- Ai có thể im lặng được sự im lặng, một cách giản
đơn bình dị?
- Điều đó hẳn sẽ là điệu nói chân chính…
- Và là khúc khai tấu hằng cửu cho cuộc song thoại
chân chính về ngôn ngữ. Martin Heidegger [1]
Trong lịch sử tư tưởng và tôn giáo của nhân loại, đức Phật là
một trong những đấng đạo sư có sự nghiệp hoằng pháp khó có ai bì kịp. Từ khi
nhìn ánh Sao Mai mà giác ngộ dưới gốc Bồ đề ở tuổi 30, cho đến khi nhập diệt ở
tuổi 80, trong suốt hơn 49 năm, Ngài không ngừng vân du khắp mọi nơi để tùy cơ
thuyết pháp mà hóa độ chúng sinh. Những bài thuyết pháp của đức Phật trong vô số
pháp hội đã được kết tập thành một kho tàng kinh điển đồ sộ. Hơn hai ngàn năm
qua, cây Bồ đề đã phát triển thành một cây đại thụ khổng lồ, phủ bóng che rợp
những chân trời tư tưởng nhân loại, đến nỗi tuệ nhãn của các bậc Bồ tát thượng
trí đời sau cũng chỉ có thể nhìn thấy được từng nhánh cây, thậm chí từng chiếc
lá của cây Phật pháp kia. Đó là nguyên nhân của sự ra đời của các tông phái. Vậy
mà bậc đạo sư suốt đời vân du thuyết pháp đó, đến phút cuối cùng, lại tuyên bố
là mình chưa từng nói một chữ nào!
Theo Chỉ nguyệt lục, khi đức Phật sắp nhập Niết bàn, đại
sĩ Văn Thù bèn thỉnh đức Phật chuyển pháp luân, Ngài bèn quở: “Này Văn Thù, suốt
bốn mươi chín năm trụ thế ta chưa từng nói một chữ nào, ngươi thỉnh ta chuyển
pháp luân lần nữa, vậy là ta đã từng chuyển pháp luân rồi ư?” (Văn Thù, ngô tứ
thập cửu niên trụ thế, vị tằng thuyết nhất tự, nhữ thỉnh ngô tái chuyển pháp
luân, thị ngô tằng chuyển pháp luân da?). Thiền sư Vân Phong còn nêu thêm một
câu hỏi: “Nói thử xem, Thế Tôn nghe theo lời thỉnh cầu của Văn Thù hay không
nghe theo lời thỉnh cầu của Văn Thù?” (Thả đạo, Thế Tôn tòng Văn Thù thỉnh, bất
tòng Văn Thù thỉnh?). Bánh xe pháp đã chuyển động suốt 49 năm ròng, vậy mà khi
nhìn lại, nó như vẫn chưa có một vòng quay!
Không biết cuộc vấn đáp trên có xuất xứ từ kinh điển Đại thừa
nào, chỉ thấy trong kinh Lăng già (bản dịch của Cầu-na-bạt-đà-la) ghi lại
cuộc vấn đáp giữa đức Phật với Bồ tát Đại Huệ có nội dung tương tự, trong đó đức
Phật nói:
“Ta từ đêm được chánh giác tối thượng cho đến đêm nhập Niết
Bàn, trong khoảng thời gian ấy, chưa hề thuyết một chữ nào, cũng chưa đã thuyết
hay sẽ thuyết. Không thuyết mới là Phật thuyết.”[2]
Tư tưởng trên đây chắc hẳn quá quen thuộc với những ai từng đọc
cổ lục đông phương theo tinh thần phá chấp của kinh Phật, hoặc “đắc ngư vong
thuyên” của Trang Tử. Dùng biện tài vô ngại để thuyết pháp như hải triều
âm như đức Phật, nhiếp dẫn thính chúng đi vào những chân trời tư tưởng lồng lộng,
khai mở những quốc độ kỳ diệu bất khả tư nghì, thế rồi cuối cùng lại ân cần dặn
dò: “Nhược nhân ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp tức vi báng Phật!” (Nếu có người
bảo rằng Như Lai đã thuyết pháp tức là phỉ báng Phật”). Hoặc viết Nam hoa
kinh làm kinh động thiên hạ như Trang Tử, để rồi thong dong ngồi câu cá,
buông một câu lơ lửng mà rằng: “Chung thân ngôn, vị thường ngôn. Chung thân bất
ngôn, vị thường bất ngôn” (Suốt đời nói mà có hề nói chi đâu? Suốt đời
không nói mà chưa hề không nói). Hoặc như đức Khổng Tử lận lận chu du khắp nơi
để hành đạo, khổ công giáo hóa vô số đệ tử, miệt mài san định kinh điển làm
khuôn khổ cho ngàn đời, để rồi lại ỡm ờ: “Dư dục vô ngôn. Thiên hà ngôn tai?”
(Ta không muốn nói gì cả. Trời có nói chi đâu?)
Qua phong cách đối thoại trong Chỉ nguyệt lục, ta thấy
cuộc vấn đáp giữa đức Phật và đại sĩ Văn Thù có thể do các thiền sư ngẫu tác
như một công án Thiền để tùy duyên hóa độ theo tinh thần “giáo ngoại biệt truyền, bất
lập văn tự” của Thiền tông, đúng với hai chữ “chỉ nguyệt” (ngón tay chỉ mặt
trăng). Im lặng trước các câu hỏi về Thực Tại Tối Hậu hay Chân Lý là cách trả lời
thường được đức Phật và các thiền sư Trung Hoa sử dụng. Trong kinh Duy Ma Cật,
cư sĩ Duy Ma Cật đã im lặng trước câu hỏi của Văn Thù Bồ tát hỏi về bất nhị
pháp môn, và được vị Bồ tát này hết lời ca ngợi. Sự im lặng này được kinh điển
gọi là “mặc như lôi”, nghĩa là Im Lặng như Sấm Sét. Sự Im Lặng như Sấm
Sét này còn gây nên chấn động cho tâm thức còn hơn cả tiếng Sấm Sét
trong cõi Im Lặng!
Kinh điển chép rằng sau khi giác ngộ, đức Phật nhận thấy cảnh
giới thánh trí tự chứng của Như Lai quá đỗi thâm huyền vi diệu, siêu quá lý luận
ngữ ngôn, trong khi chúng sanh còn đắm chìm trong tham dục và vô minh luyến ái
nên không có cách nào lãnh hội được; bởi vậy Ngài định im lặng nhập Niết bàn.
Phạm thiên Sahampati bèn đến thỉnh cầu đức Phật chuyển pháp luân. Sau vài lần
lưỡng lự, đức Phật vì lợi ích của chư thiên và nhân loại, đã nhận lời cầu thỉnh
để rời cội Bồ đề, lên đường hóa độ.
“Muốn im lặng để nhập Niết bàn sau khi chứng ngộ”, chi tiết
tưởng chừng như rất nhỏ đó đã quyết định toàn bộ nội dung của kinh điển Phật
giáo cùng thể cách lập ngôn để nhiếp dẫn thính chúng đi vào cảnh giới thánh trí
tự chứng về sau. Trong pháp hội Linh Sơn, một cành hoa đưa lên và thông điệp
giác ngộ được đón nhận bằng nụ cười. Niêm hoa vi tiếu! Khi đọc nội điển, nếu
chỉ chấp vào ngôn ngữ thì chúng ta khó lòng lắng nghe được sự Im Lặng của đức
Phật, là cái hàm dưỡng toàn bộ nội dung kinh điển. Dù đức Phật có là bậc biện
tài vô ngại với trí tuệ siêu việt thế gian thì cũng không thể nào diễn đạt trọn
vẹn cảnh giới thánh trí tự chứng, do những yếu tố bất toàn trong ngôn ngữ. Kinh
Lăng già luôn nhắc nhở ngôn ngữ chỉ là sự hòa hợp của nhân duyên nên không thể
nào diễn tả được đệ nhất nghĩa đế. Các cuốn kháng thư Đại thừa thâm áo thường
nhấn mạnh rằng không thiết yếu phải sử dụng ngôn ngữ mới truyền đạt được tư tưởng
và cảm xúc; bởi vì ở một vài cõi Phật, đức Phật chỉ cần giáo hóa bằng nhiều
cách như nhìn, nhướng mày, hoặc mỉm cười. Chẳng hạn trong non nước của Phổ Hiền
Bồ tát chỉ cần nhìn suông là đủ để chứng được Vô sanh pháp nhẫn, hoặc các
Bồ tát trong cõi non nước Chúng Hương chỉ cần nghe được mùi hương
cũng đắc nhập luật hạnh; hoặc tại Quang âm cung hay Cực quang tịnh thiên - là
cõi trời thuộc vô sắc giới - nơi đó không có âm thanh, khi những cư dân nơi cõi
trời đó muốn nói với nhau thì có ánh sáng phát ra miệng thay cho ngôn ngữ. Như
vậy khi đọc các pho ngữ lục Thiền tông, chúng ta cũng không nên lấy làm lạ khi
các thiền sư chỉ cần đưa một ngón tay lên, hoặc nói một câu vu vơ vô nghĩa để
minh chứng cho cảnh giới thâm huyền nhất mà ý thức con người có thể đạt đến, hoặc
các ngài có thể hét một tiếng làm chấn động tâm thức để chúng ta bừng tỉnh,
thoát khỏi mạng lưới ngôn ngữ lý luận phù phiếm mà nghe ra sự Im Lặng của đức
Phật!
Nếu toàn bộ tòa lâu đài khổng lồ Phật pháp được xây dựng trên
hai cây đại thụ Trí và Bi, thì sự Im Lặng của đức Phật chính là nền đất để hai
cây đại thụ kia bám chặt vào. Hai cây đại thụ Trí và Bi sở dĩ làm được vai trò
trụ cột vững chắc để nâng đỡ toàn bộ tòa lâu đài Phật pháp là nhờ hút dưỡng chất
từ lòng đất đó. Sự Im Lặng của đức Phật là dòng ẩn lưu chảy ngầm bên dưới để
nuôi dưỡng toàn thể khu rừng tư tưởng Phật giáo.
Trong sát na chứng ngộ, cái gì đã đến với đức Phật để biến
Ngài từ một nhà tu khổ hạnh trở thành một bậc Toàn giác? Vì sao đức Phật muốn
im lặng để nhập Niết bàn sau khi chứng ngộ? Đây là một ẩn ngữ bất khả tư nghì,
siêu quá tri kiến phàm phu của chúng ta. Vì ẩn ngữ này mà Tổ Đạt Ma phải thả một
bè lau qua Trung thổ, chín năm trầm hùng ngồi nhìn vách đá trên ngọn Thiếu Thất
cô liêu, để rồi suốt hơn ngàn năm sau, câu hỏi “Như hà thị Tổ tây lai ý?” còn đồng
vọng mãi khắp chốn tùng lâm. Vì ẩn ngữ này mà nhân vật Siddhartha, trong tiểu
thuyết cùng tên của văn hào Hermann Hesse, sau khi hội kiến đức Phật lại tiếp tục
cuộc hành trình cô độc trên con đường đi tìm chân lý. Cũng chính vì ẩn ngữ này
mà Krishnamurti phải giải tán hội Ngôi saovà khước từ ngôi vị giáo chủ, trọn
đời đi theo con đường tư tưởng riêng biệt để thuyết giảng “chân lý là vùng đất
không có đường vào” (Truth is a pathless land). Thiền sư Huệ Khai chỉ cho
chúng ta một con đường vào bằng phương tiện công án, nhưng con đường dẫn vào
vùng đất chân lý đó phải qua một quan ải không có cửa. Vô môn quan! Cũng
như để hiểu được chân ý của Phật pháp, chúng ta phải - như thi hào Nguyễn Du - đọc cuốn kinh không chữ. Vô tự chân kinh!
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ
Tài tri vô tự thị chân kinh.
(Kim Cương ta đọc ngàn lần
Ý kinh uyên áo vạn phần cao xa
Đến Thạch đài, bỗng ngộ ra
Kinh không chữ mới thật là chân kinh)
Đọc kinh hơn một ngàn lần, bỗng đến một ngày giở trang kinh
ra, thấy kinh không còn một chữ. Vô tự thị chân kinh! Thuyết pháp độ
sinh suốt 49 năm, bỗng một ngày nhìn lại, thấy mình chưa nói một lời. Bất
thuyết thị Phật thuyết! Chung thân ngôn, vị thường ngôn!
Quan ải thì không cửa. Chân kinh thì không chữ. Cảnh giới
Thánh trí tự chứng chỉ được biểu hiện bằng sự Im lặng Mênh Mông. Vậy thì nương
vào đâu để chúng ta có thể lắng nghe ra kinh điển? Một học giả đến hỏi một vị
thiền sư đường vào cõi đạo. Vị thiền sư bèn dẫn ông này đi dạo bên bờ suối, và
hỏi: “Ngài có nghe tiếng suối róc rách chăng?”. Ông này đáp “Có!”. Vị thiền sư
mĩm cười: “Đó là đường vào cõi Đạo”.
Con đường nằm ở đấy, nhưng đâu là cặp mắt để nhìn? Tiếng suối
luôn róc rách đấy, nhưng đâu là đôi tai để nghe? Nếu cứ đắm chìm mãi trong thế
giới kinh điển cùng những pho sách luận giải đầy ắp những kiến thức hàn lâm về
Phật pháp, liệu có thật là chúng ta sẽ tìm ra được cái gì đó từ lời đức Phật
nói? Thi Phật Vương Duy gảy đàn cầm giữa rừng thông dưới bóng trăng ngàn, lắng
nghe tiếng ngư phủ hát mà thấu đạt lẽ cùng thông của trời đất.
Tùng phong xuy giải đái,
Sơn nguyệt chiếu đàn cầm.
Quân vấn cùng thông lý,
Ngư ca nhập phố thâm.
(Gió thông thổi áo phất phơ
Đàn cầm gãy dưới trăng mờ đầu non
Ngài hỏi về lẽ cùng thông?
Tiếng ca ngư phủ mênh mông xóm chài)
Trong một tiếng đàn cầm dưới ánh trăng lơ lửng đầu non, trong
tiếng ca ngư phủ đồng vọng ở một bến chài xa, phải chăng chúng ta lại nghe ra
được một cái gì đó bàng bạc trong kinh điển? Phải chăng từ cảnh giới đó, chúng ta
dễ nhận ra diệu ý “Thế gian hằng như mộng” hay “Nhất thiếp pháp như huyễn” của
kinh điển Đại thừa, mà các cuốn sách luận giải uyên bác không giúp ta nhìn thấy
được? Phải chăng cái man mác bao la trong đêm trăng tĩnh lặng kia là con đường
dẫn vào cõi Đạo, để ta cảm nhận được nụ cười vi tiếu của Ca Diếp trong pháp hội
trước cành hoa của Như Lai? Hoặc lắng nghe ra sự Im Lặng của đức Phật dưới gốc
Bồ đề? “Sơn nguyệt chiếu đàn cầm” là Linh Sơn pháp hội. “Quân vấn cùng thông
lý” là Thích Ca niêm hoa, “Ngư ca nhập phố thâm” là Ca Diếp vi tiếu.
Thử đọc một khổ thơ trong bài Trường hận ca của Bạch
Cư Dị, qua bản dịch thượng thừa thù thắng của Tản Đà:
Xuân đào lý gió đêm huê nở
Thu khi mưa rụng lá ngô đồng
Này Nam uyển, nọ Tây cung
Đầy thềm ai quét lá hồng thu rơi?
Thong thả ngâm những câu thơ này, tưởng chừng như chúng ta
đang nghe ra lời kệ trong phẩm Phương tiện của kinh Pháp Hoa:
Chư pháp tòng bản lai
Tôi thường cảm nhận rằng những điều cốt yếu trong lời đức Phật
dạy không nằm trong các bộ sách uyên bác luận giải về kinh điển, vốn thường
mang những nội dung na ná như nhau, mà đôi khi nó lại nằm lơ lững trong một vài
vần thơ đạm nhiên giản dị, hay trong những cảnh tượng tịch mịch giữa thiên
nhiên, nếu ta có cơ duyên tĩnh tâm lắng nghe với tinh thần “Như thị ngã văn”,
giữa những chữ nghĩa xô bồ hoặc giữa những huyên náo của cuộc sống. Bản tướng của
chư pháp xưa nay vốn là tịch diệt - Chư pháp tòng bản lai, Thường tự tịch
diệt tướng - thì hà cớ gì chúng ta lại cứ luôn đem những kiến giải từ chương
ra để nhọc công luận giải, mà không chịu lắng nghe sự tĩnh lặng của đại khối vô
ngôn? Đạo vốn “phị nhi ẩn”, tuy hiển thị mênh mang, nhưng lại luôn ẩn dấu phần
thể tính tinh yếu của mình, theo thể cách “Sương in mặt, tuyết pha thân; Sen
vàng lãng đãng như gần như xa” của một Đạm Tiên.
Nhân gian chỉ kiến thiên sơn tú
Thùy thính viên đề thâm xứ thâm?
(Nhân gian chỉ thấy ngàn non đẹp
Tiếng vượn rừng sâu, ai lắng nghe?)
(Tuệ Trung thượng sĩ)
Cảnh vật núi rừng hùng vĩ đẹp đẽ ai cũng nhìn thấy, nhưng đâu
là đôi tai để nghe ra tiếng vượn hú trong tận chốn rừng sâu? Nếu như rừng núi
nhờ có tiếng vượn hú chốn hang sâu để thực sự trở thành chốn rừng sâu núi thẳm,
thì chúng ta tìm được gì khi chỉ ngắm nhìn suông cảnh “Thiên sơn tú”? Nếu không
lắng nghe được tiếng vượn hú chốn hang sâu thì cảnh tượng “ngàn non đẹp” kia có
còn thực sự mang linh khí của trời đất để con người có thể nương theo đó mà hòa
nhập vào sự huyền mật của thiên nhiên? Hay đó chỉ còn là những giả sơn của hòn
non bộ đặt ở một góc vườn, mà chúng ta cứ trịnh trọng leo lên để rồi luôn vọng
tưởng rằng mình đã vượt qua được rặng Hy mã Lạp sơn tuyết phủ?
Nếu lắng nghe kinh điển với tinh thần như thế, chúng ta dễ bắt
gặp sự đồng vọng từ tư tưởng của triết gia Heidegger qua một câu nói thâm trầm
được lặp lại hai lần trong cùng một trang của tác phẩm Holzwege: “Das Sein
entzieht sich, indem es sich in das Seiende entbirgt” (Hữu tính tự thân ẩn
tàng trong chính những gì nó mở phơi giữa lòng vạn hữu) [3]. Chữ Sein trong
tư tưởng của Heidegger có vai trò gần như chữ Pháp hay chữ Đạo trong
tư tưởng phương Đông. Sein (Hữu tính, hay tính thể của sự hiện hữu) là cái
làm cho Seiende (sự vật hiện hữu, hiện vật thể, vạn hữu) được
là Seiende. Hữu tính - hay tính thể của sự hiện hữu - là cái hàm
dưỡng vạn hữu để vạn hữu được là vạn hữu, để vạn hữu được hiện hữu và hiện tiền.
Diễn đạt bằng ngôn ngữ Phật giáo, ta có thể tạm dịch là “Pháp tính tự thân ẩn
tàng trong chính những gì nó hiển thị trong vạn pháp”, vì pháp tính là cái hàm
dưỡng để vạn pháp được là vạn pháp. Một cách triệt để hơn ta có thể nói “Sự Im
Lặng của đức Phật tự thân ẩn tàng trong những chính những gì nó hiển thị trong
giáo pháp”, vì sự Im Lặng của đức Phật là cái hàm dưỡng để giáo pháp được là
giáo pháp. Pháp tính bàng bạc trong vạn pháp, cũng như Sự Im Lặng của đức Phật
bàng bạc trong giáo pháp. Mở phơi đấy nhưng vẫn ẩn tàng. Không lắng nghe sự im
lặng của đức Phật thì giáo pháp chỉ là những ngôn từ trống rỗng, mà chúng ta cứ
luôn lặp đi lặp lại như những con chữ vô hồn. Thùy thính viên đề thâm xứ
thâm?
Nhưng viết hay bàn về sự Im Lặng - dù bằng bất kỳ hình thức
nào - đều là sự sai lầm, quá đỗi sai lầm. Bài viết này cũng đang lặp lại sự sai
lầm khi viết về sự Im Lặng. Sự Im Lặng chỉ có thể được lắng nghe, và chỉ
có thể được cảm nhận trong chính sự Im Lặng; như Nguyễn Du đứng nhìn vầng trăng
sáng giữa non ngàn để cảm nhận ra, trong Im Lặng, sự giao hòa của muôn vạn
tâm tình của nhân gian, giữa ngàn dặm bàng bạc chính khí Hồng sơn.
Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại
Bách lý Hồng sơn chính khí đồng
Từ cõi “giao tình tại” tịch nhiên bất động đó, Nguyễn Du mới
có thể quán tưởng thế gian như mộng, mới có thể nhìn chuyện đời như mây bay
theo trận gió thu.
Nhãn để phù vân khan thế sự
Yêu gian trường kiếm quải thu phong.
Bước ra từ những câu thơ mênh mông của Vương Duy hay của Nguyễn
Du, chúng ta sẽ cảm nhận được rằng câu hỏi “Ai có thể im lặng được sự Im Lặng,
một cách bình dị thuần nhiên?” (Wer vermöchte es, einfach vom Schweigen zu
schweigen?) của Heiddeger - trong cuộc đối thoại về ngôn ngữ với một nhà trí thức
người Nhật - sẽ tìm được lời giải đáp trong nụ cười mỉm của Ca Diếp và trong sự
Im Lặng của đức Phật. Vì cành hoa của đức Phật đưa lên và nụ cười của Ca Diếp
đáp lại sẽ mãi mãi là “khúc khai tấu hằng cửu cho cuộc song thoại chân
chính về ngôn ngữ” (das stete Vorspiel zum eigentlichen Gespräch von der
Sprache).
Ghi chú:
[1] Martin
Heidegger, Unterwegs zur Sprache (Trên đường về với Ngôn ngữ), Verlag
Günther Neske, Pfullingen 1959, tr. 144
[2] Ngã
tòng mỗ dạ đắc tối chính giác, nãi chí mỗ dạ nhập bát Niết bàn, ư kỳ trung
gian, nãi chí bất thuyết nhất tự, diệc bất dĩ thuyết, đương thuyết. Bất thuyết
thị Phật thuyết.
[3] Martin
Heidegger, Holzwege (Những đường rừng hiu quạnh), Vittorio
Klostermann, GA5, 1977, tr. 337.
Yên lặng của thiền sư là tuân theo quy tắc: Giới-Định-Huệ.
"Giới“ bản nghĩa là "ngăn chặn“ mà hiểu một cách duy vật là: Các hệ thống sống có bản tính là vận động - tổng phức hợp của vô số chuyển động. "Giới“ hay "im lặng“ là hành động ngắt các chuyển động ngoại vi để tập trung năng lượng cho hoạt động luận lý đạt thức.
"Giới“ bản nghĩa là "ngăn chặn“ mà hiểu một cách duy vật là: Các hệ thống sống có bản tính là vận động - tổng phức hợp của vô số chuyển động. "Giới“ hay "im lặng“ là hành động ngắt các chuyển động ngoại vi để tập trung năng lượng cho hoạt động luận lý đạt thức.
Tuần tự của hoạt đông não bộ là:
– TRI (cảm nhận qua giác quan)
– THỨC (luận lý để nhận ra tương quan)
– GIÁC (tổng hợp để thâu lượm "toàn thức“),
Giác cũng có các mức độ (thừa, thuyền chở) Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa;
Phật giác (Phật thừa) là „toàn giác, đại giác“ - Bậc cao nhất.
– TRI (cảm nhận qua giác quan)
– THỨC (luận lý để nhận ra tương quan)
– GIÁC (tổng hợp để thâu lượm "toàn thức“),
Giác cũng có các mức độ (thừa, thuyền chở) Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa;
Phật giác (Phật thừa) là „toàn giác, đại giác“ - Bậc cao nhất.
Nhưng cũng từ "thang tư duy“ với 3 nấc/ bậc TRI-THỨC-GIÁC ta có thể nhận ra 2 điều:
– Khoa học và khoa học gia làm việc ở cấp độ TRI và THỨC;
– Tại mỗi bậc đó lại có ngôn ngữ tương ứng với nó để con người thông qua trao đổi mà nâng dần lên đến GIÁC. Các giai tầng không hiểu nhau do dùng các ngôn ngữ khác nhau;
– Khoa học và khoa học gia làm việc ở cấp độ TRI và THỨC;
– Tại mỗi bậc đó lại có ngôn ngữ tương ứng với nó để con người thông qua trao đổi mà nâng dần lên đến GIÁC. Các giai tầng không hiểu nhau do dùng các ngôn ngữ khác nhau;
Im lặng được dùng trong 2 trường hợp:
. Không thể hiểu nhau do giới hạn giai tầng ngôn ngữ và
. Đã hiểu nhau rồi (cùng giác) thì đến đây ngôn từ trở nên thừa thãi.
Trường hợp Đức Phật cầm nhành hoa và Ca-diếp mỉm cười chính là truờng hợp thứ hai. Và việc con người đánh giá „im lặng là vàng“ là có ý cho rằng sự im lặng bao quát hơn lời nói.
. Không thể hiểu nhau do giới hạn giai tầng ngôn ngữ và
. Đã hiểu nhau rồi (cùng giác) thì đến đây ngôn từ trở nên thừa thãi.
Trường hợp Đức Phật cầm nhành hoa và Ca-diếp mỉm cười chính là truờng hợp thứ hai. Và việc con người đánh giá „im lặng là vàng“ là có ý cho rằng sự im lặng bao quát hơn lời nói.
Bài viết công phu và hay, tôi xin ghi vài ý nghĩ riêng khi đọc,
có thể ngoài đề, để chia sẻ với tác giả.
Nhiều điều trong kinh Phật không thể diễn tả được bằng cách
nói thông thường, ở ngoài đời, và phải nhờ đến cách nói của thơ, như trong bài
viết này . Vì thơ là ngôn ngữ biểu cảm, đi thẳng vào lòng, lại dễ sử dụng ẩn dụ,
hình tượng, nên thích hợp nhất để giúp gợi mở cái thoáng thấy, có thể đến bất
chợt và qua nhanh, những chỗ uyên áo nhất của đạo Phật, hay của Thiền khi ngộ
Thiền là thấy biết Tâm bằng trực giác, không bằng kiến giải từ suy luận, lý
trí. Cái đẹp của thơ còn dễ dẫn tới cái thiện của đạo giáo. Nhưng thơ vẫn là
ngôn ngữ, vẫn phải dựa vào thanh âm, sự xếp đặt, khả năng diễn đạt của ngôn từ,
trong khi vào Thiền là bay bổng vào trong cõi “ý tại ngôn ngoại”, còn có thể
coi là không thuận lý, ra ngoài giới hạn của ngôn ngữ, không cần bất cứ gì nằm
giữa tâm thức với tâm, chỉ cần cái không tịch trong tâm để cho tâm chân thật tự
thể hiện. Như một câu thơ Thiền viết:
Vô tâm đạo dị tầm
(Vô tâm dễ tìm thấy được đạo).
Lúc đó, tâm trong vô tâm cảm nhận đúng được bản chất của chính cái tâm, không nhờ một phương tiện, trung gian nào, kể cả ngôn ngữ. Cho nên vô tâm cũng là vô âm, vô thanh, là sự im lặng của cái biết trực tiếp, đầy đủ, trọn vẹn, khi chủ thề và đối tượng trở thành một.
Vô tâm đạo dị tầm
(Vô tâm dễ tìm thấy được đạo).
Lúc đó, tâm trong vô tâm cảm nhận đúng được bản chất của chính cái tâm, không nhờ một phương tiện, trung gian nào, kể cả ngôn ngữ. Cho nên vô tâm cũng là vô âm, vô thanh, là sự im lặng của cái biết trực tiếp, đầy đủ, trọn vẹn, khi chủ thề và đối tượng trở thành một.
Kinh Lăng nghiêm chỉ dạy một pháp Thiền của bồ tát Quán Thế
Âm gọi là “Phản văn văn tự tánh”. Có nghĩa là xoay cái nghe (văn) vào bên trong
để lắng nghe tự tánh mình. Nếu thành tựu, không còn nữa những âm thanh ồn ào của
thế gian đến từ bên ngoài, hay dấy lên từ vọng tưởng bên trong, chỉ còn lại cái
vắng bặt hết mọi vọng niệm, đưa đến trạng thái không tâm tịch tĩnh. Sự im lặng
hoàn toàn bao trùm tất cả, trong và ngoài. Nhưng từ tâm thanh tịnh đó có thể khởi
lên cái mà kinh Phật gọi là diệu âm, có thể im ắng, hay rất nhỏ nhiệm, nhưng mạnh
mẽ như tiếng sấm của Phạm thiên, bất tuyệt như tiếng trầm vọng của sóng biển (hải
triều âm).
Nhân đọc nhiều bài Thiền thơ hay trong bài, xin chép lại bài
thơ tôi thích sau đây của thiền sư Linh Vận, làm khi thấy hoa đào nở mà chứng
ngộ:
Tam thập niên lai tầm kiếm khách (1)
Kỷ hồi lạc diệp kỷ trừu chi
Tự tòng nhất kiến đào hoa hậu
Trực đáo như kim kiến bất nghi
Kỷ hồi lạc diệp kỷ trừu chi
Tự tòng nhất kiến đào hoa hậu
Trực đáo như kim kiến bất nghi
Bản dịch của Thích Phước Hảo và Thích Thông Phương:
Ba chục năm qua tìm kiếm khách
Bao lần lá rụng với cành trơ
Từ khi được thấy hoa đào nở
Cho đến hôm nay chẳng chút ngờ
Bao lần lá rụng với cành trơ
Từ khi được thấy hoa đào nở
Cho đến hôm nay chẳng chút ngờ
(1) Kiếm khách: Có lẽ lấy từ hai câu thơ của ngài Lâm Tế viết
trong trường hợp khác, ở đây chỉ người giúp khai thị (phá đại nghi):
Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm
Bất thị thi nhân mạc hiến thi
Dịch nghĩa:
Giữa đường gặp kiếm khách nên trình kiếm
Không phải thi nhân chớ tặng thơ
Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm
Bất thị thi nhân mạc hiến thi
Dịch nghĩa:
Giữa đường gặp kiếm khách nên trình kiếm
Không phải thi nhân chớ tặng thơ
“Như vậy khi đọc các pho ngữ lục Thiền tông, chúng ta cũng
không nên lấy làm lạ khi các thiền sư chỉ cần đưa một ngón tay lên, hoặc nói một
câu vu vơ vô nghĩa để minh chứng cho cảnh giới thâm huyền nhất mà ý thức con
người có thể đạt đến, hoặc các ngài có thể hét một tiếng làm chấn động tâm thức
để chúng ta bừng tỉnh, thoát khỏi mạng lưới ngôn ngữ lý luận phù phiếm mà nghe
ra sự Im Lặng của đức Phật!“ (Huỳnh Ngọc Chiến)
Đối với tôi, có thể nói đây là bài viết hay nhất về “Im lặng”
mà tôi đọc được từ trước đến nay. Từ lúc bắt đầu “vào” talawas để đọc, phải nói
rằng, tôi “để ý” nhiều hơn đến những bài viết về Triết học. Triết học, đối với
tôi, như một thứ gì đấy “bao quát và sâu xa” hơn những thứ khác trong cuộc sống.
Xin cám ơn tác giả!
Tôi xin được chia sẻ với các bác vài cảm nghĩ của mình sau
khi đọc bài viết này. Mặc dù tác giả HNC có viết rằng, “Viết hay bàn về sự
Im Lặng - dù bằng bất kỳ hình thức nào - đều là sự sai lầm, quá đỗi sai lầm.
Bài viết này cũng đang lặp lại sự sai lầm khi viết về sự Im Lặng. Sự Im Lặng chỉ
có thể được lắng nghe, và chỉ có thể được cảm nhận trong chính sự Im Lặng;”,
nhưng tôi vẫn muốn khẳng định với tác giả là, tác giả không lặp lại sự sai lầm,
ít ra là với những độc giả talawas như tôi. Còn nếu vẫn có “sự sai lầm” như tác
giả nói, họa chăng, là với chính bản thân tác giả, hay nói rộng ra là với chính
bản thân mỗi con người chúng ta! Tôi nói điều này ra, tin chắc là tác giả hiểu
ý tôi, bởi vì, như tác giả đã nói, “Sự Im Lặng chỉ có thể được lắng nghe,
và chỉ có thể được cảm nhận trong chính sự Im Lặng” và theo tôi, “Sự Im Lặng”
chỉ có thể được tạo ra bởi chính bản thân mỗi con người mà thôi!
Về ý nghĩa sâu xa của “Sự Im Lặng” của Phật giáo, thì tác giả
HNC đã viết ra rồi. Ở đây, tôi chỉ muốn “bàn loạn” về những gì xung quanh “Sự
Im Lặng” mà thôi. Khi nói về ”Sự Im Lặng”, tôi chợt phát hiện ra một điều là,
hình như trong phần lớn các ngôn ngữ trên thế giới, đều có thành ngữ với nghĩa
“Im lặng là vàng”?! Như trong tiếng Anh, là “Silence is golden” chẳng hạn, hay
trong tiếng Hungary, “Hallgatni arany”,… Điều này phải chăng là, từ trong tiềm
thức (hay vô thức?), con người đã biết và cảm nhận được được cái giá trị “vàng”
của “Sự Im Lặng”? Tôi liên tưởng đến hành động “ngồi thiền” của các tu sĩ. Họ
“ngồi thiền” là để tìm về cái “Im Lặng” của cõi vĩnh hằng, mà từ đó có thể cảm
nhận được những ý niệm “sâu lắng triết lý” của Đạo giáo. Trong đời thường,
chúng ta cũng hay thường nói “Hãy bình tĩnh!” mỗi khi có việc gì đấy cần sự
tĩnh tâm tỉnh táo để suy nghĩ tìm ra hành động “phải đạo” thích ứng. Hoặc như
câu châm ngôn “Dục tốc bất đạt” cũng là bao hàm cái ý “không được nóng nảy, phải
bình tĩnh mới nên chuyện” (câu “Giận mất khôn”, hay “Không biết dựa cột (tức
là phải im lặng) mà nghe” cũng có ý nghĩa như vậy!)
Cái ý “chúng ta cũng không nên lấy làm lạ khi các thiền
sư chỉ cần đưa một ngón tay lên, hoặc nói một câu vu vơ vô nghĩa để minh chứng
cho cảnh giới thâm huyền nhất mà ý thức con người có thể đạt đến,” của tác
giả HNC làm tôi nhớ đến đoạn văn này “Đạt lai Lạt ma:…Còn các nhược điểm
khác, tôi nghĩ, là giận và quyến luyến. Tôi quyến luyến với chiếc đồng hồ đeo
tay và với chuỗi hạt tụng kinh của mình. Rồi, tất nhiên, đôi lúc với những phụ
nữ đẹp… Nhưng nhiều nhà sư cũng có những trải nghiệm tương tự. Một phần là do
tò mò: nếu ta dùng cái này, không biết cảm giác sẽ như thế nào? (Chỉ vào
háng của ông.)“ trong bài “Claudia
Dreifus - Đạt lai Lạt ma” Tức là ý tôi muốn nói, “Sự Im Lặng” có những
âm thanh, tiếng nói của nó, mà nhiều khi, chúng ta phải “im lặng” mới nghe thấy
hết được! Kiểu như ca sĩ Simon đã “nghe thấy” được những “sound of silence” vậy!
Xin cám ơn tác giả một lần nữa! Trân trọng.
Cảm ơn tác giả đã cho đọc một bài thật hàm súc. Những chữ thô
thiển sau đây chỉ là cảm nhận ban đầu để tiếp tục suy ngẫm thêm:
Thơ, là tiếng nói nơi cửa Phật,
Lời bàn "Phật thuyết” đẹp như thơ;
Nói bao nhiêu đó, mà… im lặng,
Im lặng là khi cảm "ngôn từ“.
Lời bàn "Phật thuyết” đẹp như thơ;
Nói bao nhiêu đó, mà… im lặng,
Im lặng là khi cảm "ngôn từ“.
Chân lý thật mông lung. Lý do: vũ trụ vạn vật chỉ là cảm
giác, ý niệm (vạn pháp duy thức), không có thật, nhưng ta không thể nói: cái
nhà ta đang ở, cái xe ta đang đi là không có thật. Mặc dù về lý trí, nhận thức
khoa học, ta hiểu vật chất chỉ là hư ảo, bởi vì những hạt cơ bản của vật chất
như quark, electron chỉ là hạt ảo, không thể độc lập tồn tại, chúng chỉ hiện hữu
trong mối ràng buộc nhân duyên trong cơ cấu nguyên tử. Niels Bohr (1885-1962,
nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922) nói “Isolated material
particles are abstractions” (1) (Hạt vật chất cơ bản cô lập thì chỉ là hạt ảo
trừu tượng- tức không phải vật thật). Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người
Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính)
phát biểu: “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real
things are constituents of consciousness - which is a complete reversal of
materialism” (2) (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật
thật đều cấu thành từ ý thức - điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).Eugene
Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật lý năm
1963) viết: “The very study of the external world led to the conclusion that
the content of the consciousness is an ultimate reality. Particles only exist
when observed, and so the reality of particles entails that consciousness is a
fundamental element of reality” (3) (Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn
tới kết luận rằng nội dung của ý thức là thực tại tối hậu. Hạt chỉ hiện hữu khi
được quan sát, và như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng ý thức là yếu tố cơ bản
của thực tại).
Lý trí của ta hiểu vạn pháp duy tâm, nhưng ta lại không thể nói nhà cửa, vật dụng, xe cộ của ta là không có thật. Vì vậy mà phải im lặng hoặc nói rồi phải phủ định như Đức Phật đã làm.
Lý trí của ta hiểu vạn pháp duy tâm, nhưng ta lại không thể nói nhà cửa, vật dụng, xe cộ của ta là không có thật. Vì vậy mà phải im lặng hoặc nói rồi phải phủ định như Đức Phật đã làm.
Nguồn:
(1), (2), (3) trích trong “Religion and the Quantum World” của Giáo sư Keith Ward- phát biểu tại Gresham College ngày 09/03/2005
(1), (2), (3) trích trong “Religion and the Quantum World” của Giáo sư Keith Ward- phát biểu tại Gresham College ngày 09/03/2005
Huỳnh Ngọc Chiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét