Nguyễn Bính: Thi sĩ của đồng quê
Không sinh ra trong gia đình nông dân làm ruộng, lại sống
nhiều ở thị thành nhưng Nguyễn Bính viết rất nhiều về thôn quê để rồi được tôn
vinh là “Thi sĩ của đồng quê” (Cô giáo Trần Thị Thanh)
Không sinh
ra trong gia đình nông dân làm ruộng, lại sống nhiều ở thị thành nhưng Nguyễn
Bính lại viết rất nhiều về cảnh quê, người quê, tình quê và cuộc sống ở thôn
quê để rồi được tôn vinh là “thi sĩ của đồng quê”. Thời ông người ta học tây
học, làm cho tây, đi tây tại sao ông thì ngược lại, cứ tìm về, cứ giữ mãi trong
tâm hồn cái chốn quê nghèo ấy. Bởi Nguyễn Bính khi nào cũng là người của các xứ
đồng, của cái diều bay, của dây hoa lí, của mưa thưa, mưa bụi giữa mọi công
việc làm ăn vất vả một nắng hai sương. Bởi đấy là cốt lõi của đời và tâm hồn
thơ Nguyễn Bính. Quê hương là tất cả mà cũng là nơi in đậm dấu vết của cuộc đời
mình. Với Nguyễn Bính, quê hương là hình bóng đất nước, là nơi đặt
chân với vô vàn kỉ niệm và quê hương cũng chính là vùng chiêm trũng mênh mông
Phú Xuyên, Bình Lục, Ý Yên, Vụ Bản - cái rốn nước
của đồng bằng sông Hồng, nơi ấy nhà thơ thân thương của chúng ta đã lênh đênh
thân con cò con diệc trên đồng.
Sức mạnh
sáng tạo của Nguyễn Bính cũng từ nơi đồng đất trắng trời trắng nước này. Làng
Thiện Vịnh, làng quê chôn rau cắt rốn của ông, cái làng đồng trũng mà chắc đến
mùa nước thì con đường đê liên huyện kia chỉ còn là một sợi chỉ mỏng manh bên
làn nước giữa gò đất, bờ bụi, tre pheo. Sao mà lắm gió thế, gió trên đồng đêm
ngày giật lên, gào lên từng cơn. Làng nước xám ngắt, quang cảnh tiêu điều lam
lũ ảm đạm nheo nhóc. Nhưng tự hào biết bao:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
(Chân
quê)
Bằng lối ví von
mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian thơ Nguyễn Bính mang đến cho người
đọc hình ảnh của quê hương đất nước, của những vùng nông thôn Việt
Nam đẹp dung dị, mặn mà:
Mùa
xuân là cả một mùa xanh
Trời
ở trên cao, lá ở cành
Lúa
ở đồng tôi và lúa ở
Đồng
nàng và lúa ở đồng quanh
(Mùa
xuân xanh)
Hình ảnh
nông thôn trong thơ Nguyễn Bính như một cái gì đó bất biến trong không gian và
thời gian, nó gắn liền với những đêm hội chèo, nơi mà mỗi cá nhân được nghỉ
ngơi, được tiếp thêm sức mạnh trong cộng đồng và bởi cộng đồng:
Bữa ấy mưa
xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp
lớp rụng vơi đầy
Hội chèo
làng Đặng về ngang ngõ
Mẹ bảo:
“Thôn Đoài hát tối nay”.
Lòng thấy
giăng tơ một mối tình
Em ngừng
thoi lại giữa tay xinh
Hình như hai
má em bừng đỏ
Có lẽ là em
nghĩ đến anh
( Mưa xuân)
Nông thôn trong thơ Nguyễn Bính là nơi có cuộc sống giản dị mà thơ mộng, nơi người ta tìm về làm chốn nghỉ ngơi, xa lánh những ồn ào của chốn kinh kì:
Nhà gianh
thì sẵn đấy
Vợ xấu có
làm sao
Cuốc kêu dài
bãi sậy
Hoa súng nở
đầy ao
Làng bên sẵn
rượu ngon
Đêm nay ta
đối ẩm
Tre nhà
đương cữ ấm
Tha hồ mà
măng non
(Thanh
đạm)
Và cái chốn
quê nghèo ấy, với Nguyễn Bính là nơi ở của người con gái hàng xóm thầm yêu
trộm nhớ mà ngại ngùng không dám bày tỏ:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn
(Ngưòi
hàng xóm)
Là những ngày hội
xuân tưng bừng, nô nức trẩy hội chùa:
Trên đường
cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn
thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt
bà già tóc bạc
Tay lần trang hạt miệng nam vô
(Xuân
về)
Trong bức
tranh nông thôn còn có sự huy hoàng của giấc mơ quan trạng, đó là phút giây mơ
ước ngắn ngủi, nhưng là cả cuộc sống, cả tâm hồn của những chàng trai quê:
Tưng bừng
vua mở khoa thi
Tôi đỗ quan
Trạng vinh qui về làng
Võng anh đi
trước võng nàng
Cả hai chiếc
võng cùng sang một đò
Đồn rằng đám
cưới cô to
Nhà trai
thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn
chín nghìn cau
Tiền cheo,
tiền cưới chừng đâu chín nghìn
(Giấc
mơ anh lái đò)
Và có
lẽ lớn hơn hết là tấm lòng của những người mẹ, người chị, người vợ... mà trải
qua bao thăng trầm của cuộc sống, của lịch sử đã tạc nên những tượng đài về vẻ
đẹp của tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam: nhân hậu, thuỷ chung, giàu lòng vị
tha. Họ không sống cho bản thân mà sống cho người khác, vì người khác như người
chị khi “lỡ bước sang ngang” với bao nước mắt, sầu tủi, oán hờn nhưng vẫn dặn
đi, dặn lại:
Em ơi! em ở lại nhà,
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương.
....
Cậy em, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
(Lỡ
bước sang ngang)
Ở đây, khi
nói đến đời sống tâm hồn của người dân nông thôn ngoài những yêu thương còn có
ghen tuông, oán giận, sầu não... nhưng vượt lên trên tất cả là bổn phận, là sự
vong thân lặng lẽ của mọi người. Điều này
khiến cho cộng đồng làng xã dù có bị xô lệch đến đâu cũng không bị phá vỡ. Lũy
tre xanh ngàn đời vẫn là không gian xanh che chở, bảo vệ và giam giữ...
Nông thôn
trong thơ của Nguyễn Bính là một bức tranh nhiều màu sắc, đó là cả quê hương đất Việt thu nhỏ với cây đa, bến nước,
sân đình, với hội hè đình đám, với cuộc sống mưu sinh của những người nông dân
trên đồng ruộng của mình. Và nếu tìm một hình ảnh có tính biểu tượng về nông
thôn Việt Nam trong thơ Nguyễn Bính thì hình ảnh đó chính là mảnh vườn. Bởi
mảnh vườn quê thường trở đi trở lại nhiều lần trong thơ ông với bao nhiêu là
định ngữ: vườn nhà, vườn ai, vườn cũ , vườn cau, vườn dâu, vườn trần, vườn
tiên...
Vườn ở đây
đồng nghĩa với nhà, bởi có gia đình Việt nào lại không có vườn (Em ơi! em ở lại
nhà/Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương), vườn cũng đồng nghĩa với quê hương:
Đem thân về
chốn vườn dâu cũ
Buồn cũng
như khi chị lấy chồng
Vườn gắn với những
kỉ niệm tuổi thơ, bởi cả thời tuổi nhỏ của con người gắn bó với mảnh vườn nhà
mình. Những trò chơi tuổi nhỏ, những mơ ước cũng nảy sinh từ đây, khu vườn nhà
như là cả một thế giới cổ tích và cũng là nơi chứng kiến những tình cảm, những
rung động đầu đời:
Hoa thừa,
rượu ế ấy tình tôi
Xa rồi vườn
cũ hoa cam rụng
Gặp lại nhau
chi muộn mất rồi
Và vì vậy, vườn với
Nguyễn Bính còn là hạnh phúc:
Như chuyện
Tương Như và Trác Thị
Đưa nhau về
ở đất Lâm Cùng
Vườn xuân
trắng xoá hoa cam rụng
Tôi với em
Nhi kết vợ chồng
“Với biểu
tượng của nông thôn, thi nhân chẳng những đã quay về với nguồn cội như một nhu
cầu giải thoát và bù đắp mà còn lồng được dân gian vào dân tộc, tạo ra hình ảnh
một chân quê, tinh hoa chân truyền của nền văn minh thôn dã” (Đỗ Lai Thuý, Tinh
hoa thơ mới, trang 113).
Đỗ Lai Thuý
đã đánh giá toàn bộ quá trình sáng tác của Nguyễn Bính, lí do ông tìm về với
mảng đề tài quen thuộc là thôn quê Việt Nam trong khi những bạn văn, bạn thơ
cùng thời với ông ai cũng tìm cho mình một cái gì đó phải thật mới mẻ và cả
những gì mà Nguyễn Bính đã gặt hái được. Tuy nhiên, xét cho cùng mọi nguồn gốc
của sáng tạo, của thơ văn đều phát khởi từ ngọn bút, từ những rung động trong
tâm hồn của thi nhân, từ tình cảm gắn bó vừa sâu nặng vừa mật thiết với đất và
người.
Cái làng
Thiện Vịnh của ông trong buổi giao thời đầy những trái ngang, trắc trở, cả cái
mới và cái cũ đan xen vào nhau tạo nên một mớ hỗn độn, xô bồ. Nhưng có ai đánh
thuế những mơ tưởng và mong ước. Ông viết về
quê mình với những gì đẹp nhất, đó cũng là
cách để bấu víu, để tồn tại mà không muốn thoát li. Cùng thời ông: Nguyễn Khắc
Hiếu phải bám nghề, bám đời bằng những giấc mơ tiên. Xuân Diệu thì say sưa
trong khu vườn tình ái. Huy Cận thì chìm ngập trong cả một bể sầu... Trong cuộc
sống triền miên đồng trắng nước trong, cả đời người ta vẫn chờ đợi mong ngóng những
rộn ràng óng ả của một đêm hội chèo và Nguyễn Bính đã thay họ viết nên những
ước mơ, những khúc ca mơ ước. Ông trở
thành ca sĩ của đồng quê trong cái nghĩa thành thực và đơn giản nhất như vậy.
TRẦN THỊ THANH
Trường THPT Triệu Sơn 5
Trả lờiXóađại lý vé eva air
vé máy bay 2 chiều đi mỹ
hàng không hàn quốc
vé máy bay đi mỹ giá rẻ nhất
giá vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch