Là con gái của nhà văn quân đội Nguyễn Trọng Oánh, không có
gì ngạc nhiên khi nữ sĩ Giáng Vân đi theo con đường cầm bút. Thế nhưng, thơ của
chị lại lặng lẽ hơn rất nhiều so với hành trình lắm gập ghềnh nhiều nhấp nhô của
chị. Nữ sĩ Giáng Vân lúc nào cũng như đứng ngoài thế giới chữ nghĩa xôn xao,
nhưng sự hiện diện của chị trong đời sống thi ca không thể nào phủ nhận được!.
Với công chúng phổ thông, nữ sĩ Giáng Vân được biết đến với
tư cách tác giả phần lời của hai ca khúc do Phú Quang phổ nhạc, “Đâu phải bởi
mùa thu” và “Trong giấc mơ xưa”. Người yêu nhạc vẫn thường xuyên hát: “Em ru
gì? Lời ru cho đá núi, đá núi tật nguyền, vết rạn thời gian. Em ru gì? Lời
ru cho biển khơi, biển khơi biết bao giờ ngừng lặng. Em ru gì? Lời ru cho
anh, một đời đam mê, một đời giông tố. Em ru gì cho ta, qua bao ngày phôi
pha...” và người yêu nhạc vẫn thỉnh thoảng nghe: “Em ra biển lớn, biển đã cạn.
Em vào rừng sâu, rừng chỉ còn lá mục. Em về với anh, để nghe lời giã biệt. Trở
về nhà, cửa đóng lặng thinh…”. Âm nhạc dùng sự du dương để chinh phục theo cách
riêng, mà thi ca lại dùng sự sâu lắng để tồn tại theo cách riêng. Ca khúc “Đâu
phải bởi mùa thu” được hình thành từ bài thơ “Yên tĩnh”, còn ca khúc “Trong giấc
mơ xưa” được chắp cánh từ bài thơ “Mơ xưa”. Độc giả vẫn có thể tìm thấy những
rung cảm khác biệt trên chính giá trị nguyên bản của nữ sĩ Giáng Vân!.
Bài thơ “Yên tĩnh” được nữ sĩ Giáng Vân viết năm 1983, khi chị
đang là công nhân ở thủy điện Sông Đà. Ngoài hai ý niệm được chuyển đổi, từ “đá
núi trụi trần vết tạc thời gian” trong thi ca sang “đá núi tật nguyền vết sẹo
thời gian” trong âm nhạc, và từ “cây lá có rơi nhiều, xin đừng hỏi mùa thu”
trong thi ca sang “lá trút rơi nhiều, đâu phải bởi mùa thu” trong âm nhạc, thì
hồn vía của “Yên tĩnh” nằm hoàn toàn ở đoạn thơ thổn thức lứa đôi: “Em ru gì
cho anh/ Mặt trời linh thiêng, mặt trời giông tố/ Đã mệt mỏi rồi, đã bao nỗi âu
lo/ Trên gương mặt anh hằn lên nỗi khổ/ Khiến câu hát cất lên bỗng tắt nửa chừng/
Em yêu anh như yêu cuộc đời cực nhọc/ Có tuổi thơ em buồn bã dịu dàng/ Sáng
lung linh miền ánh sáng thiên thần/ Niềm hạnh phúc muôn đời có thật”.
Bài thơ “Mơ xưa” được nữ sĩ Giáng Vân viết năm 1991, khi chị
đang là phóng viên ở báo Phụ Nữ Thủ Đô. Không gian lãng đãng mở ra thi phẩm “Mơ
xưa” không được đưa vào bài hát “Trong giấc mơ xưa” là những câu run rẩy: “Vầng
trăng đơn chiếc/ Cõi thế mù lòa/ Đàn ai rấm rứt/ Sương thu nhạt nhòa/ Này ai khoan
hẵng/ Vội dời chân xa/ Này ai chớ đợi/ Bến tình bao la”. Vì thiếu vắng đoạn thơ
trên khiến sự thẩm thấu dành cho đoạn kết “Câu ca thiếu nữ/ Xanh vời ban mai/
Con đường thiếu nữ/ Buồn dâng lưng trời/ Một mai em chết/ Còn chi trên đời”
trong bài hát “Trong giấc mơ xưa” cũng hạn chế nhất định. Không cầu cạnh vào
giai điệu bổng trầm, bài thơ “Mơ xưa” tạo xúc cảm nhờ cảm giác níu kéo chống chếnh:
“Không lẽ thế ngày anh đến/ Mắt phiêu diêu mùa thu chết ngang trời/ Tơ trời mảnh
giăng nắng vàng mê mệt/ Em cười say rượu ủ trong tim/ Không lẽ thế hồn đã qua vạn
xứ/ Cớ sao buồn như thế hỡi anh/ Thôi đừng tiếc đừng thương chi đừng nhớ/ Đã em
về tha thiết ở bên”.
Trải qua nhiều năm tuổi trẻ sôi nổi cống hiến ở công trường
xây dựng nhộn nhịp trên đất Hoà Bình, nữ sĩ Giáng Vân về Hà Nội lăn lộn mưu
sinh bằng một trái tim dễ xao xuyến và dễ đổ vỡ. Chị làm báo, phát hành sách, mở
phòng tranh… để nuôi bản thân, nuôi con gái và nuôi thi ca: “Những câu thơ
không hình hài/ Đôi khi lướt qua bạn/ Nhưng không đậu lại được/ Tựa như những
linh hồn/ Không tìm được chốn hoài thai”. Nữ sĩ Giáng Vân viết chậm và viết ít,
so với những đồng nghiệp cùng thời. Gia tài văn chương của chị được gói ghém
trong ba tập thơ “Năm tháng lãng quên” in năm 1990, “Trên những ngày buồn” in
năm 1995 và “Đường gió” in năm 2013. Nữ sĩ Giáng Vân không mấy hào hứng với việc
công bố tác phẩm và cũng lẩn tránh những diễn đàn chen lấn danh lợi. Thơ, trong
lòng nữ sĩ Giáng Vân, vừa mang tính ngẫu nhiên may rủi “Thơ/ Không có gì rõ rệt/
Đến bất thần như nước/ Nếu biết rõ/ Thơ sẽ không đến” vừa mang tính nhọc nhằn
sáng tạo “Câu thơ đã viết/ Giống như hơi thở/ Đã thở rồi/ Không thở sẽ chết/
Nhưng không thể còn thở lại”. Vì vậy, không ít lần nữ sĩ Giáng Vân không hề giấu
giếm nỗi bất lực trước khao khát được trải hết xao xác lên trang giấy “Hằng đêm
không ngủ được/ Viết câu thơ nào cũng thấy nhạt hoét” và đôi khi chấp nhận niềm
đắng cay một cách âm thầm “Tôi ném một câu nói vô vị vào yên lặng/ Và mơ một
ngày trở thành hiền triết/ Tôi e sợ phải nói lên sự thật/ Suốt đời mơ sự công bằng…”.
Không khó để nhận ra, hình ảnh nổi bật nhất trong thơ Giáng
Vân là người đàn bà luôn tìm kiếm tình yêu với rất nhiều cung bậc, khi mãnh liệt,
khi ngây dại, khi phấp phổng, khi đọa đày. Người đàn bà yếu đuối và đắm say ấy,
lắm phen nuôi hy vọng mơ hồ bằng tuyệt vọng xa xăm: “Hãy dừng người ơi/ Để cặp
mắt anh dừng lại trên mặt em/ Anh sẽ thấy nỗi sầu của anh trên mắt em phản chiếu/
Tình em nặng biết bao nhiêu/ Em chết mất nếu không người san sẻ/ Hãy dừng người
ơi/ Bởi trên thế gian này/ Không ai cần anh như em/ Cũng chẳng ai yêu anh hơn
thế/ Hãy dừng người ơi/ Yên tĩnh bên em/ Nếu anh không cần những niềm vui em đã
cố công mang về/ Em sẽ ru anh bằng bao nhiêu buồn khổ/ Em sẽ lặn lội về tuổi
thơ của mình/ Hái cho anh những chùm me đất tím/ Tìm cho anh một sợi rơm vàng/
Buộc những giấc mơ cổ tích…”. Tình yêu trong thơ Giáng Vân lúc nào cũng chới với
bên bờ vực hụt hẫng. Vì vậy, nữ sĩ Giáng Vân bước vào tình yêu bằng dằn vặt
“Tôi thở/ Tôi đi/ Tôi nhìn/ Tôi buồn và lo âu/ Bằng tình yêu toả sáng trên
gương mặt anh/ Nhưng anh ra đi/ Trên gương mặt không mang theo tình yêu/ Bây giờ
tình yêu cùng tôi ở lại” và chia lìa người yêu bằng ám ảnh “Em đã giã từ chính
em/ Đã nở hoa trên cả những nỗi buồn/ Nhưng nỗi buồn anh chưa bao giờ dứt/ Nó đọng
sâu trong trái tim em/ Đêm đêm gọi em thì thầm/ Nó kể những câu chuyện mà trí
óc bình thường em không thể nào biết được”.
Nữ sĩ Giáng Vân ngoài đời thường bị chìm lẫn vào đám đông. Chị
thừa bản lĩnh để đối phó với những sóng gió định mệnh, nhưng phía sau cặp kính
cận dày cộm của chị vẫn hiện diện sự hồn nhiên và sự bơ vơ. Trong xã hội ba đào
lắm trò cười khóc ngổn ngang, nữ sĩ Giáng Vân tự nhủ: “Chúng ta chỉ có thể bay
trong mơ/ Để tuyệt giao với nhơ bẩn/ Chúng ta chỉ có một nỗi buồn rất nặng/ Để
thanh lọc”. Chị ngụp lặn với trần tục và bẽ bàng vì bao nhiêu tàn lụi quan hệ
giữa người với người: “Tôi mang bán ưu phiền lấy niềm vui/ Niềm vui nở thành những
nụ cười giống nhau trên bộ mặt tôi/ Với những bài ca vui nhộn/ Nó chế nhạo ưu
phiền sao mà ngớ ngẩn/ Nhưng khi đêm về tất cả ngủ yên, trái tim tha thiết/ Niềm
vui cũng không cần cho tôi/ Nó làm tôi cạn kiệt…”.
Thơ Giáng Vân thờ ơ với những hình tượng bóng bẩy và những ngữ
điệu đong đưa. Thơ Giáng Vân chớp lấy ý tứ nhanh chóng và diễn đạt cụ thể. Càng
nhiều tuổi, chị càng chọn giọng điệu nhỏ nhẹ để khỏa lấp thơ để an ủi mình:
“Khi còn trẻ/ Tôi thấy cuộc đời trước mặt thật dài/ Tôi mỏi chân đi không hết/
Mỗi ngày mỗi tháng, mỗi năm/ Tôi có biết bao dự định/ Biết bao khát vọng lớn
lao/ Còn kẻ khác/ Sao mà tủn mủn/ Luống tuổi/ Giật mình chân chậm mắt mờ/ Ta
còn đứng nguyên một chỗ/ Tính mãi/ Không xong một việc nhỏ”. Sự khiêm cung
trong lối sống cũng mở ra một góc nhìn chan hòa và nhân ái: “Người thấm vào
tôi/ Cũng theo cái cách không khí thấm vào tôi/ Nước thấm vào tôi/ Làm mới lại
một mùa gieo trồng…”.
Những độc giả muốn thưởng thức thi ảnh lộng lẫy hoặc câu chữ
vang vọng, chắc chắn không thể đồng cảm với thơ Giáng Vân. Nói cách khác, thơ
Giáng Vân chỉ dành cho những ai thích ngẫm ngợi, ưa tư lự và biết hoang mang với
bao nhiêu kiếp phận lênh đênh và cô lẻ. Khi đã chấp nhận sự đa dạng và sự biến
động của môi trường xung quanh “Những đối cực không loại trừ nhau/ Những cú
phanh gấp trở nên vô nghĩa”, nữ sĩ Giáng Vân có phương pháp ứng xử thanh thoát,
trong quan niệm “Tôi thả mình rơi thong thả/ Không gì bực dọc/ Chỉ rặt những thứ
vu vơ/ Tôi hóa ra những vụn vỡ nhỏ/ Ly ti/ Hạt giống của loại hoa cỏ/ Có thể nảy
mầm rất nhanh/ Một sáng thôi/ Làm tràn ngập sự thanh khiết” cũng như trong hành
động “Tôi chọn một bó tầm xuân lớn để cắm vào chiếc bình gốm cũ/ tôi đã rất
chăm chú làm việc này/ thay vì đi tìm những quên lãng”.
Từ khi nghỉ hưu, nữ sĩ Giáng Vân có một niềm đam mê mới là vẽ
tranh. Và dù trong hội họa hay trong thi ca, thì chị vẫn ngậm ngùi một cõi trầm
lắng: “Tôi mang ẩn dụ của giấc mơ/ Tựa như mang bí ẩn của số phận/ Nhưng không
bao giờ chạm tới được…”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét