được cất kín trong bọc
gấm, mà được bày bán ở khắp nơi. Hoặc có thể, so với mặt bằng phê bình thơ
bấy giờ, Thi nhân Việt Nam chưa phải đã cao hơn hẳn? Và muốn biết rõ
được nghi vấn sau, phải có một nhà nghiên cứu nào đó sưu tầm các ý kiến đánh
giá thơ đương thời trên báo chí để, một mặt, khôi phục lại cái mặt bằng ấy
và, mặt khác, trên cơ sở ấy, xem xét trong Thi
nhân Việt Nam ý kiến nào là của cải
chung, ý kiến nào là riêng của Hoài Thanh.
Từ Đổi Mới (1986) đến nay, Thi nhân Việt Nam được đưa lên ngôi vị độc tôn. Và Hoài Thanh
được coi như một nhà phê bình của mọi thời đại. (Thi nhân Việt Nam là “một kiệt tác phê bình thơ, tính đến nay, có thể nói là vô
tiền khoáng hậu ở Việt Nam, mà xem ra trên thế giới cũng không dễ có nhiều” - Nguyễn Đình Chú). Phải chăng đứa con bị chối
bỏ và bị vùi dập ngày nào (“Những câu thơ buồn nản
hay vẩn vơ cũng đều là bạn đồng minh của giặc”, “Những vần thơ có tội, nó xui
người ta buông tay cúi đầu, do đó làm yếu sức chúng ta, làm lợi cho giặc...
Giặc chỉ có thể xây cơ đồ của chúng trên phần bạc nhược của con người. Chúng
ta có không dám làm người thì chúng nó mới có khả năng làm giặc”, Nói chuyện thơ kháng chiến, 1951), nay đã
được nhận lại và cần phải được bù trừ? Hoặc có thể chúng ta ngày nay, sau một
nửa thế kỷ, đã có một độ lùi cần thiết để thu được vào tầm mắt toàn bộ vóc
dáng hùng vĩ của ngọn núi? Hoặc người cùng thời với Hoài Thanh do đứng cùng
một mặt bằng với Thi nhân Việt Nam nên chỉ nhìn thấy chân núi, còn người ngày nay
thì lại chỉ nhìn thấy đỉnh vì chân thân của nó đã bị những đám mây thời gian
che phủ? Hoặc nữa, chúng ta ngày nay cũng bị mắc lại căn bệnh di truyền từ
cái xã hội kinh nghiệm là trọng cổ khinh kim, bởi lẽ Thi nhân Việt Nam nay đã trở thành (đồ) cổ (điển)?
Phê bình văn học trên thế giới sau chủ nghĩa ấn tượng đã xum xuê nhiều trường
phái khác nhau: phê bình xã hội học, phê bình phân tâm học, phê bình phong
cách học, phê bình thi pháp học, phê bình chú giải học và mỹ học tiếp nhận...
Các phương pháp có thể khác nhau, thậm chí rất khác nhau, nhưng thiên hướng
chủ đạo của phê bình văn học nửa sau thế kỷ XX là sử dụng thành tựu của các
khoa học nhân văn làm cơ sở cho cách tiếp cận văn chương của mình. Từ đó, nỗ
lực xây dựng một khoa học văn chương.
Thực ra, ý đồ đưa khoa học vào nghiên cứu văn chương là một khát vọng chính
đáng của các nhà phê bình văn học. Bằng việc hữu hình hoá cái vô hình, hữu
thức hoá cái vô thức, họ muốn nắm bắt (và để cho cả người đọc cũng có thể nắm
bắt) những cái dường như không thể nắm bắt được. Sự nghi ngại cái chính xác
của khoa học có thể giết chết cái mờ ảo của văn chương đã dần dần bị xua tan.
Và người ta thức nhận rằng khoa học, ít nhất là trong phê bình văn học, không
ám sát văn chương, mà ngược lại, còn là ngọn gió và sợi dây vừa nâng cánh
diều bay cao lên mãi, vừa đảm bảo cho trực giác nghệ thuật và ấn tượng chủ
quan không dứt giây bay mất vào khoảng hư vô tuỳ tiện.
Ở Việt Nam, vào những năm cuối 80 đầu 90, những công trình nghiên cứu về Truyện Kiều,
về thơ Tố Hữu, Thơ Mới theo phong cách học và thi pháp học đã chứng tỏ sự
thành công của xu thế trên. Và xu thế đó càng được khẳng định, càng kéo theo
nhiều cây bút vào luồng chuyển động của nó, thì người ta càng thấy sự độc đáo
thậm chí độc tôn của Thi nhân Việt Nam và lối phê bình ấn tượng. Và, Lệ thường, bất
cứ một cái gì lên đến đỉnh cao thì đã là sự tự giới hạn, dù là giới hạn bằng
chính độ cao của nó, cho nên: sau Hoài Thanh không phải là đại hồng thuỷ, mà
vẫn có những lối đi khác đến với văn chương. Khác không phải là hơn, bởi
trong văn hóa không có khái niệm hơn, nhưng đã là một giá trị./. Đỗ Lai Thúy
|
ve may bay eva airline
vé máy bay 2 chiều đi mỹ
hàng không hàn quốc
đại lý vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich