Nguyễn Trãi (1380-1442) là
nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà văn Việt Nam kiệt xuất, danh nhân văn hóa thế
giới. Ông quê ở Chi Ngoại, Phượng Sơn, Lạng Giang nay thuộc Hải Dương, sau rời
về xã Ngọc Ổi (sau đổi là Nhị Khê), Thường Tín, Hà Tây (nay là Hà Nội). Nguyễn
Trãi là con trai cả của nhà nho nghèo Nguyễn Ứng Long, tức Nguyễn Phi Khanh và
Trần Thị Thái, con gái tể tướng Trần Nguyên Đán cuối triều Trần.
Nguyễn Ứng Long vốn làm gia sư trong nhà quan Tư đồ
Trần Nguyên Đán. Ông được học trò Trần Thị Thái, con gái đầu của gia chủ đem
lòng yêu. Khi cô Thái có thai, Ứng Long hoảng sợ bỏ chạy. Trần Nguyên Đán
biết chuyện, gọi về và tác hợp cho hai người. Bởi thế, suốt thời thơ ấu, Nguyễn
Trãi được sống trong tư dinh của ông ngoại, hưởng nếp sống quý tộc của nhà Trần.
Còn cha ông, Ứng Long, dù đỗ Thái học sinh (tiến sĩ), nhưng phạm luật con nhà
thường dân lấy dòng giống tôn thất nên không được làm quan, phải về quê dạy học.
Sau khi mẹ mất, rồi ngoại cũng mất, Nguyễn Trãi phải về quê sống đời thôn dã với
cha, được cha rèn cặp, dạy dỗ. Có thể là người của hai dòng máu trái ngược,
cũng như hai văn hóa trái ngược, bình dân và quý tộc, nên Nguyễn Trãi trưởng
thành sớm, thông minh và về sau có những ứng xử khác thường, vượt truyền thống.
Đến đời Hồ, Nguyễn Trãi cũng thi đỗ Thái học sinh, được giao
chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn Nguyễn Ứng Long cũng được nhà Hồ mời ra làm
quan với cái tên mới là Nguyễn Phi Khanh. Khi quân Minh sang xâm lược, nhà Hồ tổ
chức kháng chiến, nhưng do lòng người ly tán vì còn nhớ cái cũ, nên thất bại.
Nguyễn Phi Khanh cùng nhiều người khác bị bắt giải sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi
chạy theo cha lên ải Nam Quan, muốn cùng ông sang Trung Quốc, nhưng vì đại
hiếu mà phải quay về tìm đường cứu nước.
Suốt thời gian Nguyễn Trãi ở hoặc bị ở Đông Quan, đã có nhiều
cuộc khởi nghĩa nổ ra và đều do con cháu nhà Trần lãnh đạo. Số cựu thần, quan lại,
quý tộc theo rất đông. Theo lẽ thường, một người nhiệt thành yêu nước, lại có
dây mơ, rễ má với nhà Trần như Nguyễn Trãi, ắt phải tham gia vào cuộc kháng chiến
hậu Trần này. Nhưng Nguyễn Trãi đã không đi theo, mà sau này lặn lội vào tận
Lam Sơn theo Lê Lợi, chỉ là một thổ hào địa phương vùng mường mán. Một truyền
thuyết kể lại rằng, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đến tìm gặp Lê Lợi từ rất sớm,
nhưng thấy cung cách ứng xử “rừng rú” của Lê Lợi nên bỏ về, để mãi đến năm 1416
mới tham gia nghĩa quân cùng 18 người khác dự Hội thề Lũng Nhai. Thậm chí còn
có cả thuyết cho rằng mãi đến năm 1420, Nguyễn Trãi mới gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang
và trao cho ông Bình Ngô sách (sách dẹp giặc Ngô), trong đó “không
nói đến việc đánh thành mà nói đến việc đánh vào lòng người” như phương châm
chiến lược của cuộc khởi nghĩa.
Ở đây có thể thấy được tầm nhìn của Nguyễn
Trãi.
Một là, ông đã thắng được “sức mạnh phản ứng” mang tính bản năng, vô thức nên kiên quyết không theo cuộc kháng chiến hậu Trần. Ông hiểu con người cũ, tức con người quý tộc nhà Trần, không thể mang lại cái mới, nên cuộc kháng chiến trước sau gì rồi cũng sẽ thất bại.
Hai là, ông nhìn thấy cái mới đó ở Lê Lợi, dù con đường đến với cái mới này không hề dễ dàng, có những lộn đi lộn lại. Vì viên ngọc ẩn trong đá nên một lúc không dễ nhận ra. Hoặc có nhận ra được thì nó cũng quá khác với bản thân mình, với những gì mình được giáo dục từ nhỏ.
Ba là, phương châm “đánh vào lòng người” không chỉ là sách lược khi nghĩa quân còn ở thế yếu, khi số người ủng hộ chưa nhiều, mà còn là một chiến lược không chỉ cho cuộc khởi nghĩa mà cho cả xây dựng chế độ sau này. Phương châm này trong Bình Ngô đại cáo được diễn tả rõ hơn: việc nhân nghĩa cốt để yên dân. Tiếc rằng, sau chiến thắng, Lê Lợi không giữ được chiến lược này.
Một là, ông đã thắng được “sức mạnh phản ứng” mang tính bản năng, vô thức nên kiên quyết không theo cuộc kháng chiến hậu Trần. Ông hiểu con người cũ, tức con người quý tộc nhà Trần, không thể mang lại cái mới, nên cuộc kháng chiến trước sau gì rồi cũng sẽ thất bại.
Hai là, ông nhìn thấy cái mới đó ở Lê Lợi, dù con đường đến với cái mới này không hề dễ dàng, có những lộn đi lộn lại. Vì viên ngọc ẩn trong đá nên một lúc không dễ nhận ra. Hoặc có nhận ra được thì nó cũng quá khác với bản thân mình, với những gì mình được giáo dục từ nhỏ.
Ba là, phương châm “đánh vào lòng người” không chỉ là sách lược khi nghĩa quân còn ở thế yếu, khi số người ủng hộ chưa nhiều, mà còn là một chiến lược không chỉ cho cuộc khởi nghĩa mà cho cả xây dựng chế độ sau này. Phương châm này trong Bình Ngô đại cáo được diễn tả rõ hơn: việc nhân nghĩa cốt để yên dân. Tiếc rằng, sau chiến thắng, Lê Lợi không giữ được chiến lược này.
Tại sao Nguyễn Trãi lại có một tầm nhìn trước thời đại như vậy?
Có thể có nhiều cách diễn giải khác nhau, nhưng tôi cho rằng, ông nhận thức được
trung đại của Việt Nam đã sang một khúc rẽ mới. Do sự phát triển của ruộng
tư so với ruộng công, nên nền kinh tế điền trang thái ấp sụp đổ, tầng lớp
quý tộc bị thay thế bởi tầng lớp địa chủ nhỏ, Phật giáo nhà nước bị thay thế bởi
Nho giáo. Nho sĩ từ chỗ chỉ là thư lại, làm chân sai vặt cho quý tộc, đã dần dần
chiếm lấy bộ máy hành chính của xã hội và qua đó, toàn bộ xã hội. Để làm được
việc này, phải hình thành một tầng lớp nhà nho kiểu mới.
Nguyễn Trãi là một nhà nho, điều này đến nay hẳn khỏi phải
bàn. Có thời do đồng nhất Nho giáo với phong kiến, nên trong cơn cuồng hứng của
tinh thần phản phong, người ta cho rằng Nguyễn Trãi không phải là một nhà nho,
mà là người con thuần chủng của dân tộc Việt Nam. Nay vấn đề Nho giáo và bản sắc
dân tộc đã được nhìn nhận bình tĩnh hơn và Nho giáo đã được coi là một bộ phận
của văn hóa Việt Nam, nên điều cần hơn, tôi nghĩ, không phải là xem xét Nguyễn
Trãi có phải là nhà nho hay không, một câu chuyện đã rõ như ban ngày, mà là xem
Nguyễn Trãi thuộc loại hình nhà nho nào. Đây có lẽ chính là chìa khóa để
hiểu Nguyễn Trãi: con người số phận.
Trước hết, ta có thể nói, Nguyễn Trãi là một nhà nho mới.
Mới so với các nhà nho cũ thời Lý Trần, đặc biệt là cuối Trần.
Như đã biết, Lý Trần là thời đại Phật giáo làm quốc giáo và
điều hành xã hội là quý tộc thuộc dòng máu thuộc họ Lý hoặc họ Trần. Trong bối
cảnh đó, các nhà nho chỉ có thể được phục vụ trong bộ máy nhà nước với tư cách
là những nhân viên hành chính. Và khi thế lực Nho giáo dần dần mạnh lên, họ
không thỏa mãn với địa vị lép vế đó, họ muốn trở thành những nhà cai trị để rộng
đường truyền bá lý tưởng Nho giáo của mình. Họ bắt đầu công kích hệ tư tưởng của
Phật giáo và đời sống xa hoa của nhà chùa. Nhưng điều đáng nói là sự công kích
của họ hoàn toàn dựa vào giáo điều cổ điển của Nho giáo và đời sống xã hội cổ
xưa của Trung Hoa. Chẳng thế mà Minh Tông lẫn Nghệ Tông nhà Trần đã nhiều lần mắng
họ là những kẻ bỏ qua văn hiến dân tộc để lăm le học đòi văn hóa của người
khác. Họ là những nhà nho cũ, bởi họ là những nhà nho thuần túy, nhà nho
theo giáo điều của Nho giáo.
Tuy nhiên, cuối đời Trần, chế độ điền trang thái ấp đã cản trở
sự phát triển kinh tế của xã hội, bởi nó ngăn cản sự tư hữu hóa ruộng đất và sự
phát triển của tầng lớp địa chủ nhỏ. Còn tầng lớp quý tộc thống trị thì vì quyền
lợi của mình đã chia năm xẻ bảy. Đất nước phân ly và bên ngoài thì giặc ngoại
xâm rập rình nhòm ngó. Phật giáo có lúc đã từng đóng vai trò cơ chế tư tưởng để
xây đắp tinh thần dân tộc và thống nhất đất nước thì nay đã bất lực. Cần có hệ
tư tưởng mới: Nho giáo. Cần có con người mới: nhà nho mới.
Hồ Quý Ly là một nhà nho mới như vậy. Hay chí ít, ông cũng là
người dọn đường cho sự ra đời một lớp nhà nho như vậy. Về mặt kinh tế xã hội, Hồ
Quý Ly đã ban hành chính sách hạn điền, hạn nô nhằm phá vỡ chế độ điền trang
thái ấp của tầng lớp quý tộc Trần tạo điều kiện cho tầng lớp địa chủ nhỏ ra đời
và phát triển. Về mặt hệ tư tưởng, Hồ Quý Ly quảng bá Nho giáo bằng việc cho dịch
kinh điển chữ nôm, trọng dụng nhân tài không phân biệt nguồn gốc xuất thân bình
dân của họ, chẳng hạn như nhà nho Nguyễn Phi Khanh. Đồng thời, Hồ Quý Ly vẫn
không xao nhãng chuẩn bị chống ngoại xâm, dù kẻ ngoại xâm ấy đến từ đất nước của
Khổng Tử, như đóng thuyền, đúc vũ khí, rào ngăn cửa biển, xây dựng Tây đô...
Đáng tiếc là những cải cách táo bạo đó của Hồ Quý Ly chưa đủ thời gian để tạo
ra những hiệu quả xã hội tích cực, đủ sức tác động vào ý thức chính thống hay ý
thức phò chính thống, thì quân Minh đã thừa thắng kéo tới. Gần hai mươi năm đô
hộ và đồng hóa của giặc Ngô là một thảm họa đối với văn hóa dân tộc. Nhưng sự xóa
sạchdấu ấn nhà Trần (chế độ điền trang thái ấp, tầng lớp quý tộc Trần, hệ tư tưởng
Phật giáo) vô hình trung đãdọn mặt bằng sự phát triển mới của tư tưởng Nho
giáo và tiền đề của việc xây dựng một nhà nước quân chủ Nho giáo. Và trên cơ sở
này, nhà nho mới Nguyễn Trãi ra đời.
Trước hết, ở Nguyễn Trãi, lý tưởng hành đạo của nhà nho xoắn
lấy mục tiêu vì độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc của dân chúng (việc lấy lý
thuyết Nho giáo ra để bác lại lý lẽ của Vương Thông và sự bảo vệ chính nghĩa của
Lê Lợi không chỉ là “thủ đoạn ngoại giao” hoặc chiến thuật “đánh vào lòng người”
của Nguyễn Trãi mà chính là niềm tin của ông, lý tưởng hợp nhất mà suốt đời ông
theo đuổi). Vì thế, khi nước mất nhà tan, ông tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn và chiến đấu hết mình. Đến khi giành được độc lập, ông lại hết mình xây dựng
một chế độ mới, thực thi một thứ Nho giáo thân dân.
Đó là thứ Nho giáo linh hoạt không xơ cứng. Thực ra, tự bản
thân nó, Nho giáo chưa bao giờ xơ cứng mà nó còn tỏ ra rất linh hoạt. Vốn là một
học thuyết có tính nước đôi, hay nói một cách khoa học là một hệ thống có nhiều
trung tâm hoặc một liên hệ thống, Nho giáo có khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh.
Vấn đề là người sử dụng, dân tộc sử dụng, xã hội sử dụng. Vì thế các Nho
giáo thực tế chẳng những cũng khác so với Nho giáo lý thuyết, mà còn
rất khác xa nhau. Nho giáo Nguyễn Trãi còn dung chứa nhiều yếu tố Phật giáo và
Lão Trang, đặc biệt là Trang. Điều này thật khác với Nho giáo thời Lê Thánh
Tông, khi nó trở thành quốc giáo, vừa lên ngôi độc tôn bèn đàn áp tín ngưỡng
dân gian, kỳ thị Phật giáo, Đạo giáo và loại chúng ra khỏi đời sống chính thức
của cung đình. Bởi thế, nhà nho quân tử thời Lê Thánh Tông tuy đạo cao đức trọng
nhưng thật phiến diện, một chiều. Một chiều trong lối sống, lối cảm, lối nghĩ.
Đó là con người không có con người tự nhiên, con người không có con người cá
nhân, con người không có lạc thú cá nhân, con người chức năng... Điều này thật
khác với nhà nho mới Nguyễn Trãi. Một con người phong phú, đa diện, nhiều kích
thước và giàu tài năng. Tuy thời đại Nguyễn Trãi không hẳn là thời đại có khả
năng sinh ra những người khổng lồ như Hy Lạp cổ đại, Phục hưng châu Âu hoặc nước
Nga cuối TK XIX đầu TK XX, nhưng tôi vẫn thấy ông là một người khổng lồ. Mà khổng
lồ một cách đơn độc.
Nguyễn Trãi, trước hết, là con người chính trị. Mà bất cứ một
nhà nho nào, đi tới cùng, chả thấp thoáng một con người chính trị. Nhưng con
người chính trị Nguyễn Trãi còn là con người yêu nước, còn là một trí thức. Khi
thì ngồi im ở Đông Quan để quan sát và suy ngẫm về thời cuộc tìm kế sách bình
Ngô. Khi thì bôn tẩu giang hồ tìm người đồng tâm đồng chí. Đặc biệt là tìm minh
chủ. Có lẽ, chỉ có nhãn quan một nhà chính trị sáng suốt, “anh hùng đoán giữa
trần ai mới già”, mới cho phép Nguyễn Trãi bỏ qua các ông vua hậu Trần để đến với
kẻ hào trưởng nhà quê Lê Lợi, tôn ông này làm minh chủ và làm quân sư cho ông
ta đến khi kháng chiến thắng lợi. Sau đó, ông còn là kiến trúc sư không thành của
nhiều chính sách xây dựng triều đại mới.
Suốt trong cuộc kháng chiến, trung thành với chiến lược “đánh
vào lòng người”, Nguyễn Trãi còn là một nhà ngoại giao kiên trì, mềm dẻo và
khôn khéo. Quân trung từ mệnh tập không chỉ là những tài liệu ngoại
giao quý hiếm, mà còn là những áng văn chính luận xuất sắc của một cây đại bút.
Tài năng chính luận của Nguyễn Trãi thể hiện rực rỡ nhất ở Bình Ngô đại
cáo viết sau chiến thắng quân Minh. Có thể nói, đây là bản tuyên ngôn độc
lập thứ hai của nước Việt Nam. Một áng thiên cổ hùng văn. Ở Bình Ngô đại
cáo người ta thấy rõ sự phát triển đỉnh cao của ý thức dân tộc, át hẳn ý
thức quốc gia là yếu tố nổi trội ở những triều đại trước đó. Nhưng, có lẽ, sự
nghiệp văn học của Nguyễn Trãi đậu lại ở mảng thơ, thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm.
Thơ chữ Hán của ông chứa đựng đầy tâm sự, lý tưởng xây dựng chế độ mới, nỗi buồn
vì sự bất lực, sự tiếc nhớ người anh hùng Hồ Quý Ly, nỗi mong được về Côn Sơn dựng
nhà bên suối đọc sách... Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi vẫn nằm trong dòng thơ Trần,
phóng túng, nhiều sáng tạo. Thơ nôm Nguyễn Trãi cũng chứa đựng những tâm sự như
ở thơ chữ Hán, nhưng nét đậm của nó là sự thao thức của một người sống bên
thiên nhiên, cây cỏ mà vẫn không khuây được lý tưởng giúp đời. Thơ nôm Nguyễn
Trãi là một bước phát triển đột xuất của thể loại thơ nôm bảy chữ với biến thể
xen lục ngôn, đặc biệt là sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc. Đến nay, Quốc
âm thi tập của Nguyễn Trãi là một tượng đài văn hóa cổ xưa và vĩ đại nhất
của thơ ca Việt Nam. Ngoài ra, Nguyễn Trãi với tác phẩm Dư địa chí còn
là người đầu tiên mở ra lĩnh vực địa lý học lịch sử và địa văn hóa học.
Có thể nói, Nguyễn Trãi là một trí thức xuất chúng của thời đại
ông và không chỉ thời đại ông. Một người đã làm nên bản thân mình. Nguyễn Trãi
đã tự mình trở thành Nguyễn Trãi. Điều đó cũng có nghĩa là ông đã chọn cho mình
một số phận. Mà kết cục của số phận đó thì dường như đã được báo trước. Điều
chưa biết với Nguyễn Trãi (và cả với chúng ta nữa) là kết cục ấy rơi vào tình
huống cụ thể nào. Nhưng là một người trung thành với bản thân, Nguyễn Trãi đã
không lảng tránh hoặc trốn chạy định mệnh ấy.
Đoạn trường của Nguyễn Trãi được bắt đầu từ vấn đề quan hệ giữa
trí thức và thủ lĩnh. Người trí thức, do gánh nặng tri thức của mình, thường
thì không có khả năng thực thi tư tưởng của mình, tức đưa cái tư tưởng ấy vào đời
sống. Anh ta phải hiện thực hóa nó qua vai trò của một thủ lĩnh. Thủ lĩnh
là người có năng lực hành động, khả năng tổ chức, có quyết tâm theo đuổi mục
đích đến cùng, dám và thích mạo hiểm, có quyền biến, thủ đoạn, thậm chí dám tàn
nhẫn. Ngày xưa, ai có những phẩm chất này thường được coi là người có cốt
cách đế vương, hoặc chân mệnh thiên tử.
Lê Lợi là một người như vậy. Tuy nhiên, lần đầu tiên vào Lam Sơn gặp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã không thiện cảm với ông ta, nên quay ra. Có thể cái mặt trái của học vấn bác học đã che mờ mắt ông. Hơn nữa, lúc này Lê Lợi mới chỉ là con rồng ẩn. Sau đó vượt qua được cái ngưỡng tri thức này, Nguyễn Trãi lại vào Lam Sơn lần hai và nguyện theo giúp Lê Lợi. Trong suốt cuộc kháng Minh, Nguyễn Trãi và Lê Lợi đã trở thành cặp bài trùng cho đến khi thắng lợi hoàn toàn.
Lê Lợi là một người như vậy. Tuy nhiên, lần đầu tiên vào Lam Sơn gặp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã không thiện cảm với ông ta, nên quay ra. Có thể cái mặt trái của học vấn bác học đã che mờ mắt ông. Hơn nữa, lúc này Lê Lợi mới chỉ là con rồng ẩn. Sau đó vượt qua được cái ngưỡng tri thức này, Nguyễn Trãi lại vào Lam Sơn lần hai và nguyện theo giúp Lê Lợi. Trong suốt cuộc kháng Minh, Nguyễn Trãi và Lê Lợi đã trở thành cặp bài trùng cho đến khi thắng lợi hoàn toàn.
Họ chỉ thực sự bị chia rẽ trong xây dựng. Sau chiến tranh, vấn
đề xây dựng một chế độ mới được đưa lên hàng đầu. Mô hình xã hội kiểu Lý Trần
đã không còn. Vậy cơ sở tồn tại mô hình nhà nước quân chủ Nho giáo của Trung
Hoa có thích hợp với phong thổ và tập quán Việt Nam? Liệu có con đường thứ ba?
Trước những câu hỏi sống còn này chỉ người trí thức mới có khả năng trả lời. Thế
là trí thức bỗng trở thành một quyền lực. Nhưng quyền lực vốn không thể là bàn
giao hoặc chia xẻ. Người thủ lĩnh Lê Lợi không muốn, tầng lớp quân sự cũng
không muốn. Và, về sau, tầng lớp quan lại muốn theo mô hình Trung Hoa, tiêu biểu
là Lương Đăng, cũng không muốn.
Nguyễn Trãi, do vậy, dần dần bị đẩy ra khỏi bộ máy quyền lực.
Đầu tiên phải làm những việc vô thưởng vô phạt một thứ nhàn quan, sau đó là về
vườn tự nguyện. Nhưng ở Côn Sơn, mặc dù nằm trên đá, gối lên rêu, tai nghe gió
đàn thông, mà lòng Nguyễn Trãi vẫn “cuồn cuộn nước triều đông”. Ông vẫn chờ cơ
hội để thực thi lý tưởng xây dựng một xã hội thân dân của mình. Sự thao thức đó
như một hòn than nóng đỏ dù đã khéo vùi dưới lớp tro nguội của các thích thú
Lão Trang cũng không dấu nổi những cặp mắt cú diều theo dõi từ Thăng Long. Thời
cơ chưa đến với Nguyễn Trãi thì cái chết thảm khốc đã đến với ông và thân quyến
ba họ: vụ án Lệ Chi Viên!
Cái chết của Nguyễn Trãi là do định
mệnh. Và định mệnh này mang một khuôn mặt rắn. Huyền thoại sự trả thù của con rắn
này, một mặt, minh oan cho Nguyễn Trãi, rằng vụ án Trại Vải không phải lỗi tại
ông, rằng Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo, mặt khác, cũng xóa tội cho
triều đình nhà Lê. Trăm tội đều do con rắn. Cũng đúng thôi, bởi con rắn đã từng
lừa con người để giành lấy sự bất tử, để con người phải đối diện với định mệnh
của mình. Nhất là người trí thức, kẻ cũng bị rắn lừa cho nếm quả hiểu biết.
Nhất là Nguyễn Trãi: Họa phúc hữu môi phi nhất nhật/ Anh hùng di hận
kỷ thiên niên.







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét