Chúng tôi đến Nam Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe
Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số
6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha
cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện
cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão
Xangsane quả ghê gớm! Bây giờ, chưa tròn một năm, xe lại bon bon giữa hai
mái rừng keo và cao su vươn tán xanh ngút, tôi không khỏi xúc động bởi sự hồi
sinh của những cánh rừng trên vùng đất từng căn cứ của tỉnh và khu V! Cũng
chính sức hồi sinh mãnh liệt này, thúc giục tôi trở lại Nam Đông, huyện Anh
hùng Lực lượng Vũ trang và Anh hùng trong thời kỳ đổi mới của tỉnh Thừa Thiên
Huế.
Tôi về thôn Dỗi, xã Thượng Lộ, nơi toàn ròn bà con dân tộc Cơ
tu sinh sống chan hoà bên nhau. Cơ tu là nguồn sông đầu ngọn nước. Nơi đầu nguồn
Tả Trạch chảy từ núi Mang và núi Atine về. Một chiều, tôi lội bộ ngược sông, đi
hết đuờng thảm nhựa dọc dài thôn Dỗi, qua cột điện cuối cùng mạng lưới điện
sông Đà trong vườn nhà anh Hồ Văn Hảo và vắt một góc "quăng dao" vượt
đèo Tà Gùng. "Đèo Tà Gùng" tôi mạo muội tạm đặt, do đây là con đường
đất dân sinh dài 7km, mới cày bạt taluy, vắt qua đỉnh Tà Gùng, cho bà con trong
thôn có con đường đến vùng Cha Moong chăm sóc rừng cao su nhà mình. Đứng ở đỉnh
Tà Gùng bên mép vực sâu, mùi đất mới vỡ ngai ngái, tôi giật mình nhìn bóng đèn
xe của anh thanh niên xuyên thủng chiều chạng vạng, hối hả chạy về thôn, đường
đèo chưa có rào chắn, nhỡ sẩy tay lái, xong đời! Sau này, tôi biết anh Thực ở
trong thôn, người đầu tiên bị sẩy chân té xuống vực, sống sót nhờ sức vóc trẻ
trai của mình. Và…ô kìa trăng đã lên đầu ngọn sông, ánh trăng dùng giằng tiễn
biệt với bóng ngày le lói đang cố thẫm đen dần làng Hương Lộc và Thượng
Lộ trải dọc dài hun hút hai bên dòng Tả Trạch, người Cơ tu gọi "ka rung Pa
Rang", chảy về Nam Đông. Tôi lại giật mình bởi vẻ đẹp phơi bày của ngày
trăng treo đầu ngọn ka rung Pa Rang. Tôi liên tưởng đến đồi Vọng Cảnh ngoại ô
Huế, nơi các vị vua triều Nguyễn làm chỗ ngoạn cảnh. Ai đến Vọng Cảnh trước năm
giờ mùa này, sẽ thấy mặt trời mọc giữa dòng sông, toả ráng xuống mặt sông, khi
những chiếc đò máy chạy qua làm vỡ gương sông, nỡ xoà muôn vạn ánh sao lung
linh lấp lánh, cảnh sắc diễm lệ, uy nghi.
Còn đây, bắt đầu vào đêm trăng lên, ka rung Pa Rang như dải gương thẫm xanh uốn lượn, chỗ đầy bóng đêm non vương vấn, chỗ dát vàng trăng hoang lộng, như sư phơi bày nửa kín nửa hở của nàng công chúa ngủ muội trong rừng! Núi, rừng, sông và làng mạc yên ả trong bao la ánh trăng thuần khiết! Đang đứng mê mải trong mênh mông trăng, tôi gặp cô Hồ Thị Bon, năm này lên lớp 12 trường THPT Nam Đông. Bon bảo, cô đi chăm sóc ha cao su một tuổi của mình, đi bộ từ rẫy cao su về đến nhà mất một tiếng rưỡi. Tôi trở lại thôn Dỗi, ghé nhà anh Hảo, mấy đứa nhỏ con anh đang xem Tây Du Ký từ chiếc ti vi cũ kỹ. Anh Hảo tâm sự: "Mình có 1ha5 keo và cao su. Vườn nhà 1500m2 mình trồng cây ăn quả và 19 gốc cau. Bão số 6 nhà mình tốc mái, vườn thiệt hại hơn 50%, thành ra còn vất vả lắm". Đi giữa lòng thôn, ánh điện từ những căn nhà toả sáng hoà lẫn ánh trăng, thôn Dỗi chìm trong thanh bình êm ấm. Tôi nghe phía nhà Gươl líu ríu tiếng nói cười, hoá ra hai đội văn nghệ thôn Dỗi dợt lại các điệu múa Gia Giả, Duyên Dáng. Tung Tung để mai đón đoàn khách du lịch. Dưới ánh trăng, mắt các cô thanh nữ đựng đầy trăng. Ôi những đôi mắt con gái Cơ tu sôi lộng mê hồn! Là người lăn lộn, được thua, vấp váp trong trường tình, tôi nhận ra rằng, đa số con gái Cơ tu, thường có đôi mắt đẹp, hình như các cô đựng hết cả nét thâm nghiêm núi, mãnh liệt sông và mênh mông trăng rừng vào những đôi mắt trong của mình?.
Còn đây, bắt đầu vào đêm trăng lên, ka rung Pa Rang như dải gương thẫm xanh uốn lượn, chỗ đầy bóng đêm non vương vấn, chỗ dát vàng trăng hoang lộng, như sư phơi bày nửa kín nửa hở của nàng công chúa ngủ muội trong rừng! Núi, rừng, sông và làng mạc yên ả trong bao la ánh trăng thuần khiết! Đang đứng mê mải trong mênh mông trăng, tôi gặp cô Hồ Thị Bon, năm này lên lớp 12 trường THPT Nam Đông. Bon bảo, cô đi chăm sóc ha cao su một tuổi của mình, đi bộ từ rẫy cao su về đến nhà mất một tiếng rưỡi. Tôi trở lại thôn Dỗi, ghé nhà anh Hảo, mấy đứa nhỏ con anh đang xem Tây Du Ký từ chiếc ti vi cũ kỹ. Anh Hảo tâm sự: "Mình có 1ha5 keo và cao su. Vườn nhà 1500m2 mình trồng cây ăn quả và 19 gốc cau. Bão số 6 nhà mình tốc mái, vườn thiệt hại hơn 50%, thành ra còn vất vả lắm". Đi giữa lòng thôn, ánh điện từ những căn nhà toả sáng hoà lẫn ánh trăng, thôn Dỗi chìm trong thanh bình êm ấm. Tôi nghe phía nhà Gươl líu ríu tiếng nói cười, hoá ra hai đội văn nghệ thôn Dỗi dợt lại các điệu múa Gia Giả, Duyên Dáng. Tung Tung để mai đón đoàn khách du lịch. Dưới ánh trăng, mắt các cô thanh nữ đựng đầy trăng. Ôi những đôi mắt con gái Cơ tu sôi lộng mê hồn! Là người lăn lộn, được thua, vấp váp trong trường tình, tôi nhận ra rằng, đa số con gái Cơ tu, thường có đôi mắt đẹp, hình như các cô đựng hết cả nét thâm nghiêm núi, mãnh liệt sông và mênh mông trăng rừng vào những đôi mắt trong của mình?.
Sớm mai tôi được đánh thức bởi tiếng chuông ngân từ bên sông
vẳng lại, lồm cồm ngồi dậy tôi tưởng mình đã ngủ ngon giấc trong ngôi làng Việt
xưa cổ nào đó, Hoá ra thôn Dỗi. Mở cửa bước ra sân, tôi vấp một khoảnh sân bừng
ánh trăng. Trăng vẫn đang thức, đang khoe bày, đang sóng soãi, đang nhuế nhoá
cây cỏ. Tôi tự thẹn với trăng, vì mình ngủ thẳng giấc khi trăng vẫn kiên nhẫn
chờ. Tôi cùng trăng đi vào thác Ka Dang. Thác Ka Dang huyền hoặc dưới ánh trăng
luồn kẻ lá. Thác Ka Dang là điểm du lịch sinh thái thôn Dỗi. Từ đầu năm đến nay
thu hút chín lượt người, chủ yếu người nước ngoài, thu nhập 9 triệu đồng. Và mặt
trời lên, ánh trăng khẽ khàng tạm biệt ngày mới, trên bầu trời xanh, còn treo một
đĩa gương trăng lạnh. Tôi ra cửa rừng, bất ngờ phát hiện mái dãy núi ôm ấp thôn
Dỗi có hai màu, một xanh non của rừng keo tai tượng mới trồng và màu thẫm xanh
của rừng nguyên sinh, giữa rừng trẻ và già như có một dòng suối xanh quyến luyến
chở che nhau. Dòng sông xanh lá này chính là cốt cách cần cù, chịu thương chịu
khó của bà con Cơ tu, xưa kia họ thích canh tác "phát, cốt, đốt, trỉa",
cư trú vùng đất cao "Pơ Phương dal", nay họ quen định cư, biết trồng
lúa nước, chăn nuôi, trồng cây gây rừng bảo vệ sinh thái làm du lịch để giảm bớt
sự hung dữ của thiên nhiên khi nổi chứng! Về thôn, tôi gặp anh Hồ Văn Tân đang
chăn cặp bò lai Sind. Tôi gợi chuyện? Anh nói:
- Ngoài 2 sào vườn này, tôi còn một ha rừng, trồng 800
cây keo đã 2 năm tuổi, từ gốc lên đến ngọn đã 2m5. Năm năm tới mới thu hoạch. Đất
ha keo và 2 sào vườn đã được cấp thẻ đỏ.
Lại một đêm trăng tôi ngồi trò chuyện ông Trần Văn Cang bên
cút rượu làng. Năm nay ông 68 tuổi, người thấp đậm, tay chân còn rắn chắc đen
nhẽm. Bà con thôn Dỗi thường tổ chức lễ đâm trâu vào ngày mừng lúa mới và ngày
28 tháng Chạp âm lịch. Ông bảo rằng, không phải ai tuổi cao cũng được mời đâm
trâu. Trước khi làm lễ đâm trâu, các bô lão họp lại chọn mời người tuổi 60 trở
lên, rồi sắm một mâm lễ vật rượu thịt đến mời ông. Ông Cang nhận lễ vật và bảo:
"Cộng đồng tin tưởng mời tui, tui đâu dám chối". Đến ngày đâm trâu,
bà con cột trâu trước nhà Gươl, nhảy múa, ca hát, cúng Giàng suốt đêm, sáng mai
ông Cang cũng nhảy múa ca hát rồi đâm đúng vào nách phải con trâu, đâm thế nào
để khi trâu ngã vật ra chết, phải cách cột đúng một mét, đầu phải gối núi, đuôi
hướng ra sông và không được đụng cột hoặc nằm dài ngoài ba mét tính từ chân cột,
năm ấy người làng được khoẻ mạnh, làm ăn phát đạt, khi có lễ đâm trâu các cụ lại
mời. Ông Cang đã ba đời đâm trâu!
Đêm đã khuya, rượu đã nhạt, chào ông Cang tôi về. Trăng càng
khuya, càng bịn rịn cánh rừng màu ghi cổ tích. Tôi lang thang với trăng và nhớ
lại hôm mới đến thôn Dỗi, ở nhà anh Lê Văn Đạt. Đạt vừa tốt nghiệp trung học,
hiện đang theo học lớp đối tượng Đảng. Ngôi nhà ngói, vách gỗ kiền rộng rinh bởi
chỉ có Đạt và cô em gái học lớp 11cùng mẹ Đạt. Cha Đạt là ông Lê Văn Nưng mất
cách đây ba tháng. Ở Đạt toát ra một vẻ đẹp mạnh mẽ của núi rừng. Tôi lại nghĩ
đến chàng Vọi nhân vật của một nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn. Vọi vạm vỡ
như Đạt nhưng ngây ngô hơn. Ở với gia đình Đạt ba đêm trăng, tôi mới biết năm
1995, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh đến thôn Dỗi, đã ghé thăm gia đình Lê Văn
Nưng.
Tổng số hộ Thượng Lộ có 227 hộ, 1.128 nhân khẩu, riêng thôn Dỗi
118 hộ, 507 nhân khẩu; 90% nhà có ti vi, chỉ 38 xe Honda. Thôn lại có hai đội
văn nghệ, trong đó một thanh niên, một thiếu niên. Ngoài thu nhập theo vụ, theo
mùa từ rừng, ruộng vườn, chăn nuôi, ao cá… bà con thôn Dỗi còn đón du khách về
du lịch sinh thái thác Ka Dang. Nhưng thác Ka Dang chưa thu hút du khách, bởi
chưa lều trại, hàng quán và các dịch vụ khác. Khách đến với Ka Dang trơ trọi
dòng suối rừng! Thực sự họ đến với những điệu múa đậm đà bản sắc dân tộc Cơ tu
do hai đội văn nghệ thôn biểu diễn là chính. Một lần biểu diễn mỗi diễn viên được
20 ngàn đồng, tháng vài lần, nên vẫn còn một số bà con thôn Dỗi nhiêu khê chuyện
cơm áo. Tôi nghĩ, giá như thác Ka Dang có các dịch vụ cần thiết và trên đỉnh
đèo Tà Gùng có nhà Gươl cho du khách ngoạn cảnh, chắc cuộc sống của bà con thôn
khởi sắc hơn.
Chia tay với mùa trăng đầu ngọn nước, bài hát "Trăng Nam
Đông" của nhạc sĩ Minh Phương vừa sáng tác cứ ngân vang mãi trong lòng tôi
theo nhịp bánh xe lăn về Huế "… Yêu mùa trăng Nam Đông…kiêng p ar rương Nam
Đông"…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét