Hà Tĩnh, vùng đất cổ kính, vốn nổi tiếng văn vật Hồng Lam. Nó
không chỉ là biểu tượng của một vùng quê đầy hương sắc với vẻ đẹp ngàn đời sơn
thủy, giao hòa cảm xúc, mà còn là biểu tượng của những con người dũng mãnh,
kiên cường với sức mạnh trí tuệ và tài năng kiệt xuất. Vùng đất nghĩa khí và hiếu
học này luôn cống hiến cho đất nước những con người ưu tú, những anh hùng lỗi lạc,
các danh nhân văn hóa và những nhà khoa học nổi tiếng.
Cuộc khởi nghĩa Vụ Quang kéo dài gần mười năm do nhà chí sĩ
yêu nước Phan Đình Phùng lãnh đạo là một quả bom lớn đánh vào chế độ thực dân
Pháp và bọn ngụy quyền phong kiến.
Cụ Phan Đình Phùng sinh năm 1847, hiệu là Châu Phong, người
làng Đông Thái, huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh; đỗ cử nhân khoa Bính Tý (1876), đỗ
đình nguyên khóa Đinh Sửu (1877), làm quan đến chức ngự sử.
Là một người cương trực, phản đối Tôn Thất Thuyết và Nguyễn
Văn Tường phế Dục Đức, lập Hiệp Hòa, ông bị cách chức phải về quê làm ruộng.
Nhờ có chí lớn mà ngay từ hồi còn nhỏ Phan Đình Phùng đã quyết
tâm đi học. Dù là người tài giỏi, nhưng cụ Phan lúc nào cũng khiêm tốn, thật
thà, ghét tính phô trương, tự mãn. Khi làm quan, cụ không tham quyền cố vị hoặc
xu nịnh, hèn nhát. Nhiều lần cụ vạch mặt những tên quan tham nhũng, khúm núm,
ton hót, bợ đỡ. Hồi làm tri phủ Yên Khánh ở Ninh Bình, thấy cố đạo bản xứ hà hiếp
dân lành, cụ Phan không kiêng nể, ngần ngại, liền hô lính đè cổ tên giáo sĩ này
ra hỏi tội và đánh cho một trận. Nghĩ mình là chính nhân quân tử, nếu không làm
được gì có ích cho nước, thì chí ít phải giữ mình trong sạch, khôn khéo, mới khỏi
ô danh, chính vì thế, cụ xin từ quan trở về cố quận, chờ thời.
Tuy không làm quan cho triều đình, nhưng khi nghe tin vua Hàm
Nghi chạy ra vùng thượng du Quảng Bình (10-1885) cụ đã cùng một số bạn bè vào tận
nơi nghênh đón và bái yết. Cũng trong năm ấy, Hàm Nghi xuất bôn và xuống chiếu
Cần Vương. Phan Đình Phùng đang cư tang mẹ nhưng hưởng ứng lời kêu gọi cứu nước,
liền hăng hái chiêu mộ nghĩa quân chống Pháp.
Cụ Phan phụng mệnh trở về, phát tờ hịch đi khắp nơi rồi kéo cờ
khởi nghĩa ở ngay làng Đông Thái, quê cụ. Lời hịch tuy đơn sơ mà thống thiết,
ai cũng động mối thương tâm. Chỉ trong một tuần đã có năm, bảy ngàn nghĩa sĩ,
thân hào khắp nơi kéo về xin gia nhập nghĩa quân, liều mình vì vua, vì nước. Cảnh
tượng làng Đông Thái nay trở nên khác hẳn: cờ quạt rợp trời, chiêng trống dậy đất,
gươm đao sáng quắc, đèn đuốc thâu đêm, dân làng múa hát, đường xá tấp nập,
quang cảnh hùng tráng. Sau đó nghĩa quân kéo về căn cứ ở vùng rừng núi thuộc
hai huyện Hương Sơn và Hương Khê.
Là người thức thời, nhạy bén, nên khi cần thiết cụ đã kịp
xoay xở tình thế. Nếu trước đây cụ đeo đuổi con đường thủ hòa, thì đến lúc này
cụ lại nêu cao tinh thần chủ chiến. Chính vì thế mà cụ dương cao cờ khởi nghĩa.
Cụ nói: cái gốc luân lý dựng nước của ta ngày xưa có ba điều cốt tử: một là
vua, hai là thày, ba là cha. Khi vua truyền lệnh cần vương, cụ liền tâu vâng,
vì đã tìm thấy chỗ dựa, tìm thấy sức mạnh để làm nổi cáivâng ấy. Đó là
lòng người! Cụ nói: "Muốn mưu việc lớn, trước hết phải dò xét lòng người,
lấy đó làm thứ khí giới cốt tử, làm nền tảng cho cuộc đấu tranh...". Thực
tiễn mười năm trường kỳ kháng chiến là một minh chứng cho tư tưởng này, tư tưởng
xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo kháng chiến của cụ.
Ngay từ những năm cuối TK XIX mà cụ Phan đã có cái nhìn xa
trông rộng. Nhiều lần cụ đã từng khen ngợi nền văn minh phương Tây. Cụ luôn tỏ
ý phản đối cái nhìn bảo thủ của bọn quần thần. Cụ rất quý trọng Nguyễn Trường Tộ
vì là người đã đưa ra ý kiến cách tân. Đã có lần cụ bộc bạch với các bạn tâm
huyết: "Phải chi hồi trẻ mà vua mình cũng biết thời thế, biết lo lắng việc
duy tân như vua Minh Trị nước Nhật Bản kia, bọn quan lại mình đừng có ươn hèn,
khốn nạn quá và lại có đông người thức thời như Nguyễn Trường Tộ, có sức duy
tân biến pháp, thì làm gì đến nỗi mất nước".
Bọn quan lại thân Pháp đã dã man đào mồ tổ tiên cụ, nhưng cụ
vẫn cắn răng chịu đựng trước cảnh đau lòng này. Hơn thế nữa, lần anh cụ là Phan
Đình Thông bị tên thủ hạ là Nguyễn Sử làm phản, bắt sống và giải về nộp cho
quan tổng đốc Nghệ An lúc bấy giờ là Nguyễn Chính - người vẫn có oán thù với cụ
Phan ngày trước. Nguyễn Chính tuy muốn chém đầu Phan Đình Thông cho hả giận,
nhưng với ý đồ hiểm độc, hắn dụ dỗ cụ ra hàng để lập công với nhà nước bảo hộ.
Nhưng hắn đã thất bại. Cụ Phan không thèm viết thư trả lời.
Là một lãnh tụ nghĩa quân, nhưng cụ Phan luôn là người sống
chan hòa, thương yêu đồng đội. Tình cảm của cụ đối với Cao Thắng là một thí dụ.
Cụ Phan rất quý trọng tài năng và lòng trung thành của vị tướng cơ mưu và dũng
cảm này. Cụ rất đau lòng, xót thương khi các tướng sĩ của mình lâm nguy hoặc tử
trận. Khi tin dữ từ Ngàn Trươi báo gấp về Cao Thắng tử trận, cụ Phan đã kêu
gào, than khóc: "Trời hại tôi rồi, ông Cao Thắng ơi! Trời hỡi trời!".
Cụ cho tổ chức tang lễ rất trọng thể. Cụ mặc áo trắng, ra đón thi hài Cao Thắng
từ ngoài cổng, hai tay vỗ vào quan tài và gào khóc thảm thiết. Tướng sĩ ba quân
ai cũng đau lòng thương tiếc.
Cái lớn của cụ Phan là bản lĩnh của một bậc hào kiệt, là chí
khí kiên cường của một lãnh tụ nghĩa quân. Trong tình thế nghĩa quân bị bao vây
nhiều năm, cụ Phan phải ra Bắc để vận động và chiêu mộ anh tài. Dù không thành,
cụ vẫn không hề nản chí. Sự buồn rầu, thất vọng không thắng nổi nghị lực phi
thường và lòng kiên nhẫn lớn lao. Cụ quyết kế trở về tiếp tục lãnh đạo nghĩa
quân chống Pháp. Lúc bấy giờ ông Hoàng Hoa Thám xin theo cụ về Vụ Quang, nhưng
cụ đã khuyên can: "Nếu nhà ngươi có chí làm việc lớn thì ngay ở đất Bắc
không thiếu gì chỗ để dụng võ, miễn là phải biết đại trượng phu ở đời không ngại
gì những bước chông gai, cứ một mực bền gan sắt đá đến chết mà thôi".
Ít năm sau Hoàng Hoa Thám xưng hùng ở Yên Thế, đương đầu với
chính phủ bảo hộ hơn mười năm. Rõ ràng là sự nghiệp của Hoàng Hoa Thám phần lớn
chịu ảnh hưởng của cụ Phan Đình Phùng.
Sau khi trở về, Phan Đình Phùng lại thảo ra một tờ hịch và
truyền đi khắp nơi để kích động lòng dân, chiêu tập hào kiệt. Hịch vừa truyền
đi thì sĩ phu và dân chúng các tỉnh bắc trung bộ từ Thanh Hóa đến Quảng Bình đều
nhiệt liệt hưởng ứng, đua nhau giúp đỡ nghĩa quân, hoặc bằng mưu lược, tình
báo, hoặc bằng quân lương, vũ khí. Nhiều tấm gương hy sinh cho nghĩa lớn, nhiều
hành động dũng cảm cao đẹp, làm cho quân thù nhiều phen khiếp vía. Đó là các tướng
Cao Mục, Cao Dậu, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Khai, cô Tâm và nhiều người khác.
Cuộc chiến đấu lâu dài gian khổ và vô cùng khó khăn của nghĩa
quân kéo dài gần mười năm gây cho giặc Pháp nhiều tổn thất, tiêu biểu là trận Vụ
Quang năm 1894. Nghĩa quân Phan Đình Phùng đã nhiều lần đánh bại các cuộc bao
vây và tấn công của giặc Pháp, làm chúng tổn thương khá nhiều. Trong suốt thời
gian ấy giặc Pháp và tay sai luôn đem danh lợi ra mua chuộc, dụ dỗ hoặc bắt người
thân hoặc đào mồ mả tổ tiên, hăm dọa bà con và người làng..., nhưng đều không
lay chuyển được quyết tâm sắt đá vì nước, vì dân của cụ.
Lại một lần nữa bị thương nơi chiến trận, cụ mắc bệnh lỵ và
qua đời vào ngày 28-12-1895, thọ 48 tuổi.
Những phẩm chất cao đẹp của Phan Đình Phùng thể hiện rõ trong
mọi hành động cứu nước của mình và cũng được bộc lộ qua một số thơ, văn tiêu biểu
của cụ, như các câu đối điếu Lê Ninh, điếu Cao Thắng; các bài thơ: Đáp hữu
nhân ký thi, Thắng trận hậu cảm tác, Phúc đáp Hoàng Cao Khải, Lâm chung thời
tác; và thư: Kính ký Hoàng Cao Khải thư.
Phan Đình Phùng là một nhà yêu nước lớn, với những phẩm chất
cao đẹp của một bậc chí sĩ, anh hùng, của một hiền tài đất nước. Ông còn là một
nhà thơ yêu nước, để lại cho đời những áng văn tuyệt tác.




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét