MÙA THU TRONG THI CA
|
Thái Tú Hạp
|
Trời Cali mấy hôm nay thời tiết đã
biến chuyển đổi thay. Mới buổi sáng nắng rực rỡ trên hàng cây, buổi chiều đã
có sương khoác kín lãng đãng trên lối về. Một chút gió heo may đã lành
lạnh hắt hiu đủ cho lòng chúng ta chùng xuống với chiếc lá rơi nhẹ trên mặt
hồ tĩnh lặng như gương. Dẫu không nhìn thấy đâu đây “Một chiếc lá ngô
đồng vừa rơi, mọi người đã nhìn thấy mùa thu trở về” (Ngô đồng nhất diệp lạc.
Thiên hạ cọng tri thu). Chỉ thấy sương khói xây thành cũng đủ cho lòng nhau
se sắt đón thu sang. Đã hơn hàng tỷ năm từ khi có sự hiện hữu trái đất này
trong vũ trụ mênh mông, mùa thu đã ra đi và trở lại biết bao nhiêu tỉ lần
theo chu kỳ tuần hoàn của tạo hóa. Mùa thu, cái thời tiết lãng mạn trữ tình
của thiên nhiên đã trở thành đề tài tuyệt diệu vô tận trong kho tàng văn
chương nghệ thuật của nhân loại. Nó đã tạo nên bao nhiêu thi hào, thi bá lỗi
lạc Đông Tây kim cổ. Không có một nhà khảo cứu văn học thế giới nào, tổng hợp
cho hết được những áng văn chương toàn bích ca ngợi mùa thu. Vì hầu như trong
tất cả những thi sĩ của mỗi quốc gia khi mới bắt đầu yêu thơ và chọn con
đường sáng tạo thi ca như một nghiệp dĩ cao quý, đều xác quyết không thể nào
từ chối hấp lực tuyệt vời đầy xúc động nghệ thuật của mùa thu. Hàng ngàn năm
trước, khi địa vị của dòng thơ Đường được đánh giá tuyệt đỉnh của nền văn học
Trung Hoa, đã khai mở từ thời Sơ Đường dưới thời Vua Cao Tổ năm Vũ Đức Nguyên
Niên đến thời kỳ Vãn Đường dưới thời vua Chiêu Tuyên Đế, kéo dài lịch sử
Đường Thi lên đến cả ngàn năm. Tuy nhiên những bài thơ ca ngợi mùa thu
của Lý Bạch, Vương Duy, Lưu Vũ Tích, Giả Đảo, Thôi Hiệu, Vương Hàn, Đỗ Phủ...
cho đến bây giờ chúng ta có dịp đọc lại vẫn cảm nhận cái thâm hậu, kỳ tuyệt
cao khiết biết dường nào. Đêm thu, trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời, hàng
phong bên sông, ngọn lửa thuyền chài hắt hiu, nửa khuya tiếng chuông chùa
ngân nga làm rung động sóng nước, Trương Kế đã viết nên bài thơ để đời:
Nguyệt
lạc ô đề sương mãn thiên
Giang
phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô
Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền
(Phong
Kiều Dạ Bạc)
Trăng
tà, tiếng quạ kêu sương
Lửa
chài, cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền
ai đậu bến Cô Tô
Nửa
đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
(Tản
Đà)
Một cảm tác về đêm trăng mùa thu
bơi thuyền ở Hồ Động Đình của Lý Bạch:
Động
Đình Hồ tây thu nguyệt huy
Tiêu,
Tương giang Bắc tảo hồng phi
Túy
khách mãn thuyền ca Bạch trữ
Bất
tri sương lộ nhập thu y
Trăng
thu soi sáng Động Đình
Tiêu,
Tương một giải, chim hồng sớm bay
Đầy
thuyền khách hát như say
Bẵng
quên áo thấm sương đầy móc thu
(Chi
Điền)
Những thi văn tài lỗi lạc của thế
giới văn chương Tây Phương thường được nhắc nhở đến nhiều nhất là Charles
Beaudelaire, Paul Verlaine, Anatole France... đã sáng tác nhiều thi phẩm ca
ngợi mùa thu diễm tuyệt. Chính những trường phái thi ca lãng mạn, tượng trưng
vào cuối thế kỷ 19 ở Pháp đã tạo nên những ảnh hưởng sâu đậm, đối với các thi
sĩ Việt Nam như trường hợp của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Huy Cận, Vũ
Đình Liên... tạo thành văn học sử của trường phái thơ mới ở thời điểm tiền
chiến. Chúng ta hãy lắng nghe bài thơ tả cảnh thu của Huy Cận:
Nai
cao gót lẫn trong mù
Xuống
rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về
Sắc
trời trôi nhạt dưới khe
Chim
đi, lá rụng cành nghe lạnh lùng
Sầu
thu lên vút song song
Với
cây hiu hắt, với lòng quạnh hiu
Mùa thu đã thực sự vực dậy trong
tiềm thức chúng ta những kỷ niệm êm đềm của một thời tuổi trẻ. Những con phố
tịch liêu. Những tháp cổ rêu phong. Những am mây sầu thảm. Những tiền kiếp u
trầm có nhau. Những tảng đá xanh trầm mặc. Những hàng cây tĩnh tâm khoác áo
sương mù. Những ngọn đỉnh gió hú hoang tịch ngàn năm. Trong cuộc trường chinh
ngôn ngữ hiện hữu với bao nhiêu thăng trầm theo mệnh số, chúng ta đã bao
nhiêu lần gọi thu về đuổi nắng chói chang đi. Những buổi chiều thu đẫm ướt
nỗi buồn vơ vẩn, cám dỗ ta bằng nỗi quạnh hiu, bằng những chiếc lá vàng rơi
trên lối về lẻ loi như cánh hạc xa bầy:
Em
không nghe mùa thu
Dưới
trăng mờ thổn thức?
Em
không nghe rạo rực
Hình
ảnh kẻ chinh phu
Trong
lòng người cô phụ?
Em
không nghe rừng thu
Lá
thu kêu xào xạc
Con
nai vàng ngơ ngác
Đạp
trên lá vàng khô
(Tiếng
Thu - Lưu Trọng Lư)
Trong Thi Nhân Việt Nam xuất bản
từ năm 1941, Hoài Thanh - Hoài Chân đã nhận định về nhà thơ Lưu Trọng Lư: “à
Lưu Trọng Lư có những bài thơ cứ vương vấn trong trí tôi hằng tháng, lúc nào
cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ,
nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng
hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta...“
Không phải chỉ có nước Trung Hoa
cổ là một mùa thu bát ngát, ở xứ Việt Nam mùa thu vẫn tạo nên những cảnh trí
thật mơ màng quyến rũ đấy chứ. Bằng chứng đối với văn nhân thi sĩ nước ta
trong suốt cuộc hành trình phát huy văn hóa dân tộc, đề tài mùa thu vẫn ghi
nhận vượt trội hơn những cảm hứng so với số lượng sáng tác những mùa khác
trong năm. Với cảnh trời thu man mác thơ mộng, sương khói lãng đãng giăng
khắp núi đồi, đã thoáng hiện não nề trong Đoạn Trường Tân Thanh của cụ Nguyễn
Du, trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm, trong Bích
Câu Kỳ Ngộ của Vô Danh Thị, ... trong những bài Thu Ẩm, Thu Điếu của Tam
Nguyên Yên Đỗ, trong thơ của thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chan chứa những
nỗi niềm thu bi thiết:
Ngọn
gió thu phong rụng lá vàng
Lá
bay hàng xóm lá bay sang
Vàng
bay mấy lá năm già nữa
Hờ
hững ai xui thiếp phụ chàng
Ngọn
gió thu phong rụng lá hồng
Lá
bay tường bắc lá sang đông
Vàng
bay mấy lá năm hồ hết
Thơ
thẩn kìa ai vẫn đứng trông
(Gió
Thu)
Xuân Diệu, một trong những nhân
vật tiên phong của phái thơ mới, chống lại những khuôn mòn sáo cũ, câu nệ quá
đáng vào niêm luật tù túng không tạo cho hồn và ý thơ bay bổng lên đỉnh cao
của nghệ thuật. Nếu nói đến thơ tình thì Xuân Diệu được công nhận trải
qua thời gian vài thập niên ông vẫn giữ địa vị đặc thù trên thi đàn Việt Nam.
Tuy nhiên, về cảm xúc sáng tác từ gợi ý mùa thu, Xuân Diệu cũng tạo nên những
thành tích đáng kể qua những thi phẩm như: Nguyệt Cầm, Nhị Hồ, Ý Thu... và
Đây Mùa Thu Tới:
Rặng
liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc
buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây
mùa thu tới – mùa thu tới
Với
áo mơ phai dệt lá vàng
Hơn
một loài hoa đã rụng cành
Trong
vườn sắc đỏ rửa màu xanh
Những
luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi
nhánh khô gầy xương mỏng manh
Thỉnh
thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non
xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã
nghe rét mướt luồn trong gió
Đã
vắng người sang những chuyến đò...
Mây
vẫn từng không, chim bay đi
Khí
trời u uất hận chia ly
Ít
nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa
cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì?…
Từ khi tuổi vừa chớm yêu đương,
tôi đã có những nỗi buồn vu vơ khi tiết trời se sắt lạnh, lá bàng rơi trên
lối đi về trong thành phố mái rêu phong cổ kính chứng tích của một thuở “Lối
xưa xe ngựa hồn thu thảo. Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương” (Bà Huyện
Thanh Quan).
Trong thơ Chế Lan Viên, ông vẽ nên
những cảnh điêu tàn, niềm luyến tiếc đến một thuở vàng son, oanh liệt ngày
xưa. Ông có trí tưởng tượng phong phú, tuy nhiên, những chữ ông diễn tả giản
dị, đơn sơ nhưng không đánh mất nét thơ mộng bất ngờ. Chúng ta hãy lắng nghe
những lời than thở của tâm trạng não nề đón thu sang:
Chao
ôi! Thu đã tới rồi sao?
Thu
trước vừa qua mới độ nào!
Mới
độ nào đây, hoa rạn vỡ
Nắng
hồng choàng ấp dãy bàng cao
Cũng
mới độ nào trong gió lộng
Nến
lau bừng sáng núi lau xanh
Bướm
vàng, nhè nhẹ bay ngang bóng
Những
khóm tre cao rũ trước mành
Thu
đến đây! Chừ, mới nói răng?
Chừ
đây, buồn giận biết bao ngăn?
Tìm
cho những cánh hoa đang rụng
Tôi
kiếm trong hoa chút sắc tàn!…
(Thu
– Chế Lan Viên)
Qua đến câu chuyện tình thu buồn
của T.T.KH với những tâm sự não nề ẩn chứa một cách xót xa cay đắng trong
những bài thơ Hai Sắc Hoa Ty Gôn, Bài Thơ Thứ Nhất, Đan Áo Cho Chồng, Bài Thơ
Cuối Cùng... đã hơn một thời gây nhiều xúc động trong giới văn học:
...Từ
đấy, thu rồi, thu lại thu
Lòng
tôi còn giá đến bao giờ
Chồng
tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người
ấy, cho nên vẫn hững hờ...
...Tôi
vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái
ân lạnh lẽo của chồng tôi
Mà
từng thu chết, từng thu chết
Vẫn
giấu trong tim bóng một người
...Nếu
biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời
ơi! Người ấy có buồn không?
Có
thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa
trái tim phai tựa máu hồng?
Tất cả vật chất hiện hữu trong thế
gian này sẽ hủy hoại qua thời gian. Chỉ có thế giới siêu tưởng mới là nơi
chốn thi nhân hy vọng gởi gắm ít nhiều khổ đau miên viễn. Như trường hợp thi
sĩ Đinh Hùng đã đào sâu trong huyệt mộ dĩ vãng, để tìm lại bóng hình yêu dấu
của người tình muôn thuở:
...Trời
cuối thu rồi - Em ở đâu?
Nằm
bên đất lạnh chắc em sầu
Thu
ơi! Đánh thức hồn ma dậy
Ta
muốn vào thăm nấm mộ sâu!
...Em
mộng về đâu
Em
mất về đâu
Từng
đêm tôi nguyện, tôi cầu
Đây
màu hương khói là màu mắt xưa
(Gửi
Người Dưới Mộ)
Bốn bề bát ngát buồn hiu hắt,
những cành khô khẳng khiu in trên nền trời trắng đục chẳng khác nào bức tranh
thủy mạc của thiên nhiên quá tuyệt vời, chỉ có mắt nhìn của nghệ sĩ mới khám
phá ra từ ngàn năm tác phẩm vĩ đại đó. Chúng ta không ngạc nhiên đã thẩm thấu
trong tâm hồn những nhà văn nhà thơ Thanh Tịnh, Thế Lữ, Hồ Dzếnh, Thâm Tâm...
Và mãi cho đến thời kỳ hậu chiến, chúng ta khám phá càng nhiều hơn những tác
phẩm lừng lẫy của thi đàn văn học miền Nam.
Trong cái thế giới ngôn ngữ thi ca
đầy mê hoặc của Bùi Giáng, ông đã tạo nên cái sắc thái hòa hợp đầy kỳ ảo thần
tình của hai dòng văn học uyên bác Đông Tây trong những thi tập Mưa Nguồn, Lá
Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Đêm Ngắm Trăng... và hơn hàng ngàn bài thơ ông
sáng tác gần nửa thế kỷ, ông như một biểu tượng thiên tài lỗi lạc của văn học
hiện đại. Trong số lượng thơ mênh mông đó, mùa thu cũng đã khiêm nhượng xuất
hiện bàng bạc trong tâm hồn thi sĩ:
...Phải
là nguyệt giữa đêm rằm?
Nguyên
Tiêu lãng đãng lá nằm ngẩn ngơ
Kể
từ hằng thủy ban sơ?
Kể
từ sơ thủy về tờ vẽ trang?
Kể
từ thu tạ lên đàng?
Rừng
phong thu đã quan san nhuộm màu?
Phải
rằng đó trước kia sau?
Hay
là sau trước còn tao ngộ gì?
Bước vào cái không khí đầy ảo giác
mơ hồ, trữ tình của Nguyên Sa. Thơ tình của ông đã thoát khỏi những băn
khoăn, siêu hình. Tình yêu hiển lộng thánh hóa trong một phối cảnh thiên
nhiên tuyệt vời của mùa thu kiều diễm:
Tôi
đã gặp em từ bao giờ
Kể
từ nguyệt bạch xuống đêm khuya
Kể
từ gió thổi trong vừng tóc
Hay
lúc thu về cánh nhạn kia?
Có
phải em mang trên áo bay
Hai
phần gió thổi, một phần mây
Hay
là em gói mây trong áo
Rồi
thở cho làn áo trắng bay?
Có
phải mùa thu sắp sửa về
Hay
là gió lạnh lúc đêm khuya
Hay
là em chọn sai màu áo
Để
nắng thu vàng giữa lối đi?
Có
phải rằng tôi chưa được quen
Làm
sao buổi sáng đợi chờ em
Hay
từng hơi thở là âm nhạc
Đàn
xuống cung trầm, mắt nhớ thương
Buổi
tối tôi ngồi nghe sao khuya
Đi
về bằng những ngón chân thưa
Và
nghe em ghé vào giấc mộng
Vành
nón nghiêng buồn trong gió đưa
Tôi
không biết rằng lạ hay quen
Chỉ
biết em mang theo nghê thường
Cho
nên cặp mắt mờ hư ảo
Cả
bốn chân trời chỉ có em
(Tương
Tư)
Trong sinh hoạt thi ca ở hải
ngoại... Du Tử Lê, nhà thơ được công nhận như một thi sĩ hàng đầu viết về
tình yêu hiện nay. Ông có sức sáng tạo phong phú, mỗi năm đều trình làng dăm
ba tác phẩm thơ văn. Riêng trong thi tập “Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu”, Du
Tử Lê xuất sắc với nhiều bài thơ ca ngợi mùa thu tình ái, ngôn ngữ mới lạ,
phù thủy, lôi cuốn và mê hoặc. Chúng tôi yêu nhất “Bài Nhân Gian Tháng Tám”
của ông:
Buổi
chiều xám chỗ ngồi tôi tháng tám
Em
dung nhan như một vết dao
Trong
trí nhớ của một người khánh tận
Núi
sông người thoáng chốc cũng hư hao
Em
mười bảy bước chân vào tháng chạp
Hàng
cây khô vai gọi lá hai hàng
Đâu
sự thật cảnh đời tôi đã xế
Em
đi qua, chỉ thức dậy điêu tàn
Đêm
cao ốc bàn tay buồn, mắt lặng
Gió
mưa đi tít tận trời nào
Môi
tháng sáu bao dung hồn phiêu bạt
Em
tin không? Tôi chết ngọt ngào
Em
bước xuống cuộc đời tôi ảm đạm
Với
bình minh, mười bảy vết son tươi
Kẻ
khánh tận, cuối cùng soi trí nhớ
Trong
bài thơ tháng bảy đã chia hai
Nếu
em biết có lần tôi đã hỏi
Tôi
đợi ai cuối cuộc chơi này?
Như
tháng tám đi qua người sẽ khuất
Riêng
vết son còn đỏ nẫu môi cười
Bài
thơ nhỏ gói nỗi sầu vô hạn
Đường
chim đi, nghìn dặm có ai tìm
Em
không thể thì thôi đừng nắng, gió
Củi
than riêng, tôi đốt một mình
Đêm
tháng tám, chỗ ngồi tôi lửa cháy
Đến lúc tình yêu được quan niệm
sâu xa hơn, vượt thoát ra khỏi những trăn trở khổ đau của định mệnh. Tình
thương mới đích thực rộng lớn thăng hoa giữa con người với con người. Đó mới
là giây phút hạnh phúc, sứ mệnh giác tha độ lượng của người nghệ sĩ, luôn
luôn muốn đề cao cái đẹp vĩnh cửu của tâm hồn.
Giữa cảnh trí tiêu điều mùa thu,
một người ở tù nhiều năm trở về thăm lại làng xưa, nhà thơ Tô Thùy Yên đã giữ
được tâm bình lặng ... Ông đã thẩm thấu triết lý sâu sắc của người
phương Đông.
...Ta
về cúi mái đầu sương điểm
Nghe
nặng từ tâm lượng đất trời
Cám
ơn hoa đã vì ta nở
Thế
giới vui từ mỗi lẻ loi
...Ta
về như lá rụng về cội
Bếp
lửa nhân quần ấm tối nay
Chút
rượu hồng đây, xin rưới xuống
Giải
oan cho cuộc biển dâu nầy
...Ta
về như hạc vàng thương nhớ
Một
thuở trần gian bay lướt qua
Ta
tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành
không trải hết được lòng ta
(Ta
Về – Tô Thùy Yên)
Mang tâm trạng của kẻ tha hương
lúc nào cũng nhớ về cố xứ thân yêu. Nhà thơ Tuệ Nga đã biểu hiện nỗi niềm nhớ
nhung trong những thi phẩm xuất bản ở hải ngoại. Không ngô đồng mà cũng vọng
tưởng như “ngô đồng lác đác” trong lòng khi trời hiu hắt thu sang:
Ngô
đồng lác đác báo Thu sang
Vườn
cũ hoa xưa có điểm vàng
Khói
loạn bốn phương sầu ngút ngút
Gió
cuồng tám hướng hận mang mang
Mực
hoen lòng giấy tình ngăn lối
Bút
đọng niềm thương lệ ố vàng?
Sương
tuyết nhạt nhòa Trăng cổ độ
Nghe
chiều thế sự sóng âm vang...
(Thu
Sơ)
Hằng đêm chúng ta nhìn lên bầu
trời lấp lánh hàng muôn triệu vì sao, đâu có biết những thiên hà xinh đẹp thơ
mộng đó, xa cách chúng ta hàng chục tỉ năm ánh sáng, có nhiều thiên hà đã mất
hút từ lâu, hôm nay chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng. Những biến thiên của vũ
trụ cũng chỉ là những hiện tượng sắc không, nên thời tiết mùa thu của mỗi năm
thường thay đổi. Tuy nhiên, những tác phẩm ca ngợi mùa thu thì vĩnh cửu, vượt
thời gian.
Cứ mỗi năm, khi bước chân trẻ thơ
rộn rã trên đường đến lớp học hay reo vui với nhịp trống múa lân giữa muôn
sắc màu lộng lẫy, của những chiếc lồng đèn thắp sáng mừng đón Tiết Trung Thu,
theo truyền thống Dân Tộc, tâm hồn người tha hương cũng xao xuyến bâng
khuâng, tưởng nhớ đến những chuỗi ngày thơ ấu trên quê hương Việt Nam thanh
bình.
Con đường quen thuộc, buổi sáng đi
qua, buổi chiều trở lại như nhịp đập buồn bã của trái tim người lữ khách già
nơi nghìn dặm quê người. Giữa những hàng cây thay lá gần hai mươi năm qua
ròng rã, miệt mài, thầm lặng. Cũng như sáng hôm nay, chính ta khám phá mùa
thu đã hiên ngang trở về, thong thả, bình an theo mây trời hạ xuống nhân
gian, từng bước lụa là êm ả đầy quyến rũ trữ tình. Lòng ta cũng rạo rực yêu
với thu. Nói thầm với thu sao mà dễ thương quá như thuở ban đầu tỏ tình
với em hồn nhiên và trong sáng như hoa cỏ trong khu vườn dấu yêu, nơi một góc
trời Đà Nẵng đầy thơ mộng.
Nếu hiểu được thời gian và không
gian là khoảnh khắc vô thường, thì ta đang ở Cali hay phương trời nào khác,
mùa thu vẫn không bội phản từ trong tâm thức thủy chung với nỗi đau của đất
trời nơi cố quận thân thương./.
|
hãng máy bay eva
vé máy bay đi california
korean air vn
phòng vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich