Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh Tôn,
sinh ra ở Huế. Ông thuộc dòng dõi hoàng tộc. Cha ông từng là tri huyện Bố Trạch,
Quảng Bình, rồi làm Tổng đốc Tây Nguyên dưới triều Nguyễn. Hải Bằng gia nhập Vệ
quốc quân từ khi mới 14 tuổi, là chiến sĩ thuộc trung đoàn 101 tại Thừa Thiên.
Từ năm 1948, ông ở trong đoàn văn nghệ Liên khu IV vào chi viện
cho chiến trường Bình Trị Thiên. Lúc này, ông lấy tên là Văn Tôn, làm thơ và đọc
cho bộ đội nghe. Những bài thơ của ông liên tục xuất hiện tại chiến khu Dương
Hòa, Ba Lòng, Gio Linh, Cam Lộ. Trong số đó có bài thơ nổi tiếng "Em nữ cứu
thương người Pháp" gây ra nhiều tranh cãi. Năm 1954 ông được chuyển công
tác về Vụ Văn hóa Đại chúng thuộc Bộ Văn hóa. Năm 1959 ông về Ty Văn hóa Quảng
Bình làm công tác phát hành sách. Sau khi đất nước thống nhất ông cùng gia đình
về lại cố đô Huế sinh sống và làm việc tại Ty Văn hóa Bình Trị Thiên cho đến
khi ông nghỉ hưu năm 1994.
Nhà thơ Hải Bằng thuộc thế hệ nhà văn sáng lập Hội Nhà văn Việt
Nam. Ông có mặt trong Đại hội thành lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957 với tên
Vĩnh Tôn, sau đó do điều kiện công tác, ông không tham gia sinh hoạt và 1985 được
kết nạp vào Hội lần thứ 2 với tên Hải Bằng. Ngoài làm thơ ông còn yêu thích vẽ
tranh và tạo hình rễ cây.
Tác phẩm đã xuất bản: Hát về ngọn lửa (1980); Trăng
đợi trước thềm (1989); Thơ tình Hải Bằng (1989); Mưa Huế (1992); Mưa
lại về (1993); Sóng đôi bờ (1994); Đề lên năm tháng (1995); Tuổi
Huế trong ta (1996); Độc hành (1998)…
Nhà thơ Hải Bằng qua đời ngày 7 tháng 7 năm 1998. Nhân kỷ niệm
20 năm ngày mất của nhà thơ, xin giới thiệu lại bài viết của nhà văn Nguyễn
Quang Lập, một bài viết được nhiều người yêu thích về ông.
Nhà thơ Hải Bằng (Vĩnh Tôn) và tác phẩm
Nhớ Hải Bằng
NGUYỄN QUANG LẬP
Anh Hải Bằng làm thơ từ thời kháng Pháp*, nổi tiếng như cồn
ba tỉnh Bình Trị Thiên. Anh hay ra Ba Đồn chơi, lần nào anh ra một vạn dân thị
trấn ai cũng biết.
Mình nhớ như in hồi lớp một, một hôm anh đến nhà mình, ba
mình lật đật chạy ra ngõ khom người đưa hai tay ra bắt, miệng lập cập nói, mời
anh... mời anh, dù ba mình lớn hơn anh chục tuổi, quyền chức cũng gấp 10 anh, hồi
kháng Pháp còn là sếp trực tiếp của anh.
Mình đứng ôm cột nhà nhìn anh, hồi đó còn bé thấy nhà thơ
cũng giống nhà hoạn heo, không xúc động gì, chỉ đứng ôm cột nhà trương mắt
nhìn.
Anh cúi xuống búng chim mình một cái, nheo mắt cười chào, hỏi
ba mình, con anh có đứa mô biết mần thơ không? Ba mình nói, dạ không, con tôi
toàn giỏi tự nhiên, không đứa nào mê văn chương. Anh lại bóp chim mình cái nữa,
nói, tiếc hè, thằng ni trôốc (đầu) to ri mà không mần được thơ, tiếc hè.
Anh uống rượu đọc thơ. Mạ và hai chị mình chạy vào chạy ra tiếp
rượu, đồ mồi, thầm thầm thì thì, nét mặt nghiêm trọng. Ba mình thì khúm núm
nghe anh đọc thơ, nhìn anh ngưỡng mộ, thỉnh thoảng lại kêu lên: Hay! Sâu sắc!
Sau này thành nhà văn gọi là nổi tiếng, mình chưa đến nhà ai
mà được người ta ngưỡng mộ đến như thế.
Từ đó mình bắt đầu để ý thơ Hải Bằng. Hễ có bài nào anh đăng
là chụp đọc ngay, rồi chép thành một cuốn sổ. Bây giờ đọc lại, thấy tàm tạm, chẳng
bài nào hay, nhưng hồi đó bài nào của anh mình cũng ngây ngất như đọc thánh ca.
Chẳng ngờ mười năm sau mình cùng được giải ba (không có giải
nhất) thơ Quảng Bình với anh, còn đứng trên cả anh. Hồi đó không xếp theo abc,
cùng giải thơ, ai hay hơn thì xếp trên.
Một thằng cu con học lớp 10 lại cùng giải với một nhà thơ
mình vô cùng ngưỡng mộ, thật còn hơn cả một giấc mơ, đừng nói còn xếp trên giải.
Khi trao giải thì mình đã đi học Bách Khoa, không vào Hội được.
Tiếc quay quắt. Năm sau hợp nhất ba tỉnh, mình vào Huế, đến Hội văn nghệ, đinh
ninh cả Hội sẽ vây quanh vồ vập Nguyễn Quang Lập đó à, trẻ quá hè, tài hè...
hóa ra lạnh như kem.
May có chị Dạ (Lâm Thị Mỹ Dạ) tiếp đón không thì chết đói ở
Huế không biết chừng.
Tội nghiệp chị Dạ dắt mình đi, gặp ai cũng nói Nguyễn Quang Lập
đây nì, ai cũng à, bắt tay rồi bỏ đi.
Hội đông người, mình chẳng biết ai ra ai, chỉ nhớ nhất Hải Bằng.
Khi đó ông đang đứng nói chuyện với Bửu Chỉ và Trịnh ông Sơn. Chị Dạ nói, anh Hải
Bằng, Nguyễn Quang Lập đây nì.
Anh ngoảnh lại, tưởng anh à, rồi bắt tay mình như anh Sơn,
anh Bửu Chỉ, hoá ra anh không thèm nhìn mình mà hỏi chị Dạ, mi đã đọc chùm thơ
tau đăng báo Văn Nghệ chưa?
Chị Dạ nói, đọc rồi. Chị lại kéo tay mình ấn về phía anh,
nói, Nguyễn Quang Lập đây nì. Anh vẫn không thèm nhìn mình, mắt vẫn hướng về chị
Dạ, nói, hay không?
Mình vừa tức vừa ngượng vừa tủi.
Chị Dạ lôi mình đi, miệng lẩm bẩm, cái ông Hải Bằng ni tức cười,
khi em được giải, ông khoe đi khoe lại thân với nhà em lắm.
Về sau mình mới biết Hải Bằng chỉ quan tâm đúng hai thứ, đó
là thơ anh và con Xíu, con gái đầu của anh.
Anh Sơn (Trịnh Công Sơn) nói, Lập vô đây nên biết, tất nhiên
thơ Hải Bằng là số một rồi, còn ai là số hai, số ba, số bốn thì tụi mình tha hồ
bầu.
Đúng vậy, ai chê thơ anh lập tức bị ăn chửi liền, dù người đó
có là ông trời. Bạn chí cốt, nếm mật nằm gai một thời với anh như Phùng Quán
cũng chưa bao giờ dám mở mồm chê một nửa câu thơ của anh.
Ai từng ở Huế, biết tí chút văn thơ, đều nhớ câu ca: Thứ
nhất là sợ đau răng/ Thứ nhì sợ bác Hải Bằng đọc thơ. Một hôm anh Sơn phổ nhạc
câu thơ này, theo điệu Lý năm canh, mình và Vinh Nguyễn cười lộn ruột.
Anh đọc thơ bất kỳ lúc nào, bất kỳ ai, không cần biết người
đó có sẵn sàng nghe hay không. Đọc xong anh hỏi hay không, tất nhiên phải nói
hay, anh hỏi hay răng. Khi đó mà không nói được vài điều khen hay cho có lý,
anh cũng chửi.
Anh có tài tạo hình bằng rễ cây, chủ yếu là tạo hình các con
thú. Nhà anh đầy những rễ cây các con thú khác nhau. Đến chơi nhà, bao giờ anh
cũng chỉ một hình rễ cây vừa làm xong hỏi đẹp không, tất nhiên là nói đẹp. Nói
xong thì lo thắt ruột sợ anh hỏi con chi, không nói được thì bỏ bà.
Các hình rễ cây đều gắn lên đế gỗ. Cái đế nào cũng ký hai chữ
Hải Bằng. Một hôm mình ngồi chơi với anh, bạn trai con Xíu đến chơi, nó nịnh
anh, khen hình rễ cây anh đẹp. Anh thích lắm, nói với mình, đó... bạn con Xíu
đó, bạn con Xíu đứa mô cũng giỏi. Thằng bé phởn, tưởng bở, cầm cái rễ cây ngắm
nghía, không biết là hình con gì, nó hỏi, Hải Bằng là con chi hả bác?
Anh hét lên, con cái mả cha mi. Ngu rứa. Thằng bé sợ tái mặt,
đứng đực, vẫn không hiểu vì sao anh chửi nó.
Làng văn Huế, Hải Bằng là bậc trưởng lão, tuổi nghề cũng như
tuổi đời anh đều hơn hết thảy. Vì vậy anh có nói gì cũng chẳng ai dám ho he. Với
lại biết bụng dạ anh chẳng có gì. Chửi đó thân thiện đó. Như con nít đang khóc
thét dữ dội, gặp cái ưng ý là cười liền, anh cũng vậy.
Buổi chiều vừa chửi anh Văn Lợi không còn một lời nào, tối
mình đến nhà Hải Bằng, nói, anh chửi anh Văn Lợi chi tội, anh Văn Lợi đánh giá
thơ anh cực kỳ luôn.
Anh hỏi, đánh giá răng? Mình nói phét, Văn Lợi nói thơ Tố Hữu
nhiều bài dở nhưng thơ Hải Bằng thì không có, tao đọc kỹ rồi, tìm mãi không thấy
bài nào dở, tuyệt nhiên không.
Anh cười nói, thằng Văn Lợi hay chơ. Sáng mai gặp Văn Lợi,
anh nói cười như không, như chưa hề có vụ chửi ngày hôm trước.
Một đêm anh Sơn uống rượu, bày thơ Hải Bằng ra diễu, chỉ trêu
vài câu thôi. Có ai đó nói lại với anh. Sáng sớm anh đã chặn cửa Hội chờ anh
Sơn đến. Anh Sơn vừa đạp xe đến, anh cầm ghi đông xe chặn lại hỏi, răng mi chê
thơ tao?
Anh Sơn vội vàng nói anh đừng nghe chúng nó tào lao, vào đây
em hát cái bài em vừa phổ nhạc thơ anh. Anh Sơn vừa hát vừa bịa, nghe cũng du
dương phết, Hải Bằng cười nói, bài ni hay, hay hơn Hạ trắng nhiều
hi!
Lần đầu mình đến chơi nhà anh, túi găm cái bút bi đỏ. Hồi đó
bút bi thuộc loại quý hiếm, bút bi đỏ càng hiếm. Anh rút cái bút bi đỏ ngắm
nghía, khen đẹp rồi nói, tau hý. Anh thản nhiên nhét cái bút vào túi anh,
coi như mình rất phấn khởi được tặng anh cái bút.
Về sau mới biết anh nổi tiếng tau hý, gặp ai thấy cái gì
hay là anh tau hý rồi lấy như không. Lấy rồi về vứt đấy chẳng dùng,
nhiều khi lại mang đi cho người khác, nhưng hễ thấy ai có cái gì hay hay là anh
không chịu được, dứt khoát phải tau hý.
Một hôm, ở nhà anh Tường, mình và anh Quán chuẩn bị sang nhà
Hải Bằng chơi. Anh Quán nói, có cái chi hay thì bỏ ở nhà nghe, tụi mình sang
nhà thằng tau hý đó.
Hải Bằng rụng răng sớm, 40 tuổi đã rụng răng, đến 50 đã phải
đeo răng giả. Xưa rất thân nữ nhà thơ Th. Mọi người không biết họ có họ xa với
nhau, vẫn trêu chọc họ là yêu, mới bịa ra chuyện cô Th. chơi với Hải Bằng về,
thấy cân cấn trong miệng, khạc ra, hóa ra là cái răng Hải Bằng.
Anh Tường bênh, nói, sai rồi... tại Hải Bằng say đọc thơ văng
cả răng, nữ nhà thơ Th. nhặt được, nói tau hý. Hải Bằng tiếc lắm nhưng gái
xin không lẽ không cho.
Nói vậy thôi chứ Hải Bằng rất hay tặng quà người khác, văn
nghệ sĩ ở Huế ai chơi thân với anh ít nhất cũng một lần được anh tặng quà,
nhưng cái tật tau hí của anh nổi tiếng đến nỗi người ta cứ đinh ninh
hễ gặp anh là thế nào anh cũng tau hý.
Anh Quán kể, Hải Bằng ra Hà Nội, anh tặng Phùng Quán cái bút
Kim Tinh rất đẹp. Khi vào Huế, vào nhà thăm Hải Bằng, anh Phùng Quán cố tình
găm cái bút Kim Tinh lên túi, mục đích để Hải Bằng cảm động khi thấy Phùng Quán
đã gìn giữ nâng niu cái bút của mình.
Nhưng Hải Bằng quên mất đó là cây bút của anh, liền lấy cái
bút ngay, nói với Phùng Quán, tau hý!.
Rút từ Bạn văn 1/ Văn Nghệ
Ghi chú:
* Hải Bằng là tác giả câu thơ: Khi Việt Nam ngủ, Cu Ba thức/ Giữa
thế kỷ này ta đổi canh nhau.
Nguyễn Quang Lập
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét