Bên đường Thiên Lôi 2
Một người lạ
Chiếc ô tô hàng chạy Đồ Sơn - Hải Phòng vừa đỗ ở bến Xăm thì người ngồi
bên trái tôi ghé tai tôi khẽ nói:
- Người ngồi trước mặt chúng ta là người hội kín đấy.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Thực không?
- Thực, chính hắn là một người hội kín...
- Sao ông biết?
Người kia càng ghé gần lại tôi, hai mắt liếc ra một cách bí mật:
- Tôi biết đích hẳn thế, vì, ông trông kia kìa, hắn ta đang
nhìn qua cái điếm canh kia ra dáng e dè, như lo rằng có người lên khám xét.
Tôi sực nhớ hôm ấy là ngày mồng một tháng năm Tây. Hồi đó hay
có những vụ biểu tình, nên mọi nơi canh phòng cẩn mật lắm.
Nhưng bảo rằng cái người đàn ông trẻ tuổi, gầy gò, mặc áo vài
thâm, đội mũ trắng, đang ngồi đối diện tôi, là một tay hội kín vì hắn chú ý đến
cái điếm canh kia, thì vô lý thực. Người đâu rõ khéo đa nghi.
Tuy tôi nghĩ thế nhưng lời nói của người ngồi bên cạnh cũng
làm cho tôi hơi khó chịu đôi chút. Rồi từ lúc đó, tôi cứ để mắt xem xét người
đàn ông gầy gò kia hoài.
Người này trạc độ hai mươi, da mặt hơi xanh, nét mặt rắn rỏi.
Đôi mắt rất linh động nhìn mọi người một cách khinh bỉ như nhìn kẻ thù. Hắn ta
để trong lòng một gói gì bọc trong tờ báo Tây, một tay cẩn thận giữ lấy gói ấy,
một tay cầm tờ nhật trình ta mở một nửa, nhưng lúc ấy hắn không đọc.
Tôi định mượn tờ báo để gợi câu chuyện với hắn. Nhưng hắn xẵng
tiếng trả lời:
- Tôi đọc chưa xong!
Mà hắn có đọc qua chữ nào đâu? Hắn vẫn mải nhìn các người
trong xe, rồi lại chăm chú ngoảnh đầu ra nhìn bộ binh khí là những giáo, mác,
đinh ba, câu liêm đã rỉ cắm lên một cái giá tre ở trước cửa điếm canh. Mặt hắn
lộ vẻ băn khoăn khó chịu.
Mãi đến lúc xe chạy, hắn ta mới quay xuống với tờ báo. Nhưng
chỉ nhìn qua mấy mục rồi cứ gườm gườm liếc trông các người ngồi chung quanh.
Người bên cạnh tôi lại bấm tôi, sẽ nói:
- Đấy, ông xem đấy, hắn không phải tay vừa đâu. Không là “người
lương thiện” đâu!
- Ông quá nghi ngờ đấy thôi. Người hội kín nào dám đi qua
đây...
- Không phải là tôi nghi ngờ... Người này trông giống một tay
hội kín trên báo lắm.
- Sao lại hội kín trên báo?
- Một người có hình in trên báo, ông nghe ra chưa?
Tôi tỏ ra ý không tin thì người kia không bằng lòng, nói:
- Đấy, rồi ông xem tôi nói có sai không. Chốc nữa xe đến cầu
huyện Rào, người ta khám xét kỹ càng thì chắc thế nào hắn cũng bị bắt.
Biết rằng cùng một chuyến xe với mình có một người hội kín,
nhất là vào giữa hồi dễ bị tình nghi như hồi đó thì còn khó chịu nào hơn nữa
không? Tôi muốn quên người trẻ tuổi trước mặt đi, không muốn nghĩ ngợi lôi thôi
như anh chàng đa nghi bên cạnh. Ấy thế mà anh chàng thỉnh thoảng lại ghé sát
tai mình thì thầm và cứ bắt mình phải chia sẻ cái lo ngại vô lý của hắn!
Xe chạy tới đường rẽ sang Kiến An lại đỗ.
Người bạn cùng ngồi một ghế với tôi càng ra vẻ lo ngại thêm.
Rồi không biết nghĩ ngợi thế nào, chàng ta kéo ô lách qua mọi người để xuống.
Tôi hỏi:
- Ông về Hải Phòng kia mà?
- Phải. Nhưng tôi muốn xuống đây.
- Nhưng còn xa mới đến Hải Phòng...
- Được. Tôi đi xe sau cũng được.
Tôi muốn hỏi nữa thì hắn đã xuống khỏi xe. Tôi ngoái đâu ra
ngoài trông theo thì thấy hắn ta ra chiều khoan khoái như cất được gánh nặng.
Xe chạy liền.
Tôi bị mấy người mới lên chen dữ quá, suýt tụt cả khăn. Người
đối diện tôi trông vẫn bình tĩnh như thường, trên nét mặt lạnh lùng thản nhiên
của hắn ta, tôi chỉ thấy linh hoạt có hai con mắt.
Tôi chợt nghĩ:
“Ừ, thế ngộ hắn là người hội kín thật thì sao”. Rồi tôi đâm
lo. Lúc nãy vừa cười anh chàng ngồi cạnh là gàn, mà đến bây giờ mình cũng dở
hơi nốt. Hội kín thì hội kín chứ, mình có liên can gì với họ đâu mà sợ lụy đến
mình. Nhưng tôi vẫn không được yên lòng, tôi vẫn băn khoăn, hình như tâm trí
còn cảm thấy có một điều nguy hại sẽ xảy tới...
Tôi muốn nghĩ đến những chuyện khác, những cái phiền muộn
riêng, để quên nỗi lo ngại kỳ dị bây giờ đi. Tôi muốn quan sát các người nhà
quê trong xe, muốn tìm những dáng điệu ngộ nghĩnh của họ để “giải trí”. Nhưng
lúc nào cũng chỉ nghĩ đến người “hội kín” ngồi trước mặt và chốc chốc lại phải
đưa mắt nhìn hắn ta.
“Ừ, tại sao hắn cứ cầm mãi tờ báo kia như người vờ đọc thế? Mắt
hắn sao có vẻ đăm đăm như người đang tính đến một việc ghê gớm gì? Mà còn cái
gói kia...! Gói gì mà to thế? Mà sao hắn giữ cẩn thận quá như thế?...”
Tôi bỗng rợn người lên: tôi vừa trông rõ những hình to bằng nắm
tay, tròn, rắn, in lẳn dưới lần giấy gói, và chợt có cảm giác rằng đó là những
quả bom!
Rồi cái hạt nghi ngờ mà người đàn ông lúc nãy gieo trong trí
tôi cứ nở to mãi ra. Sau cùng tôi không ngờ nữa: tôi tin là sự thực.
“Trời ơi! Quả bom! Bây giờ mà hắn vô ý đánh rơi xuống
thì chết cả lũ!”
Tôi nghĩ bụng thế rồi bắt đầu sợ hãi không biẽt chừng nào mà
kể. Nhưng hắn không vô ý đâu. Hắn cẩn thận giữ gìn những quả bom kia, có nhẽ lại
hơn tính mệnh hắn. Người ta chen nhau trên ô-tô, thích hắn, đẩy hắn, ngã lên
vai, dẫm lên chân hắn: hắn vẫn mặc kệ. Nhưng đừng ai động đến gói quả bom.
Một lần có người nhà quê rút cái đòn gánh dưới gầm ghé lên,
lóng ngóng thế nào chực gạt phải cái gói giấy. Hắn vừa hất cái đòn gánh ra, vừa
quát một tiếng thực lớn: “Này khéo!” khiến cho mọi người đều đổ dồn mắt lại
nhìn hắn. Hắn lại ngồi lặng thinh ngay.
Ô-tô gần tới cầu Rào, đang chạy hơn 30 cây số một giờ, phải
hãm chậm lại.
Mọi người trong xe xì xào nói đến những tiếng: “cảnh sát -
khám - bắt - hội kín - chung thân...”
Hắn ta vẫn ngồi yên chỉ hơi cau mày.
Người tài xế quay đầu lại nói:
- Các ông lấy thẻ sẵn ra để sang cầu cho người ta khám.
Mặt người hội kín bỗng như tái đi, và như có một vẻ quả quyết
khác thường. Hắn gập nhanh tờ báo lại, nhìn các người trên xe một lượt rồi ngồi
thẳng người lên.
Tôi hiểu rồi.
Cái nguy hại mà tôi cảm thấy lúc trước đã sắp xảy đến.
Theo các truyện trinh thám tôi đã đọc; thì người bị bắt mà
túng thế, thường tự hại mình để luôn thể hại cả những người vây bắt mình. Vậy
cái gói tạc đạn kia, nếu bị người ta khám xét ra, và nếu bọn cảnh sát chực lôi
thôi, thì người “hội kín” sẽ thản nhiên, nâng cao gói ấy lên, rồi... một tiếng
“bòm!”... thế là xong chuyện.
Tôi đã có ý coi chừng trước; định rằng hễ người kia định giở
cái kế ghê gớm ấy ra thì đã có tôi ở đó, tôi sẽ hết sức ngăn.
Khốn nỗi, xe chật như nêm, lại gặp lúc xôn xao, người tìm thẻ
đánh rơi, người sắp đồ đạc mang xuống: không thể nào cử động dễ dàng được. Tôi
bị hai người ngồi cạnh ép chặt lấy hai bên hông, nên thò tay lấy được thẻ trong
túi, rồi không thể nào rút tay ra được nữa.
Người “hội kín” thấy tôi cứ giẫy giụa để kéo tay lên thì nhìn
tôi chòng chọc. Còn tôi, trong lúc ấy, tôi cũng không rời mắt khỏi gói tạc đạn
của hắn ta.
Xe đã qua cầu.
Rồi đỗ.
Năm người cảnh sát oai vệ tiến đến:
- Mọi người trên xe phải xuống hết. Rồi đưa thẻ ra xem!
Tôi cố chết lách được ra khỏi xe thì bị người đội cảnh sát hỏi:
- Đứng lại. Thẻ đâu?
- Ông đội ơi, ở trong chiếc xe này...
- Có thẻ không?
- Có. Nhưng tôi muốn nói...
- Đưa thẻ xem đã!
Tôi bực mình quá, nhưng cũng phải đưa thẻ ra.
- Trong chuyến xe này... hình như có một người mang quả bom đấy!
Người đội cảnh sát trả thẻ tôi và trừng mắt nhìn:
- Ông bảo sao?
- Trong xe có người hội kín!
- Đâu?
Tôi ngoảnh lại xem.
Người hội kín của tôi đang cẩn thận ôm gói quả bom bước xuống.
Mặt hắn vẫn giữ nguyên cái vẻ lạnh lùng quả quyết từ nãy. Tôi khẽ nói với viên
cảnh sát:
- Kia! Nhưng ông phải coi chừng đấy, đừng để hắn ném cái gói
giấy xuống đất.
Người cảnh sát hiểu ý đi đến tận bên người kia:
- Thẻ anh đâu?
Người hội kín thong thả đáp gọn một câu:
- Tôi không có thẻ.
Tôi rùng mình lên một cái, như nghe thấy tiếng hô bắn một người
tử tội. Viên cảnh sát mặt tái đi, chưa biết tóm ngay cổ thằng cha bướng bỉnh ấy
hay nên hỏi qua loa rồi thôi. Vì có lẽ ông ta cũng nghĩ như tôi: họ túng thế là
họ đâm liều mất.
Tôi khẽ bảo người cảnh sát:
- Ông liệu giữ lấy gói giấy đã, rồi hỏi gì hẵng hỏi.
Viên đội cảnh sát gật gù, đưa mắt cho mấy người đi theo, rồi
lẹ tay giật lấy gói tạc đạn. Người hội kín hốt hoảng chực với lại, nhưng đã bị
hai người giữ chặt lấy tay.
Lúc ấy viên cảnh sát mới dám hỏi:
- Anh ở đâu đến?
- Ở Đồ Sơn.
- Nhưng ở nhà ai?
- Ở nhà Thờ...
- Hừ! Nhà Thờ... anh đi đạo hội kín hẳn. Được, nhưng rồi tôi
sẽ biết. Anh định đi đâu?
- Tôi có việc lên nhà thương Nam Pháp, ở gần đây... Tôi đưa
ít thuốc lên cho mấy người ốm...
- Phải. Tôi biết. “Thuốc” cho những “người ốm” đó ở trong gói
này chứ gì?
Nói được một câu chế giễu lý thú như thế, viên đội cảnh sát mỉm
cười ra dáng đắc ý lắm. Rồi ông ta lại hỏi:
- Thế thẻ anh đâu?
- Tôi chưa có thẻ vì tôi là người chưa đến tuổi, lại là người
tu hành. Tôi đã có thư của nhà Chung... Thư ấy... tôi để trong gói kia, ông giở
ra mà xem.
Thấy câu nói khả nghi, tôi sợ rằng đó lả một cái mẹo của người
hội kín. Tôi toan cản lại, nhưng người đội cảnh sát đã đặt gói quả bom lên mặt
đường nhựa và đã bắt đầu bỏ lượt giấy bọc ngoài.
Mặt ông ta nửa có vẻ nghiêm nghị nửa có vẻ khôi hài, nhưng
hai tay ông ta hơi run run, như không nén nổi sự cảm động.
Bắt được một tay “hội kín” mang những đồ quồc cấm quan trọng
đến như thế, có phải chuyện vừa đâu. Mà công trạng của mình tất không nhỏ.
Người đội cảnh sát lóng ngóng mãi, bỏ được tờ giấy bọc ngoài
lại thấy một tờ giấy bọc trong, rồi lại đến một tờ thứ ba nữa.
Lúc tờ báo sau cùng đã mở thì ngổn ngang thấy mấy lọ thuốc
tây bên cạnh một mảnh giấy gấp, với lại... mười cái ống giác bằng thủy tinh.
Thì ra người “hội kín” của tôi quà là một người tu hành, một
“thầy bổn” đem thuốc đi cho “kẻ liệt”!
Ông phán nghiện
Ông ta là người Nam Kỳ, nhưng từ khi về hưu trí vẫn không rời bỏ cái nhà
lá mua được ở trên con đường đi về huyện Vũ Tiên.
Nhà này đứng trơ trọi trên một vườn mía không ai trông nom và
ngoảnh mặt ra một cái đầm con chật ních những bèo Nhật Bản. Không thân thuộc
ai, cũng không tưởng gì đến sự về quê hương, ông ta sống ở đó thầm kín một
mình, ngày hai bữa đã có thằng bé con ở hiệu cao lâu Khách phố Đệ Nhị đưa cơm
nước đến. Ông ta không ra ngoài mấy khi: cả công việc chỉ quanh quẩn bên cái
bàn đèn. Mà khi bước chân ra khỏi nhà là người khắp tỉnh Thái Bình xì xào, chỉ
trỏ. Tên ông ta là Được, Trần Văn Được, nhưng họ quen gọi là lão phán nghiện
hay là lão phán Sài Gòn.
Tôi ở xa, đến chơi nhà một người bạn ở đầu tỉnh Thái được ít
lâu, đã chú ý đến con người kỳ khôi ấy, vì tính tôi hay tò mò, vốn thích những
chuyện lạ, những nhân vật khác thường. Cho nên mỗi khi thấy người đàn ông gày
gò, đội mũ trắng bửn, mặc áo bông đụp và quần cháo lòng kia lệt sệt đôi giày cũ
đi qua cửa nhà bạn tôi, là tôi chạy ra nhìn cho đến lúc ông ta đi khuất. Bạn
tôi vẫn nói đùa rằng: “Anh hẳn có duyên vì với ông phán nghiện”.
Tôi chẳng biết sự chú ý đó có phải vì thanh khí tương hợp gì
chăng? Nhưng riêng tôi thì tôi không ghét người đàn ông kia như phần nhiều người
tỉnh Thái. Họ đồng lòng cho ông ta là một hạng người keo bẩn, độc ác, có tiền của
chôn giấu - là một con cáo già bo bo giữ lấy hang. Cái nhà lá vắng vẻ kia không
ai biết trong có những cái bí mật gì, vì cả những bạn đồng sự cũ của ông ta
cũng không ai ưa bước chân tới đó.
Tính tò mò của tôi mỗi lần trông thấy ông phán Sài Gòn lại bị
khiêu khích. Tôi tìm hết cách làm quen với ông ta. Hai ba lần tôi vô cớ đón đường
chào, nhưng ông ta chỉ gườm mắt nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi lại bước đi,
không nói qua nửa tiếng. Tôi biết ông ta không phải là người dễ bắt chuyện,
nhưng tôi vẫn kiên tâm chờ một dịp tốt nào đó. Dịp tốt ấy hiện đến buổi chiều
cuối tháng một.
Ông ta lên phố lĩnh hưu bổng về, tay cẩn thận cầm một cái
cóng thuốc phiện. Lúc sắp rẽ sang đường Vũ Tiên thì một lũ trẻ con đua nhau vừa
đuổi theo ông ta vừa chế riễu. Ông ta ngoắt quay lại thì một đứa chạy không kịp
cuống chân ngã xuống đường, mặt cắt không còn hột máu. Người lớn liền đổ ra
sinh sự, họ nhất định giữ ông ta lại, và bắt lấy cóng thuốc. Tôi phải chạy đến
phân giải mãi họ mới chịu buông ông ta ra.
Ông phán nghiện chỉ lắc đầu phàn nàn, rồi không cảm ơn tôi lấy
một lời, ông ta chực quay gót. Nhưng tôi đã nắm được cơ hội, đi theo ông ta một
quãng, nói mấy câu lễ phép vu vơ, ông phán lại nhìn tôi một cách ngờ vực như mọi
khi, ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi cất tiếng nhè nhẹ và rè rè của một người Nam Kỳ
nghiện nặng mà bảo tôi rằng:
“Tôi là một người ở biệc tịch, một người ai cũng ganh ghét cớ
chi thầy còn chú ý tới tôi?”
Thế rồi ông ta rảo bước tiến lên, tỏ ý không muốn tôi đáp lại.
Tuy vậy, từ hôm đó trở đi, ông ta không e sợ tiếng chào của
tôi như trước và nhìn tôi bằng đôi mắt dịu dàng hơn. Tôi không bỏ một dịp nào gặp
mặt mà không hỏi ông ta một vài câu. Trước ông ta còn lặng thinh, sau mỉm cười,
rồi sau cùng đứng lại hỏi:
- “Thầy màng diệc” ở Thái Bình?
- Thưa cụ không. Tôi đến chơi đây.
- Tới chơi mà ở lâu dữ vậy, cà?
- Vâng, vì tôi ở dưỡng bệnh nhân thể.
Một lần khác, ông hỏi tôi ở đâu và làm ăn gì. Tôi thưa:
- Thưa cụ, tôi làm nghề viết báo ở Hà Nội.
Ông ta giương đôi mắt tươi cười nhìn tôi một lúc rồi nhìn đi
chỗ khác, vẻ lơ đãng như người nghĩ chuyện đâu đâu. Rồi ông chậm rãi nửa như bảo
tôi, nửa như nói một mình:
- Viết báo à? Vậy thầy hẳn biết ở đời này lắm chuyện “tức cừi”
lắm hả?
Đối với người lạ lùng như thế, được nói mấy câu chuyện không
đâu, cũng có thể gọi là quen thân rồi. Tôi xem ra ông phán Sài Gòn cũng tỏ ra ý
mến tôi như một người bạn nhã nhặn tử tế. Có khi trông thấy tôi, ông ta lại
chào hỏi trước, có lần lại nhận lời vào chơi trong nhà người bạn tôi. Thực là một
sự lạ cho tỉnh Thái Bình.
Nhưng về phần ông ta, thì xa với điều tôi mong, ông không hề
mời tôi vào chơi nhà ông bao giờ hết. Tôi cho đó là một sự vô ý của một người nệ
cổ ít thiệp đời, nên một hôm tôi lấy cớ đến thăm ông ta để xem xét những điều
tôi muốn biết.
Lúc tôi gần bước chân đến cái đầm nhỏ trước cửa nhà ông phán
Sài Gòn, thì thấy ông ta đương đổ bã chè ở chái hiên. Tôi bắc loa tay gọi:
- Cụ phán ơi! Tôi vào thăm cụ đây!
Ông ta ngửng đầu lên trông, nhận được tôi, không nói năng gì,
tức khắc đi vào trong nhà đóng kín cửa lại. Tôi ngạc nhiên quá, rẻo qua bờ đầm
đến bên cạnh cửa, gõ gọi lần nữa thì có tiếng ông phán thưa ra:
- Có chuyện chi thầy để tới khi khác, giờ tôi không thể tiếp
thầy đặng.
Trong nhà tối om, qua khe cửa tôi thấy leo lét có ngọn lửa
đèn.
Hơn nửa tháng sau tôi mới lại gặp ông phán nghiện ra phố. Hôm
ấy ông ta đương trả tiền cơm tháng cho người chủ hiệu cao lâu phố Đệ Nhị, và hỏi
giá mua mấy sọt than tầu. Thấy tôi cùng đi với một người bạn gái mới ở Hà Nội
xuống chơi, ông ta không nói gì qua, cũng không đáp lại cái gật đầu của tôi,
làm như người không quen biết tôi lần nào cả.
Tôi để cô bạn đi trước lại gần hỏi nhỏ ông ta:
- Lâu nay cụ mạnh giỏi chứ?
- Không mạnh giỏi lắm. Thầy ít bữa nay không ở Thái Bình sao
mà tôi qua nhà hai lần không thấy?
- Thưa cụ, tôi đi chơi Ninh Bình.
- Đi với cô kia, phải không. Người chi mà lịch sự vậy?
- Một người bạn gái ở Hà Nội về chơi thăm tôi.
Ông ta yên lặng một lát rồi bảo tôi:
- Bao giờ thầy có thời giờ, vô chơi nhà tôi chút nhé! Tôi có
chuyện này ngộ lắm đa!
Tất nhiên là tôi không từ chối.
Ngay chiều hôm ấy, sau khi tiễn người bạn gái sang Nam Định
trở về, tôi vội vã đến nhà ông phán Sài Gòn. Trời phơn phớt mưa bụi như gội
thêm cái u tối xuống cảnh ngày đông. Cái nhà lá ở bên đường Vũ Tiên càng thêm
có vẻ hiu quạnh...
Tới nơi thấy cửa đóng kín. Tôi đập cửa gọi thì bên trong có
tiếng giận dữ hỏi ra:
- Ai?
- Thưa cụ, tôi.
- Tôi là ai? Gọi chi mà dữ vậy?
- Kìa cụ phán, tôi đây mà! Người quen cụ đây mà!
Ông ta nhận được tiếng tôi rồi mà hình như chưa khỏi càu
nhàu. Tôi nghe thấy bên trong lịch kịch như dọn dẹp bàn đèn, mấy tiếng phì phò
thở mạnh, rồi một lúc, thấy một con mắt nghé sau khe cửa nhìn ra:
- Cụ đang bận, phải không? Tôi đến cản trở cụ hẳn?
- Không hề chi. Tôi đang dở hút.
- Nếu vậy xin để lần khác tôi đến thăm cụ vậy?
- Không, (ông ta vừa nói vừa mở cửa) thầy cứ dô chơi.
Mắt tôi lúc ấy chưa quen tối, mà trong nhà cửa sổ vẫn kín
bưng. Ánh sáng nhạt nhẽo ở bên ngoài, ánh sáng yếu đuối ở ngọn đèn dầu lạc với
cái hỏa lò than ở gần, chỉ cho tôi thấy lờ mờ mấy bộ ghế ngựa thấp kê ở giữa
nhà, với sau đó là một thứ tủ chè ngắn và cao, hai cửa kính lấp loáng.
Câu thứ nhất ông bảo tôi trong lúc ông đi đóng cửa vào đã khiến
tôi lấy làm lạ.
- Ở nhà tôi, nhất là lúc tôi hút, thầy có thấy chi lạ cũng đừng
sợ đa thầy!
Tôi ngồi ghé xuống bộ ghế ngựa, đưa mắt nhìn chung quanh nhà:
một cái giường cầu, dưới chiếc màn đã lâu không giặt, kê một bên. Gian bên kia
trơ trọi một cái bàn thờ, trên để đủ các thứ: chai, lọ, tượng sứ nhỏ, sách chữ
nho, và nhiều thứ vặt vãnh. Sau bàn, ẩn trong bóng mờ tối, phảng phất hình những
chậu sành nhớn, những thạp và một hai cái chum con.
Ông phán ngồi xổm lên bộ ngựa, cho thêm than vào hỏa lò và đặt
một siêu nước lên trên, mở chụp đèn cắt bớt bấc đi, tháo tẩu ra rồi vừa nạo, vừa
thong thả nói:
- Hồi sớm mai tôi gặp thầy đi với một cô nào, tôi bắt tội
nghiệp giùm cho thầy quá.
- Thưa cụ sao vậy?
- Vì thầy là ngừi tôi có bụng mến lắm. Tôi nói thiệt, ngừi đời
xấu hết, tôi thấy ít ai tử tế, ít thấy ai không có bụng ghét đố kỵ, nhưng tôi
thấy có thầy.
Lúc ấy tôi ngạc nhiên hơn là vui thích bởi những tiếng ngợi
khen đó. Vì mến tôi, vì cho tôi tử tế mà ông ta thương hại khi trông thấy tôi
đi với một người bạn rất dịu dàng, thì thực là một điều ngược đời, tôi không thể
nào hiểu được. Tôi hỏi:
- Thưa cụ, cụ có quen biết người đi với tôi không?
Đây, tôi xin thuật lại đúng như lời ông ta đáp:
“Không, nhưng tôi biết ngừi đó là đờn bà. Thế là đủ.
Đờn bà không phải là ngừi cho mình tin đâu, thầy. Họ dịu dàng, âu yếm,
mơn trớn mình... Nhưng để coi: họ là con mèo giấu móng, hơn thế, họ là một giống
nham hiểm mà biết suy nghĩ. Đờn bà thiệt đáng sợ lắm đó, thầy!”
Tôi nghe những lời nói thực thà một cách đột ngột ấy mà nhớ tới
câu chuyện mùa xuân của một nhà danh sĩ Pháp. Trong đó kể chuyện một ông đứng
tuổi khuyên can một chàng thiếu niên đừng sa ngã vào vòng ái tình. Tôi đang tìm
câu trả lời thì ông phán Sài Gòn đã nói tiếp:
- Thiệt vậy, thầy nên tin ở tôi - đờn bà là giống đáng ghê sợ...
Tôi sống một mình ở đây, bỏ cửa bỏ nhà, bỏ quê quán cũng vì đờn bà đó. Tôi đã
khổ, đã cực nhục nhiều phen vì chúng nó. Tôi không muốn trở lại mà thấy những cảnh
đã trông thấy nỗi đau khổ của tôi.
Rồi ông ta cho tôi biết rằng hồi niên thiếu, ông ta đã yêu,
mà yêu một cách nồng nàn đắm đuối. Không có sự khó khăn nào, không có điều nguy
hiểm nào ông ta không vượt qua để được gần gụi người yêu: mà khi đã chiếm được
lòng ai rồi thì không có sự vất vả nào ông ta không chịu mang để người yêu được
sung sướng, “sung sướng như bà hoàng hậu”. Thế mà người ông yêu lại đi yêu người
khác. Lòng người yếu đuối: ông rộng lòng tha thứ cho, nhưng người thiếu phụ ấy
không hề ăn năn, tìm nhiều cách lừa dối, lường gạt ông, ông tha thứ cho bao
nhiêu lần là bấy nhiêu lần ông đau khổ.
- Thế rồi tôi sinh ra căm tức, thù ghét người tôi thương:
không những thế, tôi còn ghét lây, thù lây cả giống họ nữa. Tôi trông thấy ngừi đờn
bà là tôi thấy một vật độc ác giấu lưỡi gươm ở hai con mắt, giấu bẫy cạm ở
trong lòng... Thầy ôi! Mà có phải là lỗi ở tôi đâu? Thiệt tôi không phải là người
độc ác chớ!
... Cho nên tôi thấy thầy đi với họ - thầy là một ngừi tử
tế hơn ai hết thẩy, là ngừi mà tôi coi như hình ảnh của tôi ngày trước
- nên tôi buồn giùm. Thầy nghe tôi, thầy phải coi chừng, những tay ngà ngọc của
họ bóp trái tim mình không biết chùn, đa! Mình có đau khổ, mình có thất tình mà
chết họ cũng trối kệ.
Lúc ấy ông ta đã đánh sái xong, đang ngả mình nướng điếu thuốc
mới. Tôi thấy cái phút yên lặng lúc đó khó chịu lắm, đang muốn nói một câu gì
nhưng chưa tìm được, thì ông phán lại nói luôn:
- Đời tôi bây giờ không còn mong gì nữa rồi... cái sanh thú độc
nhứt của tôi bây giờ chỉ có thuốc phiện, chỉ có ả phù dung, là một vị tiên ác
nghiệt nhưng trung thành: mình không ruồng bỏ cổ thì thôi, chớ chẳng đời nào cổ
ruồng bỏ mình. Câu ví của tôi nghe ngộ quá hả! Cái ái tình của tôi chỉ là hút á
phiện - có vậy đó thôi. Còn đờn bà! Trời ơi! Đờn bà là một vật chi vậy?... Một
bữa tối qua Nam Định, tôi trông thấy một bức tranh vẽ treo ở cửa một nhà hát
bóng; tôi thấy, tôi không bao giờ quên. Tranh đó vẽ một con đờn bà lúc đêm tối
ngồi để tay lên đầu một anh đờn ông... mà cái bóng đen của hai đứa chiếu lên tường
lại là bóng con hổ cái dìu đầu một người xuống dưới một chưn trước của nó. Tôi
thấy cái ngụ ý đúng quá, cười ầm lên. Từ đó tôi được một hình ảnh để ví giống đờn
bà, hạp với ý tôi... rồi tôi lại kiếm đặng một hình ảnh hay hơn, đúng hơn ấy là
giống rắn!
Điếu thuốc vừa chín, làm tắt mất mấy tiếng cười gằn. Ông nâng
xe phiện mời tôi:
- Thầy hút điếu thuốc cho khỏe.
- Xin vô phép cụ.
Ông không nài, thót má vào kéo một hơi, rồi lừ đừ mắt mà thở.
Lúc ấy tôi như đang giao tiếp với một nhân vật kỳ quặc trong
một cảnh tượng huyền ảo... Tôi nghĩ đến những lời khe khắt quá đáng của người
đàn ông kia mà thấy ghê rợn cả người. Những lời nói căm hờn ấy có một mãnh lực
rất quái lạ... Tôi tất nhiên không biểu đồng tình, nhưng tôi cũng không tìm được
nhẽ gì để bài bác.
Ông ta tiêm luôn mấy điếu nữa hút, để mặc tôi suy nghĩ vẩn
vơ. Tôi lơ đãng nhìn ngọn đèn lửa nhọn đâm thẳng lên, nhìn những tiêm móc và
các đồ dùng trên bàn đèn, nhìn khói trắng từ từ lan ra trong bầu không khí thơm
nồng và ấm áp, rồi lại nhìn bộ mặt gầy guộc xanh xám mơ màng trong làn khói bộ
mặt in đầy những vẻ chua chát mỉa mai...
Bỗng nhiên tôi tái người đi, hai hàm răng cắn chặt lấy nhau để
giữ một tiếng kêu, vì tôi vừa thấy một vật ghê gớm: một con rắn cạp nong lớn,
mình lấp lánh như chiếc khăn quàng bằng lụa bóng, đang yên lặng nằm vắt qua cổ
ông. Con rắn hình như không để ý gì đến tôi... chỉ ngóc đầu lên gần mặt ông ta
mà chờn vờn những làn khói thuốc phiện chưa tan hết. Ông phán nghiện thì lim
dim mắt nằm đó, nét mặt thản nhiên lạ thường. Tôi bám lấy mép ghế ngựa cho khỏi
run, muốn chạy nhưng chân ríu lại... Quay ra cửa thì cửa đóng kín. Tôi hết sức
tĩnh trí se sẽ gọi:
- Cụ phán!
Ngoảnh lại, con rắn không còn đó nữa, biến đi như hình ảnh một
giấc mơ.
Trống ngực tôi đập thình thình, tôi lẩm bẩm một câu hỏi mà
không biết ông phán có nghe thấy không, chỉ thấy ông ta mở mắt ngồi thẳng dậy
cười mấy tiếng nghe rợn tóc gáy, rồi bảo tôi:
- Tôi đã biểu thầy đừng sợ từ lúc mới bước vô đây kia mà...
- Nhưng vừa rồi tôi trông thấy một con rắn nó quấn cổ cụ!
- Phải, con rắn của tôi đó... Con rắn của tôi nuôi.
- Nó đâu rồi?
- Đây nè! (ông ta vừa nói vừa trỏ cho tôi thấy một cuộn tròn
ngũ sắc ở trong bóng cái gối xếp) Vừa rồi nghe thầy gọi, nói chui nằm xuống
đó... Thầy trông ngộ lắm phải không?
- Nhưng, trời ơi! Sao cụ lại nuôi cái quái vật ấy thế?
- Nó là rắn chứ không phải là quái vật. Vì thầy coi: nó có nỡ
hại tôi bao giờ đâu? Nó quấn quýt bên mình tôi đã có trên ba, bốn năm nay rồi...
Cái quái vật mà người ta không ngờ, mà người ta tin yêu, ấy là đờn bà, ấy là giống
tôi ghét và tôi sợ nhứt đó.
Tôi không thấy lời nào độc địa hơn thế nữa, nên vẫn không biết
trả lời ra sao. Ông phán hình như không thèm để ý đến tôi, chỉ vừa cười nói tiếp:
- Phải. Tôi ghét tụi đờn bà lắm, nên mới nẩy ra cái ý kiến
nuôi rắn làm bầu bạn, trong lúc sống một mình này. Tôi làm thế đặng an ủi lòng
tôi, đặng ngạo đời chơi, đặng cho chúng biết rằng tôi ở với rắn còn sung sướng
hơn ở với chúng.
Tôi mua đặng con rắn từ bốn năm về trước trong hồi tôi qua
Nam Định có việc - mà chính là hồi tôi nảy ra ý kiến so sánh rắn độc với đàn
bà... Tôi đem nó về rồi ngày ngày đặt cái lồng đựng nó ở bên bàn hút, nói chuyện
với nó, than thở với nó, như tình tự với người thương. Tôi hút điếu nào lại hà
khói vào lồng đặng cho nó nuốt đi. Cứ vậy trong hơn một tháng trời, lần lần con
rắn thành quen khói thuốc, thành “nghiền”. Tôi mới thả ra cho nó đi, nhưng chỉ
ít lâu nó lại trở lại quanh quẩn bên bàn hút. Rồi cứ vậy cho tới giờ, con rắn
không bao giờ muốn rời bỏ tôi ra. Tới bữa hút là nó lại bò gần tôi... Mỗi ngày
tôi một cưng nó hơn lên và để cho được tự do “mơn trớn” tôi như thầy vừa thấy
đó.
- Bữa trước thầy tới chơi thì tôi vừa mới bắt đầu nằm hút. Mà
lúc con rắn của tôi chưa đủ nghiền thì không được hiền lành với người ngoài...
Tôi sợ thầy đột nhiên trông thấy nó, lỡ có vô ý động tới nó chăng, nên mới không
tiếp thầy đặng. Bây giờ thì tôi bắt sao, nó phải theo vậy: nó lành hơn con
chiên.
Vừa nói, ông ta vừa vuốt lên những khúc cuộn tròn của con rắn
một cách nhẹ nhàng, yêu dấu như người vuốt ve một con mãn, miệng sẽ huýt mấy tiếng
còi. Con rắn liền ngóc đầu lên, vươn mình bò quấn lấy cánh tay ông ta. Ông ta
rũ một cái, nó lại nằm cuộn tròn dưới chiếu.
Ông phán quay lại bảo tôi:
- Đã trên ba, bốn năm trời rồi, tôi vẫn sống với nó như sống
với một “ngừi bầu bạn” trung thành, nên đời tôi cũng không quạnh hiu lắm. Mà mỗi
khi tủi phận hay căm tức vì nghĩ tới chuyện xưa, tôi lại gọi nó ra bên bàn đèn
mà than thở với nó... Những lúc đó tôi thấy sung sướng trong tâm lắm, vì nghĩ rằng
con rắn của tôi còn tử tế hơn đờn bà lận.
Lúc tôi cáo từ ông phán nghiện đi ra, thì bên ngoài trời sẩm
tối, mưa lấm tấm gội một cách dịu dàng vào đôi má nóng bừng của tôi... Tôi thấy
lòng nhẹ nhàng, trí vẫn tỉnh táo suy nghĩ được như thường - vì tôi thú thực,
câu chuyện của ông phán kỳ quái vừa rồi làm cho tôi tưởng đến loạn óc mất. Tôi tìm
cách hiểu lấy đôi chút tâm trạng của người đàn ông ấy, nhưng cũng không thể nào
hiểu được: phải là người khổ lắm - khổ quá - phải trải qua nhiều điều đắng cay
chua xót vì đàn bà lắm mới có những tư tưởng “quá khích” như thế được.
Bốn năm hôm sau, tôi lại vào chơi nhà ông phán Sài Gòn. Ông
ta hỏi tôi:
- Bộ thầy cho tôi là ngừi kỳ cục lắm hả? Mà kỳ cục
thiệt, chớ chi? Nhưng có điều tôi không hại tới ai. Ngừi ta ghét tôi,
tôi ghét lại. Thế là công bình. Miễn không ai quấy rầy tôi là tốt.
Tôi trông thấy con rắn vắt qua cổ ông ta cũng đã quen mắt và
mấy lần sau tôi đến đã dám theo lời ông ta vuốt lên mình nó mà không việc gì.
Ông phán cười không thật và khàn khàn bảo tôi:
- Thầy viết báo đã thấy có người ở với rắn bao giờ chưa?...
... Cuối năm ấy, tôi từ giã Thái Bình, có đến chào ông phán
Sài Gòn thì thấy ông ta vừa vuốt ve con rắn cạp nong vừa phàn nàn rằng ít bữa
nay ông hút thuốc là hút cho con rắn chứ không thấy thú nữa. Hồi đó, ông ta bắt
đầu bị yếu. Tôi nghĩ bụng: người nghiện chê thuốc hẳn không phải là một triệu
chứng hay.
Đầu tháng giêng năm sau, giữa hôm tôi lại đến Thái Bình chơi
thì được tin ông phán Sài Gòn vừa mới chết lúc sáng.
Người bạn của tôi bảo tôi:
- Ông phán nghiện vẫn ốm từ hồi trong năm. Bệnh xem chừng
càng ngày càng nặng thêm, trước còn ăn uống qua loa, nhưng sau bỏ cơm hẳn. Mấy
hôm nay, bữa nào thằng bé hiệu cao lâu đem cơm nước đến cho ông ta, cũng thấy
đóng cửa kín; ông phán nằm dí trong nhà, ngừng tiếng rên để gắt đuổi nó xách
cơm về. Nhưng từ hôm qua thì cố nghe ngóng cũng không thấy gì nữa. Sáng hôm nay
người ta tới đập cửa thình thình cũng không thấy động đậy.
Tôi bỗng có một thứ cảm giác kỳ dị: tôi nghĩ ngay đến con rắn
cạp nong.
Tức khắc tôi cùng người bạn đi trình cảnh sát rồi phá cửa vào
xem, thì quả nhiên ông phán nằm chết cóng bên cái bàn đèn tắt, mà con rắn thì
quấn chặt lấy cổ ông, đầu nó đang cố rúc vào mũi ông ta, như muốn tìm cái hơi
thuốc phiện trong ấy.
Chúng tôi hết sức cẩn thận tìm cách bắt nó, nhưng cẩn thận vô
ích, vì con rắn đói thuốc, không nhanh nhẹn được nữa. Nên chúng tôi bắt được nó
rất dễ dàng.
Cái đầu lâu
Chiều hôm đó, tôi ngồi chơi với Ngô Đàm trong phòng sách của anh ta. Sau một
hồi chuyện phiếm, bạn tôi lấy ra một cái hộp gỗ trắng đem khoe tôi:
- Tôi mới mua được cái này hay lắm.
- Cái gì?
- Rồi anh sẽ biết.
Nắp hộp mở, anh lấy ra một cái đầu lâu lớn, nương nhẹ đặt lên
bàn, rồi nhìn tôi mỉm cười. Tôi hỏi:
- Anh mua vật này làm gì?
Đàm không trả lời ngay, lim dim mắt, gạt tàn thuốc lá và
thong thả nói:
- Cái đầu lâu là biểu hiện sự chết, là một vật mà các nhà hiền
triết hoặc tu hành bên Âu châu thường bày trước mặt, bên những chồng sách đầy bụi
bám để suy nghiệm về những lẽ huyền bí của “đời sau”. Đối với một nhà thông
thái thì đó là một vật khảo cứu cũng như viên đá lạ, một chất hóa học hay một ống
cấy vi trùng. Tôi không phải là nhà hiền triết, không phải là nhà tu hành hay
nhà thông thái, nên cái đầu lâu đối với tôi là một thứ bài trí ghê gớm, một thứ
đồ... “mỹ thuật” của người hiếu kỳ như tôi. Nhưng có lẽ trong những lúc đọc
sách ở nơi tĩnh mịch này, trong những khi suy xét về những điều bí hiểm của sự
chết, của đời người, thứ đồ “bài trí” kia sẽ là một vật kích thích cho trí tưởng
tượng của tôi... Biết đâu bạn anh sẽ chẳng là một nhà tư tưởng trầm mặc như nhà
hiền triết, nhà tu hành?
Câu nói văn hoa, nửa nghiêm trang, nửa đùa cợt của Đàm khiến
tôi hơi ngạc nhiên, nhìn bạn.
Bỗng cửa phòng bật mở, một người thiếu niên mặc Âu phục bước
vào, chưa kịp nói gì đã trông thấy cái đầu lâu, rồi đứng đực ra đó. Đàm hỏi:
- Kìa, anh Chung, sao hôm nay trông kỳ khôi thế?
Lúc ấy, Chung mới ngoảnh lại sẽ gật đầu chào tôi, rồi lại
trân trân nhìn cái đầu lâu trên bàn, mãi mới nói:
- Ồ anh Đàm! Anh cũng có cái này ư?
- “Cũng có?” Thế ra tôi không thể có một cái đầu lâu được
sao?
- Ồ, thế anh không thấy gì lạ chứ? Anh không thấy gì ư?
Chung ngồi xuống, đưa tay vuốt tóc, mặt hãy còn vẻ lo lắng,
nhìn hết tôi đến Đàm rồi đến cái đầu lâu. Anh nói:
- Sao lại có sự ngẫu nhiên lạ thường đến thế? Tôi đến đây
cũng định thuật cho anh nghe về cái đầu lâu ở nhà tôi... thì lại gặp ngay chính
vật này... Chính cái đầu lâu này. Tôi đã tưởng nó đang ở nhà tôi biến lại đây,
nên tôi mới sửng sốt đến thế. Để tôi kể đầu đuôi câu chuyện các anh nghe.
Chung lấy chén nước uống cạn một hơi, lóng cóng châm điếu thuốc
lá rồi nói tiếp:
- “Trước kia tôi vẫn ở trên Hàng Bông như anh đã biết. Nhưng
cách đây nửa tháng, anh Lịch là người học trường Mỹ thuật mới ra năm nay, tìm
được một cái nhà ngói ở ngoại ô để làm phòng vẽ. Nhà ấy một tầng chia làm hai căn
rộng. Lịch ở một căn còn một căn gọi anh Thao học năm thứ hai trường thuốc với
tôi đến ở cho vui và chịu đỡ Lịch ít tiền thuê nhà.
Chỗ này ở xa thành phố, chung quanh toàn bãi cỏ, một mặt ngoảnh
ra phía đường cái. Ở chỗ yên tĩnh như thế để học hành, lại rẻ tiền nhà, mà có
hai người bạn cùng nhã nhặn tử tế cả thì còn gì dễ chịu hơn. Tôi không bao giờ
phàn nàn nếu trưa hôm kia anh Thao không có cái ý kiến kỳ quặc đem về nhà một
cái đầu lâu.
Đầu lâu thì tôi không lạ gì. Hồi còn học trường Bưởi, tôi đã
được trông thấy nhiều lần ở phòng thí nghiệm. Nhưng cái mà anh Thao lấy ở nhà
thương về lại là của một tên tù mới chết, trông còn mới, trắng hơn cái này nhiều,
mà xương chưa được khô lắm. Thao xem ra quý hóa cái vật quái gở ấy lắm. Tôi thì
không. Tôi thoạt trông thấy nó bỗng ghê rợn cả người... Có lẽ vì tôi thoáng
nghĩ đến cảnh hiu quạnh chung quanh nhà của chúng tôi, hay có lẽ tôi vừa mới đọc
xong những truyện linh hồn hiển hiện anh cho mượn ngày trước... Cái đầu lâu đặt
trên bàn học anh Thao kê gần cửa sổ lúc nào cũng như chăm chú nhìn tôi bằng hai
con mắt đen và rỗng, mà hai hàm răng thì nhe ra một cách chế giễu độc địa. Tôi
có cái cảm giác khó chịu hình như “nó” biết cả những điều tôi nghĩ thầm. Tôi
sinh ác cảm với “nó” và chắc hẳn “nó” cũng không ưa gì tôi. Cái vật trơ trơ kia
không ngờ lại làm tôi băn khoăn đến thế. Tôi lấy đủ các nhẽ để tự nhủ mình cũng
không xong, mà nỗi lo ngại của tôi mỗi lúc một thêm nặng nề như đè nén mãi lòng
mình.
Tối hôm ấy, thấy bứt rứt trong người, để Thao ngồi học một
mình, tôi đi nằm trước. Anh Lịch ở phòng bên cạnh vào nói mấy câu chuyện rồi lại
ra ngay. Tôi nằm đó chừng đến hơn một giờ đồng hồ mới ngủ đi được. Nhưng cả
trong giấc ngủ, tôi vẫn bị cái đầu lâu kia ám ảnh hoài. Tôi nằm mơ toàn thấy những
đầu lâu với xương người, hay những cái ghê sợ hơn thế. Một lần tôi hốt hoảng thức
dậy thì ngọn đèn cây trên bàn học anh Thao đã tắt, trong nhà tối đen như bưng lấy
mắt, bên ngoài cũng vậy, vì tôi cố tìm cái cửa sổ chấn song sắt cũng không
trông thấy đâu. Bên cạnh tôi anh Thao chừng đã ngủ say, tiếng thở đều và thong
thả. Thỉnh thoảng một tiếng ngáy ở buồng anh Lịch lại đưa sang. Mọi vật quanh
nhà đều im lìm. Không một tiếng lá bay, không một hơi gió thoảng. Tôi muốn quên
mà không thể quên cái đầu lâu kia được. Tôi thấy hình như nó có tri giác, nó “vẫn
còn thức” và trong bóng tối, đang nhăn răng tráo mắt nhìn sự kinh khiếp của
tôi.
Bỗng nhiên tôi thấy lạnh tái người đi. Từ phía bàn giấy anh
Thao, tôi chợt nghe thấy những tiếng ken két như hai hàm răng nghiến vào nhau.
Tiếng ấy nghe mỗi lúc một rõ dần, mà lâu đến gần một phút. Trước tôi còn muốn
tin là tiếng anh Thao nghiến răng trong mơ. Nhưng Thao nằm bên cạnh tôi, mà tiếng
kia thì rõ ràng ở bàn giấy đưa lại. Tiếng nghiến răng vẫn không dứt, nghe ra giận
dữ và ghê gớm hơn lên... Tôi vội nắm lấy cánh tay anh Thao, hết sức lay. Thao
thức dậy hỏi thì tiếng nghiến răng lại ngừng bặt. Tôi ghé tai Thao nói rất nhỏ:
- Này Thao ạ, tôi vừa thấy một việc lạ quá!
- Ở đâu?
- Ở cái đầu lâu.
- Có lẽ nào?
- Cứ để yên mà nghe.
Rồi chúng tôi không nói gì thêm, lắng tai nghe ngóng một lúc
thì lại thấy như trước, tiếng nghiến răng cứ trước nhỏ, sau to dần. Thao liền đứng
phắt lên, chạy lại bàn đánh diêm thắp đèn: cái đầu lâu vẫn nguyên chỗ cũ, nhưng
lúc ấy ngoảnh mặt nhìn về phía giường tôi nằm.
Chúng tôi nhìn khắp nhà một lượt. Không có gì lạ. Cửa sang
phòng anh Lịch vẫn đóng kín. Của sổ tuy không có cánh, nhưng có chấn song sắt,
mà cái bàn giấy của Thao kê xa đó những năm sáu bước, áp vào bức tường đối diện
với giường của chúng tôi.
Thao bảo tôi rằng những tiếng vừa rồi là tiếng chuột gặm,
nhưng chính anh cũng biết nhà chúng tôi không có qua một con chuột nào. Và cái
tiếng lúc nãy nghe to, nghe rõ một cách khác thường lắm.
Thao thấy tôi lo ngại cũng không bình tĩnh được, nhưng anh cố
tìm lời an ủi tôi.
Chúng tôi để đèn rất lâu chờ xem, song không thấy gì. Nhưng
khi tắt đèn lên giường nằm chưa đầy nửa giờ, thì cái tiếng nghiến răng lúc nãy
lại bắt đầu, mà lần này thêm dữ dội.
Lúc ấy, cây đèn để ngay cạnh giường ngủ. Tôi chập ba que diêm
làm một bật lên thắp. Trông sang bàn giấy thì cái đầu lâu đang lắc lư như thằng
phỗng nhựa của trẻ con chơi!
Ngô Đàm bỗng phì cười lên thì Chung có ý không bằng lòng.
Quả thế, cái đầu lâu cứ nhăn nhở, lắc lư đến nửa phút. Mà chả
có gì đáng cười hết. Chính anh Thao là người không sợ gì cả, lúc ấy cũng phải
kinh ngạc mà nhìn tôi.
Suốt đêm ấy, chúng tôi không ngủ, cứ để đèn ngồi rình thì lại
không thấy xảy ra việc gì nữa.
Sáng hôm sau (tức là hôm qua) chúng tôi nói chuyện ấy cho anh
Lịch nghe thì anh cũng không tin. Sau thấy tôi nhất định nài anh Thao đem cái đầu
lâu vứt đi, Lịch mới cho là chuyện có thực. Nhưng anh nói:
- Đã thế thì để đêm nay tôi cũng rình xem, rồi có thế nào vứt
đi cũng không muộn.
Thì đêm qua cũng lại giống đêm trước. Cứ tắt đèn được một lúc
lại thấy cái đầu lâu nghiến răng ken két mà thắp đèn lên lại thôi.
Tôi nhân đọc các sách anh cho mượn và gần đây lại được đọc một
đoạn dật sử về hồi đại cách mệnh Pháp, thấy kể chuyện những thủ cấp sau ba, bốn
giờ vẫn còn sống được, nên tôi càng cho việc cái đầu lâu kia nghiến răng là một
việc phi thường. Bây giờ thì tôi tò mò hơn là khiếp sợ. Tôi bảo Thao cứ để yên
cái đầu đấy và đến rủ anh ngủ ở nhà chúng tôi một tối xem. Tôi vẫn biết anh hay
để ý đến những thứ chuyện kỳ dị này lắm”.
Ngô Đàm vui lòng nhận lời. Tôi cũng ngỏ ý muốn đi với anh ta
một thể và cùng hẹn đến tối sẽ có mặt ở nhà anh Chung.
Lúc Chung ra khỏi, Đàm xoa tay mỉm cười một mình. Tôi hỏi ý
anh về chuyện vừa rồi ra sao, thì Đàm chỉ nhún vai, nói:
- Tôi sợ không gặp được cái ly kỳ như anh Chung nói, không
khéo lại chỉ là một câu chuyện buồn cười thôi. Nhưng dẫu sao, ta cứ đi xem,
không biết đâu mà nói trước được.
Bảy giờ rưỡi hôm ấy chúng tôi đến nhà thì các anh Thao, Chung
và Lịch đang ăn cơm ở phòng vẽ của Lịch. Đàm đứng xem mấy bức vẽ than của Lịch
được chừng năm phút thì các anh ăn xong. Chúng tôi sang cả phòng bên kia nói
chuyện.
Trước hết, Đàm đi lại bên bàn cầm cái đầu lâu ngắm nghía mãi.
Mặt anh có vẻ nghiêm trang như nhà thông thái đang khảo cứu, nhưng đôi mắt tươi
cười một cách hóm hỉnh. Bỗng anh quay lại hỏi Lịch:
- Anh có thấy gì lạ ở cái đầu lâu này không?
- Không.
- Giá lúc anh cầm nó lên xem, anh chú ý chút nữa, thì thấy bốn
chiếc răng trong cùng hà gần một nửa.
Lịch ngạc nhiên hỏi:
- Nhưng sao anh lại biết tôi đã cầm lên xem?
- Có gì là lạ. Anh cầm lên xem cẩn thận lắm, nhưng lúc chực bỏ
cái quai hàm dưới ra để xem bộ răng thì trượt tay suýt đánh rơi xuống bàn. Có
phải không?
- Phải. Nhưng sao anh biết?
- Tôi thường đọc sách của Conan Doyle, nên cũng tập được một
đôi chút tỉ mỉ. Những vết đen này là bởi than vẽ ở ngón tay anh ra... Chỉ cần để
ý một chút cũng thấy được. Anh đang vẽ ở phòng ngoài chắc chợt nghĩ đến cái đầu
lâu, nên vào xem thử chứ gì?
Rồi Đàm đi khắp gian nhà, cúi nhìn các chân tường một cách cẩn
thận như người đi tìm một vật quý đánh rơi. Anh lại nhờ Lịch cầm đèn ở phòng
bên sang, còn tự anh cũng cầm cây đèn bên cạnh cái đầu lâu, và bảo dẫn đi xem
chung quanh nhà.
Bên ngoài tối như mực. Trên trời mây ám không có một ánh sao
nào. Ngoài một hàng dóc rào mau, xa xa thấy một đám sáng chiếu lên: đó là thành
phố Hà Nội. Sau một cuộc tìm xét rất kỹ càng, nhưng rất vô ích, Đàm đạo mạo như
một nhà trinh thám, bước vào trong nhà rồi xoa hai tay vào với nhau. Thốt
nhiên, như sực nghĩ ra điều gì, anh nói:
- Tôi khờ quá, không đem cái đèn bấm ở nhà tôi lại.
Thao nói:
- Hay để tôi lên phố mượn?
- Anh chắc có mượn được không. Thôi để tôi về nhà lấy vậy.
Phiền thực, nhưng thế chắc chắn hơn.
Lúc Đàm trở lại thì đã gần mười một giờ: anh đi nửa đường thì
xe đạp nổ bánh.
Chúng tôi để sẵn diêm với đèn gần tầm tay. Cái đèn bấm Đàm
trao cho Chung, còn anh ta thì ngồi ở một cái ghế thấp bên cạnh cửa sang phòng
anh Lịch. Trước khi tắt đèn, Đàm dặn chúng tôi không ai được làm gì, nếu không
có lời anh ấy bảo.
Đèn tắt. Bóng tối dầy đặc trong nhà. Tôi đưa tay lên tận mắt
cũng không trông thấy. Thao với Lịch nằm sát vách, còn Chung và tôi thì ngồi ở
mép giường. Không ai nói qua một lời. Tôi nghe hơi thở của Chung thì biết anh
ta hồi hộp lắm.
Cái lo ngại dần dần ám đến. Mà sự yên lặng ở gian phòng có
nhiều người này lại càng có vẻ khác thường. Chúng tôi cùng hết sức lắng tai, tiếng
đồng hồ đeo ở tay anh Lịch nghe rõ mồn một. Tôi đếm tiếng tích tắc để biết thời
giờ, nhưng mãi cũng sinh chán, và trong lòng lúc ấy thấy nôn nao một cách lạ.
Tâm linh hình như bị kích thích và hình như báo cho tôi biết trước có một điều
ghê gớm sắp xảy ra...
Có lẽ chúng tôi ngồi đó đã ngót một giờ, có lẽ lâu hơn nữa;
mà tịnh không thấy một tiếng động nào hết. Hai anh Thao và Lịch chừng như đã ngủ,
tôi đưa tay định xem họ còn thức không thì bỗng Chung nắm chặt lấy cánh tay
tôi, nói khẽ quá đến nỗi tôi phải đoán ra chứ không nghe rõ:
- Im! Nghe!
Tôi chú ý nghe thì quả nhiên thấy có tiếng ken két nghiến
răng thực. Lúc ấy tôi mới hiểu cái khiếp sợ của Chung. Lúc ấy tôi mới thấy rõ
ràng cái ghê rợn của người gặp ma quái. Tay Chung vẫn nắm chặt lấy cánh tay
tôi, nhưng hơi run run. Còn tôi thì cứ muốn quát to lên, quát rất lớn để phá
tan cái yên lặng ghê gớm lúc đó.
Thấy hơi nóng ở sau gáy, tôi biết hai anh Thao và Lịch đã ngồi
dậy. Tôi tráo mắt nhìn bóng tối đen đặc và mỗi lúc tưởng thấy hình thù dị thường
hiện lên.
Tiếng nghiến răng càng lâu càng rõ thêm. Thỉnh thoảng ngừng lại
một giây rồi lại nghiến nữa. Đàm ngồi trên chiếc ghế gần đó có lẽ cũng sinh nát
đảm: chúng tôi không trông thấy anh, mà đợi mãi cũng không thấy anh bảo sao.
Hốt nhiên, từ phía đầu lâu, một tiếng quái gở gào lên trong
những tiếng cười nghe sởn tóc gáy. Mọi người đều vùng dậy, tôi không đợi anh
Đàm nữa, vớ lấy diêm đánh, mà Chung cũng bật đèn bấm lên.
Cái đầu lâu lắc lư như điên cuồng, và ngay cạnh đấy, một vật
đen ngòm đang giẫy giụa. Mắt chúng tôi khi đã đỡ chói thì nhận ra đó là một con
mèo đen bị giữ trong tay Đàm.
Đàm lúc ấy, tay thì giữ mèo trên bàn, nhưng người thì ở dưới
gầm bàn. Anh cả cười lách chui ra, vừa gặp lúc chúng tôi ồ cả lại. Con mèo
giương mắt kinh hãi nhìn chúng tôi. Một con mèo to, đen, mà gầy, lông mọc xờ xạc
không đều và không mượt.
- Đấy (lời Đàm nói) cái quái dị mấy hôm chỉ là ở con vật đói
khốn nạn này mà ra cả. Các anh nên nhớ rằng cái đầu lâu vô tri giác kia còn mới,
mới luộc xong, vẫn còn hơi thịt... Từ lúc anh Chung mới kể chuyện, tôi đã ngờ
thế... Đến lúc xem lại cái đầu lâu với cái cửa sổ không có cánh này, thì tôi đã
hơi chắc. Mà bây giờ thì đã nắm được, hì! Đã nắm được “điều huyền bí” ở trong
tay.
Sự lo sợ của chúng tôi bấy giờ lại đổi ra sự kinh ngạc. Vì có
ngờ đâu câu chuyện kỳ quái ấy chỉ gây nên bởi một con mèo.
Khi Đàm với tôi ra về, bạn tôi cười bảo tôi:
- Tôi đã sợ ngay từ lúc còn ở nhà kia, sợ rẳng chỉ gặp chuyện
buồn cười thôi, chứ cái “phi thường” là một sự hiếm có lắm. Giá hôm nay đi với
anh Nhị Linh thì câu chuyện này sẽ là câu chuyện khôi hài, mà tên chuyện sẽ là
“chuyện con mèo”. Nhưng lại đi với anh... chắc anh lại xoay nó ra thành chuyện
ghê sợ”.
Câu chuyện trên tàu thủy
Nhân nói đến những sự nhũng nhiễu trên tầu thủy, người đàn ông trạc năm
mươi tuổi, mặc áo bông đoạn, đeo kính trắng gọng vàng, trông ra vẻ một ông ký về
hưu, nằm hút thuốc phiện trong phòng hạng ba của chiếc tầu chạy Hòn Gai, có kể
cho tôi câu chuyện như sau.
Tôi biết một người kẻ cắp rất giỏi, tên là hai Nhiêu, người
Ninh Bình. Bác ta rất thông minh, thiệp nhã, lại “quân tử” nữa. Quân tử trong
phường kẻ cắp - cố nhiên. Không bao giờ bác thèm lấy của người nghèo. Ăn cắp đối
với bác không phải là một nghề kiếm cơm, đó chỉ là một cách giải trí của tay
chơi, hay có thể nói là một... “nghệ thuật”. Bởi thế việc lấy cắp càng khó,
càng nguy hiểm, hai Nhiêu càng thích. Bác ta khi đã “nhằm” món nào, tất món ấy
phải lắm tiền, mà đã cố ý lấy tất không bao giờ hụt.
Từ lúc mới quen nhau do một sự ngẫu nhiên - quen nhau kể đã
có trên mười năm nay - hai Nhiêu không giấu tôi cái chí hướng thích ăn cắp ấy.
Nằm đối diện bên bàn đèn, bác ta thường đem những “công cuộc hành động” của
mình thuật lại với tôi. Nhiều chuyện ly kỳ và lý thú lắm, kể không xiết được.
Nhưng tôi chỉ chú ý đến chuyện này, vì nó khác thường hơn; hai Nhiêu thường nhắc
lại luôn và gọi đó là một cái khờ đáng tức cười, một sự “thất bại” của mình lần
thứ nhất.
Hồi ấy hai Nhiêu đang trổ tài nghệ trong mấy sòng bạc ở Hải
Phòng. Bác ta thí nghiệm ngón khôn khéo trên túi ai là cái túi ấy sẽ phải rỗng.
Nhưng bác lại có tính máu mê, được đồng nào của con bạc thì lại nướng cho nhà
cái hết. Đang lúc lập một mưu “chưa xuất bản” để ăn to, bỗng có tin nhà ra báo
cho biết rằng vợ hai Nhiêu ốm nặng.
Là ăn cắp, nhưng cũng là chồng tốt, hai Nhiêu phải đến vay tạm
tôi dăm đồng để về thuốc thang cho vợ. Rồi ngay chiều hôm đó đi tầu thủy xuôi
Nam. Xuống đến tầu, công việc thứ nhất của bác là đi xem xét mọi nơi: bác ta
mong gặp được cái may có thể giúp mình được ít tiền nữa. Nhưng hành khách tuy
đông mà không người nào có “máu mặt”. Phần nhiều là người buôn bán nhỏ, túi tiền
không xứng đáng với tài hoa của bác; hay những người phu mỏ ốm dở trở về. Hai
Nhiêu thấy họ lại cẩn thận đề phòng giữ gìn các gói hành lý hoặc đồ đạc và thấy
một vài tên ăn cắp quèn lảng vảng trong đám ấy thì bĩu môi ra dáng khinh bỉ.
Bác thong thả đến ghế ngồi trên mép chiếu ở gần buồng máy, uể oải mượn cái điếu
cầy rít một hơi, rồi ngả lưng dựa vào cái cột sắt ngủ gà ngủ gật cho đến khi
trong tầu lên đèn.
Bỗng những tiếng ồn ào gần đó nổi lên. Anh chàng mở độc một mắt
ra coi rồi lại nhắm lại. Nhưng tiếng ồn ào lại thành tiếng quát mắng lẫn tiếng
van lơn. Bác khó chịu, phải mở cả hai mắt ra thì thấy người mại bản đang xỉa
xói một người nhà quê thiếu tiền tàu và nhất định đuổi người ta xuống. Hai
Nhiêu bực mình quá, đứng lên can thiệp, thì người nhà quê kia lạy lấy lạy để, vừa
nhăn vừa kêu:
- Bẩm ông, con về Nam nhưng thiếu mất một hào. Con nói với
chú ấy cho chịu đến khi lên bến, con vay con trả, mà chú ấy không nghe.
Tên Khách thì cứ luôn mồm:
- Cái lày ti tầu, không cố tền thì ti làm gì? Không! Cái lày
phải xuống tây, không có lôi thôi.
- Thì người ta đến bến là có tiền, việc gì mà phải làm dữ thế.
Hay là giữ lấy hành lý của người ta để người ta chuộc sau không được ư?
Tên Khách lườm:
- Cái nị không có piết! Hằng lý ló có cái lày thì lấy làm gì!
Người nhà quê chỉ có một cái lồng gà rỗng, với trong đó một
gói mo chừng đựng cơm nắm, và hai cái nồi đất mới, miệng bưng bằng giấy nhật
trình.
Hai Nhiêu đã hối hận vì trót dây vào việc này, lại cứ bị người
nhà quê bíu lấy kêu nài mãi.
- Ông làm ơn nói với chú ấy hộ. Con thế nào cũng vay trả chú ấy,
chứ bắt con xuống bến này bây giờ, thì khổ cho con quá. Con lạy ông.
Còn người Khách thì cứ:
- Lạy ông! Lạy ông! Cái lày cố tền ti tầu thì ti tầu mà không
cố thì từng ti... lạy ông cái gì cơ lớ!
Rồi hăm hở toan túm lấy ngực người đàn ông kia lôi đi.
Sự bất bình liền sôi trong máu hai Nhiêu. Bác ta chợt thấy
mình là người anh hùng kẻ cả, liền gạt anh Khách ra, rút một tờ giấy bạc quăng
vào mặt nó, hách dịch nói:
- Bán một cái vé về Nam Định, giữ lấy một hào của người này nữa,
rồi trả lại tiền.
Tên Khách đưa vé xong vừa lẩm bẩm quay đi thì hai Nhiêu giữ
vai kéo hắn lại:
- Từ nay phải nhã nhặn với khách đi tầu chút nữa, nghe không?
Nói đoạn, bác ta về chỗ cũ ngồi, làm bộ không thèm để ý đến
những câu trầm trồ khen ngợi của mọi người gần đó.
Người nhà quê thì cám ơn đi, cám ơn lại, đưa cái điếu cầy mời
Nhiêu hút và xin miếng trầu của một bà ngồi bên cạnh mời Nhiêu ăn. Lại đem nông
nỗi làm ăn vất vả kể với Nhiêu để che sự hổ thẹn thiếu tiền tầu lúc nãy. Lúc
hai Nhiêu thoát được những lời tử tế thái quá ấy thì người nhà quê lại đem cái
lồng gà đến bên như ý gửi mình coi hộ, rồi đi ra đằng lái tầu.
Hai Nhiêu ngồi bật cười một mình, không ngờ đâu người mà ai
cũng chê cũng ghét, nay lại là người được người ta yêu trọng đến thế. Bác ta lẩm
bẩm nói:
“Giả thử ngài có của nhét chật túi chứ không có mấy cái nồi đất
kia, thì có lẽ ngài phải chửi đến mấy đời ông tổ nhà tôi chứ chẳng không”.
Rồi nhớ đến những ngón khôn khéo, gian giảo của bác ta từ trước
đến nay, bác ta thấy việc vừa rồi làm cho trái tim kẻ cắp của bác hơi cảm động.
Không phải là vì bác đã làm được một điều thiện - thiện với chẳng thiện thì
Nhiêu có cần gì? - nhưng vì thấy cái cảm giác đầu tiên được những người hiền
lành kia tin bác một cách chân thực. Hai Nhiêu nghĩ bụng:
“Hoài của! Giá bọn này nhiều tiền thì chỉ đưa tay một cái
cũng lấy được như bỡn, không phải lừa lọc, rình mò”.
Đợi mãi người nhà quê không trở lại, hai Nhiêu ngoảnh nhìn bốn
phía thì thấy người ấy nằm ngay cạnh đó, đã ngủ một giấc bình yên! Bác ta bĩu
môi bật ra một tiếng cười khẽ rồi cũng dẹp chỗ ngủ nốt.
Sáng hôm sau thức dậy, hai Nhiêu đã quên việc tối hôm qua. Tầu
tới Nam Định, bác ta vừa bước lên bến, thì người nhà quê tay xách cái lồng gà rỗng,
đã đứng chờ đó và mời bác lên xơi với hắn một chén nước cám ơn.
- Đến đây thì chúng tôi đã có nhiều người quen, chúng tôi sẽ
trả lại số tiền ông cho giật hôm qua với lại xin ông để chúng tôi đền đáp lại
ông một chút.
Hai Nhiêu nóng về Ninh Bình ngay nhưng từ chối thế nào người
nhà quê cũng không nghe:
- Chả mấy khi gặp người tử tế như ông, nếu ông không cho tôi
được trả ơn, thì tôi ân hận mãi... Nào, mời ông, xin ông đừng từ chối, phụ lòng
tôi.
Thấy vẻ chân thực của người nhà quê và biết không khi nào họ
để cho mình đi ngay, hai Nhiêu phải ưng theo vậy.
Người nhà quê mừng rỡ:
- Thế thì quý hóa quá! Chúng tôi chẳng dám phiền giữ ông
lâu...
- Nào có gì mà bác phải bày vẽ ra...
- Không, nếu không có ông thì hôm qua chúng tôi bị rày rà lắm.
Câu lễ phép đi, câu lễ phép hơn đáp lại; cứ thế đến chừng năm
phút, khi hai người bước tới hàng cơm gần đó thì câu chuyện kết luận bằng một
câu không lễ phép mấy, nhưng nghe cũng vui tai:
- Bà hàng đâu, bà dọn cho tôi một mâm rượu thực tươm tất ấy
nhé, mà làm mau lên, ông quý khách của tôi vội.
Hai Nhiêu ngạc nhiên, bụng bảo dạ:
“Có lẽ nào một người đi tầu thiếu tiền mà lại dám tiêu rộng
rãi đến thế, hay là họ lại định nhờ khéo mình thêm một bữa cơm nữa đấy?”.
Nhưng thấy bà hàng ra chiều quen thuộc người nhà quê, nên
Nhiêu ta cũng yên bụng. Uống xong một bát nước, người nhà quê bỗng gọi bảo một
người nhà quê khác đứng chờ đó, đưa cho hắn cái lồng đựng gói mo cau với hai
cái nồi đất:
- Chú Ba về làng trước, đưa cái này cho bu nó cất đi, tôi còn
bận một chút, xong về ngay.
Rồi quay lại bảo hai Nhiêu:
- Nào bây giờ mời ông vào hàng, xơi với tôi chút cơm rồi tôi
lại xin tiễn ông lên đường không dám giữ.
Cơm rượu xong, thấy người nhà quê mở hầu bao ra chi tiền cơm,
hai Nhiêu không hiểu ra sao, toan hỏi nhưng sợ bất tiện. Đến lúc đưa chân ra
ga, người kia lại nhất định nài lấy vé cho mình. Hai Nhiêu lại càng kinh ngạc.
Người nhà quê thấy vậy mỉm cười và thong thả nói:
- Thưa ông, ông lấy làm lạ cũng phải. Nhưng việc thiếu tiền
hôm qua, chỉ là một mẹo đấy thôi. Tầu Chấn Dinh này có tiếng là lắm kẻ cắp.
Chúng tôi có tiền mang theo mà không làm thế, thì giữ sao được của mình?
- Vâng, nhưng tôi thấy ông chỉ mang có hai, ba đồng thì tội
gì phải thế?
- Nếu hai, ba đồng thì cất đâu chẳng được. Đây tôi lại dồn một
món tiền lớn về để mua cái phó lý cho tôi, lo cưới vợ cho thằng cháu, lo khao,
lo vọng...
- Ồ thế ra...
- Vâng, tôi về chuyến này đem những ngót năm trăm bạc, mà để
kẻ cắp biết, thì tôi có khi cũng không về được tới nhà.
- Nhưng... ông giắt trong mình thì...
- Chết! Giắt trong mình nguy hiểm lắm. Tôi phải bỏ vào một
cái nồi đất trong cái lồng chú nó đem về ban nãy đó.
Rồi vừa cười, người nhà quê vừa tiếp:
- Cái lồng gà với mấy cái nồi, mà lại của một anh nhà quê
không có lấy một hào để trả tiền tầu... ông tính còn kẻ cắp nào để ý đến nữa. Nếu
tôi không nghĩ đến kế ấy thì ngủ yên sao được... mà nếu không làm thế thì sao
tôi được gặp người quý hóa như ông.
Xe lửa về đến ga, hai Nhiêu bước lên toa ngồi mà vẫn còn
choáng người đi vì tiếc của. Bác ta tìm hết tiếng độc địa để rủa cái trí khôn
ngu ngốc của mình và tự hứa rằng lần sau đi tầu, không nên coi thường những cái
lồng gà trong đựng có hai cái nồi đất.
Một người hiếm có
Anh ta là một người học trò rất lười, nhưng rất thông minh. Ngồi trong lớp,
một phần tư trí nghĩ để vào lời giảng của thầy còn ba phần tư thì mơ tưởng. Giờ
tập đọc, mọi người cắm cúi vào sách vở thì anh cắm cúi xem tiểu thuyết. Nhưng
được cái ứng đối thì không ai bằng. Nghe một câu thầy giáo chợt hỏi, liếc mắt
qua vào trang sách trên bàn, thế là đủ cho anh ta hiểu nên trả lời thế nào cho
đúng. Bài nhà trường không đời nào chịu học. Nếu thầy gọi lên đầu tiên thì anh
ta không nói được câu nào hết, nhưng nếu đã có ba bốn anh lên bảng trước thì
anh ta vừa nghe vừa học vội một lượt là đọc bài cũng khá xuôi.
Học hết năm thứ hai ban Thành chung, anh bỗng nhiên bỏ trường.
Ra đời cũng khéo xoay xở như lúc còn đi học. Anh ta làm được
đủ các việc: dạy tư, làm thợ chụp ảnh, vẽ kiểu nhà, thầu khoán... Cứ mấy hôm
trước chưa hiểu biết công việc được mấy tý, mấy hôm sau đã ra người thành thạo
trong nghề.
Nhưng anh chẳng theo đuổi được việc gì lâu. Lần đầu, gặp nhau
ở Hà Nội (hồi ấy tôi cũng mới ở ban Trung học ra) tôi hỏi anh thì anh vui vẻ
đáp:
- Tôi ấy à? Tôi giúp việc cho một trạng sư.
Cách ba bốn tháng nữa tôi thấy anh vội vã đi ở đầu phố Hàng
Ngang lại. Anh đạo mạo nói với tôi:
- Bây giờ thì tôi buôn to. Tôi đang tính mở một đại lý độc
quyền bán xà phòng cho khắp Đông Dương... Có lẽ buôn thêm các hàng tơ lụa gấm
vóc.
Lần khác tôi thấy anh mua từng đệm giấy đánh máy và cắp dưới
nách những sách về kế toán, về nhà băng, với một vài cuốn dạy thế giới ngữ.
- Thế nào anh Sáng? - Sáng là tên anh ta - Cửa hàng có chạy
không?
- Cửa hàng nào?
- Đại lý độc quyền xà phòng ấy mà!
- À! Chạy lắm chứ. Nhưng tôi nhường lại cho mấy người bạn rồi.
Tháng trước các anh ấy đến Hà Nội chẳng có việc gì làm hết.
Rồi mỗi lúc thay một nghề khác, người con trai ấy ngược xuôi ở
Hà Nội trong cảnh ồn ào náo động, lúc nào cũng nhanh nhẹn, tháo vát, lúc nào
cũng tươi cười. Anh ta coi việc sống ở đời như người đánh tam cúc mua vui, thua
ván này, bày ván khác.
Tôi không đến chơi nhà Sáng bao giờ, vì anh ta rất hay đổi chỗ
ở. Gặp nhau chỉ trong những lúc tình cờ ở giữa phố, cùng đứng lại bắt tay, nói
đôi ba câu chuyện, rồi mỗi người lại đi một ngả đời riêng.
Tôi còn gặp Sáng bốn năm bận nữa, khi thì ngồi trên xe tay cất
mũ gọi với tôi hỏi thăm sức khỏe, khi thì đến cạnh vỗ vai tôi trong một rạp chiếu
bóng, khi thì chắp tay sau lưng miệng huýt còi, đi lững thững trên bờ Hồ Gươm.
Vẻ mặt sáng sủa, trẻ trung của anh lúc nào cũng hớn hở. Tôi nghĩ bụng: Anh
chàng này thực là người sung sướng, thấy cuộc đời cái gì cũng đáng yêu.
Lần sau cùng gặp anh năm ấy, tôi thấy anh ăn mặc rất sang, bước
trên chiếc xe hơi lộng lẫy xuống cùng một thiếu nữ diễm lệ, nhan sắc cao quý và
thông minh. Anh chạy lại bên tôi, vồn vã như tìm thấy một người thân xa cách
lâu ngày, rồi giới thiệu:
- Anh Lê Văn, làm báo, cô Kiều Trang, một người bạn gái của
tôi.
Tôi nhìn Sáng tỏ ý ngợi khen anh, và đưa mắt hỏi xem “người bạn
gái” kiều diễm ấy là người thế nào. Sáng mời cô kia vào hàng Gôđa trước rồi đi
cạnh tôi theo sau. Anh se sẽ nói:
- Anh ạ, tôi vừa viết xong một cuốn văn.
- Ồ! Lại làm văn sĩ nữa.
Anh gật:
- Kịch sĩ. Tôi vừa soạn được một vở kịch để tặng riêng cô Kiều
Trang. Cô là một nhà nghệ sĩ diễn kịch có đại tài... Tôi được quen biết cô cũng
do một buổi diễn kịch mà cô đóng vai chính...
Anh bắt tay tôi, xin lỗi, rồi đến bên người thiếu nữ, nhã nhặn,
săn sóc đưa đi xem các đồ trang sức trong căn hàng.
Hồi ấy anh ta đang làm phái viên đi rao hàng cho một hãng xe
hơi.
Từ đó, bẵng đi đến hơn ba năm, tôi không trông thấy Sáng đâu
cả.
Tôi thì vẫn đi theo cuộc đời cầm bút bình thường của tôi. Còn
Sáng có lẽ vẫn sống một cách kỳ khôi trong cuộc đời bất định của anh, một cuộc
đời uyển chuyển đầy rẫy những sự mới lạ.
Tôi cho anh ta là một người lãng mạn hiếm có, không chịu ở
lâu trong một địa vị nào; mà tâm tính với tài năng thì thích hợp được với đủ
các hoàn cảnh, các công việc của đời. Sáng cũng tự biết mình như thế. Anh thường
nói: “Tâm với trí tôi như nước, đổ vào bình nào cũng rất dễ, mà lấy theo hình
nào cũng được”.
Bỗng một hôm, trong một hiệu cao lâu nhỏ phố Hàng Buồm, tôi
chú ý nhìn một người thiếu niên quần áo lôi thôi, mũ chụp xuống gần mắt. Chàng
ta đang cắm cúi đọc một tập báo để bên cạnh mấy bát đồ ăn nguội dần. Lúc người ấy
cầm đũa ngẩng đầu lên, tôi nhận ra thì chính anh Sáng. Nhưng không là anh Sáng
chững chạc, xinh trai tôi gặp hồi trước nữa. Nước da anh ngăm ngăm đen, vẻ mặt
như rầu héo đi; trong đôi mắt vẫn lanh lẹ thông minh, tôi thấy phảng phất có một
vẻ âu sầu.
Tôi lại gần vỗ vai thì anh tươi cười ngay, đứng lên gọi hầu
sáng lấy thêm thức ăn và hỏi tôi:
- Anh mạnh chứ?
- Mạnh. Còn anh?
- Ồ! Tôi thì bao giờ cũng vậy, khỏe mạnh lạ thường mà “mần
công chuyện” cũng nhiều lạ thường. Đời vui lắm anh nhỉ!
Giọng nói mạnh bạo, câu nói nhanh mà vui cùng với những tiếng
cười giòn, thực thà, và đôi mắt linh động ấy lại khiến tôi hơi ngạc nhiên cho
cái vẻ buồn rầu tôi thấy trên mặt anh mấy phút trước.
Tôi hỏi Sáng:
- Lâu nay anh ở đâu mà tôi không gặp?
- Ở nhiều nơi lắm: Sài Gòn, Mỹ Tho, Phnômpênh, Tourane, rồi
Huế, rồi Thanh, rồi bây giờ lại Hà Nội.
Anh cho tôi biết rằng trong khoảng ba năm trời nay anh có vất
vả hơn trước, nhưng anh cũng giầu có hơn. Làm giầu để mà sung sướng, để mà yêu
đời. Anh biết được rất nhiều người mà nhất là biết thêm được nhiều nghề mới:
- Anh ạ, tôi muốn sống gấp bốn năm người khác, nghĩa là muốn
trong ngót ba mươi năm của tôi, tôi thấy, tôi nghe với tôi làm bằng người sống
tám chín mươi năm... Tôi học ở nhà trường ít là vì tôi muốn ra đời sớm. Ở trường
tôi còn học riêng cho biết rộng thêm nhiều... Bây giờ tôi theo đuổi mỗi việc một
hồi ngăn ngắn, nhưng việc nào tôi làm cũng chu đáo, cũng hoàn toàn như người đã
sống trong nghề lâu năm. Tôi làm xe hơi ở Phnômpênh, làm thư ký lục sự ở Sài
Gòn, làm kế toán ngân hàng, rồi có lúc làm cả bầu hát nữa. Lúc nào cũng hết
lòng, lúc nào cũng hăm hở. Nếu có một ngày kia tôi hết muốn hoạt động là tôi khổ
lắm. Không hoạt động nữa là chết, thà quyên sinh đi còn hơn!
Anh nói những câu đó một cách tự nhiên và miệng vẫn tươi cười.
Nhưng tôi đoán như trong đó có một vài điều lo âu u ẩn.
- Thế nay anh định làm gì ở đây?
Sáng vừa cho thìa làm tan đường trong cốc cà phê, vừa yên lặng
mỉm cười:
- Tôi bây giờ ấy à? Tôi định mở ở Hà Nội một phòng xem tướng
số.
Rồi không để ý đến sự kinh ngạc của tôi, anh nói luôn, không
ngừng:
- Tôi nói thật đó. Tôi xem tướng giỏi lắm. Ít ra cũng đè bẹp
được tụi thầy Tầu ở đây. Vì tôi có sách, có phương pháp hẳn hoi. Đây, tờ báo
tôi mới đăng mấy câu rao hàng, tôi đọc anh nghe thử:
“Giáo sư Huỳnh Ba, số... Đường Thành, Hà Nội
Thầy tướng số đại tài mới xuất hiện
Biết việc trăm năm về trước
Và năm trăm năm về sau
Đoán định theo phương pháp khoa học tối tân.
Người hoài nghi đến đâu cũng phải tin phục.
Tiếp khách từ 10 giờ đến 12 giờ và từ 16 giờ đến 20 giờ”.
- Giáo sư Huỳnh Ba, không phải là một tên vu vơ. Chỉ trong
vòng một tháng là cả Hà Nội sẽ biết tiếng giáo sư Huỳnh Ba, mà công cuộc của
tôi sẽ có kết quả rất vững.
Lúc từ giã Sáng ra về, tôi vẫn còn lấy làm lạ cho con người
táo bạo ấy. Việc đời đối với tôi là một việc khó khăn, phải thận trọng từng ly
từng tý, thì đối với anh ta lại như một trò chơi. Anh coi việc gì cũng thường,
cũng dễ, mà dúng tay vào việc gì cũng tin là thành công.
Năm giờ chiều sau hôm gặp anh ở Hàng Buồm, tôi tìm đến Đường
Thành, mắt đã trông ngay thấy tấm biển lớn trên có tên “Giáo sư Huỳnh Ba,
thầy tướng số đại tài” kẻ bằng chữ đỏ. Tôi bước vào, một phòng khách rộng
và lịch sự, đồ đạc như mới sắm, thì ở đấy đã có một người thiếu phụ ăn mặc xa
hoa ngồi đợi. Bên kia bàn, một người đàn ông đang giở đọc mấy tờ tạp chí.
Bên trong, sau bức bình phong, những tiếng nói chuyện đưa ra,
đều đều và nhỏ. Một lát, một người vận âu phục, dáng bệ vệ bước ra, đi trước một
ông trạc hơn bốn mươi tuổi, đeo kính trắng, tay cầm bút, vẻ nghiêm trang như một
nhà tu hành. Người này cúi chào mấy người khách đang chờ và đưa người bệ vệ ra
tới cửa. Tôi đã toan đứng dậy hỏi thì người đeo kính trắng cười và lơ lớ nói bằng
giọng Sài Gòn:
- Mời ông Lê Văn ngồi chơi đó, tôi coi cho bà khách đây rồi
xin tiếp ông sau. Mời bà vô.
Tôi không biết người thầy tướng kia bao giờ, cũng không nói
trước cho Sáng biết là tôi sẽ đến thăm, thế mà sao ông ta biết tên họ tôi và nhận
ngay được mặt. Sau đó chừng hai mươi phút, tôi còn đang tìm hiểu việc vừa rồi,
thì người đàn bà đi ra, vẻ mặt hớn hở. Ông thầy tướng lễ phép tiễn khách ra đến
cửa, đóng lại cẩn thận rồi nhìn tôi trân trân:
- Anh bỏ hộ tôi nét mặt ngây ngô kia đi một tí, rồi vào đây
nói chuyện một lúc chơi.
Câu nói bằng giọng Bắc, mà chính là giọng anh Sáng. Tôi chưa
kịp đáp thì “ông thầy tướng” đã kéo tôi vào trong, bỏ bộ râu hoa râm và mục kỉnh
ra rồi cười:
- Bốn tháng đóng kịch với hai tháng làm bầu hát cũng quá đủ
cho tôi đổi được cả giọng nói cho lẫn dáng người. Lần này tôi cũng đóng kịch,
Lê Văn ạ, nhưng đóng một tấn kịch quan trọng... Tôi cần phải quảng cáo cho
phòng xem tướng này... bởi vì tôi muốn gặp rất nhiều người ở đây, nhất là một
người tôi để tâm tìm kiếm mãi.
Tôi hỏi:
- Tìm một người? Ai thế?
Trong mắt Sáng thoáng qua một vẻ buồn, nhưng anh vội cười,
nhìn tôi một cách tinh ranh và để một ngón tay lên miệng:
- Bí mật nhà nghề... Vả chuyện hơi dài một chút, tôi sẽ kể
anh nghe sau.
Khách đến phòng giáo sư Huỳnh Ba ngày một đông. Không đầy nửa
tháng, mà một phần Hà Nội trí thức đều biết tiếng nhà tướng số đại tài.
Sáng coi sự thành công đó là một lẽ rất thường. Anh bảo tôi:
- Tôi nổi tiếng cũng là sự tất nhiên, có chi là lạ lắm. Ở đời
chỉ khéo khu xử một chút là việc gì cũng xong. Tôi biết xem tướng thật thà, chứ
không thèm khoác lác lừa dối ai, nhưng tôi cần quảng cáo cho người ta phục tôi
ngay lập tức.
Tôi hỏi anh học tướng số ở đâu, và vì đâu anh lại nảy ra cái
ý kiến làm thầy tướng thì anh cười:
- Khoa tướng số thì sách Tây, sách Tầu thiếu gì? Tôi chỉ cần
đọc dăm quyển, cần thực hành trong lúc chuyện trò với chú ý so sánh, đoán xem
tâm lý từng người... thế là đủ. Từ hôm mở phòng đến nay, tôi thấy nghệ thuật mới
của tôi tấn tới nhiều lắm, hình như đã kinh nghiệm lâu rồi. Tôi biết rõ thêm được
nhiều tình trạng lòng người - tôi không những chỉ dẫn cho đường số mệnh cho người
ta tôi lại biết yên ủi những nỗi buồn khổ của người ta nữa.
Còn như anh muốn biết vì đâu tôi làm thầy tướng... thì trước
hết, tôi là người thích biết nhiều nghề. Nhưng xin thú thực đó không phải là lẽ
chính. Tôi mở phòng này chỉ vì một chuyện riêng của tôi - một chuyện tình, anh ạ.
Sáng yên lặng một lát, đôi mắt lơ đãng nhìn đi một phía, tay
gõ điếu thuốc lá xuống bao diêm... Anh lại trông tôi, vừa mỉm cười vừa thở dài:
- Phải. Cũng vì một chuyện tình, vì một người đàn bà mà tôi lại
đến thành phố này, xếp đặt ra cảnh tượng anh thấy hôm mới đến chơi đây, làm nổi
tiếng cho một cái tên lạ lùng. Tôi muốn gặp mặt người ấy mà người ấy không nhận
ra tôi... tôi muốn làm thầy tướng Huỳnh Ba để hỏi xem người đàn bà ấy đối với
Lương văn Sáng còn có chút tình nghĩa gì không, nếu không còn thì Huỳnh Ba
khuyên cô đừng nên tệ bạc như thế. Vì tôi biết cô hay tin khoa tướng số, và biết
thế nào cô cũng sẽ tìm đến đây. Tôi sẽ kiếm cách nối lại cái tình tha thiết của
Sáng với cô... Ờ đó là một cái mưu. Có lẽ là cái mưu chẳng cao thượng gì, nhưng
nó sẽ giúp tôi lấy lại được người tôi yêu, nó sẽ đem lại cho tôi cái hạnh phúc
đã mất.
- Anh còn nhớ cô Kiều Trang không? Người thiếu nữ anh gặp đi
với tôi vào hàng Gôđa ba năm về trước ấy mà! Người yêu của tôi đó. Trời ơi, tôi
yêu cô ta không biết ngần nào. Cô ta là người lãng mạn, là một người cuộc đời
cũng sôi nổi như đời tôi, một hạng gái giang hồ thông minh. Cô đã tệ bạc, ác
nghiệt với tôi nhiều, nhưng tôi không thể ghét cô được. Để tôi kể thiên tình sử
của tôi cho anh nghe.
Thiên tình sử ấy, Sáng thuật lại với tôi một cách rõ ràng, miệng
vẫn tươi cười, mắt vẫn linh động, như người kể một chuyện vui, nhưng cái giọng
nói ôn tồn, thân mật của anh nghe vẫn có những vẻ buồn thảm.
Sáng được biết Kiều Trang trong một buổi diễn kịch. Nhan sắc
của cô làm cho Sáng vơ vẩn, lúc nào cũng thấy hình ảnh cô hiện đến trong tâm trí.
Sáng tự bảo mình rằng: “Thôi ta yêu cô mất rồi!”. Thế rồi một buổi tối kia,
Sáng viết xong một vở kịch mà vai chính rất thích hợp với tài cô và vừa ý cô.
Sáng giữ vở kịch tặng riêng Kiều Trang, viết hai bức thư cho Kiều Trang, nhận
được ba bức thư cô trả lời: hai người quen nhau từ đó. Rồi từ đó thân nhau, rồi
yêu nhau, rồi lấy. Cuộc tình duyên se kết một cách tự do, không theo khuôn
phép.
Chiếm được hòn ngọc vô giá là trái tim kia được ngót hai năm,
thì Kiều Trang không cho Sáng là người đáng yêu nữa. Còn Sáng thì vẫn không thấy
người đàn bà nào đáng quý hơn, nhan sắc hơn Kiều Trang.
Hồi ấy ở Sài Gòn là nơi Sáng quyết chí làm giàu cho người yêu
sung sướng, anh ta một lúc làm hai ba việc, tiền của thu về gấp bốn năm người
cùng nghề. Kiều Trang muốn đưa vở kịch của anh đăng lên tờ báo Phụ nữ kia,
nhưng anh xin cô đề tên soạn giả là Kiều Trang, vì chính anh có ý làm văn sỹ
đâu. Vở kịch nếu không cốt để làm quen với cô thì không đời nào Sáng soạn.
Kiều Trang vì thế mà được nhiều người coi là một bậc nữ kịch sĩ,
nhiều người khen ngợi và nhân đó thường gặp một ông điền chủ giàu lớn, sắp cho
ra một tờ báo Phụ nữ hằng tuần. Cái danh vọng làm cho lòng Kiều Trang say sưa
và thờ ơ với Sáng. Rồi trong lúc anh ta ngược xuôi, khi Cao Miên, khi Lục Tỉnh,
thì Kiều Trang kết bạn với bọn người theo cô o bế tâng bốc để làm cô quên dần
người đã hết lòng chân thực yêu cô.
Lúc Sáng biết ra, thì đã muộn. Anh ta hoảng hốt tìm cách cố
giữ tình nhân lại, nhưng lòng Kiều Trang đối với anh không còn chút cảm tình
nào. Sáng toan viết báo, làm văn thơ để trở nên một nhà văn có tiếng như những
người có tài cô vẫn mến phục, thì Kiều Trang lại yêu một người kép hát trứ
danh. Lập tức bỏ nghề văn sĩ, Sáng cũng theo một gánh hát cải lương để tập nghề.
Anh ta hết sức nhảy nhót pha trò trên sân khấu, chiều ý hết thảy mọi người và
khổ công rèn luyện mới mua được một chút hoan nghênh của công chúng. Làm kép phụ
đóng những vai thường trong ít lâu rồi lên kép chính, rồi sau cùng vừa soạn vở
vừa làm bầu một gánh hát lớn ở Sài Gòn. Chủ tâm của anh là làm thế nào cho Kiều
Trang lại phải chú ý đến anh.
Sáng muốn cho cô biết rằng anh không những có thể làm nên giầu
có, anh lại còn có tài, có chí, và gây cho mình cái danh vọng rực rỡ chẳng kém
gì các người tình địch của mình. “Nhưng Kiều Trang cũng như con chim xanh kia
quá ham mê những ánh sáng xa lạ đâu đâu, không bao giờ tưởng đến lúc trở về cảnh
cũ”.
Sáng nói tiếp:
- Bây giờ Trang hiện đang ở Hà Nội, đang mải miết trong cuộc
vui thú mới, có lẽ cũng không có giây phút nào nhớ rằng ở đời này, còn có anh Lương
văn Sáng là người không bao giờ quên Trang... Tôi đã tìm cách nhắc cho cô nhớ đến
tôi như anh đã biết, nhưng không ích gì - hay là chưa ích gì. Vậy tôi còn nhiều
cách khác mà cách làm thầy tướng này là một, tôi đã dự bị sẵn sàng các câu nói
để đánh vào lòng tin số mệnh của Kiều Trang, rồi tôi sẽ lựa lời để làm cô cảm động.
Chắc cô đã chán cuộc đời phiêu lãng, có lẽ cô cũng muốn tìm nơi yên ấm để hưởng
lại thú bình tĩnh êm ái của một gia đình... Tôi sẽ hiến cô cái gia đình nhỏ mà
êm ái kia... Tôi sẽ đón cô vào, và cô sẽ chẳng có lỗi gì, tôi sẽ làm cho cô
quên hết mấy năm qua, sẽ làm cho cô sung sướng gấp trăm lần thuở trước...
Ngày mai Kiều Trang sẽ tới đây do một người bạn gái mách.
Giáo sư Huỳnh Ba được các bạn phụ nữ hoan nghênh lắm. ồ! Tôi sẽ không biểu lộ sự
cảm động, tôi sẽ đóng vai kịch một cách hết sức tự nhiên... Mà Kiều Trang sẽ
tin lời giáo sư, sẽ không nhận ra tôi, và sẽ lại thương Lương văn Sáng như trước.
Có phải không? Việc gì tôi cũng làm được cả, huống chi việc này? Mai, tôi sẽ
thi hành một kế trong những kế cùng, nhưng tôi quyết là đắc thắng.
Lúc tiễn tôi ra cửa, Sáng nói đùa một câu:
- Tôi quả là một thầy tướng có kỳ tài. Người khác chỉ biết
đoán việc thời thế về trước và về sau. Tôi thì tôi xếp đặt số mệnh của tôi và của
người khác.
Anh bắt tay tôi rất mạnh. Trong cử chỉ ấy tôi thấy cả lòng tự
tin và chí quả quyết của người con trai khác thường kia.
Cách đó bốn hôm, một buổi sáng chủ nhật, anh đến chơi nhà tôi
thì tôi còn đang ngủ. Anh gọi tôi dậy rồi mắng khôi hài:
- Anh nên sống lâu lâu một chút, chứ cứ quyên sinh bằng cách
ngủ muộn thế thì thực là tồi. Mặc quần áo mau lên rồi đi chơi với tôi đi. Buổi
sáng đẹp khiếp thế này mà ngủ hay ở nhà thì là một tội ác.
Anh mở cửa sổ huýt còi nhại lũ chim hót trên cây trong lúc
tôi rửa mặt chải đầu, rồi quay lại ngắm mình trong gương và sửa hộ tôi cái ca
vát. Mặt anh hình như sút đi nhưng anh khoát tay bảo:
- Cần quái gì. Đêm qua không ngủ tý nào nhưng tôi dự định được
nhiều việc hay lắm. Tôi xem báo thấy lão Voàng On vỡ nợ mà tôi cười đến chết.
Lão làm việc xoàng không biết đến chừng nào mà kể. Tôi có của như lão thì hai
năm là nổi cơ nghiệp to.
Anh lại cho tôi biết rằng hãng xe hơi ở Nam Vang anh nhường
việc trông coi cho một người quen bây giờ tấn tới lắm.
- Tôi mà vào Nam chuyến này thì còn nhiều việc có lợi nữa.
Ra ngoài đường, tôi hỏi Sáng:
- Cô Kiều Trang đã gặp anh rồi chứ?
Sáng liếc nhìn tôi, nháy một mắt, vừa cười vừa lắc đầu:
- Cô Kiều Trang không gặp tôi bao giờ; chỉ gặp giáo sư Huỳnh
Ba thôi.
- Ừ. Rồi thế nào?
- Thế nào? Cô Kiều Trang vẫn trẻ, vẫn đẹp như xưa, mà cô nói
chuyện có duyên quá. Huỳnh Ba cũng vậy, nên cô phục Huỳnh Ba vô cùng.
Trên nét mặt, trong đôi mắt của Sáng, tôi như thấy vẻ khác lạ
thoáng qua, nhưng lúc ấy thì không chú ý đến lắm.
Bỗng anh trỏ bọn trẻ con đang nô nghịch trên bờ hè:
- Bây giờ thì mình không nghịch như chúng nó nữa nhỉ. Mình
khôn hơn chúng nó: Mình nghịch một cách buồn cười hơn.
Rồi anh cúi xuống đón bắt quả bóng lũ trẻ đá đến gần. Đặt
bóng xuống, anh nhằm bóng rất lâu, lấy đà chân rất mạnh, nhưng cố ý đá hụt để
cho lũ trẻ phá lên cười.
Nhân thể, anh nói chuyện với tôi về tính vui hồn nhiên của tuổi
thơ ngây, nhắc đến những lúc còn bé dại, đến lúc đi học hay đánh nhau với anh
em bạn; lúc bị thầy giáo phạt, rồi bình phẩm các thầy giáo và các bạn chung của
chúng tôi:
- Ông Biên thầy cúng, chẳng biết bây giờ còn ngâm thơ bằng
cái giọng khàn khàn nữa không?... Ông Lương pha trò sao mà nhạt thế... Ông Đàm
hôm nọ tôi gặp ở phố Hàng Bún đang lau kính, đi lò dò như con cò hương. Anh còn
nhớ hồi ông mới đến dạy chúng ta không? Tôi hay chế ông ta nhất.
Lúc nhắc đến bạn thì anh ta nổi giận với một vài anh cả đời
chỉ gí mũi vào quyển sách, toán pháp và khoa học thì giỏi ghê giỏi gớm, mà
trông mặt ngô nghê như chúa tầu nghe kèn. Anh đạo mạo nhắc lại câu nói của một
giáo sư anh phục riêng: “Một người học trò tốt là một anh đần độn”.
Đi tới bên bờ Hồ Gươm, anh giữ cánh tay tôi bảo nhìn một người
vừa đi qua:
- Kìa, anh trông hộ tôi cái anh chàng cầm ba toong vung tít
lên kìa. Anh ta có vẻ bằng lòng lắm nhỉ!
Gặp mấy cô con gái, anh đợi họ đi khỏi rồi ngả mũ chào, nói
khe khẽ một câu tiếng Tây để họ không nghe thấy: “Vous êtes bien moches,
mesdemoiselles”.
Rồi một lát:
- Nhưng cô đi một mình đằng xa kia thì khá lắm. Xin kính chào
quý nương.
Chúng tôi cứ thế đi lang thang từ Hàng Trống đến nhà bưu điện,
rẽ ra bờ sông, đi lộn về Tràng Tiền rồi qua Hàng Khay, Sáng luôn luôn cất mũ
chào và bình phẩm cử chỉ, dáng điệu từng người:
- Bà kia giá béo chút nữa thì cửa Gôđa phải xây rộng thêm. Cậu
công tử kia cái mũi hơi đỏ. Trời! Cô kia đi sao mà dẻo thế.
Còn tôi thì cũng lây cái vui vẻ của anh. Lúc đó tôi chắc rằng
Sáng trong lòng hẳn có điều khoan khoái, sung sướng. Ôi! Quả thực không có cái
gì sâu kín bằng lòng người.
Đến mười một giờ, Sáng kéo tôi vào hàng bánh bắt ăn thực no.
Anh vừa nhai vừa nói, luôn mồm nhắc đi nhắc lại câu:
- Đời vui đẹp quá!
Sắp chia tay, thì một người bạn chúng tôi vừa qua nhà, ra gọi
tôi:
- Văn, Văn, vào đây chơi!
Chúng tôi vào thì bạn rủ đánh tổ tôm. Thấy Sáng ngần ngừ tôi
hỏi:
- Anh biết chơi tổ tôm chứ?
- Sao không biết.
- Đánh chơi mấy hội.
Sáng nghĩ một lát, “chậc!” một tiếng, rồi tươi cười đáp:
- Ừ thì đánh, nhưng góp nhỏ thôi!
Trong cuộc, Sáng là người hay nói nhất, mà ù được ván nào to
thì anh cười vỡ cả nhà. Một lần, anh ngồi thừ người ra, đôi mắt mơ mộng. Tôi
nhìn anh hỏi:
- Anh nghĩ gì thế?
- Phiền quá, tôi đánh hớ một nước không thì chờ đã lâu.
Chiều hôm đó, ăn cơm ở nhà người bạn tôi, lúc ra về, Sáng dặn
nhỏ tôi:
- Tôi để lại phòng xem tướng cho mấy người bạn rồi, họ muốn
làm gì thì làm; hay cứ giữ cái nghề xem tướng cũng được.
- Ồ, thế còn anh?
- Tôi, tôi không cần đến nghề ấy nữa, dễ thường anh tưởng tôi
làm giáo sư Huỳnh Ba suốt đời ư? Tôi hiện thuê nhà riêng, nhà tôi ở Hàng Đậu, số
25 bis, sáng mai anh đến chơi, tôi muốn cho anh biết một tin này hay lắm.
Tôi y hẹn, sáng hôm sau, trước khi đến nhà báo, tôi ghé qua
thăm anh. Bước vào nhà thì người đầy tớ nói anh còn ngủ và đưa cho tôi một cái
phong bì. Tôi không đời nào quên sự kinh ngạc của tôi khi đọc bức thư trong đó.
“Hà Nội, 4 giờ sáng ngày chủ nhật
18 Mars 1935
(Thì ra bức thư anh viết từ sáng hôm qua, trước khi đến lôi
tôi dậy)
Anh Lê Văn.
Tôi không là Huỳnh Ba nữa đâu, cũng không là Lương văn Sáng nữa,
vì khi anh đọc bức thư này thì tôi ngủ yên rồi - ngủ một giấc ngàn năm, theo lối
văn sáo người ta vẫn ưa viết. Chỉ khác một điều là ngủ thì vẫn thở, có người vừa
thở vừa ngáy, nhưng tôi thì không.
Anh ngạc nhiên làm quái gì? Câu pha trò của tôi ít ra cũng có
ý vị hơn những câu nhạt của thầy giáo Lương và một ít nhà khôi hài khác. Vậy
thì, như tôi đã nói, tôi đi ngủ một giấc ngàn năm. Cái đó cũng chẳng khó gì
(cũng chẳng khó hơn bao nhiêu công cuộc nghề nghiệp tôi làm trong đời tôi): chỉ
cần nhá gấp mười liều thuốc ngủ lên là xong chuyện.
Tại sao tôi lại làm thế? Thì cứ nói phăng ngay tại sao tôi lại
tự tử. Tại rằng là... tôi muốn thế chứ sao! Mà tôi muốn thế là vì tôi không còn
tâm trí đâu thích làm việc nữa. Đó là một lẽ. Còn lẽ nữa cũng quan trọng lắm:
là từ nay Kiều Trang nhất định không yêu tôi. Người thiếu nữ kiều lệ kia đổi
tình nhân cũng như tôi đổi nghề. Tôi chỉ tiếc rằng tài trí tôi yêu thích được
nhiều nghề nhưng lòng tôi chỉ yêu được một người, được một lần thôi! Quái thực!
Tôi yêu Kiều Trang thế nào tôi đã nói cho anh biết đấy. Trang
tệ với tôi nhưng tôi không tệ được với Trang; tôi đã yêu Trang thì Trang phải
là của tôi, nếu không thì tôi tưởng sự sống không còn có nghĩa gì nữa.
Tôi đã phấn đấu, đã hoạt động suốt một đời tôi rồi, tôi làm
bao nhiêu việc, theo bao nhiêu nghề, là cốt để sung sướng hơn lên. Mỗi phen
thay đổi tức là một phen tôi “làm lại cuộc đời” của tôi. Lần nào đổi mới cuộc đời
của tôi cũng hay cũng đẹp thêm một đôi phần, vì tôi đã định làm việc gì, là việc
ấy phải được. Thế mà có một “điều”... một “sự” - không phải - một “cái” không
thể nào “làm lại” theo ý muốn: ấy là lòng em Trang yêu quý của tôi.
Tôi biết thế từ hôm tôi gặp Trang ở nhà giáo sư Huỳnh Ba kia,
chính em Trang thú thực với Huỳnh Ba như thế. Tôi toan lấy lẽ nhiệm màu khoa lý
số để lừa lọc lòng Trang, nhưng trông đôi mắt của Trang thì tôi thấy rõ vẻ lạnh
lùng khi tôi đả động tới Lương văn Sáng.
Ngay trước khi thực hành cái mưu tướng số, tôi đã bảo tôi rằng:
“Hạnh phúc của ta ở Trang. Vậy nếu Trang không muốn trở lại với ta, thì thôi!
Thế là hết hạnh phúc. Vậy ta không cần làm gì nữa cũng được. Ta quyên sinh đi
cho khỏi buồn lâu”.
Trang đến cho tôi coi tướng, luôn thể đến gián tiếp hạ cái lệnh
bảo tôi đi ngủ đi là xong nếu tôi không yêu người khác được. Mà yêu người khác
thì không thể được, vì tôi không thấy lòng tôi muốn thế. Thế có buồn cười
không?
Đêm vừa rồi, tôi nằm ngâm hát rất lâu, rồi ôn lại những công
việc của tôi, rồi ôn lại lúc gặp Trang, yêu Trang, giận Trang; cuộc đời ái ân của
tôi sao mà đằm thắm đến thế... Tôi không muốn ngủ đêm nay vì đêm mai tôi sẽ ngủ
luôn thể, sực nhớ đến anh là người tôi đã ngỏ chút tâm sự, tôi liền viết mấy
hàng này.
Tôi trông ra cửa sổ, mặt trời đã dần ló đằng đông... Ngày hôm
nay hẳn là tươi đẹp, tôi muốn vui cho trọn cho đến lúc chết, nên tôi định viết
thư này xong sẽ đi chơi... Có lẽ tôi sẽ lại rủ anh đi cho có bạn.
Chào anh lần sau cùng,
Lương văn Sáng
T.B.- Nếu tiện, anh sẽ thản nhiên làm như chưa đọc thư này, mở
cửa phòng vào đánh thức tôi (vì tôi không khóa cửa), và gọi không thấy tôi dậy,
sẽ bảo cho người ta biết. Anh liệu làm cho người ta tin rằng tôi chết vì uống
thuốc ngủ quá độ, chứ không phải vì quyên sinh. Tôi không muốn cho K.T. biết rằng
Lương văn Sáng tự tử vì cô. Nhưng nếu anh không giỏi đóng kịch thì cứ bảo là
tôi tự tử cũng được, duy có điều tôi không được hài lòng”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét