Đọc "Tử sinh ca" của Trần Yên Thảo
Trần Yên Thảo (Trần Ngọc Minh) là người bạn thiết
từ thuở thiếu thời của tôi ở Hàm Tân, La Gi, lúc chúng tôi mới lên 7 lên 8, cùng
sống trong vùng tản cư Cù Mi, Láng Găng, Giếng Ngự, Láng Hàng, Bàu Mưa, Rừng Khỉ…
cùng sốt rét rừng, cùng suy dinh dưỡng, và thiệt ngộ: cùng viết lách, thơ thẩn…
sau này.
Trần Yên Thảo “chuyên trị” lục bát từ những ngày chúng tôi có
những tập thơ chép tay truyền nhau. Anh sống như một Ông đạo, râu tóc lênh đênh
như vừa ở Núi tuyết Hymalaya về.
Tử Sinh Ca là tập thơ mới của anh, gồm 351 bài thơ lục
bát 4 câu, theo tôi là rất “đáng nể”.
Và bài viết của Ngô Nguyên Nghiễm cũng thiệt hay!.
Xin đa tạ.
Đỗ Hồng Ngọc
7.1.2021
Đọc TỬ SINH CA của TRẦN YÊN THẢOTrên lộ vắng, bước
di hành vòng quanh mịt mịt trên một không-thời gian hiu quạnh của một kiếp người.
Dù muốn thoát thai trở về một bản ngã sáng láng trong một vòng tròn luân hồi,
hành giả chắc chắn phải hiểu rằng: Bước đi đốn ngộ chỉ dành cho một bừng ngộ mà
a tăng tỳ kiếp mới hạnh ngộ một lần trong sác na đạo pháp.
Thiện căn của thi tập Tử Sinh Ca cũng hy vọng khai hóa, không
thể gọi là cơ bản thiền hành cho một căn cơ đạo hạnh, vì tâm thức cũng chỉ còn
vướng víu trong hữu vi. Điều chắc chắn, hành giả có ý niệm rải từng đóa hoa vô
ưu trên dọc lộ trình đã bước qua, hy vọng như ngọn mộc đăng le lói trong khu rừng
tịch mịch, mà người đi sau có lối bước về.Chính vậy, khách quen chỉ muốn vén màn trên một quan điểm cổ
sơ, về ý niệm Sinh Ca và Tử Ca, trong 12 nhân duyên hẹn gặp, dù
không biết đến bao giờ thoát được vòng luân chuyển hằng sa?
Khao khát trên lộ trình bước lên bản ngã, hành trang là yếu
tính của người lữ hành trong giai đoạn cập nhập vào hướng đạo. Giai đoạn
chập chững nhập thân trong những bước sơ khai, tâm trí còn mờ mịt chưa định tâm
nhớ quên, thất lạc mảnh trăng cổ đại một thời hữu vi còn không trong rừng già nẻo
quê!
Vô tình lạc đến phố hoa, chân còn vướng mê muội giữa
thánh phàm, mong một tiếng gọi chân thành từ quá khứ, nhưng bước đường thưa dần,
làm sao trở bước lui chân. Hóa ra:
Cầm canh nhịp mõ đều đều
Ban
mai nắng đón về chiều gió đưa
Khiến cho trăm cõi sơ khai còn loạn mù sương khói, nên bước
đi của kẻ lữ hành giữa đất trời quang lạnh, phải hiểu vì:
Đèn le lói suốt canh khuya
Xới tung
kinh kệ còn chưa vỡ lòng
Lẫn trong tiếng gió
đêm thâu, mà từ vô thủy đến hiện tại, lão tiều vẫn còn ngẩn ngơ dưới núi. Lạc lỏng
giữa đêm về, khách thầm tự nghĩ đã đành Phật chẳng nói gì/ xưa nay báo
nghiệp có trì hoãn đâu (?).
Chính vậy, chỉ vì cần ao ước giọt nước trên đồng khô, hành giả
chợt hiểu và bước đi:
Sơn chưa tận thủy chưa cùng
Giấc Nam Kha
đã cháy bùng ruột gan.
Lối về không
tìm thấy, chân hoang bất chợt mất dấu cội nguồn, nhân dạng thay đổi theo từng
bước đi. Thì thôi:
Bèo duyên mấy kiếp lạc bờ
Gậy tre bình bát
nương nhờ thập phương
Ngựa về tháo bỏ
yên cương
Trên mê lộ hãy còn
vương lụy phiền
Bao nhiêu kiếp nạn vấn vương từ bên kia tả ngạn, nên hành
nhân còn ngơ ngác trong mịt mùng bốn phương. Bởi vì, tâm hoang còn lãng đãng
trên đường cố lý. Muốn vô tình quên bẵng không màng vướng bận hữu thể, cho
quang niên soi rọi được đường đi lối về:
Trăm sông xé nát mạch nguồn...
Trải đời bất
kể gai chông
Thịnh suy
chưa tỏ hưng vong chưa tường...
Lê la áo
rách giày mòn
Tới đây lụy
những mối hờn con con
Khi về rủ áo
đầu non
Ngoảnh trông
dưới núi phấn son dập dìu
Mê lộ cuộc tình trần của hành
giả, còn trong giai thể ba vá của một tiều tăng. Trên bước hội nhập làm sao
sàng lọc tình và lý, khiến cuộc nhập thể đường trường còn nhiều phân vân trước
hữu thể:
Long đong mấy bận nổi chìm
Hết ham bước
tới chẳng hiềm bước lui
Vì rằng, trong cơn ảo giác của người ban sơ bước giữa đạo
tràng:
Phụ phàng
đâu phải chơi ngông
Đóa hoa vô sắc
nở trong vườn trần
Lành thay, chỉ
là cơn mơ ảo diệu làm rối tung tâm thức khách du phương, vì hoa vô sắc
cũng đâu bằng vô hoa. Nên, hành trình không thể là thi khúc tơ vương lộn mối,
nên tử sinh thuyền đã ghé bờ/ hành nhân nấn ná còn chờ tiễn đưa. Tại
sao vậy? Thế giới hằng sa, kẻ sơ đạo sao cứ ngoảnh lại nhìn về chân trời sau
lưng. Khiến kỷ niệm vẫn là ảo giác hiện thực đã có, nhưng xòe tay ra xem, trong
tay còn vướng đọng hình thể gì không? Nên ngồi chưa ấm chiếu vội vàng bỏ
đi/ rạch ròi từng sợi lông mi/ cũng chưa thấu được lẽ nghi ngờ này. Chính
vì vậy, hiển dụ rõ rằng:
Mất còn có
cũng như không
Nên chi trời
đất uổng công hẹn hò
Từ vô lượng
kiếp đến giờ
Vượt sinh tử
cũng tới bờ tử sinh
Trong
chương Gót Tục bước vào những thi khúc:
Lang
thang khắp cõi luân hồi
Giữa cơn bĩ
cực thấy đời đẹp hơn
Đâu cần
lánh ngụy tìm chơn
Thoát ly
sinh tử nào hơn kém gì...
Cầm bằng
công lực kỳ khu
Thách ai ép
được lá thu đừng vàng...
Quanh đây
chiếu lạnh gương mờ
Chuyến đò
hóa nghiệp còn chờ đưa ai
Ranh giới cõi
tục, khiến miếu thiêng quạnh quẽ, quỷ thần đứng dưới mưa mà khóc òa. Sự hoang dại
địa giới thổ cư của quỷ thần, lô nhô sắc đá, rơi nhào từng viên gạch rụng giữa thiên thu. Thì khác gì, mê trận đang bao quanh con người trong trận đồ đầy rẫy gót
chân tục lụy còn quanh quẩn nhiều.
Gót chân sơ thiền
như những bước chân sơ khai của trẻ mới lớn, chập chững bước đi tự tại trên từng
vuông đất vô tâm, trên từng phiến đá vô tri… Người sơ đạo vẫn còn chập chờn
trên gót tục. Từ giáp vòng cũng lộn về đây/dù xưa chẳng hẹn đến nay
chẳng hò/ tử sinh cùng đốt một lò/ chòm ong lũ kiến dẹp trò quỷ ma. Quanh
quẩn trong tư niệm, nên kẻ còn dạo gót tục trên một không gian tục lụy, ảo giác
cho tư tưởng Vốn từ phiến đá vô tri/ dầy công điểm nhãn có khi nhập thần/chẳng
qua nhân sự bày đàng/ đẫm mùi nhang khói dần dần hóa thiêng. Chính vì sơ
hoang trên gót tục, nên người đi đối mặt kẻ về/ ngu ngơ thiện ác vụng bề
cương nhu/ gót phàm lê lết cõi tu/ cần đâu tách bạch xuân thu hai mùa. Còn
vương vấn trên bước du hành chưa tròn thiện ý, làm sao chẳng trầm tư hướng tới:
Đôi lần chùn bước tay du
Phân thân hành giả muốn
thu gậy về
Trời tây hối đã gần kề
Nặng vai công đức khó bề
thối lui
Chắc chắn là vậy, không thể dừng bước hay phải tìm phương hướng
để hoàn tu qua núi khác:
Một giây chểnh mảng ơ thờ
Đò qua bến khác có chờ
ai đâu
Ai còn tưởng vọng bến
sau
Khó hơn núi dựng sông
sâu mấy trùng.
Chuyển bước trong chương Những Vì Sao Bỏ Ngôi, bước qua
thời dù đã xa bờ người khách lữ dù rằng âm thanh đời trước bây
giờ còn nghe, khiến rách y sờn bát hình như mươi năm kinh sách đã trở
thành hư vọng:
Cam lòng nhện đứt dây tơ
Từ niên thiếu đã bạc phơ mái đầu...
Ta nằm chờ đá đơm bông
Chờ cơn gió núi cảm thông mây
trời...
Nản lòng tiếng vạc kêu sương
Còn đôi ba khách hành hương lạc
loài
Trăng thì soi suốt dặm dài
Hiềm vì khách đã đi ngoài ánh
trăng...
Chập chờn bóng quế hồn ma
Lẫn trong tiếng khóc vài ba giọng
cười
Miếu thiêng quạnh quẽ lâu rồi
Thần linh chừng cũng kén người
khói nhang
Bước đi thầm lặng trên bến đời, khác gì con thuyền dộc mộc tiền
kiếp, vật vã di hành qua các nẻo không gian nhiều thế hệ. Bước tới thế hệ, là
bước tới miền tương lai, có một cuộc sống chưa biết rõ. Bước lùi về quá khứ, là
trở về với bản lai, thành tụ hoại diệt đã trải qua như một tiền kiếp. Vậy, có
thay đổi được gì trong quá khứ hay thành đạt được gì ở vị lai? Vì vậy, những
vì sao bỏ ngôi chung quy phải tan biến thế nào vào lỗ đen vũ trụ, để quá
khứ vị lai là một thế giới không ngày tháng, cho người hành giả? Vậy là, dễ
gì tính sổ ngàn năm/ nợ từ bao kiếp đã thâm hụt nhiều/ chợ tan còn quán với lều/
đời tan, vắng cả cánh bèo trôi sông. Hay là, ước chừng cách chẳng bao
xa/ tới khi rạc gót, thì ra ngàn trùng. Nợ từ bao kiếp (quá khứ), rạc gót
thì ra ngàn trùng (vị lai)… Tất cả, thời không bất biến trong cái tụ thành hư hoại
có ý nghĩa gì với vô vi. Chính vậy, hành giả có vội gì vượt núi qua đồi/ dựng
cao vách đá tạc lời vô ngôn:
Nghiêng vai trút gánh quan hoài
Bỏ nơi
mắt thấy bỏ ngoài tai nghe
Đội trời
bỏ lớp khăn che
Bỏ
luôn tích trượng bên khe hữu tình
Để lắng nghe, có muộn gì trăm năm:
Ngại gì tóc trắng
hơn xưa
Trong vườn diệu
pháp mai chưa kịp vàng
Trăm năm đâu đã muộn
màng
Còn kiên gan đợi đến
ngàn năm sau.
Hành trình bước sang giai đoạn mặc cho sức ngựa đường
trường/ cổ lai vạn vật có thường hằng đâu/ bạt ngàn đồng thấp nương cao/ chừng
nghe đất dậy lao xao sóng dồn. Chương Lớp Lớp Sóng Đùa, tất cả đều động và
người sơ đạo chớp nhoáng nhìn ra cảnh tượng biến dịch trong cuộc sống:
Từng bước lạ giữa đường quen
Trần ai trót đã mấy phen lỗi
thề
Vai bao tay gậy cặp kề
Chuyến đò cuối bến biết về nơi
đâu...
Miệng đời khó tỏ nông sâu
Vần xoay ác thiện lấy đâu nghĩ
bàn
Ác nhân trừ kẻ bạo tàn
Thiện nhân cứu kẻ lăng loàn nhớp
nhơ...
Suối còn róc rách qua khe
Có ngờ đâu núi đã xê dịch rồi
Chuông khua động dấu chân người
Hồn tu mấy kiếp đã rời đất
tu
Người du phương bỗng dưng tâm
thức hiển hiện, trùng trùng những hình bóng của bản ngã cổ sơ. Một giai đoạn
còn khai nguồn trong ý niệm, qua đò trong tiếng réo gọi của thiện nghiệp. Vì vậy,
làm sao thoát ra khỏi vòng vây của hữu vi, nên mọi phán đoán thể hiện một thường
hằng của thế sự. Ý niệm chơn phương của bước sơ khởi còn mong manh giữa lối đi
nẻo về, nên mọi tư hướng còn vắt trên vai một vùng sương muối thế nhân. Phán
đoán mặc cho sức ngựa đường trường/ cổ lai vạn vật có thường hằng
đâu. Có chứ, nhưng đồng hóa vạn vật hữu vi và vạn vật vô vi, cũng như phân
biệt hai thái cực hoàn toàn khác biệt, nhưng cũng chìm đắm trong vạn vật đồng
nhất thể. Sự ngổn ngang thế sự nghiêng bầu với ai, hoặc cung tên
bỏ mặc bên bờ/ mải mê nhác khỉ với trò rung cây. Thì bản lai không còn diện
mục, mà thuyền giác đang xoay vòng trong vùng nước xoáy đa mang. Thì ra, một kiếp
người du sĩ giữa cánh hạc chân mây trùng trùng bóng núi, tưởng chừng lạ hoắc
chưa hề đi qua …
Thoáng đó, ảo giác vẫn bám bụi trần trên gót chân du phương.
Trăm bề chụp xuống dầy đặc che kín không gian của kẻ đang đối bóng với vạch mây
tìm lửa chân như… Xác xơ trong cuộc nổi chìm/ sóng trùng khơi quét sạch niềm
riêng tư.
Cơn nổi chìm xơ xác như
thế, có phải chăng ý niệm cho cơn sóng quy hồi:
Lũng sâu giờ đã thành đồi
Tận cùng qui
hợp tới hồi phân ly
Dù sung mãn
lúc ra đi
Chớ hoang sức
ngựa phòng khi trở về
Dù vậy,
chương Nước Động Bóng Rung có lời thầy dặn, lấy nhiêu khê làm
thường. Khổ hạnh của khách du phương, trong thế sự trăm đường oan nghiệt
nên ý và lời nhiều khi đùa cợt lẫn nhau: lên non được ý quên lời/ kể
gì khổ hạnh một đời chơn tu…
Một hòn đá cuội đánh võng trên
mặt nước dòng sông, từng vòng chu luân hiện lên dầy đặc, rồi từng vòng tròn như
luân xa dần dần tan biến trong từng khoảnh khắc hư vô. Chính vậy,
quanh năm thờ thẩn đi tìm/ bóng hình tại chỗ sao nhìn không
ra/ càng mỏi mắt tận phương xa/ thì càng không thấy trong ta có mình. Câu
hỏi nghiệm thể từ những tưởng như bất thường trong cuộc đời, thực chất vẫn còn
sắp lớp như một thực thể bất biến mà người vô tình không thấy rõ:
Người người nương tựa bóng nhau
Chen chân lối cỏ
vượt bao núi đồi
Đâu đây tiếng vọng
không lời
Pháp âm chuyển động
lòng người thập phương
Và như vậy, là:
Dăm đăm vào cõi
không hư
Cố hình dung lại
chỗ Như Lai ngồi
Tòa sen bỏ trống
lâu rồi
Trang kinh còn hiện
rõ thời lập ngôn
Du sĩ bước vào chánh pháp, mọi tư hướng
vật thể buông xã một cách không thương tiếc. Tất cả vay mượn như là chiếc bóng
lung linh giữa thiên thu, chập chờn theo ngọn lửa phù hư.
Có không trong nghiệp chứng, là nước động bóng rung hằng sa ảo
giác. Vì vậy, đâu còn rào giậu cách ngăn/ chẳng còn thiện ác không phân
chánh tà/ khoanh tay đứng giữa ta bà/ thản nhiên như cụm tre già bên sông.
Nhìn lại, quả nhiên tất cả hình dáng, âm thanh huyền hoặc giữa
không gian cũng thể hiện lòng người, từ tâm ẩn hiện. Chính thế, kẻ du hành
trong sơ nguyện cũng có nhiều khi ngơ ngẩn giữa thực hư:
Đắm nhìn trăng nước vu vơ
Lạc trong giấc ngủ
bâng quơ đầu hè
Sáng ra chợt thấy
e dè
Hình như mới bị
bóng đè hôm qua
Ngôn từ phát khởi, cũng là tư hướng của tâm niệm duyên khởi
ôn cố từ chương Góp Nhặt Lời Quê:
Khắc ghi lời
tổ trong tâm
Trước giờ rũ
áo về thăm cõi người
Cần đâu mắt
biếc môi cười
Cái duyên thầm
lặng chết người như chơi
Chắc phải như thế:
Lá rơi vào cõi vô
tình
Thì đâu cần biết
phận mình nông sâu
Người về hỏi lá
phương nao
Lá không nghe được
làm sao đáp lời...
Vòng sinh tử khéo
bông đùa
Hết cơn nắng hạ tới
mùa mưa ngâu
Trải từng cội thóc
nương dâu
Lời quê góp nhặt
dám đâu dông dài.
Tư hướng của kẻ du sinh trên bước đường dài hoàn chỉnh bản thể,
nhiều lúc cũng thấy thấp thoáng mở rộng vài chiêu thức rao truyền. Trong ngôn ngữ
lập thể của mấy ngàn ký tự, dù thế nào cũng chỉ hóa hợp với thiện căn của từng
bộ lạc có duyên phần. Vì vậy, ở mỗi không phận đạo pháp chỉ hành xử huyền đạo
theo căn cơ phong thổ và tâm linh. Vượt thoát ra ngoại vi đó, chắc chắn
là bóng ma ngày trước rập rình/ hình như có vạn bóng hình trong ta/ vẫy
chào ngày tháng đi qua/ thản nhiên như một bông hoa lìa cành.
Thấy gì và nghĩ gì, cũng phiêu
du trong vòng hữu hạn có sẵn giữa trời đất cũng thân tứ đại như mình vậy
thôi.
Cái hữu hạn của chính bản ngã đã đưa hành giả bước vào vòng
quay rao truyền một cách hoang sơ, tưởng tượng hình thái đầy mê tưởng sẵn có
giăng đầy ngập trong giả tướng chung quanh. Dĩ nhiên, cái thực vẫn chồng lấp
trong cái hư, khiến tâm thức u hoài trông ngóng vô minh:
Có nhà sư trẻ ngẩn ngơ
Tay vin tích trượng mắt
lơ láo nhìn
Phấn son ở cõi nhơn tình
Cũng thân tứ đại như
mình vậy thôi
Vì vậy, nghiệp vẫn được hồi
báo như một bản thể sinh tồn vun quén từ vạn cổ kéo dài hàng ngàn kiếp sẽ tới.
Nhắc nhở như tự thầm nhủ chính bản thể, người du sĩ chậm bước lê thầm trên hướng
bước về nguồn cội của vô vi, gởi lại vài chiếc lá ngôn từ trong cơn gió lạnh
phiêu bạt thiên thu:
Chim xanh đáp xuống vườn
lê
Hót rằng vạn vật còn xê
dịch nhiều
Nhắn ai sầu sớm lo chiều
Thuyền vô ngạn cũng có
nhiều bến sông
Cố nhân có hồi báo hay không, chắc cũng phải chờ duyên nghiệp.
Căn cơ cội nguồn xuyên suốt kéo dài vô tận, là kết quả của nhân quả của vạn thể
sinh ra. Người hành giả mang theo trong hành trang, những ý niệm sơ đẳng, gọn
nhẹ vài ký hiệu rao truyền. Từ sơ khởi đó, ngôn ngữ phát huy âm điệu, cho ca
khúc tử sinh vời vợi thấm sâu vào tư chất người thừa nghiệp sẽ nắm bắt… Chính vậy, đối
nhân lời lẽ chưa cùng/ hoang mang cái thị ngại ngùng cái phi/ nghi ngờ đến cả
lương tri/ khiến cho tâm sự thường khi nặng nề…Chương Nước Tìm Chỗ
Thấp nói lên điều tự nhiên hoằng hóa trong vô niệm: Thái sơn rồi
cũng lạc loài/ ích gì mơ tưởng đến nòi trâm anh/ tìm người tri kỷ trong tranh… Muốn thành quả như vậy, người du sĩ cũng phải vạch trước một khung trời
hoằng hóa ban đầu là: đến từ thăm thẳm tầng cao/ đường vô ngại biết nói
sao cạn lời/ phất tay biệt cả núi đồi/ tìm về chỗ thấp vui đời bể dâu…
Tạo gióng gánh hành trang
bước vội trên lộ trình chiêu hóa, dẫn nhập dung nhan cho tròn thị phi, hòa hợp
nơi trở về … Đó là những bước tiến hóa độ trì theo cơ địa phong thổ nhân gian
lưu xứ, người du sĩ cũng hiểu thâm sâu rằng:
Hóa ra về chẳng phùng thời
Sinh cơ lỡ hội lòng người
đa đoan
Ngại đời lem luốc dung
nhan
Ta bôi bùn đất tự trang
điểm mình...
Thuận đường về lại chốn
xưa
Bến chưa kịp đón đò chưa
kịp mời
Lòng mừng rơm rả với đời
Đất xưa dù đã vắng người
ngàn xưa
Nước tìm chỗ thấp, trở thành một cảnh ngộ trở thành người hôm
nay tìm tri độ người hôm qua. Người của tiền kiếp đã bước qua thời gian nên
không còn duyên ngộ, thuyền qua tả ngạn lâu rồi/ ở đây còn nuối tiếc thời
chưa xa. Trần duyên như gió thoảng, chỉ ngoái lại thời gian mà nương dấu về:
Lênh đênh lời nổi ý chìm
Khuất mờ nhân diện càng
tìm càng xa
Dấu người lạnh ngắt tha
ma
Khổ bao năm, tạc chưa ra
hình hài...
Tạc chưa ra hình hài, có thể đã bước qua hai phong cách.
Một, là người xưa huyễn hóa theo duyên ngộ từ sơ khởi của một kiếp người,
từ hạt bụi ngàn thu mà phủi qua cõi sống mà vọng tu cõi thiền. Hai, là hoại
hóa theo luật thừa trừ của tạo hóa tử sinh.
Chương Trăng Tỏ Đường Về, báo hiệu sự huyễn hóa
như cây khô trốc gốc bao đời/ sớm nay chợt thốt mấy lời an cư…
Tâm nguyện của khách xưa, bản
thể mịt mờ, soi trong trăm ánh đuốc. Giữa truông sâu, bao lần nguyệt khuyết,
nguyệt tròn… dò dẫm ngỡ ngàng bên lối mòn hành hương. Giữa cái hư và cái thực
mờ nhạt trong khuôn sáo của vô thường. Chốn đến và nơi về cũng mờ nhạt dấu
tích, phương này mai kia còn tìm lại được chút gì hài cốt xưa?
Phàm trần đến cũng như đi
Rừng hương dệt gấm sá
chi vân đài
Chỉ xin tạc dấu phương này
Mai kia tìm lại chút hài
cốt xưa...
Biết mình lạc giữa
truông sâu
Hoa bao độ nở nguyệt bao
lần tròn
Kẻ đi dấu tích đâu
còn
Phí công dọ dẫm lối mòn
hành hương...
Khắc giờ đảo lộn tháng
năm
Đêm đi, bóng tối còn xâm
lấn ngày
Núi xưa biến đổi hình
hài
Thềm xưa rêu đã phủ dầy
hơn xưa
Từ cái hữu hạn bỗng nhiên phải thầm bước vào mệnh số. Chính
thể vô hạn mênh mông, mọi phương hướng đều trôi lạc, như trở về cái hoang vắng
tận cùng.
Quay theo trời đất
quay cuồng
Thần xiêu phách lạc
rẫy ruồng đôi nơi
Cũng vì mộng mị xa
xôi
Đem thân hữu hạn
vào nơi vô cùng...
Ngại gì trời đất
mênh mông
Sông không cách trở
núi không bủa rào
Trớ trêu lòng vẫn
héo sầu
Đường trăm ngả biết
ngả nào cố hương
Suốt đoạn đường chính lộ của ngày ra đi, từng ngỏ vắng băng
qua, từng vườn hoang đón lối, người du sĩ vẫn bâng khuâng mịt mờ giữa lộ trình
hướng tới chân như. Giai đoạn này, hình như cũng gieo rắc nhiều nỗi nghi ngờ
trong tâm thức của người đang đo phương hướng.
Lối về đích vẫn như ảo giác, mờ mịt vô cùng. Nên dù sao, cũng
nhiều phen gầy dựng trong lòng khách xưa, cảm thấy cô độc hoang mang bên hướng
tới.
Hồ đồ bất kể tây đông
Rẽ bao lối tắt
cũng không thấy gần
Hốt nhiên tâm trí
bần thần...
Ngón đàn chừng đã mất thần
Hoang vu phách tấu
lạc dần cung thương
Trông ra trời đã
mù sương
Muốn tìm lại bóng
thì gương đã mờ
Quả thật vậy, thánh phàm khi đã tương thông/ cõi viên
dung có cần mong đợi gì. Đường về trăng đã tỏ, bước viên thông cũng mở được
lối thoát ngàn xưa. Người trí không cần khuếch đại tri thức, mà bản thể cũng
nhiều phen tương ứng hoạt mở cánh cửa không…
Vì vậy, đâu còn ngỡ ngàng gì khi đã mà phải quanh co
khi Bước Qua Cầu Sinh Tử, bởi:
Khúc sông eo hẹp đã đành/ lòng người eo hẹp mới thành trái
ngang:
Lang thang một góc
trời mờ
Trót ham phiêu
lãng bây giờ nhớ nhau
Cựa mình từ giấc
chiêm bao
Kịp khi tỉnh thức
thì mau quay về
Giữa dòng gác mái
buông câu
Nước mây tự tại cần
đâu cõi bờ
Chẳng mong tìm cõi
nương nhờ
Không theo lối tục,
phớt lờ nẻo tu
Bỏ lại tất cả bụi hồng trên khoảnh khắc bước lên cầu sinh tử,
là chính du sĩ bất chợt cũng hiểu rõ, tứ đại bất chợt lóe sáng như hư không. Những
tạo vật chung quanh lối đi như hằng sa cát đá, lót giữa đường cho thực hư hỗn
mang tụ thành thế giới ta bà. Chân dung ngày xưa sẽ rơi rớt từng mảng vụn trên
nẻo đường hiu quạnh bước qua.
Lối đi đã chạm chân tường
Thì trăm sự
cũng hết đường mưu toan
Nổi chìm
trong cuộc bi hoan
Làm sao thấy
được dung nhan chính mình
Tắt đèn, gởi
lại kinh thư
Đêm vô tận,
đã hầu như canh tàn
Hành trang
gói ghém lìa ngàn
Câu kinh vô
tự tiếng đàn vô âm
Dù muốn dù không, đã bước lên lộ trình tìm cứu cánh giải
thoát, thì cầu sinh tử mờ ảo hoa sắc dị hương. Đã thông thấu, nhìn ra trăm cõi
hư phù, hư ảnh phù du dù lung linh réo gọi, người khách lữ hành như đã đạt được
chút căn cơ. Căn cơ bồi đắp bằng ánh trăng huyền đạo trên đường giao tiếp giữa
vạn vật và hư vô. Chiếc cầu ngũ sắc vắt ngang hai bến bờ hữu hình và vô vi,
luôn thông thấu một tìm năng cho kẻ đạo hữu phần.
Nhờ vào cung
bậc tri âm
Cũng còn chỗ
gởi chút tâm sự thừa
Nắng mưa chẳng
đợi giao mùa
Hiềm vì
phàm thánh mãi đùa cợt nhau
Bận lòng chi
chút hẹn xưa
Gió đem ly
biệt, gió đưa trùng phùng
Từ vô thỉ đến
vô cùng
Hóa thân với
gió chưa từng hoài nghi
Tuy bước lên cầu sinh tử, thiện giả vẫn còn đôi tâm thức
bâng khuâng bởi chẳng qua thói tục được đuôi quên đầu nên cõi người vẫn
vấn vương như gió thoảng trên lớp y lam còn vương chút phấn bụi sơ nguyên. Vì vậy, quanh
đây gió bãi sương đồng/ và ta với một cõi lòng quạnh hiu. Phải chăng, giữa
phân thể vật chất hiện hữu vướng nỗi băn khoăn vật lý, là sự cô lẻ trong vũ trụ
lưỡng nghi, khiến thiện giả bay phiêu hốt trong chân không hư tưởng? Giây phút
trên cầu sinh tử, lành thay chợt thức ngộ được rằng:
Tử sinh đương lúc cận
cùng
Ngọn tây phong thổi qua
vùng si mê
Đạp phăng xiềng xích ta
đi
Ngoài vòng ngoảnh lại
nhiều khi giật mình…
Trên cầu lặng lẽ ngọn gió tử sinh, phủ đạo cho hàng hàng lớp
lớp thiện giả. Dù nước vẫn lưu chảy mãi thế này, nhưng vẫn cuốn không trôi khỏi
không-thời gian chiếc bóng ảo diệu của phi thường đạo. Chiếc Bóng Ngàn
Trùng khơi lại nỗi chiêm nghiệm lặng lẽ trong suốt quá trình trôi nổi trên
đường sinh diệt. Vì vậy, thiện giả vẫn băn khoăn trong tư hướng của trần tục
chưa diệt thoát nẻo phù sinh:
Đành liều thuyền dạt sóng trôi
Con quay hóa chuyển
còn vô số lần
Thác thân chưa phú
đã bần
Chưa sinh đã diệt
chưa gần đã xa...
Quản gì đầu núi
chân mây
Đôi bờ phúc họa từ
đây nối liền
Ta ôm một nửa buồn
phiền
Nửa kia đem vãi khắp
miền vô ưu...
Du tăng cất bước
qua cầu
Bỗng dưng sực nhớ
mái đầu xuân thu
Từ ngày nương bóng
chân sư
Tóc xanh chẳng biết
phiêu du cõi nào...
Tạm thời quán trọ
qua đêm
Bầy chim én cũ
không đem xuân về
Không hành
trang, cũng nặng nề
Biết ai mách lối
ta về cõi ta
Như thế, tư thế hướng ngoại vẫn còn như sương mù
giăng mắc rải rác trong không gian tiềm thức. Chân như dù bàng bạc trên lộ
trình đi tìm chân thể, thì sự phân cách khốc liệt giữa bản thể và hiện tượng vẫn
giằng co hỗn loạn giữa hữu vi và vô vi. Minh chứng, trước ngưỡng cửa qua cầu
sinh tử, thiện giả vẫn nhìn chiếc bóng ngàn trùng, mà rằng:
Chiều nay đứng trước ba đào
Hốt nghe tiếng
sóng vỗ vào tâm cang
Ý lòng chưa kịp giải
phân
Dư âm ngọn sóng đã
tan vào chiều
Trước dư âm ngọn sóng đã tan vào chiều, dư âm mang
nhiều tâm thức rao truyền mà thiện giả phủ dầy đặc trên Tử Sinh Ca.
Chương Sóng Lòng Chưa Lặng, kết thúc 12 phân khúc Tử Sinh Ca. Nhìn
xem tư hướng cuối cùng của một tư tưởng lặng thầm, đành lòng trút hết cho
người đến sau:
Sóng xô lớp lớp xa
bờ
Còn nghe từng đợt reo hò trong ta
Sóng trùng dương
sóng đi xa
Thanh âm réo gọi
thì ra sóng lòng...
Tình nhà xé nát
tim gan
Từ sơ sinh đã lang
thang đến giờ
Tóc xanh rẽ sóng
tìm bờ
Bạc đầu còn mãi vật
vờ giữa khơi...
Về đây mất dấu quê
làng
Trải dài cảnh lạ
ngút ngàn chân mây
Nhủ lòng thềm cũ
đâu đây
Chẳng qua tâm địa
bấy nay lạc loài...
Đường trần lắm
ngả phân ly
Lòng không
an định biết đi hướng nào
Thác thân nhầm
cõi ba đào
Liệu đem
sinh tử cấy vào tay ai.
Trong lớp y quan của thi phẩm Tử Sinh Ca, hình thể
lục bát là một tiêu biểu năng lực phù ảo trong thơ của Trần Yên Thảo. Yếu tính
phát huy chân tướng thực thể sáng tạo cổ phong, chứa đựng mênh mông bản thể
sáng láng huyền nhiệm trong thơ…
* Thi phẩm TỬ SINH CA của Trần Yên Thảo gồm 12 chương:
Giọt Nước Trên Đồng Khô - Du Phương Khúc - Gót Tục - Những Vì
Sao Bỏ Ngôi - Lớp Lớp Sóng Đùa - Nước Động Bóng Rung - Góp Nhặt Lời Quê -
Nước Tìm Chỗ Thấp - Trăng Tỏ Đường Về - Bước Qua Cầu Sinh Tử - Chiếc Bóng
Ngàn Trùng - Sóng Lòng Chưa Lặng.
Thư trang Quang HạnhViết xong tháng 6/2019Ngô Nguyên Nghiễm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét