Trong bài thơ Đêm ngàn của Văn Cao, viết năm 1941,
có mấy câu thơ thật ấn tượng mà mỗi lần đọc lên tôi có cảm giác mọi thứ quanh
mình đều chông chênh, chao đảo, huyễn hoặc:
Sương buông chừng núi vấn vương
Tiếng chim lạ cất tiêu thương buồn trời
Cái gì cũng thấy chơi vơi... (Đêm ngàn)
Cái gì cũng thấy chơi vơi. Phải chăng, đó là cảm giác bồng bềnh
của tâm thức trôi trong thơ Văn Cao mà nếu đối sánh với khí hậu của
thơ ca lãng mạn đương thời, ta thấy đây là một giọng thơ mang âm hưởng lạ.
Cái cảm giác chơi vơi này như một dự báo về thân phận
của thi nhân. Và đó là căn tính tạo nên tâm thức trôi trong thơ Văn
Cao. Một tâm thức với cái nhìn vô định về cuộc đời như chiếc thuyền bềnh bồng
trôi dạt.
Khuya rồi ốc rục trong làng
Thuyền ai vơ vẩn trôi sang bên này (Đêm mưa)
Đó là cảm giác trôi trong nỗi lo sợ trước cuộc sống
đầy bất an đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm thức thi nhân. Nên:
Có lúc
ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt
có lúc
nước mắt không thể chảy ra ngoài được (Có lúc)
Và dường như tâm trạng hốt hoảng này là căn duyên xô dạt nhà
thơ trôi trong nỗi cô đơn chất ngất của phận người:
Chúng tôi hai người
Một bóng... (Đôi bạn)
Để rồi từ trong nỗi cô độc ấy, mọi hiện hữu chỉ còn là một thực
tại trống rỗng. Nên tâm thức của nhà thơ đã trôi trong khoảng trống hư vô. Và mọi
sự vật đều rơi vào một khoảng không bất định:
Một cái bình vỡ
Một khoảng trống
Một người đi xa
Một khoảng trống
Có thể nói cái tâm thức trôi trong hư vô, bất định
này đã trở thành một sự ám ảnh miên viễn như một dòng sông vô thức chảy suốt
hành trình thơ Văn Cao. Đó là hình ảnh cánh cửa mở ra sau một tiếng độngnhưng
không có con người. Mà:
Chỉ thấy
Một chiếc cầu thang nhà trên gác
Và ánh sáng
Không động đậy (Cánh cửa)
Hay hình ảnh người đi dọc biển, không để lại dấu
chân. Tất cả như bị cuốn trôi vào cái mênh mông của biển cả bao la. Và phải
chăng, đó chính là hiện thân của sự mỏng manh kiếp người trước hư vô:
Người đi
dọc biển
không để lại
dấu chân (Người đi dọc biển)
Bởi lẽ, như chính Văn Cao đã nói "Cuộc đời và nghệ thuật
của nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng
mở rộng"(1).
Có phải vì những bài thơ của Văn Cao đều gợi cho chúng ta cái
cảm giác bồng phiêu, trôi dạt và mỏng manh như thế mà Tạ Tỵ khi cảm nhận về Văn
Cao cho rằng: "Văn Cao vẫn hiện diện trong tôi với hình dáng một tinh cầu
giá lạnh, với cô đơn dằng dặc ở cuối khung trời ngăn cách" (2). Còn Trần
Văn Nam trong bài viết Văn Cao, dòng sông ba nhánh sương mù thì cho rằng:
"Tâm hồn Văn Cao có nhiều cảm hứng về sự huyền ảo" (3). Phải chăng
chính căn tính của tâm hồn thi nhân luôn sống trong nỗi cô đơn dằng dặc của một
tinh cầu giá lạnh đã tạo nên cái tâm thức trôi trong thơ Văn
Cao.
Rõ ràng, đi vào thế giới thơ Văn Cao là đi vào thế giới của sự
huyền hoặc, linh diệu, trống không. Và trong một chừng mực nào đó chúng ta lại
bắt gặp trong thơ ông cái triết lý vô thường của nhà Phật. Cảm thức vô thường ấy
hiện hữu trong thơ Văn Cao như hơi thở, như không khí trong đời sống. Đọc lên
ta thấy hiển hiện bóng dáng của thơ thiền, của thơ haiku.
Gió cứ như không
Trôi qua cửa sổ
Một mảnh trời xám
Xuống dần
Xuống dần
Có tà áo trắng
Loang qua khung cửa
Mùa thu phai đi
Màu hoàng lan (Mùa thu)
Và đây nữa, bài thơ Không đề cũng là một thông điệp
đầy chất thiền mà Văn Cao gởi đến chúng ta.
Con thuyền đi qua
để lại sóng
Đoàn tàu đi qua
để lại tiếng
Đoàn người đi qua
để lại bóng
Tôi không đi qua tôi
để lại gì (Không đề)
Tôi không đi qua tôi/ để lại gì. Câu thơ như một lời phản tỉnh
đối với mỗi con người sống trên cõi đời. Một sự phản tỉnh vừa có ý nghĩa như một
giá trị của hiện hữu lại vừa như một giá trị của hư vô. Hiện hữu mà hư vô, hư
vô mà hiện hữu. Cái cảm giác ấy chính là cội nguồn của tâm thức trôi trong
thơ Văn Cao, giúp ông vượt lên những tai ương, hoạn nạn, những cám dỗ để không
đánh mất mình trong vũng lầy của lợi danh, dục vọng mà nhiều khi đó là nguyên
nhân đẩy ta vào bi kịch. Bởi nói như Đặng Tiến: "Thơ Văn Cao là cuộc tra vấn
thường xuyên cuộc sống và con người, về thân phận về ước vọng" (4). Có lẽ
cái tâm thức tra vấn thường xuyên ấy không phải chỉ có ở Văn Cao mà
đó là một phẩm chất, một ý thức trong nhân cách của những nghệ sĩ lớn. Đây
chính là một hệ giá trị làm cho tác phẩm của họ vượt không thời gian để trở
thành bất tử.
Cuộc đời là thế đó. Tất cả rồi cũng trở về với cát bụi, cũng
trôi theo thời gian và tan chảy vào cõi hư vô. Thân phận con người chỉ là một
cánh bèo bồng bềnh trôi trên dòng nước, là con thuyền trôi trên đại dương mênh
mông, vô định, là ánh chớp mỏng manh cuối trời... cái số kiếp ấy, cái tâm thức ấy
đã kết tinh trong thơ Văn Cao như một giá trị mà bài thơ Trôi là một
điển hình:
Tôi thả con thuyền giấy
con thuyền giấy trôi
Tôi thả một bông hoa
bông hoa trôi
Tôi thả một chiếc lá
chiếc lá trôi
Tôi ôm em trong tay
em vẫn trôi (Trôi)
Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài. Người ta biết đến Văn Cao
không chỉ có thơ, mà còn có nhạc, họa, kịch... Thành công của Văn Cao chưa hẳn
là thơ nhưng chính thơ lại góp phần hiển lộ tính chất đa tài của Văn Cao. Và
cũng chính thơ đã cho thấy sự nhất quán trong tư tưởng nghệ thuật của ông. Đó
là tư tưởng của một nghệ sĩ luôn phóng chiếu sự sáng tạo của mình trên đôi cánh
của chủ nghĩa siêu thực và hiện thực.
Tâm thức trôi trong thơ Văn Cao chính vì thế cũng
chính là tâm thức "trôi" trong họa, trong nhạc với những tình khúc bất
tử như Buồn tàn thu, Bến xuân, Trương Chi, Suối mơ, Thiên
thai... Nhiều lời trong các bài nhạc của ông cũng đầy chất thơ mà mỗi khi hát
lên luôn tạo cho ta cảm giác nao lòng như đang trôi trong cõi phiêu bồng vô định
của cuộc đời:
Thiên thai, ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian...
Thiên thai chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào đông ngày tháng chưa tàn phai một lần (Thiên
thai)
Suối mơ, bên rừng thu vắng
Giòng nước trôi lững lờ ngoài nắng
Ngày chưa đi sao gió vương?
Bờ xanh ngắt bóng đôi cây thùy dương (Suối mơ)
Lamartine cho rằng: "Những tiếng hát hay nhất là những
tiếng nấc". Quả thật, nhạc Văn Cao là những tiếng nấc của sự thổn thức, của
những khát vọng yêu thương nồng cháy đối với cuộc sống và con người. Chính vì vậy
cùng với nhạc, họa, thơ Văn Cao đã góp phần hoàn thiện thế giới nghệ thuật và
chân dung tinh thần của mình, một nghệ sĩ đa tài mà thiên năng của ông đã làm rạng
rỡ nền nghệ thuật dân tộc. Bởi nói như Tạ Tỵ, "ở Văn Cao, mỗi lời thơ là một
hạt ngọc, mỗi tiếng nhạc là mỗi sợi tơ, mỗi màu sắc là một vùng hào quang diễm
lệ" (5). Tìm đến với thơ Văn Cao là tìm đến một dòng sông dịu êm, yên
bình, tự tại của một tâm thức trôi trong những dòng chảy cuộc đời mà
chính ông đã trải nghiệm. Tâm thức trôi trong thơ Văn Cao, vì vậy là
tâm thức của một sự nghiệm sinh. Thơ ông là dòng ý thức về sự hiện hữu của phận
người mà sự tồn sinh của ông đã minh chứng cho sự hiện hữu đó.
Song tâm thức trôi trong thơ Văn Cao tuy nhuần thấm
lẽ vô thường và bồng bềnh trong hư vô bất định nhưng không bao giờ lạc hướng.
Ngược lại ông luôn thể hiện chủ kiến của mình trước cuộc đời. Với lẽ sống cao đẹp
của người nghệ sĩ, ông luôn nêu cao ý thức trách nhiệm công dân trước xã hội và
nhân dân. Và đây chính là cảm hứng chủ đạo để Văn Cao viết những bài thơ mang
hơi thở nóng hổi của hiện thực cuộc sống như Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại
ô mùa đông 1946, Quy Nhơn 3, trường ca Những người trên cửa biển... Đồng
thời đó cũng là tiếng gọi thao thiết từ trong tâm cảm, để ông trở thành một nghệ
sĩ luôn dấn thân vì dân tộc:
Những năm tháng Hải Phòng đầy biến động
Đời tôi như cái phao trên mặt biển...
Tôi giờ đây liếm môi nóng bỏng
Nhìn ra biển bao la
Lòng hãy còn nhiều khát vọng
còn rất nhiều khát vọng
Biển thành người khổng lồ kêu khát suốt
ngày đêm (Những người trên cửa biển)
Vì vậy, thi nhân luôn ước mong gặp được biển để tắm
mình trong lòng biển mênh mông vô tận, thẳm sâu như một biểu tượng của khát vọng
tự do:
Tôi sống
Nhìn những chiếc lá trôi theo dòng suối
Đến mùa gió Nam thổi
Tôi lại đi theo những chiếc lá
Phiêu du
Tới bao giờ tôi gặp được biển (Tôi ở)
Bởi vì, hơn ai hết Văn Cao là người luôn ý thức về giá trị của
sự sống mà ông đã chọn lựa như một tâm thức hiện sinh:
Giữa sự sống và sự chết
Tôi chọn sự sống
Để bảo vệ sự sống
Tôi chọn sự chết (Chọn)
Ghi chú:
1. Văn Cao, Mấy ý nghĩ về thơ, Tuyển tập thơ Văn
Cao, Nxb Văn học, Hà Nội, 1994, tr.153.
2, 5. Tạ Tỵ, Mười khuôn mặt văn nghệ, tác giả xb, Sài
Gòn, 1970, tr.187, 179.
3. Trần Văn Nam, Văn Cao dòng sông ba nhánh sương mù, Văn
học số 114 ra ngày 1-11-1970, Sài Gòn, tr.70.
4. Đặng Tiến, Thơ thi pháp và chân dung, Nxb Phụ nữ,
Hà Nội, 2009, tr.269.






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét