Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2019

Nguyễn Trãi, anh hùng để hận

Nguyễn Trãi, anh hùng để hận 
Nguyễn Trãi (1380-1442) là nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà văn Việt Nam kiệt xuất, danh nhân văn hóa thế giới. Ông quê ở Chi Ngoại, Phượng Sơn, Lạng Giang nay thuộc Hải Dương, sau rời về xã Ngọc Ổi (sau đổi là Nhị Khê), Thường Tín, Hà Tây (nay là Hà Nội). Nguyễn Trãi là con trai cả của nhà nho nghèo Nguyễn Ứng Long, tức Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị Thái, con gái tể tướng Trần Nguyên Đán cuối triều Trần.
Nguyễn Ứng Long vốn làm gia sư trong nhà quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Ông được học trò Trần Thị Thái, con gái đầu của gia chủ đem lòng yêu. Khi cô Thái có thai, Ứng Long hoảng sợ bỏ chạy. Trần Nguyên Đán biết chuyện, gọi về và tác hợp cho hai người. Bởi thế, suốt thời thơ ấu, Nguyễn Trãi được sống trong tư dinh của ông ngoại, hưởng nếp sống quý tộc của nhà Trần. Còn cha ông, Ứng Long, dù đỗ Thái học sinh (tiến sĩ), nhưng phạm luật con nhà thường dân lấy dòng giống tôn thất nên không được làm quan, phải về quê dạy học. Sau khi mẹ mất, rồi ngoại cũng mất, Nguyễn Trãi phải về quê sống đời thôn dã với cha, được cha rèn cặp, dạy dỗ. Có thể là người của hai dòng máu trái ngược, cũng như hai văn hóa trái ngược, bình dân và quý tộc, nên Nguyễn Trãi trưởng thành sớm, thông minh và về sau có những ứng xử khác thường, vượt truyền thống.
Đến đời Hồ, Nguyễn Trãi cũng thi đỗ Thái học sinh, được giao chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn Nguyễn Ứng Long cũng được nhà Hồ mời ra làm quan với cái tên mới là Nguyễn Phi Khanh. Khi quân Minh sang xâm lược, nhà Hồ tổ chức kháng chiến, nhưng do lòng người ly tán vì còn nhớ cái cũ, nên thất bại. Nguyễn Phi Khanh cùng nhiều người khác bị bắt giải sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi chạy theo cha lên ải Nam Quan, muốn cùng ông sang Trung Quốc, nhưng vì đại hiếu mà phải quay về tìm đường cứu nước.
Suốt thời gian Nguyễn Trãi ở hoặc bị ở Đông Quan, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra và đều do con cháu nhà Trần lãnh đạo. Số cựu thần, quan lại, quý tộc theo rất đông. Theo lẽ thường, một người nhiệt thành yêu nước, lại có dây mơ, rễ má với nhà Trần như Nguyễn Trãi, ắt phải tham gia vào cuộc kháng chiến hậu Trần này. Nhưng Nguyễn Trãi đã không đi theo, mà sau này lặn lội vào tận Lam Sơn theo Lê Lợi, chỉ là một thổ hào địa phương vùng mường mán. Một truyền thuyết kể lại rằng, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đến tìm gặp Lê Lợi từ rất sớm, nhưng thấy cung cách ứng xử “rừng rú” của Lê Lợi nên bỏ về, để mãi đến năm 1416 mới tham gia nghĩa quân cùng 18 người khác dự Hội thề Lũng Nhai. Thậm chí còn có cả thuyết cho rằng mãi đến năm 1420, Nguyễn Trãi mới gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang và trao cho ông Bình Ngô sách (sách dẹp giặc Ngô), trong đó “không nói đến việc đánh thành mà nói đến việc đánh vào lòng người” như phương châm chiến lược của cuộc khởi nghĩa.
Ở đây có thể thấy được tầm nhìn của Nguyễn Trãi. 

Một là, ông đã thắng được “sức mạnh phản ứng” mang tính bản năng, vô thức nên kiên quyết không theo cuộc kháng chiến hậu Trần. Ông hiểu con người cũ, tức con người quý tộc nhà Trần, không thể mang lại cái mới, nên cuộc kháng chiến trước sau gì rồi cũng sẽ thất bại. 
Hai là, ông nhìn thấy cái mới đó ở Lê Lợi, dù con đường đến với cái mới này không hề dễ dàng, có những lộn đi lộn lại. Vì viên ngọc ẩn trong đá nên một lúc không dễ nhận ra. Hoặc có nhận ra được thì nó cũng quá khác với bản thân mình, với những gì mình được giáo dục từ nhỏ. 
Ba là, phương châm “đánh vào lòng người” không chỉ là sách lược khi nghĩa quân còn ở thế yếu, khi số người ủng hộ chưa nhiều, mà còn là một chiến lược không chỉ cho cuộc khởi nghĩa mà cho cả xây dựng chế độ sau này. Phương châm này trong Bình Ngô đại cáo được diễn tả rõ hơn: việc nhân nghĩa cốt để yên dân. Tiếc rằng, sau chiến thắng, Lê Lợi không giữ được chiến lược này.
Tại sao Nguyễn Trãi lại có một tầm nhìn trước thời đại như vậy? Có thể có nhiều cách diễn giải khác nhau, nhưng tôi cho rằng, ông nhận thức được trung đại của Việt Nam đã sang một khúc rẽ mới. Do sự phát triển của ruộng tư so với ruộng công, nên nền kinh tế điền trang thái ấp sụp đổ, tầng lớp quý tộc bị thay thế bởi tầng lớp địa chủ nhỏ, Phật giáo nhà nước bị thay thế bởi Nho giáo. Nho sĩ từ chỗ chỉ là thư lại, làm chân sai vặt cho quý tộc, đã dần dần chiếm lấy bộ máy hành chính của xã hội và qua đó, toàn bộ xã hội. Để làm được việc này, phải hình thành một tầng lớp nhà nho kiểu mới.
Nguyễn Trãi là một nhà nho, điều này đến nay hẳn khỏi phải bàn. Có thời do đồng nhất Nho giáo với phong kiến, nên trong cơn cuồng hứng của tinh thần phản phong, người ta cho rằng Nguyễn Trãi không phải là một nhà nho, mà là người con thuần chủng của dân tộc Việt Nam. Nay vấn đề Nho giáo và bản sắc dân tộc đã được nhìn nhận bình tĩnh hơn và Nho giáo đã được coi là một bộ phận của văn hóa Việt Nam, nên điều cần hơn, tôi nghĩ, không phải là xem xét Nguyễn Trãi có phải là nhà nho hay không, một câu chuyện đã rõ như ban ngày, mà là xem Nguyễn Trãi thuộc loại hình nhà nho nào. Đây có lẽ chính là chìa khóa để hiểu Nguyễn Trãi: con người số phận.
Trước hết, ta có thể nói, Nguyễn Trãi là một nhà nho mới. Mới so với các nhà nho cũ thời Lý Trần, đặc biệt là cuối Trần.
Như đã biết, Lý Trần là thời đại Phật giáo làm quốc giáo và điều hành xã hội là quý tộc thuộc dòng máu thuộc họ Lý hoặc họ Trần. Trong bối cảnh đó, các nhà nho chỉ có thể được phục vụ trong bộ máy nhà nước với tư cách là những nhân viên hành chính. Và khi thế lực Nho giáo dần dần mạnh lên, họ không thỏa mãn với địa vị lép vế đó, họ muốn trở thành những nhà cai trị để rộng đường truyền bá lý tưởng Nho giáo của mình. Họ bắt đầu công kích hệ tư tưởng của Phật giáo và đời sống xa hoa của nhà chùa. Nhưng điều đáng nói là sự công kích của họ hoàn toàn dựa vào giáo điều cổ điển của Nho giáo và đời sống xã hội cổ xưa của Trung Hoa. Chẳng thế mà Minh Tông lẫn Nghệ Tông nhà Trần đã nhiều lần mắng họ là những kẻ bỏ qua văn hiến dân tộc để lăm le học đòi văn hóa của người khác. Họ là những nhà nho cũ, bởi họ là những nhà nho thuần túy, nhà nho theo giáo điều của Nho giáo.
Tuy nhiên, cuối đời Trần, chế độ điền trang thái ấp đã cản trở sự phát triển kinh tế của xã hội, bởi nó ngăn cản sự tư hữu hóa ruộng đất và sự phát triển của tầng lớp địa chủ nhỏ. Còn tầng lớp quý tộc thống trị thì vì quyền lợi của mình đã chia năm xẻ bảy. Đất nước phân ly và bên ngoài thì giặc ngoại xâm rập rình nhòm ngó. Phật giáo có lúc đã từng đóng vai trò cơ chế tư tưởng để xây đắp tinh thần dân tộc và thống nhất đất nước thì nay đã bất lực. Cần có hệ tư tưởng mới: Nho giáo. Cần có con người mới: nhà nho mới.
Hồ Quý Ly là một nhà nho mới như vậy. Hay chí ít, ông cũng là người dọn đường cho sự ra đời một lớp nhà nho như vậy. Về mặt kinh tế xã hội, Hồ Quý Ly đã ban hành chính sách hạn điền, hạn nô nhằm phá vỡ chế độ điền trang thái ấp của tầng lớp quý tộc Trần tạo điều kiện cho tầng lớp địa chủ nhỏ ra đời và phát triển. Về mặt hệ tư tưởng, Hồ Quý Ly quảng bá Nho giáo bằng việc cho dịch kinh điển chữ nôm, trọng dụng nhân tài không phân biệt nguồn gốc xuất thân bình dân của họ, chẳng hạn như nhà nho Nguyễn Phi Khanh. Đồng thời, Hồ Quý Ly vẫn không xao nhãng chuẩn bị chống ngoại xâm, dù kẻ ngoại xâm ấy đến từ đất nước của Khổng Tử, như đóng thuyền, đúc vũ khí, rào ngăn cửa biển, xây dựng Tây đô... Đáng tiếc là những cải cách táo bạo đó của Hồ Quý Ly chưa đủ thời gian để tạo ra những hiệu quả xã hội tích cực, đủ sức tác động vào ý thức chính thống hay ý thức phò chính thống, thì quân Minh đã thừa thắng kéo tới. Gần hai mươi năm đô hộ và đồng hóa của giặc Ngô là một thảm họa đối với văn hóa dân tộc. Nhưng sự xóa sạchdấu ấn nhà Trần (chế độ điền trang thái ấp, tầng lớp quý tộc Trần, hệ tư tưởng Phật giáo) vô hình trung đãdọn mặt bằng sự phát triển mới của tư tưởng Nho giáo và tiền đề của việc xây dựng một nhà nước quân chủ Nho giáo. Và trên cơ sở này, nhà nho mới Nguyễn Trãi ra đời.
Trước hết, ở Nguyễn Trãi, lý tưởng hành đạo của nhà nho xoắn lấy mục tiêu vì độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc của dân chúng (việc lấy lý thuyết Nho giáo ra để bác lại lý lẽ của Vương Thông và sự bảo vệ chính nghĩa của Lê Lợi không chỉ là “thủ đoạn ngoại giao” hoặc chiến thuật “đánh vào lòng người” của Nguyễn Trãi mà chính là niềm tin của ông, lý tưởng hợp nhất mà suốt đời ông theo đuổi). Vì thế, khi nước mất nhà tan, ông tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và chiến đấu hết mình. Đến khi giành được độc lập, ông lại hết mình xây dựng một chế độ mới, thực thi một thứ Nho giáo thân dân.
Đó là thứ Nho giáo linh hoạt không xơ cứng. Thực ra, tự bản thân nó, Nho giáo chưa bao giờ xơ cứng mà nó còn tỏ ra rất linh hoạt. Vốn là một học thuyết có tính nước đôi, hay nói một cách khoa học là một hệ thống có nhiều trung tâm hoặc một liên hệ thống, Nho giáo có khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh. Vấn đề là người sử dụng, dân tộc sử dụng, xã hội sử dụng. Vì thế các Nho giáo thực tế chẳng những cũng khác so với Nho giáo lý thuyết, mà còn rất khác xa nhau. Nho giáo Nguyễn Trãi còn dung chứa nhiều yếu tố Phật giáo và Lão Trang, đặc biệt là Trang. Điều này thật khác với Nho giáo thời Lê Thánh Tông, khi nó trở thành quốc giáo, vừa lên ngôi độc tôn bèn đàn áp tín ngưỡng dân gian, kỳ thị Phật giáo, Đạo giáo và loại chúng ra khỏi đời sống chính thức của cung đình. Bởi thế, nhà nho quân tử thời Lê Thánh Tông tuy đạo cao đức trọng nhưng thật phiến diện, một chiều. Một chiều trong lối sống, lối cảm, lối nghĩ. Đó là con người không có con người tự nhiên, con người không có con người cá nhân, con người không có lạc thú cá nhân, con người chức năng... Điều này thật khác với nhà nho mới Nguyễn Trãi. Một con người phong phú, đa diện, nhiều kích thước và giàu tài năng. Tuy thời đại Nguyễn Trãi không hẳn là thời đại có khả năng sinh ra những người khổng lồ như Hy Lạp cổ đại, Phục hưng châu Âu hoặc nước Nga cuối TK XIX đầu TK XX, nhưng tôi vẫn thấy ông là một người khổng lồ. Mà khổng lồ một cách đơn độc.
Nguyễn Trãi, trước hết, là con người chính trị. Mà bất cứ một nhà nho nào, đi tới cùng, chả thấp thoáng một con người chính trị. Nhưng con người chính trị Nguyễn Trãi còn là con người yêu nước, còn là một trí thức. Khi thì ngồi im ở Đông Quan để quan sát và suy ngẫm về thời cuộc tìm kế sách bình Ngô. Khi thì bôn tẩu giang hồ tìm người đồng tâm đồng chí. Đặc biệt là tìm minh chủ. Có lẽ, chỉ có nhãn quan một nhà chính trị sáng suốt, “anh hùng đoán giữa trần ai mới già”, mới cho phép Nguyễn Trãi bỏ qua các ông vua hậu Trần để đến với kẻ hào trưởng nhà quê Lê Lợi, tôn ông này làm minh chủ và làm quân sư cho ông ta đến khi kháng chiến thắng lợi. Sau đó, ông còn là kiến trúc sư không thành của nhiều chính sách xây dựng triều đại mới.
Suốt trong cuộc kháng chiến, trung thành với chiến lược “đánh vào lòng người”, Nguyễn Trãi còn là một nhà ngoại giao kiên trì, mềm dẻo và khôn khéo. Quân trung từ mệnh tập không chỉ là những tài liệu ngoại giao quý hiếm, mà còn là những áng văn chính luận xuất sắc của một cây đại bút. Tài năng chính luận của Nguyễn Trãi thể hiện rực rỡ nhất ở Bình Ngô đại cáo viết sau chiến thắng quân Minh. Có thể nói, đây là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước Việt Nam. Một áng thiên cổ hùng văn. Ở Bình Ngô đại cáo người ta thấy rõ sự phát triển đỉnh cao của ý thức dân tộc, át hẳn ý thức quốc gia là yếu tố nổi trội ở những triều đại trước đó. Nhưng, có lẽ, sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi đậu lại ở mảng thơ, thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Thơ chữ Hán của ông chứa đựng đầy tâm sự, lý tưởng xây dựng chế độ mới, nỗi buồn vì sự bất lực, sự tiếc nhớ người anh hùng Hồ Quý Ly, nỗi mong được về Côn Sơn dựng nhà bên suối đọc sách... Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi vẫn nằm trong dòng thơ Trần, phóng túng, nhiều sáng tạo. Thơ nôm Nguyễn Trãi cũng chứa đựng những tâm sự như ở thơ chữ Hán, nhưng nét đậm của nó là sự thao thức của một người sống bên thiên nhiên, cây cỏ mà vẫn không khuây được lý tưởng giúp đời. Thơ nôm Nguyễn Trãi là một bước phát triển đột xuất của thể loại thơ nôm bảy chữ với biến thể xen lục ngôn, đặc biệt là sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc. Đến nay, Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là một tượng đài văn hóa cổ xưa và vĩ đại nhất của thơ ca Việt Nam. Ngoài ra, Nguyễn Trãi với tác phẩm Dư địa chí còn là người đầu tiên mở ra lĩnh vực địa lý học lịch sử và địa văn hóa học.
Có thể nói, Nguyễn Trãi là một trí thức xuất chúng của thời đại ông và không chỉ thời đại ông. Một người đã làm nên bản thân mình. Nguyễn Trãi đã tự mình trở thành Nguyễn Trãi. Điều đó cũng có nghĩa là ông đã chọn cho mình một số phận. Mà kết cục của số phận đó thì dường như đã được báo trước. Điều chưa biết với Nguyễn Trãi (và cả với chúng ta nữa) là kết cục ấy rơi vào tình huống cụ thể nào. Nhưng là một người trung thành với bản thân, Nguyễn Trãi đã không lảng tránh hoặc trốn chạy định mệnh ấy.
Đoạn trường của Nguyễn Trãi được bắt đầu từ vấn đề quan hệ giữa trí thức và thủ lĩnh. Người trí thức, do gánh nặng tri thức của mình, thường thì không có khả năng thực thi tư tưởng của mình, tức đưa cái tư tưởng ấy vào đời sống. Anh ta phải hiện thực hóa nó qua vai trò của một thủ lĩnh. Thủ lĩnh là người có năng lực hành động, khả năng tổ chức, có quyết tâm theo đuổi mục đích đến cùng, dám và thích mạo hiểm, có quyền biến, thủ đoạn, thậm chí dám tàn nhẫn. Ngày xưa, ai có những phẩm chất này thường được coi là người có cốt cách đế vương, hoặc chân mệnh thiên tử.
Lê Lợi là một người như vậy. Tuy nhiên, lần đầu tiên vào Lam Sơn gặp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã không thiện cảm với ông ta, nên quay ra. Có thể cái mặt trái của học vấn bác học đã che mờ mắt ông. Hơn nữa, lúc này Lê Lợi mới chỉ là con rồng ẩn. Sau đó vượt qua được cái ngưỡng tri thức này, Nguyễn Trãi lại vào Lam Sơn lần hai và nguyện theo giúp Lê Lợi. Trong suốt cuộc kháng Minh, Nguyễn Trãi và Lê Lợi đã trở thành cặp bài trùng cho đến khi thắng lợi hoàn toàn.
Họ chỉ thực sự bị chia rẽ trong xây dựng. Sau chiến tranh, vấn đề xây dựng một chế độ mới được đưa lên hàng đầu. Mô hình xã hội kiểu Lý Trần đã không còn. Vậy cơ sở tồn tại mô hình nhà nước quân chủ Nho giáo của Trung Hoa có thích hợp với phong thổ và tập quán Việt Nam? Liệu có con đường thứ ba? Trước những câu hỏi sống còn này chỉ người trí thức mới có khả năng trả lời. Thế là trí thức bỗng trở thành một quyền lực. Nhưng quyền lực vốn không thể là bàn giao hoặc chia xẻ. Người thủ lĩnh Lê Lợi không muốn, tầng lớp quân sự cũng không muốn. Và, về sau, tầng lớp quan lại muốn theo mô hình Trung Hoa, tiêu biểu là Lương Đăng, cũng không muốn.
Nguyễn Trãi, do vậy, dần dần bị đẩy ra khỏi bộ máy quyền lực. Đầu tiên phải làm những việc vô thưởng vô phạt một thứ nhàn quan, sau đó là về vườn tự nguyện. Nhưng ở Côn Sơn, mặc dù nằm trên đá, gối lên rêu, tai nghe gió đàn thông, mà lòng Nguyễn Trãi vẫn “cuồn cuộn nước triều đông”. Ông vẫn chờ cơ hội để thực thi lý tưởng xây dựng một xã hội thân dân của mình. Sự thao thức đó như một hòn than nóng đỏ dù đã khéo vùi dưới lớp tro nguội của các thích thú Lão Trang cũng không dấu nổi những cặp mắt cú diều theo dõi từ Thăng Long. Thời cơ chưa đến với Nguyễn Trãi thì cái chết thảm khốc đã đến với ông và thân quyến ba họ: vụ án Lệ Chi Viên!
Cái chết của Nguyễn Trãi là do định mệnh. Và định mệnh này mang một khuôn mặt rắn. Huyền thoại sự trả thù của con rắn này, một mặt, minh oan cho Nguyễn Trãi, rằng vụ án Trại Vải không phải lỗi tại ông, rằng Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo, mặt khác, cũng xóa tội cho triều đình nhà Lê. Trăm tội đều do con rắn. Cũng đúng thôi, bởi con rắn đã từng lừa con người để giành lấy sự bất tử, để con người phải đối diện với định mệnh của mình. Nhất là người trí thức, kẻ cũng bị rắn lừa cho nếm quả hiểu biết. Nhất là Nguyễn Trãi: Họa phúc hữu môi phi nhất nhật/ Anh hùng di hận kỷ thiên niên.
Đỗ Lai Thúy
Nguồn: Tạp chí VHNT số 338, tháng 8-2012
Theo http://vhnt.org.vn/









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Xuống Chó Tranh Đinh Trường Chinh Quân nhận ra ngay nét chữ quen thuộc trên nửa mảnh giấy học trò, mà người thanh niên lạ mặt mới vừ...