Xuân Diệu,
sống để mài sắt nên kim
Những bước
đường đời
Tỉnh Bình
Định, mảnh đất đã nuôi dưỡng nên nhiều tên tuổi lớn trong thơ Việt Nam hiện
đại, cũng là nơi chôn rau cắt rốn của Xuân Diệu. Cha đàng ngoài mẹ ở đàng trong - một cách khái quát, Xuân Diệu nói về hai cái cội nguồn
làm nên đời mình như vậy. Cả hai trong tâm trí người xưa xa cách đến ngàn
trùng, song sự thực là đều nằm trên mảnh đất của sự quá độ, nơi con người
Việt Nam đã vượt ra khỏi cái nôi xuất phát là đồng bằng sông Hồng miền Bắc,
nhưng cũng chưa đến được với sự định hình ở mảnh đất trù phú phương Nam. Cả
quê nội và quê ngoại của tác giả Thơ thơ đều nằm trọn trong khúc ruột
miền Trung, mảnh đất buộc con người kiên trì nhẫn nại, để đối phó
với cuộc sống khắc nghiệt một bên là rừng, một bên là biển, mà cũng là mảnh
đất gợi nhiều bâng khuâng thương nhớ, mảnh đất của thơ.
Theo các tài liệu chỉ được công bố lẻ tẻ, như một sự ngẫu
nhiên đây đó, người ta biết rằng Xuân Diệu lớn lên trong một gia đình trung
lưu, cụ thân sinh ra ông là một tú tài nho học, chuyển dần từ nông thôn ra
thành phố. Rất tồi
toán pháp, khá văn chương - nhà thi
sĩ đã nói về mình không phải như một sự nhún nhường, mà như một sự thú nhận
về mối duyên nợ sâu xa giữa ông với thơ. Thơ đã thu hút hết tâm trí ông,
khiến tuổi trẻ ông có thêm một cái đích. Chân trời là mấy tờ tạp chí như Hữu thanh, như Annam tạp chí, niềm vui
là làm được ít bài thơ; mọi chuyện nghe quá tội nghiệp. Nhưng trời sinh là
thế, tất cả những gì đã đến trong tuổi nhỏ Xuân Diệu không ít thì nhiều, đều
có liên quan đến cái nghề mà ông sẽ sống chết trong suốt cuộc đời.
Ta hãy hình dung lại tình hình đất nước: khi Xuân Diệu lớn
lên và ra học tú tài ở Hà Nội. Sau những thể nghiệm trong những năm đầu thế
kỷ, nay là lúc xã hội Việt Nam chuyển hẳn sang mẫu hình hiện đại. Người ta
đua nhau mở hiệu buôn, làm đại lý cho các hãng buôn tận bên Tây, rồi đóng tàu
chạy đường biển, rồi khai mỏ, mở nhà in... Tất cả gặp nhau trong một ý nghĩ:
cái gì mà người phương Tây đã làm, đang làm, thì mình cũng phải làm được và
sẽ làm đến nơi đến chốn. Trong lĩnh vực đời sống tinh thần cũng có tình trạng
như vậy. Một lớp người mới bước vào nghề: Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư v.v... So với thế hệ Tản Đà hoặc Phạm Duy Tốn, họ có chỗ khác: Tây
học thấm vào họ từ khi còn ngồi trên ghế tiểu học. Sách báo phương Tây là cái
mẫu hình mà họ thấy không có cách nào khác hơn là phải noi theo. Với những
bài thơ táo bạo sau này sẽ in trong Thơ Thơ, Xuân
Diệu còn như là muốn chứng tỏ: lối nói, lối xúc cảm của những Rimbaud,
Verlaine... không có gì xa lạ với người mình. Trong phạm vi ngôn ngữ dân tộc
cho phép, người làm thơ vẫn có thể trình bày hết những ý tưởng đã đến trong
tâm trí con người Việt Nam hiện đại.
Nếu sự nhạy cảm và nói chung là toàn bộ năng khiếu đã đưa
Xuân Diệu đến với sáng tác văn học thì ý chí lập nghiệp sẽ là yếu tố bảo đảm
cho ông thành công. Đã mang
tiếng ở trong trời đất - phải có danh gì với núi sông - mấy câu thơ ấy của Nguyễn Công Trứ luôn vang bên tai ông
như lời tự nhủ. Trong khi những người khác coi văn chương là một việc tài tử,
vui làm, chán bỏ được chăng hay chớ, thì Xuân Diệu sẵn sàng đánh vật với công
việc bởi ông hiểu rằng đấy là cuộc sống thật sự của mình. BáoNgày nay và nhóm Tự lực đang nổi lên như cồn, gần như làm chủ văn đàn ư? Thì ông
sẽ tìm được cách để được coi như một thành viên trong nhóm! Làm thơ không
sống nổi, thơ là thứ không thể lấp đầy một tờ báo, phải biết viết tin, viết
truyện ngắn ư? Thì Xuân Diệu sẽ học để làm được tất cả những cái đó, văn xuôi
của ông trong Phấn thông
vàng là một thứ
văn xuôi độc đáo không giống bất cứ ai khác. Tiểu luận Xuân Diệu hồi ấy đã có
giọng riêng, không ai có thể bắt chước. Trong số các nhà văn tiền chiến, Xuân
Diệu là một trong những ngòi bút mang chất nhà nghề rõ rệt nhất. Chất nhà
nghề đó bộc lộ ở thói quen chịu thương chịu khó “nhận tất cả mọi việc về nghề
văn”, nhận đủ các loại com-măng, rồi việc
to cũng như việc nhỏ đều làm hết lòng, làm ở trình độ hiện đại, vừa bám sát
yêu cầu của khách hàng, vừa mang rõ dấu ấn riêng, để có thể đề vào đó mấy chữ
“made in Xuân Diệu” mà không sợ mang tiếng gì hết.
Tuy nhiên, cũng phải nhận rằng trong sự chuyên nghiệp hoá
sớm sủa này lớp người viết báo viết văn tự tố cáo ở mình một chỗ yếu khác: họ
không có cơ sở vững chắc. Họ không phải là tầng lớp quý tộc của xã hội. Một
câu thơ nổi tiếng của Xuân Diệu thường được nhắc nhở để chứng minh đầu óc
thực tế nơi ông Cơm áo
không đùa với khách thơ, bản thân
nó cho thấy điều kiện khó khăn của giới cầm bút: họ không được xã hội nuôi
nấng đàng hoàng. Làm sao mà họ nghĩ ngợi được gì cho kha khá một chút - siêu
hình một chút, trừu tượng một chút - trong khi những vấn đề cơm áo hàng ngày
cứ đeo đẳng nơi họ?!
Thiếu đi cốt cách quý tộc, cái ý chí lập nghiệp nói ở
trên, lớp trí thức thuộc địa lúc ấy chỉ còn là những con người lao động trí
óc để kiếm sống với trăm ngàn day dứt trong người, và cái sự nghiệp mà người
ta ước ao, suy cho cùng, cũng chỉ tương xứng với tầm vóc người ta vốn có.
Từ đầu 1940, Xuân Diệu tạm bỏ thi đàn đi làm nhà đoan ở Mỹ
Tho, để lấy tiền giúp người bạn thân mến của mình là Huy Cận có tiền theo học
Canh nông. Năm 1943, Huy Cận thi đỗ, có lương thì Xuân Diệu lại quay về Hà
Nội. Nhưng chỉ mới có mấy năm mà Hà Nội đã khác hẳn. Đời sống văn học khảng
tảng rõ rệt. Không ai còn hết lòng yêu mến văn chương như hồi nào. Nhóm Tự
lực văn đoàn lúc này đã gần như tan tác. Không phải quá lo lắng về cái ăn cái
mặc, song con người trí thức trong Xuân Diệu, Huy Cận lúc này lại rơi vào
cuộc khủng hoảng mới: Khủng hoảng trong đời sống tinh thần. Về sau, Xuân Diệu
thường vẫn nhớ lại một buổi chiều rét mướt ngồi vá áo cũ, trên một căn gác ở
phố Hàng Bông. Sự cô độc lúc này đã lên đến tột cùng, song nó không có cái vẻ
sang trọng như thường thấy trong Thơ thơ, mà đây
là một sự cô độc rất trần thế, nó đi liền với cảm giác hoang mang vô vọng.
Từ những năm tháng cùng quẫn này của Xuân Diệu, người ta
lại càng thấy rõ một cái gì như bức chân dung đích thực của giới trí thức
Việt Nam thời Pháp thuộc: dù có học theo tinh thần của văn hoá Pháp, song
chưa bao giờ họ trở thành những con người có tầm vóc, có cốt cách, như những
V. Hugo của thế kỷ trước, hoặc R. Rolland, A. France ở thế kỷ sau này.
Hoặc là họ sớm bỏ đi làm chính trị như trường hợp Nhất
Linh, Trần Trọng Kim (và trước đó, cả Phạm Quỳnh, đầy tâm huyết mà cũng đầy
tội lỗi).
Hoặc là họ sống lêu lổng vạ vật, những gì có thể làm thì
đã làm rồi, còn làm tiếp ra sao thì không biết, nên cầm bằng cho gió bay đi, tự buông thả trong thở
than đau xót. Một Nguyễn Bính tài hoa chính là hình ảnh của đám thi nhân lêu
lổng vạ vật đó.
Thật dễ hiểu là khi Cách mạng tới, Xuân Diệu đã đón nhận
với rất nhiều hào hứng và bắt tay vào làm mọi công việc mới mẻ do Cách mạng
giao, chẳng khác gì những anh em từng hoạt đông trong bóng tối. Có lúc, trong
cơn say sưa Xuân Diệu đã đi tới những ý tưởng nông nổi. Chẳng hạn, đọc lại
Tạp chí Tiên phong số ra 19-8 -1946, người ta thấy có bài Văn hoá Việt Nam sẽ không đi theo
nấm mồ văn hoá Pháp, trong đó,
Xuân Diệu nhận xét một cách hàm hồ: “Thơ ca của Pháp thì hết nhựa rồi” “Tiểu
thuyết của Pháp mới là lèo tèo” “Văn hoá Pháp sang thế kỷ hai mươi (...) vất
vưởng như không có địa bàn”. Những người có quen biết Xuân Diệu chắc không
lấy làm lạ việc làm ấy: Sự bốc đồng nhẹ dạ của tác giảThơ thơ, đã
thành căn bệnh mãn tính.
Tuy nhiên, về căn bản phải thấy Cách mạng đã giúp Xuân
Diệu ra khỏi một cuộc khủng hoảng và với khí thế của một ngưòi chưa đầy 30
tuổi, ông như bắt đầu một cuộc tái sinh.
Hào hứng đón cái mới, cái lạ của Cách mạng, rồi sẽ có lúc,
trong kháng chiến, Xuân Diệu không khỏi ngao ngán, mệt mỏi trước cuộc sống
của rừng núi, và dù đã tự kiềm chế hết mức, vẫn phải thốt lên: Sớm nay ra cửa u tì quốc/ Một chiếc xe mau đạp giữa đường.
Song chỉ đến thế! Sa chân lỡ bước, như cánh nhà văn dinh
tê, thì không bao giờ. Không có sự may mắn ngẫu nhiên nào ở đây cả. Sự sống ở
Xuân Diệu, thường khi là bao gồm một lý tính khá chắc chắn, Xuân Diệu không
phải loại nghệ sĩ buông thả, tụ bạ, tự hạ thấp mình vì một chén rượu, một
điếu thuốc. Đấy là một phần. Tuy nhiên, lý do sâu sắc hơn, còn là khả năng
cam chịu, nín nhịn nó là cái nét quán xuyến trong cuộc đời Xuân Diệu. Chính
sự biết điều này đã giữ Xuân Diệu lại, dù thoạt nhìn, người ta không thể
tưởng tượng được là ông giỏi chịu đựng đến thế. Ăn chịu với kháng chiến tám
năm ròng, rồi Xuân Diệu sẽ hiểu rằng từ nay, đời mình chỉ có một phương hướng
duy nhất:
Lên non, em cũng theo lên
Xuống bể, em cũng ngồi bên mạn thuyền
Nam Chi, một nhà nghiên cứu sống xa quê hương, từng nhận
xét một cách thân tình về sự chuyển hướng của Xuân Diệu sau 1945: “Xuân Diệu
đã cướp một mâm tiệc Bồng Lai đem về làm một bữa cơm trần thế, cho những
người ăn vì cần ăn chứ không phải ăn cho vui miệng. Thơ Xuân Diệu ngày xưa là
áo gấm, thơ Xuân Diệu ngày nay là manh áo nâu sứt chỉ đường tà”. Chi phối
bước đi của Xuân Diệu trên phương diện thi ca, cái hướng mà Nam Chi nói ở đây
quả thật với một trí thức như Xuân Diệu là một bước rẽ ngoặt, một cuộc cách
mạng.
Cuộc Cách mạng như vậy đến với người làm thơ một cách từ
từ không gây ra những đảo lộn có tính chất đứt gẫy mà nó chỉ yêu cầu một sự
thích ứng mỗi ngày một ít.
Mặt khác, Cách mạng luôn luôn có sự đền đáp, sự thưởng
công thích đáng. Trong xã hội mới người nghệ sĩ không thuộc ngạch bậc nào
người nghệ sĩ có vẻ như đứng ngoài mọi sự sắp xếp thứ bậc song nói chung họ
được coi trọng. Đi kèm với danh hiệu cao quý là một sự đãi ngộ đáng kể đến
mức một người hay tính toán như Xuân Diệu không cảm thấy mình bị thiệt.
Chẳng những thế, đồng thời với việc thiết lập một trật tự
mới trong đời sống thì một trật tự mới cũng được lập nên trong hàng ngũ những
văn nghệ sĩ, những trí thức, và trong cái hệ thống mới hình thành này, Xuân
Diệu luôn luôn có được những vị trí tốt đẹp.
Thử điểm lại một số công việc mà Xuân Diệu đã làm từ sau
Cách mạng:
- 1945: Tham gia Văn hoá cứu quốc. Làm tạp chí Tiên phong. Trở thành Đại biểu quốc hội.
- 1947: Giữ mục Tiếng thơ của Đài tiếng nói Việt Nam
- 1948: Tham gia
thành lập Hội Văn nghệ.Có chân trong thường vụ Hội; cùng với nhiều cốt cán
khác của Hội lúc ấy như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài... làm tạp chí Văn nghệ.
- 1954-1956: Biên tập viên của Văn nghệ, lúc này
khi trở về Hà Nội đã trở thành tuần báo (cùng với Văn Cao - Tế Hanh - Bùi
Hiển - Nguyên Hồng - Tú Mỡ - Chu Ngọc - Sĩ Ngọc - Nguyễn Đình Thi lập nên một danh sách vàng, một ban
biên tập mạnh trong lịch sử tờ báo này).
- 1957-1963: Làm Văn nghệ, lúc này lại là một tạp chí ra hàng tháng.
- 1969-1976: Làm tạp chí Tác phẩm
mới,
chức danh Phó Tổng biên tập...
Trong hồi ký viết về Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu tự nhận
mình luôn luôn thích làm phó cho người khác. Làm phó thì trách nhiệm không
nặng lắm, không phải đương đầu, mà mọi việc vẫn có mặt. Vai trò của cấp phó
trong cơ quan, như vai trò người đàn bà trong gia đình, tần tảo lam làm,
chính cái đó là hợp với Xuân Diệu. Vừa có ý thức, vừa tự nhiên khéo léo, gần
như là vô tình, vô ý thức, ông tạo cho mình cái cốt cách mà người nghệ sĩ lúc
này cần có: cốt cách một người lao động. Nhìn lại hơn 40 năm cuối đời của
Xuân Diệu người ta thấy ông đã lao động không mệt mỏi. Luôn luôn ông tìm thấy
việc để làm và giá có được phân công làm gì thì cũng mang vào đấy cả sự tính
toán kỹ càng vốn có. Thơ giờ đây được ông xem như một ngành sản xuất, với
tiến độ, nhịp độ mức tiêu thụ nguyên liệu và mức ra sản phẩm... rành rọt. Để
biện hộ cho các bài thơ phục vụ kịp thời, ông nêu lên lý luận về thơ thực tế,
xem đó là cả một hướng tìm tòi nghiêm chỉnh. Nhưng chỗ mạnh của mình là thơ
tình thì ông vẫn nhớ! Biết rằng trước sau xã hội sẽ cần loại thơ riêng tư ấy,
ông khai thác những vui buồn trong cuộc đời riêng một cách triệt để, làm sẵn
thơ tình rồi công bố dần. Ông lại có ý thức tổ chức sao cho các bài thơ đó bổ
sung cho nhau, nối tiếp nhau, tiến tới làm ra một thứ mà ông ước tính nên gọi
là từ điển tình yêu, những cặp trai gái khi cần sẽ có
cái để tra cứu từ A đến Z. Nhưng không ở đâu cái khao khát làm mọi thứ cho
“ra tấm ra món” của Xuân Diệu bộc lộ rõ như khi ông viết tiểu luận. Sau những
thành công trong việc đột phá vào sáng tác của Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương,
ông sớm hiểu rằng đây là khu vực làm nên sự nghiệp cuối đời của mình. Công
cuộc khai thác được ông lên kế hoạch đâu vào đấy, ở đó, không có chuyện thú
hay không thú, hợp gu hay không hợp gu, ở đó là sự đào cùng tát cạn, là xúc
từng mảng, từng mảng... Số lượng trang viết trở thành nỗi ám ảnh thường xuyên
trong đầu óc Xuân Diệu. Ông hể hả nhìn lại số đầu sách đã ra, số trang đã
viết, cũng như hể hả ghi vào sổ tay số lượng những cuộc bình thơ, nói chuyện
thơ, số lần được mời làm chủ khảo chấm thơ - cái tâm lý rất trần tục ấy là
một trong những dấu hiệu chứng tỏ cách cảm cách nghĩ của người lao động đã
thấm hẳn vào Xuân Diệu. Trong lời tựa Thơ thơngày nào,
Thế Lữ từng sớm chỉ ra rằng Xuân Diệu rất quyến luyến cõi đời, tấm lòng trần
gian của ông rất nặng. Nay, trong cốt cách của người lao động, nhà thơ mới
bộc lộ hết mình, tấm lòng trần gian ấy mới thật hiện ra với cái vẻ trần trụi
và thông tục của nó. Dẫu sao, Xuân Diệu cũng đã đạt được cái điều mà ông mong
muốn, và cũng chỉ được có thế.
Sự sống chẳng bao giờ chán nản
Trong
những ấn tượng mà con người và thơ Xuân Diệu để lại trong lòng đồng nghiệp và
bạn đọc (thậm chí ngay những người gặp một lần cũng có thể nhận ra ngay), có
một ấn tượng rõ rệt không ai quên nổi, đấy là lòng yêu đời và ham sống của
tác giả Thơ thơ. Sớm thấm
nhuần nền văn hoá phương Tây, Xuân Diệu nhìn đời như một cái gì trôi chảy mà
mình không thâu tóm, thì nó sẽ bay biến. Từng biểu hiện nhỏ của cuộc sống
được ông chắt chiu góp nhặt. Thấy cái gì mới cũng hồi hộp, nhận được cái gì
cũng biết ơn, và làm được cái gì thêm cho đời, ông cũng sẵn sàng. Giả sử ngồi
bên mâm cơm cạnh tác giả, ta sẽ thấy ở Xuân Diệu vừa có cái sung sướng của
trẻ nhỏ, thấy cái gì cũng ngon cũng bổ cũng muốn ăn thêm một chút, để cho
khoẻ cho lớn thêm, lại vừa có cái lý lẽ của người đọc sách nhiều, sành ăn,
biết ăn như thế nào thì đủ chất và có lợi cho cơ thể mình nhất. Xuân Diệu đã
nâng chuyện ăn uống lên thành một phương diện của đời sống, và đối xử với cái
phương diện mà mọi người thường cho là phàm tục và bỏ qua ấy một cách cẩn
trọng, cẩn trọng vô cùng, chứ không bao giờ xem thường coi nhẹ. Tôi nhớ một
bài ký, Xuân Diệu viết sau một đợt lên Mèo, ở đó, ông tả cảnh người ngồi ăn
giữa chợ rất sảng khoái. Lúc đầu đọc thấy thô thiển, khó chịu; sau hiểu ra,
thấy Xuân Diệu là thế, Xuân Diệu thi sĩ thường bắt đầu nói về cuộc sống từ cái nhỏ nhặt.
Mà chẳng cứ trong chuyện ăn uống: hình như làm được điều
gì, để chứng tỏ là mình đang sống, Xuân Diệu cũng đều sẵn sàng bỏ công ra
làm. Theo khoa học, sự sống tồn tại nhờ hai quá trình đồng hoá và dị hoá.
Đồng hoá là hấp thụ tiếp nhận, làm cho mình giàu thêm. Và dị hoá tức là mang
cho, bộc lộ ra ngoài, đưa ra, thải ra những gì đã tiêu hoá sau khi tiếp nhận,
để rồi tạo một khoảng trống mà tiếp tục đồng hoá nữa. Một cơ thể sống như
Xuân Diệu là một cơ thể đồng hoá và dị hoá được tiến hành đều đặn, mạnh mẽ,
không ngừng không nghỉ. Như là trong sáng tác. Đọc sách ngốn ngấu, phăm phăm
đạp xe đi thực tế, ghi chép, gạn chắt lấy từng chi tiết nhỏ. Rồi về, là trả
nợ, là hùng hục viết - một thời gian dài, ngày tháng của Xuân Diệu xoay quanh
cái quy trình khép kín đó. Không ai hay nói đến sự thiêng liêng của việc làm
thơ viết văn như ông nhưng cũng không ai biết biến thơ thành công việc hàng
ngày, làm một cách đều đều, một cách máy móc, một cách phàm tục như ông (chả
thế có lần nhìn Xuân Diệu ngồi làm thơ, Trần Đăng Khoa đã bảo rằng cha mình ở
nhà quê đi cày cũng không vất vả đến như thế). Chưa hết. Sau khi đã làm xong
một khối lượng công việc khổng lồ (khối lượng của một viện hàn lâm, ý của Tố
Hữu) lại còn phải lo đăng tải, giới thiệu, liên hệ với người này để in, nhận
lời người kia đi nói chuyện, làm sao cho thiên hạ “mục sở thị” cái tài đô lực
sĩ của mình nữa chứ.
Một cách tự nhiên Xuân Diệu nhẫn nại tự mình hết lòng lo
toan những việc đó, để có dịp xuất hiện.
Về già Xuân Diệu còn giữ được bản nháp những bài thơ đầu
tiên, xoá dập rất ghê. Theo sự nhớ lại của tác giả, lần ấy, cũng như nhiều
lần về sau, cái mạnh nhất ở ông là ý muốn làm thơ, là cái khao khát được viết
ra, và hãy viết ra đã, viết bằng văn xuôi trước, rồi sắp xếp sau. Suốt đời
Xuân Diệu ham hố vậy.
Xuân Diệu xa lạ với loại nghệ sĩ rạc dài, nghệ sĩ lang
thang sống đến đâu hay đến đó, chỉ sống bằng cảm hứng thất thường sau những
chuyến giang hồ vặt, rồi tồn tại theo kiểu tầm gửi trông cậy vào lòng tốt của
những Mạnh Thường Quân nào đó: so với họ Xuân Diệu là một loại khác. Ông cẩn
thận hành nghề, chi chút chăm lo tài năng bản thân. Nghề viết, đối với ông,
không thể là một quá trình tự phát. Ngược lại phải làm sao huy động hết tiềm
năng để đạt tới hiệu suất cao nhất. Phải chăm chỉ chuẩn bị, dè sẻn sử dụng
sức lực, để lúc có thời cơ, đi thật nhanh tới mục đích của mình. “Sau khi
phấn đấu trong từng công việc cụ thể, người ta còn cần biết tập trung sức lực
tạo nên những thành quả đích đáng như năm ngón tay dồn lại thành một quả
đấm”. Xuân Diệu đã nói điều đó với bao người, kể cả người viết bài này và
chúng tôi hiểu đó là những điều gan ruột, Xuân Diệu rút ra từ mấy chục năm
làm nghề của mình. Khoảng 1980, có lần, ở Hà Nội, Xuân Diệu đến nhà tôi vào
lúc bốn giờ rưỡi chiều.
- Đã mất công đạp mấy cây số xuống đây sao anh không đến
sớm một chút, anh em mình ngồi nói chuyện chơi?
- Chiều vừa đi làm việc với một bạn nhà văn Hung; tối, lại
phải ngồi viết một bài bút ký để sáng mai nộp cho Đài. Thế cậu bảo không đến
thăm vào lúc này thì để đến bao giờ?
Lại như cái lần tôi đến nhờ Xuân Diệu dịch một đoạn tài
liệu cho cuốn Mười nhà
thơ lớn của thế kỷ, do Nguyễn Quân và tôi cùng biên soạn. Thực ra một mẩu
vặt như thế này, chả bõ bèn gì đối với một nhân vật đã có đến vài chục đầu
sách như Xuân Diệu. Nhưng hình như vì cuốn sách có cái tên thú vị quá, nên
Xuân Diệu vẫn muốn góp cho nó một chút công sức bé nhỏ. Ông hỏi tôi kỹ lưỡng
yêu cầu số chữ và hẹn giờ đến lấy. Và khi theo lời hẹn tôi đến tận nơi lấy
bài, thì Xuân Diệu cũng chỉ vừa mới làm xong. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên
là cái tập hồ sơ Xuân Diệu có trong tay. Đã viết về bất cứ ai, Xuân Diệu đều
để công làm tài liệu đến mức tối đa. Sự tài tử, sự linh hoạt, cái bột phát
trong ý kiến của con người này thật không làm ai lạ lùng. Cái lạ là chính sự
công phu của con người có thừa lý do để sống và viết tài tử đó.
Đến như sự cày xới của Xuân Diệu trên từng trang thơ của
các tác giả cổ điển thì chúng tôi lại càng vì nể. Với một tác phẩm như Truyện Kiều, hầu như bất cứ nhà văn nhà thơ
nào của chúng ta cũng viết được vài trang. Nhưng riêng về Kiều và Nguyễn
Du viết được mấy trăm trang sách, trong đó có những bài bàn sâu về từng chữ
trong Kiều như Xuân Diệu đã làm, đâu có phải dễ.
Nhân một lần đi công tác với Xuân Diệu, tôi đánh bạo hỏi:
- Trước anh không biết chữ Hán, vậy làm thế nào?
- Cứ học dần. Và nhất là đọc thật kỹ. Các bậc tú tài cử
nhân hay chữ đã làm đầy đủ công việc của họ; mọi chữ khó đã được cắt nghĩa
rồi. Mình chỉ chọn lọc và phân tích thêm thôi.
Hoá ra, lại cái phương châm cũ của Xuân Diệu: không sĩ
diện. Mạnh dạn hút lấy tinh hoa của người khác. Như trong làm thơ, biết nhặt
từng câu nói vương vãi hàng ngày, tự nó đã mang ý thơ rồi đưa vào bài của
mình. Như trong viết báo, biết trích dẫn và thuật lại các chi tiết một cách
khéo léo, đến nỗi có khi người đọc đọc qua ở đâu đó rồi, đọc lại vẫn thấy
mới. Giá ai bảo, chúng ta còn có thể không tin. Nhưng chính Xuân Diệu đã tự
nhận như vậy cơ mà! Con người khá giàu có đó như luôn luôn giơ tay lên cả cười
mà nói với chúng ta:
- Các anh nghèo vì các anh quá hoang toàng. Còn tôi, tôi
chỉ hơn các anh ở chỗ tôi không bỏ phí gì hết.
Đi đến cùng trên con đường đã chọn, con đường ham bộc lộ,
ham xuất hiện, nhiều khi Xuân Diệu hiện ra như một người mà ở nông thôn
thường được gọi là tham lam càm quắp nghĩa là bất chấp lẽ thường, cốt có mặt
và đòi bằng được cái phần của mình.
Sau khi Thơ thơ in ra lần đầu 1938, nhà phê bình Trần Thanh Mại, nhân danh
một con người có theo dõi tài năng của Xuân Diệu từ khi còn trứng nước, không
quên để ý đến bài thơ Mười chữ:
Mưa dầm - thu dưới nguyệt
Máng chảy - suối trên nhà
Trần Thanh Mại bảo mấy câu thơ này không hay, mà lại có
phần sáo. Rồi nhà phê bình tìm cách cắt nghĩa sự có mặt của nó trong tập:
“Đời xưa và cả đến đời nay cũng vậy, có nhiều nhà trưởng
giả có một tập quán quái gở lắm: răng họ rụng ra, họ đem gói gắm cất kỹ, móng
tay họ cũng thế. Không phải vì họ mê tín, sợ khi chết về âm phủ, không đủ
răng mà nhá hay không đủ móng tay mà gãi. Chỉ vì họ quá yêu họ đi! Vật gì trong
người họ lìa ra khỏi, là họ không nỡ bỏ rời, bỏ rớt, bỏ tồi, bỏ tàn. Chỉ
thiếu chút nữa là họ cất cả những vật thường ngày họ đi tiện ra mà thôi!
Ông Xuân Diệu cũng gần như mấy nhà trưởng giả ấy. Chỉ vì
ông quá tiếc một vật mà óc não ông đã cấu tạo ra nên ông không nỡ bỏ đi, mặc
dầu nó chỉ gồm có mười chữ. Mười chữ sáo!”(*)
Lời mỉa mai có thể là hơi nặng. Song nét tâm lý Trần Thanh
Mại miêu tả là có thật. Trong khi bảo rằng tâm lý tham lam kiểu Xuân Diệu
không phải là không phổ biến, nhà phê bình đã gọi đúng căn bệnh: “Chỉ vì họ
yêu họ quá”. Chúng ta dự đoán đọc đến chỗ này, Xuân Diệu chắc cũng phải cười
khà “Chịu thầy, chịu thầy!”. Còn ai yêu mình hơn Xuân Diệu nữa!
“Chết nhưng nết chẳng chừa”, rồi Xuân Diệu sẽ giữ mãi cái
tính ấy, chẳng bao giờ thay đổi cả.
Ngay từ 1958-1960, đọc một số tiểu luận của Xuân Diệu được
in ra hồi đó như Những bước
đường tư tưởng của tôi, Ba thi hào dân tộc, một thanh niên mới lớn
như tôi đã ngạc nhiên nhận ra một chỗ lạ đập ngay vào mắt, là các quyển sách
ấy, thường có mục Cùng một
tác giả,
đặt ngay ở đầu sách - một điều tôi chẳng bao giờ thấy ở sách của các tác giả
cũng nổi tiếng khác, như Tô Hoài và Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân và Tố Hữu.
Cùng với thời gian, bảng kê này ở sách Xuân Diệu ngày một kéo dài ra, và chữ
ngày một nhỏ bớt đi, chúng tôi đọc, có lúc vui vui, vì thấy lao động của Xuân
Diệu được ghi nhận rõ ràng - cái ý thức tác giả ở con người này thật không
thể xem thường; song cũng không khỏi có lúc thầm nói với nhau: sao nhà thơ
yêu quý của mình háo danh thế.
Trong cách nhìn đời của nhiều tác giả có cốt cách, thường
khi người ta bắt gặp không ít thì nhiều một sự bất mãn. Bởi họ có quan niệm
riêng về cuộc đời. Khi thấy thực tế chung quanh không diễn ra như mình nghĩ
họ đau đớn, dằn vặt và thường tìm cách không để cho cái ô trọc của đời thấm
vào mình.
Không nói đâu xa, ngay ở một vài nhà thơ đương thời của
Xuân Diệu và không thành đạt như Xuân Diệu - chúng tôi muốn nói tới Trần
Huyền Trân, Thâm Tâm... - hình ảnh nhà thơ hiện lên qua các sáng tác là hình
ảnh một người giữ bằng được sự độc lập của ngòi bút, chống lại thói hùa theo
đời, cho đến nhịp thơ của họ cũng không chịu thuận theo cái đều đều hoà hợp
của thói đời mà mang nhiều ngang trái nghịch phách.
Xuân Diệu không thế. Trong đời sống hàng ngày Xuân Diệu có
thể xoay xoả vòi vĩnh trước sự đối xử xô bồ của chung quanh, ông cũng giận
dỗi, cáu gắt. Nhưng trong thơ - là cái phần tinh tuý nhất của một con người -
thì hoàn toàn không. Trước sau, tức là cả khi mới bước vào đời, lẫn khi đã có
tuổi rồi, chuẩn bị bước vào cõi âm vô cực của cuộc đời này, ông chỉ có một
điều nói đi nói lại:
- Tôi xin cảm tạ cuộc đời
- Đời đáng sống, muôn ngàn lần đáng sống.
Hình ảnh nhà thơ hiện lên qua các tác phẩm là hình ảnh một
người thèm khát, chân tay lúc nào cũng luống cuống chỉ mong làm được một điều
gì đó cho vừa lòng đời, và mong đời đừng quên mình. Ôi! sẽ đau đớn làm sao,
nếu trong bữa tiệc đời muôn vàn hào hứng ấy, mình lại không được có mặt.
- Uống xong lại khát là tình
Gặp rồi lại nhớ là mình với ta.
Cái sự tham lam thèm khát như thế này không chỉ đặc trưng
cho Xuân Diệu trong quan hệ tình ái, mà là đặc trưng cho toàn bộ cảm quan đời
sống của Xuân Diệu nói chung.
Trước mắt nhà thơ, cuộc đời thường khi tròn đầy viên mãn:
... Trăng từ viễn xứ
Đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn
Mà vận mạng con người thì bấp bênh và nhỏ nhoi không nơi
bấu víu:
Em sợ lắm, giá băng tràn mọi nẻo.
Lời thú nhận tội nghiệp này có lẽ là cơ sở để nảy sinh cái
cảm giác thường trực ở Xuân Diệu “sát hơn nữa, thế vẫn còn chưa đủ”.
Đi ra chợ chọn mấy quả cam, nhận gói kẹo người khác biếu,
Xuân Diệu cũng tìm cách nâng nó lên thành một việc có ý nghĩa của đời. Mà đã
gọi là việc đời thì “trân trọng muôn vàn, muôn vàn trân trọng”.
Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh cho biết, có lần ông được
tác giả Thơ thơ cho xem một bài làm từ năm 1934. Bài thơ 18 đoạn mỗi đoạn
8 dòng đó mượn chuyện than thở cho mấy người chết trẻ để bảo rằng: Khi chết
người ta rơi vào cô đơn hoàn toàn. Bạn quên, những cô gái quên; anh em cốt
nhục cũng quên. Chỉ mẹ cha nhớ nhưng mẹ cha già
cũng chết.
Nhớ các anh hoài chỉ mẹ cha
Song tro tàn lạnh không còn lửa
Rồi đèn mờ tắt thế là thôi
Không một người thương ở cõi đời
Kết luận cái chết càng đáng ghê sợ, nếu như người chết đó
không để lại dấu vết gì.
Và đây một sự kiện nhiều người được chứng kiến: ấy là cái
thảng thốt của Xuân Diệu khi được báo là Nguyên Hồng qua đời. Nhân đây, Xuân
Diệu định nghĩa về cái chết: Nó mạnh vô cùng. Nó biến người ta từ dương vô
cực thành âm vô cực.
Gộp cả hai mẩu chuyện này lại, chúng ta thấy trước sau
Xuân Diệu vẫn là mình. Cách hiểu về sự sống lúc trẻ thế nào, lúc trưởng thành
vẫn vậy. Kể ra ở chỗ này chúng ta có thể tranh cãi với Xuân Diệu: Rằng sự
sống kia cũng có năm bảy đường, có sự sống cao cả và sự sống loàng xoàng.
Rằng chết không phải là tiêu diệt tất cả, mà cái sống cũng không phải là có
sức mạnh vô địch. Có những người chết ngay khi đang sống. Có những sự sống
kéo dài lê thê vô ích, không khác gì cái chết. Chỉ có luôn luôn làm mới cuộc
sống của mình luôn luôn bắt đầu lại, nhận thức lại, người ta mới có một cuộc
sống có ý nghĩa thật sự. Và chỉ có luôn luôn đạt đến sự hoàn thiện, sự thanh
lọc - một cái gì giống như sự hư vô - người ta mới có được sự sống vĩnh
viễn... Giá như Xuân Diệu đi tới một quan niệm gần với phương Đông như thế,
không chừng trang viết của ông sẽ khác đi! Nhưng mỗi người chúng ta như thế
nào là do một chương trình có sẵn, muốn làm sao được.
Nhẫn nhịn như một cách sống
Trong một tiểu luận mang tên Những bước
đường tư tưởng của tôi (1958),
Xuân Diệu kể: ông là con một ông đồ nho nghèo, đã đỗ tú tài, từ nông thôn
chuyển ra thành phố dạy học và khá giả dần lên. Một chi tiết có ý nghĩa quan
trọng hơn: ông là con vợ bé. Điều oái oăm ở đây là cho tới lúc ông lớn lên,
má ông vẫn ở với bà ngoại, còn Xuân Diệu cũng như người em trai là Tịnh Hà
thì ở với đại gia đình, tức bố (mà ông gọi là thầy) và vợ cả của bố (mà ông
gọi là mẹ). Bên ngoại cách bên nội độ vài cây số; lâu lâu, bà má tội nghiệp
mới được phép đến thăm hai cậu con trai, mà cũng chỉ đứng ngoài cửa, chứ
không vào nhà; rồi lại lâu lâu, hai cậu con trai lại trốn về thăm má, thăm
ngoại, cho đỡ nhớ thương.
Như các nhà tâm lý học từng quả quyết, tính cách một con
người được hình thành chủ yếu lúc ấu thơ, khoảng trước 5 tuổi, và ở đấy,
những dữ kiện trong đời sống gia đình có ý nghĩa bao trùm. Tình thế “con vợ
bé” nói trên đã nhào nặn nên một khuôn mặt tâm lý đặc biệt ở Xuân Diệu - ông
dễ thương người, trong ông thường có những nỗi buồn vô cớ, hậu quả của những
giây phút không biết làm gì và không tìm thấy tình cảm ở những người chung
quanh. Luôn luôn cảm thấy cái bơ vơ của mình truớc thiên nhiên và trước cuộc
đời, thường một con người như vậy hay mếch lòng, dễ bị tổn thương, nhưng lại
cũng biết thông cảm với những đau khổ không đâu của người khác.
Trong văn học Trung Hoa cũng có một nhân vật nổi tiếng với
những xúc động vẩn vơ không thể cắt nghĩa nổi và Xuân Diệu thường viện dẫn để
nói về mình. Đó là Lâm Đại Ngọc trong Hồng lâu
mộng.
Người con gái này mồ côi, đơn độc trong tình cảm, lại yếu, nên càng mau nước
mắt. Sự thương cảm cho mình, cho đời ở cô đã lên đến mức một căn bệnh. Có lần
buồn quá, cô nhặt hoa mang vùi một đống, xong lại sụt sịt: Chôn hoa người khóc ngẩn ngơ - Đến khi ta chết, ai là
người chôn? Những giây
phút Lâm Đại Ngọc kiểu ấy Xuân Diệu không thiếu. Có những tình cảm chỉ ngẫu
nhiên thoáng qua mà thi sĩ cứ thấy như là có duyên nợ riêng, chẳng hạn mấy
lần, được chứng kiến bọn nhỏ tí khóc lần nào ông cũng như chôn vào ruột. Bởi
nghịch cảnh đã dấy lên trong lòng ông một nỗi lo sợ, cảm thấy sự sống ở chính
mình rất mong manh, không ghì chặt lấy, không chăm sóc giữ gìn, thì sẽ mất đi
nhanh chóng. (Ông dã kể tỉ mỉ trong Những bước
đường tư tưởng của tôi).
Theo sự quan sát của các nhà nghiên cứu văn học phương
Tây, tâm thế thi sĩ có nhiều nét đồng nhất với tâm lý của loại người quá nhạy
cảm và không tìm thấy chỗ đứng của mình trong xã hội. Đại khái đó là tâm lý
kẻ ngụ cư, tâm lý kẻ lang thang, sống bên lề những xã hội ổn định, tâm lý
những đứa con hoang, không được chiều chuộng và nâng đỡ về tinh thần. Một
hình ảnh được sử dụng phổ biến ở phương Tây: mỗi thi sĩ là một gã Do Thái,
từng người không có quê hương của mình và cả dân tộc không có Tổ quốc.
Cái tâm thế con vợ lẽ ở Xuân Diệu, cũng có nét tương tự:
cảm giác bơ vơ và sự dễ thương người của ông gắn liền với tình thế như là
không nơi bấu víu. Nhưng nét trội nhất trong tâm lý con vợ lẽ nó ảnh hưởng
nhiều đến cách xử thế của Xuân Diệu có lẽ là sự nhẫn nhịn. “Qua sông nên
phải luỵ đò - Tối trời nên phải luỵ cô bán dầu”. Vì tôi ở vào tình cảnh
như thế, nên tôi phải chịu nước lép, chứ thực ra trong bụng, tôi thừa biết là
tôi chẳng kém gì đời. Những ai đã sống qua cảnh con vợ lẽ nghĩa là ở vào một
cái thế rất yếu trong đời hẳn dễ hiểu cái luỵ ấy, và Xuân Diệu càng rất hiểu. Hồi ký Tuổi trẻ Xuân Diệu (do Tịnh
Hà ghi) và cuốn sách Đi hoang của Tịnh Hà cho biết: trong khi Tịnh Hà uất ức, phẫn nộ,
đã phải bỏ cái đại gia đình kia để sống kiếp lang thang thì Xuân Diệu chọn
con đường cắn răng cam chịu, ngoan ngoãn sống với thầy mẹ, dồn tất cả tâm sức
vào việc học, vì biết rằng chỉ có học giỏi mình mới nên người, đền đáp xứng
đáng công ơn má là người đã dứt ruột đẻ ra mình. Rồi ra sự nhẫn nhịn này sẽ
còn đeo đẳng Xuân Diệu trong suốt cuộc đời. Bên trong cái con người ham sống,
dám chường mặt ra mà đòi hỏi và cả xin xỏ cho được; bên trong cái con người
tham lam vơ véo, lại tự ca tụng mình, tô chuông đúc tượng cho mình, tự coi
tất cả những gì mình làm ra đều là ghê gớm, cao cả... thực ra lại có một con
người khác, biết điều, an phận, sẵn sàng chịu nước lép, cốt sao được yên bề
sống và viết.
Trong số các sự kiện chính của cuộc đời Xuân Diệu trước
1945, có một việc mà ai cũng biết, nhưng lại ít nhắc tới, là việc ông bỏ sáng
tác, đi làm tham tá nhà đoan. Sau cái giai đoạn rực rỡ 1935-39, Tự Lực văn
đoàn đã bắt đầu lép vế. Qua năm 1940, thì sinh khí của nhóm gần như suy giảm
hẳn. Tuy nhiên, mấy người rời bỏ văn đàn đều là những người có chí khí, và
việc họ giã từ sáng tác là để có thì giờ đi sâu hơn nữa vào lý tưởng của họ.
Cả Nhất Linh và Hoàng Đạo đều bỏ văn chương để đi vào chính trị. Chỉ riêng có
Xuân Diệu là vì sinh kế. Nói cho rõ hơn, giữa cuộc đời lam lũ của cánh cầm
bút, và cảnh sống khá giả của một công chức cao cấp, Xuân Diệu thấy cái thứ
hai hấp dẫn hơn, vì thế, mới đi làm tham tá, để tập trung tiền nuôi Huy Cận
học đại học Canh nông, sau khi Huy Cận ra trường, lương cao, bổng hậu rồi,
Xuân Diệu mới quay về tiếp tục sáng tác. Đối với Xuân Diệu thì không có
chuyện đặt thơ văn là mục đích tối thượng. Sáng tác dẫu sao cũng là yếu tố
thứ hai, mà đời sống mới là yếu tố thứ nhất.
Cũng như lòng yêu đời, sự nhẫn nhịn ở Xuân Diệu hiện ra
muôn màu muôn vẻ. Nhất là khi động đến quyền lợi thì trước tiên bao giờ ông
cũng nhẫn nhịn, để cầu sự thương hại ở người khác mà cũng là để giành bằng
được quyền lợi của mình.Cánh biên tập chúng tôi còn nhiều kỷ niệm về chuyện
này. Giả sử bỗng nhiên biết rằng chúng tôi đang làm một số báo đặc biệt, hoặc
ra một đầu sách, kỷ niệm sự kiện nào đó, thì dù bận trăm công ngàn việc, Xuân
Diệu vẫn tìm bằng được một bài viết có chút liên hệ nào đó gửi tới để góp
mặt.
Đến với chúng tôi, Xuân Diệu tự nhiên khép nép biết điều,
khác hẳn những ông lớn kiêu căng mà chúng tôi rất ngại - ông rủ rỉ hỏi han:
- Đã in ngay chưa các cậu?
- Đang làm anh ạ.
- Có đánh máy ngay không ?
- Còn phải chờ đủ tập chứ anh.
- Khéo để mình mang về, chép lấy một bản giữ lại, rồi sẽ
gửi sau.
Với một bài góp chung đã thế, nữa là với một tập sách
riêng đứng tên Xuân Diệu! Dù gặp một biên tập viên trẻ, ông cũng làm mọi cách
lấy lòng. Và ông hay nài nỉ, mặc cả, muốn rằng sách mình in ra thật dày, thật
chững chạc. Cái cách Xuân Diệu chăm sóc tác phẩm khiến bất cứ người bình
thường nào cũng ái ngại. Nữa là chúng tôi, vốn học ông từ nhỏ, nể ông nhiều,
không nhượng bộ sao được.
Bác Dương Thanh Huyên, một ký giả lớp trước có quen biết
cả Nguyễn Tuân và Xuân Diệu hồi mới Cách mạng và trong kháng chiến chống
Pháp, từng kể lại mấy mẩu chuyện vui vui. Có lần Thanh Huyên có dịp đi chợ
Cầu Bố (Thanh Hoá) cùng với Xuân Diệu. Gặp một cửa hàng bán chiếc mũ cát bằng
li-e thuần chất, Xuân Diệu khuyên Thanh Huyên mua. Và khi thấy Thanh Huyên
còn dùng dằng, Xuân Diệu mắng yêu :
- Cậu thi sĩ
quá! Với cái mũ này “toa” có thể đi hết cuộc kháng chiến.
Lời lẽ mỗi lần một khác nhưng tình thân là một: Xuân Diệu
sợ chúng tôi say sưa quá, bốc đồng quá tử vì đạo, rồi không giữ được ngòi bút
của mình. Hơn ai hết, ông hiểu về những lưỡi gươm Démocrites thường xuyên
treo trên đầu người làm văn nghệ. Khi nói chuyện này giọng ông đột nhiên nhỏ hẳn đi khe khẽ thì thào. Rồi ông
lắc đầu, ông lè lưỡi, ý bảo rằng sợ lắm, chính mình cũng sợ lắm, mà cỡ các
cậu thì càng phải nên biết sợ ngay thì vừa, nên nhớ là sau có hối cũng không
kịp!
Lại nói những chuyện xa xôi hơn một chút: Trong tâm trí
của chúng tôi, Xuân Diệu là một trong những nhà thơ thông thái, nhà thơ của
những kiến thức uyên bác. Từ 1946, ông đã có mặt trong đoàn đại biểu Quốc hội
Việt Nam qua Pháp. Nhưng do chiến tranh kéo dài, mãi 1981, tức là 35 năm sau,
trong khuôn khổ một số quan hệ được nối lại với nước Pháp, người ta mới lại
thấy ông trở lại thăm cái xứ sở hoa lệ ấy. Ở đó, như báo chí đưa tin, ông có
dịp diễn giảng trước các sinh viên đại học Paris về ảnh hưởng văn hoá phương
Tây trong văn học Việt Nam, và về những nhà thơ cổ điển Việt Nam có nhiều ảnh
hưởng trong đời sống. Nghĩa là, ông đã diễn thuyết toàn những vấn đề cơ bản
cả. Thuận miệng và rất hồn nhiên, tôi hỏi Xuân Diệu khi gặp ông đi Pháp trở
về:
- Thế anh có dịp gặp Aragon hay những nhà thơ Pháp nổi
tiếng, mà các anh vẫn nói với bọn này...
Câu trả lời của Xuân Diệu là hoàn toàn bất ngờ với tôi:
- Em ơi! Đâu người ta có gặp những người như mình. Xuân
Diệu đến Pháp, chỉ để nói chuyện thơ với một số bạn Việt kiều và nhà chuyên
môn thôi.
Bấy giờ tôi mới sững ra. Sự biết thân biết phận, thường
trực ở một người như Xuân Diệu, như một thứ bản năng thứ hai.
Trong chừng mực nào đó, phải nhận sự nhẫn nhịn ở Xuân Diệu
là một cái gì đáng quý. Nó không chỉ là khiêm tốn, là biết điều. Sâu sắc hơn
thế, nó chứng tỏ một nhận thức chính xác về tình thế người làm văn nghệ ở một
nước mà đời sống vật chất còn nhiều khốn khó. Nó giúp cho người nghệ sĩ tránh
khỏi những hoang tưởng bốc đồng quá đáng, làm phiền mọi người và làm phiền
chính mình. Có điều nhiều khi Xuân Diệu đã đẩy nó đi quá xa, biến thành một
cách sống cầu an, chiều đời, tự hạ thấp nhu cầu nghệ thuật và chất lượng sáng
tác của mình một cách đáng tiếc.
Ai cũng biết thơ Xuân Diệu sau 1945, có nhiều bài phải gọi
là dở. Nó gò gẫm giả tạo. Nó chỉ chứng tỏ rằng người viết cố làm cho bằng
được, chứ mất hết cả cái vẻ tự nhiên hồn hậu mà thơ hay đáng lẽ phải có. Tôi
không trở lại với những ví dụ đầy rẫy trong thơ Xuân Diệu trong các tập Mẹ con, Riêng chung... in ra về sau, mà muốn trở lại
một số bài thơ in ra từ 1946.
Súng giữ liền tay, cày chẳng rảnh
áo trên vai rách lấy tay gò:
Bụng vẫn thiếu cơm mà phải tỉnh
Hỡi ôi! giành lấy sống cho nhau
Chẳng dám tin trời rèn lấy mệnh
Lâm li biết mấy hùng bao nhiêu
Tiếng thảm run hoà thành nhạc mạnh.
Khiên cưỡng! Nói lấy được! Ai cũng thấy thật không xứng
đáng với tầm vóc con người đã viết nhữngNguyệt cầm, Thơ duyên, Lời kỹ nữ.
Tuy nhiên để kéo lại, bài thơ lại nói được cái ý mà người viết và cả không ít
người đọc lúc đó cần thiết: thơ phải gia nhập vào đời sống mới. Và bởi lẽ bài
thơ lại đứng tên Xuân Diệu nên điều đó càng có ý nghĩa. Nó không còn là một
bài thơ lẻ nữa. Nó là một thái độ. Bởi vậy, mới có chuyện bài thơ được in vào
một tuyển tập mang tính cách tuyên ngôn Văn hoá và
Cách mạng, và được đặt bên cạnh những bài viết sắc sảo khác.
Rồi ra, trường hợp như bài thơ trên sẽ còn trở đi trở lại
nhiều lần với Xuân Diệu. ấy không còn là những sáng tác cụ thể nữa. Mà mỗi
bài hoặc gần như mỗi bài, là một tuyên ngôn. Và việc sử dụng các bài thơ đó ở
những vị trí trang trọng, mỗi lần một chút giúp vào việc hình thành ở Xuân
Diệu cách hiểu mới về sự tồn tại. Từ nay mình đã thành nhân vật rồi. Cứ nín
nhịn mà chịu đứng tên sau những bài thơ dở, thì rồi cuối cùng cũng vẫn có thể
có một sự nghiệp. Với việc một tập thơ không mấy xuất sắc như Ngôi saođược giải thưởng Hội Văn nghệ Việt
Nam 1954-1955, Xuân Diệu càng có dịp củng cố cái triết lý nhẫn nhịn của mình,
nhẫn nhịn trong sáng tác, ngoài ra, không tự ái, không xấu hổ, cứ nằn nì nài
nẫm một hồi là chính anh em văn nghệ cũng sẽ thương, sẽ dành những phần
thưởng xuất sắc cho mình. Sự nhẫn nhịn trong những trường hợp này gần như
đồng nghĩa với tự đánh mất mình, biến con người vốn có của mình thành một con
người khác.
Trong khi đó có bao nhiêu điều ông vốn dự định từ lâu mà
không tìm ra thời giờ để viết.
Nhà thơ Tế Hanh, khi nghe tôi nói tới sự nhẫn nhịn biết
điều của Xuân Diệu, cũng nhớ lại vài chuyện mà ông còn nhớ, và nếu không phải
Xuân Diệu nói ra, thì tự ông, không dám tin là thật. Chẳng hạn, có lần Tế
Hanh hỏi:
- Diệu ơi! Sao anh làm những Tặng làng
Công, với Bà cụ mù loà, lục cục
thế?
- Tế Hanh phải có lúc nghĩ tới những người trả lương cho
mình nữa chứ!
Câu chuyện trên, có lẽ là xảy ra đã lâu, hồi Tế Hanh mới
từ khu Năm ra, gặp Xuân Diệu từ Việt Bắc trở về Hà Nội, cả hai cùng làm báo Văn nghệ. Từ đó, mấy chục năm cùng sống
trong giới, Tế Hanh càng hay bắt gặp ở tác giả Thơ thơ cái nét nhẫn nhịn nói trên. Đến mức có lần, bấy giờ đang
còn những năm chống Mỹ thấy Tế Hanh có làm bài thơ về Phạm Thái, Xuân Diệu
khen:
- Tế Hanh bạo nhỉ!
Thì ra, vốn cũng rất thích Phạm Thái, nhưng Xuân Diệu sẵn
sàng “để ở bên lòng” không nói gì về tác giả Sơ kính
tân trang, khi trong giới nghiên cứu và sáng tác văn học đương thời
lưu hành một dư luận cho rằng Phạm Thái chống Tây Sơn và thơ thì lãng mạn!
Ở trên chúng
ta đã nhắc chuyện ông có thời gian bỏ giới sáng tác, đi làm nhà đoan.
Về sau, không bao giờ Xuân Diệu làm công việc từ bỏ dứt
khoát như thế nhưng những cuộc từ bỏ nho nhỏ, thì ông làm khá thường xuyên.
Ông phải né tránh, và phải làm cả những việc ông không muốn.
Năm ấy, nhà thơ trẻ C.K. mới xuất hiện, tuy là đang ở tuổi
vị thành niên. Đi đâu cũng có người khen, nhưng lúc đầu, tôi nhớ là Xuân Diệu
không khen. Với cách nói có phần nanh nọc của một người đàn bà nhà quê, ông
bảo khen C.K. thì có khác gì ra đường mà kêu ầm lên rằng “các ông các bà ơi,
con gái tôi mười ba tuổi mà đã có mang!”.
Có thể là Xuân Diệu đã nói đúng, đến nay không ai còn nhắc
đến C.K. nữa. Nhưng vào khoảng thời gian đó, hình như mọi người đang cần
khẳng định một tài năng trẻ, cần chứng tỏ chúng ta đang làm rất tốt việc bồi
dưỡng các thế hệ kế cận. Mà sự khẳng định ấy phải ở miệng Xuân Diệu nói ra
mới quý! Thế là có đơn đặt hàng và khi có người đặt hàng thì Xuân Diệu chấp
nhận. ít lâu sau trên báo Văn nghệ, ngay
trang một, thấy xuất hiện một bài khen thơ C. K. hết lời. Cái tài bình thơ
vốn có tác giả Các nhà
thơ cổ điển Việt Nam được Xuân
Diệu vận dụng triệt để, cốt để mọi người cũng như chính ông tin rằng thơ C.
K. rất hay. Xuân Diệu dám đánh mất mình trong chốc lát, để giữ lấy cái đại
cục.
Cây hoàng lan cô đơn
So với
hoàn cảnh nhà cửa ở Hà Nội, thì căn phòng riêng của Xuân Diệu ở đường Cột Cờ
(nay là Điện Biên Phủ) phải nói là đã khá tươm tất. Căn phòng rộng đâu gần
hai chục mét. Nhà thơ làm việc tại cái bàn kê sát cửa sổ. Gần đấy là bàn tiếp
khách: một ấm pha trà nhỏ, vài cái chén loại cổ. Tôi nhớ mặc dù Xuân Diệu
không hút thuốc, nhưng ông vẫn có một hộp thuốc lá, để thỉnh thoảng mời anh
em hút chơi. Sự tiếp khách của Xuân Diệu chừng mực trân trọng lại luôn luôn
có sự thân tình và câu chuyện không bao giờ rơi vào sáo rỗng. Nhưng được
chiều vậy, mà mấy khi chúng tôi dám ngồi lâu, vì thật ra ngay từ lúc vào,
chúng tôi đã bắt gặp Xuân Diệu đang làm dở việc gì đó, thành thử, sau những
trao đổi cần thiết, khách khứa cũng tìm cách rút lui cho đúng lúc. Chỗ ở của
Xuân Diệu không thể là cái nơi người ta đến lang chạ và dềnh dàng tán chuyện,
như nhà một vài người khác. Nhiều khi, đi ngoài đường nhìn vào, chúng tôi vẫn
bắt gặp Xuân Diệu với cái đầu lắc lắc đang miệt mài làm việc bên bàn. Vũ Quần
Phương bình luận rất hay: Đầu lắc lắc, luôn luôn “đấm nhẹ vào trán kêu đau óc
lắm, nhưng năm nào cũng có sách xuất bản”. Thế thì ai dám ngồi lâu được?
Nhưng nói đến chỗ ở, chỗ tiếp khách của Xuân Diệu tôi
không chỉ nhớ tới căn phòng, mà còn một khung cảnh nữa, khá thú vị. Vào những
ngày hè, đến chơi với nhà thơ, có lần tôi bắt gặp ông mặc quần áo cộc, khênh
cái bàn trúc ra ngồi ngay lối đi. Ngồi đấy, tay phe phẩy cái quạt, mắt lim dim
suy nghĩ, ông làm thơ, dịch thơ. Sự thư nhàn của một người vốn bận bịu, có
cái nét duyên riêng của nó. Vào những ngày chớm thu, trời còn nóng, nhưng cây
hoàng lan xế cổng đã toả bóng mát thật dễ chịu. Thơ Xuân Diệu từng nói tới
cây hoàng lan ấy (bài thơ này tôi ghi theo bản chép tay trong sổ tác giả):
Hương chín hoàng lan thu tới đó
Lơ thơ trong chợ nhãn xong mùa
Năm nay em vắng không ăn nhãn
Không hiểu làm sao, tôi cứ nghĩ vân vi mãi về cây hoàng
lan cổng nhà Xuân Diệu. Quả thật, đó là một giống cây lớn cùng loại với những
xà cừ, bàng, liễu, loại cây lưu niên mà người ta vẫn trồng để lấy bóng mát.
Thân cao, xù xì, lá thưa và mỏng, nhiều khi hoàng lan lại có cái vẻ ngạo nghễ
mà giống cây mọc cô độc thường có. Có điều, đó là thứ cây cho ta loại hoa
mỏng mảnh, cánh tuy to và dày, nhưng bao giờ cũng rủ xuống yếu đuối, và hương
thơm thì hơi hắc hắc. Một thứ hoa dành để cúng lễ, và theo tôi nhớ trước kia
cũng là thứ hoa để những người con gái đang yêu dắt trong áo. Tự nhiên tâm trí
thoáng qua những liên tưởng tới Xuân Diệu. Trong toàn bộ văn học, con người
đang ngồi trước mặt tôi là một thân cây cổ thụ, mà vóc vạc, dáng hình cứ lừng
lững, lừng lững tồn tại. Song trong đời sống hàng ngày nhất là khi nói chuyện
riêng đó lại là con người của sự từ tốn, ý nhị: “Cành biếc run run chân ý
nhi” “Lung linh ánh sáng bỗng rùng mình”. Những thoáng rung động
tinh vi kiểu ấy đã đi vào cả trong cách sống hàng ngày của ông. Cộng với cuộc
sống độc thân, kéo dài “mãn tính”, cuối cùng ở Xuân Diệu hình thành một cốt
cách riêng, kết hợp cả sự chăm chỉ xốc vác, đôi khi như là hùng hục làm, làm
bằng được, làm quần quật suốt ngày này tháng khác, với sự tinh tế, nhỏ nhẹ,
cái sự chiều lòng mọi người! Vâng Xuân Diệu chính là một thứ cây hoàng lan cô
đơn đổ bóng bên nhà ông đó.
Nếu như mọi người đàn ông đã “một nửa là đàn bà” thì cái
phân số đàn bà trong người Xuân Diệu còn cao hơn một bậc nữa. Ai trong đời
từng được tác giả Thơ thơ quý trọng, đều biết nét tâm lý này của Xuân Diệu, những
khi ông đến chơi nhà. Con người kiêu hãnh Xuân Diệu lúc đó, như biến đi đằng
nào. Ông hoàn toàn nhỏ nhẹ, khiêm nhường, rón rén, chỉ sợ làm phiền người
khác, nét mặt cứ ngẩn ra trước những gì khác lạ, và muốn làm mọi cách để vui
lòng người bạn của mình. Mà thường trong những truờng hợp đó là Xuân Diệu
mang cho, chứ đâu phải đến làm phiền! Thuở ông còn sống một số người chỉ biết
Xuân Diệu hay đòi bằng được cái nọ cái kia, đòi đăng thêm một bài thơ, đòi tổ
chức thêm một buổi nói chuyện. Có biết đâu, nhu cầu mang cho ở Xuân Diệu cũng
rất lớn. Một chi tiết nhỏ trong muôn vàn chi tiết liên quan đến những cuộc
nói chuyện thơ của Xuân Diệu: sau những lần phục vụ thơ ở Đội cây xanh thuộc
công ti quản lý công viên Hà Nội, Xuân Diệu được anh chị em công nhân coi như
một thành viên của đội. Cứ đến gần tết, trong đội có một quyền lợi nho nhỏ ấy
là một số cây cỗi, đã đánh về rải rác trong năm, nay mang chia đều mỗi người
một ít, chở về nấu bánh chưng là hợp nhất. Xuân Diệu cũng được một phần củi
như mọi người. Và bao giờ Xuân Diệu cũng đến lấy, buộc bó cẩn thận, đèo sau
xe đạp, mang về... tặng gia đình Hoàng Trung Thông.
Đàn bà trong cách thương mến, chiều chuộng mọi người, và
Xuân Diệu cũng rất đàn bà trong cách cáu giận, bực mình. Ngồi họp với Xuân
Diệu nhiều người chúng tôi thường để ý tới hai giai đoạn: Ban đầu Xuân Diệu
lơ đãng nghe, ngơ ngác cười với một người lâu mới gặp, nhiều khi cúi đầu
xuống như còn mải nghĩ về công việc đang làm dở dang. Nhưng chỉ cần có chuyện
gì chạm đến điều Xuân Diệu tâm đắc, là lập tức ông như chồm dậy nói sa sả,
nói hết gan ruột mình, cả miệng, mắt, đầu tóc, như cùng tham gia vào cuộc
phát biểu. Và trong cái lúc bộc lộ hết mình này, cũng như khi đi nói chuyện,
Xuân Diệu rất hay làm thêm động tác, lấy cái ngoắt tay, cái chẩu mỏ, để diễn
tả ý tứ cần nói. Đôi khi chúng tôi nói vụng sau lưng: “Y như các mẹ nhà quê
xắn váy quai cồng lên mà cãi nhau”. Cái tật nói dài, nói kỹ, nói bằng được,
mà nhiều khi chúng ta bắt gặp trong thơ, và nhất là trong tiểu luận phê bình
của Xuân Diệu, thực ra cũng bắt đầu từ lối nói dứt da dứt thịt, mà chúng ta
thấy trong Xuân Diệu hàng ngày đó.
Ấy cáu giận thế, tham lam thế, nhưng tựu trung lại trong
quan hệ với mọi người Xuân Diệu vẫn là một người khiêm cung, biết người biết
mình và trung hậu thật thà khiến ai cũng quý. Sự biết điều ở ông là trên nét
lớn và có bao hàm những trừ bì. Tham lam mà lại là biết điều. Vì biết mình
chỉ có ít, không chịu phí phạm cái gì! Tự hào đấy, hãnh diện đấy, nhất là
trước đám đông, nhưng trở về với người thân trong không khí của hậu trường,
lại dễ dàng cười xoà. Tôi nhớ một lần, nói chuyện với Xuân Diệu về tình thế
chung của văn học Việt Nam: Chúng ta còn nghèo, ngay trước cách mạng, thực tế
một đất nước thuộc địa không khỏi ảnh hưởng đến sáng tác của cả một lớp nghệ
sĩ rất tài năng. Xuân Diệu thấy cả. Và vừa như biện hộ, vừa như khẳng định
chỗ yếu kém của mình, Xuân Diệu khoát tay, mượn một cách nói hơi có vẻ tục,
để kết luận:
- Thì dân tộc cũng chỉ rặn ra được một lũ chúng mình !
Tính thiết thực là một thói quen thường có ở Xuân Diệu và
cũng là một điều bạn bè đồng nghiệp có dịp đến nhà chơi, tiếp xúc với tác giả Thơ thơ trong cái
không khí hàng ngày, nhớ kỹ hơn cả. Lùi về tận kháng chiến chống Pháp, Thanh
Tịnh nhắc lại chuyện Xuân Diệu lục ba lô lấy cho mấy lạng muối, hoặc trước
lúc chia tay, tặng cái nắp bút Parker nhặt được trên đường. Vũ Quần Phương hay kể chuyện Xuân
Diệu dặn ăn kẹo phải ngậm đừng nhai, nhai là phí. Nguyễn Đăng Mạnh bắt đầu
bài hồi ký bằng câu chuyện Xuân Diệu tặng mình một cuộn giấy báo chưa in, bảo
rọc ra mà làm bản thảo dần. Trần Đăng Khoa kể là một bận Xuân Diệu hẹn đến
chơi, nhưng đến hơi sớm một chút. Thế là Xuân Diệu đưa cho mấy tờ báo bảo
đọc, rồi ông tranh thủ... ngủ. Ngủ đâu mười phút, đúng giờ lại dậy, làm việc,
tiếp khách.
Trong số những ấn tượng về con người Xuân Diệu lúc về già,
tôi nhớ đến cái dáng đẫy đà của ông. Ông béo cái thứ béo riêng của người ít
lao động chân tay. Những túi thịt đầy không căng lên song trông vẫn ngồn
ngộn. Da như trơn láng hơn, và cả người toát ra vẻ nồng nồng mà người ta
thường cảm thấy ở những phụ nữ cả hơi. Ra đường, ông ăn mặc đúng mốt, mùa hè
thì thường áo sơ mi cộc tay bỏ ngoài quần, cả người thơm tho lịch sự. Nhưng
trở về nhà, bên bộ bàn ghế trúc cũ càng, ọp ẹp, là lại đánh bạn với cái quần
đùi cũ lõng thõng dải rút, cái sơ mi hình như đã lấm tấm rách rạn vài chỗ.
Xuân Diệu đã vào với bao nhiêu cảnh giàu sang phú quý, mà ông vẫn giữ nếp
nghèo như xưa. Và ông có ý thức về điều ấy lắm. Khoảng đầu 1980 có lần, tôi
hỏi Xuân Diệu “Sao anh không vào ở Sài Gòn?” thì được đáp lại rất hồn nhiên:
“Ôi, vào đấy sao nổi, chỉ nghe tiếng băm thịt của nhà hàng xóm, mình đã không
sống yên ổn rồi... Nghèo như chúng mình, chớ nên vào”.
Có lẽ bởi luôn luôn nghĩ rằng mình nghèo, nên Xuân Diệu
càng chăm chỉ lam làm và trước tiên, càng tự hạ mình, cho phép mình vơ véo
nhặt nhạnh, nó là đầu mối của cái tính đàn bà nơi ông mà chúng tôi bắt gặp.
Này là những ngọt ngào của Xuân Diệu khi cần lấy lòng ai
đó cái đầu nghiêng nghiêng, con mắt đắm đuối Xuân Diệu tự hạ mình khác chi Người kỹ nữ.
Này là những lúc Xuân Diệu đi nói chuyện, làm đủ mọi thứ
bộ tịch để thiên hạ vui lòng. Một giáo viên dạy văn sau nhiều lần đi nghe
Xuân Diệu đăng đàn diễn thuyết, tâm sự: Mình dạy học có khi còn thay đổi bài
giảng từ lớp nọ sang lớp kia. Cụ ấy thì không, cứ bài nói chuyện ấy, cụ ấy
kéo, đúng đến chỗ ấy thì dừng lại cho người ta vỗ tay. Cứ thế mà làm.
Xuân Diệu đã trở thành một người lao động đơn giản theo
nghĩa đen của từ này. Tô Hoài nhận xét: “Mình đã nghe nói vài lần mình biết.
Chỉ loanh quanh một ít bài bản có sẵn, sau đó là thơ tình Xuân Diệu” (khi tác
giả Thơ thơ mất, Tô
Hoài viết bài kể chung quanh bài thơ Phia Khình Tô Hoài đã được nghe Xuân Diệu nói từ kháng chiến, sau
sang Lào lại được nghe nói đến bài thơ ấy. Trong lời kể, có sự quý trọng, lại
có sự đùa bỡn).
Cùng đi với Xuân Diệu về một nơi nào đó, sau những buổi
nói chuyện, tôi chỉ thấy Xuân Diệu có hai thứ nữa sung sướng là ăn và ngủ. Ô,
không thể tưởng tượng được là con người ấy dễ ngủ lắm! Ngày ba buổi nói
chuyện, với ông không phải là quá. ở những chỗ ông chưa nói chuyện bao giờ, mà
chỉ bố trí ngày có hai lần là ông giận. Và khi không có việc gì làm cho hết
ngày, ông lăn ra ngủ, cái gối kê khá cao, ngủ ngáy đều đều, những lần thoáng
thấy, bao giờ chúng tôi cũng cố tránh cho xa, vừa sợ kinh động đến người, vừa
ngại thấy ông không sinh động, đẹp đẽ, như lúc ông thức. Không ai nói ra
nhưng hầu như tất cả những người đi trong chuyến ấy gặp nhau ở ý nghĩ: tác
giả Thơ thơ già rồi. ở Hà Nội ai có gia đình người ấy ngày tháng trôi
đi đều đều và Xuân Diệu luôn luôn có mặt trên báo chí, cho nên ai cũng cảm
thấy Xuân Diệu còn sung sức lắm. Nhưng cùng đi công tác với nhau, chúng tôi
thấy Xuân Diệu thật già. Và chúng tôi chợt nhận ra một điều: từ lâu, Xuân
Diệu không gây cho ai bất ngờ nữa. Còn Xuân Diệu cũng yên vị với những gì đời
đã cho mình. Xuân Diệu biết là mình không thể khác.
Một trong những nét thấy rõ ở con người trong thơ Xuân
Diệu lúc trẻ là ở cảm giác cô đơn không thể hoà nhập vào cuộc đời. Theo một
thói quen cũ kỹ, lâu nay bao giờ người ta cũng coi đó là một chỗ đáng phê
phán, có biết đâu rằng nhiều khi cảm giác cô đơn chính là mặt trái của nỗi
khao khát sống, là bằng chứng trưởng thành của nhân cách. Xem thơ tình Xuân
Diệu thì biết. Nếu những năm 50, 60 người ta còn bắt gặp những bài hăm hở,
tha thiết đau xót, thèm muốn, bơ vơ (kiểu như Phượng
mười năm, Hỏi), từ đó tạo nên cả một chùm thơ mang vị đắng như chính ông gọi, thì những năm 70, 80, thơ Xuân Diệu chỉ
còn nói đến sự hoà hợp vốn là một cái gì ông không có, hoặc có một chút song
ông đã đánh mất. Xuân Diệu đã nghèo đi, như chúng ta khi về già thường nghèo
đi, song do quen dần nên ta không thấy mà chỉ thích ứng một cách tự nhiên.
Điều này bắt đầu ngay từ cuộc sống hàng ngày. Thật vậy, mặc dù trước sau Xuân
Diệu vẫn sống đơn độc, không có gia đình, nhưng những năm cuối đời, con người
ông như chai đi, ông cảm thấy bằng lòng với hoàn cảnh, ông tạo ra đủ lý lẽ để
bảo vệ cho cách sống ông buộc phải sống. Để chống trả thời gian, vượt lên
thời gian, mà cũng là cách tốt nhất để chống lại băng giá của sự cô đơn Xuân
Diệu đã làm việc quần quật. Đến thăm Xuân Diệu, so sánh cuộc sống của ông với
cuộc sống những người bình thường, nhiều người cảm thấy thương xót vô hạn.
Nhưng hoá ra chúng ta nhầm! Xuân Diệu không cần, không biết đến ai thương
xót, ngược lại, ông cho rằng mình đã chọn được con đường tối ưu để sống và
viết.
Thế có bao giờ Xuân Diệu “hố” không, lộ vở là một người
yếu đuối vụng về không? Có bao giờ sự cô đơn đã giáng cho ông một cú nặng nề,
ngay trước mắt mọi người? Có bao giờ giá tỉnh táo ra, ông phải hối tiếc cho
cái tình thế cô đơn của mình?
Có, cũng có một lần như vậy, và câu chuyện xảy ra một cách
bột phát, tới mức, như một trò chơi của tạo hoá, một số người chúng tôi có
tham gia vào, về sau có hối hận cũng không kịp!
Năm đó, đã là 1985, cái năm về sau sẽ được xem là năm cuối
cùng trong cuộc đời Xuân Diệu, nhưng hình như cả ông, cả chúng tôi, đều không
ai tính tới chuyện đó. Xảy ra việc làm tuyển tập thơ Việt Nam 1945-1985, loại
sách giống như một thứ “chiếu giữa làng” nên đã biến thành chỗ xếp hạng, cũng
là chỗ mặc cả rất quyết liệt: Ai sẽ được
vào,
câu hỏi đó đặt ra với đông đảo mọi người chưa giải quyết xong, thìai sẽ
được lấy sáu bài, ai bốn bài, ai hai bài lại được
đặt ra và câu hỏi này mới thật khó phân xử vì toàn động chạm tới các “đầu
lĩnh” cỡ lớn trong giới! Theo chỗ tôi nhớ, thì mặc dù đã là người chủ trì làm
nhiều tuyển tập văn thơ Việt Nam, từ hồi ở Việt Bắc (Tập văn Cách mạng và kháng chiến) cho tới
sau hoà bình 1956 (Thơ Việt Nam 1945-56) và vinh quang nhất là Tuyển tập thơ Việt Nam 1945-1960, song đến
tập này (1945-85), Xuân Diệu không đứng ra làm nữa, mà người được giao chủ
trì là nhà thơ Tế Hanh. Đứng về mặt số lượng bài đưa vào trong tập thì Xuân
Diệu đã thuộc loại nhất, tức là được chọn sáu bài. Tuy nhiên, lúc xem cả tập
thì Xuân Diệu vẫn không bằng lòng. Câu hỏi của ông nằm ở sự so sánh: tại sao
Xuân Diệu sáu bài, mà loại như người này được những bốn bài, loại người kia
được ba bài?!
Theo Xuân Diệu, hình như những người soạn tuyển tập đã
quên mất rằng: chỉ sau Tố Hữu thôi, chứ ông đứng ở một thế cao vòi vọi, không
một nhà thơ lớp sau nào dám so sánh.
Nói tới người nọ người kia, song lần ấy mũi nhọn công kích
của Xuân Diệu tập trung dồn về Xuân Quỳnh, người phụ nữ được in bốn bài.
Từ hồi bắt đầu chống Mỹ, trong thơ Việt Nam, vấn đề thế hệ
bắt đầu được đặt ra rõ rệt. Có lẽ là do một sự bén nhạy nào đó, nên Chế Lan
Viên rất hiểu chuyện này. Đi đâu ông cũng đặt vấn đề là phải bồi dưỡng cho
lực lượng trẻ, rồi họ sẽ thay thế chúng ta. Ngược lại, Xuân Diệu khá dè dặt.
Mặc dù chính Xuân Diệu đã thanh minh rằng bởi yêu nên mới cho roi cho vọt,
song ai cũng nghĩ ông cố chấp quá.
Thật ra giữa Xuân Diệu và Xuân Quỳnh không có gì xung đột.
Thậm chí, ở một phương diện nào đó mà xét, có thể bảo Xuân
Quỳnh là người tiếp tục giọng thơ Xuân Diệu. Cũng tinh tế như thế, nhất là
cũng ham sống, cũng nồng nhiệt như thế.
Nhưng những người giống nhau lại hay kỵ nhau. Trong nghề
làm thơ, Xuân Quỳnh tìm tòi học nghề ở Chế Lan Viên chứ không ở Xuân Diệu.
Ngược lại, Xuân Diệu thấy loại như Phạm Tiến Duật là lạ, chứ Xuân Quỳnh không
lạ. Sự không bằng lòng nhau ngấm ngầm đã có từ lâu, đến lúc này mới có dịp
bùng nổ.
Cậy tuổi già, Xuân Diệu đi khắp nơi rêu rao, cho là Xuân
Quỳnh không đáng như thế, chẳng qua đây là một nhà thơ phụ nữ xinh đẹp, nên chài được mọi
người (chữ chài là của Xuân Diệu) khiến cho tuyển thơ chẳng còn thể thống
gì nữa.
Xuân Quỳnh cũng chẳng phải người vừa. Thấy Xuân Diệu công
khai nói mình ngay cả trong các buổi họp mà bản thân mình không dự, Xuân
Quỳnh cho là bị xúc phạm, và nghĩ chuyện trả thù bằng cách viết thư thẳng cho
Xuân Diệu.
Lịch sử đã biết tới nhiều ca “điên” của phụ nữ, câu chuyện
tôi kể ở đây, chẳng qua là con sóng vỗ trong cái cốc nhỏ, nhưng nó không phải
là không ghê gớm. Trong thư gửi Xuân Diệu, Xuân Quỳnh dùng tới những lời lẽ
đáo để nhất, cốt có thể làm cho Xuân Diệu đau đến chết điếng đi, mà không sao
cự lại nổi. Xuân Quỳnh nhắc đến quá khứ của Xuân Diệu. Xuân Quỳnh đặt câu hỏi
về những thay đổi trong mấy chục năm cuối đời của Xuân Diệu và tự trả lời:
Chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn xây dựng uy tín riêng cho mình. Chứ thực ra Xuân
Diệu không tài cán gì, thơ Xuân Diệu đã hỏng hẳn rồi, mất hết sự sinh động và
tự nhiên rồi.
Đi đến cùng trên con đường triệt hạ nhà thơ lớp trước đã
nói xấu mình, chê bai làm nhục mình, Xuân Quỳnh nói tới tình trạng đơn độc
của Xuân Diệu và cho rằng chỉ những người thất đức mới bị trời đày như vậy.
Bức thư như một mũi tên tẩm thuốc độc, chắc chắn làm cho
Xuân Diệu giãy giụa trong đau đớn. Nhưng còn một việc nữa làm cho Xuân Diệu
chết đi sống lại - tôi đoán thế - do một ác ý, mà nhiều bạn bè của Xuân
Quỳnh, trong đó có người viết bài này, xúi bẩy Xuân Quỳnh làm: Đó là không
chỉ gửi riêng lá thư cho Xuân Diệu, vì làm thế, có thể tạo cơ hội cho Xuân
Diệu tránh đòn tức là giấu biệt thư đi không cho ai biết. Mà, muốn để Xuân
Diệu thảm bại, Xuân Diệu gục ngã ngay trước mặt mọi người, Xuân Quỳnh sao lá
thư này làm vài ba bản, gửi đi vài ba nơi cần thiết.
Không cần phải nói, cũng có thể đoán Xuân Diệu đã đau đớn
như thế nào!
Câu chuyện xảy ra hè 1985, thì đến cuối năm đó, Xuân Diệu
qua đời. Trong khi mọi người cuống quýt lo lắng cho đám tang, thì Xuân Quỳnh
cảm thấy như mình có lỗi, và không biết làm gì để cứu chuộc. Khi có ai hỏi,
Xuân Quỳnh chỉ phân bua là mình cũng rất biết ơn Xuân Diệu, mình không có ý
hại ông. Mấy kẻ xúc xiểm chúng tôi, lúc này cũng cảm thấy hối hận vì vừa tham
gia vào một trò chơi độc ác. Tuy nhiên những khi thật tỉnh táo nhìn lại câu
chuyện Xuân Quỳnh - Xuân Diệu nói trên, chúng tôi hiểu ra một điều: nhà thơ
của chúng tôi có lỗi trước tiên, mà cái lỗi đó, một phần bắt nguồn không phải
ở tuổi già, mà là sự đơn độc của ông. Chúng tôi hàng ngày dù đôi khi cũng
không giấu được sự tham lam và phải nhận là nhiều khi tham lam một cách vô
lý, ngớ ngẩn, song cuộc sống gia đình luôn giúp cho chúng tôi tỉnh táo trở
lại, nó mách bảo chúng tôi về một cuộc sống như nó vốn thế, vậy phải biết
nhìn ra chung quanh, biết dừng lại đúng lúc cũng tức là biết rằng sống phải
thông cảm, phải cận nhân tình, đừng có bao giờ quá đáng.
Đời riêng Xuân Diệu buồn hơn nhiều. Xuân Diệu không có
được một gia đình bình thường. Cho nên trong quan hệ với mọi người Xuân Diệu
đã phạm những sai lầm không thể tha thứ được, kể cả sai lầm với phụ nữ là
những người mà trong thâm tâm ông yêu quý.
Trước sau, đó vẫn là cây hoàng lan cô đơn đang đổ bóng.
Đối diện với vĩnh cửu
Những năm
cuối đời Xuân Diệu rất nổi tiếng với việc phê bình giới thiệu thơ, nhất là
giới thiệu các tác giả cổ điển. Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến và
Tú Xương, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và á Nam Trần Tuấn Khải... hầu như với bất
cứ nhà thơ liệt hạng nào, ông cũng đều yêu mến và tìm được cách tiếp cận.
Không một ai đối với ông là bí hiểm, là khó giải thích, hoặc hơn nữa, là
không thể giải thích nổi. Trong những bài phê bình và tiểu luận mà cách viết
đôi khi rơi vào dông dài và thông tục, nhất là trong những buổi nói chuyện
lặp đi lặp lại - ở cái nghề mà có người đã gọi đùa là nghề thầy cúng ấy, thì
tránh sao cho khỏi lặp lại ? - ông làm được một việc lớn lao là phổ cập hoá
thơ, làm cho thơ trở nên dễ hiểu và các nhà thơ lớn trở nên như là của mọi nhà.
Tuy nhiên, cũng chính trong những lúc ấy, Xuân Diệu phô ra những nhược điểm
lớn của mình - sự nói lấy được, làm cho cái gì cũng trở nên dễ hiểu, do đó
đánh mất một chút thiêng liêng của văn học. Do đi với ai, làm cầu nối cho bất
cứ ai cũng được, nên Xuân Diệu không thuộc hẳn về ai, không phát hiện được ai
đến cùng. Trong khi rất kỹ lưỡng, rất thành thục với những điều ai cũng có
thể nhận ra một cách mơ hồ, thì ở Xuân Diệu hơi ít những chỗ mà người thường
không thấy và chỉ ông mới thấy. Những phát hiện của ông không mấy khi đạt đến
mức bất ngờ và làm người đọc bàng hoàng ngơ ngẩn. Như người ta vẫn thường
nói, đọc người khác là đọc chính mình. Hiểu biết tức là sánh ngang. Những tư
tưởng sâu sắc chỉ được phát hiện khi người đọc chúng cũng hoàn toàn có điều kiện
để nghĩ ra chúng. ở chỗ này, sự dừng lại của Xuân Diệu kể cũng là điều dễ
hiểu. Với những thiên tài độc đáo của dân tộc, như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,
dù Xuân Diệu đã nói rất nhiều, song muốn lý giải được cái thần của các vị ấy,
ông còn cần được nhiều người tiếp tục.
Không phải là Xuân Diệu không biết vị trí của mình ở đâu.
Đọc những bài ông giảng giải về các bậc thầy nghề nghiệp mà Xuân Diệu đã
viết, người ta luôn luôn bắt gặp một ngụ ý:
- Tôi không sao nói hết được cái vi diệu mà cũng là cái
cao cả của nghệ thuật! Các vị ấy là những tay thợ bậc 7, bậc 8 kia đấy! Vâng,
đó là những người ở vào tột bậc nghề nghiệp, trong khi một người như tôi, chỉ
thuộc loại bậc 4, bậc 5. Vậy thì các anh hãy nghe tôi nói đây, hỡi những tài
năng lẫm chẫm bậc 1, bậc 2!
Dẫu sao, so với các nhà văn nhà thơ đương thời Xuân Diệu
là người đã đến với các tác giả cổ điển thành tâm nhất, nhiệt tình nhất.
Mà đây là một việc làm hoàn toàn có ý thức.
Rất hiểu tài năng phê bình ở mình - tài năng đồng cảm phân
tích đánh giá cái hay cái đẹp - ông hướng nó vào một chỗ có thể tồn tại lâu
bền:
- Có che tàn, tôi cũng che tàn cho mấy ông to, chứ không
làm dáng cho mấy anh trẻ ti toe.
Đối tượng so sánh của Xuân Diệu trong trường hợp này là
Chế Lan Viên.
Trên cương vị trưởng Tiểu ban thơ, tác giả Điêu tàn những năm
ấy thường vẫn phải đứng ra giới thiệu anh em trẻ. Và có làm là có lầm lỡ. Một
đôi khi Chế Lan Viên đã đứng ra phân tích sáng tác của một hai cây bút mà chỉ
một hai năm sau đã không ai nhớ! Xuân Diệu không làm thế.
Dù mang tiếng là cay nghiệt với lớp trẻ, ông cũng thây kệ. Cái đích mà ông khao khát chiếm lĩnh là những giá trị còn mãi trong đời. Việc tìm hiểu giới thiệu các tác giả cổ điển, với tất cả sự khó khăn có thể có của nó, chừng nào đó, vẫn bảo đảm cho Xuân Diệu có điều kiện đến với cái đích đã đề ra. Việc ông sốt sắng lao vào nó hết mình là kết quả của cả tình yêu lẫn một sự tính toán khá chính xác.
Đến đây, chúng ta lại có dịp đối diện với một khao khát
thường trực mà cũng là một động cơ chi phối toàn bộ con người Xuân Diệu, nó
như nhiên liệu, tạo nên năng lượng cho mọi hoạt động của cái cỗ máy tinh vi
trong con người tác giả Thơ thơ, đó là
khao khát vượt lên trên thời gian, trở thành vĩnh cửu.
Là con người thiết tha với sự sống, chỉ sợ bữa tiệc đời
vui vẻ kia mình không có mặt, Xuân Diệu có thích sống mãi trong đời, cũng là
chuyện bình thường.
Huống chi, gần như suốt cuộc đời đơn độc, ở ông vắng thiếu
hẳn một ít niềm vui trần thế như trò chuyện với vợ, chơi nghịch với con. Sự
hướng về cái vĩnh cửu quả thật là cái phao lớn có thể mang lại lẽ sống cho
Xuân Diệu, và chắc chắn ông đã tìm thấy ở đó một nguồn nghị lực to lớn.
Tuy nhiên, vấn đề sống chết là cả một câu chuyện lớn và
trong cái ham muốn phổ biến là trở thành bất tử, con người ta cũng tự chứng
tỏ nhân cách của mình, trình độ hiểu cuộc sống của mình. Nếu như đã không
biết sống cái ngày hôm nay, thì làm sao người ta có thể biết sống trong vĩnh
viễn?!
ở trên, chúng ta nói, do ham sống Xuân Diệu rất sợ chết và
nỗi sợ ấy của Xuân Diệu đôi khi bị đẩy đi quá đà, đến chỗ quá quắt. Nên mỗi
lần nghe Xuân Diệu lắc đầu le lưỡi, nghĩ đến cái chết, học theo Trần Thanh
Mại, tôi lại không khỏi nhớ tới những bà già nhà quê, lúc chớm già họ cũng bo
bo bỏm bỏm, tưởng như mình chết nay chết mai đến nơi rồi và luôn chân luôn
tay làm thêm, để dành dụm thêm mấy đồng, nhỡ lúc chết cần tới. Rồi tôi lại
nhớ đến sự bình tĩnh đối diện cái chết của mấy thi hào những người cùng quê
hương Hà Tĩnh với Xuân Diệu. Nguyễn Du khi ốm đau, không chịu uống thuốc, chờ
người nhà đến bảo thấy lạnh chưa, lạnh rồi hả, thế là nhắm mắt và không dặn
gì thêm. Hoặc như Nguyễn Công Trứ, lúc biết mình chết bảo người thân đốt luôn
cái nhà mình đang ở rồi chôn mình dưới đống tro.
Những mẩu chuyện như thế, hẳn là Xuân Diệu biết hết song
vẫn cứ cái cách riêng của mình mà nghĩ, cách riêng của mình mà làm. Thật đúng
như ai đó đã nói: “Cuộc lựa chọn của mỗi người với chính mình cho chính mình,
tạo nên một cái người ta gọi là số phận”.
Đầu năm 1984, Tuyển tập
Xuân Diệu, tập I (thơ) ra đời trong sự chờ đợi. Ai cũng mong tác
giả sẽ gạn đục khơi trong tạo ra cho mình một khuôn mặt khả ái. Nhưng không!
Người tuyển quá tham, lấy vào tuyển quá nhiều bài thơ dở. Khi tôi hỏi Vũ Quần
Phương, tại sao lại thế, thì được Vũ Quần Phương cho biết cố nhiên là Xuân
Diệu có tham gia vào công việc. Và khi có người bàn rằng nên làm cho tinh,
thì Xuân Diệu bác đi: “Các cậu buồn cười thật. Chưa phải lúc làm tuyển làm
tiếc gì cả. Giống như khi cháy nhà lúc này làm sao biết được cái gì hay với
cái dở. Thấy bài nào bạn đọc chưa biết hãy nhặt vào đấy, sau này lịch sử định
liệu”.
Ở đây, có cả
sự biết điều chân thành lẫn sự khôn ngoan hám lợi thô thiển.
Để công chăm lo dựng tạo hình ảnh của mình với hậu thế là
một việc mà không ít nhà thơ nhà văn lớn nghĩ tới, song cái cách làm của Xuân
Diệu trong nhiều trường hợp thật đã là “làm lấy được”.
Vào những năm ấy, nhà phê bình P. còn đang thao túng đời
sống văn học. Ông sớm bắt tay làm những cuốn sách mang tính chất tổng kết,
giống như một thứ đúc bia tạc tượng các nhà văn lớn đương thời. P. bảo với
Xuân Diệu:
- Anh tặng sách tôi như mang tiền gửi nhà băng, không có
đi đâu mà thiệt.
Câu nói quả đã đánh trúng tim đen Xuân Diệu. Bởi vậy mặc
dầu trong thâm tâm không thích gì P., ông vẫn biếu sách và ông giải thích
phải qua P. để đến với các sinh viên đại học.
Thậm chí đây đó còn có thể nói trong việc tìm cách đưa
mình vào vĩnh cửu Xuân Diệu có lúc đã đi sát tới cái chỗ như là... đẽo gọt
đời mình cho vừa với lịch sử nữa. Ông sẵn sàng giấu diếm một đôi điều, nếu
điều ấy không có lợi cho tên tuổi ông, uy tín ông trong tương lai.
Sự thực dụng của Xuân Diệu trong việc này vốn có từ trước
Cách mạng. Chúng ta đã biết hồi mới ra Hà Nội, ông đã vô cùng tha thiết với
việc tham gia vào nhóm Tự Lực. Thế
nhưng, khi nhóm này tan, thì tình nghĩa của ông với các bạn cũ cũng cạn luôn,
ít ra là ở bề ngoài ông làm cho người ta hiểu như vậy. Trong khi một người
như Tú Mỡ nhiều năm sau còn nhắc đến những kỷ niệm về Nhất Linh, Khái Hưng
thì Xuân Diệu không bao giờ đả động đến những ngày làm việc ở Phong hoá, Ngày
nay.
Thơ thơ in ra lần
đầu (1938), bên cạnh hai chữ Xuân Diệu, còn chua rõ trong Tự Lực văn đoàn. Đến khi in ra lần thứ
hai, mấy chữ trong Tự
Lực văn đoàn đã bị cạo
hẳn.
Nhật ký kháng chiến của Bùi
Hiển (1946-47) còn ghi rõ vào những năm ấy, ở thành Vinh, Bùi Hiển có dịp gặp
gỡ đủ mặt văn nghệ sĩ từ Nguyễn Tuân đến Hồ Dzếnh. Lạ một điều, là vừa gặp,
Bùi Hiển đã được nghe Xuân Diệu phân bua: từ 1940 về trước, khi mới đến với
văn đàn, Xuân Diệu còn phải nương tựa vào đám Tự Lực để lấy tiếng. Chứ thực ra có tình nghĩa gì đâu(**).
Chúng ta đều biết, so với Hoài Thanh, Chế Lan Viên, là
những người có lúc triệt để phủ nhận Thơ mới, thì Xuân
Diệu có phần phải chăng hơn. Với những đứa con tinh thần đã dứt ruột đẻ ra,
ông kiên trì bảo vệ đến cùng. Khi làm Tuyển tập của mình, ông đã lấy lại gần
hết cả Thơ thơ lẫn Gửi hương
cho gió.
Kể ra, lúc đó phải coi là một hành động dũng cảm. Nhưng đây là một vài biểu
hiện của thái độ phi lịch sử khá khéo léo ở Xuân Diệu: Nếu khi khai sinh,
nhiều bài thơ của ông có lời đề tặng ở bên cạnh như Đi thuyền tặng Khái
Hưng, Đây mùa
thu tới tặng Nhất
Linh, Vô biên tặng Hoàng Đạo thì trong công trình mà ông đích thân tham
gia chuẩn bị là Tuyển tập
Xuân Diệu ở trên vừa
nói, những dây mơ rễ má đó, được ông xoá sạch.
Sợ liên luỵ vì những người bạn cũ,
trong các tài liệu chính thức, chẳng hạn, tiểu sử bản thân, đề ở đầuTuyển
tập Xuân Diệu (mà đọc kỹ thấy đúng giọng ông, tức do ông tự tay viết ra), nhà thơ
giấu biệt chuyện mình từng là một thành viên của Tự Lực.
Và có lẽ chịu sự chi phối của ông - những lời năn nỉ thiết
tha - nên các tài liệu nghiên cứu về ông, các giáo trình đại học viết về văn
học trước 1945, hoặc trong Từ điển
văn học in ra
1984, chuyện này cũng được lờ đi hoàn toàn.
Đúng là Xuân Diệu chưa kịp viết hồi ký. Nhưng giá có viết
nữa, thì chắc ông không định viết tiểu sử như ông có thực, mà sẽ chỉ viết
tiểu sử của ông như nó nên có, như ông muốn bạn đọc biết.
Có cảm tưởng rằng, từ lúc phát hiện ra cái công việc cuối
cùng của mình trong đời, là tạc lại hình ảnh mình trong tương lai, Xuân Diệu
như có một cái đích. Ông băm bổ lao tới, và thấy rằng làm bao nhiêu cũng là
không đủ.
Nhưng không phải không còn những con người khác trong Xuân
Diệu.
Trong số những kỷ niệm trò chuyện với Xuân Diệu, tôi nhớ
một lần đứng với ông mấy phút trước cửa Hội Nhà văn, cuối năm 1984. Theo chủ
trương của nhà xuất bản Tác phẩm
mới (nơi tôi
làm việc), tôi gợi ý để Xuân Diệu viết hồi ký về cuộc đời mình. Nhưng ông từ
chối. Ông cho rằng còn lâu mới đến lúc ấy, trước mắt ông còn nhiều việc phải
làm và cần làm ngay. Chúng tôi nói lan man sang một ít chuyện khác, và có
lúc, tự nhiên trở lại với đề nghị viết hồi ký của mình, tôi buột miệng:
- Tưởng như Xuân Diệu đã viết rất nhiều nhưng còn bao
nhiêu chỗ, chính Xuân Diệu chưa khai thác mình!
Lần đầu tiên, tôi thấy ở Xuân Diệu có một thoáng buồn, một
chút gì như là chạnh lòng. Chẳng lẽ là như thế chăng, một người đã chịu viết
như ông, lại còn nhiều mảng trắng, nhiều chỗ chưa viết? Như thế chẳng là buồn
lắm sao?
Nhưng tôi đoán rằng với Xuân Diệu phút chạnh lòng ấy lại
nhanh chóng quên đi, và ông lại hồn nhiên trở về với cái phương hướng lâu nay
ông đã theo đuổi.
Khi Xuân Diệu còn sống, tôi biết rằng giữa ông với Nguyễn
Tuân có nhiều sự khác biệt, nên hai “cụ” không ưa nhau. Nhưng muốn hay không
muốn, đấy vẫn là hai đỉnh cao trong văn học. Từ thuở chưa về công tác ở Hội
Nhà văn, qua báo chí, tôi đã thấy nhiều chuyến đi do Hội tổ chức, có cả
Nguyễn Tuân lẫn Xuân Diệu trong một đoàn. Cả lần đi tuyến lửa Quảng Bình
1965, lẫn lần đi thăm Liên Xô, cũng khoảng cuối năm đó. Có dịp, tôi buột
miệng hỏi Nguyễn Tuân, và được cụ Nguyễn trả lời:
-
Thì ghét của nào
trời trao của ấy.
Khoảng năm 1982, Xuân Diệu vừa đi Pháp về, đang nói chuyện
trên phòng họp, thì ở nhà ngang, Nguyễn Tuân rỉ tai tôi :
- Đang nói rằng chuyến đi thành công lắm, có nói thế bận
sau người ta mới cho đi nữa!
ấy vậy mà, khi Xuân Diệu mất, tôi nhớ Nguyễn Tuân đã thốt
lên một câu từ tận đáy lòng:
Quãng đời mà Nguyễn Tuân nói ở đây, cũng là một chặng
đường văn nghệ Việt Nam.
|
Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014
Bài bình thơ Xuận Diệu, sống để mài sắt nêm kim của Vương Trí Nhàn
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Miền cổ tích hoang hư 2
Miền cổ tích hoang hư 2 7 - Ngọ... Chiếc tàu thu mua hải sản ném Phương lên bờ tại cảng cá tanh hôi và ồn ào của Hải Phòng. Lôi thôi lếch ...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Trả lờiXóahãng hàng không eva air
vé máy bay 2 chiều đi mỹ
korean airlines vietnam
vé máy bay giá rẻ đi mỹ khuyến mãi
giá vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch