Bùi Giáng, ai người chia xẻ
Đã có nhiều người viết về Bùi Giáng, tôi chỉ ghi lại
vài cảm nhận của mình, như là để góp thêm một cách hiểu thơ ông, may ra
chia xẻ được chút nỗi niềm của ông.
1. Trạng thái “điên“ của Bùi Giáng có ý nghĩa gì?.
Theo thầy Thích Nguyên Tạng (chùa Pháp Vân, Gia Định, Sàigòn), Bùi Giáng tự
ghi tiểu sử của mình cho thầy trong cuốn sổ tay vào buổi trưa ngày
mùng 10 tháng 11 năm 1993 như sau:
“1971 - 75 - 93
Điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang
Rong chơi như hài nhi (con nít)
Được gia đình ông Phó Chủ Tịch (482) Lê Quang Định, Hội
Đồng Thành Phố đối xử thơ mộng thênh… “
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 ỏ làng Thanh Châu xã
Vĩnh Trinh huyện Duy Xuyên Quảng Nam. Tạ thế tại bệnh viện Chợ Rẫy Sài Gòn, hồi
2 giờ chiều ngày 7 tháng 10 năm 1998. Ông là cháu ngoại của tổng đốc
Hoàng Diệu, con của ông Bùi Thuyên và bà Huỳnh Thị Kiền làm nghề dạy học ở Đà Lạt,
Sài Gòn, biên soạn sách giảng luận về văn học, triết học, kiếm hiệp, viết văn,
làm thơ…
Theo Võ Đắc Danh, hồ sơ lưu trữ tại nhà thương
điên Biên Hòa ghi nhận Bùi Giáng nhập viện hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1969,
lần thứ hai vào năm 1977, thời gian này Nguyễn Ngu Í vẫn còn trong bệnh viện,
hai người cùng ở khu 3.
Tuy
nhiên đọc thơ Bùi Giáng, tôi không thấy bệnh điên ảnh hưởng gì đến câu chữ của ông. Trái lại, ông ý thức rõ trạng thái điên của mình, điên là một thái độ sống
có ý thức.
Bệnh án của Bùi Giáng có đoạn ghi: "Bệnh tái phát từ tháng 4 năm 1969, có hôm thức suốt đêm để viết, nói huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất thanh, ý tưởng tự cao tự đại. Hay phát biểu ý kiến về những vấn đề chính trị, văn hóa trọng đại, có ý nghĩ bị người ta phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng 3 năm 1969 bị cháy nhà và cháy tất cả sách vở quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày một nặng hơn...".
Bệnh án của Bùi Giáng có đoạn ghi: "Bệnh tái phát từ tháng 4 năm 1969, có hôm thức suốt đêm để viết, nói huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất thanh, ý tưởng tự cao tự đại. Hay phát biểu ý kiến về những vấn đề chính trị, văn hóa trọng đại, có ý nghĩ bị người ta phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng 3 năm 1969 bị cháy nhà và cháy tất cả sách vở quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày một nặng hơn...".
Đời này đất đá cằn khô
Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời
Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời
(Dzách)
Uống và say nói lăng nhăng
Miệng mồm lý nhí thằn lằn đứt đuôi
Tâm can chân thể chôn vùi
Mặt trời không mọc với người lem nhem
Còn đâu nguyệt tỏ bên thềm
Ôi người uống rượu còn thêm điên rồ
Miệng mồm lý nhí thằn lằn đứt đuôi
Tâm can chân thể chôn vùi
Mặt trời không mọc với người lem nhem
Còn đâu nguyệt tỏ bên thềm
Ôi người uống rượu còn thêm điên rồ
(Người
Điên Uống Rượu)
Ông điên từ một lần đầu
Tới lần đuôi đứt ruột rầu rĩ đau
Tuyệt mù biển cạn sông sâu
Tới lần đuôi đứt ruột rầu rĩ đau
Tuyệt mù biển cạn sông sâu
Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ - 1996
(Ông Điên)
Anh đã định suốt thiên thu vạn kỷ
Làm thằng điên rồ dại suốt thiên thâu
Nhưng em ạ, dường như anh vô lý
Lúc đoạn trường anh đứt ruột khổ đau
(Quá
khứ của anh)
Những dòng thơ “điên“ ở trên như ẩn chứa một điều gì sâu kín lắm trong tâm hồn
Bùi Giáng. Ngôn ngữ thơ vừa gói kín vừa gợi ra trạng thái mơ hồ, nửa như đùa, nửa như thật, nửa hồn nhiên, nửa thương đau và cô độc của tâm hồn Bùi Giáng. Không có mặt trời mọc, không có trăng bên thềm, chỉ có tuyệt
mù sông sâu, biển cạn, bụi hồng và sự hiện hữu người ngợm
vô thường trong nỗi đau đứt ruột.
2. Thơ Bùi Giáng, thơ tư tưởng
Trong thơ, người đọc khó khám phá ra nỗi đau thực sự của Bùi Giáng là gì,
nhưng nỗi đau ấy bàng bạc trong hồn thơ ông:
Niềm đau đớn xót xa như vĩnh quyết
Niềm điêu linh như vĩnh biệt muôn đời
Tôi về giữ mộng mù khơi
Kết thành viễn tượng cho đời chiêm bao
(Ngày Nay Ngày mai)
Niềm điêu linh như vĩnh biệt muôn đời
Tôi về giữ mộng mù khơi
Kết thành viễn tượng cho đời chiêm bao
(Ngày Nay Ngày mai)
Ăn làm sao? nói làm sao?
Thủy chung muôn một? còn đau đớn nghìn?
(Mười Hai Con Mắt)
Thủy chung muôn một? còn đau đớn nghìn?
(Mười Hai Con Mắt)
Phải chăng đó là nỗi đau của những cuộc tình “rã đôi“ không thành lời. Sự “chia ngã đường thu“ đã để lại những vết thương tâm
không rõ nguồn cơn, nở thành những “đóa đóa sầu“ để Bùi Giáng tặng cho đời... Ông có nhắc đến một vài người cụ thể: “Bình
sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương Nương Tử, Hà Thanh
Cố Nương và Mẫu Thân Phùng Khánh (tức Trí Hải Ni Cô)" (tiểu sử tự
ghi). Nhưng những người phụ nữ này được Bùi Giáng tôn vinh như là mẫu
thân sinh đẻ ra mình, tuyệt không có chút gì là quan hệ nhục
thể của tình yêu nam nữ, nhớ mong, hờn ghen, đau khổ, hẹn hò, mộng
mơ như trong thơ tình của những nhà thơ khác.
Tặng đời đóa đóa hoa sầu
Nhớ nhau từ đóa mộng đầu rã đôi
Nhớ nhau từ đóa mộng đầu rã đôi
(Theo Áng Mây bay)
Những thương nhớ lạnh bao giờ
Đường Thu chia ngã chân trời rộng tênh
(Mai Sau Em về)
Đường Thu chia ngã chân trời rộng tênh
(Mai Sau Em về)
Kính thưa công chúa Kim Cương,
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây.
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây.
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?
(Kính
Thưa)
Con về giũ áo đười ươi
Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi
Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi
(Thơ Điên)
Nhân vật Em trong thơ Bùi Giáng thấp thoáng bóng hình một
con người của thực tại, của kỷ niệm của yêu thương, nhưng cũng là huyễn
hoặc “sương bóng“ tâm tưởng để Bùi Giáng giãi bày
Em đi sương bóng vô ngần
Nhìn anh như ngó một lần người điên
(Mộng)
Nhìn anh như ngó một lần người điên
(Mộng)
Xin ngó lại bàn chân em bước
Vì em đi vào lúc gió đương bay
Năm ngón nhỏ như sương đầm lá ướt
Em đưa tay anh vói bắt chừng này
Ngồi kể lại chuyện ngày xưa cũ kỹ
Em không nghe vì anh cũng không nghe...
(Nhiên Tượng)
Vì em đi vào lúc gió đương bay
Năm ngón nhỏ như sương đầm lá ướt
Em đưa tay anh vói bắt chừng này
Ngồi kể lại chuyện ngày xưa cũ kỹ
Em không nghe vì anh cũng không nghe...
(Nhiên Tượng)
Chuyện tình yêu chỉ thoáng qua rất nhẹ vậy “Niềm đau đớn xót xa như
vĩnh quyết“ của Bùi Giáng là gì? Có lẽ xuất phát từ thẳm sâu ý thức
về thân phận thiên tài, số kiếp kẻ phong vận bạc mệnh mà
Nguyễn Du nói đến trong Độc Tiểu Thanh Ký? Xưa nay người phong vận phải
mang lấy những hận sự, những kỳ oan, như một định mệnh,
biết “hỏi đoạn trường từ đâu“, dù có hỏi trời cũng không có lời giải
đáp”. Cổ kim hận sự thiên nan vấn/ Phong vận kỳ oan ngã tự cư“.
Bùi Giáng tự kham lấy những nghiệp chướng ấy chăng, rồi nín
thinh như cỏ cây
Em về trúc thạch mốt mai
Sẽ nhìn thấy mãi thiên tài chết điên
Sẽ nhìn thấy mãi thiên tài chết điên
(Mười
Hai Con Mắt)
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
(Chào
Nguyên Xuân)
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng bình minh vô thường
Nắng hồng chiếu bóng đài gương
Lời nghi hoặc hỏi đoạn trường từ đâu …
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng bình minh vô thường
Nắng hồng chiếu bóng đài gương
Lời nghi hoặc hỏi đoạn trường từ đâu …
(Vẫn
Là Là)
Thực ra, trong bản chất của thân phận làm người, Bùi Giáng đau nỗi
đau kiếp nhân sinh, nỗi đau của sự thất bại trong nỗ lực vượt qua
“bốn núi“ (Chữ của Trần Thái Tông, 1218 -
1277, trong Thiền Tông Chỉ Nam), vượt
qua sắc không, ngũ uẩn, vô thường. Bùi
Giáng không sao đặt được bước chân vào cõi thanh tịnh vô vi
(Asamkrita). Ông tự dày vò mình trong hình hài “đười
ươi“, con vật, giống khỉ, ngửa mặt cười vu vơ (hình ảnh
“điên“ của Bùi Giáng)
… Em về giũ áo mù sa
Tiền trình vạn lý anh là đười ươi…
… Em về giũ áo đười ươi
Trút quần phong
nhụy cho người phụ nhau.
Đười ươi tại hạ ra đời
Thời gian rạch xé tô bồi cho em.
… Ông già rất mực đười ươi
Già nua lắm lắm
còn cười vu vơ.
Nhận
ra “tinh thể đười ươi“ trong thân phận người là một giác ngộ tư tưởng của Bùi Giáng.
Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.
Trong Thiền Luận, Daisetz Teitaro Suzuki nhắc
đến Thiền Thoại sau: Khi Ngưỡng Sơn (804-899) hỏi về Phật tánh. Thiền Sư Hồng Ân thí dụ như
vầy: “Như ngôi nhà có sáu cửa nhốt khỉ đột. Ở ngoài có người hô to “khọt khọt”,
khỉ đáp lại “khọt khọt”, cứ thế sáu cửa cùng hô cùng ứng. Ngưỡng Sơn hỏi lại:
“Ví như lúc ấy khỉ ngủ thì sao?". Hồng Ân bước xuống một tay nắm Ngưỡng
Sơn, vừa múa vừa nói: “Khỉ ơi khỉ ơi, ta với ngươi cùng đối mặt nhau đây”.
Đoạn thơ trên biểu hiện tâm hồn, tính cách, kiều nói năng rất Thiền của Bùi Giáng.
Bùi Giáng nhận ra Phật Tánh trong hình hài đười ươi của người, của tôi. “người cũng là tôi, tôi cũng là người, ấy rằng
tinh thể đười ươi“. Vũ trụ, thời gian là nhất thể, tự tại,
không sinh diệt: “một cũng là ba, là hai, là một; mai, mốt cũng là
hôm nay“. Sự giác ngộ như thế là bước giác ngộ thứ nhất để dẫn đến đại
ngộ. Đây không phải là sự “xóa nhòa ranh giới giữa cái tôi và
cái ta, giữa cái riêng và cái chung” như nhận xét của Nguyễn Hưng Quốc.
Trong đoạn thơ trên, phải chăng Bùi Giáng mượn lời thiền sư Hồng Ân để
thể hiện tư tưởng của mình? Rõ ràng tư tưởng thơ Bùi Giáng là tư
tưởng Phật Giáo. Đời hư huyễn, như hạt sương, bọt nước, như ánh chớp
, như áng mây, vô thường, chiêm bao (Bùi Giáng có nhiều bài thơ đề
tài Chiêm Bao). Tự Tánh của vạn vật là KHÔNG, sự từ bỏ Ngã, không để vướng mắc vào bất cứ cái gì đạt tới tinh thần “Ưng vô sở trú“, (Giới thiệu Kinh Kim Cang - Thích
Thái Hòa). Dường như Bùi Giáng đang phát tâm, an trú tâm và hàng phục
tâm, đoạn trừ ngã chấp, ngộ nhập ngã - không
“Anh đã định sẽ cùng em kể lể
Một nỗi đời hư huyễn giữa chiêm bao
Vườn hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ lệ
Một
mùi hương hồng tụ ở nơi nao”
Anh đã định bỏ hoàng hoa say đắm
Bỏ tâm tư về vắng lặng phương trời
Bỏ tất cả tâm tình xưa say đắm
Tới muôn sau tình tuyệt vọng không lời
(Quá
khứ của anh)
Có lúc Bùi Giáng đã đạt được sự hồn nhiên thanh tịnh (1), vượt
qua sắc không, đạt đến tinh thần của Hoa Nghiêm, hòa trong tạo vật. Tôi không thấy hồn thơ Bùi Giáng bị vây khốn như Thanh
Tâm Tuyền đã từng viết về ông.
Rong rêu ngày tháng rong chơi
Tìm xuân tinh thể chốn nơi nào là
Sưu tầm túy vũ cuồng ca
Hồn nhiên như thể như là hài nhi?
(Bé Con Ơi)
Tìm xuân tinh thể chốn nơi nào là
Sưu tầm túy vũ cuồng ca
Hồn nhiên như thể như là hài nhi?
(Bé Con Ơi)
… Một hàng cây bóng thần tiên
Dập dìu ở giữa khuôn viên thêu thùa
Bé con bốn đứa nô đùa
Một trai ba gái bốn mùa chạy quanh
(Thiên Thanh Là Là)
Dập dìu ở giữa khuôn viên thêu thùa
Bé con bốn đứa nô đùa
Một trai ba gái bốn mùa chạy quanh
(Thiên Thanh Là Là)
Xin yêu mãi mãi và yêu nhau mãi
Trần gian ôi! cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn.
(Phụng Hiền)
Trần gian ôi! cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn.
(Phụng Hiền)
Nâu sồng ăn mặc sớm hôm
Ðêm nằm ngó nguyệt sáng dòm song the.
(Ăn Mặc Nâu Sồng)
Ðêm nằm ngó nguyệt sáng dòm song the.
(Ăn Mặc Nâu Sồng)
Dưới mắt người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong,
cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không dễ thương, không phải
là Phật, kể cả sơn hà đại địa, phiến đá, dòng suối trong rừng,
một miếng gỗ, cục đá hay đồng chì...
Nhưng Bùi Giáng không trở thành Thiền Sư, ông vẫn sống với thân phận đười
ươi khỉ đột giữa đời, vẫn tra hỏi tìm kiếm mỏi mòn trong
cõi bể dâu, và ngày càng xa hút... trong cái nhìn của con người,
cái nhìn đười ươi, nghi hoặc, đo, đếm.
Đười ươi giũ áo tình phong nhã
Khỉ đột trút quần tưởng Việt siêu…
(Chiêm Bao 7)
Cố gắng trăm năm tìm kiếm mãi
Mỏi mòn nghìn mối thể thân ly…
(Chiêm
Bao 3)
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên? Rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
Ông
chỉ đạt tới tiểu ngộ mà không đạt tới đại ngộ của Thực
tướng vô tướng; thực tánh vô tánh. Trạng thái “điên“ của Bùi
Giáng chính là trạng thái bất lực trước cuộc vượt qua đề “tái sinh“, mặc dù Bùi Giáng đã nhiều lần nói đến tái
sinh.
Anh đã định sẽ yêu đời suốt kiếp
Suốt thiên thu từ vạn
thuở phiêu bồng
Rồi anh chợt
thấy mình luôn liên tiếp
Nửa
điên cuồng nửa rồ dại bông lông
(Quá Khứ Của Anh - tại Lê Gia Trang 1991)
Tỉnh ra nửa sợ nửa mừng
Tận cùng gió núi trăng rừng tái sinh
Tận cùng gió núi trăng rừng tái sinh
(Chuyện
Chiêm Bao 20)
Tận cùng gió gác trăng lầu
Tái sinh rừng biển buồn rầu trăm năm
(Chiêm
Bao 21)
Chưa giác ngộ, người ta thấy núi là núi sông là sông. Giác ngộ rồi, người
ta vẫn thấy núi là núi, sông là sông, nhưng là một tâm hồn tái sinh. Tái
sinh trong tâm bình thường không phải tâm sai biệt.
Như trở về nhà xưa, hoa xuân như lộng lẫy hơn, dòng nước đầu non như chảy
mát rượi hơn, trong vắt hơn, trong mọi vật bình thường là toàn thể
vũ trụ, là tự do.
Chính vì không vượt qua được sắc tướng huyễn hoặc hồng trần, Bùi Giáng cứ
phiêu du trong cõi đời cô độc mù khơi, hành trình ấy như một bế tắc, lại vừa như một khám phá hiện sinh làm nên thơ Bùi Giáng, những bài thơ ấy chia xẻ được
với mọi người nỗi niềm gần xa. Bởi vì nếu Bùi Giáng “ngộ“ được chân như,
có lẽ thơ Bùi Giáng chỉ còn là những bài kệ để thuyết pháp mà thôi.
tôi người thủy thủ ra đi
chân trời thấy nước đợi kỳ lên mây
sao đêm đố xuống triều đầy
ai đưa kiếm vút ngang mày hư không
(Mái Hiên)
chân trời thấy nước đợi kỳ lên mây
sao đêm đố xuống triều đầy
ai đưa kiếm vút ngang mày hư không
(Mái Hiên)
lạnh lụng dấu bước bờ sau
mấy đời ly biệt về đau trong mình
năm sầu sa mạc nín thinh
đi vào giá buốt mông mênh cuối trời
(Mái Hiên)
mấy đời ly biệt về đau trong mình
năm sầu sa mạc nín thinh
đi vào giá buốt mông mênh cuối trời
(Mái Hiên)
3. Giá trị thơ Bùi Giáng
Thơ Bùi Giáng tài hoa ở câu chữ, những câu chữ chứa đầy bí mật. Nhiều
người đọc thơ Bùi Giáng không hiểu, tấm tắc khen, rằng là tài hoa, rằng
là hay… nhưng bất lực, không giải mã được, đành
“tán“ như vầy: “có khi không hiểu hết nghĩa nhưng tâm hồn vẫn bàng
bạc một nỗi cảm hoài. Có thể thơ Bùi Giáng nói được đôi điều rất chân thật với
tâm hồn ta, và ta được hưởng ít giây phút sung sướng phiêu bồng mà hầu hết
chúng ta đã đánh mất, đã rời quá xa trong cuộc sống đầy phân chia đến chỗ cằn cỗi
này”. (Phạm Xuân Đài). Nguyễn Phú Long trích dẫn thơ trong một bài luận
về “Sở Dĩ Nhiên” cho rằng, đọc thơ Bùi Giáng không cần hiểu ý nghĩa bài
thơ: ”Nhưng tại sao lại đặt vấn đề ý nghĩa cho một bài thơ nhỉ?
Bài thơ là bài thơ, những gì ta thấy ta đọc là những gì ta đọc ta thấy vậy
thôi. Đừng đi tìm ý nghĩa. Bài thơ như thế đấy, nó không cần có ý nghĩa.” Nguyễn Hưng Quốc còn đi xa hơn: “Bùi Giáng rất gần các nhà thơ hậu hiện
đại. Bùi Giáng còn gần gũi các nhà thơ hậu hiện đại ở một khía cạnh khác nữa: một
số khá nhiều những bài thơ của ông là loại thơ không thể giảng. Nói cách khác,
bài thơ là bài thơ. Không có ý nghĩa nào ẩn đằng sau bài thơ để chúng ta đào xới,
tìm kiếm… Chúng ta không thể phân tích. Chúng ta chỉ cần nghiệm (experience). Đọc
lần thứ nhất: chúng ta không hiểu gì cả. Đọc lần thứ hai: chúng ta vẫn không hiểu
gì cả. Đọc lần thứ ba: chúng ta lại vẫn không hiểu gì cả.”
Ô hay! Bùi Giáng làm thơ là để mong có người
chia xẻ tâm sự điêu linh, vậy mà người đọc lại không hiểu, không cần
hiểu, không cần đọc những gì ông gửi gắm qua câu chữ, thử hỏi Bùi Giáng có buồn
không?
Xổ bầu tâm sự điêu linh
Ai người chia xẻ với mình với ta
Ai người chia xẻ với mình với ta
(Một
giờ)
Không phải thơ Bùi Giáng là “thơ gần
với thơ Hậu Hiện Đại, bài thơ là bài thơ, không có ý nghĩa nào ẩn sau để chúng
ta đào xới“, đấy chỉ là cách nói của sự bất lực trước ngôn ngữ tư tưởng của thơ Bùi Giáng. Thơ tư tưởng phải hiểu bằng tư tưởng, không phải bằng câu
chữ; hơn nữa Bùi Giáng đã dùng một loại ngôn ngữ “khép kín“, yêu cầu rất cao đối với người đọc để có thể hiểu thơ ông:
Ngữ ngôn khép kín mặc dầu
Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra
Dịu dàng cuối lá đầu hoa
Mười về châu lệ chín sa dòng dòng
Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra
Dịu dàng cuối lá đầu hoa
Mười về châu lệ chín sa dòng dòng
Bùi Giáng bảo rằng phải mở óc trong đầu ra, mở máu
trong tim ra, phải có hùng tâm, phải trở về chín phương trời mười phương Phật nước mắt dòng dòng tuôn rơi (như chín chiều ruột đau) mới có thể đọc Bùi Giáng, lại phải biết
trân trọng nâng niu, dịu dàng như nâng niu hoa lá. Nhất
là phải có “hùng tâm“, đừng nghi tâm. Chữ
“hùng tâm“ theo tôi, là chữ Bùi Giáng mượn cái tâm của Nguyễn Du: Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên/ hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên“ (Tạp Thi). Với yêu cầu như thế, việc đọc thơ Bùi Giáng thật không dễ
dàng.
Thực ra thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng, thể tính của nó là tư
tưởng, không phải câu chữ, hơn nữa ở nhiều bài thơ, Bùi Giáng đã dùng
kiểu diễn đạt “vô ngôn“ cuả Thiền. Với kiểu ngôn ngữ này, càng bám vào ngôn
ngữ, người đọc càng bị mắc bẫy bởi chính tư duy của mình. Thí dụ:
Đệ tử hỏi:
- Thế nào là Phật?
- Thế nào là Phật?
Thiền sư Tịnh Không (1091-1170) đáp:
- Nhật
nguyệt sáng soi ức triệu cõi
Ai hay mua móc gội non sông! (Thiền Uyển Tập Anh)
Bùi
Giáng cũng trả lời những người hỏi mình:
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên? Rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
(Bùi
Giáng)
Cách trả lời của Bùi Giáng trong đoạn thơ trên cũng là cách trả lời của thiền sư Tịnh Không. Nếu người đọc chỉ tra hỏi, đo, đếm với
cái tâm sai biệt (Nghi tâm), chỉ bám vào câu chữ,
thì không thể hiểu ông nói gì. Bởi vì Bùi Giáng tồn tại vô sắc tướng trong
đoạn thơ. Người đọc cảm được cái hay của đoạn thơ nhưng khó
giải thích được được bản chất thẩm mỹ cuả đoạn thơ là gì. Đây chính là đặc
điểm ngôn ngữ Thiền. Không hiểu mới là Thiền. Bởi vì Thiền “... Bất
lập văn tự, trực chỉ nhân tâm“, Thiền loại bỏ tất cả sự
nhận thức của trí. Khi còn bám vào sắc tướng (lời)
còn nghi tâm, thì không hiểu được ý ở ngoài lời.
Tất nhiên bằng trực giác, ta vẫn có thể hiểu được lớp nghĩa tường minh của văn bản, bởi vì trong ta đã có sắn vốn ngôn ngữ để hiểu. Ta hiểu
được “Biển xanh dâu“ vì trong ta đã có câu thơ Kiều “Trải
qua một cuộc bể dâu“. Trong ta, ai cũng đã từng một lần
dệt mộng cho tình đầu của mình, ”mộng ban đầu“, “mộng dưới hoa“,
“mộng bình thường“. Đoạn thơ còn quen thuộc ở cấu trúc giống với
đoạn thơ Nguyễn Du giới thiệu Mã Giám Sinh, một nhân vật để lại nhiều ấn tượng
cho người đọc Kiều. Sự thú vị càng tăng lên khi người đọc nhận ra phép đối trong câu chữ của Bùi Giáng với câu chữ của Nguyễn Du: “Hỏi
quê: “rằng huyện Lâm Thanh cũng gần“ (truyện Kiều), đối với
“Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa“ (Bùi Giáng). Bùi Giáng đối
lập mình với Mã Giám Sinh, từ đó đặt mình trong tương quan với Nguyễn
Du. Câu thơ Nguyễn Du là câu thơ tả thực nói cái đời thường, quê quán,
tuổi tác, gia cảnh. Câu thơ Bùi Giáng ngược lại, dẫn người đọc vào trường ngôn
ngữ nghệ thuật đòi sự cảm nhận lãng mạn. Cái hay của đoạn thơ còn ở chỗ
Bùi Giáng làm thay đổi đột ngột cách tư duy của người đọc. Đang từ kiểu tư duy
hình tượng với biển xanh dâu, đột ngột đổi sang kiểu tư duy cụ thể đo
đếm, một, hai, ba, rồi tức khắc chuyển sang tư duy triết
học với những “diệu tưởng, nghi tâm“. Tư duy logic của người đọc
bị lật nhào, đoạn thơ mở ra chiều tư tưởng, buộc người đọc phải
thoát ra khỏi câu chữ để nhìn bằng cái tâm không sai biệt. Tiến
trình đọc như vậy tạo ra khoái cảm thẩm mỹ. Người đọc có thể không hiểu câu chữ
Bùi Giáng vẫn cảm nhận được cái hay của thơ ông là vậy.
Nói thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng thì giá trị thơ Bùi Giáng cũng là giá trị của chính tư tưởng ấy. Vậy tư tưởng thơ Bùi Giáng là gì? Ở trên tôi đã nhận
ra tư tưởng của kinh Kim Cang, kinh Hoa Nghiêm, tư tưởng Thiền trong thơ Bùi
Giáng, nhưng còn một thế giới tư tưởng khác trong thơ Bùi Giáng là thế
giới tư tưởng Nguyễn Du: biển xanh dâu, đoạn trường, phong vận,
lầu xanh, cát lầm, bụi hồng, hùm thiêng (thân phận Từ Hải), Đạm
Tiên, Từ Hải… Bùi Giáng mượn thế giới tư tưởng nghệ thuật ấy để thể hiện
tâm hồn mình:
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
(Chào
Nguyên Xuân)
Tồn sinh quá khứ chôn vùi
Cơn say suốt kiếp - trận cười thâu canh
Cơn say suốt kiếp - trận cười thâu canh
(Gõ cửa Tồn Sinh)
Hùm thiêng chắp nối của tin
Cho người thổn thức cầu xin đá vàng
Cho người thổn thức cầu xin đá vàng
(Mười
Hai Con Mắt)
Tuyệt mù biển cạn sông sâu
Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ
(Ông Điên)
Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ
(Ông Điên)
Cô đơn chứa đựng đầy miền
Cảo thơm tiền kiếp quả nhiên bây giờ.
Cảo thơm tiền kiếp quả nhiên bây giờ.
(Quanh
Co)
Mặc người
mưa Sở mây Tần
Riêng mình gìn giữ
một lần đầu tiên
mưa Sở mây Tần
Riêng mình gìn giữ
một lần đầu tiên
(Riêng Mình)
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng bình minh vô thường
Nắng hồng chiếu bóng đài gương
Lời nghi hoặc hỏi đoạn trường từ đâu
(Vẫn Là Là)
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng bình minh vô thường
Nắng hồng chiếu bóng đài gương
Lời nghi hoặc hỏi đoạn trường từ đâu
(Vẫn Là Là)
Sao bằng riêng một biên thùy
Cõi điên vũ trụ tùy nghi tung hoành
(Sao Bằng)
Cõi điên vũ trụ tùy nghi tung hoành
(Sao Bằng)
Lừng bay thân thế pha mù
Sương mây tuyết dậy thân bù cho thân
Sương mây tuyết dậy thân bù cho thân
(Đạm Tiên)
Nhưng thơ Bùi Giáng không chỉ có ngần ấy tư tưởng. Những hệ
tư tưởng ấy chưa đủ để ông giải quyết những vấn đề của hiện hữu và cũng
không giúp ông nói hết sự trải nghiệm hiện sinh của mình, bởi cuộc đời ông,
thời đại ông và tư tưởng của ông khác rất xa với quá khứ. Ông tìm đến một
cách thể hiện khác, đó là thái độ “điên“. Thiền thọai kể lại nhiều
hành vi của các Thiền sư mà nếu nhìn bằng con mắt bình thường ta có thể sẽ thốt
lên rằng “điên thật! điên thật!“, chẳng hạn: có một thượng tọa tên là
Định hỏi sư Lâm Tế về đại nghĩa pháp Phật. Sư bước xuống ghế rơm, nắm lấy
Định, xáng cho một bạt tai, rồi xô ra. Định choáng váng chưa biết phải làm gì. Một ông tăng đứng bên bảo Định sao không lạy Sư đi. Định toan lạy thì ngay
lúc ấy hốt nhiên ngộ đạo. Sau đó, Định qua cầu gặp ba ông tọa chủ. Một
ông hỏi Định: tôi nghe nói dòng thiền sâu thẳm phải dò đến đáy, thế nghĩa là
gì?”. Định bèn nắm lấy người ấy, toan ném xuống sông (dẫn theo
Suzuki). Thiền Uyển Tập Anh kể lại: Thiền sư Đại Xả (1120-1180) thường
xõa tóc, quên ăn, không ở hẳn một nơi nào. Ngày 5 tháng 2 năm Trinh Phù thứ 5, sau khi dặn dò đệ tử, sư đọc bài kệ, đến canh năm hôm ấy sư uống thuốc
độc mà qua đời. (Thế có là điên hay không?)
Phải chăng Điên là một cách hành Thiền của Bùi
Giáng? và Điên cũng là cách né tránh đối diện với thực tại ,
thực tại thời chiến tranh Việt Nam, trước và sau 1975? Ta không thấy Bùi
Giáng bày tỏ bất cứ chính kiến nào về thực tại đó như thơ văn đương thời. Bài
thơ Về Quảng Nam được viết bằng ngôn ngữ đời thường thể hiện rõ thái
độ né tránh ấy:
Chiêm bao tôi thấy tôi về Quảng Nam
Rong chơi Đại Lộc, Điện Bàng
Duy Xuyên, Tiên Phước, Hoà Vang, Thăng Bình...
Tìm người bạn cũ không ra
Còn phong cảnh cũ khác xa những ngày...
Xóm làng đồng ruộng lạ thay
Chỉ còn dáng núi chạy dài xa xa
Giữ nguyên hình ảnh đậm đà
Còn trong kỷ niệm bao la tuổi nào...
Ngắm nhìn. Tim máu xôn xao
Tôi rời đất Quảng trở vào Miền nam
Tâm hồn bao xiết hoang mang
Bài thơ viết vội, dở dang lạ lùng
1995
Rong chơi Đại Lộc, Điện Bàng
Duy Xuyên, Tiên Phước, Hoà Vang, Thăng Bình...
Tìm người bạn cũ không ra
Còn phong cảnh cũ khác xa những ngày...
Xóm làng đồng ruộng lạ thay
Chỉ còn dáng núi chạy dài xa xa
Giữ nguyên hình ảnh đậm đà
Còn trong kỷ niệm bao la tuổi nào...
Ngắm nhìn. Tim máu xôn xao
Tôi rời đất Quảng trở vào Miền nam
Tâm hồn bao xiết hoang mang
Bài thơ viết vội, dở dang lạ lùng
1995
Ta chỉ thấy thấp thoáng tâm hồn Bùi Giáng xiết bao hoang
mang, xôn xao, dở dang trước thực tại đã thay đổi lạ lùng. Bùi
Giáng không lộ ra bất cứ một phản ứng chính trị xã hội nào. Thái độ này chẳng
khác gì Nguyễn Du lúc sinh thời. Nguyễn Du sống im lặng, dấu kín tư tưởng của mình với thực tại thời Gia Long. Nhiều bài thơ của Nguyễn Du mượn đề
tài Trung Quốc. Thật khó tìm thấy hình ảnh đời sống thật của xã hội Việt Nam
và thái độ của Nguyễn Du trong thơ ông. Thái độ của Bùi Giáng với Nguyễn Huệ (bài Nguyễn Huệ) cũng gần như thái độ Nguyễn Du với Từ Hải, mà có ý kiến cho rằng
Từ Hải là hình bóng Nguyễn Huệ. Và, phải chăng thái độ của Bùi Giáng
cũng là thái độ “giả cuồng“ của Nguyễn Gia Thiều trước thời cuộc? Nguyễn Huệ
ra Bắc 1786, Nguyễn Gia Thiều lẩn trốn ở núi rừng. Khi không còn trốn tránh
được, ông trở lại Thăng Long uống rượu, giả cuồng, bất hợp tác với Tây Sơn.
Bùi Giáng ý thức rõ việc lúc nào điên, lúc nào tỉnh, ông
cũng ý thức rõ người đời hoài nghi về thái độ “giả cuồng“ ấy của ông
Uống và say nói lăng nhăng
Miệng mồm lý nhý thằn lằn đứt đuôi
Miệng mồm lý nhý thằn lằn đứt đuôi
(Người
Điên Uống Rượu)
Tôi cười tôi khóc bâng quơ
Người nghe người khóc có ngờ chi không.
Người nghe người khóc có ngờ chi không.
(Bao Giờ)
Tôi nằm ở giữa vườn cây
Tấm lòng men rượu từ nay chịu chừa
Điên cuồng nhảy múa sớm trưa
Từ nay chấm dứt - thượng thừa hoàng trang
Tấm lòng men rượu từ nay chịu chừa
Điên cuồng nhảy múa sớm trưa
Từ nay chấm dứt - thượng thừa hoàng trang
(Cũng Là Như Thế)
Uống
rượu, điên cuồng nhảy múa, nói năng lí nhí, cười khóc bâng quơ... Nếu
nhìn ở hiện tượng ngôn ngữ thì đó là hành vi của người điên không còn ý thức,
nhưng ở Bùi Giáng đó là một hành vi có ý thức, một thái độ chọn lưạ hiện sinh. Nhất định thái độ ấy phải xuất phát từ tư tưởng. Có thể là ông mắc phải
sai lầm nào đó trong đời, hay sai lầm của những dấn thân “tội lỗi“
Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh
(Hư
Vô Và Vĩnh Viễn)
Máu trong mình mòn ruỗng
Xương trong mình rã riêng
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang
Xương trong mình rã riêng
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang
(Bờ
Lúa)
Cũng có thể đó là thái độ sống “hồn nhiên“ của người “đắc đạo“ .Người đời
nhìn ông điên, nhưng, với ông, đó là tự do. Chữ tự do hiểu
theo tư tưởng Phật, không phải tự do chính trị. Tôi không nghĩ rằng “Anh càng
lang thang, càng lên cơn điên dữ dội, càng điêu linh tàn tạ, nhưng cùng lúc anh
đang đóng vai trò của một sứ đồ tự do, bản thân anh là một bài ca đầy cảm hứng
cho nỗi khát khao tinh thần tự do của xã hội… Anh tượng trưng cho sự
"ngoài vòng cương tỏa" mà người văn nghệ chân chính nào cũng thèm muốn.” (Phạm Xuân Đài). Thực ra đó là tinh thần “Ưng vô sở trú" của kinh Kim Cang, tinh thần tự do của Lâm Tế Nghĩa Huyền (? -
867) “… gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La Hán hoặc họ hàng thân thiết,
giết hết, chớ ngần ngại: đó là con đường độc nhất để giải thoát. Đừng để bất cứ
ngoại vật nào trói buộc mình, hãy vượt lên, hãy bước qua, hãy tự do” (Dẫn theo
Suzuki)
Ngủ yên bên lá cỏ chiều
Giữa trời thu mỏng gió dìu mây trôi
Ngủ yên bên suối bên đồi
Bên rừng thu tạnh bên người xót xa
Cát lầm ngọc trắng ố hoa
Bên đời thổn thức thiết tha bên người
Ngủ yên cây cỏ ngậm ngùi
Một giờ yên ngủ lấp vùi trăm năm
Tỉnh ra tìm lại chỗ nằm
Chốn xa xôi ấy đêm rằm trăng soi
Giữa trời thu mỏng gió dìu mây trôi
Ngủ yên bên suối bên đồi
Bên rừng thu tạnh bên người xót xa
Cát lầm ngọc trắng ố hoa
Bên đời thổn thức thiết tha bên người
Ngủ yên cây cỏ ngậm ngùi
Một giờ yên ngủ lấp vùi trăm năm
Tỉnh ra tìm lại chỗ nằm
Chốn xa xôi ấy đêm rằm trăng soi
(Chuyện
Chiêm Bao 17)
Bùi
Giáng có thể ngủ yên bên cỏ, bên suối, bên đồi, bên rừng để lấp vùi
trăm năm, nhưng Bùi Giáng không thể quên nguôi nỗi đau đời.
Ông gắn bó đá vàng bên đời buồn tủi, bên người xót xa,
ông thiết tha bên người với tất cả nỗi ngậm ngùi thổn thức của cõi nhân sinh, và ông bỗng nhận ra mình lạc mất trong chốn xa xối ấy, tỉnh ra đi tìm lại chính mình.
Trước khi về chín suối
Em xin gửi đá vàng
Của trăm năm buồn tủi
Về trở lại nhân gian
Em xin gửi đá vàng
Của trăm năm buồn tủi
Về trở lại nhân gian
(Trước
Khi)
Có thể nhận thấy sau Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá Quát, thì Bùi Giáng
là người làm thơ tư tưởng , và đưa thơ tư tưởng Việt Nam lên những bước
phát triển mới. Điều này trở thành giá trị thơ Bùi Giáng, vì đương thời và cả
hiện nay, rất ít nhà thơ Việt Nam trở thành nhà thơ tư tưởng (Có chăng
là Phạm Thiên Thư, và hiện nay là Trần Ngọc Tuấn với tập thơ Gió Reo).
Tuy nhiên tư tưởng thơ Bùi Giáng không sánh được với tư tưởng thơ Nguyễn Du và
Nguyễn Gia Thiều ở sự giác ngộ những trải nghiệm bể dâu, ở cái
“hùng tâm“ và thần lực của một hồn thơ mà ngòi bút có thể làm rung
chuyển khắp cõi nhân gian như Không Lộ Thiền Sư “Trường khiếu nhất thanh
hàn thái hư.” (Không Lộ - ?-1119. Thiền Uyển Tập Anh)
Bùi Giáng không có cách tân gì về thơ, ông chỉ kế thừa truyền thống và làm mới
thơ bằng phong cách ngôn ngữ của mình.
Về nghệ thuật và tư tưởng, thơ Bùi Giáng nằm trong bầu khí tư tưởng và
thế giới nghệ thuật của thơ cổ điển, của Nguyễn Du, tư tưởng Phật Giáo.
Thử xem xét yếu tố thiên nhiên trong thơ Bùi Giáng,
người đọc nhận ra ngay chất cổ điển trong cách Bùi Giáng sử dụng những chất liệu này. Thiên
trong thơ Bùi Giáng rất ít khi là thiên nhiên đời thường của ca dao, đó là
thiên nhiên khái niệm, mang tính trí tuệ, tính tư tưởng của thơ Đường,
nó cũng mang cái nhìn Hoa Nghiêm của Bùi Giáng trên hoa cỏ, sông núi, ruộng đồng, gió trăng, mây nước. Thiên nhiên ấy cũng mang màu sắc Kiều của Nguyễn
Du. Ta gặp nhiều hình ảnh này: chân trời rộng tênh, nguyệt tỏ bên thềm,
biển cạn sông sâu, chiều xuân thơ mộng, bình minh vô thường,
sương đầm lá ướt, vườn hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ lệ, gió núi
trăng rừng, biển xanh dâu, cây cỏ ngậm ngùi, trời thu, rừng thu, mây trôi, bụi hồng, cát lầm, nguyên khê, đầu núi,… và dường như thấp thoáng Bùi Giáng trong bài thơ này:
Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Tri âm như bất
thưởng
Quy ngoạ cố sơn thu
(Giả Đảo)
[Ba năm làm được hai câu thơ/ mỗi lần ngâm lên hai hàng lệ chảy/ (nếu) bạn tri âm mà không thưởng thức/
(ta sẽ) về nằm trong núi xưa (với) mùa thu]
Nằm giữa vườn cây nhớ bốn trời
Ba bề bảy ngõ nhớ muôn nơi
Tưởng chừng thiên hạ mênh mông quá
Mà thơ ta chỉ có vài lời
Tặng người người có nhận hay không
(Cũng là như thế - Bùi Giáng)
Ba bề bảy ngõ nhớ muôn nơi
Tưởng chừng thiên hạ mênh mông quá
Mà thơ ta chỉ có vài lời
Tặng người người có nhận hay không
(Cũng là như thế - Bùi Giáng)
Thơ Lục bát của Bùi Giáng cũng gần gũi như Lục bát của Đoạn
Trường Tân Thanh, và gần như ca dao, có cả thơ đuà cợt kiểu ca dao
(Tuy Nhiên Em Có Mặc Quần, Lời Sơn Nữ)
Nhiều bài thơ của Bùi Giáng có giọng thơ của thơ Lãng Mạn 1930-1945 (Ly Tao 1. Ly Tao III. Màu Trời Đó…) Cảm
hứng chính của thơ Bùi Giáng là cảm hứng lãng mạn có màu sắc Thiền (Chào
Xuân Nguyên, Cỏ Hoa Hồn Du Mục, Dư Vang…)
Bùi
Giáng có rất ít bài thơ nói về thực tại bằng ngôn ngữ đời thường.(Không Đề - tặng
nhạc sĩ Quốc Bảo; Nguyễn Huệ, Về Quảng Nam, Em Mọi Ơi),
ngay cả những bài như thế cũng lãng đãng không khi lãng mạn (Òa Các Em, Nỗi Lòng Tô Vũ - kỷ niệm 15 năm chăn dê)
Nhưng Bùi
Giáng có phong cách ngôn ngữ riêng, người ta có thể nói đến kiểu ngôn ngữ Bùi
Giáng. Ông sử dụng rất nhiều từ Hán Việt bên cạnh từ thuần Việt, đó là vốn từ
Hán Việt của nhà Phật và của văn chương cổ điển, đồng thời ông tạo nên những từ
lạ so với vốn từ đã quen dùng. Nhiều bài, từ Hán Việt dày đặc đến nỗi
trở nên rất khó đối với độc giả bình thường
Em từ non nước Viễn Khơi
Trùng lai cố quận chịu chơi một lần
(Em Từ)
Thiệt thòi đời mộng phiêu linh
Cành sương ngọc thụ tồn sinh cát lầm
Giấc quày quả lạnh anh trâm
Bóng đu sung rớt bến trầm luân sâu
Hoài mong hiu hắt nhịp cầu
Mà hương quan vắng xa màu mây trôi.
Cành sương ngọc thụ tồn sinh cát lầm
Giấc quày quả lạnh anh trâm
Bóng đu sung rớt bến trầm luân sâu
Hoài mong hiu hắt nhịp cầu
Mà hương quan vắng xa màu mây trôi.
(Mùa Phượng Cũ)
Điều
này giải thích tại sao thơ Bùi Giáng khó hiểu. Bùi Giáng cố ý dùng nhiều
từ Hán Việt trong một cấu trúc ngữ pháp đã bị xáo trộn so với cấu trúc bình thường
để tạo nên “mật ngữ“ của riêng ông. Có điều lạ là tuy có nhiều từ Hán
Việt nhưng thơ ông không hề cổ điển, có lẽ vì ông khai thác thi tứ, đề tài,
chất liệu và tạo ra trường nghĩa mới so với thơ cổ điển chăng. Cách dùng chữ
Hán Việt của Bùi Giáng rất khác Nguyễn Du. Trong Đoạn Trường Tân
Thanh, Nguyễn Du đặt từ Hán Việt bên cạnh những từ thuần Việt sao cho
người đọc dù không biết chữ Hán vẫn có thể cảm hiểu được thơ.
“Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng“ (Nguyễn
Du)
Thiên hương quốc sắc lạ thay
Một tòa sẵn đúc dày dày thiên nhiên
Khiến đời tứ đảo tam điên
Cuồng quay đảo phụng cường kiên điên hoàng
(Gà Gáy Sáng - Bùi Giáng)
Một tòa sẵn đúc dày dày thiên nhiên
Khiến đời tứ đảo tam điên
Cuồng quay đảo phụng cường kiên điên hoàng
(Gà Gáy Sáng - Bùi Giáng)
Với Bùi Giáng , làm thơ như một trò nghịch ngợm chữ nghĩa của một con người tài
hoa. Trong đoạn thơ trên, rõ ràng có bàn tay nghịch ngợm rất mực tài hoa của Bùi Giáng. Câu thơ Kiều
“Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên“ đã được
Bùi Giáng viết lại “Một tòa sẵn đúc dày dày thiên nhiên“ và câu thơ
“cuồng quay đảo phụng cường kiên điên hoàng“, xáo trộn nghịch ngợm
triệt để những từ Hán Việt, ngữ nghĩa trở nên xa lạ không sao hiểu
được. Có thể sắp xếp lại theo cấu trúc thông thường: phụng
hoàng kiên cường quay cuồng điên đảo. Tất nhiên như thế không còn
là thơ Bùi Giáng, và ngay cả khi đã sắp lại như thế, vẫn khó tìm ra một
cấu trúc thực sự hợp lý để hiểu ý thơ. Mật ngữ của Bùi Giáng là ở đó. Thực
ra Bùi Giáng có thể viết những câu thơ thật thà hiền lành thế này:
Chiều nay anh làm thơ
Chẳng còn hay như trước
Suốt một tháng
Viết không được một câu
Thì lấy đâu ra thơ
Mà tặng em cho được
Tặng một câu cũng chưa đủ
Thì lấy đâu bốn câu
Cho đủ một bài.
(Em Mọi Ơi)
Chẳng còn hay như trước
Suốt một tháng
Viết không được một câu
Thì lấy đâu ra thơ
Mà tặng em cho được
Tặng một câu cũng chưa đủ
Thì lấy đâu bốn câu
Cho đủ một bài.
(Em Mọi Ơi)
Bùi
Giáng là một phong cách đặc sắc, nếu chỉ viết như thế sẽ chẳng bao
giờ có thơ Bùi Giáng để người đọc ái mộ.
Phong cách thơ Bùi Giáng trước hết thể hiện ở trò chơi
ngôn ngữ thách đố người đọc
như trong trò chơi ú tim. Bùi Giáng có khả năng biến hóa ngôn ngữ một cách tài hoa. Tôi không nghĩ đó là thi pháp, mà chỉ là sự tài
hoa của ngòi bút, của cá tính sáng tạo.Thi pháp thơ Bùi Giáng nằm trong thi
pháp thơ cổ điển và thơ Lãng Mạn. Bùi Giáng chưa vượt ra ngoài cõi thi pháp ấy.
Nguyễn Hưng Quốc coi những kiểu chơi chữ của Bùi Giáng như là
thi pháp, điều ấy có đi xa quá chăng?. Ông nhận định: “Tôi cho
đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: thơ Bùi Giáng
chính là sự xóa nhòa của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận
như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay… xóa nhòa những
đường biên về giọng điệu, xóa nhòa ranh giới giữa truyền thống và hiện đại.., xóa nhòa ranh giới giữa cái gọi là thơ và cái gọi là phi thơ…, xóa nhòa giữa cái lý và cái phi lý...” (Cuộc Hòa Giải Vô
tận - Trường Hợp Bùi Giáng).
Đúng là có những hiện tượng lẻ tẻ như vậy, nhưng không là chủ
đạo của ngòi bút Bùi Giáng... Thơ ông là thơ truyền thống, chủ yếu là Lục
bát, thất ngôn cổ điển (Chiêm Bao 7, Chiêm Bao 4...) thơ 7 chữ. 8 chữ
kiểu Thơ Mới (Kể Chuyện, Giòng Sông; Hư Vô và Vĩnh Viễn...), lâu lâu ông đùa nghịch một chút, tạo ra một kiểu chơi chữ mới, thách đố ngôn từ, dẫn người đọc vào những miền xa lạ xóa nhòa tư duy, tạo ra sự
thích thú, như kiểu làm thơ phá cách vậy thôi, đùa một chút thôi mà!
Phong cách Bùi Giáng toát ra từ thế giới nghệ thuật của cả
bài thơ. Thơ Bùi Giáng là một thế giới riêng, thế giới thơ cổ điển của hôm
nay. Thế giới của nghệ thuật kết hợp với tư tưởng, của tâm thức
hiển hiện trong ý thức, của câu chữ thật nói lời vô ngôn, của sự
trộn lẫn tài hoa và bi thương, của thực tướng và hư huyễn, của những
“đổ lộn“, “từ bỏ“ núi sông, thành
lũy, hiện hữu, thời gian, thành “tiếng vàng vang vọng“ xa
lạ... Tiếng Việt trở nên sang trọng và phong phú vô cùng, câu thơ trùng trùng
nghĩa, chữ gọi chữ, chữ thai nghén nghĩa mới, nghĩa gọi tâm, tâm lay động thái hư, vang vọng mãi vào vô biên. Bùi Giáng có nhiều bài thơ hay, không chỉ
có câu thơ hay. Điều đặc biệt là có thể nhặt ra những câu thơ hay, để
riêng lẻ, câu thơ vẫn tồn tại độc lập như câu thơ Kiều.
Nghe trời đổ lộn nguyên khê
Tiếng vàng rụng rớt gieo về động xanh
Gót chân khơi rộng bóng cành
Nhịp vang đầu núi vọng thành lũy siêu
Thời gian chắc bước bên chiều
Khóc sông bến lạ mưa chiều sớm xuân
Cỏ hoa từ bỏ ruộng đồng
Hồn du mục cũ xa gần hử em
Tiếng vàng rụng rớt gieo về động xanh
Gót chân khơi rộng bóng cành
Nhịp vang đầu núi vọng thành lũy siêu
Thời gian chắc bước bên chiều
Khóc sông bến lạ mưa chiều sớm xuân
Cỏ hoa từ bỏ ruộng đồng
Hồn du mục cũ xa gần hử em
(Cỏ Hoa Hồn
Du Mục)
Những bài thơ như Cỏ Hoa Hồn Du Mục trở nên mới
lạ và làm nên phong cách Bùi Giáng so với thơ đương thời. Tôi nghĩ rằng người đọc có thể tìm thấy nhiều giá trị khác trong thơ ông nếu có được trình độ tư
tưởng và khả năng vượt qua được kiểu ngôn ngữ Bùi Giáng: Một rừng
dày đặc từ Hán Việt trộn lẫn với khẩu ngữ, nghịch ngợm, xáo trộn, thành “mật ngữ“, thách đố năng lực tư duy, tạo ra thú vị.
“Dù sao chăng nữa, Bùi Giáng tạo được một mẫu ngông thời
đại, sáng tạo một kiểu say sưa, chán đời của thế kỷ XX, khác với Nguyễn Khuyến trong
thế kỷ XIX và Tản Đà đầu thế kỷ XX“ (T. Khuê - Tự điển Văn Học
bộ mới - Nxb Thế Giới 2004). Đó là kết luận của Tự Điển Văn Học.
Nếu Bùi Giáng đọc được nhận định như thế, có lẽ ông chỉ cười, cái cười “đười ươi“
nắm tay ngửa mặt nhìn “đười ươi“, như ông đã cười khi
gặp bà Khổng Tử ở Lục Tỉnh (Đêm Lục Tỉnh)
Ghi chú:
(1) Thiền Luận - Daisetz Teitaro Suzuki:
Trường Thủy Từ Huyền hỏi Thiền sư Huệ Giác ở núi Lang Gia,:
- “Cái
thanh tịnh bổn nhiên nhân sao bỗng dưng sanh núi sông thế giới?”
(Thanh tịnh bổn nhiên vân hà hốt sanh sơn hà đại địa?)
Câu hỏi mượn ở kinh Lăng Nghiêm, đoạn Phú Lâu Na hỏi Phật tại sao cái Chân Như
Tuyệt Đối hốt nhiên hóa thành thế giới hiện tượng này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét