“Mùa xuân chín” - Những rung cảm
về xuân chín để tiếc xuân
thì
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già…
Xuân Diệu
Trên bước đường phiêu lãng của khách hồ hải, có những lúc dừng
chân bên một vùng quê yên bình trong khung cảnh mùa xuân tươi mới, rực rỡ và
thơ mộng, kẻ tha hương hốt nhiên chợt dâng trong lòng một nỗi niềm sực nhớ những
hình ảnh xa, hình ảnh xưa của kỷ niệm dấu yêu. Dòng hoài cảm miên man của sực
nhớ khiến tâm hồn người lữ khách rung lên, rồi cuộn trào những cảm xúc xốn xang
trước vẻ mọng mòi, tươi mát, lộng lẫy của mùa xuân đang ở độ chín. Ngắm xuân sắc
lòng ta rạo rực xuân tình. Cảm mùa xuân viên mãn trong vẻ đẹp chín mọng ta thấy
hoài tiếc xuân qua và thoáng gợn chút âu lo về sự phôi pha của xuân thì, xuân sắc.
Lòng ngập tràn cảm xúc vởi ngoại cảnh đã chuyển hóa thành tâm cảnh. Và lòng ta
cũng như lòng khách hồ hải phiêu du kia gặp nỗi lòng của thi sĩ Hàn Mặc Tử
trong thi phẩm “Mùa xuân chín”:
Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử
Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Ngay nhan đề “Mùa xuân chín” đã gợi những liên tưởng
rất lạ, rất đẹp và rất mới về xuân sắc cũng như xuân tình trong thi phẩm. Thông
thường nhắc đến mùa xuân ta thường nghĩ ngay mùa xuân xanh (Mùa xuân là cả một
mùa xanh - Nguyễn Bính) hay mùa xuân thắm của muôn hoa, của lộc biếc, của
chồi non, của sức sống căng tràn. Và cái động thái “chín” của cây trái khi kết
hợp với danh từ mùa xuân mở ra nhiều kênh liên tưởng mới và lạ. Nó chính là mùa
xuân đang ở độ chín, chín nục, chín thơm, tức là mang sức sống căng mọng nhất,
vẻ đẹp viên mãn nhất, sắc màu rực rỡ nhất, xuân tình phơi phới nhất, khao khát
mãnh liệt nhất… Thiên nhiên, tạo vật, trời đất, vũ trụ, con người với bao xúc cảm
ngập tràn đang say nồng trong giấc xuân, đang phơi lộ tất cả nét đẹp ngời sáng,
huy hoàng, trong khiết, nồng thắm, rạng rỡ của mình. Cái sắc điệu chín dẫn dụ mỗi
người đọc lần tìm vào thế giới nghệ thuật của xuân sắc, xuân tình, xuân trẻ,
xuân non, xuân tươi mới mà thi sĩ họ Hàn tạo dựng.
Cho nên, vừa nhẹ chạm bước chân vào thế giới nghệ thuật của “Mùa
xuân chín” ta đã bắt gặp một sắc vàng mơ, vàng xanh lơ lung linh, choáng ngợp
thị giác:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
Khổ thơ được mở ra với những hình ảnh đẹp, tươi mới, trong trẻo.
Nó tạo một ấn tượng thị giác mạnh mẽ về màu sắc. Làn nắng ửng - nắng mới - vàng
ươm, trong ngần hòa quyện trong làn khói mơ tan -phiêu lãng, rơi rắc, bảng lảng.
Trong thứ ánh sáng tinh khôi, lung linh ấy, đôi mái nhà tranh cũng sáng bừng
lên như được dát vàng. Động từ “lấm tấm” tạo nên sắc thái động cho tạo vật. Nó
vừa gợi lên sự phân bố rải rác của những hạt vàng lấm tấm trên mái nhà, lại vừa
tạo ấn tượng thị giác về những hạt vàng như đang được rắc từ từ trên mái nhà
tranh. Cái sắc vàng ấy ánh lên lung linh khiến cho mái nhà và khung cảnh tạo vật
quen thuộc mang một diện mạo mới, một sắc điệu mới của xuân chín. Hình ảnh mái
nhà tranh đưa ta về với không gian quen thuộc của quê hương xứ Việt muôn đời của:
- Năm gian nhà cỏ thấp le te
(Nguyễn Khuyến)
- Mơ mơ mấy xóm tranh chìm trong mây
(Tố Hữu)
- Mái gianh ơi hỡi mái gianh
Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương
Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương
Song cái mái gianh lấm tấm vàng của Hàn Mặc Tử không hẳn mộc
mạc như năm gian nhà cỏ thấp le te của Nguyễn Khuyến, cũng không chìm
lấp trong cõi đời tăm tối thời cũ của Tố Hữu, và không nhọc nhằn, cơ cực, lam
lũ như mái gianh quê hương của Trần Đăng Khoa. Đó là cái mái gianh vàng ửng, mơ
phai, bồng bềnh, lãng mạn, mộng mơ. Tự nó như đang khởi phát những xuân tình rạo
rực, những cảm xúc đắm say của một cái tôi lãng mạn, yêu đời, say tình xuân, cảm
mến sắc xuân. Cho nên, mái tranh ấy đẹp hơn, thơ hơn, tình hơn và lấm tấm hạt
vàng của tình say đắm, của cảnh lung linh.
Xuân tươi, xuân thắm của “Mùa xuân chín” không chỉ
mang màu vàng đặc trưng của nắng ửng, của khói mơ, của mái nhà tranh lấm tấm
vàng mà xuân còn chín trong sắc xanh muôn đời của mình. Đó là màu xanh của giàn
thiên lý xuân. Giàn thiên lý ấy soi mình duyên dáng trong nắng, trong khói như
một tà áo biếc của xuân thì. Cả hình bóng mùa xuân như soi mình, kết tụ nơi
giàn thiên lý thềm nhà đơn sơ. Cái sắc xanh được nhuộm đầy nắng vàng mang một
màu lơ, sáng, ngời lên sức sống thanh tân, vẻ non tơ, óng ả, đầy quyến rũ và
khêu gợi của nàng xuân. Những nét mỹ miều mang độ chín ấy đã hớp hồn bao kẻ đa
tình. Bởi xuân sắc là sự biểu hiện, thăng hoa của xuân tình dồn ứa, căng tràn.
Sự quyến rũ nồng nàn của xuân tình khiến làn gió không thể
kìm lòng, cất tiếng khẽ khàng trêu tà áo biếc nơi giàn thiên lý tạo nên cái âm
ba sột soạt. Câu thơ “Sột soạt gió trêu tà áo biếc” thật gợi hình, gợi
cảm. Chỉ một từ “sột soạt” mà tác giả đã tả được cái chuyển động của gió, cái
âm vang từ tà áo, cái rạo rực của lòng người. Cách miêu tả ấy khiến cơn gió
xuân hiện lên thật phong tình, và cũng là đang say tình. Xuân thì mang xuân
tình ứa đầy phát lộ từ bên trong ra. Tình xuân lai láng khắp không gian,
hiển hiện trên mỗi cảnh, mỗi sắc, mỗi vật. Những hình ảnh thơ vừa tinh tế, mơ
màng, lại vừa táo bạo, tình tứ. Thời điểm xuân chín cũng là tình chín, là lúc sức
sống căng, ái tình mọng. Bởi chính thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng đã có lần từng viết:
“Vui thay cảnh sáng trăng
Ái tình bắt đầu căng
Hoa thơm thì nín lặng
Hương thơm thì bay lan
Em tôi thì hổn hển
Áo xiêm lấm tấm vàng
Em tôi đã hiểu chưa?
Đó là khúc tình ca
Nẩy theo hơi thở nhẹ
Ở trên làn dây tơ
Của lòng em rộn rã…”
Ái tình bắt đầu căng
Hoa thơm thì nín lặng
Hương thơm thì bay lan
Em tôi thì hổn hển
Áo xiêm lấm tấm vàng
Em tôi đã hiểu chưa?
Đó là khúc tình ca
Nẩy theo hơi thở nhẹ
Ở trên làn dây tơ
Của lòng em rộn rã…”
(Sáng trăng)
Xuân thắm tươi, tình lai láng, cảnh chín và tình chín hòa vào nhau tỏa ra bất tận
theo chiều rộng không gian. Không gian “Mùa xuân chín” được mở ra
mênh mông. Tình xuân thắm thiết, rạo rực theo đó cũng mở ra vô cùng theo mọi
chiều kích:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Theo ánh mắt dõi nhìn, theo tấm lòng cảm của khách đường xa,
không gian xuân thành một không gian xanh của sóng cỏ. Câu thơ “Sóng cỏ
xanh tươi gợn tới trời” cho người đọc những cảm nhận bất tận về sắc xanh
ngút ngát của cỏ cũng là sức sống, vẻ đẹp phồn thịnh của xuân chín, xuân thì.
Màu xanh ấy như cân bằng lại, cộng hưởng với sắc vàng ở khổ thơ trên tạo nên sắc
điệu non tơ, trinh khiết, mới mẻ riêng của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử. Đọc
câu thơ này, ta bắt gặp một sự đồng điệu nhất định của Hàn với cụ Nguyễn Du thuở
xưa khi rung cảm với cảnh xuân, sắc xuân:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Tuy nhiên, những câu Kiều của Tố Như chủ yếu nhằm làm nổi bật
sắc xanh của cỏ non trải rộng đến tận chân trời. Còn câu thơ của Hàn Mặc Tử lại
chủ yếu nhấn vào cái sóng cỏ đang gợn - tức là nhấn vào động thái bên trong của
sự vật chứ không chỉ thuần tả sắc màu sự vật. Cái động thái “gợn” của sóng cỏ
chính là sự rung động bên trong của cỏ trước vẻ đẹp mướt mà, toàn thiện của
xuân - tức xuân tình. Những rung động đó khởi phát tự thân, từ bên trong thôi
thúc mà ra rồi vươn lên cao tới trời. Sóng cỏ đó cũng là sóng lòng, là sóng
tình của con người trước xuân sắc, xuân thì, xuân tươi, xuân non tơ. Cảnh xuân
tràn trề, sức xuân ứa tràn làm lòng người lai láng tình yêu đời, chứa chan bao
nỗi niềm, bao cảm xúc rưng rưng. Tình và cảnh đã chuyển hóa, hòa quyện, cùng
tôn nhau lên, cùng đẩy tính chất lên đến cạn cùng. Cái nhìn của nhà thơ đã
xuyên thấm vào tận đáy sâu của chân tâm sự vật để cảm nghe tất cả từ bên trong.
Và từ đó soi ngắm thêm bên ngoài. Xuân ngoại cành và xuân tâm cành hòa làm một
trong những rung động tha thiết tận đáy lòng.
Và xuân tình đã chuyển hóa, hay nói đúng hơn đã được cụ thể
hóa, hữu hình hóa thành âm thanh, thành hình ảnh, thành xuân thì của người gái
xuân. Hình ảnh “Bao cô thôn nữ hát trên đồi” như một nét vẽ để
hoàn thiện bức tranh “Mùa xuân chín”. Đồng thời, tiếng hát thôn nữ ấy
cũng là sự biểu lộ rõ ràng nhất, tha thiết nhất của tình xuân trong sắc xuân.
Âm vang của lời hát vọng mãi trong không gian tạo vật bởi sức ngân vang, bởi sự
trong trẻo, bởi sức sống và bao khao khát trong tiếng hát ấy. Tiếng hát của bao
cô gái xuân mang cái rạo rực muôn đời của vẻ đẹp, của sức sống, của khao khát
tình yêu, của lòng ham sống mãnh liệt. Bởi mùa xuân luôn là mùa đẹp nhất của
năm và tuổi trẻ là phần ngon nhất của cuộc đời. Do đó, hình ảnh cô gái xuân đi vào
thơ ca như một hình ảnh biểu trưng cho vẻ đẹp, sức sống và tình yêu mùa xuân.
Hãy đọc những vần thơ của Nguyễn Bính để ta có thêm những cảm nhận rõ hơn về
hình ảnh gái xuân - cũng là xuân thì, xuân tình:
Em như cô gái hãy còn xuân,
Trong trắng thân chưa lấm bụi trần,
Xuân đến, hoa mơ, hoa mận nở.
Gái xuân giũ lụa trên sông Vân.
Trong trắng thân chưa lấm bụi trần,
Xuân đến, hoa mơ, hoa mận nở.
Gái xuân giũ lụa trên sông Vân.
(Nguyễn Bính - Gái xuân)
Thế nhưng chính lúc con người say đắm với xuân thắm, xuân
tươi cũng là lúc cảm nhận được từng bước xuân qua; khi con người đang ở xuân
thì, đang sống trong men say tình ái thì cũng là thời điểm họ nhận ra tuổi đời
hư hao, xuân thì mong manh, xuân tình chóng tàn. Giống như bao cái Tôi thơ mới
khác, Hàn Mặc Tử cũng tiếc xuân thì ngay chính khi xuân chín, thương xuân rụng
khi xuân đang tươi. Đọc kỹ câu thơ “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ
theo chồng bỏ cuộc chơi…” ta thấy một giọng nghẹn ngào, buồn vương, tiếc
nuối thanh sắc, xuân sắc của thời tươi. Bởi “đỉnh điểm cũng là giao điểm. Xuân
chín cũng là xuân mãn” (Chu Văn Sơn). Sắc xuân phai tàn theo thời gian trổi chảy.
Tình xuân phôi pha theo sự héo úa tuổi đời. Cái ngày xuân chín cũng là dấu hiệu
bắt đầu của xuân thì rơi rụng. Cái hay và sự tinh tế của Hàn là mượn cái quy luật
của đời người để nói quy luật của tình cảm, của tạo vật: Khi người thiếu nữ
theo chồng cũng chính là lúc kết thúc xuân thì, chấm hết đời con gái. Cô
bỏ cuộc chơi và bỏ xuân tình đời mình lại. Tuổi xuân của cô cũng hết. Cái ngày
cô ca bài ca tình ái bất tận về xuân chín cũng là lúc cô chuẩn bị ca khúc
xuân tàn cho đời con gái của mình. Và từ đây, mạc thơ, cảm xúc thơ chuyển sang
tiếc xuân thì, lo xuân rụng. Cảm xúc của thi sĩ họ Hàn cũng gần với quan niệm
dân gian:
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già sồng sộc nó thì theo sau
Cái già sồng sộc nó thì theo sau
(Ca dao)
Hay quan niệm của Nguyễn Bính:
Tuổi xuân má đỏ môi hồng
Bước chân về đến nhà chồng là thôi
Bước chân về đến nhà chồng là thôi
Đồng thời cảm xúc này cũng rất đồng điệu với những cảm thức
thời gian thường trực ám ảnh trong thơ Xuân Diệu, khi nhà thơ “mới nhất trong
những nhà Thơ mới” này giục giã người ta:
Mau lên chứ vội vàng lên với chứ!
Em! Em ơi! Tình non đã già rồi
Con chim hồng trái tim nhỏ của tôi
Mau với chứ thời gian không đứng đợi
Tình thổi gió màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày tình mới đã thành xưa
Nắng mọc chưa tin hoa rụng không ngờ
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt
Những vườn xưa nay đoạn tuyệt dấu hài…
Em! Em ơi! Tình non đã già rồi
Con chim hồng trái tim nhỏ của tôi
Mau với chứ thời gian không đứng đợi
Tình thổi gió màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày tình mới đã thành xưa
Nắng mọc chưa tin hoa rụng không ngờ
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt
Những vườn xưa nay đoạn tuyệt dấu hài…
Và:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất…
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất…
Bản thân Hàn Mặc Tử cũng có nhiều mặc cảm với việc đi lấy chồng
của người con gái. Với ông, khi tiễn người con gái đi lấy chồng là kết thúc tất
cả, là một mất mát không gì sánh được, là dấu chấm hết cho xuân sắc, xuân thì,
xuân tình, xuân tươi. Em đi lấy chồng để lại một sự hụt hẫng, một nỗi trống vắng
lớn lao. Tất cả sẽ thành vô nghĩa. Đọng lại chỉ còn là mất mát, bi sầu - nàng mất
ước mơ, tôi mất hồn thơ:
Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ (Em lấy chồng)
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ (Em lấy chồng)
Như thế là ở giữa mùa xuân chín mọng, giữa lúc vẻ đẹp viên
mãn, lúc tiếng ca ngất ngây, rạo rực, nhà thơ đã thấy trước cái tương lai buồn,
tàn, úa. Đây là một dự báo se sót, mang chút thảng thốt sầu não về mai hậu của
xuân chín. Đó là cái nhìn của con người hiện thời về cái kết cục không thể khác
ở tương lai. Nhưng cái tôi Hàn Mặc Tử không thiết tha, rạo rực, băn khoăn hay bồng
bột như cái Tôi Xuân Diệu tự giục giã mình, giục giã người sống vội vàng để tận
hưởng và tận hiến. Cái Tôi Hàn Mặc Tử lắng lại, thu vào trong thành những u uẩn,
nuối tiếc pha chút xót xa. Cho nên “Gặp xuân chín mà tiếc xuân thì, ngha
xuân ca mà buồn xuân mãn” (Chu Văn Sơn).
Mặc dầu vậy, cái buồn của Hàn không phải cái buồn của người trong vị trí của kẻ khách xa phải từ bỏ cuộc chơi giữa xuân chín. Nỗi buồn của niềm tiếc xuân thì kia sâu sắc hơn, mang tính phổ quát hơn. Nó là nỗi buồn của cái tôi nhưng cũng là nỗi sầu nhân thế. Nó mang tâm thế buồn của kẻ du ca đi qua cuộc đời này để cảm nhận được xuân sắc, xuân tình trong “Mùa xuân chín”, để hát vang ca ngợi cuộc sống đẹp viên mãn, cũng là để tấu lên những linh cảm về cái đẹp hư hao, hạnh phúc phù du, tuổi trẻ nhanh tàn giữa cõi đời vô thường, vô tận. Có phải vì thế chăng mà tiếng ca cành cất cao, càng ngân vang thì càng não nề, càng se sót và nhiều u uẩn đến u uất:
Mặc dầu vậy, cái buồn của Hàn không phải cái buồn của người trong vị trí của kẻ khách xa phải từ bỏ cuộc chơi giữa xuân chín. Nỗi buồn của niềm tiếc xuân thì kia sâu sắc hơn, mang tính phổ quát hơn. Nó là nỗi buồn của cái tôi nhưng cũng là nỗi sầu nhân thế. Nó mang tâm thế buồn của kẻ du ca đi qua cuộc đời này để cảm nhận được xuân sắc, xuân tình trong “Mùa xuân chín”, để hát vang ca ngợi cuộc sống đẹp viên mãn, cũng là để tấu lên những linh cảm về cái đẹp hư hao, hạnh phúc phù du, tuổi trẻ nhanh tàn giữa cõi đời vô thường, vô tận. Có phải vì thế chăng mà tiếng ca cành cất cao, càng ngân vang thì càng não nề, càng se sót và nhiều u uẩn đến u uất:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Khổ thơ giống như một sự cụ thể hóa cho những hoài tiếc về một
xuân chín, xuân thì. Tất cả vẻ đẹp, sức sống và độ chín của mùa xuân được thể
hiện qua tiếng hát. Tiếng hát trong trẻo của những cô gái xuân xanh vắt vẻo
lưng chừng núi. Cách dùng động từ “vắt vẻo” rất độc đáo khiến câu thơ giàu chất
tạo hình. Tiếng hát xuân thì hiện ra như có hình, có sắc, đang vắt vẻo lưng chừng
núi, lan vào không gian làm say đắm, ngất ngây lòng người. Dường như lời ca ấy
tự nó mang trong mình một sức quyến rũ không sao cưỡng lại được của xuân thì.
Đây là cách miêu tả và cảm nhận rất quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử - mỗi sự vật
đều ánh lên màu sắc dục trong vầng hào quang của xuân sắc, xuân thì. Trong bài
thơ “Bẽn lẽn”, thi nhân cũng đã viết:
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
Đợi gió đông về để lả lơi”
Cảm nhận như vậy cũng đúng thôi bởi xuân tình dào dạt, rực cháy bên trong sẽ
thôi thúc con người tìm đến với nhau trong mối giao hòa, giao cảm, trong cảm
giác ái ân, tình tự. Vì thế, nhà thơ đã sử dụng hình ảnh so sánh rất gợi tiếng
ca “hổn hển như lời của nước mây”. Âm thanh “hổn hển” mang trong mình cái say đắm,
thỏa thuê, mãn nguyện của mối tình đã vào độ chín. Nó là tình yêu và sự giao
hòa hoàn toàn của thân thể và tâm thể. Và giống như thi sĩ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử
cũng nhìn cả vũ trụ, thiên nhiên như đang ở trong một cuộc giao hòa lớn, trong
cảm giác ân ái mặn nồng. Bởi tiếng ca kia là của cô thôn nữ, cũng là lởi của nước
mây, lời của mùa xuân chín hôm nay và cũng là lời của muôn đời. Vẻ đẹp và sức sống
của mùa xuân mãi mãi là bản tình ca bất diệt thêu dệt cho con người những ước
mơ, những khát vọng để con người tận hưởng, tận hiến ngay trong cuộc đời trần
thế - cuộc đời đẹp như vườn địa đàng, cuộc đời hiện ra như chốn thiên đường ở
ngay trên mặt đất như cách cảm của Xuân Diệu:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui thầm gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui thầm gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”
Để rồi tiếng ca ấy thành lời tình tự, lời tỏ tình với cuộc đời:
Cái tình ở đây là tình xuân lai láng, là tình chín nhưng lời
tỏ tình cũng chỉ là thầm thĩ - nhẹ nhàng, với người tình nhân ngồi dưới trúc -
kín đáo. Nó vẫn là cái tình ngây thơ, e ấp, trinh khiết quen thuộc trong thơ
Hàn Mặc Tử. Trong cái thân mật, trong cái viên mãn vẫn còn cái tình tứ, tinh tế,
hồn nhiên. Chút ngây thơ ấy là nét duyên quê đặc trưng của những mối tình quê,
của những cô thôn nữ “má đỏ môi hồng”. Dù chỉ là khách đường xa gặp mùa xuân
chín nhưng thi nhân đã bắt được cái mạch nguồn, cái hồn riêng của xuân quê,
xuân thôn dã. Lời tỏ tình của ai đó hay chính là lời tỏ tình của nhà thơ với cuộc
đời, với con người xinh tươi, đẹp rạng ngời xuân chín. Bởi tất cả ngày mai chỉ
còn lại là kỷ niệm. Bởi xuân chín cũng là xuân tàn, xuân lạc khiến lòng người
se sót, hoài tiếc, hoài thương.
Những sợi dây cảm xúc đã căng đầy, con người đã “sống toàn
thân và thức nhọn giác quan” với mùa xuân chín để vươn tới đỉnh điểm cuộc chơi,
để được thỏa thuê trong cảm xúc của ái ân. Nhưng chính lúc người ta sống trên đỉnh
của hiện tại ấy, tâm hồn lại xao động để sực nhớ về một hình bóng xa. Và khác
đường xa gặp mùa xuân chín cũng trả qua những phút giây rạo rực để rồi sực nhớ
như thế:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Đứng tại mùa xuân nay để lo lắng cho ngày mai và cũng là lúc
kẻ tha hương hoài nhớ ngày xưa. Cái rạo rực, ngấy ngây trong lời ca hổn hển của
hiện tại thoắt chuyển sang cái bâng khuâng, xao xuyến khi nhớ làng, nhớ về mái
nhà xưa, nhớ về một cố nhân xa. Điểm sáng chói lòa bừng lên trong nỗi niềm bâng
khuâng sực nhớ ấy là hình ảnh của:
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Có lẽ đây là những câu thơ xuất thần và hay nhất trong bài
thơ. Bao năm nay tôi vẫn ấn tượng mạnh mẽ với cái sắc trắng nắng chang
chang ấy! Bao năm nay hình ảnh người chị gánh thóc trên bờ sông trắng nắng
chang chang vẫn hằn in lên tâm hồn tôi một hình ảnh thật đẹp và mộng mơ. Tất cả
cảnh và người đều mơ, đều mộng trong màu hoài niệm huyền diệu. Sắc trắng tinh
khôi của nắng mới bao trọn không gian, tỏa khắp bờ sông, phủ lên hình ảnh người
chị gánh thóc một màu sắc lãng mạn của cái đẹp huyền ảo, lung linh trong cõi nhớ.
Đó là sự tỏa sáng của cái đẹp hài hòa, đan quyện phả ra từ xuân sắc, xuân tình,
từ tạo vật và con người khi ở độ xuân chín.
Tuy nhiên, tất cả xuân sắc, xuân thì đẹp huy hoàng ấy chỉ là
một ánh chớp kỷ niệm thoáng qua mà thôi. Đó là cái ký ức về xuân thì của “chị ấy”
của ngày xa xưa. Cho nên, ở hiện tại, người khách xa sực nhớ cũng là để ngậm
ngùi, tiếc thương - tiếc thương cho cái đẹp không biết bây giờ có còn không -
chị ấy năm nay có còn gánh thóc dọc bờ sông trắng nắng chang chang không? - chị
ấy giờ này có còn như xưa nữa không? Nỗi lòng ấy là chút bất an, một nỗi niềm
thảng thốt, lo âu cho hiện tại từ những dĩ vãng dội về. Vì cái phút chín, cái
xuân thì của xuân, của đời đâu có là vĩnh viễn. Tất cả hằng thường, hữu hạn,
mong manh trong đời sống vô thường, bất biến. Nó là cái bâng khuâng, nhớ tiếc,
pha chút xót xa của con người khi ý thức về sự trôi chảy của thời gian, về sự hữu
hạn của cuộc đời, về những vô thường của đời sống thế nhân. Sau này, người nhạc
sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã cảm nhận rõ nỗi mất mát của xuân sắc, xuân thì
cũng là xuân lòng trong dòng chảy thời gian vô tận:
“Mười năm xưa đứng bên bờ dậu
Đường xanh hoa muối bay rì rào
Có người lòng như khăn mới thêu
Mười năm sau áo bay đường chiều
Bàn chân trên phố xa lạ nhiều
Có người lòng như nắng qua đèo”
Đường xanh hoa muối bay rì rào
Có người lòng như khăn mới thêu
Mười năm sau áo bay đường chiều
Bàn chân trên phố xa lạ nhiều
Có người lòng như nắng qua đèo”
(Có một dòng sông đã qua đời)
Có một dòng sông đã qua đời - Giang Trang - NhacCuaTui
Thế đấy, bước vào thế giới nghệ thuật của “Mùa xuân chín” là ta bước
vào thế giới của mọi vẻ đẹp đang ở độ chín. Cảnh đi từ chớm chín đến chín nục,
chín muồi, chín mẩy, chín mòng mọng… Và cái chín mọng mòi của cảnh ấy là hình sắc
thể hiện bên ngoài của tình chín, của xuân thì thắm tươi. Đó là cái khao khát
tình tự, ái ân muôn đời của bài ca xanh bất tận, trong leo lẻo của xuân lòng.
Nhà thi sĩ như khách hồ hải đi ngang qua một bến xuân quê để rung động, để
cảm nhớ, để hoài thương trong một nỗi lòng đầy u uẩn. Cảm xuân chín, thưởng
xuân sắc, thấu xuân tình để tiếc xuân thì, thương xuân tàn, tuổi mãn. Đó là cái
mạch cảm xúc sâu xa, xuyên suốt dọc bài thơ trong một tứ thơ tưởng như đầu ngô
mình sở. Cái chín của xuân sắc, xuân thì trong bài thơ cũng là sự biểu hiện rạng
rỡ nhất của tài năng thơ đang độ chín, của cảm xúc chín trong lòng thi nhân với
cuộc đời, với con người.
Ngô Thanh Hải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét