Như một cơn lốc, dịch cúm gà ập vào trại gà của chị Hằng vào
một ngày cuối năm. Cả ngàn con gà đang đẻ trứng lần lượt lìa xa chị. Cầm những
con gà mái mập tròn, lông mượt vàng, còn nóng hổi trên tay, chị Hằng khóc.
Không khóc sao được khi mỗi sáng ra thăm chuồng, chị vui sướng
nhìn những quả trứng trắng ngà lăn lóc đầy chuồng. Những con gà mái lăng xăng mừng
rỡ "lóc cóc... lóc cóc..." đón chị bằng một thứ ngôn ngữ mà chị và lũ
gà đều ngầm hiểu. Mắt chúng rực sáng, chạy ào cả về phía chị. Chị cười bảo:
"Ăn cho no, đẻ cho nhiều...". Bây giờ những con gà chết nằm ngổn
ngang trong chuồng. Có con chết khi đang ăn. Có con chết khi đang đẻ. Những con
sống sót ủ rũ đứng dồn vào một góc. Một không khí lạnh lẽo, tang tóc bao trùm
không chỉ ở khu chuồng trại của chị Hằng.
Những ngày sau, dù đã cách ly, sát trùng, tẩy uế, gà vẫn tiếp
tục chết. Chết không kịp nhắm mắt. Chết không kịp chôn. Có người an ủi
chị, nói: "Tụi nó đi theo anh Dậu đó chị Hằng ơi!".
Anh Dậu, chồng chị, là kỹ sư chăn nuôi. Anh đổ mồ hôi sôi nước
mắt gom góp gầy dựng được một trại gà vào loại bề thế của cái làng ven sông Vàm
Cỏ này. Khi trại gà bắt đầu sinh sôi thì anh Dậu ho khúng khắng, rồi
ho từng cơn và những cơn ho dai dẳng dù chị Hằng đã tất tưởi chạy chữa cho chồng
hết trung tâm y tế huyện đến bệnh viện tỉnh rồi bệnh viện ở Sài Gòn, nhưng anh
không thể thoát khỏi chứng bệnh nan y. Anh Dậu lặng lẽ ra đi vào một chiều xuân
tràn nắng, nắng tràn vào mái hiên nơi anh từng nằm sưởi nắng và lắng nghe đàn
gà líu ríu ồn ĩ xao động không gian và khuấy động khúc sông hiền hoà trước mặt.
Ba năm trước chị vuốt mắt cho chồng. Nay dịch cúm gà đã cuốn phăng công lao gầy
dựng vất vả của anh.
Chôn cất những con gà xấu số xong, chị cho công nhân tạm nghỉ.
Ngày hai buổi thắp nhang cho chồng, chị thắp luôn cả nắm nhang cho hàng ngàn
con gà đã chết. Thức, chị ngồi lặng hàng tiếng đồng hồ ngoài trại. Chợp mắt, chị
hay mơ, những giấc mơ không trọn vẹn với những hình ảnh, những âm thanh không
trọn vẹn. Khi thì thấy chồng lúi húi bên trại gà, khi lại nghe anh gọi. Tiếng gọi
có lúc thật mơ hồ, khi thì ở bên kia bờ sông, nơi có những bụi hoa mua tím rịm;
khi thì nhấp nhới hụt hơi bên những con sóng lao xao; khi thì nghe tiếng kêu
đòi ăn của lũ gà; khi thì thấy những ả gà mái núc ních, lông óng vàng, mào đỏ
chót đang lóc cóc, lóc cóc…
Trong ngôi nhà ba gian tươm tất của chị còn lại ba sinh linh:
con mèo suốt ngày lim dim ngủ, con sáo và chị. Con mèo vừa lười vừa lười ranh.
Lúc nào ả cũng muốn được bà chủ vuốt ve, cứ cò cọ cái đuôi dài vào chân tay chị
bất kể những lúc chị buồn héo ruột héo gan. Tuy nhiên, bù lại hơi hướm con mèo
cũng đủ răn đe mấy con chuột táo tợn, mà lũ chuột dường như biết
ngôi nhà thiếu hơi đàn ông, chúng cứ rục rạo suốt đêm. Con sáo mới là người bạn
thân thiết của chị. Chị dành gần như trọn thời gian chăm sóc nó. Đó là kỷ vật của
anh để lại. Một kỷ vật thiêng liêng. Khi vay bạn bè vốn liếng lập trại, một người
bạn đã tặng anh một con sáo. Bạn anh cho biết, loại sáo
này khôn lắm. Nuôi nó chỉ một năm là biết nói. Quả đúng như vậy. Con sáo lớn
lên, lông đen mượt, mỏ vàng, chân vàng lanh lợi trong chiếc lồng bằng nan tre
mà anh đã công phu vuốt uốn từng nan. Chị vẫn còn nhớ cái cách anh cầm vót những
chiếc nan tre và miệng thì huýt sáo. Rồi mỗi sáng mỗi chiều tiếng huýt sáo, tiếng
nói, tiếng cười của anh làm trái tim chị tràn niềm vui. Một năm sau con sáo bắt
chước tiếng chim chào mào. Thế là anh bắt đầu tập cho nó nói. Tiếng đầu tiên
là: "Hằng ơi...!". Mỗi lần chị Hằng đi qua, anh chỉ tay vào chị, gọi:
"Hằng ơi...!" Con sao nghếch mỏ, nhìn chị một lúc rồi cũng khó nhọc cất
tiếng gọi: "Hằng… ơi...". Một tiếng gọi rất là đàn ông, trầm ấm. Nhân
lứa gà đầu tiên đẻ trứng, cộng thêm sự kiện con chim sáo biết nói, anh chị làm
bữa nhậu mời bạn bè đến dự.
Tiệc bày ra, chị Hằng bưng mâm đi qua lồng sáo, nó nghễnh cao
cổ hướng về chị và cất tiếng gọi: "Hằng ơi...". Bạn bè ngạc nhiên, mắt
tròn mắt dẹt thán phục giọng nói rất ư tình cảm của con sáo. Lý thú hơn, nó lại
bắt chước cái giọng ồm ồm của anh Dậu. Một người bạn lên tiếng: "Dậu này,
cậu mà có đi đâu, nghe con sáo nó gọi chắc bà xã cậu cũng đỡ nhớ...". Những
người bạn xúm lại bên lồng chim dạy nó thêm câu nữa: "Hằng ơi, anh yêu em
lắm...!". Mấy tiếng "anh yêu em lắm "con sáo giương cổ nhại theo
nhưng nghe không rõ, từng âm không riêng biệt cứ dính vào nhau
như cơm nếp nấu nhão. Nhưng mỗi khi con sáo nói câu ấy, anh Dậu và
chị Hằng đều hiểu nó muốn nói: "Anh yêu em lắm...!".
Chị Hằng cho con sáo ăn một chế độ đặc biệt. Lòng đỏ trứng gà
trộn với gạo lức phơi khô. Nước uống của nó là nước mưa được hứng từ mái hiên
nhà. Dần dần nó nói được nhiều tiếng, nhiều câu. Có ai đến chơi, nó nghếch mỏ
chào: "Có khách... Có khách... Hằng ơi...". Nhiều khi có một mình chị
Hằng đi qua, nó nhảy chồm về phía chị, ánh mắt chớp liên hồi vừa mừng
rỡ vừa vui sướng và chào bằng một giọng hết sức tình cảm mà chị cảm nhận và
nghe được: "Hằng ơi, anh yêu em lắm...!" Chị nghẹn ngào, sững lại, bật
thốt thành lời: "Sáo ơi, tao yêu mày lắm!". Hôm đưa đám anh Dậu, con
sáo xù lông đứng bất động ở góc chuồng, im lìm như một cái xác. Chị Hằng cũng
không còn nhớ gì để lưu tâm đến nó. Nỗi đau quá lớn khiến
chị quên cả việc cho sáo ăn. Rồi khi vừa từ nghĩa trang về, chị nghe một tiếng
gọi khá to và ngân dài: "Hằng ơi...!" nghe như tiếng của anh Dậu âu yếm
gọi chị. Chị hấp tấp chạy vào, nhìn quanh không thấy ai. Chị bàng hoàng giữa
căn nhà trống vắng rồi thụp xuống ghế, nước mắt lại trào rơi.
Cơn xúc động qua đi, chị đứng lên thắp một nén nhang lên bàn
thờ anh thì cũng là lúc con sáo liên tiếp gọi: "Hằng ơi, Hằng ơi... anh
yêu em lắm...!" Chị bước lại, hạ chiếc lồng xuống, nhẹ nhàng bắt con sáo đặt
vào lòng bàn tay. Hai mắt nó chơm chớp rồi buồn bã gọi: "Hằng ơi..."
Chị rụng rời, y như linh hồn anh Dậu đã nhập vào con sáo, hiện diện trong ngôi
nhà này cùng chị.
Con sáo làm chị nguôi ngoai phần nào nỗi thương tiếc chồng. Lạ
là, từ ngày anh Dậu mất, đàn gà của chị đẻ rất sai. Chị vay thêm tiền ngân
hàng, nâng đàn gà từ năm ngàn con lên gấp đôi. Công việc chăm sóc cũng nhẹ hẳn
đi nhờ những người công nhân thạo việc và tận tụy. Chị Hằng dành nhiều thời
gian cho con sáo. Chị thường tưới nước vun bón những chậu hồng quanh đó, lẩn quẩn
quanh con sáo để trò chuyện và để thỉnh thoảng được nghe tiếng gọi
thiết tha: "Hằng ơi, anh yêu em lắm...".
Chị đang ăn nên làm ra nhờ trại gà thì thình lình, dịch cúm
gà ập đến. Kiểm dịch thú y đến đề nghị chị hủy ngay những con còn lại. Một trận
cuồng phong, một cơn động đất ập đến cũng chỉ hãi hùng như thế là cùng.
Chị như một kẻ mất hồn, ngồi lặng lẽ trong căn phòng có chiếc
lồng chim sáo treo phía trước. Như chia sẻ nỗi buồn với chị, con sáo cũng ít
nói hơn, nhưng mỗi khi chị thắp nhang cho anh Dậu và đàn gà, nó ngân lên rất khẽ:
"Hằng ơi...".
- Chị Hằng à, tôi biết chị sẽ rất buồn, nhưng theo lệnh của
xã, những ai nuôi chim đều phải giết bỏ để tránh dịch bệnh lây lan.
Chị Hằng không bất ngờ trước thông tin của ông trưởng ấp,
nhưng điều đó có nghĩa là con sáo của chị cũng phải đem thiêu hủy! Như một nhát
dao đâm thẳng vào tim, chị choáng váng không nói được câu nào, mặt tái đi, cứ
như là chính chị cũng sẽ phải hoả thiêu.
Ông trưởng ấp đi rồi, chị đến bên lồng, mở cửa, lặng lẽ đặt
con sáo vào lòng bàn tay. Con sáo như cũng hiểu được sự nghiêm trọng của những
gì sắp xảy ra với nó, đứng khép nép đưa mắt nhìn chị, như dò hỏi, như muốn được
nghe câu trả lời của chị. Trời ơi, kỷ vật của anh Dậu, một con sáo mang hồn người,
một người bạn thân thiết cùng chị trong ngôi nhà này sắp vĩnh biệt chị. Chị vuốt
nhẹ lên lông, cúi xuống hôn vào chiếc mỏ vàng óng của nó. Nước mắt chị trào ra.
Những giọt nước mắt ấm nóng nhỏ lên bộ lông đen mượt của con chim sáo...
Sáng hôm sau khi tốp thanh niên của ấp đến nhà chị, trong tay
họ là những bao những túi chứa xác nhiều loại chim, chị lật đật bước ra, giọng
buồn buồn:
- Đêm qua con sáo nhà tôi bị mèo vồ mất rồi...
Tốp thanh niên định quay ra thì có tiếng ồm ồm cất lên từ
trong chiếc tủ đặt khuất sau phòng khách: "Hằng ơi...". Cả
tốp sựng lại lắng nghe. Con sáo bị nhốt trong ngăn tủ tối tăm cứ liên tục kêu
"Hằng ơi... Hằng ơi...!" nghe đớn đau như một lời cầu cứu.
Biết không thể giấu nổi, chị òa khóc như đứa trẻ và đành mở tủ,
đem con sáo ra.
Con sáo quẹt quẹt cái mỏ vào mu bàn tay chị rồi nhìn chị, thống
thiết cất lên tiếng gọi: "Hằng ơi!".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét