Tống biệt hành với cảm nghĩ
của Hoài Linh
"Tống
biệt hành" là bài thơ nổi tiếng và được ưa thích nhất của Thâm Tâm.
Có người không ngần ngại liệt nó vào một trong mười bài thơ tiền chiến
hay nhất . Chục năm nay,"Tống Biệt Hành" cũng được xếp trong
tuyển chọn năm mươi bài thơ trữ tình tiêu biểu của mười thế kỷ thơ ca
Việt Nam
Đề tài
bài thơ là một trong hằng hà sa số những cuộc ly biệt được đưa vào
"Thơ Mới" thời 1930-1945. Nhưng có lẽ trong văn học Việt Nam,
trước và sau Thâm Tâm, không ai viết về chia ly đầy tính bi hùng, trữ
tình và mãnh liệt đến như thế.
Đưa
người, ta không đưa qua sông.
Từ bao
đời nay, con sông, bến nước vẫn là địa điểm của những cuộc tiễn biệt.
Chẳng những vì xưa kia, phương tiện giao thông chủ yếu của người dân quê
là chiếc thuyền. Con sông còn như một ranh giới, một vành đai bao phủ và
che chở mỗi vùng làng mạc. Mỗi người, khi qua sông, cũng là lúc rời bỏ
quê hương cùng gia đình và người thân của họ. Chẳng phải là ngẫu nhiên
khi dòng sông, con tàu đi vào tiềm thức mỗi người như một biểu tượng của
giã biệt, xa cách. Trong thơ ca cũng vậy:
Anh
Khóa ơi,
Em tiễn anh xuống tận bến tàu...
("Anh Khóa", Trần Tuấn Khải)
Biệt
ly,
Sóng trên dòng sông,
Ôi còi tàu như xé đôi lòng,
Và mây trôi, nước trôi, ngày tháng trôi,
Càng lướt trôi.
("Biệt ly", Dzoãn Mẫn)
Nhưng
lần này, tác giả không đưa bạn mình qua sông. Vào những năm cuối của thập
kỷ ba mươi, khi Nguyễn Bính viết "Những bóng người trên sân
ga", nhiều cuộc đi xa đã khởi đầu trên một bến xe, một sân ga nào
đó.
Tuy
thế hình ảnh con đò, bến nước trong văn chương và cuộc đời đã hằn sâu
trong tác giả tự bao giờ, khiến anh phải thốt lên:
Sao có
tiếng sóng ở trong lòng?
Hỏi
đấy, nhưng chỉ để bộc lộ nỗi lòng buồn bã pha chút vị ngây ngất của anh.
Tiếng sóng ấy chưa đến độ như "tiếng đời xô động, tiếng hờn
câm" ở đoạn kết, nhưng đã tựa như tiếng đàn khuấy động những cung
bậc bi phẫn giữa người đi và kẻ ở.
Đã hay
rằng "người" buồn đấy, còn "cảnh" ra sao? Buổi chiều
ấy, dù "không thắm, không vàng vọt", nhưng "đầy hoàng hôn
trong mắt trong", và có thể rất đẹp đấy. Nhưng nó vẫn đượm vẻ gì man
mác vô định. Có điều, vào lúc ấy, nào ai còn để ý đến cảnh vật bên ngoài.
Họ mải "giã gia đình" và "dửng dưng". Đối với tác
giả, chỉ còn người đi là tồn tại, anh chỉ "đưa người ấy", ngoài
ra mọi thứ khác nào có nghĩa gì.
Cuối
cùng thì giờ phút chia tay cũng phải đến. Người đi hùng dũng lắm, hăng
hái và hăm hở lắm:
Ly
khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Anh
thề thốt thật ghê! Người đọc không biết anh đi đâu, anh làm gì. Chắc sự
nghiệp của anh lớn lắm. Có gì làm ta nhớ lại chàng Kinh Kha vào Tần qua
sông Dịch lạnh tê tái, khảng khái làm hớp rượu, rồi bước thẳng không quay
đầu lại:
Phong
tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn,
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn.
(Gió hiu hiu chừ, sông Dịch lạnh ghê,
Tráng sĩ một đi chừ, không bao giờ về.)
Ta
thấy anh đi khí thế thật đấy, nhưng sao cô đơn quá! Đi thì cứ đi, nhưng
nào có rõ tương lai:
Ba
năm, mẹ già cũng đừng mong.
Anh
lên gân vậy thôi, chứ thực ra, anh thương mẹ lắm. Và khi đi, nào phải anh
không day dứt. Anh còn chị, còn em. Những người chị "như sen"
và người em "ngây thơ đôi mắt biếc", đâu muốn anh đi. Hẳn nhà
anh nheo nhóc và cực nhọc lắm, anh đi rồi, ai lo?
Tất
nhiên, chí trai bốc đồng, anh tỏ ra quyết tâm lắm. Nhưng dễ thấy đó chỉ
là vẻ bề ngoài. Kỳ thực, lòng anh thật mềm yếu. Anh đã buồn, chắc là từ
lâu, chứ đâu phải chỉ từ "chiều hôm trước" với "sáng hôm
nay".
Và
cảnh sắc bầu trời mùa hạ sang thu ấy thật đẹp. Anh nhất quyết phải từ giã
gia đình, bạn bè trong khung cảnh ấy sao? Đích của anh nào có chắc chắn
gì? Đâu phải anh không có những day dứt, ràng buộc bịn rịn?
Nhưng
rồi anh vẫn dứt áo ra đi. Đi lúc nào mà người tiễn chẳng hay:
Người
đi! Ừ nhỉ? Người đi thực!
Như
một cơn mơ, lúc bừng tỉnh chẳng còn gì. Anh đã đi, đi thực. Làm người ở
lại đắm trong nỗi thẫn thờ. Cuộc đời sao như tỉnh, như mơ! Đành phải
chịu!
Tất cả
dẫn đến một cao trào. Nhịp thơ trở nên gấp gáp, rắn rỏi, mãnh liệt, nhưng
đượm vẻ chua chát và bi phẫn:
Mẹ thà
coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.
Anh
muốn quên lãng đi mọi thứ. Quên đi cho hết nỗi sầu. Như người lữ khách
trong "Chiều" của Hồ Dếnh. Nhưng thử hỏi: có quên được không?
Mây
thu đầu núi, gió lên trăng,
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
Thời
gian qua đi. Bóng hoàng hôn không còn nữa. Cơn lạnh và bóng tối trùm lên
mỗi bước anh đi. Lúc ấy, người lữ khách còn lại một mình. Âm thầm. Lặng
lẽ. Cái đích vẫn xa vời. Và nhuệ khí xưa đâu còn nữa. Anh muốn bật khóc,
muốn gào lên tức tưởi:
Ly
khách ven trời nghe muốn khóc,
Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm...
Chẳng
biết lúc ấy, anh trách ai? Trách mình, hay trách cuộc đời cay nghiệt?
Ông
Hoài Thanh trong "Vài suy nghĩ về thơ" đã thú nhận khi viết
"Thi nhân Việt Nam", ông rất khoái "Tống Biệt Hành". Chẳng những vì "điệu thơ gấp gáp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân
guốc. Không mềm mại, uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ" mà
chủ yếu bài thơ mang phong vị "bâng khuâng khó hiểu của thời
đại".
Không
rõ "Tống Biệt Hành" có gì "khó hiểu"? Nhưng rõ ràng
khi đọc, tôi thấy thật "bâng khuâng". Vẻ trầm hùng, cổ kính của
bài thơ cùng những hình ảnh "mong manh, ghê rợn, như những nhát dao
xiết vào tâm hồn, tưởng là rất nhẹ hóa ra lại rất nặng" gây nên
một ấn tượng thật mạnh và sâu đến người đọc.
Ít năm
trước đây, nhà thơ Lương Trúc , một người bạn của Thâm Tâm, có tiết lộ
rằng "Tống Biệt Hành" là bài thơ Thâm Tâm viết tặng ông khi ông
đi hoạt động. Tạm cho là như vậy. Ở vào hoàn cảnh bấy giờ (1941), hành
động cách mạng của những thanh niên độ tuổi hai mươi như họ, có thể coi
là một sự dấn thân đầy mạo hiểm. Nó mang hình ảnh các tráng sĩ thời xưa,
vào cuộc chiến "lạnh lùng theo trống dồn" ("Chiến sĩ vô
danh", Phạm Duy), với lòng hăng hái thiêng liêng "chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh" ("Tây Tiến", Quang Dũng). Và cũng
chẳng khác gì mấy hình ảnh thật đẹp và oai hùng của lứa văn nghệ sĩ đầu
tham gia kháng chiến, nửa thập kỷ về sau:
Sáng
chớm lạnh trong lòng Hà Nội,
Những phố dài xao xác hơi may,
Người ra đi đầu không ngoảnh lại,
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
("Đất nước", Nguyễn Đình Thi)
...
Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
Mái đầu xanh hẹn mãi tới khi già
Phơi nắng gió và hoa ngàn cỏ dại
Theo tiếng gọi của những người Hà Nội
Trở về
Trở về chiếm lại quê hương!
("Ngày về", Chính Hữu)
Cuộc
đời Thâm Tâm thật ngắn ngủi. Ông viết chưa nhiều. Cái chết cướp ông
đi ở tuổi 33. Ông đã lao vào cuộc chiến đấu của dân tộc một cách nhiệt
thành. Từng là biên tập viên tạp chí "Tiên phong" (1945-1946)
rồi thư ký tòa soạn báo "Vệ quốc quân", ở Chiến dịch Biên giới
(1950), Thâm Tâm bị sốt rét nặng trong lúc không có thuốc men. Vô phương
cứu chữa, ông bị bỏ lại trong một căn nhà sàn tại bản Nà Po cùng một
người liên lạc. Anh này là người duy nhất có mặt khi ông qua đời và xin
được bà con dân bản một mảnh vải trắng để làm khăn tang
Cái
chết của Thâm Tâm thật bi thảm. Nhưng nó cũng thật đẹp và bi hùng ở khía
cạnh một tráng sĩ nơi sa trường. Đẹp và bi hùng như "Tống Biệt
Hành" của ông vậy!
|
hãng vé máy bay eva
vé máy bay khứ hồi đi mỹ giá rẻ
lịch bay của korean airlines
mua vé máy bay đi mỹ giá rẻ
giá vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch