Nhà Tây Sơn 2
7.
TÂY SƠN PHÒ LÊ DIỆT TRỊNH
Bình xong mặt phía Nam, nhà Tây Sơn lo đến mặt phía Bắc.
Thành Thuận Hóa, sau Hoàng Ngũ Phúc, Bùi Thế Đạt vào trấn thủ. Nhưng không bao
lâu chúa Trịnh lại sai Phạm Ngô Cầu vào thay thế. Phạm Ngô Cầu là người vô mưu
lại tham lam, chỉ lo việc làm giàu, còn việc dân việc quan phó mặc cho kẻ thuộc
hạ.
Vua Thái Đức biết Thuận Hóa không phòng bị, bèn sai Nguyễn Huệ là Tiết Chế, Võ
Văn Nhậm làm Tả Quân Đô Đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu Quân Đô Đốc đem bộ binh
đi trước. Nguyễn Văn Lộc làm Thủy Quân Đô Đốc cùng Nguyễn Lữ đem thủy binh theo
sau.
Võ Văn Nhậm, Nguyễn Văn Lộc là người cũ Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh vừa mới quy
thuận.
Nguyễn Hữu Chỉnh là người huyện Chân Lộc, tỉnh Nghệ An, đỗ hương cống từ lúc 16
tuổi. Có tài ngôn luận lại lắm cơ trí và thông binh pháp. Trước theo Hoàng Ngũ
Phúc thường đi đánh giặc bể, giặc sợ gọi là Chim Bàng. Hoàng Ngũ Phúc mất rồi,
Chỉnh theo Hoàng Đình Bảo. Hoàng Đình Bảo bị kiêu binh nổi dậy ở Thăng Long giết
chết. Chỉnh chạy vào Quy Nhơn phò Tây Sơn.
Nguyễn Hữu Chỉnh, năm trên vâng lệnh Hoàng Ngũ Phúc, mang ấn kiếm vào Quy Nhơn,
nên đối với Vua Thái Đức không phải chỗ xa lạ, do đó mà được nhà vua tin dùng,
sai cùng Nguyễn Huệ đem binh ra đánh Thuận Hóa.
Đại binh xuất phát ngày 18 tháng 5 năm Bính Ngọ (1786).
Ngày 24 lấy được An Tông, Nguyễn Huệ theo lời Nguyễn Hữu Chỉnh làm một phong
thư để gởi cho phó tướng giữ thành Phú Xuân là Hoàng Đình Thể, khuyên về hàng
Tây Sơn, rồi giả tảng bắn lầm thư vào trại Phạm Ngô Cầu. Ngô Cầu sanh nghi...
Khi binh Tây Sơn vây đánh thành Phú Xuân, Ngô Cầu sai Hoàng Đình Thể ra đánh.
Đình Thể cùng hai con và tỳ tướng là Vũ Văn Kiên đem quân bản bộ ra trận. Bắn hết
súng đạn, Đình Thể kêu cứu. Ngô Cầu đóng chặt cửa thành không tiếp ứng, Vũ Văn
Kiên và hai con Đình Thể đều bị Võ Văn Nhậm và Nguyễn Hữu Chỉnh giết chết.
Đình Thể, sức cùng lực kiệt, tự vận trên mình voi. Nguyễn Huệ ra lệnh phá
thành. Nguyễn Văn Lộc xông vào bắt sống được Phạm Ngô Cầu đường cùng gia đình
khuân của cải chạy trốn.
Thành Phú Xuân hạ xong, Nguyễn Huệ sai Nguyễn Lữ, Võ Văn Nhậm, Nguyễn Văn Lộc
tiến quân đánh lấy các doanh trại thuộc Quảng Trị, Quảng Bình.
Chỉ trong mấy hôm, đất Thuận Hóa đã nằm trọn trong tay nhà Tây Sơn, Nguyễn Huệ
bèn treo bảng phủ dụ nhân dân.
Nguyễn Hữu Chỉnh đem tình hình Bắc Hà ra kể tỉ mỉ cho Nguyễn Huệ nghe, nào là
Vua Lê chỉ có hư vị, bị chúa Trịnh hà hiếp mà không dám phản ứng, chỉ ôm bụng
xót thầm; nào chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ trong phủ Liêu Từ khi họ Trịnh cầm
quyền, thì bên nhà vua gọi là Triều Đình bên phủ chúa gọi là Phủ Liêu. Mọi việc
về chính trị, quân sự... đều do bên phủ Liêu định đoạt cả. chia bè phái sát hại
lẫn nhau: nào kiêu binh nổi dậy đánh phá kinh thành, giết triều thần, cướp bóc
dân chúng... quan quân không kiềm chế nổi... Đại loạn! Nên có thơ:
Lửa hồng từ dậy mái thành đô
Đôi chốn lầm than chuyện được thua
Xanh biếc thú quê người ẩn dật
Bạc đen đường thế khách bôn xu
Suy tường mỗi mỗi đau lòng trí
Tính quẩn trần trần nát dạ ngu
Muốn đến Vị Xuyên mà hỏi Lữ
Rằng Thương xưa cũng thế này ru?
Rồi khuyên Nguyễn Huệ ra đánh lấy Bắc Hà.
Nguyễn Huệ sau khi dẹp yên Gia Định đã có ý muốn bành trướng ra mặt Bắc. Nay
nghe lời Chỉnh, rất lấy làm vừa lòng, nhưng giả ý do dự;
- Bắc Hà có nhiều nhân tài, không nên coi thường.
Chỉnh nói:
- Nhân tài Bắc Hà chỉ một mình Chỉnh. Nay Chỉnh đã bỏ đi, thì nước không còn ai
nữa. Xin ông đừng ngại.
Nguyễn Huệ cười:
- Người khác thì không ngại. Chỉ ngại có ông thôi.
Chỉnh toát mồ hôi:
- Tôi tự biết tài hèn. Tôi nói lớn lối thế để ông tin rằng Bắc Hà không có người
địch nổi ông đó thôi.
Nguyễn Huệ kiếm lời an ủi rồi nói:
- Nhà Lê làm vua đã mấy trăm năm nay, bây giờ đánh đổ, thì chưa chắc lòng người
đã theo mình.
Chỉnh đáp:
- Bắc Hà có Vua lại có chúa. Một việc chưa từng có xưa nay. Thêm nưa họ Trịnh
tiếng là phò Lê nhưng sự thực là hiếp chế. Điều đó ai ai cũng biết. Hầu hết đám
sĩ phu Bắc Hà đều bất mãn, nhưng vì thế yếu không làm gì được để giúp nhà Lê.
Nay ông mà lấy danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh thì thiên hạ ai mà chẳng theo.
Nguyễn Huệ nói:
- Ông bàn phải lắm. Nhưng ta chỉ phụng mệnh đi đánh Thuận Hóa mà thôi. Nếu ra Bắc
Hà nữa thì sao cho khỏi mang tội kiểu mệnh Kiểu mệnh là trái mệnh. Kiểu chiến
là không có mệnh Vua mà cứ xuất quân..
Nguyễn Huệ bèn làm tờ tấu lên Vua Thái Đức về việc lấy được Thuận Hóa và xin xá
tội vì việc tự tiện đem quân đi đánh Bắc Hà, lại cho giải Phạm Ngô Cầu về Quy
Nhơn để triều đình xét xử.
Đoạn sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh đi trước, để Nguyễn Lữ và Nguyễn Văn Lộc
ở lại giữ thành Phú Xuân, còn mình và Võ Văn Nhậm kéo bộ binh theo sau, hẹn
cùng Chỉnh sẽ gặp nhau ở Vị Hoàng.
Ngày mồng 6 tháng 6 năm Bính Ngọ (1-7-1786) Nguyễn Hữu Chỉnh đến Vị Hoàng. Quan
quân bỏ chạy. Chỉnh lấy được trăm vạn hộc lương, rồi đốt lửa làm hiệu. Binh
Nguyễn Huệ kéo đến Vị Hoàng hợp với Chỉnh rồi kéo ra Thăng Long.
Chúa Trịnh là Trịnh Khải cho Trịnh Tự Quyền đem quân ra nghinh chiến. Tự Quyền
đến giữ ở mặt Kim Động. Viên trấn thủ Sơn Nam là Bùi Thế Dân đem bộ binh đến
đóng ở xã Phù Sa, thuộc huyện Đông An, Đinh Tích Nhưỡng đem thủy quân ra giữ cửa
Luộc.
Chiến thuyền Tây Sơn vào sông Vị Hoàng. Gặp gió đông thổi mạnh, đêm đến Nguyễn
Huệ sai lấy tượng gỗ để trên mấy chiến thuyền, rồi cho đánh trống kéo cờ, thả
thuyền cho trôi đi. Đinh Tích Nhưỡng tưởng địch tới đánh, dàn thuyền thành trận
chữ nhất, rồi truyền lấy súng mà bắn. Khi biết rằng người trên thuyền là tượng
gỗ, thì đạn dược đã cạn. Binh Nguyễn Huệ ùa tới đánh, Đinh Tích Nhưỡng không chống
cự nổi, phải bỏ thuyền mà chạy. Quân của Tự Quyền và Thế Dân cũng bị đánh tan,
thành Sơn Nam bị hạ.
Nguyễn Huệ một mặt truyền hịch đi khắp nơi, nói là lấy nghĩa phò Lê diệt Trịnh,
một mặt kéo quân lên lấy Thăng Long.
Thuyền Tây Sơn vào đến sông Thúy Ái, Ngô Cảnh Hoàn chận đánh. Một trận thủy chiến
kịch liệt. Ngô Cảnh Hoàn tử thương, bao nhiêu thuyền đều bị đánh đắm, quân sĩ
chết đuối gần hết!
Ngô Cảnh Hoàn, người làng Trảo Nha, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An, là một trung
thần của nhà Lê. Ngô có người vợ thứ tên Phan Thị Thuấn sắc đẹp, đức cao. Được
tin Ngô tử trận, người nhà ai nấy thương khóc, riêng bà vẫn cười nói như thường.
Có người hỏi, bà đáp:
- Được chết vì nước, còn chi hơn nữa mà buồn.
Người chung quanh cạn nghĩ, chê bà không thương chồng. Bà không chút quan tâm.
Đến tuần bá nhật, cúng tế xong, bà trang điểm lịch sự, sai bơi thuyền ra tại chỗ
Ngô Cảnh Hoàn bị giết, kêu lên một tiếng “chàng ơi” rồi tự trầm. Nhân dân địa
phương thương người tiết nghĩa, lập đền thờ và dựng bia kỷ niệm ở bên sông.
Người sau có thơ:
Chàng đi theo nước, thiếp theo chồng
Thiếp chết trinh mà chàng chết trung
Đến thế ân tình thôi trọn vẹn
Việc chi cười nói vẫn thung dung
Ma chay đã đủ trên trần thế
Đào đỏ thôi về với thủy cung
Giã họ giã hàng giã thôn xóm
Cương thường để lại với non sông.
(DƯƠNG BÁ TRẠC)
Chàng trung cho thiếp mới nên trinh
Nửa vị giang san nửa vị tình
Má phấn môi son làn nước biếc
Gan vàng dạ ngọc đá bia xanh
Sô gai thiên hạ âu thừa nhĩ
Gió bụi nhân gian chẳng bợn mình
Qua lại thuyền ai sông Thúy Ái
Còn chăng gợn sóng với hương thanh.
(TẢN ĐÀ)
Thắng Ngô Cảnh Hoàn quân Tây Sơn tiến đánh Hoàng Phùng Cơ ở hồ
Vạn Xuân. Quân Trịnh tan rã, Phùng Cơ tẩu thoát. Trịnh Khải vội lên voi thúc
quân tiến đánh, bị Nguyễn Huệ đánh tơi bời, phải bỏ chạy lên Sơn Tây. Đến làng
Hạ Lôi bị người địa phương bắt đem nạp cho Tây Sơn. Đi nửa đường lấy gươm tự vẫn.
Nguyễn Huệ dùng vương lễ tống táng cho họ Trịnh.
Ngày 26 tháng 6 năm Bính Ngọ (21-7-1786), Nguyễn Huệ vào
Thăng Long mở kho Hữu Viên phát chẩn cho người nghèo. Ngày hôm sau, vào cung Vạn
Thọ yết kiến Vua Lê.
Bấy giờ Vua Lê Hiển Tông đương bệnh, không ngồi dậy được, bèn mời Nguyễn Huệ
vào ngồi bên sập ngự, lấy lời ôn tồn mà phủ dụ. Nguyễn Huệ tâu rằng đem binh ra
Bắc Hà không còn mục đích nào khác hơn là để diệt Trịnh, phò Lê. Hiển Tông mừng
rỡ, tạ ơn.
Khi binh Tây Sơn vào thăng long thì các quan triều đều chạy trốn hết. Vua Hiển
Tông xuống chiếu triệu về, rồi định ngày 7 tháng 7, lập đại trào ở điện Kính
Thiên, Nguyễn Huệ đem các tướng vào bái yết và dâng sổ quân sĩ dân đinh, để tỏ
nghĩa “tôn phù nhất thống”. Vua phong cho Nguyễn Huệ là Nguyên Soái Uy Quốc
Công và gả người con gái thứ 21 là Ngọc Hân Công Chúa, tục gọi là Chúa Tiên,
con bà Chiêu Nghi Hoàng Hậu.
Mười hôm sau - 17 tháng 7 (10-8-1786) - Vua Hiển Tông băng hà. Hoàng Tôn là Lê
Duy Kỳ lên nối ngôi đặt niên hiệu là Chiêu Thống.
Vua Thái Đức được tin Nguyễn Huệ kéo quân đi đánh Bắc Hà, cho người ra ngăn cản
nhưng không kịp. Lại được tiếp tin Huệ lấy xong Thăng Long và còn ở lại giúp
Vua Lê sửa sang việc nước, Vua Thái Đức sợ em ở ngoài lâu sanh biến muốn gọi về,
song liệu giấy mực không chế ngự nổi, nên phải thân hành ra Bắc. Nhà vua đem
theo 500 nhuệ binh ra Thuận Hóa lấy thêm 2.000 nữa, rồi ngày đêm đi thẳng ra
Thăng Long.
Đến Nghệ An, nhà vua gặp một toán người trần truồng tay cầm ống tre đứng hai
bên đường, xưng là người đi buôn bị tướng cướp là Chưởng Tấn đoạt hết của cải
và quần áo, cầu xin nhà vua bắt kẻ hung đồ đặng lấy lại vật bị cướp. Đoạn chỉ
đường cho nhà vua đi. Đến nơi quanh co khúc khuỷu, toán người trần truồng hè to
một tiếng, rút kiếm giấu trong ống tre ra chém nhà vua. Liền đó một số người
đông đảo từ trong bụi rậm nhảy ra đâm chém quân tùy tùng. Lanh như chớp, nhà
vua rút trường kiếm, quay một vòng, bao nhiêu lưỡi kiếm chém vào nhà vua đều lớp
bị gãy lớp văng ra, và quay tiếp một vòng nữa, mươi mươi lăm chiếc đầu rụng xuống
như sung. Còn số người từ trong bụi nhảy ra bị quân Tây Sơn đánh giết, lớp chết
lớp quăng vũ khí chạy thoát thân. Hỏi ra thì đó là toán ăn cướp do Chưởng Tấn cầm
đầu. Chưởng Tấn là bộ hạ của viên trấn thủ Nghệ An bị tướng Tây Sơn giết. Chưởng
Tấn thoát chết, tụ tập bọn bất lương chờ dịp báo thù cho chủ. Bọn chúng có trên
vài trăm người, ngày ngày chận đường cướp giựt hành khách và vào xóm làng phá
phách nhân dân. Nay nhà vua tiêu diệt được bọn chúng, đồng bào địa phương rất
hàm ơn.
Đến Thanh Hóa, thuyền nhà vua vừa ra đến giữa sông thì thình lình bị người lặn
dưới nước đâm thủng đáy. Nước chảy ấp vào thuyền. Quân cận vệ không kịp trở tay
bị chết đuối. Nhà vua lanh chân nhảy qua thuyền khác được an toàn.
Từ ấy biết rằng có kẻ địch theo bên mình, nhà vua đề phòng ráo riết. Ban đêm
nghỉ dọc đường, chớ không ghé vào nhà ai hết.
Đi đến Thăng Long thì người mệt ngựa mỏi.
Được tin Vua Thái Đức đến Thăng Long, Nguyễn Huệ loan báo cho dân chúng biết để
khỏi kinh động nhân tâm, rồi cùng tướng sĩ ra ngoài thành nghinh đón. Vua Chiêu
Thống đem quần thần ra chực nơi cửa Nam Giao. Nhưng Vua Thái Đức theo em đi thẳng
đến phủ chúa Trịnh mà Nguyễn Huệ và tướng sĩ đương đóng, cho người đến hẹn cùng
Vua Chiêu Thống sẽ hội kiến ngày hôm sau Vua Thái Đức ra đi ngày nào và đến
Thăng Long ngày nào không được biết. Theo Hoàng Lê Nhất Thống chí thì nhà vua
được tin Nguyễn Huệ chiếm Thăng Long ngày 14 tháng 7 năm Bính Ngọ. Năm Bính Ngọ
nhuần hai tháng 7. Có thể đoán là nhà vua từ Quy Nhơn ra đi vào hạ tuần tháng 7
trước và đến Thăng Long vào thượng tuần tháng 7 sau. Ở Thăng Long chừng tuần nhật
để ra về ngày 14 tháng 7 nhuần.
Lễ tương kiến của hai Vua tổ chức tại phủ chúa Trịnh. Vua Thái Đức ngồi giữa,
Vua Chiêu Thống ngồi bên tả, Nguyễn Huệ ngồi bên hữu, các quan văn võ đứng chầu
hai bên. Sau ki làm lễ, Vua Chiêu Thống nói:
- Nhà Lê tôi bị họ Trịnh tiếm lộng đã hai trăm năm dư. Nay nhờ quý quốc trượng
nghĩa hành nhân, vì tệ quốc gia mà chỉnh đốn lại, thì cái công đức kiền khôn
tái tạo đó không biết lấy chi báo đáp cho xứng. Kính xin cắt đất vài quận làm
quà để khao thưởng tướng sĩ.
Vua Thái Đức đáp:
- Anh em chúng tôi ra đây để phò Lê diệt Trịnh. Nếu đất của họ Trịnh thì một tấc
cũng không để lại, nhưng mà của nhà Lê thì một tấc cũng không dám lấy. Mong nhà
vua giữ yên bờ cõi, đời đời giao hiếu với nhau. Đó là cái phúc của hai nước.
Rồi Vua Chiêu Thống lui về cung.
Một tuần nhật sau Vua tôi nhà Tây Sơn rút quân về nước.
Nguyễn Huệ xét thấy Nguyễn Hữu Chỉnh là con người giảo quyệt, định bỏ lại Bắc
Hà, nên mật truyền cho các tướng thu xếp quân thủy bộ, rồi nửa đêm ngày 17
tháng 7 nhuận (9-9-1786) kéo quân về Nam, lặng lẽ êm đềm, người trong thành
không một ai hay biết.
Đến Nghệ An, Vua Thái Đức để Nguyễn Duệ ở lại giữ Nghệ An và cắt Võ Văn Nhậm
đóng ở Đông Hải để trông chừng mặt Bắc. Liền đó thì Nguyễn Hữu Chỉnh theo kịp.
Vua Thái Đức cho Chỉnh ở lại giúp Nguyễn Duệ, Nguyễn Huỳnh Đức cũng xin ở lại
Nghệ An Sáng hôm sau, Chỉnh được tin Vua tôi Tây Sơn về Nam thất kinh bỏ hết
tài sản, xuống chiếc thuyền buôn chạy theo. Trong thuyền Chỉnh có làm bài văn tứ
lục “Tần cung nữ oán Bái Công” để trách Nguyễn Huệ (rất tiếc hiện không còn giữ.
Sau Đặng Trần Thường dựa theo đó soạn một bài khác hay hơn)..
Nguyễn Duệ là người tâm phúc của Vua Thái Đức. Theo phò nhà vua lúc nào và người
ở đâu, không rõ.
Còn Nguyễn Huỳnh Đức là tướng nhà Nguyễn bị Tây Sơn bắt trong trận thủy chiến ở
Gia Định năm Quý Mão (1783).
Quân giải Nguyễn Huỳnh Đức về đại bản doanh, Nguyễn Huệ trông thấy tướng mạo
khôi ngô kỳ vỹ, lòng sanh ái mộ, bèn tự tay cởi trói cho Nguyễn Huỳnh Đức và ôn
tồn khuyến dụ. Huỳnh Đức đứng chống nạnh, trừng mắt, mắng rằng:
- Tôi trung không thờ hai chúa. Nay rủi bị bắt thì tôi chỉ đợi chết chớ không
bao giờ đầu hàng.
Các tướng phẫn nộ, xin đem chém đi, Nguyễn Huệ cười:
- Thái độ của Nguyễn Huỳnh Đức có gì là quái. Đó là bản sắc của người anh hùng
và lòng trung nghĩa của kẻ trượng phu. Trước cái chết mà không khuất đó là
trung can nghĩa đảm, đó là chánh khí đường hoàng. Há chẳng khiến chư tướng khâm
phục sao?
Chư tướng ngấm ngầm bất bình nhưng không dám thân biện. Nguyễn Huệ truyền đem
Huỳnh Đức để ở sau bản doanh và sai Ngô Văn Sở đến thuyết phục. Nhưng suốt ba
ngày không có kết quả. Nguyễn Huệ có ý buồn.
Nguyễn Huệ có người ái cơ tên Trần Mỹ Tuyết, người có sắc lại có tài văn
chương, Nguyễn Huệ rất yêu quý và thường đem theo trong quân. Thấy chồng buồn,
Mỹ Tuyết xin đến gặp Huỳnh Đức một lần xem sao.
Khi Mỹ Tuyết đến thì Huỳnh Đức đã tuyệt thực ba ngày đêm, một mình ngồi nhắm mắt
trước ngọn đèn hiu hắt. Bỗng nghe tiếng động, Đức liền mở mắt nhìn, Mỹ Tuyết ung
dung tự giới thiệu:
- Tôi là thuyết khách của Long Nhương tướng quân.
Huỳnh Đức nhắm mắt lại, ngồi lặng thinh.
Mỹ Tuyết nói tiếp:
- Từ xưa có câu: “Thiên cổ gian nan duy bất tử”. Nhưng người trượng phu đương
lâm nạn, thì sống chẳng dễ gì mà chết cũng rất khó. Kìa người sanh trong trời đất
chỉ quý ở điểm là hoàn thành được trách nhiệm bản thân. Trách nhiệm chưa liễu,
có thể gọi là bậc hoàn nhân chăng? Tức như Văn Tín Quốc chịu nhẫn nhục trong ba
năm, đến lúc biết rằng nhà Đại Tống đã tuyệt vọng rồi, mới khẳng khái chịu chết
ở Đông Thị. Và Hán Thọ Đình Hầu, sau khi thất thủ Hạ Bì, vì nghĩ đến Lưu Hoàng
Thúc lưu lạc tha phương, mà đành phải giao ước ba điều cùng Tào Mạnh Đức. Nhân chí
nghĩa tâm, nghìn thu truyền làm mỹ đàm. Tướng quân đọc sử, không từng biết đến
sự tích ấy hay sao?
Huỳnh Đức hét:
- Ta biết rõ lắm, đừng có nhiều lời.
Mỹ Tuyết thản nhiên nói tiếp:
- Nay Nguyễn chúa thất bại phải chịu cảnh lưu ly, chính đương cần kẻ bầy tôi
tương trợ. Thế mà tướng quân lại đi cầu cái chết! Chết rồi, trách nhiệm cũng
tiêu ư?
Huỳnh Đức dịu giọng:
- Ta chết vì thế bức.
Mỹ Tuyết nói:
- Lúc này là lúc “trục lộc Trung Nguyên”. Nhưng chỉ có Long Nhương và Nguyễn
Vương là đối thủ. Thiên cơ huyền ảo. Cuộc đối lũy còn đương ở thế giằng co chưa
có thể biết chắc chắn được bề đắc thất. Vì tướng quân, tôi xin đưa ra một kế là
hãy tạm giữ thân hữu dụng để xem thời chọn thủ. Đến lúc khứ lưu lưỡng tiện, thì
tùy ý sở cầu. Long Nhương tướng quân là người mục thông thiên cổ, khổ nghễ
đương thể. Thế mà đối với tướng quân lại không giết. Rõ là vì thiên hạ mà
thương tiếc anh hùng. Thấy vậy nên tôi mới tới đây. Chớ như tướng quân cũng thuộc
hàng kiến ong, thì tôi đâu phải nhọc đến miệng lưỡi.
Nguyễn Huỳnh Đức ngồi cúi đầu trầm ngâm.
Trần Mỹ Tuyết cáo biệt về phục mệnh.
Nguyễn Huệ cho Ngô Văn Sở đến ủy dụ, hứa sau này hễ lập được chiến công thì khứ
lưu tùy ý.
Nguyễn Huỳnh Đức theo lời Mỹ Tuyết.
Nguyễn Huệ về Quy Nhơn đem Huỳnh Đức theo.
Ra Thuận Hóa, ra Thăng Long, Nguyễn Huệ vẫn đem Huỳnh Đức theo bên trướng.
Và những trận đánh Thăng Long cũng như những trận đánh Thuận Hóa, Huỳnh Đức lập
được nhiều công.
Nhớ đến lời hứa năm xưa, đến Nghệ An, Nguyễn Huệ bảo Huỳnh Đức chọn đường lưu
khứ. Huỳnh Đức xin ở lại giúp Nguyễn Duệ trấn Nghệ An, Nguyễn Huệ chấp nhận.
Dẹp yên chúa Trịnh ở Thăng Long, đánh đuổi chúa Nguyễn ra khỏi Gia Định. Vua
Thái Đức phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương thống trị đất Thuận Hóa từ Hải
Vân Sơn đến Hoành Sơn, phong cho Nguyễn Lữ là Đông Định Vương quản lý đất Gia Định
từ Bình Thuận đến Hà Tiên. Còn mình thì xưng Trung Ương Hoàng Đế chăm lo phần đất
từ Quảng Nam đến Bình Thuận.
Quan văn tướng võ có công cùng nhà Tây Sơn đều được tặng thưởng, và đều được
Vua Thái Đức phân phối cho Bắc Nam, tùy nhu cầu công vụ mà cũng tùy sở nguyện
cá nhân.
Cành tuy chia nhưng cội chẳng chẻ, Bắc Nam luôn luôn liên lạc mật thiết với
nhau. Và nhà Tây Sơn cùng nhà Lê phần bên nào lo bên nấy, không xâm phạm cũng
không dòm ngó nội bộ của nhau.
Nhân dân an cư lạc nghiệp và mong hưởng thái bình được lâu dài.
8.
CẢNH NỨT RẠN TRONG NHÀ TÂY SƠN
Ba anh em nhà Tây Sơn, từ nhỏ đến lớn, đối với nhau trọn niềm
thương yêu.
Từ ngày ông Nguyễn Phi Phúc tạ thế, ông Nhạc lo vẹn đạo làm
anh. Đối với hai em, chẳng những yêu thương vì ruột thịt mà còn quý trọng đức
tài. Còn ông Huệ cũng như ông Lữ thì yêu kính anh như cha, nhất nhất đều tuân
theo mệnh lệnh.
Tình như thế, nhưng tánh lại có khác.
Ông Lữ lấy việc sửa mình thương người làm gốc, còn giàu sang,
thua được là chuyện ngoài thân.
Ông Nhạc tuy thiệp thế đa mưu, song có phần bảo thủ, có phần
cầu an. Khi chưa có thì xông Nam đột Bắc, đến khi có rồi, thì có bao nhiêu bo
bo giữ bấy nhiêu, và chấp vào những gì mình đã có.
Ông Huệ tài trí vượt hẳn anh. Nhưng khi còn ở dưới quyền anh
thì triệt để phục tùng. Khi con chim bằng đã nuôi đủ sức gió để quạt cánh lên
chín tầng mây thì không còn ai có thể kiềm chế. Và con chim bằng khi đã bay thì
hướng về tương lai chớ đâu mấy khi quay về dĩ vãng.
Nghĩa là tánh ông Nhạc tĩnh, tánh ông Huệ động.
Đó là nguyên nhân gây ra xích mích giữa hai anh em làm cho
nhà Tây Sơn bị nứt rạn.
Cảnh nứt rạn ấy bắt nguồn từ ngày Tây Sơn chiếm được Phú Xuân
rồi đánh ra Thăng Long.
Nguyên sau khi dẹp yên Gia Định, ông Huệ đề nghị đem quân
đánh Phú Xuân. Vì không rõ quân chúa Trịnh mạnh yếu thế nào, nên ông Nhạc không
ứng thuận. Sau ông Chỉnh cho biết rõ tình hình, ông Nhạc mới cho xuất chinh. Lấy
được Phú Xuân, ông Huệ tự tiện đem quân ra đánh Bắc Hà. Ông Nhạc không bằng
lòng song không lấy cớ gì để bắt tội em được, nên chỉ gọi em về thôi. Về Phú
Xuân ông Huệ cho chở tất cả chiến lợi phẩm thu được ở Bắc Hà về Quy Nhơn, còn
mình thì lấy cớ Thuận Hóa mới lấy được cần phải củng cố nhân tâm và sửa sang
chính sự, nên xin ở lại Phú Xuân. Ông Nhạc đành phải chấp nhận, tuy không lấy
làm vừa lòng. Đến khi Nguyễn Huệ được phong Bắc Bình Vương, nắm quyền quản thủ
đất Thuận Hóa, thì tự ý sửa sang thành quách, phong thưởng võ tướng văn quan chớ
không tấu trình theo pháp. Nhiều lần ông Nhạc vời ông Huệ vào Quy Nhơn, ông Huệ
luôn luôn tìm cớ thoái thác.
Nhận thấy quyền làm anh đối với em, quyền làm vua đối với bề
tôi đã bị xem khinh, ông Nhạc cử binh ra Phú Xuân hỏi tội.
Nghe tin, ông Huệ vỗ án nói:
- Tội gì mà hỏi? Đánh Nam dẹp Bắc để giữ vững ngôi báu cho
anh, đó là tội à? Còn đất Thuận Hóa này là của ta lấy nơi tay Chúa Trịnh. Ta thọ
phong chẳng qua vì tình anh em đó thôi. Chớ đâu phải anh ta cắt đất của mình
phong cho ta mà bắt ta nhất nhất phải tuân theo mệnh lệnh? Công có lại quên, tội
không có lại buộc! Sao lại bất công thế. Ta không chịu nổi.
Rồi thân hành đem quân ra chống cự.
Ông Nhạc thấy em ra mặt bất phục tùng, càng nổi giận thêm.
Không một lời phân trần, hai bên giáp chiến. Đánh nhau kịch
liệt. Lần lần ông Nhạc đuối sức phải rút lui. Ông Huệ truy kích. Ông Nhạc rút
quân vào thành Quy Nhơn, cố thủ. Ông Huệ công vi cả tháng mà không hạ nổi
thành, bèn đánh chiếm núi Long Cốt, rồi kê súng đại bác trên núi bắn vào thành.
Những nơi hiểm yếu trong thành bị phá. Ông Nhạc liệu không giữ mãi được, bèn
lên mặt thành kêu ông Huệ mà khóc:
- Bì oa chữ nhục, đệ tâm hà nhẫn [1]
Nghe tiếng gọi của anh, ông Huệ òa lên khóc.
Rồi bãi binh.
Từ ấy anh em hòa thuận như cũ. Em Bắc anh Nam, lấy Hải Vân
làm ranh giới.
Nguyên nhân xích mích giữa hai anh em nhà Tây Sơn không có
chi khác hơn là lòng tự ái. Anh cậy quyền làm lớn, em cậy có công to. Vì chấp
sanh sân hận. Một đóm lửa giận không dập tắt kịp thời, cháy bùng lên đốt cháy cả
rừng tình nghĩa! Nhưng rồi một cơn mưa nước thân tình rưới xuống, bao nhiêu lửa
giận đương cháy ngùn ngụt liền tắt ngay.
Không có gì bí ẩn.
Nhưng để giải thích sự bất hòa kia, nhiều nhà làm sử đặt ra
chuyện. Kẻ thì nói rằng: ông Nhạc thông gian với vợ ông Huệ, và giữ hết những của
cải lấy được ở Thăng Long, nên ông Huệ giận...
Ông Huệ có ba bà vợ chính thức: bà họ Phạm ở Phú Phong, mẹ
ông Nguyễn Quang Thùy, bà họ Bùi ở Xuân Hòa, mẹ ông Nguyễn Quang Toản và bà Ngọc
Hân công chúa con gái Vua Lê. Lúc ông Huệ trấn thủ Thuận Hóa thì bà họ Phạm qua
đời đã lâu, bà họ Bùi theo chồng ra Phú Xuân, còn bà Ngọc Hân thì còn ở Thăng
Long. Như vậy ông Nhạc thông gian với bà nào?
Còn về của cải lấy được ở Thăng Long, thì có thấm vào đâu so
với đất đai từ Phú Yên đến Hà Tiên Phú Quốc. Đất kia còn để cho anh cho em
không chút tiếc, tiếc gì chút chiến lợi phẩm mà tranh?
Có người lại bảo rằng: Nguyễn Phúc Ánh muốn chia rẽ hai anh
em nhà Tây Sơn, bèn lập kế ly gián. Nguyễn Phúc Ánh dùng kế mỹ nhân, tìm một
thiếu nữ Âu Châu tuyệt đẹp đem dâng cho Nguyễn Huệ và tin cho Huệ biết trước.
Nhưng lại đem dâng cho Nguyễn Nhạc, rồi báo cho Huệ biết rằng đi ngang qua Quy
Nhơn, bị Nhạc chận cướp, mặc dù biết là của em. Huệ giận kéo quân vào đánh.
Kế mỹ nhân, xưa nay thường được dùng đến. Nhưng xét việc bất
hòa của anh em nhà Tây Sơn xảy ra vào năm Đinh Mùi (1787). Lúc ấy Nguyễn Phúc
Ánh còn ở Xiêm La, đất Gia định còn nằm trong tay nhà Tây Sơn, do ông Lữ trấn
thủ. Nguyễn Ánh về nước mùa thu năm Đinh Mùi, bị tướng sĩ Nguyễn Lữ đánh liên
tiếp mãi đến năm Kỷ Dậu (1789) mới lấy được Gia Định. Như vậy Nguyễn Phúc Ánh
lo chống cự với Nguyễn Lữ chưa rồi, còn rảnh đâu lo việc ly gián ông Nhạc và
ông Huệ. Huống nữa lúc Nguyễn Phúc Ánh ở Xiêm về thì việc xích mích đã xảy ra rồi
(Ánh về nước vào tháng 7 năm Đinh Mùi. Chuyện xích mích của anh em nhà Tây Sơn
xảy ra vào khoảng thượng bán niên năm Đinh Mùi). Cho nên thuyết này cũng không
đứng vững.
Hai giả thuyết trên, không thấy quyển sách chữ Nho nào chép.
Các bộ sử soạn dưới triều Nguyễn không có bộ nào chép rõ nguyên nhân.
Nguyên nhân, theo truyền thuyết ở vùng Tây Sơn chỉ là lòng cố
chấp.
Và anh em hết dạ thương yêu nhau thì giận nhau dễ mà thuận lại
nhau cũng không khó khăn.
Vì sự xích mích kia do nguyên nhân gì không tốt thì ngòi bút
của các sử gia nhà Nguyễn dễ gì lại chịu bỏ qua, dễ gì không đồ đi đồ lại cho
thêm đậm nét.
BẮC BÌNH VƯƠNG ĐỐI PHÓ MẶT BẮC
Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An tụ dũng sĩ, mưu đồ chiếm cứ Nghệ
An. Đồng thời ở Hà Bắc, Trịnh Bồng được tôn lên làm chúa. Vua Lê Chiêu Thống bị
nhà chúa ức hiếp bèn gọi Nguyễn Hữu Chỉnh về. Nguyễn Hữu Chỉnh về đuổi được Trịnh
Bồng. Vua Chiêu Thống phong Chỉnh làm Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Đại Tư Đồ,
lại gia tăng tước Bằng Quận Công. Nắm trọn quyền binh trong tay, Chỉnh tự ý
hoành hành. Muốn mở rộng ảnh hưởng vào Nam, Chỉnh lại thông đồng với Nguyễn Duệ
chiếm đất nghệ An, sửa lũy Hoành Sơn, lấy Linh Giang làm giới hạn với Thuận Hóa,
y như tiên triều.
Nguyễn Duệ bằng lòng. Chẳng ngờ bị lậu sự. Võ Văn Nhậm hay được,
gởi thư cáo biến với Bắc Bình Vương. Vương sai Nhậm ra bắt Duệ. Duệ biết trước
cùng Nguyễn Huỳnh Đức bỏ trốn. Duệ về Quy Nhơn, Đức vào Gia Định. Vương không
cho đuổi theo, chỉ sai Nhậm trấn thủ Nghệ An để coi chừng mặt Bắc.
Sẩy kế này bày kế khác, Nguyễn Hữu Chỉnh bày Vua Chiêu Thống
đòi lại đất Nghệ An.
Tháng tư năm Đinh Mùi (1787), Lê Chiêu Thống khiến hoàng thân
Lê Duy Anh cùng Trần Công Sán và Ngô Nho mang phẩm vật và quốc thư vào Phú
Xuân, Bắc Bình Vương biết là mưu mô Nguyễn Hữu Chỉnh, bảo cho Trần Công Sán biết
rằng sẽ cho tướng đem binh ra Thăng Long lấy đầu kẻ sinh sự.
Biết Trần Công Sán là người hiền tài, muốn trọng dụng, nhưg
không thuyết phục được, Vương bèn sai đưa phái đoàn theo đường biển về Thăng
Long. Giữa vời, ngầm đục thuyền. Sán cùng phái đoàn đều bị chết đuối.
Có người hỏi bà Trần Mỹ Tuyết:
- Sao không dùng tài năng để thuyết phục Trần Công Sán như đã
thuyết phục Nguyễn Huỳnh Đức?
Bà đáp:
- Huỳnh Đức là một võ tướng chỉ có lòng trung nghĩa. Còn Công
Sán là kẻ sĩ học rộng hiểu sâu. Một lưỡi dao con là ta, làm sao đốn nổi cây
tùng trăm tuổi thọ?
Lại hỏi:
- Cũng thì nhân tài mà sao đối với Nguyễn Huỳnh Đức nhà vua lại
khoan hồng hơn đối với Trần Công Sán.
Đáp:
- Tài của Huỳnh Đức chỉ có thể lấy được thành. Tài của Trần
Công Sán có thể chiếm trọn cả nước, nếu biết thiện dụng, tận dụng. Chữ Nhân phải
đi song song với chữ Trí mới tránh khỏi chữ Ngu. Kẻ đại trượng phu không thích
mang tiếng ngu với đời.
Không thể để yên Nguyễn Hữu Chỉnh lộng hành ở Bắc Hà, tháng
12 năm Đinh Mùi, Bắc Bình Vương sai Võ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân kéo
binh ra Thăng Long đánh Chỉnh.
Binh Võ Văn Nhậm kéo ra Bắc Hà, đánh đâu thắng đó. Nguyễn Hữu
Chỉnh nghe cáo cấp, sai con là Hữu Du đem quân đi trước. Đến sông Thanh Quyết,
Du đắp lũy cố thủ. Lúc bấy giờ khí trời quá lạnh, quân sĩ không chịu nổi phải
nhúm lửa, nhóm nhau ngồi sưởi. Nhậm sai lính xoi lũy, kê súng nhằm những chỗ có
lửa bắn vào. Quân của Du kinh hãi vỡ chạy. Chỉnh ở Bình Vọng được tin quân của
Du bị tan vỡ, đương đêm dẫn quân trở về thành Thăng Long, đem vợ con chạy về
Kinh Bắc.
Lê Chiêu Thống sảng sốt, không biết làm thế nào, cùng dắt
cung quyến chạy theo. Đến Kinh Bắc Vua sai Lê Quýnh cùng hơn 30 người tôn thất
đưa Hoàng Thái Hậu, Hoàng Phi và Hoàng Tử lên Cao Bằng. Còn mình cùng Nguyễn Hữu
Chỉnh về đóng ở núi Mục Sơn, đất Yên Thế.
Binh Tây Sơn đuổi đánh, Hữu Du bị tử trận. Hữu Chỉnh bị bắt
giải về Thăng Long, còn Lê Chiêu Thống trốn thoát, chạy vào núi Bảo Lộc ẩn núp.
Võ Văn Nhậm kéo quân vào Thăng Long, kể tội Chỉnh rồi đem giết.
Nhậm cho tìm Vua Chiêu Thống không được. Các triều thần chỉ còn lưa thưa mấy
người. Còn ở Kinh Bắc thì có Trần Quang Châu, Sơn Nam thì có Nguyễn Việt Tân, Hải
Dương thì có Đinh Tích Nhưỡng... đều ứng binh hùng cứ. Nhậm có ý sợ, nhưng chưa
biết tính sao thì có người ở Gia Lâm, tên là Trần Đình Khôi, tự xưng là quan
thiệm sự của nhà Lê, tới nói rằng:
- Bắc Hà oán Chỉnh tuy thâm mà lòng nhớ Lê chưa nhạt. Tự quân
chạy trốn, không biết lúc nào về. Nay có Sùng Nhượng công là Lê Duy Cẩn, trong
lúc Tiên Đế hãy còn đã phong làm Đông Cung, từ gặp biến năm Nhâm Dần, bị kiêu
binh phế truất. Nếu tướng công rước Duy Cẩn về lập lại, chỉ dán một tờ giấy tại
cửa Đại Hưng, thì nội trong một ngày, văn võ bá quan nhóm lại, đại sự của tướng
công thành tựu dễ như trở bàn tay.
Nhậm theo lời, tôn Duy Cẩn làm Giám Quốc để ở phía tả điện Cần
Chánh.
Cựu thần nhà Lê không người nào theo. Duy Cẩn ở trong điện với
vài người hoàng thân và vài viên võ tướng, suốt ngày không thấy ai tâu hỏi việc
gì.
Ngô Văn Sở bảo cùng Nhậm:
- Tôi xem tướng Sùng Nhượng công không sao khu sách được người.
Vả chăng từ xưa đến nay, thiên hạ không phải tư vật của ai. Như nên lấy thì lấy
hẳn đi, sao lại để người như thế làm Giám Quốc? Chúng ta đã lâu ngày chịu khổ với
thành này, bây giờ trở lại làm người khách ngụ của pho tượng gỗ này hay sao?
Nhậm khinh khỉnh nói:
- Lòng người Bắc Hà còn nhớ Lê lắm, không thể không theo
chúng vọng được. Bọn ngươi chỉ biết mạnh đánh mà thôi. Việc an dân đã có ta làm
chủ.
Ngô Văn Sở làm thinh, trở ra nói cùng Phan Văn Lân:
- Tiết Chế khinh người thái thậm! Tài đức gì mà dám đãi chúng
ta như đám sĩ tốt, việc lớn đều tự chuyên?
Bèn làm sớ mật tấu cùng Bắc Bình Vương.
Được tin, Bắc Bình Vương cười:
- Bạn tâm đã có từ lâu, bạn trạng mãi nay mới hình hiện.
Lập tức truyền lệnh xuất sư. Đi suốt ngày đêm. Hơn 10 hôm đến
Thăng Long. Nhậm không kịp trở tay, bị bắt. Hỏi:
- Tội gì?
Đáp:
- Ông tự biết lấy.
Đoạn truyền đem ra giết.
Rồi hiệu triệu các cựu thần nhà Lê về chung lo việc nước.
Vương vẫn để Sùng Nhượng công Lê Duy Cẩn làm Giám Quốc lo việc
tế tự. Còn thực quyền thì giao cho Đại Tư Mã Ngô Văn Sở, có Nội Hầu Phan Văn
Lân, Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết, Chương Phủ Nguyễn Văn Dụng. Hộ bộ Thị Lang Trần
Thuật Ngôn và Lại bộ Tả Thị Lang Ngô Thời Nhậm... phụ tá. Vương lại cắt Đô Đốc
Hòa Nghĩa hầu trấn thủ Kinh Bắc, Hô Hổ hầu trấn thủ Hải Dương, Giác Hầu hòa giữ
bộ lại. Ước Lê hầu giữ bộ Lễ, Lộc Tài hầu giữ bộ Hình.
Sắp đặt xong xuôi, vào khoảng cuối tháng 5 năm Mậu Thân
(1788), Vương trở về Phú Xuân, đem theo Phan Huy Ích.
Trừ Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết [2] là người
cũ của Tây Sơn, tất cả những người tham gia quốc sự đều là cựu thần nhà Lê.
Trong số văn thần, Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích là hai danh
sĩ Bắc Hà.
+ Ngô Thời Nhậm, tự là Hy Doãn, hiệu đạt là Đạt Hiên, con
trai của Ngô Thời Sĩ, sinh năm Bính Dần (1746) tại làng Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Trì, cách Thăng Long hơn mười cây số. Đậu Tấn Sĩ năm Ất Mùi (1775). Làm
quan nhà Lê đến chức Công bộ Hữu Thị Lang. Năm 1782, kiêu binh nổi loạn, chạy
trốn về quê vợ ở Sơn Nam.
Năm 1788, theo lời hiệu triệu của Bắc Bình Vương, Ngô Thời Nhậm
là người đầu tiên hưởng ứng. Ngô đến chờ ở bộ Lễ. Viên lễ quan Võ Văn Ước tưởng
lầm Ngô là Sùng Nhượng công, nên mời cùng ngồi với mình. Kế đó các quan lại cũ
nhà Lê lục tục đến làm lễ dưới sân. Ngô áy náy vội đứng dậy đi ra. Lúc ấy Ước mới
biết mình lầm, cho Ngô là vô lễ, cả giận, sai người đi bắt. Tối hôm đó, Ngô đến
dinh Trần Văn Kỷ, một danh sĩ đất Thuận Hóa đang được Nguyễn Huệ trọng dụng, và
có quen với Ngô khi Kỷ ra Thăng Long thi Hội năm Mậu Tuất (1778). Ngô nói rõ việc
ban sáng. Trần rất mừng nói [3]:
- Cố nhân đến đúng lúc. Bắc Bình Vương mến mộ tài cố nhân,
sai tôi đi tìm. Bỗng không hẹn mà gặp.
Sáng hôm sau liền đưa Ngô vào yết kiến Bắc Bình Vương. Vương
nói:
- Ngày trước, vì chúa Trịnh không dùng, người phải bỏ nước ra
đi. Nếu ta không đến đây, người làm sao được thấy bóng mặt trời? Có lẽ đó là ý
trời muốn để dành người tài cho dùng. Vậy ngươi hãy cố gắng mà lo việc báo đáp.
Đoạn truyền Trần Văn Kỷ thảo ngay tờ chế phong Ngô làm Tả Thị
Lang bộ Lại, tước Tình Phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả các quan văn võ
nhà Lê [4].
+ Phan Huy Ích là em rể Ngô Thời Nhậm.
Ông là con Phan Huy Cẩn, người làng Thu Hoạch huyện Thiên Lộc
đất Nghệ Tĩnh, sau dời đến làng Thụy Khê, huyện Thạch Thất thuộc Sơn Tây, rồi nối
đời ở đó. Đỗ Đình Nguyên khoa Ất Mùi (1775) đỗ tiếp khoa Ứng chế năm Bính Thân
(1776). Làm quan với Vua Lê chúa Trịnh cho đến năm Đinh Mùi (1787), Lê Chiêu Thống
bị Võ Văn Nhậm đuổi đánh, ông chạy về Sài Gòn ẩn lánh.
Ngô Thời Nhậm tiến cử họ Phan, Bắc Bình Vương phong là Thi
Trung Ngự Sử và đem theo về Phú Xuân [5].
Trước khi lên đường về Phú Xuân, Bắc Bình Vương mở tiệc đãi
các quan Văn Võ. Trong bữa tiệc, vương nói:
- Sở, Lân là nha trảo của ta. Dụng, Ngôn là tâm phúc của ta,
còn Nhậm là tân thần. Nay ta giao việc quân quốc mười một trấn ở Bắc Hà cho các
khanh, cho phép các khanh được tiện nghi hành sự. Nhưng phải hội đồng thương
nghị với nhau, đừng lấy lẽ mới cũ mà chống đối. Ấy là chỗ hậu vọng của ta.
Lại nói:
- Còn Lê Tự Hoàng là do ta lập nên. Tánh tình ám muội, nên rước
lấy bại vong. Nay để cho Sùng Nhượng công giám quốc, e tương lai Tự quân lại
cùng Sùng Nhượng tương tranh, nên bất đắc dĩ ta phải để Tư Đồ Ngô Văn Sở ở lại
giúp đỡ Sùng Nhượng. Chờ lúc nào bốn phương yên tĩnh, thì ta lập tức triệu Tư Đồ
về. Thật lòng ta không phải lấy đất Bắc Hà này đâu.
Rồi cùng tướng sĩ lên đường.
Bắc Bình Vương ra Thăng Long tháng 4 và trở về Phú Xuân tháng
5 ăm Mậu Thân (1788), đi về trong ngoài một tháng.
Nhân sĩ Bắc Hà, một số ra cộng tác cùng nhà Tây Sơn, một số cố
giữ lòng trung với tiền triều, ẩn lánh nơi sơn lâm, hoặc nổi dậy chống lại nhà
Tây Sơn một cách quyết liệt. Trong số chống đối có nhiều danh sĩ, như Trần Danh
Án, Bùi Huy Kích, Phạm Quý Thích, Phạm Thái... Cũng có đôi ba võ tướng mộ quân
“khởi nghĩa” nhưng đều bị dẹp tan.
Ngô Thời Nhậm, theo chính sách đoàn kết rộng rãi “dùng người
không phân biệt mới cũ” và “tấm lòng yêu tiếc nhân tài không lúc nào nguôi” của
Bắc Bình Vương, đã góp phần lớn lao vào việc củng cố an ninh và chính trị ở Bắc
Hà.
CHIÊU THỐNG RƯỚC TÀU
VỀ ĐÁNH TÂY SƠN
Quân Nguyễn Hữu Chỉnh bị quân Tây Sơn đánh thua. Vua Chiêu Thống
hoảng hốt sai Lê Quýnh cùng hơn 30 người tôn thất đem Hoàng Thái Hậu và Hoàng Hậu
chạy sang Kinh Bắc, còn mình thì bỏ Thăng Long chạy theo Nguyễn Hữu Chỉnh đến
đóng ở Mục Sơn thuộc Yên Thế, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt, nhà vua chạy đến Chí
Linh định nhờ Trần Quang Châu và Lê Ban dấy binh lấy Hải Dương làm cơ sở, nhưng
bị quân Tây Sơn đuổi đánh, nhà vua chạy vào Sơn Nam, định nhờ tỳ tướng của Nguyễn
Hữu Chỉnh là Nguyễn Việt Tuyến, nhưng Tuyến đã bị quân Tây Sơn đánh bại ở Hoàng
Giang, nên nhà vua cùng Lê Ban chạy vào Thanh hóa. Sau nghe lời Lê Duy Đoan trở
về Kinh Bắc cho người qua cầu viện Thanh triều.
Về Kinh Bắc, Chiêu Thống sai hai người bề tôi tin cẩn là Tham
tri Chánh sự Lê Duy Đán và Phó Đô Ngự Sử trần Danh Án sang Trung Hoa.
Duy Đán và Danh Án theo đường núi trốn qua biên thùy, đến ra
mắt tri phủ Thái Bình. Tri phủ Thái Bình làm tờ đạt lời cầu viện lên Tuần phủ
Tôn Vĩnh Thanh và Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị.
Trong khi chờ đợi kết quả, Trần Danh Án có thơ cảm hoài:
Giá cô tại Giang Nam
Đỗ quyên tại Kinh Bắc
Giá cô minh gia gia
Đỗ Quyên minh quốc quốc
Vi cầm do hữu quốc gia thanh
Cô thần đối thử tình vô cực.
Nghĩa là:
Giang Nam thì chim đa
Kinh Bắc thì chim quốc
Chim đa kêu gia gia
Chim cuốc kêu quốc quốc
Nghe chim kêu tiếng quốc gia
Lòng cô thần những xót xa trăm chiều.
Trong lúc đó, Lê Quýnh, Nguyễn Huy Túc đã đưa Thái Hậu qua
Tàu, nhờ viên Đô Ty Long Bằng Trần Hồng Thuận trình Quảng Tây Giang tả Dương
Hùng Nghiệp bẩm lên Tôn Sĩ Nghị.
Nhận được hai lời thỉnh cầu cùng lúc. Nghị bèn làm sớ dâng về
triều.
Vua Càn Long chuẩn y lời Tôn Sĩ Nghị và sai nghị cầm 20 vạn
binh sang Việt Nam, mượn cớ giúp Vua Lê đánh Tây Sơn để đặt nền đô hộ lên đất
Việt.
Tôn Sĩ Nghị chia quân ra làm ba đạo:
Một đạo do Tổng binh tỉnh Vân Nam và Quý Châu kéo sang mạn
Tuyên Quang.
Một đạo do Sầm Nghi Đống kéo sang mạn Cao Bằng.
Một đạo do Nghị cùng Đề Đốc Hứa Thế Hanh kéo sang mạn Lạng
Sơn.
Khí thế rất mạnh.
Ba đạo quân Thanh tiến vào nước ta vào khoảng giữa tháng 10
năm Mậu Thân (1788). Sĩ Nghị truyền hịch kể tội nhà Tây Sơn và kêu gọi thần dân
nhà Lê ra hợp tác.
Viên trấn thủ Lạng Sơn Phạm Khải Đức khiếp sợ, kéo cờ hàng.
Phó tướng Nguyễn Văn Diễm chạy về Kinh Bắc cùng Nguyễn Văn Hòa cố thủ, rồi sai
người về Thăng Long cáo cấp.
Được tin, Ngô Văn Sở dùng kế hoãn binh, khiến Nguyễn Quý Nha
và Trần Bá Lãm mang ba tờ bẩm văn ký tên Sùng Nhượng công và bá quan văn võ, đến
quân thự Tôn Sĩ Nghị cầu hòa. Sĩ Nghị bác khước Ngô Văn Sở bèn nhóm văn võ lại
thương nghị. Nguyễn Văn Dụng đề nghị dùng phục binh đánh địch. Ngô Thời Nhậm
nói:
Quân địch mới tới, sức còn mạnh khí đương hăng, lại khoa
trương thanh thế làm kinh động nhân dân. Nếu ta đem quân ra khỏi thành sẽ bị
chúng sát hại. Cựu binh sĩ của Bắc Hà nhuệ khí vốn đã nhụt, thừa cơ trốn hết.
Chừng ấy ta muốn đánh thì không hơn, mà muốn giữ cũng không đặng. Chẳng phải là
thiện sách. Chi bằng rút hết quân thủy bộ vào đóng giữ từ Tam Điệp ra đến biển,
để bảo toàn lực lượng rồi cho cáo cấp về Phú Xuân. Lúc đó ta sẽ quyết chiến
cũng không muộn.
Ngô Văn Sở nói:
- Giặc đến chưa đánh đã chạy, tôi e đắc tội với Bắc Bình
Vương.
Ngô Thời Nhậm đáp:
- Lương tướng thời xưa, lường sức giặc trước rồi mới định việc
công hay thủ. Nay ta đem toàn quân lui về, chẳng qua là cho chúng ngủ nhờ một
đêm, sáng ngày đuổi đi, có gì quan trọng. Nếu Bắc Bình Vương hỏi tội tôi sẽ bẩm
biện. Ông cứ yên tâm.
Ngô Văn Sở liền cho gọi binh các trấn Kinh Bắc, Thái Nguyên,
Hải Dương, Sơn Tây đến tập hợp tại Bắc Thành trấn Sơn Nam, rồi đồng tiến vào
Tam Điệp.
Chợt có tin quân Thanh đã qua khỏi ải Nam Quan, Phan Văn Lân
nổi nóng:
- Nước không cần phải lớn, binh không cần phải nhiều, hễ quyết
chiến thì thắng. Nay làm tướng nắm binh quyền ở cõi ngoài mà giặc đến không
đánh thì làm tướng để làm gì?
Rồi thừa đêm tối đem quân ra đi. Đến bờ phía nam sông Nguyệt
Đức thì nghe quân Thanh đã tới núi Tam Tằng, Lân đốc binh sĩ liều lạnh lội càn
qua sông. Quân chết đuối quá nửa. Còn một nửa vừa đến bờ bên kia thì quân địch
đánh giết hết. Lân một người một ngựa sống sót chạy trở về. Ngô Văn Sở cả kinh,
giấu kín việc Lân, khiến chư tướng chỉnh tế đội ngũ, trực tiến đến Tam Điệp.
Đến Tam Điệp vào ngày 20 tháng 11 năm Mậu Thân (17-12-1788).
Một mặt chia đồn cố thủ, một mặt cho Nguyễn Văn Tuyết về cáp cấp Phú Xuân.
Không gặp sức cản trở đáng kể, Tôn Sĩ Nghị tiến quân dễ dàng.
Đến Kinh Bắc được Vua Chiêu Thống đón tiếp trọng thể. Nghị cùng nhà vua trực chỉ
đến Thăng Long cho đại quân hạ trại ở Yên Phụ còn tướng Doanh thì đặt tại Tây
Long Cung. Để tiện việc qua lại, một dãy cầu phao bắc ngang qua sông Nhị. Ngày
hôm sau (21 tháng 11 năm Mậu Thân), Nghị phong Vua Chiêu Thống làm An Nam Quốc
Vương tại điện Kính Thiên và quyết định sau tết Nguyên Đán mới xuất đánh Nguyễn
Huệ.
Vào thành Thăng Long như vào chỗ không người, Nghị nghĩ rằng
đánh dẹp Tây Sơn sẽ dễ dàng như lấy đồ trong túi, nên lơ đãng việc binh, ngày
ngày lo hưởng lạc thú.
Vua Chiêu Thống tuy đã thụ phong, nhưng phải theo niên hiệu
Càn Long, và việc gì cũng phải bẩm lên Tôn Sĩ Nghị. Mỗi ngày sau buổi chầu,
Chiêu Thống phải đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật. Nhiều khi Nghị
không cho vào, chỉ sai một người ra bảo: “Không có việc gì quan trọng, Vua hãy
về cung nghĩ”. Thế mà không biết nhục, ngày ngày chỉ lo việc báo ân báo oán giết
hại những người đã theo Tây Sơn. Một người tôn nữ kết duyên cùng một tướng Tây
Sơn, đã có mang. Chiêu Thống sai mổ bụng, lấy thai nhi giết chết! Ba người
hoàng phái hàng vai chú nhà vua, bị chặt chân quăng ra giữa chợ. Việc chém giết
vì tư thù không ngày nào không có. Lương dân khủng khiếp!
Một số nhân sĩ, trước hành vi tàn bạo của Chiêu Thống vẫn ôm
mối “cô trung” như Bùi Huy Bích, Phạm Quý Thích, Phạm Đan Phụng... Có người nói
“Trung là trung với nhà Lê chớ đâu phải trung với Vua Chiêu Thống”. Lại có người
nói “Quân bất kính thần bất khả bất trung” [6].
Những quan lại cũ đã bỏ trốn trong lúc Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết,
nghe tin Vua Chiêu Thống trở về, lục tục kéo nhau tới thành đô bái yết và đến
xin Tôn Sĩ Nghị ra quân đánh Tây Sơn. Nghị đáp:
Năm đã gần hết. Đi đâu mà vội vàng? Giặc còn gầy, mình dung
túng cho nó ít lâu là nuôi cho nó béo, để rồi nó đem thịt đến nạp cho mình xơi,
chẳng hay lắm sao?
Rồi truyền ba quân đón trại nghỉ ngơi để ra giêng chiến đấu.
Quân lính của Sĩ Nghị thấy chủ tướng tham tàn dâm dật, tướng
lệnh lại không nghiêm minh, nên tha hồ ngang dọc. Những vụ cướp bóc, hãm hiếp,
tàn sát... xảy ra hàng ngày. Nhân dân không mấy lúc được ăn ngon, ngủ yên. Nơi
nơi đồ thán!
Cảnh nước loạn dân khổ đến thế là cùng cực.
Người người đều trông mong cuộc đời đổi thay.
Chú thích:
[1] Nồi da xáo thịt, lòng em sao nỡ?
Bà nội tôi đã diễn ra Quốc âm:
Lỗi lầm anh vẫn là anh
Nồi da xáo thịt sao đành hỡi em? (Q.G chú)
[2] Nguyễn Văn Tuyết ở Phú Xuân ra Thăng Long với Bắc Bình Vương.
[3] Trần Văn Kỷ quy thuận nhà Tây Sơn lúc Bắc Bình Vương ra Phú Xuân và
theo Vương ra Thăng Long để trừ Võ Văn Nhậm.
[4] Có nhiều tác phẩm bằng chữ Hán truyền thế.
[5] Có nhiều tác phẩm bằng chữ Hán truyền thế.
[6] Người xưa dạy: “Phụ từ tử hiếu, quân kính thần trung” nghĩa là “cha
có hiền lành con mới có hiếu Vua có kính vì tôi mới trung” tức là người trên có
lo tròn bổn phận mình thì mới có quyền buộc kẻ dưới lo tròn bổn phận. Nhưng người
sau lại nói: “Phụ bất từ, tử bất khả bất hiếu, quân bất kính, thần bất khả bất
trung”. Nghĩa là “Cha không lành, con không thể không hiếu. Vua không kính, tôi
không thể không trung”. Tức là buộc kẻ dưới phải giữ hết phận mình đối với người
trên, dù người trên không giữ tròn bổn phận. Phần đông các nhà Nho theo lời
sau.
9.
VUA QUANG TRUNG
ĐẠI PHÁ QUÂN THANH
Được tin quân Thanh sang chiếm đóng Thăng Long, Bắc Bình
Vương lập tức hội các tướng đến bàn việc dẹp giặc. Các tướng xin Vương trước
nên chính vị hiệu để ràng buộc lòng người Nam Bắc rồi sau sẽ khởi binh.
Theo lời, Vương sai đắp đàn ở Bàn Sơn (gần núi Ngự Bình).
Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), làm lễ cáo Trời Đất,
lên ngôi Hoàng Đế, đặt niên hiệu là Quang Trung.
Ngay hôm đăng quang, Vua Quang Trung tự thống lĩnh thủy bộ đại
binh, đốc suất tướng sĩ ở tế đàn, kéo rốc ra Bắc. Đi đầu là một lá cờ vuông to
lớn, nền đỏ thắm giữa thêu mặt trời vàng rực rỡ, tượng trưng cho hiệu Quang
Trung. Để quân sĩ đi cho chóng và khỏi mệt, nhà vua cấp cho ba người một cáng
tre, hai người khiêng một, luân phiên nhau đi gấp ngày đêm ra Nghệ An. Đến nơi
là ngày 29 tháng 11.
Nhà vua mời La Sơn Phu Tử đến vấn kế.
La Sơn Phu Tử tên là Nguyễn Thiếp, người làng Mật Thôn, xã
Nguyệt Ao, huyện La Sơn, trấn Nghệ An. Sinh năm Quý Mão (1723). Đậu Giải Nguyên
năm Quý Hợi (1743). Vâng lời mẹ và thầy là Nguyễn Nghiêm, Phu Tử ra làm huấn đạo
ở Anh Đô. Được ít lâu từ chức, về ở ẩn tại núi Thiên Nhậm, tự hiệu là Lạp Phong
xử sĩ.
Phu Tử là người học rộng, đạo cao, lừng danh khắp Nam Bắc.
Kỳ ra Bắc lần đầu tiên để diệt Trịnh, đến Nghệ An, Nguyễn Huệ
viết thư mời ba lần, lời lẽ khiêm tốn xin cụ làm quân sư. Cụ một mực từ chối.
Kỳ thứ hai khi ra dẹp Võ Văn Nhậm. Nguyễn Huệ lại cho mời cụ
đến hội kiến. Bị sứ giả thôi thúc, bất đắc dĩ cụ ra gặp Nguyễn Huệ ở núi Nghĩa
Liệt. Huệ có ý bất bình nói:
- Nghe tiếng Tiên Sinh, mong được gặp mặt. Sao Tiên Sinh lại
có ý thoái thác? Hay là tiên sinh coi Huệ này không phải là anh hùng?
Cụ đáp:
- Trịnh thị tiếm lộng đã 200 năm, Tướng quân nhất cử mà bài
diệt được, thổ địa đều giao lại cho Vua Lê. Công đức như thế, ai lại không cho
Tướng quân là anh hùng. Nhưng nếu Tướng quân nhân tai nạn của người mà làm lợi
cho mình, ấy là dối lấy nghĩa trước, thâu lấy lợi sau, thì đó là gian hùng.
Huệ cung kính nói:
- Người đời gọi Tiên Sinh là “Thiên Hạ Sĩ” thật không sai.
Huệ nài nỉ xin cụ ra giúp. Cụ lấy cớ tuổi già sức yếu xin được
ở yên nơi sơn lâm.
Kỳ này được giấy mời, cụ đến ngay và nói:
- Quân Thanh ở xa mới tới không biết tình hình quân ta mạnh yếu
thế nào, địa thế nước ta hiểm trở ra sao, không biết nên đánh hay nên giữ. Chúa
công ra đây nên đánh gấp thì không quá mười ngày nhất định tiêu diệt được địch.
Vua Quang Trung mừng rỡ:
- Thật hợp ý ta!
Nhà vua đóng quân ở Nghệ An để tuyển mộ thêm binh, trữ thêm
lương thực. Sau mươi hôm quân mới cũ tính hơn 10 vạn, trên 200 thớt voi và
5.000 con ngựa. Quân sĩ đều mặc áo cặp nẹp đỏ, đội mũ ngũ kết tua đỏ [1]. Còn lương thì gạo xay bột đúng thành bánh tráng, đồ ăn thì xẻ
bò làm thịt thưng.
Tân binh đều được tập luyện hàng ngày. Nhà vua cỡi voi đi xem
tập luyện và ban lời phủ dụ mọi người.
Một hôm nhà vua trông thấy trong đám tân binh một tráng sĩ,
mình mặc áo trắng, tay cầm kích, lưng đeo cung, biểu diễn tài nghệ trông vừa đẹp
vừa hùng. Nhà vua rất lấy làm lạ, cho người gọi đến. Tráng sĩ vừa đến gần, nhà
vua liền nhảy xuống voi, chạy lại cầm tay gọi:
- Cố nhân!
Ai nấy đều ngạc nhiên, hỏi nhau:
- Ai vậy?
Đó là Đặng Văn Long.
Đặng Văn Long tự là Tử Văn, người làng Vân Hội huyện Tuy Viễn
(Tuy Phước), phủ Quy Nhơn. Lúc nhỏ học võ, tinh thông về môn cương quyền (quyền
cứng mạnh), sau theo Trương Văn Hiến học Miên quyền (quyền mềm dẻo) ngót
năm mới thành tài. Người trong võ lâm thấy Đặng gồm cả hai môn ngạnh công và
nhuyễn công [2] không ai địch nổi, nên tôn xưng là “Đặng vô địch”. Đặng lại
có sức mạnh vô cùng. Nằm ngửa dưới đất, dùng hai cánh tay đỡ bánh một cỗ xe chở
nặng. Người Quy Nhơn gọi là “Người tay sắt” (Đặng Thiết Tý).
Nơi quê hương không có đối thủ. Đặng đi khắp đó đây để tiêu
dao ngày tháng. Nghe tin Vua Quang Trung đi đánh quân Thanh, Đặng bèn đến nhập
ngũ. Và để được dễ dàng, Đặng bèn bày ra trò “mặc áo trắng diễn võ” trong khi tất
cả quân sĩ đều mặc áo đỏ.
Gặp được bạn cũ, Vua Quang Trung hết sức mừng, liền phong cho
Đặng chức Đại Đô Đốc cùng mình đi định Bắc.
Sau khi chuẩn bị đầy đủ, nhà vua hạ lệnh trẩy quân.
Ngày 20 tháng chạp (15-1-1789), đại binh tới Tam Điệp [3]. Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm, Phan Văn Lân ra chịu tội. Nhà vua
cười:
- Ta biết đây là kế của Ngô Thị Lang. Lui quân để tránh thế
giặc, trong khuyến khích sĩ khí, ngoài phấn khích lòng kiêu ngạo của giặc. Kế dụ
địch vào chỗ hiểm yếu của ta, như thế là phải. Các khanh không có tội chi cả.
Lại nói:
- Chúng nó sang chuyến này là mua lấy cái chết đó thôi. Ta đã
định mẹo cả rồi. Dẹp yên giặc chỉ trong mươi ngày là xong. Nhưng giữ yên bờ cõi
sau này ta phải nhờ Ngô Thị Lang.
Đoạn lo chỉnh đốn quân ngũ, cắt xếp tướng tá, hoạch định đường
hướng.
Hai bận ra Thăng Long, Vua Quang Trung đã nhìn thấy rõ địa
hình địa thế của Bắc Hà và khi dừng binh ở Nghệ An, nhà vua đã mật sai quân đi
do thám để nắm vững tình hình của địch. Nhà vua chia thân binh Thuận Quảng làm
bốn dinh Tiền, Hậu, Tả, Hữu, còn Tân binh Nghệ An thì làm Trung quân.
Trung quân do nhà vua trực tiếp điều khiển.
Tiền quân do Đại Tư Mã Ngô Văn Sở và Nội Hầu Phan Văn Lân cai
quản.
Hậu quân do Hô Hổ Hầu đốc chiến.
Tả quân do Đại Đô Đốc Nguyễn Văn Lộc và Đại Đô Đốc Nguyễn Văn
Tuyết chỉ huy, kiêm cả bộ binh và thủy binh. Tuyết giữ nhiệm vụ Kinh Lược Hải
Dương, ứng tiếp mặt đông. Lộc tiến đến Lạng Sơn, Phượng Nhã, giữ vùng Yên Thế
chận đường rút lui của địch.
Hữu quân gồm mã quân và tượng quân, do Đại Đô Đốc Nguyễn Văn
Bảo và Đại Đô Đốc Đặng Văn Long [4] thống lãnh. Long đem mã quân qua huyện Chương Đức (Hà
Đông) để tiến đến làng Nhân Mục huyện Thanh Trì (Hà Đông). Bảo đem tượng binh
qua vùng Sơn Minh (Ứng Hòa, Hà Đông) để làm quân tiếp ứng.
Để trưởng dưỡng thêm lòng kiêu căng của địch, nhà vua sai Trần
Danh Bình cầm đầu sứ bộ tám người mang lễ vật và văn thư ra “tha thiết” xin
quan Đại Nguyên Soái của Thiên Triều dừng quân để tra xét cho rõ “vì sao Tây
Sơn phải thay quyền nhà Lê”. Sứ bộ còn trả lại cho Tôn Sĩ Nghị 40 người Trung
Hoa do tướng cướp Đắc Thiện Tống cầm đầu đã bị quân Tây Sơn bắt được. Tôn Sĩ
Nghị chém Trần Danh Bình, chém luôn cả Đắc Thiện Tống và cầm tù phái đoàn sứ giả.
Mọi việc cụ bị, nhà vua cho mở tiệc linh đình vào ngày 29
tháng Chạp để thiết đãi tướng sĩ. trong bữa tiệc nhà vua nói:
- Bữa nay ta hãy ăn tết Nguyên Đán trước. Sang xuân ngày mồng
7, vào Thăng Long, sẽ mở tiệc ăn tết Khai Hạ.
Lại nói:
- Xuân sang, một là ăn tết, hai là chịu chết. Tướng sĩ phải hết
lòng cùng ta.
Ai nấy đều hớn hở vui mừng.
Vui mừng hơn là Phan Văn Lân, vui mừng vì được gặp lại bạn học
ngày xưa: Đặng Văn Long. Sau chuyện hàn huyên, Long hỏi thăm tin tức thầy học
Trương Văn Hiến. Lân nói:
Thầy ra giúp Vua Thái Đức một thời gian, rồi lui về An Thái
dưỡng lão. Từ ấy việc binh bận rộn, tôi không đi thăm được mà cũng không được
tin tức của thầy. Không biết có còn khỏe mạnh. Ơn xưa nghĩ lại lắm lúc thật buồn.
Long nói:
- Hơn mười năm nay tôi mải miết giang hồ, cũng không lo
tròn nghĩa sư đệ. Nhưng chuyến này nếu đánh đuổi được giặc xâm lăng, thì
chắc thầy cũng mừng rằng công dạy dỗ không đến nỗi uổng.
Sáng hôm sau, 30 tháng chạp, nhà vua truyền lệnh xuất quân.
Vua nói:
- Ta đến mà địch không biết, là địch ngủ ta thức. Ta đánh mà
địch không đề phòng, là ta chém kẻ tay không. Ta nhất định thắng.
Tiếng hoan hô vang trời, khí thế mạnh chuyển núi.
Quân Tây Sơn đến đâu cũng được dân địa phương hoan nghênh đến
đó. Nơi mổ heo bò thết đãi, nơi đem bánh chưng bánh tét ra dâng. Hết bị kiêu
binh của chúa Trịnh lộng hành gieo tai họa lên đầu, đến bị Lê Chiêu Thống rước
ngoại bang về dày xéo đất nước, nhân dân Bắc Hà coi quân Phú Xuân như những
đoàn hiệp sĩ cứu khốn phò nguy [5] nên nhiệt tình ủng hộ.
Chưa hết ngày 30, nghĩa quân đã qua khỏi sông Giản Thủy ở
Ninh Bình. Hoàng Phùng Nghĩa, cựu thần nhà Lê do Tôn Sĩ Nghị sai đóng quân giữ
Sơn Nam, nghe đại binh kéo tới, chưa giáp trận đã bỏ chạy về Hà Nam. Vua Quang
Trung cho quân đuổi theo đến Phú Xuyên (Hà Đông) thì bắt trọn cả tướng lẫn
quân. Bọn quân xích hầu của giặc cũng bị giết không còn một mống. Nhờ vậy mà mối
liên lạc giữa quân địch bị cắt đứt hẳn. Các đồn đóng ở phía ngoài không hay biết
chi cả. Nghĩa quân lặng lẽ kéo ra.
Mồng 3 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) lúc nửa đêm nghĩa quân
vây đồn Hà Hồi. Quân Thanh đang ngủ, nghe tiếng reo hò, tiếng trống trận vang rền
như sấm ngoài chiến lũy, khiếp sợ, không còn gan chống cự, vội vã kéo cờ hàng.
Nghĩa binh lấy trọn quân lương và khí giới.
Qua đêm mồng 5, vừa cuối canh tư, nhà vua sai dồn tất cả
lương thực vào một chỗ rồi cho đốt sạch, và bảo tướng sĩ:
- Hễ thắng giặc thì được no, thua giặc thì chết đói.
Lại lấy mấy thước khăn vàng quấn vào cổ và thề:
- Nếu không thắng được giặc thì chết với khăn này chớ nhất định
không lui.
Đoạn xắn tay áo, xách Ô Long đao nhảy lên mình voi, thúc quân
tiến đánh đồn Ngọc Hồi. Voi trận đi trước, quân lính theo sau đi như gió cuốn.
Tướng Mãn Thanh hay tin, kéo kỵ binh ra chận đánh. Nhưng vừa
trông thấy voi, ngựa sợ cuống, hí lên những tiếng kinh hoàng, rồi chạy tán loạn.
Quân Thanh bị rối hàng ngũ, không dám giao chiến, phải rút lui vào giữ đồn.
Đồn quá kiên cố. Mặt ngoài lũy đều cắm chông sắt và đặt phục
lôi. Trong đồn lại bắn súng ra như mưa xối.
Vua Quang Trung truyền lấy 60 tấm ván dày, cứ ba tấm ghép vào
thành một phên ván, ngoài phủ rơm trộn với đất ướt. Rồi cứ mười người, lưng đeo
đoản đao, khiêng một tấm phên ván đi trước, tiếp theo hai mươi người cầm vũ
khí, tiến theo thế trận chữ nhất. Nhà vua cỡi voi theo sau đốc suất.
Đạn bắn rào rào. Quân ta không hề lui một bước, vượt chông sắt,
phá tan cửa lũy, tràn vào đồn. Quân địch không còn dùng súng được nữa. Quân ta
quăng ván, đánh xáp lá cà, nhanh như chớp, mạnh như bão, giết quân địch như
thái rau. Quân địch không cự nổi, bỏ chạy, lớp dày đạp lên nhau, lớp chạm phải
địa lôi, lớp chết lớp bị thương, còn bao nhiêu bị bắt sống. Tướng Thanh là Đề Đốc
Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Triều Long và Tả Dực Thượng Duy Thăng đều tử trận.
Đồn Ngọc Hồi giữ vị trí quan trọng nhất trong hệ thống phòng
ngự của địch. Lực lượng có trên 3 vạn quân tinh nhuệ. Đồn bị tiêu diệt, quân tử
trận và bị bắt hơn hai phần. Còn chừng một phần sống sót kéo nhau chạy ra ngã
Thăng Lon, chẳng ngờ đến gần Văn Điển thì bị quân Tây Sơn bố trí sẵn, chận
đánh. Quân địch phải thối lui, chạy qua cầu Vinh sang vùng Đầm Mực. Đầm Mực là
một vùng đầm lầy rộng lớn thuộc huyện Thanh Trì.
Đại Đô Đốc Nguyễn Văn Bảo từ Sơn Minh đem tượng binh đến Đại
Áng. Khi có tin quân địch từ Ngọc Hồi chạy lên thì đem voi ra bao vây. Quân địch
lớp chôn thây trong bùn lầy, lớp bị voi chà, không còn một tên sống sót.
Lực lượng Ngọc Hồi bị tiêu diệt toàn bộ.
Trong khi Ngọc Hồi bị tiêu diệt thì đồn Khương Thượng cũng bị
tiêu diệt luôn.
Khương Thượng nằm phía tây nam thành Thăng Long. Đồn bị quân
Đại Đô Đốc Long tiêu diệt. Đại Đô Đốc Đặng Văn Đông có viên phó tướng là Đặng
Tiến Đông, trí dũng hơn người, trước kia làm quan cùng chúa Trịnh, sau quy thuận
nhà Tây Sơn, Đặng Tiến Đông quê ở Lương Xá gần Thăng Long, am hiểu địa hình và
đường lối trong khắp vùng Thăng Long và lân cận, hướng dẫn quân đi đường tắt.
Đại Đô Đốc Đặng Văn Long từ huyện Chương Đức đến Thanh Trì,
trước hết chiếm đồn Yên Quyết và Nhân Mục, nằm phía tây bắc đồn Khương Thượng.
Hai đồn này là hai đồn nhỏ làm tiền đồn cho Khương Thượng. Hai đồn bị hạ một
cách nhanh chóng và im lặng. Quân Đô Đốc Long kéo vây đồn Khương Thượng từ lúc
chưa tinh sương. Trong đồn không hay biết. Quân Đô Đốc Long được nhân dân ủng hộ,
dùng rơm khô bện thành con cúi, tẩm dầu, chực lửa. Rồi một tiếng hô, muôn nghìn
tiếng ứng, đồng thời lửa bật cháy. Bốn mặt đều có ánh lửa hừng hực và tiếng hô
hét vang trời. Quân trong đồn khủng khiếp, không còn sức chống cự. Tướng chỉ
huy là Đề Đốc Sầm Nghi Đống chưa kịp đối phó thì quân của Đô Đốc Long đã phá đồn
tràn vào như nước vỡ đê.
Đống khiếp sợ, trốn ra Hoa Sơn tức gò Đống Đa thắt cổ tự tử.
Binh sĩ trong đồn bị giết quá nửa.
Một nửa còn sống sót lớp chạy ra hướng Bắc, lớp theo sông Tô
Lịch chạy vào Nam. Chạy đến Đầm Mực bị quân Đô Đốc Bảo tiêu diệt hết.
Tại bản doanh, Tôn Sĩ Nghị đương theo dõi mặt trận phía Nam,
bỗng được tin đồn Ngọc Hồi rồi đồn Khương Thượng bị tiêu diệt, và binh Vua
Quang Trung đương kéo đến kinh thành. Còn đương lúng túng chưa biết liệu thế
nào, thì binh Đô Đốc Long từ Khương Thượng đã kéo vào Thăng Long, sát khí ngùn
ngụt.
Nghị sợ quá không kịp mặc áo giáp, không kịp thắng yên ngựa,
hớt hải cùng toán kỵ binh hầu cận bỏ cung Tây Long, vượt cầu phao chạy qua sông
Nhị. Tướng sĩ thấy chủ tướng bỏ chạy, rùng rùng chạy theo, lấn nhau qua cầu
phao. Cầu không chịu nổi sức nặng bị đứt, ném tung hàng vạn quân địch xuống
sông.
Tôn Sĩ Nghị cùng đám tàn quân nhắm ải Nam Quan mà chạy. Nhưng
chạy đến đâu thì cũng bị quân của Đô Đốc Lộc đánh giết. Tôn Sĩ Nghị phải vứt bỏ
tất cả sắc thư, ấn tín để lo chạy thoát thân. Chạy bảy ngày đêm mới đến trấn
Nam Quan, đói cơm khát nước.
Vua Chiêu Thống cũng chạy theo Tôn Sĩ Nghị. Đạo quân Thanh
đóng ở Hải Dương cũng bị Đô Đốc Tuyết đánh bại.
Riêng đạo quân Thanh đóng ở Sơn Tây, tuy không bị tấn công,
nhưng cũng hoảng sợ, rút chạy về nước.
Quân Mãn Thanh bị quét sạch.
Bắc Hà hoàn toàn được giải phóng.
Chiều mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (30-1-1789), Vua Quang
Trung kéo quân vào thành Thăng Long trong không khí tưng bừng. Chiếc chiến bào
của nhà vua đỏ thắm đã bị thuốc súng nhuộm thành màu đen.
Nhà vua vào thành Thăng Long trước kỳ hẹn hai ngày.
Trăm họ chật đường nghênh tiếp.
Tiếng reo hò của nhân dân và của binh sĩ vang dội một góc trời.
Theo đúng lời hẹn, Vua Quang Trung cho tướng sĩ ăn tết một lần
nữa.
Nhân dân trong thành và ngoài thành cũng đua nhau mở tiệc
vui, tưng bừng nhộn nhịp.
Và trên kỳ đài thành Thăng Long, ngọn cờ đỏ mặt trời vàng bay
phấp phới.
SƠ ĐỒ
Chú thích:
[1] Đại Nam Quốc Sử diễn ca có câu nói về binh Tây Sơn:
Quân dung đâu mới lạ thường
Mũ mao áo đỏ chật đường kéo ra.
[2] Ngạnh công: Cương quyền. Nhuyễn công: Nhu quyền.
[3] Tam Điệp tục gọi là nói Ba Dội ở giữa Thanh Hóa và Ninh
Bình.
[4] Các sách chép là Đô Đốc Mưu.
[5] Theo lời của giáo sĩ Jumilla de Diego, trong Bulletin de
la Socíeté des Etudes Indo Chinoises.
10.
VUA QUANG TRUNG ĐỐI NGOẠI
Lúc dồn binh ở Tam Điệp, Vua Quang Trung đã nói cùng chư tướng:
- Trung Quốc lớn gấp mười nước ta, sau khi bị thua một trận, ắt
lấy làm nhục mà báo thù. Đến lúc ấy chỉ có người khéo đường từ lệnh mới dập tắt
được lửa chiến tranh. Ngoài Ngô Thời Nhậm không ai làm nổi.
Đến khi thắng được quân Mãn Thanh rồi, xem trong giấy tờ Tôn
Sĩ Nghị bỏ lại có tờ mật dụ của Vua Càn Long đại khái nói rằng: “Việc quân nên
từ từ mà lo liệu chớ nên hấp tấp. Hãy đưa hịch truyền thanh thế đi trước. Cho cựu
thần nhà Lê về nước tập hợp nghĩa binh và tìm Tự Quân nhà Lê đem ra cầm đầu để
đối địch cùng Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn
nhớ nhà Lê mà có quân ta kéo đến, thì ai mà chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ tất phải
tháo lui. Ta sai Tự Quân đuổi theo trước đại binh ta kéo theo sau. Như thế
không khó nhọc mấy mà thành công to. Đó là thượng sách. Ví bằng người trong nước,
nửa theo bên nọ nửa theo bên kia, thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui quân. Ta sẽ
đưa thư vạch rõ đường họa phước xem Huệ đáp ứng thế nào. Đợi thủy quân ở Mãn,
Quảng đi đường bể vào đánh dẹp Thuận Hóa, Quảng Nam xong, bộ binh sẽ tiến lên
sau. Nguyễn Huệ hai đầu thọ địch, tất phải quy phục. Chừng đó ta làm ơn cho cả
hai bên: từ Thuận Hóa trở vào Nam thì cho Nguyễn Huệ. Từ Châu Hoan Châu Ái trở
ra thì phong cho Tự Quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm chế cả hai bên,
sau xử trí.
Vua Quang Trung bảo Ngô Thời Nhậm:
- Mưu đồ của Vua Càn Long, ta đã biết trước rồi. Nay bị thua
chắc không nhịn nhục. Hai nước đánh nhau chỉ làm khổ dân. Nếu dùng lời nói khéo
để tránh việc Binh Đao việc ấy nhờ khanh chủ trương cho mới được.
Ngô Thời Nhậm vâng mệnh thảo thư, đại khái nói rằng: Nước Nam
vốn không dám chống cự với đại quốc. Chỉ vì Tôn Sĩ Nghị làm lỡ việc nên phải
thua. Vậy nay xin tạ tội và xin giảng hòa.
Vua Quang Trung sai sứ mang thư sang Tàu, và truyền đem những
quân nhà Thanh đã bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương thực, đợi ngày cho về
nước.
Xong xuôi mọi việc, tháng 2 năm Kỷ Dậu, nhà vua đem quân về
Phú Xuân, lưu Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở lại Thăng Long thống lĩnh việc quân
quốc. Còn việc giao thiệp với Trung Hoa thì ủy thác cho Ngô Thời Nhậm và Phan
Huy Ích. Cho tất cả tùy nghi xử sự, hễ không có việc quan trọng thì không phải
tâu.
Vua nhà Thanh hay tin Tôn Sĩ Nghị bại binh, đùng đùng nổi giận,
lập tức giáng chỉ sai quan nội các là Phúc Khang An ra thay Tôn Sĩ Nghị là Tổng
Đốc Lưỡng Quảng, đem binh mã 9 tỉnh sang chinh phạt Việt Nam.
Nhưng nhờ Ngô Thời Nhậm có chính sách xã giao khôn khéo đối với
Phúc Khang An ở bên ngoài và các cận thần là Hòa Thân ở bên trong, và lời trần
tấu mềm dẻo dịu dàng đối với Vua Mãn Thanh, cho nên Vua Mãn Thanh là Càn Long
thuận cho giảng hòa và sai sứ sang phong Vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương.
Vua Càn Long lại tặng cho Vua Quang Trung một chuỗi trân châu
và truyền sang năm Canh Tuất (1790) sang chầu.
Còn Lê Chiêu Thống và các quan tòng vong đều bị Vua nhà Thanh
truyền đem an trí mỗi người mỗi ngã.
Thế là Vua Quang Trung được chính thức công nhận là Vua nước
Việt Nam.
Vua Quang Trung làm biểu tạ ơn, trong có câu:
- Thần hữu mẫu hữu thân, báo đáp ngưỡng bằng ư đại tạo;
Quân vi sư vi phụ, sanh thành thượng kỷ ư long ân
Nghĩa là:
- Tôi có cha có mẹ, báo đáp ngửa nhờ đức cả;
Vua vừa nuôi vừa dạy, sanh thành mãi nhớ ơn sâu
Vua Càn Long khen:
- Lời nói có hậu, trẫm phải coi Huệ như con.
Xuân năm Canh Tuất (1790), Phúc Khang An giục Vua Quang Trung
sang chầu Vua Càn Long. Nhà vua bèn chọn người dung mạo phảng phất mình, trá
làm quốc vương. Phạm Văn Trị [1] được chọn. Tháp tùng giả vương có hoàng tử Nguyễn Quang
Thùy cùng các quan văn võ Ngô Văn Sở, Đặng Văn Châu, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn,
Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Tiến Lộc, Đỗ Văn Công. Cống phẩm, ngoài những bảo vật thường
lệ, còn có hai thớt voi đực ngà dài hơn sải và một ban nhạc công vũ nữ với mười
bài từ khúc chúc thọ do Phan Huy Ích soạn [2].
Sứ bộ khởi trình tại Nghệ An ngày 29 tháng 3 năm Canh Tuất
(12-5-1790) và qua khỏi ải Nam Quan ngày rằm tháng 4 (28-5-1970). Tổng đốc Lưỡng
Quảng Phúc Khang An và Tuần Phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh đưa Sứ bộ đến Yên
Kinh. Lúc ấy Càn Long đi tuần thú, sứ bộ phải đến hành cung sông Nhiệt Hà kệ kiến.
Vua Càn Long tưởng Nguyễn Huệ thiệt, cho vào làm lễ “bảo tất”[3]. Nhà vua vui nhận cống phẩm, và tặng cho Quang Trung bốn chữ
“Cùng cực quy thành” và câu đối tự tay Vua viết:
Chúc hạ hiệu tôn thân, vĩnh cửu đơn thầm tri phất thế;
Quán quan ưng sủng tích, tái kê thanh sử vị tiền văn
Cụ Bùi Văn Lang dịch:
Trước sau vẹn chữ tôn thân, lòng đó nghìn sau không dễ lạt;
Đi lại nhờ ơn sủng tử, sử xanh từ trước thật chưa nghe.
Nhà vua lại sắc phong Nguyễn Quang Thùy làm An Nam Quốc Vương
Thế tử, rồi truyền mở tiệc đãi sứ bộ.
Trong bữa tiệc nhà vua ngự chế ban cho Quang Trung một bài
thơ:
Doanh phiên nhập chúc trị thời tuần
Sơ kiến hồn như cựu thức thân
Y cổ vị văn lai tượng quốc
Thắng triều vãn sự bi kim nhân [4]
Cửu kinh như viễn kỳ trùng dịch
Gia hội ư kim miễn thế nhân
Võ Yến văn tu thuận thiên đạo
Đại Thanh vĩnh tệ vạn niên xuân.
Cụ Bùi Văn Lang dịch:
Dâng lời chúc tụng gặp thời tuần
Mới thấy mà in trước đã thân
Lễ cống khá khen lòng tượng quốc
Triều xưa nghĩ thẹn chuyện kim nhân
Phương xa từng gội ơn nhu viễn
Hội tốt càng khuyên nghĩa thế nhân
Dẹp võ dồi văn là thuận đạo
Nghiệp Thanh bền vững ức muôn xuân
Trong lúc sứ bộ đang ở Yên Kinh thì bọn giặc biển đánh phá miền
duyên hải Trung Quốc giáp giới nước ta. Tướng Trung Hoa là Trần Diệu Cầu nhờ
viên biên tướng Việt Nam là Phạm Quang Chương giúp sức, tiêu diệt được bọn giặc
biển. Vua Càn Long ban thưởng cho Quang Chương rất hậu và ngỏ lời tin tưởng
lòng thành thật của Vua Quang Trung.
Ngày 20 tháng 8 (28-9-1790) Vua Thanh hạ chỏ cho sứ bộ về nước.
Lúc bấy giờ là mùa thu, gió sương lạnh lẽo, Càn Long ban cho Quang Trung một tấm
áo cầu để mặc ấm và một đồng tiền vàng chạm chữ Phúc to lớn để làm của truyền
thế. Lại đòi lại gần long tháp, vỗ vai, ôn tồn ủy dụ, rồi cho người vẽ chân
dung Quang Trung làm kỷ niệm.
Sứ bộ được tướng Trung Hoa là Trần Dụng Phu hộ tống suốt dọc
đường. Và ngày 29 tháng 11 (3-1-1791) thì đến ải Nam Quan.
Qua năm Nhâm Tý (1792), Vua Quang Trung sai Võ Kỉnh Thành, Trần
Ngọc Thụy sang triều đình nhà Thanh hiến thiệp, xin mở cửa ải Bình Thủy ở Cao Bằng
và cửa ải Du Thôn ở Lạng Sơn để cho Bắc Nam qua lại buôn bán với nhau được miễn
thuế. Lại xin lập nha hàng [5] ở phủ Nam Ninh tỉnh Quảng Tây để người Nam qua đó sinh sống,
Vua Càn Long đều chấp thuận.
Lại trước kia 6 châu thuộc Hưng Hóa và 3 động thuộc Tuyên
Quang, bị bọn thổ ty nhà Thanh xâm chiếm đem sáp nhập vào lãnh thổ Lưỡng Quảng.
Vua Quang Trung viết biểu nhờ Phúc Khang An chuyển lên Thanh triều, thỉnh cầu
phân định lại cương giới. Khang An lấy cớ cương giới đã định mà bác khước. Nhà
vua có ý bất bình, nên lo dưỡng uy sức nhuệ để rồi đòi lại đất đai của tổ tiên.
Đối với Trung Hoa như thế là tạm yên.
Và Quang Trung còn phải đối phó với Xiêm La, Ao Lao và Miến
Điện.
Khi Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, Lê Duy Chỉ ở lại Tuyên
Quang, nương nhờ thổ tù Nùng Phúc Tân và Huỳnh Văn Đồng. Chỉ liên kết với thổ
dân ở Vạn Tượng, Trấn Ninh, Trịnh Cao, Quy Hợp, Xiêm La chuẩn bị đánh lấy thành
Nghệ An.
Vua Quang Trung hay tin, sai Trần Quang Diệu làm Đại Tổng Trấn,
Lê Trung làm Đại Tư Lệ, phát binh đi tảo trừ [6].
Tháng 6 năm Canh Tuất (1790), lấy được Trấn Ninh, Tù trưởng
là Cheo Nam, Cheo Kiêu bị bắt.
Tháng 8 bình được Trịnh Cao và Quy Hiệp.
Tháng 10, thủ lãnh Vạn Tượng bỏ thành chạy, quân Tây Sơn lấy
được vô số chiêng, trống và vài chục thớt voi. Thừa thắng đánh thẳng đến biên
giới Xiêm La, chém được Tả súy là Phan Dung và Hữu súy là Phan Siêu. Binh Xiêm
thua chạy tán loạn.
Trần Quang Diệu và Lê Trung dẹp yên biên giới, kéo binh về
Tuyên Quang đánh Nùng Phúc Tấn và Huỳnh Văn Đồng. Nùng, Huỳnh chống không nổi bị
giết, Lê Duy Chỉ chạy không kịp cũng bị giết luôn.
Mùa xuân năm Tân Hợi (1791) Vua Ai Lao là Chiêu An không chịu
triều cống, Vua Quang Trung lại sai Trần Quang Diệu đem quân sang vấn tội. Quân
Ai Lao sợ hãi xin hàng. Từ ấy hết lòng thuần phục.
Vua Miến Điện hay tin liền sai sứ sang Việt Nam thông hiếu.
Từ ấy bờ cõi phía Tây cũng như phía Bắc được yên ổn.
VUA QUANG TRUNG VÀ VẤN ĐỀ NỘI TRỊ
Phần đất thuộc Vua Thái Đức, Vua Quang Trung đã được minh định
ngay sau khi có sự bất hòa giữa hai anh em: từ Hải Vân Quan trở vô là của Vua
Thái Đức. Từ Hải Vân Quan trở ra là của Vua Quang Trung. Nước nhà tuy hai trên
thực tế nhưng vẫn là một trên danh nghĩa: hai miền Nam Bắc vẫn lấy niên hiệu
Thái Đức.
Khi Vua Quang Trung lên ngôi Hoàng Đế, nhất là sau khi chiến
thắng quân Thanh, Bắc Nam mới trở thành hai nước riêng biệt, không xâm lấn lãnh
thổ nhau cũng không can thiệp nội bộ nhau.
Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1789), giao phó việc cai trị Bắc Hà cho
Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhậm, Vua Quang Trung trở về Phú Xuân, lo sửa sang việc nước.
1. HÀNH CHÍNH
Chọn kinh đô.
Vua Quang Trung đã có ý đóng đô tại Nghệ An từ lúc còn làm Bắc
Bình Vương. Nhà vua đã nhờ La Sơn Phu Tử chọn đất để lập đô. Ban đầu nhà vua định
chọn Phù Thạch trên sông Lam, gần núi Nghĩa Liệt, sau đổi ra Yên Trường (Vinh),
cuối cùng chọn Dũng Quyết tức vùng núi Phượng Hoàng.
Địa thế hùng hiểm.
Phía Nam có sông Cồn Mộc và Sông Lam, phía đông bắc có núi
Phượng Hoàng.
Đều là hào và thành thiên nhiên che chở cho kinh thành.
Thành không rộng mấy. Bắc Nam chỉ dài chừng 300 mét. Đông Tây
dài chừng 450 mét. Đó là nội thành. Ngoại thành chưa xây.
Thành Nghệ An gọi là Phượng Hoàng Trung Đô.
Cải thành Thăng Long là Bắc Thành.
Vì Phượng Hoàng thành chưa xây xong, nên Vua Quang Trung về
ngự tại núi Phú Xuân suốt thời gian trị vì.
Tổ chức chánh quyền trung ương.
Vua Quang Trung có ba bà vợ chính thức:
- Bà họ Phạm [7] ở thôn
Phú Phong, huyện Tuy Viễn (Bình Khê), phủ Quy Nhơn, mất sớm, sanh hạ được hai
trai là Nguyễn Quang Thùy và Nguyễn Quang Bàn.
Bà họ Phạm mất rồi, nhà vua kết duyên cùng bà họ Bùi ở thôn
Xuân Hòa (Bình Khê). Bà họ Bùi là mẹ của Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thiệu,
Nguyễn Quang Khanh và hai người con gái.
- Ngọc Hân công chúa mới có một con.
Quang Thùy và Quang Bàn lúc bấy giờ đã 17, 18 tuổi.
Quang Toản mới 9, 10 tuổi.
Con Ngọc Hân mới 2 tuổi.
Vua Quang Trung phong bà họ Bùi làm Chánh Cung Hoàng Hậu, bà
Ngọc Hân làm Bắc Cung Hoàng Hậu và lập Nguyễn Quang Toản làm Thái tử.
Bà họ Phạm được truy phong là Nhân Cung Đoan Tĩnh Trinh Thục
Như Thuần Vũ Hoàng Chánh Hậu, phong cho Quang Thùy làm Khanh Công Lĩnh Bắc
Thành, Tiết Chế Thủ Bộ Chư Quân, phong cho Nguyễn Quang Bàn làm Tuyên Công Lĩnh
Thanh Hóa Đốc Trấn, Tổng Lý Quân Dân Sự Vụ.
Nguyễn Quang Thùy đã được Vua Càn Long phong là An Nam Quốc
Vương Thế Tử. Vua Quang Trung sai sứ đem biểu sang tâu rằng Thùy là con dòng thứ.
Càn Long nghe theo, phong Toản làm An Nam Quốc Vương Thế Tử thay Thùy. Có người
bất bình, ngỏ ý cùng Nguyễn Quang Thùy, Thùy nói:
- Em tôi hay tôi làm Thái tử cũng thế thôi. Điều cốt yếu là
làm thế nào cho nước Đại Nam được mỗi ngày mỗi thêm giàu mạnh, nhà Tây Sơn mỗi
ngày mỗi thêm vững bền, là tốt.
Hàng trí thức đương thời khen là “đại nhân”.
Quan chế vẫn tương tợ như cũ. Đại khái trên thì có Tam công
là Thái Sư, Thái phó, Thái bảo; Tam cô là Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Đại
chủng tể, Đại tư đồ, Đại tư mã, Đại tư không; Đại đô đốc, Đại đô hộ. Lại có
Trung thư sảnh, Trung thư lệnh, Lục bộ Thượng thư... Thị lang, Tư vụ...
Tổ chức hành chính địa phương.
Đời nhà Lê nước chia làm 13 trấn: Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc,
Hải Dương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn, An Bang, Thanh Hóa,
Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam.
Đời Quang Trung, trấn Quảng Nam thuộc về Vua Thái Đức, Vua
Quang Trung chia Sơn Nam ra làm hai thành Sơn Nam Hạ và Sưn Nam Thượng.
Trấn chia làm nhiều phủ; Phủ chia làm nhiều huyện; Huyện chia
làm nhiều tổng; Tổng chia làm nhiều xã; Xã chia làm nhiều thôn.
Trấn thì có Trấn Thủ (võ) và Hiệp Trấn (Văn) điều khiển. Phủ,
Huyện thì có Tri phủ, Tri huyện cùng chức Phân tri coi việc kiện cáo, chức Phân
xuất coi việc binh lương. Tổng thì có Chánh tổng, Phó tổng. Xã thôn thì có Xã
trưởng, Thôn trưởng.
2.QUÂN SỰ
Tổ chức quân đội.
Theo các triều đại trước, quân đội gồm có 5 quân. Trung, Tiền,
Tả, Hữu, Hậu. Vua Quang Trung tổ chức thêm những đội quân đặc biệt, gọi Tả Bật,
Hữu Bật, Ngũ Chế, Càn Thanh, Thiên Cán, Thiên Trường, Hổ Đôn, Hổ Hầu, Thị Lân,
Thị Loan.
Mỗi quân gồm 5 bậc là Sư, Lữ, Tốt, Lượng, Ngũ như xưa.
Ở các phủ, huyện, quân đội lại chia ra từng đạo cơ và đội.
Đạo thống cơ, cơ thống đội.
Tất cả đều ở dưới quyền viên võ Phân xuất.
Triều Vua Thái Đức thì lính mộ chớ không bắt.
Vua Quang Trung dùng chính sách cưỡng bách.
Để tiện việc kiểm soát trong khi bắt lính, nhà vua đặt ra tín
bài.
Tín bài là một chiếc thẻ, một phía thì ghi tánh danh, quản chỉ
và dấu lăn tay hay chữ ký của “chủ nhân chiếc thẻ”, một phía có đóng dấu ấn có
bốn chữ “Quốc gia đại tín”. Người nào không có tín bài thì bị bắt sung vào
phòng dịch.
Nhà vua còn đặt ra hộ tịch, chia dân ra làm bốn hạng: từ 9 đến
17 tuổi gọi là Vị Cập cách hạng; từ 18 đến 55 tuổi gọi là Tráng hạng; từ 56 đến
60 tuổi gọi là Lão hạng; từ 61 tuổi trở lên gọi là Lão nhiêu. Bốn hạng người đó
phải ghi tên vào hộ tịch. Những người từ 18 đến 55 tuổi phải đi lính. Nhưng
không phải tất cả những người trong tuổi ấy đều phải đi lính. Những gia đình độc
đinh thì được miễn. Trong gia đình đông con thì phải cử ba tráng đinh, phải đi
nhập ngũ một người. Những khi cần thiết lắm mới phải nhập ngũ hai người. Nhờ có
ghi rõ tên tuổi trong hộ tịch nên tránh bớt sự bất công.
3.KINH TẾ TÀI CHÍNH
Đúc tiền.
Từ trước nhân dân Thuận Hóa cũng như Bắc Hà dùng tiền nhà Lê.
Sau khi lên ngôi Hoàng Đế, Vua Quang Trung cho đúc tiền mang danh hiệu Quang
Trung thay thế cho tiền Cảnh Hưng, Chiêu Thống.
Dinh điền.
Nèn kinh tế vẫn đặt trên cơ sở nông nghiệp.
Sau những cuộc chiến tranh kéo dài giữa Trịnh - Nguyễn, Tây
Sơn - Trịnh, giữa Hoa - Việt, số dân giảm xuống rất nhiều. Do đó có một số ruộng
đất bỏ hoang. Nhà vua đưa những người nghèo khổ ở những nơi đông đúc tới đó để
cày cấy làm ăn. Chính quyền địa phương phải giúp đỡ mọi phương tiện.
Để có thể nắm vững tình hình, nhà vua buộc các Tổng lý phải
làm sổ điền kê khai đầy đủ những ruộng đất canh tác và ruộng đất bỏ hoang. Những
ruộng đất bỏ hoang trong thời gian một năm mà không được khai thác trở lại thì
các nhà chức trách địa phương phải bị tội.
Nhờ vậy mà tránh được sự chênh lệch về mặt kinh tế cũng như về
mặt mật độ dân cư từng địa phương.
Thuế khóa.
Dưới thời Trịnh Nguyễn, nhân dân phải nộp thứ thuế gọi là “Tiền
điệu” tức là tiền nạp thuế cho việc sưu dịch. Vua Quang Trung bãi bỏ thứ thuế ấy.
Những lúc trong nước hay địa phương cần dùng nhân công thì mọi người đều phải
góp phần, giàu cũng như nghèo, trừ những bậc lão nhiêu, lão hạng, không ai được
miễn. Những người nào không tự mình thi hành nhiệm vụ được thì bỏ tiền ra thuê
người thay thế chớ không được đem nạp cho các nhà chức trách.
Thuế ruộng đất công tư đều phải xét lại rồi mới phân hạng
theo mức sản xuất hàng năm, và chia làm ba hạng. Thuế nạp bằng lúa. Cũng có thể
nạp bằng tiền tính theo thời giá. Ngoài số lúa là “Thập vật tiền” là tiền công
trả cho người đứng thâu thuế, và “Khoán khố tiền” tức là tiền “tồn kho”. Mức
thuế đã quy định rõ ràng. Thu lên bị tội “tham nhũng”.
4.VĂN HÓA
Việc học.
Việc học được tổ chức khắp mọi nơi, từ xã đến phủ huyện. Ban
Giảng dụ ở xã giao cho những người học hạnh kiêm toàn ở địa phương hoặc mời ở
các địa phương khác. Xã hội do chính quyền địa phương tổ chức. Tư nhân vẫn có
quyền rước thầy về dạy con em trong nhà trong làng, vô điều kiện. Học sinh ở
các trường tư vẫn được coi như học sinh trường công. Các trường phủ trường huyện
thì có Đốc học, Huấn đạo điều khiển. Những vị thầy trung ương bổ nhiệm và lựa
trong làng khoa bảng triều Lê, lương hướng và phẩm trật ngang với tri phủ, tri
huyện.
Hằng năm vào mùa thu, mở khoa thi Tấn Sĩ, chọn những phẩn tử
ưu tú thăng vào Quốc học, hạng thứ vào Phủ học.
Học và thi đều dùng hai thứ là chữ Hán và chữ Nôm.
Chữ Nôm.
Chữ Hán là chữ Trung Hoa, nước ta dùng làm Quốc tự đã trên dưới
2.000 năm, tục gọi “Chữ Ta”.
Chữ Nôm do chữ Hán biến chế ra (chữ của nước nhà).
Chữ Nôm có từ khi nào chưa được rõ. Đời nhà Trần khoảng
1279-1293, các sĩ phu trong nước dùng chữ Nôm làm thơ Đường luật, gọi là thơ
Hàn luật. Chữ Nôm từ đó được thịnh hành. Nhưng chỉ trong dân gian dùng mà thôi.
Các giấy tờ nơi cửa công đều dùng chữ Hán. Mãi đến đời nhà Hồ (1400-1407) mới
được các cơ quan chính quyền dùng vào việc từ hàn. Nhà Hồ mất, chữ Nôm cũng mất
địa vị theo. Vua Quang Trung phục hồi chân giá trị.
Có nhiều người có học không hiểu ý nghĩa sâu xa trong việc
dùng chữ Nôm thay chữ Hán, đã buông nhiều lời bất tồn như “Nôm na là cha
mánh khóe”, “Nôm na là cha bá láp”. Lại có chuyện rằng:
Trong một khoa thi Tấn Sĩ, đề thi ra “Con cóc”, một thí sinh
có bài:
Da thời ghẻ chốc mọc tàm ngoam
Vóc lại u nu giống trái chàm
Nòng nọc đứt đuôi ra khỏi nước
Gặp nhằm tổ mối miệng chàm bàm.
Ban giám khảo đánh hỏng. Duyệt lại các quyển hỏng, thấy bài
này, Vua Quang Trung khen là ý mới lời ta, lấy đậu ưu hạng và cho vào Quốc học.
Lại quở ban giám khảo “hữu nhãn vô châu”, cấm không được đi chấm thi nữa.
Chưa có thể hoàn toàn dùng chữ Nôm thay chữ Hán cho nên trong
việc học hành, việc thi cử và việc thư trác chốn công môn, chiếu biểu nơi triều
đình, đều dùng cả hai thứ chữ, không có ý trọng khinh.
Nhà vua lập Sùng Chính viện, thỉnh La Sơn Phu Tử làm Viện trưởng.
Công việc chính của Viện là dịch những tác phẩm có giá trị về
đạo đức và văn chương ra chữ Nôm để phổ biến trong toàn quốc.
Cộng tác cùng Phu Tử có nhiều nhà khoa bảng triều Lê như Nguyễn
Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi Dương Lịch... rất sành văn Nô.
Vào đầu năm Quang Trung thứ năm (1792, Viện đã dịch xong bộ Tứ
Thư và Tiểu Học. Nhà vua xuống chiếu sai dịch tiếp các bộ Kinh Thi, Kinh Thư,
Kinh Dịch... không rõ bộ này đã dịch xong chưa. Hiện chỉ tìm được bản Kinh Thi
Giải Ân khắc mộc, ban năm Quang Trung thứ 5 [8].
Nhờ sự khuyến khích của Vua Quang Trung mà văn chương chữ Nôm
thời Tây Sơn được thịnh vượng. Nhiều tác phẩm có giá trị ra đời như Hoa Tiên
truyện, Mai Đình Mộng ký, Chinh Phụ Ngâm diễn Nôm, Thơ Hồ Xuân Hương, Thơ Xuân
Kiều v.v... được truyền thế.
5.TÔN GIÁO
Vua Quang Trung muốn lấy đạo Nho làm quốc giáo, nên khuyến
khích việc phát triển Nho học.
Đối với đạo Phật nhà vua vẫn ngưỡng mộ, song rất ghét những
người lợi dụng chùa để “trốn xâu lậu thuế”, để “không làm mà có ăn”. Nhận thấy
làng nào cũng có chùa, mà phần nhiều thầy chùa ít học, không mấy người hiểu thấu
đạo lý cao sâu của đức Thích Ca, chỉ mượn tiếng tu hành để ký sinh vào xã hội,
nên nhà vua xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng. Mỗi huyện hoặc mỗi phủ
được cấp gỗ gạch để xây một ngôi chùa đồ sộ khang trang, rồi chọn những tăng ni
có học thức, đạo đức đến trụ trì. Còn những nhà sư đội lốt tu hành, tục gọi là
những “Huề mầm” đều bắt phải hoàn tục, lo bổn phận người dân [9].
Các đạo khác như Lão giáo, Ma Ní giáo... được tự do truyền
bá.
Thiên Chúa giáo cũng không bị ngăn cấm [10].
Nói tóm lại dưới triều Tây Sơn, nhân dân được tự do tín ngưỡng.
6.CHỌN NHÂN TÀI
Vua Thái Đức dùng phương Chiêu hiền để có người anh tài ra
giúp nước. Những kẻ sĩ tự mình đến tham kiến hoặc người có uy danh đề cử, nếu
xét quả có tài đức, đều được trọng dụng.
Vua Quang Trung theo các đời trước cho mở các khoa thi Võ và
Văn ở tại kinh đô Phú Xuân, tương tự như những khoa thi Hội đời Lê.
Tất cả mọi người đều được ứng thí.
Ba năm mở một khoa. Khoa đầu tiên mở vào năm Quang Trung thứ
nhì (1789).
Khoa thi văn, gọi là khoa Minh Kinh, có nhiều người ở miền
Trong ra ứng thí. Trúng tuyển vào hạng ưu có:
- Phan Văn Biên ở Phú Yên đã giỏi về Kinh Sử, thông cả bách
gia chư tử lại còn thạo âm nhạc, rành toán pháp. Đậu xong được bổ ngay làm Huấn
Đạo.
- Đinh Sĩ An người Bình Khê. Thơ văn thanh khoáng, Cùng Ngô
Diên Hiệu, Phan Đình Văn, Huỳnh Chiếu nổi danh về văn học. Đời đời xưng tụng là
“Tây Sơn tứ tài tử”. Đậu xong được bổ làm việc ở Nội Các với hàm Hàn Lâm.
- Phạm Văn Tung, người Phù Mỹ, có tiếng hay chữ từ lúc nhỏ, lại
có tài cưỡi ngựa bắn cung. Sơ bổ làm tự vụ ở Các, sau làm Hiệp trấn Phú
Yên.
- Trần Trọng Vỹ, người Hoài Ân, thơ hay. Theo nhà Tây Sơn làm
một chức quan nhỏ. Sau khi đỗ khoa Minh Kinh liền được bổ làm Thị lang bộ Lễ.
- Đặng Sĩ Nguyên, người Quảng Nghĩa, tánh phương nghiêm chính
trực, sơ bổ làm Biên tu.
- Đặng Mộng Kỳ người Quảng Nam, tài kiêm văn võ. Tuy đậu khoa
văn, nhưng lại thường lập được nhiều võ công, làm cho quân Nguyễn Phúc Ánh sợ gọi
là “Đặng Gia Gia”.
- Lý Xuân Tá người Quảng Nam, tánh nghiêm trực rất ghét dị
đoan. Lúc làm quan thường cứu được nhiều người bị kết án oan uổng và thường phá
hủy những đền miếu thờ những dâm thần ác quỷ. Làm quan đến chức An Phủ ở Phú
Yên.
Đó là những người ở trên phần đất của Vua Thái Đức, nhưng vẫn
thi đỗ làm quan cùng Vua Quang Trung mà không bị kỳ thị.
Còn người ở Thuận Hóa và Bắc Hà thi đậu cũng nhiều. Nổi tiếng
nhất là Đặng Cao Phong. Đặng thi đậu liền được bổ vào Nội Các với chức Hàn Lâm
Học sĩ, rồi thăng Trung Thư Thị lang. Những chuyện cơ mật trong triều ngoài quận
đều được tham dự. Vua Quang Trung rất ái tín.
Khoa thi võ người miền trong ra thi cũng nhiều. Có hai người
xuất sắc:
- Phạm Cần Chính, người Phù Cát, học chữ Hán rất giỏi, nhưng
ghét thói văn chương phù phiếm, chỉ chuyên nghiên cứu binh pháp. Lúc nhỏ nhà
nghèo, không tiền mua dầu thắp, nhặt củi làm đèn, đọc sách, tập văn đến gà gáy
mới ngủ. Lớn lên học võ. Sức mạnh như Hạng Vương có thể kéo cung sắt nặng 300
cân, cắp hai nách hai tảng đá nặng hàng tạ nhảy qua rào cao quá với. Thiện dụng
cây thiết sóc [11].
Người đời gọi là Phạm Thiết sóc. Được Vua Quang Trung cho đổi sang họ Nguyễn.
- Lê Sĩ Hoàng, người Quảng Nam. Võ nghệ siêu quần. Lúc nhỏ
nghèo chăn trâu cho một phú nông trong ấp. Trâu bị cọp bắt, Hoàng sợ tội chạy
vào núi trốn, gặp được dị nhân truyền võ nghệ. Lê có tài sử dụng đại đao.
Trong lúc thi, Vua Quang Trung sai Trần Quang Diệu ra tỉ thí.
Tài sức ngang nhau. Nhà vua cao hứng đòi đấu thử. Lê Sĩ Hoàng cung kính tạ từ.
- Với Trần Tướng Quân, hạ thần còn không địch nổi huống chi với
Bệ Hạ.
Vua Quang Trung đắc ý, vỗ vai nói:
- Đây là Hứa Chữ của ta.
Rồi cởi chiếc cẩm bào đương mặc ban cho Lê Sĩ Hoàng.
Sĩ Hoàng cùng Quang Diệu được đời tôn xưng là Tây Sơn Song
đao.
Hai người đều được triều đình trọng dụng và lập được nhiều
chiến công, cùng với các võ sĩ phò tá Tây Sơn từ trước, được liệt vào hàng
lương tướng.
7. DẸP PHIẾN LOẠN
Dư đảng của Vua Lê, ngoài Lê Duy Chỉ dựa vào lực lượng các thổ
dân ở các miền núi ngoài biên giới để chống lại nhà Tây Sơn [12] và
đã bị Trần Quang Diệu dẹp yên, còn các cuộc bạo loạn rải rác ở miền Bắc.
Thứ nhất là cuộc bạo loạn của Trần Quang Châu người huyện Gia
Bình thuộc Bắc Ninh, đã từng giúp Lê Chiêu Thống trốn tránh. Lúc Tôn Sĩ Nghị
kéo quân xâm lấn nước ta Châu theo hộ giá Chiêu Thống và được phong làm Tiên
Phong Đại Tướng. Quân Thanh thua, Vua Lê bỏ chạy. Châu chạy về huyện nhà, mộ
binh đánh phá các vùng lân cận. Võ Văn Dũng được cử đi đánh dẹp. Nhờ địa thế hiểm
trở binh của Châu cầm cự với quân Dũng từ thu Tân Hợi (1791) đến xuân Nhâm Tý
(1792).
Châu bị bắt, dụ hàng không được nên Dũng đem giết đi.
Thứ hai phải kể đến cuộc dấy loạn của Dương Đình Tuấn người
huyện Yên Thế (Bắc Giang), phò Lê Chiêu Thống trong lúc ẩn náu để chờ đợi viện
binh. Khi Chiêu Thống chạy theo Tôn Sĩ Nghị, Tuấn ở lại tiếp tục hoạt động chống
Tây Sơn, Đặng Văn Long phụng mệnh đi tảo trừ. Tuấn đánh không lại, trốn vào rừng
rồi biệt tích.
Ngoài ra còn có Phạm Đình Đạt người Vũ Giang (Bắc Ninh), cùng
các em là Tạo sĩ Phạm Đình Phan, Tiến sĩ Phạm Đình Dữ và các con là Phạm Đình
Hân, Phạm Đình Cù, Phạm Đình Ninh, Phạm Đình Duật quật khởi ở núi Huyền Đinh tục
gọi là núi treo đanh. Thường hoạt động mạnh ở vùng Lạng Giang. Quân Tây Sơn do
Đặng Văn Long chỉ huy phải đánh dẹp mãi mới tiêu diệt được.
Những đám phiến loạn dẹp yên, trong nước dồn công sức vào
công việc kiến thiết xã hội.
Chú thích:
SƠ ĐỒ
[1] Phạm Văn Trị là anh bà họ Phạm mẹ Nguyễn Quang Thùy.
[2] Mười bài từ đó là: Mãn đình phương, Pháp giá dẫn, Thiên
thu tuế, Lâm giáng tiên, Thu ba tế, Bốc dưỡng tử, Yết kim môn, Hạ thánh triều,
Lạc xuân phong, Phượng hoàng các.
[3] Bảo tất là ôm gối: con ôm gối cha để đón niềm vui vẻ (tất
hạ thừa hoan). Đó là Vua Càn Long muốn cụ thể hóa lời nói của Vua Quang Trung
trong bài chiếu tạ ơn, và lời của chính mình khi xem xong tờ chiếu.
[4] Câu này chép theo cụ Bùi Văn Lang. Có người đọc là: Tiền
triều kham tiếu đại kim nhân. Lại có người đọc: Thắng triều vãng sự đại kim
nhân.
Chuyện “Người vàng”: Trong trận Chi Lăng, Lê Lợi
bắt giết tướng Minh là Liễu Thăng. Sau Vua Minh buộc Vua Lê phải cống người
vàng để thường mạng. Các triều Lê, Mạc đều nộp hàng năm. Đến đời Lê Trung Hưng,
triều Lê Dụ Tông Nguyễn Hãn dùng tài ngoại giao xin bãi bỏ. Đến đời Quang
Trung, Tổng Đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An viết thư nhắc lại lệ ấy. Vua Quang
Trung phản đối. Vì nể kẻ chiến thắng Vua Thanh làm ngơ.
[5] Nha hàng: Cơ quan giới thiệu về việc mua bán.
[6] Lê Trung, người Phù Mỹ phủ Quy Nhơn, văn võ gồm tài. Đi
lính ở Phù Ly, theo Vua Quang Trung ra Thuận Hóa, lập nhiều chiến công làm lên
đến chức Đô Đốc. Tính trung nghĩa thường ngâm câu thơ của Văn Thiên Tường:
Nhân sanh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
[7] Theo cụ Bùi Văn Lang thì bà họ Phạm là người Duy Xuyên (Quảng Nam),
cùng mẹ khác cha với Bùi Văn Nhật, Bùi Đắc Tuyên; năm 30 tuổi được phong làm
Hoàng Hậu và sanh hạ được ba trai hai gái, Quang Toản là trưởng nam. Cụ Bùi đã
lầm, vì bà họ Phạm và bà họ Bùi còn miêu duệ ở Phú Phong, Xuân Hòa.
[8] Theo sách La Sơn Phu Tử của Hoàng Xuân Hãn.
[9] Có nhiều nhà sư hiện đại cho việc làm vua Quang Trung là “chống lại
Phật giáo” và gọi Tây Sơn là “Ngụy triều”.
[10] Trong lá thư đề ngày 18-7-1793 của Linh mục Le Roy gởi cho Plandin,
có câu ‘Từ khi nhà Tây Sơn lên làm chủ. Tôn giáo được tiến bộ”, đăng trong
Nouvelles des missions etrangères cuea M. de la Bissachère năm 1902.
[11] Một loại giáo
[12] Xem mục “Vua Quang Trung đối ngoại”.
11.
VUA QUANG TRUNG BĂNG HÀ
NGUYỄN QUANG TOẢN KẾ VỊ
Công việc xây dựng quốc gia đang tiến hành trôi chảy,
thình lình Vua Quang Trung băng hà.
Vua băng ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý [1] (15-9-1792).
Nguyên nhân gây ra cái chết của Vua Quang Trung đã trở thành
một nghi án lịch sử.
Đại Nam Chính Biên Liệt truyện ghi rằng:
“Huệ trong lúc lấy kinh đô Phú Xuân có mạo phạm lăng tẩm của
Liệt Thánh.
Một ngày kia, đương ngồi, thình lình bắt đầu xây xẩm rồi ngã
ra hôn mê. Mơ màng thấy một lão trượng đầu bạc áo trắng, cầm gậy sắt, từ không
trung đi đến, mắng rằng: “Ông cha mày đều sanh ở đất Vua, mày sao dám mạo phạm
đến lăng tẩm?”. Nói dứt lời liền lấy gậy sắt đánh nơi trán Huệ. Huệ ngã xuống bất
tỉnh, hồi lâu mới tỉnh lại. Từ ấy bịnh càng ngày càng nặng, mới triệu viên Trấn
thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về thương nghị việc dời đô ra Nghệ An”.
Đó là lời của sử gia Nguyễn Gia Miêu [2] bịa ra để bôi nhọ Vua Quang Trung. Bịa không được khéo, bởi
ai kể lại câu chuyện hoang đường ấy cho viết sử chép? Chẳng lẽ Vua Quang Trung
kể lại giấc mộng không mấy đẹp của mình?
Có người bảo nhà vua bị “thượng mã phong”. Đó chỉ là chuyện
hài hước.
Lại có người độc miệng bảo rằng nhà vua bị Ngọc Hân Công Chúa
ám hại bằng cách bỏ thuốc độc vào rượu [3]. Rõ là vu cáo giữa trời!
Thiết tưởng Vua Quang Trung chết vì bệnh huyết áp cao, làm việc
nhiều, suy nghĩ nhiều, bị đứt mạch máu. Cái chết đột ngột do bệnh huyết áp cao
gây nên thường xảy ra và dân gian thường gọi là “trúng gió”. Chớ nếu quả có điều
ám muội thì dễ gì triều đình Tây Sơn đã để yên.
Truyền rằng:
Mùa xuân năm Nhâm Tý (1792), Vua Quang Trung hay tin Nguyễn
Phúc Ánh đã chiếm được Gia Định và kéo quân ra đánh Quy Nhơn, bèn nổi giận:
- Giống cỏ gấu không diệt tận gốc, cứ nảy ra hoài!
Liền chuẩn bị kéo đại binh vào đánh. Lục quân từ trên đánh xuống,
Thủy quân từ dưới đánh lên. Bao vây mặt biển, cắt đứt đường núi, không cho quân
Nguyễn chạy thoát.
Mọi việc đã sắp đặt chu đáo thì thình lình nhà vua bị cảm. Bệnh
mỗi ngày một nặng. Bèn triệu Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu thương nghị về
việc dời đô ra Nghệ An và việc đi đánh Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng rồi biết mình
không còn sống lâu được nữa, liền trối:
- Ta mở mang bờ cõi gồm cả miền Nam. Nay bênh tình của ta
không thể khá được, mà Thái Tử thì còn nhỏ. Phía trong thì bọn quốc cừu hoành
hành ở Gia Định. Còn anh ta thì tuổi già, cầu an, không lo hậu hoạn. Ta chết rồi,
trong vòng một tháng phải lo việc tống táng cho xong. Các khanh phải đồng lòng
phò Thái tử và sớm lo việc thiên đô để khấu chế thiên hạ. Nếu không vậy, binh
Gia Định kéo đến, các khanh không có đất chôn thây.
Nói rồi băng tại điện Trung Hòa, ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý.
Thọ 40 tuổi.
Ở ngôi 5 năm.
Thái Tử Nguyễn Quang Toản nối ngôi.
Qua tháng 8, triều đình mai táng Vua Quang Trung tại phía Nam
Sông Hương.
Thụy là Thái Tổ Vũ Hoàng Đế, một mặt vào Quy Nhơn, một mặt
sang Trung Quốc cáo tang.
Vua Thái Đức được tin, kêu lên một tiếng “Em ơi” rồi khóc ngất!
Đoạn lo sắm sửa đi điếu tang. Nhưng đình thần can gián. Nhà vua bèn sai La Xuân
Kiều soạn một bài văn tế, rồi cử Võ Xuân Hoài và Đặng Xuân Phong thay mình mang
tế vật ra Phú Xuân.
Bài văn tế viết bằng chữ Nôm, có những câu:
Công điếu phạt, Nam rồi lại Bắc, tiếng anh hùng vang dội sấm
mười phương
Tình tích linh, ruột nối liền gan, đường u hiển rã rời tơ
chín khúc.
Trời Quy Nhơn ảm đạm màu thu
Đất Thuận Hóa não nùng tiếng quốc.
Phái đoàn sang Trung Hoa nói dối rằng:
- Vua Quang Trung có di chỉ sau khi chết chôn tại Hồ Tây ở
Thăng Long để đặng gần chầu Thiên Khuyết.
Vua Thanh tưởng thật, tứ thụy là “Trung thần”, ngự chế một
bài thi Ai Thuật:
Ngoại bang lẽ dĩ hiến bồi thần
Cẩn triển tùng vô ( ) kỷ thân [4]
Nạp khoản tối gia lại ngọc khuyết
Hoài nghi kham tiếu đại kim nhân
Thu trung thượng ức y quan túc
Tấc hạ hồ như phụ tử thần
Thất xích bất năng tận ai thuật
Lân kỳ trung khốn xuất trung chân.
Cụ Bùi Văn Lang dịch:
Sai khiến bồi thần lễ ngoại bang
Ít ai khứng chịu nhọc mình sang
Nào khi nạp khoản qua đầm ngọc
Không dạ hồ nghi thế tượng vàng
Dưới gối như in tình phụ tử
Giữa thu còn nhớ bộ y quang
Hồng la bảy thước không cùng chuyện
Ngay thật riêng thương tấc dạ chàng.
Càn Long lại còn soạn một bài điếu văn, cấp một tượng Phật bằng
ngọc, 3.000 lượng bạc, sai Hộ Bộ Quảng Tây là Thành Lâm sang Thăng Long phúng
điếu.
Sứ giả làm lễ trước mộ giả của Quang Trung tại linh đường huyện
Thanh Trì. Trong điếu văn có câu:
Chúc ly Nam cực, hiệu trung đặc trưởng kỳ xu triều;
An phách Tây Hồ, một thế vô vong ư luyến khuyết
Nghĩa là:
Cõi Nam phục thay quyền, tưởng lúc xu triều công đáng nể;
Chốn Tây Hồ an phách, tấm lòng luyến khuyết chết không phai.
Còn bài thi thì chạm đá dựng nơi mộ.
Nguyễn Quang Toản lên ngôi sau khi Vua Quang Trung băng, năm
Nhâm Tý. Qua năm Quý Sửu (1793) củi nguyên là Cảnh Thịnh nguyên niên.
Vua Cảnh Thịnh lúc bấy giờ mới 13 tuổi. mọi việc trong triều
đều do thái sư Bùi Đắc Tuyên quyết đoán.
Bùi Đắc Tuyên là người làng Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn (Bình
Khê), phủ Quy Nhơn, cậu ruột Vua Cảnh Thịnh. Dưới triều Vua Quang Trung, Tuyên
nhờ thế em gái làm hoàng hậu [5] mà được làm quan trong triều. Vì ít học nên chỉ làm Thị
Lang bộ Lễ, nhưng lại được phép vào ra nơi cung cấm. Tuyên thường bày nhiều trò
chơi để mua lòng Thái Tử. Vốn biết Võ Đình Tú có sức khỏe và có tài nhảy cao nhảy
xa [6]. Tuyên xúi Quang Toản yêu cầu Tú biểu diễn xem.
Võ Đình Tú là một vị khai quốc công thần, theo nhà Tây Sơn từ
lúc còn áo vải, chớ đâu phải là hàng tiểu tốt mà đi làm trò mua vui cho trẻ
con. Nhưng Thái Tử là đấng Vua tương lai của mình. Võ công đâu dám không tuân lệnh.
Công rước Thái Tử ra đứng giữa sân một tòa dinh thự hình chữ
môn, mặt hướng về dãy nhà phía tả. Công dậm chân nhảy vút qua khỏi nóc nhà phía
tả trong chớp mắt. Liền đó Thái Tử lại nghe có tiếng động sau lưng, quay lại
thì đã thấy Công đứng trước mặt. Công lại dậm chân nhảy vút qua khỏi nóc nhà
phía hữu, lanh như chớp. Liền đó Thái Tử lại nghe có tiếng động sau lưng khi
nãy, vội quay lại thì lại thấy Công đứng ở trước mặt. Diễn đi diễn lại, sáu bận
như thế mới thôi. Thái Tử rất lấy làm thích thú.
Một hôm Võ Đình Tú cùng Đặng Xuân Phong vào cung bệ kiến. Biết
rằng đó là hai nhà có tuyệt kỹ về côn, Bùi Đắc Tuyên bèn tìm cách mua vui cho
Thái Tử. Tuyên lấy tư cách người đồng châu mời Võ, Đặng đến nhà riêng dự tiệc.
Thái Tử cũng được rước đến. Tiệc đã vào buổi chiều. Tiệc xong, Thái tử đòi xem
hai vị đại thần đấu côn.
Đuốc thắp sáng rực cả sân. Đặng sử dụng côn đồng, Võ sử dụng
côn sắt. Đường côn qua lại nhanh như chớp, mạnh như bão, đẹp như “rồng bay phượng
múa”. Người đến xem chật cả trong cả ngoài. Tiếng hoan hô vỗ tay vang dậy cả một
góc thành!
Sau cuộc đấu côn này, dư luận xôn xao. Lớp thì khen hai vị võ
thần tài nghệ thật tuyệt luân. Lớp thì chê hai vị công thần không biết tự trọng.
Lời thị phi bay đến tai Vua Quang Trung. Nhà vua liền quở trách Thái Tử và Võ,
Đặng và cấm Bùi Đắc Tuyên không được bày những trò vui làm mất thể thống đại thần
như thế nữa.
Không bày được trò vui này, tìm những trò vui khác. Trong nơi
quyền quý thiếu gì trò vui. Lòng ham thích của Thái Tử Toản luôn luôn được
Tuyên làm thỏa mãn.
Vì vậy nên khi lên ngôi báu, Nguyễn Quang Toản liền nhớ đến
Tuyên, và Tuyên nhảy lên ngôi Thái Sư dễ dàng như Võ Đình Tú nhảy qua nóc nhà,
bất chấp cả quan chế đã đặt sẵn. Trong cung đã có Bùi Thái Hậu. Nơi triều lại
có lắm đại thần nghiêng theo chiều gió, như Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng... nên
thế lực của Tuyên rất vững. Tuyên mỗi ngày mỗi thêm lộng hành. Những quan nào
theo Tuyên thì được ưu đãi, những quan nào ra mặt chống thì bị hại, những người
nào có ý chống thì bị đẩy ra làm quan xa. Do đó mà nơi triều đình sinh ra bè
phái chống báng lẫn nhau, làm cho gốc nước bị lung lay.
Các đại thần trung chính đều bất mãn. Một số quan văn, kẻ thì
tìm kế xin về vườn, kẻ thì bị Tuyên tìm cớ giáng chức hay cách chức. Như:
- Võ Văn Cao, người Phú Yên, làm Quốc Tử Giám trực giảng, được
thăng Thái Tử Trung Doãn đời Quang Trung, tánh cương trực, không chịu nổi thái
độ và hành vi của Tuyên, nhân về cư tang cha mẹ, ở nhà cày ruộng. Có nhiều bài
thơ chê Tuyên là gian thần. Tuyên rất giận. Khi Võ công chết, Tuyên bảo là giả
chết bắt phá quan tài ra xem, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng phải can thiệp mới
được miễn.
Lại như Trần Long Vỹ, người Hoài Ân, làm Thị Lang Bộ Lễ, cùng
Tuyên là bạn đồng sự triều Quang Trung. Nhân lúc cao hứng làm một bài thơ Nôm
“Huề Mầm Thăng Huề Thượng”, ngụ ý châm biếm Bùi Đắc Tuyên, câu kết ngụ ý tự
trào:
Tương chao xưa vẫn cùng chua mặn
Mình mãi lui cui quét lá đa.
Tuyên biết được bèn tìm cớ cách chức.
- Đinh Sĩ An, người Bình Khê, thi đậu khoa Minh Kinh, được bổ
vào Nội Các với Hàn lâm viện Đãi Chiếu. Vì thường qua lại cùng Trần Long Vỹ nên
cũng bị Tuyên ghét đuổi về nhà.
Trần, Đinh về Quy Nhơn thành lập một thi xã mệnh danh là Lưỡng
Hoài, các danh sĩ ở ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn, hầu hết đều là xã
viên. Trong số xã viên có Ngô Diên Diệu, Phan Bình Vân, Huỳnh Chiếu cùng với
Đinh Sĩ An được đời xưng là “Tây Sơn tứ tài tử”.
Về võ thần thì được trọng dụng nhất là Ngô Văn Sở, Phạm Công
Hưng và Lê Văn Hưng.
Họ Ngô họ Phạm được ưu đãi vì nghiêng về phe Tuyên. Còn Lê
Văn Hưng được Tuyên cho làm người thân cận chỉ vì là người đồng châu, tánh lại
thật thà bảo sao làm vậy. Lê Văn Hưng là một quan võ giỏi đánh giặc chớ chữ
nghĩa ít. Song hiệu lệnh của ba quân đều do họ Lê ban bố, quyền thế rất mạnh [7].
Tuy “bảo sao làm vậy” nhưng tánh Hưng lại trung trực, nên khi
nhận thấy rõ Tuyên là một kẻ đại gian, thì phản ứng mạnh. Do đó bị Tuyên xúi
Vua Cảnh Thịnh giết chết.
Các Võ thần đã cùng nhau ra sức dựng nghiệp cho nhà Tây Sơn đều
đi trấn thủ ở các nơi hiểm yếu xa xôi. Ở trong triều một mình Bùi Đắc Tuyên tác
uy tác phúc.
Chú thích:
[1] Trong Đại Nam Chánh Biên Liệt truyện chép là ngày 29
tháng 9 Nhâm Tý. Nhiều sách cũ nói về nhà Tây Sơn cũng chép theo Liệt truyện.
Nhưng trong sách La Sơn Phu Tử, học giả Hoàng Xuân Hãn, đưa ra hai chứng nhân
người Âu Châu là Gúerard và Labousse đều nói rằng Vua Quang Trung chết vào
tháng September 1792. Tính theo Âm lịch thì September năm 1792 kéo dài từ 15
tháng 7 đến 15 tháng 8 năm Nhâm Tý. Còn ngày 29 tháng 9 năm Nhâm Tý thì nhằm
ngày 13 November 1792. Chúng tôi nhận thấy rằng lời hai chứng nhân Âu
Châu hợp lý hơn là nhà viết sử hậu sinh của nhà Nguyễn. Vậy Vua Quang Trung
băng vào tháng 7 năm Nhâm Tý.
[2] Sử gọi dòng Nguyễn Huệ là Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh
là Nguyễn Gia Miêu.
[3] Bài đăng trên Phổ Thông của Nguyễn Vỹ.
[4] Bản truyền thiếu một chữ.
[5] Tuyên là anh ruột bà hoàng hậu họ Bùi, là anh con bác ruột
của Bùi Thị Xuân.
[6] Tuyên ở Xuân Hòa, Tú ở Phú Phong, hai làng giáp giới nhau
(nay nhập thành một xã) cho nên hai bên quen biết nhau từ lúc nhỏ.
[7] Về Lê Văn Hưng có một giai thoại rằng: Lúc còn trẻ ở nhờ
nhà họ Dương, giao tình cùng với người tớ gái của chủ nhà tên là Ngọc Bích,
Hưng tặng cho Ngọc Bích một chiếc nhẫn vàng hẹn 5 năm sau sẽ đến cưới. Quá hẹn
không thấy Hưng đến, Ngọc Bích nhịn ăn mà chết.
Trong thời gian Hưng trấn thủ
Diên Khánh thường thương nhớ tình xưa. Có kẻ giỏi thuật thần tiên chiêu hồn Ngọc
Bích tới. Hồn nói cùng Hưng rằng 13 năm sau sẽ đến hầu khăn túi.
Khi Hưng được Bùi Đắc Tuyên trọng
dụng, một hôm trong buổi lễ mừng sinh nhật, một thương gia ở Phú Xuân đem đến mừng
Hưng một ca cơ hiệu Ngọc Bích. Hưng cho là một chuyện hy hữu, vì chẳng những
tên trùng mà dung nhan cũng phảng phất người cũ nhà họ Dương.
12.
NGUYỄN PHÚC ÁNH NỔI DẬY
ĐÁNH TÂY SƠN
Vua Thái Đức về già không có ý chí chiến đấu, những văn quan
võ tướng có tài số qua đời, số về vườn, số theo Vua Quang Trung, số còn lại tuổi
cũng đã cao, tài cũng đã tận. Lớp người mới không có người đủ tài kinh bang tế
thế. Vì vậy thế nước vừa nổi lên cao lần lần xuống thấp, để rồi tàn.
Đông Định Vương chỉ là một người có đức độ, không có tài trị
nước yên dân. Những nhân tài ở Quy Nhơn vào phò tá chết lần, về hưu gần hết...
Mà Gia Định lại đất rộng dân thưa, Vương không thể nào nắm vững được vây cánh.
Nhà Nguyễn nhân đó chiếm đóng nhiều nơi hiểm yếu và thỉnh thoảng kéo binh đánh
phá quân Tây Sơn. Trong xứ mất an ninh, lòng người ly tán.
Nguyễn Phúc Ánh ở Xiêm La dò biết được tình hình, tháng 7 năm
Đinh Mùi (1787) đem cung quyền xuống thuyền về nước.
Nguyễn Phúc Ánh được vây cánh cũ kéo quân ra giúp. Quân thế
khá vững. Tướng Tây Sơn là Phạm Văn Tham chống không lại, bỏ thành Sài Côn sang
đóng ở Ba Thắc. Đông Định Vương chạy về Quy Nhơn chịu tội cùng anh, rồi trở lên
Kiên Mỹ thăm cố hương. Từ ấy biệt tích.
Nguyễn Phúc Ánh chiếm được Sài Côn tháng 8 năm Mậu Thân
(1788).
Phạm Văn Tham cầm cự cùng quân Nguyễn Phúc Ánh cho đến mùa
xuân năm Kỷ Dậu (1789). Đã đuối sức mà không thấy binh Quy Nhơn vào cứu. Phạm
đem binh xuống thuyền, định ra bể về Quy Nhơn. Nhưng bị quân Nguyễn Phúc Ánh chận
lại, phải trở lui Ba Thắc. Lâu ngày hết cả lương thực, Phạm đầu hàng và bị giết.
Từ ấy Gia Định thuộc về Nguyễn Phúc Ánh.
Làm chủ đất Gia Định rồi, Nguyễn Phúc Ánh một mặt lo sửa sang
việc nước, một mặt nhờ Giám mục Bá Đa Lộc (Evêque d’Adran) đem Hoàng tử Cảnh
sang Pháp xin cầu viện để đánh Tây Sơn. Được quân Pháp do Giám mục Bá Đa Lộc và
Hoàng tử Cảnh rước về với hai chiếc tàu đồng do Chaigneau tục gọi là Nguyễn Văn
Thắng, chỉ huy, và tàu Phụng do Vannier, tục gọi là Nguyễn Văn Chấn, điều khiển
cùng một số tướng tá như Dayot (Dat-do), Olliver (Ô-ly-vi-ê), De Forcant (Đờ
Phot-xăng)... phò tá, quân lực của Nguyễn Phúc Ánh mỗi ngày mỗi thêm sung thiệm
hùng cường.
Sau một năm chuẩn bị, tháng tư năm Canh Tuất (1790) Nguyễn
Phúc Ánh sai Võ Tánh, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Câu... đem thủy lục quân ra đánh
Tây Sơn ở Bình Thuận. Binh Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn chống cự kịch liệt, không
tiến quân nổi, sau ba tháng giao tranh, phải rút về Gia Định.
Nguyễn Phúc Ánh nhận thấy mỗi năm bắt đầu từ tháng 3 có gió
mùa thổi từ Nam ra Bắc, nên quyết định lợi dụng chiều gió để tấn công Quy Nhơn.
Cho nên người đương thời gọi những trận Nguyễn Phúc Ánh kéo quân đánh Tây Sơn
là “giặc mùa”.
Năm Nhâm Tý (1792 gió Nam vửa bắt đầu thổi, Nguyễn Phúc Ánh
liền sai nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn thành cùng hai người Pháp là Nguyễn Văn
Phấn (Dayot), Nguyễn Văn Chấn (Vannier) đem chiến thuyền ra đánh Quy Nhơn.
Quân nhà Nguyễn kéo vào cửa biển Thị Nại.
Cửa biển Thị Nại tức là cửa biển Quy Nhơn. Phía đông có dãy
núi Phương Mai, phía tây có dãy núi Nhạn Châu tục gọi là Gành Ráng, làm cánh che.
Từ thời Chiêm Thành đến đời Tây Sơn, cửa Thị Nại luôn luôn có quân phòng ngự.
Vua Thái Đức lại cho xây pháo đài ở hai dãy núi, và đặt đại bác ở trên núi bắn
xuống mỗi khi bị giặc tấn công.
Nhưng lúc bấy giờ gió nam thổi mạnh, Binh Nguyễn dùng hỏa
quân đốt phá thủy trại Tây Sơn. Bị đánh thình lình lại có sức gió lửa quá mạnh,
binh Tây Sơn không chống nổi phải bỏ Thị Nại chạy về Quy Nhơn. Quân Nguyễn đổ bộ,
nhưng liền bị quân Tây Sơn từ Quy Nhơn kéo xuống đánh, phải rút lui.
Ở Phú Xuân, Vua Quang Trung (lúc bấy giờ còn sống) được tin
quân Nguyễn kéo đánh Quy Nhơn, nổi giận liền chuẩn bị đại binh vào tận diệt nhà
Nguyễn. Trần Quang Diệu đi đường Lào xuống đông Miên có tướng Miên O Nha Long
hưởng ứng, còn nhà vua thì đem thủy binh vào cửa Cần Giờ. Trên đánh xuống, dưới
đánh lên, mặt núi mặt biển đều bị bao vây. Nguyễn Phúc Ánh không còn lối thoát.
Một mặt Vua Quang Trung tin cho Vua Thái Đức biết dự định của mình để hai bên
cùng tiến vào bao vây tiêu diệt toàn bộ lực lượng Nguyễn Phúc Ánh, một mặt gởi
cho nhân dân Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn bài hịch kêu gọi mọi người hăng
hái tham gia cuộc tấn công sắp tới.
Bài hịch đại khái nói rằng:
“Quân Tây Sơn đã lập được không biết bao nhiêu chiến công
oanh liệt. Diệt quân Xiêm La, thắng quân Mãn Thanh. Bao phen đánh quân nhà Nguyễn
không còn mảnh giáp phải chạy ra cầu viện nước ngoài. Nay Nguyễn Phúc Ánh rước
quân Pháp về phá rối nước nhà, vâng mệnh đức Hoàng Huynh, ta chuẩn bị một đạo
thủy bộ hùng binh, sẽ thân hành kéo vào Nam diệt giặc. Giặc nhà Nguyễn chỉ là
“bè củi mục”. Quân Tây Sơn sẽ thu hồi đất Gia Định trong nháy mắt.
Lại khuyên nhân dân không nên sợ bọn người Tây Dương. Chúng
chỉ là những xác chết. Những chiếc tàu đồng, những khinh khí cầu của chúng
không có gì đáng sợ...”
Tin Vua Quang Trung sẽ tấn công vào Gia Định làm cho nhân dân
miền Nam phấn khởi, làm cho Vua tôi nhà Nguyễn và bọn Pháp vô cùng lo sợ. Nhưng
cuộc hành binh không thực hiện được, vì đương mùa gió nam, thuyền đi vào bất lợi,
nhất là tại khúc đường đi ngang qua bán đảo Triều Châu tại Quy Nhơn. Nơi đây tại
Eo Vược gió thổi mạnh gấp ba gấp bốn gió ngoài khơi, gọi là nam lò. Ghe thuyền
gặp lúc nam lò thổi thì khó tránh khỏi tai nạn. Cho nên khách hàng hải có câu:
Cha chết không lo
Hỏi thăm nam lò thổi dịu hay săng
Giáo sĩ Le Labouse gởi thư cho bạn, có đoạn rằng:
“Tháng 2 năm 1792, chúng tôi phải rời bỏ con chiên để tránh
quân địch Tây Sơn. Họ sẽ kéo đến vài chục ngàn người, do đường Lào tiến vào Cao
Miên. Người Cao Miên cũng dự tính theo họ nữa. Nguyễn Huệ sẽ đem hải quân ngăn
chặn các cửa biển Nam Kỳ. Nếu dự định này được thi hành thì nhà vua và chúng
tôi chỉ còn chờ chết. Nhưng nhờ ơn trên, dự định này không thấy thi hành. Chắc
quân Tây Sơn e ngại các chiến hạm của người Âu Châu đóng đầy sông Sài Gòn do việc
buôn bán...”.
Vua Quang Trung đợi sang thu, gió đông bắc thổi sẽ xuất chinh
nhưng rủi bị cảm rồi băng.
Vua Quang Trung băng, các nhà truyền giáo Kitô mừng. Nguyễn
Phúc Ánh càng mừng.
Tháng 3 năm Quý Sửu. Nguyễn Phúc Ánh để Hoàng tử Cảnh ở lại giữ
Gia Định với Giám mục Bá Đa Lộc, sai Tôn Thất Hội cùng Nguyễn Văn Thành và Nguyễn
Huỳnh Đức đem bộ binh ra đánh Bình Thuận, còn mình cùng Võ Tánh và Nguyễn Văn
Trương đem thủy binh đi đánh mặt bể.
Binh của Tôn Thất Hội đến Bình Thuận bị binh của Nguyễn Quang
Huy chận đánh, không tiến nổi.
Thủy binh của Nguyễn Phúc Ánh vào cửa bể Nha Trang, đi ngược
dòng sông Cù, kéo lên đánh Diên Khánh. Quân Tây Sơn chận đánh tại bến Trường Cá
làng Phương Sài. Hai bên kịch chiến. Thuyền chìm người chết đầy cả khúc sông.
Cuối cùng quân Tây Sơn không chịu nổi sức súng của Pháp phải tan rã. Nguyễn
Phúc Ánh kéo lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn bỏ thành về Quy Nhơn.
Thừa thắng Nguyễn Phúc Ánh đánh thẳng ra Phú Yên. Thành Phú
Yên cũng bị thất thủ sau mấy ngày chiến đấu anh dũng.
Diên Khánh bị thất thủ, quân Bình Thuận mất hậu thuẫn, Nguyễn
Quang Huy bị quân Tôn Thất Hội đánh thua, kéo quân chạy về Quy Nhơn chận quân
Nguyễn.
Tôn Thất Hội chiếm được Bình Thuận thì liền được thư của Nguyễn
Phúc Ánh bảo tiến binh ra hội với Thủy Sư ở Phú Yên để hai mặt cùng ra đánh Quy
Nhơn.
Thủy binh Nguyễn Phúc Ánh vào cửa Thị Nại. Vua Thái Đức sai
Thái tử Nguyễn Bảo đem binh chống cự. Nguyễn Phúc Ánh mật sai Võ Tánh đem binh
lẻn đi hội với toán quân Tôn Thất Hội. Nguyễn Văn Thành đánh tập hậu. Nguyễn Bảo
bị đánh hai mặt, không chống nổi phải rút quân về thành Quy Nhơn. Quân Nguyễn
Phúc Ánh kéo lên đánh thành Quy Nhơn.
Liệu thế không chống cự nổi, Vua Thái Đức sai sứ ra Phú Xuân
cầu viện.
Vua Cảnh Thịnh sai Thái Úy Phạm Công Hưng, Hộ Giá Nguyễn Văn
Huấn, Đại Tư Lộ Lộ Trung và Đại Tư Mã Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh và 80 thớt
voi đi đường bộ, lại sai Đại Thống lĩnh Đặng Văn Chân đem 30 chiến thuyền đi đường
bể, cả hai đạo vào cứu Quy Nhơn.
Nguyễn Phúc Ánh nhận thấy viện binh hùng hậu, không thể chống
nổi, liền rút đại binh về Diên Khánh.
Quân nhà Nguyễn rút ra khỏi Quy Nhơn, Vua Thái Đức mở cổng
thành đón binh Phú Xuân. Phạm Công Hưng vào thành truyền giải giáp quân Thái Đức
và sai quân chiếm giữ các kho tàng, Ngô Văn Sở can không được. Vua Thái đức uất
ức thổ huyết mà chết.
Vua Thái Đức ở ngôi được 16 năm (1778-1793) thọ 52 tuổi.
Ngự cốt được đưa về an táng trong vùng núi Tây Sơn .
Vua Cảnh Thịnh phong cho Thái tử Nguyễn Bảo là Hiến Công, cho
ăn lộc một huyện, gọi là Tiểu Triều, dinh đóng tại lỵ sở Tuy Viễn, bà chánh
cung họ Trần đem hai người con nhỏ là Văn Đức và Văn Lương về sống nơi quê
hương Kiên Mỹ để được gần gũi lăng Vua, cho tiện việc hương khói.
Các đại thần của Vua Thái Đức, nhờ Ngô Văn Sở can thiệp, khỏi
bị hại. Phần nhiều lấy cớ tuổi già sức yếu xin về sống cùng vườn ruộng, một số ở
lại làm việc, vì bảo rằng Vua Thái Đức hay Vua Cảnh Thịnh cũng đều là người của
đất Tây Sơn.
Vua Cảnh Thịnh để Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại trấn thủ
Quy Nhơn. còn Phạm Văn Hưng, Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân cùng các tướng phò Vua
Thái Đức đều rút về Phú Xuân. Sau đó những quan văn quán Quy Nhơn cũng bị đưa
đi phục vụ ở các nơi khác và đưa những người ở nơi khác, nhất là người Phú Xuân
vào giữ những chức vụ quan trọng ở phủ huyện Quy Nhơn.
TÌNH HÌNH DIÊN KHÁNH
VÀ PHÚ XUÂN
Nguyễn Phúc Ánh rút quân từ Quy Nhơn về Diên Khánh mùa thu
năm Quý Sửu (1793). Nhận thấy địa thế Diên Khánh hiểm trở, Nguyễn Phúc Ánh cho
xây thành đào hào ở phủ lỵ để làm Tổng hành dinh và cất trại lập xưởng ở dãy
núi gần Trường Cá gần cửa bể Nha Trang để đóng tàu bè và giữ mặt bể.
Thành nằm trên địa phận hai thôn Phú Mỹ và Trường Thạnh.
Chung quanh đắp đất, chu vi 366 trượng 4 thước, cao 8 thước 5 tấc. Trổ 6 cửa ra
vào, xây gạch kiên cố, trên có vọng lâu tứ diện thông phong. Trên thành có đặt
súng đại bác ở bốn mặt.
Trên dãy núi có trại xưởng ở Nha Trang cũng đặt súng đại bác
và có thủy quân đóng. Do đó núi mang tên là núi Xưởng hay núi Trại Thủy [1].
Công việc phòng thủ lo xong, Nguyễn Phúc Ánh giao Diên Khánh
cho Nguyễn Văn Thành trấn, còn mình thì kéo tướng sĩ về Gia Định. Sau đó cho
Hoàng tử Cảnh và Giám mục Bá Đa Lộc ra tăng cường.
Năm Giáp Dần (1794), Vua Cảnh Thịnh sai Lê Văn Hưng vào đánh
Phú Yên và Trần Quang Diệu vào đánh Diên Khánh.
Lê Văn Hưng kéo quân đến Cù Mông thì gặp Nguyễn Quang Huy.
Nguyễn Quang Huy sau khi bại binh ở Bình Thuận, không dám về
Quy Nhơn, về quê hương ở Phú Yên, chiếm cứ một nơi hiểm yếu trong dãy Cù Mông đợi
dịp lập công chuộc tội. Khi nghe binh Lê Văn Hưng kéo đánh Phú Yên thì liền đem
quân ra hưởng ứng. Lê Văn Hưng vốn đã quen biết Nguyễn Quang Huy từ trước, nên
vui mừng hợp tác với nhau.
Phú Yên được chiếm đóng dễ dàng, Lê Văn Hưng để Nguyễn Quang
Huy ở lại trấn thủ, kéo binh về Phú Xuân.
Còn Trần Quang Diệu vào Diên Khánh, quân trong thành không
dám ra đánh, đóng chặt cửa thành cố thủ. Thành kiên cố, Trần Quang Diệu không hạ
nổi đành bao vây, quân trong thành cạn lương thực.
Nguyễn Văn Thành cho người lẻn về Gia Định cáo cấp. Nguyễn
Phúc Ánh bèn đem đại binh giải vây. Trần Quang Diệu rút quân về.
Nguyễn Phúc Ánh thấy quân Tây Sơn còn mạnh và lại đương mùa
gió bấc, tiến binh không thuận tiện, đem Hoàng tử Cảnh và Giám mục Bá Đa Lộc về
Gia Định, để Võ Tánh ở lại trấn thủ Diên Khánh thay Nguyễn Văn Thành.
Tháng giêng năm Ất Mão (1795), Trần Quang Diệu lại đem thủy
binh và bộ binh vào đánh Diên Khánh. Võ Tánh giao chiến vài bận, liệu không
đánh lại, đóng chặt cửa thành cố thủ, đợi Gia Định cấp viện binh. Đến tháng 2,
Nguyễn Phúc Ánh đem thủy sư ra cứu Diên Khánh.
Thủy quân Nguyễn Phúc Ánh không lên được Diên Khánh vì bị thủy
binh Trần Quang Diệu chận đánh ở Trường Cá Phương Sài, phải đóng ngoài biển Nha
Trang và các nơi hiểm yếu trên đất. Ngày ngày hai bên đều có đánh nhau. Người
trong xứ không làm ăn được yên ổn.
Thành Diên Khánh vẫn bị vây chặt. Đoàn quân nào kéo ra cũng đều
bị quân Tây Sơn tiêu diệt hoặc đánh lui, thủy quân nhà Nguyễn cũng không làm
sao qua lại Trường Cá. Ưu thế nằm hẳn trong tay Trần Quang Diệu.
Chợt Trần Quang Diệu được tin Phú Xuân có biến!
Ở Phú Xuân, Bùi Đắc Tuyên mỗi ngày mỗi thêm lộng quyền. Những
người trước kia theo Tuyên như Ngô Văn Sở, Lê Văn Hưng... cũng không chịu nổi
hành vi gian ác của Tuyên, nhiều khi tỏ thái độ bất bình. Tuyên muốn trừ khử
nhưng chưa có dịp. Nhân Lê Văn Hưng, sau khi thắng trận ở Phú Yên, giao thành
cho Nguyễn Quang Huy giữ, đem quân về Phú Xuân. Tuyên bắt tội là không thỉnh mệnh
trước, tỏ ý muốn làm phản, tâu Vua chém đầu răn chúng. Vua Cảnh Thịnh nghe lời.
Ngô Văn Sở can, nhưng không được. Quan Phụ Chánh Trần Văn Kỷ can thiệp, Tuyên nổi
giận giáng chức, đày ra coi trạm Hoàng Giang. Sau đó Tuyên lại sai Ngô Văn Sở
ra Bắc Hà thay cho Võ Văn Dũng và gọi Dũng về Phú Xuân. Dũng về đến Hoàng Giang [2] thì gặp Trần Văn Kỷ. Kỷ nói:
- Thái sư ngôi trùm cả nhân thần, cho ai sống được sống, bắt
ai chết phải chết, nếu không sớm trừ đi, e bất lợi cho xã tắc. Ông nên lo liệu
trước đi kẻo nữa ăn năn không kịp.
Võ Văn Dũng vốn tin trọng Văn Kỷ, liền nghe theo. Về Phú Xuân
không vào triều, lén cho mời Phạm Công Hưng và Nguyễn Văn Huấn đến bàn mưu giết
Bùi Đắc Tuyên. Nhận thấy rõ lòng tàn nhẫn và tính phản phúc của Tuyên, Hưng và
Huấn cùng lo ngại đến thân phận của mình, bèn hưởng ứng ngay lời Dũng. Đêm đến
kéo quân vây dinh Thái Sư. Chẳng ngờ đêm ấy Tuyên có việc ngủ trong cung. Bọn
Dũng vây luôn cả cung và đòi Cảnh Thịnh giao Tuyên. Không dừng được, nhà vua phải
bắt Tuyên đem giao, Dũng hạ ngục Tuyên rồi một mặt cho Nguyễn Văn Huấn vào Quy
Nhơn bắt con Tuyên là Bùi Đắc Trụ, một mặt giả chiếu ra Bắc Hà bắt Ngô Văn Sở,
giải về Phú Xuân. Dũng phao cho Tuyên, Sở, Trụ mưu phản, đóng cũi nhốt đem dìm
xuống sông Hương! Vua Cảnh Thịnh biết là oan, nhưng không sao ngăn cản được,
đành gạt nước mắt khóc thầm!
Trần Quang Diệu nghe tin, thất kinh, nói cùng các tướng:
- Chúa thượng là người thiếu cương quyết để cho đại thần giết
lẫn nhau. Nếu trong không yên thì đánh ngoài thế nào được.
Bèn ra lệnh rút quân về. Đi đường núi đã lâu lại không tiện,
Trần Quang Diệu phải mở đường biển theo gió nam mà đi cho nhanh. Nguyễn Phúc
Ánh không dám cản đường.
Trần Quang Diệu đến Phú Xuân, đóng quân tại An Cựu bên bờ
phía nam sông Hương.
Võ Văn Dũng cùng Nội hầu Nguyễn Thế Tứ cũng đem quân bản bộ
đóng ở phía bắc sông Hương, ỷ mệnh Vua cự nhau với Trần Quang Diệu.
Võ Đình Tú lấy tình quen thân cả đôi bên, xin Vua Cảnh Thịnh
cho phép đứng ra hòa giải. Nhờ vậy mà Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng nối lại
tình xưa, đem binh vào thành, bệ kiến Vua Cảnh Thịnh.
Vua Cảnh Thịnh phong cho: Trần Quang Diệu làm Thái Phó, Nguyễn
Văn Huấn làm Thái Bảo, Võ Văn Dũng làm Đại Tư Đồ, Nguyễn Văn Danh làm Đại Tư
Mã, gọi là Tứ Trụ đại thần, chung nắm quyền về dân sự và quân sự. Nhưng rồi có
người dèm cùng Cảnh Thịnh rằng Diệu nắm uy quyền trọng quá, e có ý khác. Cảnh
Thịnh bèn thu hết binh quyền, chỉ để Diệu giữ hư vị trong triều mà thôi. Diệu
sinh nghi kỵ, thường cáo bệnh không đi chầu, và ngày đêm cắt kẻ thủ hạ 200 người
mang vũ khí bên mình để phòng vệ.
Cảnh Thịnh lại sợ Võ Đình Tú, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng
là bạn cố giao, ở gần nhau bất lợi cho mình, bèn phong cho Tú chức Binh Bộ Tham
tri vào coi quân ở Quy Nhơn và Phú Yên.
Kế đó Phạm Công Hưng bị bệnh mất. Nguyễn Thế tử bị thất sủng
lén đem gia quyến đi khỏi Phú Xuân.
Nguyễn Văn Huấn đương trấn thủ Quy Nhơn bị Cảnh Thịnh triệu về
kinh. Tư Đồ Nghĩa được cử vào thay Huấn làm trấn thủ và Lại bộ Thị Lang Kính
làm Hiệp Trấn giúp Nghĩa.
Huấn về đến Phú Xuân, Thượng thư Hồ Công Diệu tâu cùng Cảnh
Thịnh rằng Huấn ở Quy Nhơn mưu kết thông cùng giặc, bị gọi về kinh tỏ ý bất
bình. Cảnh Thịnh nghe lời, đợi lúc Huấn vào chầu ra lệnh bắt giết.
Nguyễn Văn Bảo nổi dậy đánh thành Quy Nhơn, nhưng quân lực
quá yếu, nên liền bị đánh tan. Bảo bị bắt nhận chìm xuống sông đến chết.
Nghe tin dữ, bà họ Trần ở Kiên Mỹ liền đem hai con là Văn Đức,
Văn Lương và cháu nội con Nguyễn Bảo là Văn Đẩu, chạy lên An Khê nương tựa cùng
Cô Hầu ở Mộ Điểu. Tướng Cảnh Thịnh biết rõ, nhưng sợ tên thuốc của người Thượng
nên không dám đuổi theo.
Viên Thái Phó Lê Văn Ứng tâu cùng Cảnh Thịnh rằng nội biến của
Tiểu Triều là do Lê Trung là người Quy Nhơn, trước có phò Vua Thái Đức, Cảnh Thịnh
tin lời, triệu Lê Trung vào triều, thét đao phủ quân bắt giết.
Con của Lê Trung là Lê Chất đương làm thủy quân Đô Đốc trấn
giữ cửa Thị Nại, nghe tin nổi giận, chạy vào Gia Định quy hàng Nguyễn Phúc Ánh.
Quyết trả thù, Lê Chất nói cho Nguyễn Phúc Ánh biết hết tất cả những cơ quan bí
mật và những yếu điểm ở Thị Nại [3].
Dưới triều Thái Đức, Quang Trung, Vua tôi tin cậy nhau, bạn bằng
yêu kính nhau. Từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài, đều lấy nghĩa mà đối đãi
nhau. Quan văn cũng như tướng võ, ai nấy đều lo tròn nghĩa vụ, quyền không ham,
lợi không ham. Nhờ vậy mà nước được mạnh, dân được yên. Sang triều Cảnh Thịnh,
Vua tôi nghi kỵ nhau, đình thần hãm hại nhau. Ai nấy đều lo quyền lợi riêng của
mình, không nghĩ đến quyền lợi chung của dân của nước. Khiến thế nước càng ngày
càng đảo khuynh, lòng người càng ngày càng ly tán. Do đó mà Nguyễn Phúc Ánh
không tốn bao nhiêu công phu mà lập nên sự nghiệp lớn trong một thời gian ngắn.
Chú thích:
[1] Dãy núi nằm ở địa đầu thành phố Nha Trang, hiện có chùa Hải
Đức và Kim thân Phật Tổ.
[2] Có sách gọi lá Hán Xuyên, hoặc Mỹ Xuyên.
[3] Có sách chép Lê Chất là rể Lê Trung.
Quách Tấn - Quách Giao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét