Nhà Tây Sơn 1
LỜI THƯA
Tập Nhà Tây Sơn này, tôi viết theo những tài liệu của cha tôi
là Quách Tấn đã sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại.
Trước khi viết, trong khi viết và sau khi viết xong, tôi đã
được cha tôi hướng dẫn và uốn nắn sửa chữa những chỗ chưa phản ánh đúng, đầy đủ
sự việc và tinh thần.
Gia tộc tôi sinh cư lâu đời tại xứ Tây Sơn.
Từ nhỏ chúng tôi đã được nghe cha tôi và các thân sĩ kỳ cựu
trong vùng trao đổi với nhau những chuyện về Tây Sơn. Và trong gia đình, cha
tôi cũng thường kể cho con cháu nghe những chiến công oanh liệt của nhà Tây
Sơn, gây lòng tự hào, kính phục.
Thời trung học, tôi cũng đã học sử Tây Sơn, cũng đã đọc nhiều
sách về Tây Sơn. Nhưng tài liệu thì nghèo nàn và sự việc có nhiều điểm không giống
những điều tôi đã được nghe truyền.
Cha tôi đã nhiều lần giải thích sự sai biệt ấy, cho biết rằng:
A.Do ngòi bút kẻ viết sử thời ấy xuyên tạc, giấu bớt sự thật
cho vừa lòng nhà Nguyễn Gia Miêu đang thống trị.
Do các sử gia thời ấy ở xa (miền Bắc nên không sát).
Do sự đàn áp của chính quyền rất khốc liệt, nhân dân địa
phương có liên quan trực tiếp với Tây Sơn ngậm miệng không dám nói lại rõ sự thật.
B.Mà sự thật về Tây Sơn từ khi nhen nhóm cuộc đại nghĩa đến lúc
bại vong rất phong phú, nhiều gia phả còn ghi, nhiều cháu con các danh tướng,
danh thần còn nhớ biết và truyền lại. Các sách ghi chép của các nhà Nho yêu nước
sống gần thời ấy về sau có ghi chép lại.
Cha tôi đã có ý muốn viết lại ịch sử Tây Sơn cho đủ hơn, đúng
hơn, để lưu lại những điều hay, đẹp, cao cả của ông cha cho con cháu về sau biết
mà tự hào, tự cường. Vì vậy, từ năm 1930 đến 1945, suốt 15 năm, cha tôi đã sưu
tập, ghi lại, tiếp xúc và đi đến cả một số nơi xảy ra các sự kiện lịch sử ấy để
quan sát để “thông cảm với cổ nhân”.
Số tài liệu khá phong phú. Nhưng đến năm 1945, gia đình về
Bình Định, tài sản sách vở để lại nhà ở Nha Trang, bị giặc Pháp chiếm. Mãi đến
năm 1954, hòa bình lập lại, trở về Nha Trang thì chỉ còn một cái nhà trống
trơn, tài sản, sách vở, tài liệu đều mất cả!
Từ năm 1955 đến nay, cha tôi làm lại cuộc sưu tập, tiếp xúc,
ghi chép... nhưng một số tài liệu chính thức nay không tìm lại được, nhiều người
hiểu rõ sự việc (truyền lại trong gia đình) đã chết hoặc đi biệt tích... Tuy
nhiên số tài liệu mới thu thập trong thời gian này cũng khá phong phú. Lại một
lần nữa bị mất mát trong cuộc tháo chạy tháng tư năm 1975. Tài liệu gom góp,
sách vở ghi chép trong 20 năm trường, mười phần không còn được một.
Cha tôi nay đã già yếu - 76 tuổi rồi - tự thấy khó mà sưu tập
được nữa, và sợ cũng không đủ sức ngồi viết lại những điều đã tìm, đã nghe, đã
ghi chép suốt 50 năm nay, nên bảo tôi nghiên cứu các tài liệu còn sót lại theo
sự bổ sung, hướng dẫn, giải thích của cha tôi, cố gắng viết kỹ lại cho con cháu
biết được rõ hơn về nhà Tây Sơn.
Tôi ra công viết từ đầu 1983 và viết xong vào cuối xuân 1984.
Theo ý kiến của cha tôi, tập này không thể gọi là một cuốn lịch
sử, vì tài liệu, một số chưa được phối kiểm chặt chẽ.
Đây chỉ là một số tư liệu được chọn lọc, sắp xếp có hệ thống,
những điều mà chúng tôi thấy nên chép, đáng chép. Nghe sao chép vậy, có nhiều sự
việc chính xác, cũng có sự việc chỉ cắm một hoa tiêu để làm dấu cho những người
sau tiếp tục khai tầm. Lại có cả những chuyện hoang đường theo kiểu Hán Cao Tổ
chém rắn, kiểu sâu đục lá cây thành “Lê Lợi vi vương Nguyễn Trãi vi thần” trong
sử sách cổ. Cha tôi bảo cần ghi lại, vì đó chỉ là những biện pháp tuyên truyền
cổ động ngày xưa dựa vào thần quyền, dị đoan, và sự thực là nó cũng có ít nhiều
tác dụng.
Các bộ sử trước viết về Tây Sơn thường chỉ chú trọng đến Vua
Quang Trung. Đúng. Vì chính Vua Quang Trung mới thật là người có công với dân tộc.
Nhưng xét kỹ nếu không có Vua Thái Đức đổ nền đắp móng, thì chắc gì một mình
Vua Quang Trung đã có thể hoàn thành ngôi nhà Tây Sơn? Các sách cũng ít nói đến
các tướng võ các quan văn đã giúp nhà Tây Sơn xây dựng sự nghiệp. Trong tập tư
liệu này, chúng tôi mong lấp được phần nào những chỗ khuyết ấy.
Chúng tôi lại đưa ra một đôi chi tiết làm sáng tỏ nghĩa chữ
Trung mà phần đông người Bình Định đã theo từ xưa đến nay: không phải trung với
Vua, mà trung với Tổ Quốc, với Dân tộc, không phải trung với một người hay một
nhà, mà trung với nghĩa vụ “tận ngã nghĩa vụ”, tức là TẬN KỶ theo Đạo đức cổ
truyền. Và thái độ không tranh quyền vị của các quan văn võ thời Thái Đức, Quang
Trung, thái độ không noi gương phần đông di thần của Vua Chiêu Thống khi nhà Lê
mất, của các danh tướng danh thần của Tây Sơn còn sống sót sau khi Vua Cảnh Thịnh
bị Gia Long giết, chứng tỏ rằng phần đông người Bình Định không bị cái học
Trung Quân của Hán Nho nhồi sọ.
Đó là mục đích viết tập Nhà Tây Sơn này.
Viết xong, vâng lời cha tôi, tôi trình lên cho hai bác là bác
Lộc Đình, bác Giản Chi, cùng hai chú là chú Nguyễn Đồng, chú Quách Tạo nhã
chính. Hai bác đã chỉ cho những chỗ sai lầm, hai chú đã thêm cho những điều thiếu
sót, và ban cho những lời khuyến lệ. Tôi hết sức vui mừng. Để cho “Nhà Tây Sơn”
được hoàn hảo, cúi mong thêm sự chỉ giáo của các bậc cao minh.
QUÁCH GIAO
Nhà Tây Sơn - 1
ẤP TÂY SƠN
Ấp Tây Sơn là nơi phát tích của Bình Định tam hùng: Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ.
Ấp gồm phần đất An Khê và phần đất Bình Khê, tỉnh Bình Định.
Và chia làm ba phần:
Tây Sơn thượng là vùng An Khê.
Tây Sơn Trung, từ chân đèo An Khê đến Hữu Giang, Tả Giang.
Tây Sơn Hạ, từ Trinh Tường, Phú Lạc đến Thọ Lộc, Lại Nghi,
Thú Thiện, An Chánh, Văn Tường, Kỳ Sơn, Thuận Truyền, Thuận Hạnh...
Cụm tháp Bình Nghi (Phú Thiện) ở phía nam sông Côn và cụm
tháp Dương Long ở phía bắc sông Côn là hai trụ ranh giới phía đông của ấp.
Phía đông là đồng bằng phì nhiêu.
Phía tây và phía nam, núi non hiểm trở, điệp điệp trùng
trùng.
Phía bắc, nửa trên là núi dính liền với dãy núi phía tây, nửa
dưới là đồng bằng dính liền với đồng bằng phía đông.
Dòng sông Côn phát nguyên trên dãy trường sơn chạy xuống biển
Thị Nại, chia ấp Tây Sơn ra làm hai, nửa phía nam nửa phía bắc, chạy dọc theo
dòng sông, tứ mùa lúa dâu bắp đỗ thay nhau làm tăng vẻ giàu sang cho núi non
hùng hiểm.
Núi có nhiều ngọn cao lớn, trông đồ sộ hiên ngang; được nhiều
người chú ý là những ngọn có di tích lịch sử, như:
Ở vùng An Khê có núi Hiển Hách, tục gọi là Hảnh Hót, sử chép
là Hinh Hốt. Đó là một danh sơn có nhiều cây quý và chung quanh có nhiều ngọn
núi quy triều. Núi vùng An Khê liên tiếp với vùng cao nguyên ở phía Tây, và
phía đông đèo An Khê nối liền Tây Sơn Thượng với Tây Sơn Trung.
Đèo An Khê, xưa gọi là đèo Vĩnh Viễn, cao 740 thước và dài
trên 10 cây số, chạy từ Tây xuống Đông đường đi rất hiểm trở. Trước kia, lúc Quốc
lộ 19 chưa mở, hành khách qua lại phải chịu nhiều gay go. Dọc đèo có nhiều nơi
dốc ngược, đá mọc lởm chởm, có khúc phải dạng hai chân mà leo mới khỏi té. Nơi
này tục gọi là dốc Chàng Hảng. Dưới dốc Chàng Hảng về phía đông có một cái nghẹo,
nơi nghẹo có một cây khế rất sai quả. Khách qua đèo thường dừng chân nơi gốc khế
để nghỉ ngơi và giải khát. Nghẹo ấy gọi là Nghẹo cây khế. Cách nghẹo cây khế chừng
vài trăm bước có hai cây cổ thụ, thân cao tàn cả. Một cây ké, một cây cầy. Đó
cũng là hai trạm nghỉ chân của hành khách.
Dưới chân đèo, thuộc Tây Sơn Trung, núi cũng cao chớm chở như
vùng Tây Sơn Thượng. Ngọn núi có danh nhất là hòn Ông Bình. Núi tuy không cao lắm
chỉ có 793 thước, song trông rất kỳ vĩ và có vẻ bí hiểm. Cây cối sầm uất, ngó mịt
mờ thăm thẳm như không có đường lưu thông. Nhưng kỳ thật thì có nhiều nẻo vào
ra, thông thương với các ngọn núi chung quanh cùng các con đường hẻo lánh trong
vùng.
Đối trĩ [1] cùng hòn
Ông Bình, có hòn Ông Nhạc, khí thế cũng rất hùng hiểm.
Từ hòn Ông Nhạc núi chạy từng lớp, từng lớp, lớp chạy thẳng
vào Nam, lớp chạy xiên xiên xuống hướng Đông - Nam. Danh sơn đều nằm trong dãy
Đông Nam. Trước hết là hòn Tâm Phúc hình như chiếc nón lá, nhiều cổ thụ và heo
rừng.
Đồn rằng núi rất linh thiêng vì bà Thiên Y A Na thường
tới lui hào quang sáng chói. Trong núi, hễ lúc mặt trời gần lặn, người ta thường
nghe tiếng ụt heo inh ỏi. Người địa phương bảo đó là tiếng của bộ hạ của bà Thiên
- Y. Núi Tâm Phúc có tên nữa là núi Bà Phù.
Đối trĩ cùng núi Bà Phù có núi Màn Lăng. Thầy địa lý gọi Màn
Lăng là hòn Nhật, hòn Bà Phù là hòn Nguyệt.
Giữa Màn Lăng và Bà Phù có một thung lũng bằng phẳng và kín
đáo, tục gọi là Hóc Yến.
Qua khỏi Hóc Yến đền núi Đồng Phong tục gọi là hòn Lãnh
Lương.
Đi xuống nữa, đến địa đầu Tây Sơn Hạ, thôn Trinh Tường, đến
dãy Hoành Sơn tục gọi là núi Ngang.
Những ngọn núi từ hòn ông Nhạc chạy xuống đều chạy theo hàng
dọc. Hòn Hoành Sơn lại chạy ngang.
Hoành Sơn chỉ cao 364 thước, nhưng dài và rộng. Phía tây và
phía nam, dòng suối Động Tre và chí lưu ôm sát bên chân. Sông Côn chạy dài ở
phía bắc. Trước mặt đồng Trinh Tường tiếp đồng Phú Phong, mênh mông bát ngát.
Hoành Sơn là đại địa, vì có nào bút, nào nghiên, nào ấn, nào
kiếm, nào chung, nào cổ, ở bên tả bên hữu. Và trước mặt, trên ba nổng gò đất,
đá mọc giăng hàng giống như những toán lính đứng hầu, xa xa có long bàn hổ phục.
Bút là hòn Trưng Sơn ở thôn Phú Lạc bên kia sông Côn, xa
trông như ngòi bút chép mây.
Nghiên là hòn núi Hợi Sơn tục gọi Hòn Dũng, trong địa phận
Trinh Tường về phía Nam, đứng đối trĩ cùng hòn Trưng Sơn ở phía bắc. Trên đầu
núi có một vũng nước vừa rộng vừa sâu, quanh năm không bao giờ cạn. Dân hàn mặc [2] coi vũng
nước là nghiên mực của trời nên gọi hòn Dũng là Nghiên Sơn tức hòn Nghiên.
Hòn Nghiêng và hòn Bút nằm bên tả bên hữu hòn núi ngang,
trông rất cân đối. Đứng xa mà ngắm thì hòn núi Ngang là bức bình phong còn hòn
Nghiên hòn Bút là hai trụ ba biểu [3].
- Sát bên chân và trước mặt núi Ngang, có hai hòn núi nhỏ là
hòn Một và hòn Giải. Hòn Một giống hình cái chuông, nên cổ nhân gọi là Chung
Sơn. Hòn Giải giống như cái trống chầu nên có tên gọi là Cổ Sơn. Nhìn chung, thật
giống chuông và mõ đặt trước án thờ.
- Hòn Giải, đứng phía bắc trông vào thì giống cái trống.
Nhưng đứng phía đông mà nhìn lại phảng phất một quả ấn. Vì vậy hòn Giải còn có
tên nữa là Ấn Sơn.
Đặt cho hòn Giải tên Ấn chẳng phải chỉ vì hình dáng, mà còn
vì phía đông cách Hoành Sơn không xa có hòn núi thấp mà dài mệnh danh là Kiếm
Sơn tức hòn Kiếm. Đã có kiếm thì phải có Ấn mới đủ đôi.
- Phía trên hòn Kiếm cũng trong phần đất Trinh Tường có hòn
ông Đốc, hình thù giống như một con hổ phục, đầu ngó lên Hoành Sơn. Đó là “Hổ cứ”
như trên đã nói.
- Còn dòng sông Côn đến cuối Trinh Tường, đầu Phú Phong thì
nhận nước con sông Đá Hàng, một chi lưu từ Đồng Le ở phía nam chảy ra. Hai ngả
sông này tạo thế “long bàn” ôm choàng lấy cuộc đất núi Ngang.
Từ núi Ngang (Hoành Sơn) trở vô, càng vô trong, núi càng cao.
Nhiều ngọn cao trên dưới nghìn thước, trừ các thợ rừng tuổi tác, người đồng bằng
ít ai biết tên. Người ta gọi chung cả dãy là Núi Xanh vì đứng ngoài nhìn vào sắc
núi xanh như nhuộm.
Từ núi Ngang trở xuống Tây Sơn Hạ, càng xuống, núi càng chạy
xiên vào nam, nhượng chỗ cho đồng bằng.
Đó là núi non nằm phía nam sông Côn.
Phía bắc sông Côn, núi vùng Tây Sơn Trung cũng có nhiều ngọn
cao lớn. Như hòn Ngăn, hòn Bong Bóng ở Vĩnh Thạnh, trông có vẻ ngang ngược như
muốn ngăn lối chặn đường thiên hạ đi rừng. Bốn mặt lại có suối khe bao bọc. Thế
rất hiểm. Phía đông hòn Ngăn, cách một dòng suối, có hai ngọn nút cao ngất, đứng
song song như hai răng nanh. Đó là hòn Vỏ Cá và hòn Da Két.
Núi càng đi xuống đông thì càng thấp dần.
Sau hòn Vỏ Cá, hòn Da Két, còn hòn Bạc Má và hòn Nước Đỏ. Hai
hòn này có thể coi là một, nếu không có đèo Bồ Bồ chạy ở giữa. Đèo mở đường
giao thông cho khách ở phía đông lên phía tây, ở phía tây xuống phía đông. Núi
đèo đều có hình thù và sắc thái đặc biệt, không thể tả nổi.
Xuống đến Tây Sơn Hạ thì núi không còn liền dây. Hòn Trưng
Sơn ở Phú Lạc là hòn núi cao nhất vùng.
Hòn Trưng chỉ cao 422 thước, nhưng trông rất khôi hùng. Trông
gần thì mập mạp hung ăng như con bò đực sung sức lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu.
Nên người địa phương gọi là hòn Sung. Ở xa thì giống như ngọn bút, cùng với hòn
Nghiên bên kia sông Công làm “bạn văn chương” như trên kia đã nói. Lưng núi thì
nổi từng vồng u như bị đánh sưng. Nên nhiều người gọi là hòn Sưng thay Sung.
Theo các phụ lão địa phương thì núi có tất cả chín cục u, gọi là “Cửu diệu
tinh”. Hai u lớn nhất, một trông giống răng bò nghé, gọi là Đốc Xỉ, một giống u
bò nghé, gọi là độc nhũ. Trong các sách địa phương chí xưa, nhiều sách lấy tên
hai cục này để gọi hòn Trưng Sơn: Độc Xỉ Sơn, Độc Nhũ Sơn.
Trưng Sơn là Tổ sơn trong vùng núi ở bắc ngạn sông Côn. Mặt
hướng về đông nam và lấy dãy Sơn Triều Sơn ở Cầu Gành thuộc An Nhơn, làm tiền
án. Còn sơn mạch thì lại chạy thẳng xuống hướng đông, đến hòn Mạ Thiên Sơn, tục
gọi là hòn Mò O - ở giữa An Nhơn và Phù Cát - thì hồi cố. Phía trước mặt và hai
bên tả hữu, gò đống nổi đầy, cuồn cuộn nhấp nhô như sóng biển. Và những ngọn
núi ở xung quanh đều xây mặt về triều, cũng như các vị đại thần đứng chầu một đấng
anh quân. Còn những gò đống kia là những quân lính dàn hầu.
Từ hòn Trưng Sơn trở xuống là đồng bằng. Nếu không có con
sông Côn, thì cánh đồng này liền với cánh đồng phía nam.
Giữa cánh đồng, rải rác nổi lên những hòn núi đất, như hòn
Hương Sơn, hòn Trà Sơn, hòn Khánh Long, hòn Chà Rang.
Hòn Hương Sơn giống như con chó nằm ngủ.
Hòn Trà Sơn và hòn Khánh Long thì giống như hai con cừu.
Ba hòn núi này là ba hòn núi trọc. Hòn Chà Rang không có hình
dáng đặc biệt như ba hòn núi kia, nhưng có nhiều cây chà là, đến mùa trái chín
thì người ta rủ nhau lên hái rất đông đảo, cho nên có tiếng.
Núi non vùng đất Tây Sơn đại khái là thế.
Nói tóm lại về hình thế và vùng đất Tây Sơn như sau:
Tây Sơn Thượng gồm trọn vùng An Khê, núi non trùng điệp, đất
bằng ít.
Tây Sơn Trung gồm phần đất từ chân đèo An Khê chạy xuống đến
cuối Bình Giang. Hòn Núi Ngang làm mốc ranh giới cho hai vùng Trung, Hạ. Vùng
Trung cũng như vùng Thượng, núi nhiều hơn đồng.
Tây Sơn Hạ bắt đầu từ Trinh Tường trở vô, Phú Lạc trở ra, và
chạy xuống đến Thú Thiện. Thọ Lộc trở vô, An Chánh, Vân Tường trở ra. Đồng bằng
chiếm gần trọn vùng.
Dòng sông Côn làm sợi tim đèn cho hai vùng Trung Hạ.
Núi non thì hùng hiểm. Đồng ruộng thì phì nhiêu. Rõ có thể dụng
binh. Cho nên cuộc khởi nghĩa của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ,
trước kia và cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng thời Pháp sang Việt nam, đều
phát xuất tại vùng Tây Sơn [4]. NHÀ TÂY SƠN
Ấp Tây Sơn là nơi phát tích của ba anh em nhà anh hùng dân tộc
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, cho nên sử gọi ba anh em là Nhà Tây
Sơn.
Tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ, ở làng Hương Cái, huyện Hưng
Nguyên, tỉnh Nghệ An. Tổ quán ở dưới chân hòn Thái Sơn, một hòn núi nhỏ đứng
bên cạnh hòn Đại Hải, một danh sơn tỉnh Nghệ.
Họ Hồ vào lập nghiệp ở Quy Nhơn [5], tức Bình Định
thời Thịnh Đức nhà Lê (1653-1657), ứng với đời Lê Thần Tông (1649-1662) ở Đường
Ngoài, đời Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) ở Đường Trong. Bắt đầu từ đời ông cố, đến
Nguyễn Huệ là đời thứ bốn.
Ông cố tên là Hồ Phi Long, vào ở giúp việc nông trang cho nhà
họ Đinh thôn Bằng Châu, huyện Tuy Viễn (tức An Nhơn). Thấy họ Hồ là người trung
hậu cần mẫn, họ Đinh cưới vợ cho (có thuyết bảo là gả con gái) và nuôi cả vợ chồng,
coi như người thân quyến.
Họ Hồ sinh được một trai, đặt tên là Hồ Phi Tiễn. Lớn lên Hồ
Phi Tiễn tỏ ra khôn ngoan lanh lợi, song sức yếu không thể làm nông. Họ Đinh
bèn giúp vốn để đi buôn.
Thời bấy giờ trầu nguồn rất có giá, song người đồng ruộng ít
người chịu khó vượt suối đèo để đi kiếm lợi. Hồ lang bèn mang tiền lên ấp Tây
Sơn buôn trầu. Đi buôn gặp người vừa ý mới kết nghĩa vợ chồng, và để tiện việc
làm ăn Hồ lang cất nhà nơi quê vợ.
Bà vợ tên là Nguyễn Thị Đồng ở thôn Phú Lạc thuộc Tây Sơn Hạ.
Bà Đồng là con duy nhất của một phú thương (buôn trầu) đất Phú Lạc. Để con mình
hưởng trọn gia tài và đời đời giữ hương hỏa bên ngoại, bà Đồng thương lượng
cùng chồng cho con mang họ Nguyễn. Việc đổi họ đối với ông Hồ Phi Tiễn không có
gì trở ngại vì chẳng những hợp tình mà cũng hợp lý do việc tiền nhân là Hồ Quý
Ly đã từng mang họ Lê là họ của cha nuôi từ nhỏ cho đến khi lên ngôi thay nhà Trần
trị thiên hạ. Vì vậy con ông Hồ Phi Tiễn mang họ Nguyễn từ lúc sơ sanh: Nguyễn
Phi Phúc.
Lớn lên ông Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và lập trường
buôn trầu tại chợ Kiên Mỹ gần sông Côn[6]. Trầu trên nguồn
chở xuống người ở miền dưới lên mua trầu đều đi đường thủy, theo dòng sông Côn.
Chợ Kiên Mỹ mỗi tháng có sáu phiên, phiên nào cũng đông người mua bán. Đến khi
trường trầu của ông Phúc mở, chợ càng ngày càng thịnh vượng thêm. Trên bộ thì
người chen chúc nhau, dưới sông thì thuyền lớp đậu lớp xuống lên chật cả bến.
Kiên Mỹ trở thành một thị trấn và ông Phúc trở thành một phú thương có uy tín
nhất trong vùng. Ông kết duyên cùng bà Mai Thị Hạnh [7]. Bà hạnh là
cao cao tổ cô của anh hùng Mai Xuân Thưởng. Vì vậy nên trong bản án của Mai anh
hùng do triều đình Huế buộc tội có câu: “Dương vị Hàm Nghi khởi nghĩa, âm vị ngụy
Nhạc phục thù”.
Ông Phúc sanh ba người con trai:
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ tức Nguyễn Bình, Nguyễn Lữ.
Ngoài đời cũng như trong sách sử không nói rõ ba ông sinh năm
nào.
Chỉ nghe các cụ phụ lão truyền rằng ông Nhạc lớn hơn ông Huệ
đến 10 tuổi, và ông Huệ hơn ông Lữ 1 tuổi.
Nếu dựa năm băng hà của Vua Quang Trung mà tính thì chúng ta
cũng có thể đoán được năm sinh của ba ông.
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, theo các sử Việt, băng năm Nhâm
Tý (1792) hưởng dương 40 tuổi. Như vậy ông Huệ sanh năm Quý Dậu (1753) niên hiệu
Cảnh Hưng thứ 14. Ông Nhạc lớn hơn 10 tuổi thì sanh năm 1743, tức năm Quý Hợi.
Ông Lữ thua ông Huệ 1 tuổi, tức sanh năm Giáp Tuất (1754).
Ba anh em lớn lên đều thọ giáo ông Trương Văn Hiến tục gọi là
Giáo Hiến ở An Thái (An Nhơn).
Trương Văn Hiến, người Hoan châu (Hà Tĩnh) anh em thúc bá
cùng Trương Văn Hạnh.
Trương Văn Hạnh là một đại thần đời Vũ Vương Nguyễn Phúc
Khoát, Vũ Vương mất năm Ất Dậu (1765), thế tử cũng đã mất từ lâu, con thế tử
còn nhỏ, nên tờ di chiếu để lại lập con thứ nhì của Vũ Vương, tức Nguyễn Phúc
Luân (cha Nguyễn Phúc Ánh) lên nối ngôi, Quốc phó Trương Phúc Loan muốn chuyên
quyền, thông đồng với tên hoạn quan Chừ Đức và chưởng cơ Nguyễn Cửu Thống mạo tờ
di chiếu giả, lập người con thứ 16 của Vũ Vương là Nguyễn Phúc Thuần, lúc ấy mới
12 tuổi, lên làm Chúa. Trương Văn Hạnh phản đối, bị Trương Phúc Loan giết chết.
Trương Văn Hiến sợ vạ lây bèn trốn vào An Thái mở trường dạy học.
Ông Trương Văn Hiến dạy cả văn lẫn võ. Người đến xin học văn
thì bắt buộc phải học thêm võ. Những người đến xin học võ thì bắt buộc phải học
thêm văn. Bởi có văn không võ thì thường nhu nhược. Có võ không văn thì thường
hay cường bạo. Văn võ phải nương nhau thì đạo làm người mới giữ được vững.
Cũng như mọi người, ba anh em họ Nguyễn Tây Sơn đều học cả
văn lẫn võ, nhưng nặng bên võ hơn bên văn. Ông Nhạc chuyên học kiếm, ông Huệ
chuyên học đao, ông Lữ chỉ học quyền, và vì sức yếu nên được truyền môn Miên
quyền (quyền mềm dẻo như bông, đối lập với Ngạnh quyền là quyền cứng mạnh), là
môn sở trường của Trương Công.
Ông Phúc qua đời, ông Nhạc nối nghiệp nhà. Ông Lữ xuất gia
theo Minh giáo tục gọi là Đạo Ma Ní, dùng phù phép để chữa bệnh, trừ tà như đạo
phù thủy. Đạo này thịnh hành ở Tây Sơn Thượng và các miền cao nguyên Trung phần.
Chỉ có ông Huệ tiếp tục theo học thầy giáo Hiến.
Để tiện việc buôn bán, ông Nhạc dời nhà xuống Kiên Mỹ cạnh
trường trầu. Nhà rộng để chứa bạn hàng. Trước nhà lại mở sân rộng để luyện võ
nghệ.
Nhà giàu, võ giỏi, ông Nhạc lại nổi tiếng phong nhã hào hoa
nên những tay “anh chị”, những kẻ khá giả ở các vùng lân cận đều rất thích giao
du. Uy thế của ông Nhạc ở địa phương còn hơn ông Phúc gấp bội. Để tỏ lòng kính
mến, người đương thời gọi ông Nhạc là ông Hai Trầu. Ông Huệ là chú Ba Bình hay
Ba Thơm. Ông Lữ là thầy Tư Lữ.
Vì ông Nhạc kết duyên với bà Trần Thị Huệ nên để tránh trùng
tên với chị dâu, gia đình mới gọi ông Huệ là Bình. Do đó người địa phương mới gọi
thân mật là chú Ba Bình. Tên Bình là tên gọi ông Huệ lúc còn nhỏ. Còn tên Thơm
là do nhân hoa huệ có hương thơm nên gọi thay cho tên kiêng cữ.
Nhà ông Nhạc từ khi dời xuống Kiên Mỹ, khách khứa mỗi ngày mỗi
đông. Chẳng những khách người Việt mà cả khách người Hoa.
Có một người Hoa tới ở nhà ông Nhạc hàng tháng và ngày ngày cứ
đi thơ thẩn nơi các vùng núi đồi Tây Sơn Hạ. Thường được người Hoa đó lui tới
nhất là hòn núi Thơm ở Kiên Thạnh và dãy núi Ngang ở Trinh Tường. Ông Nhạc đoán
biết là thầy địa đi tìm huyệt mả, mới cho người tâm phúc theo rình. Một hôm thầy
địa đến núi Ngang, lấy hai cây trúc để nguyên cành lá đem cắm nơi triền phía
đông, một cây bên nam một cây bên bắc cách nhau chừng vài chục thước, rồi bỏ đi
thẳng. Ông Nhạc ngày ngày đến xem chừng. Mấy hôm sau, cây trúc phía bắc rụng hết
lá và khô dần. Còn cây phía Nam, đến ba tháng rồi mà vẫn tươi xanh như lúc mới
trồng. Biết đó là ứng chứng cho biết rằng long mạch nằm nơi cây trúc phía nam,
ông Nhạc mừng lắm, bèn nhổ cây sống trồng vào ngay chỗ cây chết, và cây chết trồng
vào chỗ cây sống. Sau ba tháng mười ngày kể từ ngày trồng hai cây trúc, thầy địa
Tàu trở lại. Thấy hai cây trúc đều khô héo hết, thầy địa cho là “giả cuộc”, bỏ
đi không thèm trở lại nữa. Ông Nhạc bèn bốc mộ ông thân đem táng nơi chân trúc
phía nam.
Lại có thuyết: Đi lang thang trên vùng núi đồi Tây Sơn hạ ít
lâu, thầy địa Tàu bỏ đi mất. Một năm sau mới trở lại. Lần này thầy mang một chiếc
địa bàn và một chiếc tráp nhỏ. Ông Nhạc đoán biết rằng thầy Tàu đã tìm được huyệt
mả đại phát ở vùng Tây Sơn, và chiếc tráp kia đựng hài cốt tiền nhân của thầy địa,
bèn tìm cách đánh đổi. Ông đóng một chiếc tráp in hệt chiếc tráp của thầy địa
và hốt cốt ông thân sinh đựng vào, rồi đợi... Coi được ngày lành, thầy địa mang
địa bàn và tráp đi đến nơi huyệt mả ở núi ngang. Thầy vừa đến chân núi thì một
con cọp to lớn ở trong bụi gầm một tiếng, nhảy ra vồ. Thầy địa hết hồn, quăng
tráp và địa bàn mà chạy. Hồi lâu thấy cọp không đuổi theo liền quay lại chỗ cũ.
Thấy chiếc tráp và địa bàn còn nằm lăn lóc đó, thầy mừng như chết đi sống lại,
vội đi thẳng đến nơi long huyệt mà chỉ một mình thầy biết. Chôn cất xong, thầy
hớn hở quay về Trung Hoa, tuyệt nhiên không ngờ rằng chiếc tráp thầy chôn đựng
di cốt ông Nguyễn Phi Phúc chớ không phải di cốt của tổ tiên thầy và con cọp
kia là con cọp giả do ông Nhạc “đẻ” ra.
Từ ngày ông Nhạc được huyệt mả, thì gia đình thường gặp nhiều
việc may.
Một hôm ông Nhạc mua được một thanh cổ kiếm dài và rất bén.
Nhớ ơn thầy cũ, bèn xuống An Thái dâng cho Trương công.
Trông thấy Nhạc, Trương công giật mình. Vì trước kia, phong
cách và tài năng của Nhạc đã làm cho Công thầm khen là người có thể làm được việc
lớn. Lúc này thần thái lại tươi sáng hơn xưa thập phần. Nâng niu xem xét thanh
kiếm, Công nói:
- Đây là một thanh bảo kiếm, có đại phước mới vào tay. Tôi giữ
hộ cho anh, ngày sau sẽ giao lại.
Đoạn bảo Nhạc:
- Lúc này là lúc kẻ anh hùng có thể dựng nên nghiệp cả. Anh
không nên để lỡ thời cơ.
Ý quật cường vốn đã nhen nhúm trong người, nhưng Nhạc từ tốn
thưa:
- Con tự xét không đủ tài sức.
Công ôn tồn nói:
- Hán Cao Tổ, Lê Thái Tổ đâu có phải từ trên trời sa xuống.
Người có chí hễ nắm được thiên thời, địa lợi, nhân hòa thì đại sự thành công
không mấy khó khăn. Hiện giờ Trương Phúc Loan chuyên quyền làm những việc gian
ác, triều đình đảo điên, nhân tâm ly tán. Nếu có người phất cờ khởi nghĩa thì bốn
phương thiên hạ đều hưởng ứng ngay. Đất Tây Sơn núi non hiểm trở có cái thế
bách nhị [8] tới lui
không sức ngoài nào có thể ngăn cản. Anh chỉ có phải lo việc tài chánh và quân
sự nữa là có thể hưng binh.
Rồi gọi ông Huệ ra, bảo:
- Con nay đã lớn khôn, tài nghệ cũng đã vững. Con hãy về nhà
giúp anh.
Công lại tặng cho hai anh em hai bộ binh pháp, một của Tôn
Ngô, một của Trần Hưng Đạo.
Hai anh em bái biệt sư phụ về lo việc xây dựng sự nghiệp anh
hùng.
Ông Huệ về nhà kết duyên cùng bà Phạm Thị Liên người thôn Phú
Phong huyện Tuy Viễn.
Ông Nhạc giao việc buôn trầu cho vợ. Bà Nhạc họ Trần quê ở
thôn Trường Định cách Kiên Mỹ hai thôn là Thuận Nghĩa và Dõng Hòa, về phía
đông. Bà là người hiền đức, làm việc siêng năng, ăn tiêu kiệm ước, nhưng đối
đãi với làng xóm, khách khứa và bạn hàng lại rất rộng rãi dịu dàng. Vì vậy từ
khi quyền điều khiển trường buôn trầu vào tay bà, thì lợi hàng ngày có tăng chớ
không có giảm. Ông Nhạc được rảnh tay để lo việc nước việc dân [9].
Cho rằng mối lợi về việc buôn trầu không thấm vào đâu đối với
đại sự, một mặt ông lo tổ chức việc đánh bạc, mặt khác tổ chức việc khẩn hoang.
Và nghĩ rằng một cây làm chẳng nên non, ông bèn sai ông Huệ đi liên lạc cùng những
người có tiếng về văn về võ ở khắp ba huyện Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn.
Hợp tác cùng anh em ông Nhạc sớm nhất là:
- Nguyễn Thung một phú nông ở Thuận Nghĩa là một thôn trù phú
ở sát Kiên Mỹ về phía đông.
- Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú ở thôn Phú Phong, ở phía nam ngạn
sông Côn, nằm song song với Kiên Mỹ.
- Bùi Thị Xuân, người thôn Xuân Hòa ở dưới Phú Phong, và chồng
là Trần Quang Diệu, người Ân tín huyện Hoài Ân.
Đó là những tay võ giỏi. Còn bên văn thì có:
- Võ Xuân Hoài, ở Phú Phong, đồng tông nhưng khác chi với ông
Dũng, ông Tú.
- Trương Mỹ Ngọc ở An Nhơn.
Mọi người đều được phân công rành mạch. Người thì lo việc
kinh tế tài chánh, người thì lo việc nhân sự, người thì lo việc quân sự.
Sòng bạc mỗi ngày mỗi mở rộng. Trong số con bạc có nhiều tay
dũng sĩ có đại chí. Sòng bạc trở thành nơi vừa làm lợi vừa chọn nhân tài.
Ông Nhạc cho khẩn hoang nhiều diện tích rộng lớn tại An Khê,
tại Thượng Giang (Tây Sơn Trung), Đồng Hưu, Đồng Vụ (Phú Phong, Trinh Tường), Đồng
Quang (Thuận Ninh) vân vân... Những đồng bào mộ đi khai khẩn, phần đông trở
thành nghĩa quân.
Nguyễn Nhạc tìm cách đánh lạc hướng để bọn quan lại của chúa
Nguyễn không dò được chí hướng của mình.
Nguyên để thu thuế vùng Tây Sơn, viên tuần phủ Quy Nhơn cho lập
một đồn chính ở Trinh Tường và một đồn phó ở Hữu Giang, do một biện lại và một
phó biện lại chỉ huy. Từ ngày Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi chúa (1765), Trương
Phúc Loan lộng hành, trong nước giặc cướp nổi dậy khắp nơi, người ấp Tây Sơn
không chịu nạp thuế. Biện lại, phó biện lại luôn luôn bị cách chức vì bất lực.
Không còn ai dám nhận chức biện lại. Ông Nhạc tình nguyện đảm đương. Đồng bào
trong vùng đã sẵn lòng mến mộ ông Nhạc, nên chỉ những người nghèo khổ không đủ
khả năng mới trốn thuế. Những phần thuế bị thiếu, ông Nhạc xuất tiền nhà bù
vào. Quan trên thấy ông Nhạc đắc lực bèn đem lòng tín nhiệm. Nhân dân thấy ông
Nhạc biết thương kẻ nghèo, đã phục càng thêm phục. Trên được quan tin dưới được
dân mến ông Nhạc được ung dung lo việc của mình, không còn sợ ai dòm ngó.
Tài chánh mỗi ngày mỗi thêm dồi dào, những tay văn hay, võ giỏi
mỗi ngày tụ hội mỗi thêm đông, những tráng niên, thanh niên có gan có sức, đến
với các tráng sĩ để học võ và khai khẩn đất hoang, mỗi ngày mỗi thêm tấp nập.
Nguyễn Nhạc bèn xuống An Thái trình bày mọi việc cho thầy rõ. Trương công rất mừng,
lấy thanh kiếm cổ đem giao lại cho ông Nhạc:
- Đã đến lúc dùng đến rồi. Cần phải lo củng cố nhân tâm và biểu
dương thanh thế.
Nguyễn Nhạc lĩnh ý ra về.
Một hôm, người thôn Phú Lạc nghe trên hòn Trưng Sơn có tiếng
chiêng trống và thấp thoáng có ánh lửa lập lòe. Ai nấy đều thất kinh!
Hòn Trưng Sơn tuy ở gần thôn xóm, nhưng không mấy ai dám vào,
vì trên hòn có “mả mẹ chàng Lía” rất linh thiêng và có nhiều cọp. Nghe tiếng
chiêng tiếng trống và thấy ánh lửa, người thì bảo rằng hồn chàng Lía về thăm mẹ,
người thì cho là quỷ thần mở hội vui. Kẻ bàn người tán, không mấy chốc đồn vang
khắp vùng, khắp huyện, rồi khắp cả hai huyện ngoài. Một đồn mười, mười đồn
trăm. Các thầy tướng số bảo rằng đó là tú khí của non sông xuất hiện, là điềm
cho biết trước rằng trong vùng sẽ có chân chúa ra cứu đời.
Tin đồn khắp nơi. Nhân dân chịu đã không nổi ách chuyên chế của
Vua chúa nhà Nguyễn, ai nấy đều hy vọng sớm có cuộc đổi thay và mọi người đều
hướng tâm về nẻo Trưng Sơn.
Cách đó không lâu nhà Nguyễn Nhạc có kỵ. Khách khứa đông đúc.
Cỗ bàn ăn xong thì trời đã khuya. Người ở gần thì lục tục ra về, khách ở xa đều
phải nghỉ lại. Bỗng cảnh tượng hôm trước tái hiện nơi Trưng Sơn. Lần này tiếng
chiêng tiếng trống lại rền trời, và ánh lửa lại sáng ngời cả núi. Tuy đã trông
thấy cảnh tượng đó lần thứ hai, người trong vùng vẫn kinh sợ, và các tay võ sĩ
tuy xem thường gươm giáo, nhưng lắm người cảm thấy ớn lạnh châu thân.
Nguyễn Nhạc rủ mọi người lên xem “quỷ thần làm trò gì”. Phần
đông đều e ngại. Chỉ có chừng mười người xin theo.
Nai nịt gọn gàng, chân vũ hài, tay trường kiếm, trường côn,
đoàn người mạnh dạn lên núi. Tiếng trống chiêng dứt, ánh lửa tắt dần. Khi lên gần
tới đỉnh, thì trong ánh sáng chập chờn, thấy hiện ra một lão trượng mặc triều
phục, râu tóc bạc phơ. Lão trượng phất tay áo, ra dấu bảo đoàn người dừng lại.
Ai nấy đều ớn lạnh, đứng lại như cái máy. Lão trượng cất tiếng lanh lảnh hỏi:
- Trong anh em có ai là Nguyễn Nhạc chăng. Nếu có thì hãy đến
gần đây nghe lệnh. Còn các người khác thì đứng yên.
Nguyễn Nhạc run sợ bước đến quỳ trước mặt lão trượng. Lão trượng
lấy trong tay áo rộng một tờ chiếu rồi đọc lớn:
- Ngọc Hoàng sắc mạng Nguyễn Nhạc vi Quốc Vương.
Đoạn trao tờ chiếu cho Nguyễn Nhạc rồi quay bước vào trong
bóng tối.
Từ ấy muôn người như một, trừ cụ giáo Hiến và những người tâm
huyết trong tổ chức, ai cũng tin rằng trời đã cho Nguyễn Nhạc làm vua. Lòng mê
tín không cho phép được nghi ngờ.
Đã có chiếu Trời rồi, còn phải có ấn kiếm nữa mới lên ngôi được.
Một hôm Nguyễn Nhạc cùng bộ hạ ở An Khê về, đến Hoành Sơn thì
ngựa Nguyễn Nhạc lồng lên, rồi thẳng cổ chạy nước đại. Nhưng không chạy tẽ ra
hướng bắc để về Kiên Mỹ, lại chạy về hướng đông nam. Đến chân núi phía trong Gò
Sặt, cương ngựa bị đứt. Nguyễn Nhạc té nhào xuống ngựa, trặc chân không đứng dậy
được. Đám tùy tùng chạy đến xoa bóp hồi lâu mới bớt. Khi đứng dậy để ngựa trở về
thì Nguyễn Nhạc chợt thấy chuôi kiếm ló ra nơi vách đá trên sườn núi. Sai người
lên xem thì là một thanh kiếm xưa lưỡi sáng như nước. Ai nấy đều mừng là của
“Trời ban” [10].
Về nhà Nguyễn Nhạc nói cùng hai em và các đồng chí:
- Ngọc Hoàng đã sắc phong ta làm Quốc Vương, lẽ tất nhiên là
phải ban ấn kiếm. Nay kiếm đã có rồi, ta phải đi tìm ấn.
Đoạn tổ chức lễ cầu đảo tại chân núi Hoành Sơn.
Cầu đảo ba ngày đêm. Đêm làm lễ, ngày cho người đi tìm khắp
vùng trên núi và dưới núi. Đã hai ngày đêm rồi mà không thấy chi cả. Đêm thứ
ba, lúc nửa đêm, chiêng trống hành lễ vừa dứt, thì một vòi lửa như một làn pháo
thăng thiên, bay từ hòn Một xẹt đến hòn Giải thì rơi xuống. Tiếp đó một tiếng nổ
nhỏ như tiếng pháo tre, rồi một tiếng nổ lớn có phần dữ dội như tiếng sét làm
chấn động cả vùng. Ai nấy đều thất kinh. Sáng hôm sau, Nguyễn Nhạc dẫn người đến
hòn Giải xem, thì thấy sườn núi phía nam có một vùng lở và nám đen như bị sét
đánh. Trèo lên xem thì thấy một quả ấn vàng nằm trong kẻ đá nơi bị lở. Quả ấn
vuông vức, mỗi cạnh dài độ ba lóng tay, nơi mặt khắc bốn chữ triện “Sơn hà Xã tắc” [11].
Ai nấy tin rằng Nguyễn Nhạc quả có chơn mạng.
Nguyễn Nhạc được các người cùng hợp tác và các nhân sĩ đồng
bào địa phương tôn làm Tây Sơn Vương.
Đó là vào năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32, Định Vương
Nguyễn Phúc Thuần thứ 6, tức năm 1771.
Nguyễn Nhạc tổ chức lại cơ sở:
- Quân sự giao cho Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng,
Võ Đình Tú.
- Kinh tế tài chánh giao cho Nguyễn Thung, Bùi Thị Xuân và
Nguyễn Lữ.
- Dân sự (hành chánh, ngoại giao, tuyên truyền...) giao cho
Võ Xuân Hoài và Trương Mỹ Ngọc.
Đất Tây Sơn trở thành một nước nhỏ.
Mọi tổ chức được thực hiện trong im lặng.
Lòng dân địa phương lại hướng hoàn toàn về Nguyễn Nhạc. Viên
tri huyện Tuy Viễn không hay biết chi cả. Nhưng vì biện lại đồn Tây Sơn (có tên
là Vân Đồn) không chịu nạp thuế trong hai năm liền, viên tri huyện sai Đốc
Trung Đằng đem quân lên vấn tội. Quân của Đằng bị quân Tây Sơn đánh bại [12].
Nhưng Nguyễn Nhạc và bộ tham mưu nhận thấy địa thế Tây Sơn Hạ
không được an toàn, bèn dời tổng hành dinh và các cơ quan trọng yếu lên Tây Sơn
Trung. Lấy dãy núi ở dưới đèo An Khê làm mật khu. Nguyễn Nhạc cùng bộ tham mưu
đóng ở hòn núi cao nhất nằm phía nam chân đèo, Nguyễn Huệ cùng Trần Quang Diệu,
Võ Văn Dũng đóng tại hòn núi phía bắc. Do đó mà hai ngọn núi này mang tên là
núi Ông Bình và núi Ông Nhạc.
Khu kinh tế tài chính vẫn đóng ở Tây Sơn Hạ. Và những nơi đã
được khai khẩn tiếp tục tăng gia sản xuất. Trường trầu vẫn phát triển đều đặn.
Các phú gia ở khắp Tuy Viễn nhiệt liệt ủng hộ. Kho lẫm được canh coi chu đáo.
Tiền, lúa nhiều nhưng không hề bị thâm lạm.
Thanh thế của Tây Sơn Vương mỗi ngày mỗi thêm vững vàng vang
dội. Kẻ sĩ gần xa được mời tham gia liền hưởng ứng. Bên văn có Triệu Đình Tiệp
người An Nhơn. Cao Tắc Tựu người Phù Mỹ, La Xuân Kiều người Phù Cát... bên võ
thì có Nguyễn Văn Tuyết, người An Nhơn, Nguyễn Văn lộc người làng Kỳ Sơn (Tuy
Phước), Lý Văn Bưu người Phù Cát, Lê văn hưng người Tuy Viễn... đều là những
người có tài có chí.
Quân lính mộ thêm nhiều. Những người trước kia lo việc sản xuất,
nếu tình nguyện, đều được đưa sang làm lính. Và tất cả quân sĩ, cứ sáu tháng ở
trong quân đội, sáu tháng về các nông trại để vừa nghỉ ngơi vừa cày cuốc. Trong
đám quân sĩ có một người, khi tập đã làm cho cấp chỉ huy thán phục là Lê Văn
Hưng ở Kiên Dõng (Bình Khê). Ông này côn quyền đã tinh luyện, sức mạnh có thể
nâng đá nhẹ nhàng như xách gàu nước, bưng nồi cơm. Nhập ngũ không bao lâu được
làm đội trưởng.
Nghe tin Nguyễn Nhạc “bị truy nã gắt gao vì thâm lạm công quỹ,
chạy vào núi chiêu tập bọn vong mạng định làm giặc”, viên tuần phủ Quy Nhơn là
Nguyễn Khắc Tuyên cho quân lính đi lùng bắt. Nhưng nhiều lần quan quân đến Tây
Sơn Hạ thấy nhân dân làm ăn yên ổn, không thấy dấu vết của giặc đâu cả, Tuyên
cho là tin đồn nhảm, nên thôi đem quân càn quét vùng Tây Sơn.
Đỡ tốn công đối phó với kẻ thù, Tây Sơn Vương lo phát triển lực
lượng.
Nhận thấy người Thượng bắn ná giỏi, lại có sức mạnh và có đức
tính chịu đựng bền bỉ, Nguyễn Nhạc quyết định dùng chính sách Thượng vận để lôi
kéo các sắc tộc Xà Đàng (Sédang), Rađê (Rhade), Giarai (Djarais) về với mình.
Vương đã được người miền núi biết đến qua chuyện được kiếm thần.
Trong dân gian Thượng cũng có chuyện được gươm thần như sau:
Truyền rằng xưa kia Vua Chiêm bắt được một thanh gươm thần.
Vua Chân Lạp bắt được vỏ gươm. Vua Chiêm xây một tháp cao để tàng trữ gươm thần.
Đêm đêm gươm tỏa sáng xa hàng vạn trượng. Vua Chân Lạp phải đem vỏ gươm đến
dâng và hàng năm triều cống. Ánh hào quang của gươm tượng trưng cho thần lửa.
Thần lửa là vị thần mà người Thượng miền núi từ Quảng Nghĩa
vào Phú Yên tôn thờ do ảnh hưởng văn hóa Chiêm Thành. Đạo Minh Giáo (đạo Ma Ní)
mà ông Lữ theo cũng thờ thần lửa. Do đó, ông Lữ có khả năng thuyết phục người
Thượng dễ dàng.
Chính vì nắm được những lợi thế đó mà Nguyễn Nhạc giao quyền
điều khiển cho ông Huệ và ông Diệu, rút ông Lữ về và thân hành cùng ông Lữ lên
An Khê để vận động người Thượng.
Đã được kính một từ trước, lại thêm có thầy hỏa giáo đi theo.
Tây Sơn Vương đến đâu được người Thượng hoan nghênh đến đó. Người Giarai
(Djarais) coi Vương như thần và gọi là Vua Trời [13].
Chỉ có người Xà Đàng (Sédang) mà chúa đoàn là Bok Kiơm không phục. Bok Kiơm
nói:
- Ông Nhạc không phải người trời vì không có gì khác thường.
Để tỏ ra mình khác thường, Nguyễn Nhạc dùng giỏ bội gánh nước
đi ngang qua buôn Xà Đàng mỗi buổi sáng sớm [14].
Bok Kiơm cho rằng có phù phép, chớ không phải có tài trời
sanh, bảo:
- Nếu ông bắt được con ngựa thần thì tôi mới phục.
Nguyên trên núi Hiển Hách, tục gọi là Hánh Hót ở vùng An Khê
có một bầy ngựa rừng hễ thấy bóng người là chạy tránh. Con ngựa cầm đầu sắc trắng
tinh, lông gáy và lông đuôi dài và óng như tơ, tiếng hí vang cả rừng và nghe xa
hàng chín mười dặm thẳng. Người Thượng gọi là Ngựa Thần.
Phải bắt cho được con ngựa thần ấy mới thu phục được người Xà
Đàng, mà có thu phục được người Xà Đàng thì vùng Tây Nguyên mới thật là đất Tây
Sơn, vì An Khê người Xà Đàng ở đông đảo nhất. Nguyễn Nhạc để Nguyễn Lữ ở lại
tuyên truyền, một mình về Kiên Mỹ cho người đi mua một số ngựa cái lớn tốt, đem
về dạy cho khôn, hễ nghe tiếng hú là chạy đến. Bầy ngựa đã thành thục, Nguyễn
Nhạc đem lên thả trên núi Hiển Hách cho theo bầy ngựa rừng. Ít hôm ngựa rừng và
ngựa đồng quen nhau. Hễ nghe tiếng hú thì ngựa đồng chạy về, ngựa rừng cũng chạy
theo, nhưng vừa thấy bóng người thì quay đầu trở lại, nhưng chạy một đỗi xa xa
thì quay đầu ngó lui. Nguyễn Nhạc lấy cỏ bỏ cho ngựa ăn, rồi trở về. Ngựa rừng
liền quay trở lại ăn cỏ cùng ngựa đồng. Lần này ngựa rừng thấy bóng người không
còn có vẻ hoảng sợ nữa, nhưng không dám lại gần. Nguyễn Nhạc không bỏ đi, đứng
vuốt ve bầy ngựa, hết con này đến con khác. Mấy hôm sau bầy ngựa rừng nhận thấy
người không có ý làm hại giống nòi, bèn kéo đến ăn cỏ. Khi bầy ngựa rừng đã dạn,
Nguyễn Nhạc đem cỏ bỏ gần cho ăn, rồi từ từ tiến đến vuốt mõm vuốt lưng hết con
này đến con khác. Con ngựa bạch cầm đầu, ban sơ còn tỏ ý không thuận, nhưng dần
dần, đứng yên cho người vuốt ve.
Chinh phục được bầy ngựa rừng rồi, Nguyễn Nhạc hẹn cùng Bok
Kiơm nơi chốn và ngày giờ đến chứng kiến. Để cho bầy ngựa khỏi sợ vì đông người.
Nguyễn Nhạc bảo Bok Kiơm cùng đám tùy tùng núp sau đó rồi cất tiếng hú. Bầy ngựa
rừng theo bầy ngựa đồng chạy đến. Nguyễn Nhạc lấy cỏ cho ăn và vuốt ve như thường
lệ [15].
Người Xà Đàng tin Nguyễn Nhạc là “người Trời” thật, hết lòng
thần phục và bắt chước người Gia Rai gọi là Vua Trời.
Tiếng Vua Trời trở thành tiếng chung của người Thượng từ An
Khê trở vô Phú Yên và trở ra Quảng Nghĩa, dùng gọi Nguyễn Nhạc.
Ở trong vùng An Khê lại có một sắc tộc thiểu số ở trong rừng
sâu, ít giao thiệp với người ngoài. Đó là người Ba Na (Banard) ở trong rừng
Mộ Điểu.
Rừng Mộ Điểu ở tại làng Cổ Yêm cách Tú Thủy chừng mười, mười
hai cây số.
Rừng rộng mênh mông. Giữa rừng nổi lên một ngọn đồi trông giống
một hòn cù lao ở giữa biển cả. Mỗi buổi chiều, chim về nghỉ từng bầy, từng đám,
tiếng kêu vang dậy cả rừng xanh. Do đó rừng mang tên là Mộ Điểu.
Tuy ít giao thiệp với bên ngoài, vị đầu mục Ba Na cũng đã có
nghe tiếng Vua Trời. Vì vậy không mấy chốc hai bên đã trở nên thân thiện. Để mối
tình Kinh Thượng thêm nồng nàn khăng khít, viên đầu mục gả con gái cho Vua Trời,
bà vợ Thượng của Vương, tục gọi là Cô Hầu.
Nhận thấy đất đai trong rừng rất màu mỡ, Nguyễn Nhạc liền nghỉ
đến việc khai khẩn. Vương mộ người Thượng làm nhân công và rút một số người chỉ
huy kinh tế ở Tây Sơn Hạ lên điều khiển. Rừng Mộ Điểu nhờ sức lao động của người
Thượng - nhờ tài hướng dẫn của người Kinh, trở thành một cánh đồng phì nhiêu rộng
hàng nghìn mẫu. Việc khai khẩn, việc canh tác, việc thu hoạch do Cô Hầu đảm
đương với một số người Kinh, người Thượng tâm phúc trợ lực [16].
Nguyễn Nhạc dùng phần lớn thì giờ để cùng Nguyễn Lữ đi chiêu
dụ các sắc dân miền Kon Tum, Pleiku. Hai anh em đi đến đâu thì người Thượng
hoan nghênh đến đó. Cho nên tất cả người Thượng vùng cao nguyên đều quy thuận
Tây Sơn Vương.
Vương chọn trong những người khẩn hoang một số tráng niên có
sức, có gan và mộ thêm người trong các vùng lân cận, tổ chức thành một đạo quân
Thượng. Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết và Lê Văn Hưng được đưa lên phụ trách việc
huấn luyện và việc tổ chức. Dinh trại đóng trên ngọn đồi. Những binh sĩ người
Thượng đã được huấn luyện thuần phục đều đưa xuống giao cho Nguyễn Huệ và Trần
Quang Diệu rèn luyện thêm và khép vào đội ngũ.
Nguyễn Nhạc khi ở Mộ Điểu khi về trung nguyên, thái độ nghiêm
nhưng hòa, xử sự có tình nhưng không bỏ lý. Cho nên mọi người vừa kính sợ vừa
yêu mến. Các anh hùng chí sĩ đến cùng Nguyễn Nhạc đều coi nhau như tay chân và
hết lòng giúp Tây Sơn Vương dựng nghiệp cả.
Nhờ vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn, từ ngày rời chiến
khu lên Tây Sơn Thượng (1771), nhà Tây Sơn đã có cơ sở vững chắc.
Lúc bấy giờ vùng Tây Sơn còn thuộc về khu vực hẻo lánh, nhân
dân trong vùng lại một dạ trung thành với nhà Tây Sơn, nên quan quân của chúa
Nguyễn không hề hay biết. Tên biện lại “thâm lạm tiền công quỹ” cũng không còn
ai nhắc nhở đến. Tri huyện, tuần phủ chỉ lo vơ vét cho đầy túi, không lo gì đến
biến chuyển của thế cuộc.
Chú thích:
[1] Trĩ: có nghĩa là núi. Đối trĩ: chỉ hai ngọn núi đối nhau.
[2] Hàn mặc: văn chương.
2 Trụ ba biểu: trụ vôi, có hình hoa
sen trên đầu.
[4] Trong Nước non Bình Định đã nói kỹ càng về núi sông vùng Tây Sơn. Ở
đây chỉ rút những nét đại cương và chỉ đề cập đến những ngọn núi có để dấu hoặc
nhiều hoặc ít của cuộc khởi nghĩa của nhà Tây Sơn.
[5] Quy Nhơn là tên phủ thuộc dinh Quảng Nam, phủ Quy Nhơn chia làm ba
huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn. Sau này Quy Nhơn đổi ra Bình Định và các huyện.
Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn bị cắt chia làm bảy huyện:
- Tuy Viễn chia ba: Bình Khê, An Nhơn, Tuy Phước.
- Phù Ly chia hai: Phù Cát và Phù Mỹ.
- Bồng Sơn chia hai: Hoài Nhơn, Hoài Ân.
[6] Kiên Mỹ ở dưới Phú Lạc, Phú Lạc không có chợ. Bến sông đò đậu để
buôn trầu gọi là bến Trường Trầu, gọi tắt là bến Trầu, hiện vẫn còn.
[7] Theo “Tây Sơn nhân vật chí” của Đinh Sĩ An, thời Cảnh Thịnh.
[8] Bách nhị: lấy từ chữ “bách nhị sơn hà” chuyện hai người dựa vào thế
núi hiểm trở chống lại một trăm người mà không bị đánh bại.
[9] Xem tiểu sử bà Nhạc ở đoạn sau (đoạn nói về ông Nguyễn Văn Tuyết).
[10] Núi này mang tên Kiếm Sơn là do tích “được kiếm” của Nguyễn Nhạc. Sử
sách chép rằng ông Nhạc lượm được gươm tại núi An Dương. Sự thật đó là thanh cổ
kiếm cụ giáo Hiến giữ giùm cho ông Nhạc.
[11] Hòn Giải có tên là hòn Trống (cổ sơn) lại thêm tên hòn Ấn, (Ấn
Sơn).
[12] Sử nhà Nguyễn chép rằng Nguyễn Nhạc thua bạc hết tiền thuế, bị truy
nã, do đó chạy vào rừng làm giặc.
[13] Người Gia Rai coi bộ lạc mình là con cháu chính thống của thần Lửa
cho nên đã mang tên của thần Lửa là Giarai (Djarais).
[14] Không có gì lạ: Lấy giấy trắng tốt nhúng dầu trong phơi khô rồi phất
trong lòng giỏ bội. (Giấy nhúng dầu xong để khô trông giống tờ ni lông). Đổ nước
vào giỏ, nước không chảy, giấy không bị ướt.
[15] Con bạch mã sau này trở thành một chiến mã. Khi ông Nhạc qua đời,
ngựa trở về núi.
[16] Rừng Mộ Điểu sau trở thành cánh đồng gọi là cánh đồng Cô Hầu và ngọn
núi ở giữa đồng bào đặt tên là núi Hoàng Đế.
Nhà Tây Sơn - 2
TÂY SƠN KHỞI NGHĨA
Cơ sở đã vững vàng, quân sĩ, vũ khí, lương thực tạm đầy đủ,
Nguyễn Nhạc xuống An Thái thỉnh giáo thầy, Trương Văn Hiến đáp:
- Khởi sự được rồi.
Nguyễn Nhạc xin thầy lên nắm quyền chỉ đạo, Trương công nói:
- Ông là người trí dũng có thừa. Huống nữa văn nhân võ sĩ về
với ông đều là những anh hùng hào kiệt. Tôi tuổi già sức yếu, chỉ mong được hưởng
chữ nhàn. Nhưng khi có việc cần, tôi sẵn sàng góp sức.
Công lại dặn:
- Ba yếu tố cần thiết để thành công, ông đã có đủ. Nhưng luôn
luôn phải giữ vững nhân tâm. Được đất không bằng được thành, được thành không bằng
được lòng người.
Nguyễn Nhạc bái tạ về, lo chỉnh đốn quân ngũ, sắm kỳ hiệu, đặt
quan chức.
Quân chia làm ba đạo:
- Một đạo lo canh phòng chiến khu, tiếp tục tuyển mộ và huấn
luyện binh sĩ, đô đốc việc sản xuất và giữ an ninh trật tự ở vùng Tây Sơn.
- Một đạo xuống đánh chiếm huyện lỵ Tuy Viễn.
- Một đạo ra chiếm giữ vùng núi hai huyện Phù Ly, Bồng Sơn
sau khi huyện lỵ Tuy Viễn bị hạ.
Đạo thứ nhất giao cho Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân, Võ Đình Tú,
Võ Xuân Hoài.
Đạo thứ nhì do Nguyễn Nhạc thống lãnh, có Nguyễn Văn Tuyết,
Nguyễn Văn Lộc bên võ, Trương Mỹ Ngọc, Triệu Đình Tiệp bên văn phò tá.
Đạo thứ ba do Trần Quang Diệu chỉ huy, có Võ Văn Dũng, Lê Văn
Hưng bên võ, La Xuân Kiều, Cao Tắc Tựu bên văn cộng tác.
Kỳ hiệu hình vuông, nền đỏ, chữ vàng, viền ngoài và tua xanh.
Đại kỳ thêu kim tuyến ba chữ Tây Sơn Vương.
Quân kỳ nhỏ thua đại kỳ một mười một tám, thêu chỉ vàng họ và
chức vị cấp chỉ huy.
Quan chức, đại loại gồm có: Bên võ: Đại Tổng Quản, Đại Đô Đốc,
Đô Đốc, Đề Đốc. Bên văn: Đại Học Sĩ, Hiệp Biện Đại Học Sĩ.
Nguyễn Huệ được phong Đại Tổng Quản.
Bùi Thị Xuân, Võ Đình Tú được phong Đại Tổng lý.
Võ Xuân Hoài được phong Đại Học Sĩ.
Phong Trần Quang Diệu làm Đô Đốc, Võ Văn Dũng là Phó Đô Đốc,
Lê Văn Hưng làm đề đốc.
Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc làm Tả Hữu Đô Đốc.
Các quan văn đều được phong Hiệp Biện Đại Học Sĩ.
Việc vận tải lương thực giao cho Nguyễn Lữ và Nguyễn Thung với
chức tán tương quân vụ. Nguyễn Thung lo mặt Bắc, Nguyễn Lữ lo mặt Nam.
Việc sơn phòng giao trọn cho chúa Xà Đàng Bok Kiơm. Các sắc tộc
vùng An Khê, Pleiku, Kon Tum đều thuộc quyền quản lý của Bok Kiơm, Nguyễn Nhạc
tặng Bok Kiơm một nón lông đen chớp bạc quai tua điều, một con chiến mã và một
cây mác bạc.
Còn bà họ Trần và Cô Hầu vẫn tiếp tục việc buôn trầu, làm ruộng,
với sự trợ lực của Bùi Thị Xuân.
Mọi việc an bài, Nguyễn Nhạc lập đàn cáo Trời Đất, hợp thức
hóa danh vị chức chưởng của chúa tôi và tế cờ xuất quân.
Đàn lập trên đèo An Khê, nơi nghẹo Cây Khế, dưới bóng hai cây
đại thọ: Cây ké, cây cầy.
Binh tướng của ba đạo quân tập trung về phía đông đèo An Khê
từ chân đèo đến đỉnh đèo.
Khi đại quân đến gần tế đàn thì từ trên cây ké một con rắn bò
xuống. Con rắn này thân lớn bằng cột nhà. Sắc đen hánh như hạt huyền, người
đương thời gọi là Ô Long, nằm chận ngang đường đi. Quân không dám tiến, Nguyễn
Nhạc liền tuốt gươm chém chết. Nhớ chuyện Hán Cao Tổ chém rắn khởi nghĩa, tướng
sĩ tin là điềm lành, ai nấy đều nức lòng phấn chí.
Lễ tổ chức đơn giản nhưng long trọng.
Bóng cờ đào chen bóng cây xanh, tiếng chuông trống lẫn tiếng
hô của tướng sĩ, tràn ngập, vang dội cả suối rừng. Hùng khí ngút ngàn.
Lễ tất, Tây Sơn Vương ban bố quân luật, gồm ba điều:
w Không được xâm phạm tánh mạng và tài sản của đồng bào.
w Không được tiết lộ bí mật quân sự.
w Không được gây xáo trộn, chia rẽ trong hàng ngũ.
Ai phạm phải một trong ba điều, sẽ bị chém tức khắc.
Tiếng hoan hô vang rừng.
Rồi lệnh truyền xuất phát.
Đạo quân Nguyễn Huệ kéo về chiến khu.
Đạo quân Trần Quang Diệu theo đường núi ra hướng bắc.
Đạo quân Tây Sơn Vương kéo thẳng xuống hướng đông.
Đó là ngày rằm tháng tám năm Quý Tỵ (1773).
Đạo quân của Tây Sơn Vương xuống đến núi Bà Phù thì trời xẩm
tối. Vương truyền quân dừng lại nghỉ. Đêm đến mở yến tiệc đãi tướng sĩ tại
thung lũng dưới chân núi Bà Phù. Sáng hôm sau mới tiếp tiến phát.
Nhân đồn binh được yên ổn và yến ẩm được vui vầy. Vương đặt
tên hòn Bà Phù là Tâm Phúc, và người địa phương gọi thung lũng Bà Phù là Hóc Yến.
Sáng ngày 16, gà vừa cất tiếng gáy, đạo quân của Tây Sơn
Vương đã thức dậy lên đường.
Nguyễn Lữ đã chuẩn bị sẵn sàng tại chân núi Đồng Phong để đón
tiếp.
Đến Đồng Phong tướng sĩ dừng lại ăn uống và lãnh lương thực,
rồi đi thẳng một mạch đến huyện lỵ Tuy Viễn. Binh đi như gió. Mặt trời vừa mọc
thì huyện lỵ đã bị bao vây. Tiếng quân hò hét dậy đất. Viên tri huyện hết hồn bỏ
trốn. Nhân viên trong huyện và tất cả lính huyện đều xin đầu hàng.
Tây Sơn Vương ban lời phủ dụ. Trong công phủ ngoài nhân dân,
mọi người đều hoan hỉ. Những nhà khá giả đem bò heo gạo trái đến đãi nghĩa
quân.
Nghe Tây Sơn Vương chiếm đóng Tuy Viễn, một phú thương ở Cửa
Giã [1] là Huyền Khê đem gia nhân trên mười người đến xin gia nhập
nghĩa quân và cúng tất cả tài sản để làm lương thực. Tiếp theo đó, hai thủ lãnh
lục lâm ở nguồn An Tượng [2] là Nhưng Huy và Tứ Linh đem lâu la đến xin quy thuận.
Tây Sơn Vương thu nạp và trọng dụng.
Vương giao Tuy Viễn cho Nguyễn Văn Tuyết và Huyền Khê đóng giữ,
rồi kéo đại binh ra đánh thành Quy Nhơn.
Được tin Tuy Viễn đã vào tay nghĩa quân rồi. Trần Quang Diệu
liền chia đại binh mình chỉ huy ra làm ba đội. Một đội giao cho Lê Văn Hưng ở lại
hậu phương. Một giao cho Võ Văn Dũng cùng Cao Tắc Tựu đi đánh Bồng Sơn, còn
mình lãnh một đạo đi đánh Phù Ly cùng La Xuân Kiều.
Bồng Sơn và Phù Ly, nghĩa quân kéo đến, chưa đánh đã lấy được.
Quân cũng như dân của hai huyện đều hân hoan đón tiếp nghĩa
binh.
Trần Quang Diệu để Võ Văn Dũng cùng hai học sĩ Cao, La ở lại
giữ huyện lỵ hai nơi, còn mình thì đem quân vào hợp với Tây Sơn Vương đánh
thành Quy Nhơn.
Thành Quy Nhơn là thành cũ Đồ Bàn của Chiêm Thành.
Sau khi đất Đồ Bàn thuộc về Việt Nam thì đặt thành phủ và chia
làm ba huyện. Phủ gọi là Quy Nhơn thuộc dinh Quảng Nam, huyện là Bồng Sơn, Phù
Ly, Tuy Viễn. Phủ lỵ, đóng tại thành Đồ Bàn gọi là thành Quy Nhơn, huyện lỵ Bồng
Sơn đóng trên bắc ngạn sông Lại Giang, đối diện với hòn Bích Kê ở nam ngạn. Huyện
lỵ Phù Ly đóng tại Phù Mỹ gần sông La Tinh. Huyện lỵ Tuy Viễn đóng ở nam ngạn
sông Côn cách An Thái chừng 1 cây số. Địa phận của ba huyện chạy dọc theo ba
con sông Cái: Lại Giang, La Tinh Giang, Côn giang [3].
Thành Quy Nhơn ở giữa Tuy Viễn và Phù Ly.
Tường xây bằng đá ong, trên một giải gò cao, chung quanh có
hào sâu bao bọc, thế rất vững.
Vì vậy nên quân Tây Sơn vây đánh đã ba ngày mà không lấy được.
Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên đóng cửa thành cố thủ.
Không dùng sức được, Tây Sơn Vương bèn dùng mưu.
Vương truyền lui quân rồi cho đi đóng rải rác trong những nơi
khuất tịch, nằm im chờ lệnh. Tuần Tuyên tưởng quân Tây Sơn đã kéo về núi, thông
cáo cho nhân dân ai bắt sống Nguyễn Nhạc đem nạp hoặc giết chết lấy đầu đem nạp,
sẽ được trọng thưởng. Tây Sơn Vương bèn cho đóng một chiếc cũi thật kiên cố,
bên trong có máy mở đóng, rồi tự mình vào ngồi trong cũi, bảo khiêng đem nạp
cho tuần Tuyên.
Trước khi đi, Vương ra lệnh và sắp xếp:
- Tướng sĩ phải chuẩn bị sẵn sàng, hễ nghe trong thành có tiếng
pháo nổ thì kéo vào chiếm thành.
Lựa tám quân nhân giỏi côn quyền, ăn mặc theo thường dân, để
khiêng cũi. Khi vào được cửa thành thì dùng đòn khiêng cũi làm côn tháo thanh
cũi làm gậy đánh quân giữ thành.
Cho một toán quân vài mươi người ăn mặc theo thường dân, mượn
cách nghiêm giải, mang vũ khí đi theo hai bên cũi. Tổ chức một số thường dân
cho chạy trước và chạy sau đoàn khiêng cũi, là “Đã bắt được giặc rồi đồng bào
ra coi...”.
Nhưng Huy và Tứ Linh lẩn theo đám đông người đem quân mai phục
ở hai bên cửa thành, hễ nghe pháp lệnh thì xông ngay vào thành.
Sắp đặt xong xuôi, Vương truyền quân khiêng cũi đi.
Đồng bào hai bên đường kéo ra xem đông đảo.
Tuần Tuyên nghe tin, cho người lên thành xem thử rồi truyền mở
cửa thành, nhưng chỉ cho hai người khiêng cũi vào thành. Những người khiêng lấy
cớ cũi quá nặng, hai người không khiêng nổi. Xin cho cả tám người vào khỏi cửa
rồi ra ngay. Tuần Tuyên y cho. Cũi khiêng vào thành, đồng bào lần lần giải tán.
Cũi vừa qua khỏi cửa thành, cánh cửa chưa kịp đóng Tây Sơn
Vương liền mở cũi chạy ra, rút kiếm dấu sẵn trong người, chém chết viên đội trưởng
giữ cửa, tám nghĩa quân khiêng cũi, lớp côn lớp quyền, đánh tan toán giữ cửa, mở
rộng cửa thành và đốt pháo hiệu truyền lệnh... Nghĩa quân do Nhưng Huy và Tứ
Linh điều khiển và những người cầm vũ khí khi bị tuần tuyên cản không cho vào
còn đứng đợi trước thành ngheo pháo lệnh, liền kéo ùa vào thành một cách thần tốc,
vừa chạy vừa reo hò. Tuần Tuyên khiếp đảm, dắt gia đình lẻn ra cửa sau chạy trốn.
Quân lính và quan lại trong thành như rắn không đầu, đều quy hàng Tây Sơn
Vương.
Kế đó quân Trần Quang Diệu và chư tướng lần lượt kéo tới, lớp
vào thành, lớp đóng giữ bên ngoài phòng việc bất trắc [4].
Tây Sơn Vương giao thành cho Trần Quang Diệu và các tướng
đóng giữ, tự mình đem hai quân đoàn xuống Càng Rang, nước ngọt, đánh lấy hai
kho lương thực. Hai viên quan giữ kho là Đốc Trưng Đằng và Khâm Sai Lượng chống
cự. Lượng bị giết, Đằng tẩu thoát. Vương cho chở hết lương thực về thành Quy
Nhơn.
Thành Quy Nhơn hạ xong, địa phận phủ Quy Nhơn từ nguồn chí bể
thuộc về nhà Tây Sơn. Tháo được ách tham quan Nguyễn Khắc Tuyên, người người đều
hoan hỷ và đều nguyện một lòng trung thành cùng Tây Sơn Vương.
Tây Sơn Vương dùng thành Quy Nhơn làm căn bản. Ngọn cờ đào
thêu kim tuyến bay phất phới trên kỳ đài, hiên ngang rực rỡ.
Mọi việc về quân sự dân sự đều được sắp xếp lại.
Quân chia làm năm đồn Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu do các Đô Đốc
chỉ huy. Lính cũ của chúa Nguyễn xin ở lại đều được sắp xếp vào hàng ngũ theo cấp
bậc đã có trước. Người nào muốn xin về thì cho về không điều kiện.
Các quan lại đầu hàng đều được giữ nguyên chức vụ, nhưng thuộc
quyền điều khiển của các Đại Học Sĩ Tây Sơn.
Các huyện lỵ Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn, mỗi huyện có một Đề
Đốc và một học sĩ quản lý.
Mặc dù thành Quy Nhơn đã trở thành căn cứ chiến đấu, chiến
khu Tây Sơn vẫn giữ y nguyên và vẫn tiếp tục phát triển kinh tế và quân sự.
An ninh và trật tự trong toàn phủ được giữ gìn chu đáo. Không
một vụ lộn xộn xảy ra trong lúc giao thừa.
Sắp xếp xong mọi việc trọng yếu, Tây Sơn Vương chuẩn bị mở rộng
phạm vi Quy Nhơn về mặt Nam, mặt Bắc.
Chú thích:
[1] Cửa Giã là Quy Nhơn hiện thời, Huyền Khê là hiệu.
Tên thật không rõ.
[2] Nguồn An Tượng nằm trong dãy núi phía Nam của huyện Tuy
Viễn. Nhưng Huy, Tứ Linh là 2 kép hát, hát hay võ giỏi.
[3] Sau này Bồng Sơn chia làm hai là Hoài Nhơn và Hoài Ân.
Phù Ly chia làm hai là Phù Cát ở trong Phù Mỹ ở ngoài. Tuy Viễn chia làm ba là
Bình Khê ở trên và nằm trọn trong ấp Tây Sơn cũ. An Nhơn ở giữa, Tuy Phước ở cuối
và chạy xuống tới biển Thị Nại.
[4] Đại Nam Chánh biên Liệt truyện và Khâm Định Việt sử Thông
Giám Cương Mục có chép rõ việc Nguyễn Nhạc dùng mưu vào thành làm nội ứng.
Nhưng lại chép người từ ngoài đánh vào là Nguyễn Thung, vào hạ thành lúc ban
đêm. Nhưng theo bức thư của Linh mục Jumilla de Diego đăng ở Bulletin de la
Socíeté des Etudes indochinoises, Nouvelle série, Tome XV, nos 3 et 4/1940
thì thành hạ lúc ban ngày và do đoàn quân của Nguyễn Thung và Nhưng Huy điều
khiển. Nhưng theo các phụ lão Bình Định thì Nguyễn Thung là một nhà giàu không
biết võ, lúc hạ thành Quy Nhơn đang lo vận tải lương thực.
Nhà Tây Sơn - 3
ANH HÙNG NGHĨA SĨ
GIÚP NHÀ TÂY SƠN DỰNG NGHIỆP
Vừa dựng cờ khởi nghĩa, nhà Tây Sơn đã được nhiều anh hùng
nghĩa sĩ xa gần phò tá.
Bên võ có:
- Võ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu được anh em Tây
Sơn Vương coi như cật ruột.
- Nguyễn Văn Tuyết, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Lộc, Lê Văn Hưng
được coi như tay chân.
- Nhưng Huy và Tứ Linh là hai tay lục lâm mới quy thuận, lòng
dạ chưa lường được, nhưng võ nghệ cao cường, nên vẫn được trọng dụng.
Tất cả đều là tướng tài. Mỗi người có một môn sở trường vô địch.
w Võ Văn Dũng người thôn Phú Phong, huyện Tuy Viễn (Bình Khê). Nhà
giàu. Rước thầy về học văn học võ, từ nhỏ đến lớn. Học văn thì tối. Còn học võ
thì dạy đâu nhớ đó, mỗi năm phải rước một thầy mới để thay.
Đến 20 tuổi theo người buôn ngựa vào Phú Yên. Duyên may gặp
được lão trượng họ Lương dòng dõi Lương Văn Chánh ở Tuy Hòa, dạy cho môn trường
kiếm và môn đoản đao, dạy cách đánh trên đất, cách đánh ngựa, lúc dùng một món,
lúc dùng cả đôi. Về nhà Võ Văn Dũng tập luyện ngót năm năm trời mới thành thục.
Nhớ lời thầy dặn “Học võ là để phòng thân và dẹp nỗi bất bình khi gặp, chớ
không phải để đấu sức khoe tài”. Võ giấu kín nghề riêng. Cho nên ngoài Nguyễn
Nhạc là bạn cố giao, khách võ lâm không mấy ai biết Võ thuộc hàng cao thủ.
w Bùi Thị Xuân con của Bùi Đắc Chí gọi Bùi Đắc
Tuyên bằng chú, người thôn Xuân Hòa, một thôn nằm về phía đông Phú Phong[1], vừa có sức mạnh vừa có sắc đẹp. Nữ công khéo, chữ viết đẹp.
Nhưng thích “làm con trai”, thích múa kiếm đi quyền. Nghe kể chuyện bà Trưng bà
Triệu cỡi voi đánh giặc, Bùi Thị Xuân náo nức muốn được theo gương bà Triệu bà
Trưng. Còn những chuyện Tô Tiểu Muội cùng chồng xướng họa, chuyện bà Mạnh Quang
“cử án tề mi” thì Bùi Thị Xuân cho là nhảm nhí. Lúc nhỏ đi học, thường mặc áo
con trai. Lớn lên tự chế kiểu áo các nữ hiệp vẽ trong sách mà mặc. Cha mẹ chiều
con, không nỡ lời trách cứ. Còn tiếng chê khen của người ngoài thì Bùi Thị Xuân
không bận tâm.
Năm 12 tuổi, Bùi Thị Xuân đến trường học chữ. Một hôm anh em
giễu cợt ra cho nhau câu đối:
Ngoài trai trong gái, dưa cải dưa môn
Có người đối:
Đứng xuân ngồi thung, lá vông lá chóc
Rồi vỗ tay cười ầm!
Bùi Thị Xuân cả thẹn, vùng quyền đánh vào mặt hai người sanh
sự, rồi trở về nhà. Từ ấy bỏ học chữ. Ở nhà chuyên học võ.
Trước kia không biết Bùi Thị Xuân học võ với ai và học vào
lúc nào. Nhưng từ khi bỏ học văn thì đêm đêm có một lão bà đến dạy. Dạy từ đầu
hôm đến gà gáy lần thứ nhất thì bà lão lui gót. Không ai hiểu lai lịch ra sao.
Suốt ba năm trời, trừ những khi mưa gió, đêm nào bà lão cũng đến cũng đi đúng
giờ giấc. Dạy quyền, dạy song kiếm. Rồi dạy cách nhảy cao nhảy xa. Nhảy cao thì
cột hai bao cát nơi chân mà nhảy, ban đầu bao nhỏ, rồi đổi bao to dần, cuối
cùng mới nhảy chân không. Còn nhảy xa thì ban đầu dùng sào, sau dùng tre tươi
ngoài bụi, níu đọt uốn cong xuống thấp rồi nương theo sức bung của cây mà nhảy.
Đêm học ngày tập. Đến 15 tuổi thì tài nghệ đã điêu luyện.
Một hôm bà lão đến, cầm tay Bùi Thị Xuân khóc và nói:
- Ta có duyên cùng con chỉ bấy nhiêu. Đêm nay ta đến từ biệt
con.
Bùi Thị Xuân khóc theo và nài nỉ xin cho biết tánh danh và
quê quán. Bà lão đáp:
- Ta ở gần đây. Trong ba hôm nữa con sẽ biết tin tức. Nhưng
con phải giữ bí mật.
Nói rồi, vụt một cái biến mất.
Ba hôm sau, ở thôn An Vinh [2] có một đám ma của một bà lão.
Bà lão nhà nghèo, góa bụa, sống với vợ chồng người con gái
làm nghề nông. Khi Bùi Thị Xuân được tin, tìm đến thì việc chôn cất đã xong. Biết
bà lão đây chính là thầy mình, nhưng nhớ lời thầy dặn, chỉ điếu tang như một
người thường. Về nhà mới đợi lúc khuya vắng, thiết hương án nơi “vườn dạy võ”
mà thành phục. Nhưng chỉ để tâm tang.
Từ ấy một mình tự tập luyện.
Một hôm Bùi Thị Xuân ở ngoài về, tình cờ thấy đứa ở gái dùng
hai chiếc đũa bếp làm kiếm múa. Múa đúng bài bản phép tắc. Bùi Thị Xuân giật
mình! Té ra cô ả ngày ngày thấy tiểu chủ múa kiếm, bắt chước múa theo, lâu
thành quen tay. Đợi cô ả múa hết bài, Bùi Thị Xuân chạy đến ôm chầm, và khen
“Em giỏi, em giỏi lắm”.
Từ ấy cho cô ả dùng gươm thiệt mà tập. Lại rủ chị em trong
xóm ai muốn học võ học kiếm thì ban đêm rảnh việc đến nhà, Bùi Thị Xuân dạy
cho. Không mấy lúc nhà họ Bùi trở thành trường dạy võ. Đệ tử từ năm ba người
trong xóm vụt nhảy lên hàng chục hàng vài ba chục... Một người đã có con tay dắt
tay bồng, mà cũng đến xin học. Tài nghệ đã tinh mà cách đối xử cách dạy dỗ lại
đứng đắn, nên Bùi Thị Xuân được chị em kính yêu, quý trọng. Trong số đệ tử xuất
sắc có bà Bùi Thị Nhạn.
Một phú ông họ Đinh ở Lai Nghi, đê đền ơn dạy con gái, tặng
Bùi Thị Xuân một con ngựa trắng toàn sắc mới tập kiều, vóc to, sức mạnh, chạy
hay. Bùi Thị Xuân tập ngựa trở thành một chiến mã, chạy suốt buổi không đổ mồ
hôi [3].
Lại một hôm, lên chợ Phú Phong, Bùi Thị Xuân thấy hai thớt
voi đứng ăn chuối cây. Chung quanh, người vây đông đúc, Bùi Thị Xuân chen đến gần.
Voi lấy vòi cạ lên lưng, lên vai, có vẻ trìu mến. Bùi Thị Xuân xin cỡi thử. Voi
co một chân trước cho Bùi Thị Xuân leo lên cổ, rồi đi tới đi lui theo sự điều
khiển của Bùi. Hết thớt này đến thớt kia, Bùi Thị Xuân nhận thấy điều khiển voi
còn có phần dễ hơn điều khiển ngựa. Từ ấy cái chí muốn làm bà Trưng bà Triệu
lúc nhỏ trở lại nung nấu tâm hồn. Bùi Thị Xuân lo tập luyện cho mình, cho chị
em trong xóm, trong làng. Tiếng đồn đi xa, chị em các làng khác các huyện khác
cũng tìm đến xin thụ giáo. Bùi Thị Xuân ước có tiền mua ngựa, voi cho chị em tập.
Gia đình chỉ vào hàng khá giả, nên dù thương chiều con, cũng không sao có thể
làm vui lòng con.
Bùi Thị Xuân càng lớn lên càng xinh đẹp. Khách “rắp ranh bắn
sẻ, ngấp nghé trông sao” ở gần có ở xa có, ngày nào cũng có người đến sân.
Nhưng phần đông hễ thấy mặt Bùi Thị Xuân thì “run như run thần tử thấy long
nhan”, vì trong vẻ đẹp kiều diễm của Bùi Thị Xuân lại có vẻ uy nghiêm. Đôi mắt
ngước lên nhìn như đôi lằn điện chiếu [4]. Những chàng trai nhát gan thì vừa đến sân đã lùi ra khỏi ngõ.
Còn những chàng trai có nhiều ít đởm lực thì bước vào thềm. Nhưng mới bị hỏi sơ
vài câu về võ về văn thì lưỡi tự nhiên cứng lại. Vì vậy cho đến hai mươi tuổi
mà Bùi Thị Xuân “tay không chân rồi”. Thời xưa, con gái mười bảy, mười tám tuổi
mà chưa có chồng thì cha mẹ rất lấy làm lo. Nhà họ Bùi cũng thế. Một hôm bà mẹ
tỏ ý lo ngại cùng con. Bùi Thị Xuân cười:
- Bà Trưng có chồng, bà Triệu đâu có chồng. Nhưng ai dám cười
chê?
Để giúp gia đình mà cũng để thết đãi chị em học trò, Bùi Thị
Xuân thường đi săn heo săn nai.
Một hôm cùng vài cô học trò đi săn ở vùng núi Thuận Ninh [5], xảy gặp một tráng sĩ đương đánh cùng một mãnh hổ. Tráng sĩ
mình đầy máu me, sức đã sắp đuối. Hổ hung hăng chụp vấu. Bùi Thị Xuân hét lên một
tiếng, rút song kiếm xáp vào cứu tráng sĩ. Hổ bỏ tráng sĩ, đánh cùng Bùi Thị
Xuân. Hổ đã lanh, tránh khỏi những nhát kiếm hiểm độc, Bùi Thị Xuân lại càng
lanh hơn, tránh khỏi những cái vồ như bão như chớp, khiến mấy phen hổ chụp hụt
bị té nhào. Hổ cự địch với tráng sĩ đã lâu, sức đã mỏi, nên động tác chậm dần.
Cuối cùng bị một nhát kiếm nơi vai, gầm lên một tiếng bỏ chạy.
Bùi Thị Xuân trở lại băng bó cho tráng sĩ.
Hỏi tên. Đáp:
- Trần Quang Diệu.
* Trần Quang Diệu quê quán ở Ân Tín, huyện Hoài Ân [6]. Nhà giàu nhưng mồ côi sớm, thân tự lập thân.
Lúc nhỏ, Trần học văn học võ nhiều thầy. Lớn lên, một hôm vào
dãy núi Kim Sơn [7] kiếm thịt, tình cờ thấy một ông lão nằm giỡn cùng một con
cọp tàu cau to lớn. Hổ trông thấy Trần thì nhảy đến vồ. Trần tránh khỏi. Hổ vồ
tiếp. Ông lão liền hét: “Hổ dại nhé”. Hổ liền ngoan ngoãn trở lại cùng ông lão.
Ông lão gọi Trần đến gần, hỏi:
- Người là ai, chẳng biết nơi này có ổ cọp sao mà dám đưa
thân tới?
Trần thật thà kể hết gia cảnh và thân phận. Đoạn lạy ông lão
xin cho mình làm học trò. Ông lão đáp:
- Âu cũng là duyên.
Rồi bảo Trần về thu xếp việc nhà rồi trở lên.
Trần về giao nhà cửa ruộng nương cho người em thúc bá, và dặn:
- Ta đi chuyến này, mau thì năm năm, lâu thì mười năm mới về.
Ở nhà lo làm ăn tử tế. Đừng tìm hiểu ta đi đâu và đi có việc gì.
Lên Kim Sơn, Trần được lão nhân đưa về nhà nuôi dạy.
Lão nhân là ai?
Lão họ Diệp, tên là Đình Tòng, người thôn Vĩnh Thạnh, huyện
Tuy Viễn (Bình Khê). Lúc tráng niên đã xuống tay giết chết tên tri huyện tham ô
thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765). Bị truy nã, cụ đem vợ con theo đường
núi ra Kim Sơn lánh nạn. Trên hai mươi năm trời, không ai biết tung tích. Vợ
con không chịu nổi sơn lam chướng khí, lần lượt qua đời hết, chỉ còn mình cụ sống
với hùm beo. Gặp được họ Trần, cụ vô cùng hoan hỷ.
Hai thầy trò sống trong ba gian nhà tranh rộng rãi sạch sẽ.
Có đủ đồ cần dùng cho một gia đình nho nhỏ. Lại có đủ năm món vũ khĩ: đao, kiếm,
côn, thương, cung, mỗi thứ mỗi cặp. Thứ nào cũng được lau chùi bóng nhoáng.
Nhưng Trần chỉ học môn đại đao.
Thầy hết lòng dạy. Trò cố sức học. Khi luyện tập một mình,
khi cùng thầy thao diễn, khi nơi đất bằng, khi trên đá núi. Học tập cách đánh
trên ngựa, cách đánh dưới thuyền. Không có ngựa, phải lấy đá làm ngựa. Không có
thuyền thì lấy những khúc gỗ tròn làm thuyền.
Những lúc không tập luyện thì lo trồng trỉa săn bắn để sống.
Thầy trò sống một cách thích thú, ung dung. Nhưng có một điều làm cho Trần áy
náy, là con hổ của thầy hễ thấy bóng Trần là bỏ chạy nơi khác. Biết ý nên khi
thấy hổ ở bên cạnh thầy thì Trần cũng khéo léo tránh mặt. Ban đầu còn thắc mắc,
lâu ngày thành thói quen.
Thấm thoát đã năm năm qua!
Một hôm, lão nhân trao đại đao mình thường dùng cho Trần và bảo:
- Đây là thanh Huỳnh Long bảo đao sản xuất từ đời Trần. Ta tặng
con làm kỷ niệm.
Đoạn sai Trần thu tất cả các món vũ khí đem chôn nơi một cái
hố phía sau nhà. Rồi bảo:
- Thầy đã gần trăm tuổi rồi. Bấy lâu còn phải sống là vì đao
pháp của thầy chưa có người kế tập. Nay thầy đã truyền thụ cho con rồi, thì thầy
chết được vui vẻ. Sau khi chôn cất thầy xong con không nên quyến luyến nơi này.
Con nên kíp xuống núi, đem sở học làm sở hành, để khỏi phí cuộc đời anh tuấn.
Và nếu có dịp đi ngang qua Vĩnh Thạnh thì hỏi thăm xem họ Diệp có còn ai không.
Nếu còn thì con sẽ cho biết qua tin tức của thầy. Nhưng đó không phải là điều cần
thiết.
Nói xong, nằm xuống, lấy tay đánh nhẹ lên đỉnh đầu mà tắt nghỉ.
Buồn thương khôn tả!
Trần về nhà, cửa nhà yên vui, hai hôm sau cắp đao băng núi đến
Vĩnh Thạnh.
Nghe tin Nguyễn Nhạc mở sòng bạc lớn ở Kiên Mỹ, Trần nghĩ bụng:
- Anh hùng lúc chưa gặp thời cũng như khi lỡ vận, thường gởi
mình vào những nơi yên hoa, tửu bác, và kẻ có chí lớn thường dùng sòng bạc làm
nơi kén bạn hiền.
Liền tìm đến gặp Nhạc. Nhất kiến như cựu. Từ ấy hai bên thường
qua lại với nhau.
Hôm Trần gặp cọp ở Thuận Ninh là một trong những hôm Trần ở
Hoài Ân vào Kiên Mỹ để gặp gỡ Nguyễn Nhạc.
Hôm ấy Trần không mang đao theo. Đánh tay không với cọp từ
sáng đến trưa, Trần bị đuối sức nên mới bị thương. Nếu không gặp Bùi Thị Xuân
thì e khó giữ toàn mạng [8].
Thoát chết, Trần yêu cầu đưa về Kiên Mỹ, nhà Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Nhạc và Bùi Thị Xuân vốn đã từng nghe tiếng nhau,
nhưng chưa có dịp làm quen. Nhờ cọp theo gió, gió đưa duyên mà nên nghĩa “vườn
đào” Bùi, Trần, Nguyễn.
Rồi để cho nghĩa thêm nặng tình thêm thâm, Nguyễn Nhạc đứng
làm mai và làm luôn chủ hôn để Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân nên đôi nên lứa.
w Nguyễn Văn Tuyết, người xã Nhơn Ân, huyện An Nhơn.
Lúc nhỏ có sức mạnh, đánh lộn giỏi, tụ tập kẻ vô lại ở chợ Gò
Chàm và được tôn làm đầu nậu. Những kẻ mãi võ đến chợ, phải đến ra mắt Tuyết rồi
mới được hành nghề.
Một hôm, một ông già, đầu râu như bông vải vừa bắn xong, cùng
hai cô gái mặt mày đẹp đẽ, đến chợ mãi võ. Ông già không theo lệ cũ, vừa đến liền
khua chiêng khai diễn. Cô gái nhỏ múa kiếm vun vút, khí lạnh rợn người. Người đến
xem đông như kiến và tiếng “hoan hô” dậy trời. Nguyễn Văn Tuyết hay tin đùng
đùng nổi giận, liền kéo mười tên thủ hạ, đến vấn tội ông già. Ông già, hỏi
không thèm đáp, đánh không thèm đỡ, đứng trơ trơ đó như một pho tượng trời trồng.
Tuyết thất kinh bỏ về nhà, tìm cách rửa hận. Do biết ông già và hai người con
gái trọ nơi miếu thổ địa ở sau chợ. Tuyết đợi đêm khuya, giắt kiếm, nhảy tường
vào miếu. Bốn bề im phăng phắc. Hai cô gái ngủ say. Ông già nằm ngáy như sấm.
Tuyết khẽ lén đến gần, rút kiếm đâm vào cổ. Kiếm gãy kêu “rắc”. Tuyết hết hồn bỏ
chạy. Ông già níu lại. Tuyết run sợ quỳ xuống chịu tội, ông già ngồi dậy nói:
- Nhà ngươi tư chất thông minh lại có sức mạnh xuất chúng.
Sao không lo rèn võ luyện văn, để chờ cơ hội ra giúp nước, mà lại đắm mình
trong vũng bùn nhơ?
Tuyết lạy, thề quyết tâm hối quá, và van xin theo làm môn đồ.
Ông già họ Trần tên Kim Hùng là một võ sư người thôn Trường Định
huyện Tuy Viễn. Võ nghệ tuyệt luân, nhưng người con trai bị mất sớm, cụ buồn dắt
hai người cháu gái đi tìm người xứng đáng để làm người thừa kế.
Gặp được Nguyễn Văn Tuyết, Trần lão rất hài lòng.
Tuyết theo Trần lão ra đi. Sau năm năm trở về, bọn đồ đãng cũ
đến mừng. Tuyết khuyên nên bỏ nghề cướp bóc cũ.
Một hôm Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát nam tuần đến Quy Nhơn.
Nghe đồn chúa Nguyễn có con tuấn mã tên Xích Kỳ, Tuyết đợi đêm khuya lẻn vào
hành cung bắt ngựa rồi lên yên chạy thẳng lên vùng An Khê. Trời vừa hửng sáng
thì ngựa đã qua khỏi đèo Vĩnh Viễn. Con Xích Kỳ là cống vật của Cao Miên [9], chúa rất yêu quý, ngựa bị mất trộm, Tuần phủ Nguyễn Khắc
Tuyên bị tội chết. Nhờ Trương Phúc Loan ra sức cứu mới được miễn. Tuyên cho người
đi tìm khắp Quy Nhơn, Phú Yên, Quảng Nghĩa, nhưng không tìm ra bóng dáng. Khi
xa giá chúa Nguyễn trở về Phú Xuân, thì trong dinh Tuần phủ Quy Nhơn bỗng thấy
trên vách mấy chữ lớn: “Kẻ trộm ngựa chúa là Nguyễn Văn Tuyết ở Tuy Viễn”.
Tuyên xem thấy, hết hồn, dặn tả hữu đừng tiết lộ. Việc được im.
Tuyết, sau khi theo thầy học thành tài, trở về Tuy Viễn, những
mong cứu đồng bào ra khỏi ách chuyên chế của chúa Nguyễn, song không biết làm
cách nào đành ôm ấp mộng mà chờ người đồng khí đồng phương. Kịp nghe tin Tây
Sơn Vương chiêu mộ hào kiệt, Tuyết liền lên sơn trại đầu quân. Tại đây Tuyết gặp
lại và kết hôn với cùng cô cháu gái của Trần sư phụ là Trần Thị Lan [10].
w Nguyễn Văn Lộc, lúc nhỏ, nhà nghèo ở chăn trâu cho một phú nông làng Kỳ
Sơn. Học võ lúc nào và với ai, thật không ai biết.
Một hôm đi chơi về khuya, bị quân canh bắt trói vào cột đình.
Lộc nhặt miếng sành cắt dây trói trốn thoát. Quân canh hơn mười người đuổi theo
đều bị đánh ngã không đứng dậy nổi. Trời tối, Lộc chạy lạc vào cánh đồng lúa
chín. Người giữ ruộng ngờ là ăn trộm, hô hoán... Người chung quanh chạy đến vây
bắt. Người mỗi lúc mỗi đông, kẻ gậy người gộc... Lộc đánh ngã lớp này thì lớp
khác xông đến... Liệu không thể dùng quyền để giải vây được, Lộc bèn giựt cây gậy,
đánh một đòn “chí tử” mở “đường máu” thoát thân.
Từ ấy người địa phương mới biết Nguyễn Văn Lộc là người võ
nghệ siêu phàm.
Khi nghe tin Tây Sơn Vương tụ tập quần anh, Lộc đến xin gia
nhập, và được tiếp đãi vào hàng thượng tân.
w Võ Đình Tú, hợp tác cùng Tây Sơn Vương từ buổi ban sơ. Tú con nhà giàu đất
Phú Phong, tính can đảm và hào phóng từ lúc bé. Được một nhà sư dạy võ nghệ và
binh pháp.
Nhà sư, pháp danh là gì và ở đâu không ai biết thường đến ngồi
trước ngõ họ Võ. Nhà sư mặt mày xấu xí, ăn mặc rách rưới. Lũ nhỏ trong xóm hễ
trông thấy nhà sư thì kéo nhau đến chọc ghẹo. Tú lúc bấy giờ mới mười bốn tuổi,
đối với nhà sư lại hết sức lễ phép và thường bưng cơm nước hoặc bánh trái đến
cúng dường. Nhà sư hoan hỷ mà nhận.
Một hôm trời nổi mưa gió lớn, mọi người không dám ra đường.
Mưa suốt ngày, đêm đến mưa tạnh gió ngừng, nhưng trong nhà không thấy Tú đâu cả.
Cho người đi khắp nơi, hết ngày này qua ngày khác, vẫn không tìm thấy tung
tích, mà nhà sư từ hôm mưa gió cũng không còn thấy tới lui trong thôn. Người
nhà quyết đoán rằng Tú bị nhà sư bắt, đành thắp nhang cầu Phật gia hộ cho Tú mà
thôi.
Mười năm sau Tú trở về; một thanh niên vạm vỡ, sức mạnh như
hùm, nhưng tánh tình chất phác, mới trông qua không ai biết rằng võ nghệ cao cường.
Về nhà, đóng cửa xem sách, trừ Võ Văn Dũng, không giao du với
ai, cũng không lấy vợ.
Võ Văn Dũng giới thiệu cùng Tây Sơn Vương. Vương thân hành đến
rước.
Sau khi về cùng nhà Tây Sơn. Tú mới trổ tài. Chẳng những côn
quyền xuất chúng, binh pháp tinh thông mà còn có tài bắn cung, nhảy cao, cỡi ngựa.
Thường ưa sử dụng thiết côn, trăm người không địch. Bùi Thị Xuân tặng một lá cờ
đào thêu bốn chữ vàng “Thiết côn vô địch”. Nguyễn Huệ yêu thương như ruột thịt,
những lúc rảnh rang thường cùng Tú bàn luận về võ nghệ và binh pháp.
w Lê Văn Hưng, vốn là một tay cướp nức tiếng ở Kiên
Dõng [11], ngọn roi [12] tuyệt diệu, quất ra một đòn, đánh ngã trăm người. Tuy
làm nghề ăn cướp, nhưng lấy của người giàu chia cho người nghèo nên được dân địa
phương rất yêu mến.
Hưng có đến vài chục thủ hạ. Ông cấm thủ hạ không được quấy
nhiễu đồng bào. Và Hưng không bao giờ phạm đến tài sản người trong huyện. Những
vụ đánh cướp do Hưng cầm đầu chỉ xảy ra ở các nơi xa và vụ nào Hưng cũng cầm
roi cản hậu. Đánh người chỉ đánh ngã chớ không đánh chết hoặc gây trọng thương.
Nhưng có một lần - đó là lần chót - cướp được một vố to ở Phú Yên. Khổ chủ là một
tay giỏi võ, gia nhân lại toàn là lực điền “có đôi miếng trong mình”. Ỷ thị cứ
lăn xả vào đánh Hưng. Hưng nương tay đã nhiều lần, nhưng đối phương không sợ cứ
bám sát. Trời đã gần sáng mà đối phương vẫn chưa chịu lui, Hưng đành phải dùng
tận lực: khổ chủ bị đánh hộc máu, chết tươi.
Các vụ bị cướp suông nhà cầm quyền không để ý. Nhưng vụ cướp
này gây án mạng, chánh quyền không thể bỏ qua. Biết thủ phạm là Hưng, Tuần phủ
Phú yên hợp lực cùng Tuần phủ Quy Nhơn cho truy nã gắt... Hưng đành phải bỏ nhà
vào rừng. Rồi nhân Tây Sơn Vương mộ binh. Hưng bèn nhập ngũ. Nhờ tài nghệ,
không bao lâu, từ cấp lính lên cấp Đội rồi lên lần đến cấp Tướng.
w Lý Văn Bưu, còn có tên là Mưu, người làng Đại Khoang
huyện Phù Cát tỉnh Bình Định. Nổi danh từ thời niên thiếu có biệt hiệu là Phi
Vân Báo (con beo bay trong mây) có tài vừa cưỡi ngựa phi nước đại vừa múa kiếm,
phóng lao, bắn cung trăm phát trăm trúng. Ngoài ra, ông còn có tài nuôi ngựa
chiến. Nhờ địa thế vùng từ Đại Khoang, Thuận Truyền qua Thuận Ninh đất xấu,
toàn gò đống, cây dại cùng chà là, sim, ổi mọc chen chúc lẫn với cỏ dại rất
thích hợp cho việc chăn nuôi, săn bắn, nên gia đình ông chuyên nghề nuôi bò ngựa
và săn bắn. Đồng thời chuyên tập luyện võ nghệ, nghiên cứu chiến trận.
Bà Bùi Thị Xuân thường đến khu vực này săn bắn nên quen thân
với ông Bưu và học ông cách thức luyện tập ngựa chiến.
Tây Sơn khởi nghĩa, ông Bưu được bà Xuân tiến cử, phụ trách
chăn nuôi sản xuất tại nông trại Tây Sơn Hạ, kết hợp tổ chức tập luyện đoàn chiến
mã và rèn luyện nghĩa binh.
Nhờ tài thao lược, ông được phong chức Đô Đốc cầm binh tham
gia các trận đánh ở trong Nam và giải phóng thành Thăng Long.
w Nhưng Huy và Tứ Linh tên thật là gì và quê quán nơi đâu,
không rõ. Làm nghề “lục lâm”, sào huyệt tại nguồn An Tượng thuộc Tây Sơn Hạ,
nhưng chỉ “làm ăn” từ Phú Yên trở vô. Cả hai đều là tráng lực sĩ, võ thuật cao,
song tánh hung bạo. Tây Sơn Vương dùng với sự dè dặt [13].
Đó là bên võ. Còn bên văn thì có:
w Nguyễn Thung, tuy là một phú nông song sử kinh đều
thông thuộc. Tánh tình hào phóng, nhân hậu, nên rất được lòng mọi người.
w Võ Xuân Hoài, Trương Mỹ Ngọc, đức cao học rộng, hai ngôi sao về văn
học đương thời ở Bình Khê và An Nhơn.
w Cao Tắc Tựu, người đẹp, học rộng lại tinh thông binh pháp. Ngày thường
ít nói, nhưng khi bàn việc lớn thì lời như nước chảy. Mọi người đều kính phục.
w La Xuân Kiều, một văn sĩ có tiếng ở Phù Cát, giỏi Nôm, lại cưỡi ngựa giỏi,
bắn cung hay. Thông minh hoạt bát.
w Triệu Đình Tiệp, học rộng ưa thực tế, ghét phù hoa. Tánh thanh khiết
nghiêm nghị. Rất trọng chữ tín. Giỏi việc cai trị.
Đây là những nhân vật rường cột, ngoài ra còn rất nhiều người
tài.
Nhưng Tây Sơn Vương nhận thấy chưa đủ, nên trải lòng cầu hiền.
Hai viên tướng Tàu là Tập Đình ở Hội An (Quảng Nam), Lý Tài ở
cửa bể Phù Ly (Quy Nhơn) đem quân ứng theo Tây Sơn Vương.
Quân của Tập đình gọi là Trung nghĩa quân.
Quân của Lý Tài gọi là Hoa nghĩa quân.
Quân trong hai đội hầu hết đều là người Tàu to lớn, mạnh bạo.
Khi ra trận uống rượu say, cởi trần, lấy giấy vàng bạc dán cùng mình, cất tiếng
hét vang, sấn vào tấn công kẻ địch. Tây Sơn Vương đón tiếp nồng hậu và cho vào
đóng trong thành, chờ dịp tấn công.
Kế đó là một tráng sĩ xin vào yết kiến. Tây Sơn Vương cho mời
vào thì là Phan Văn Lân, người bạn học cũ.
Họ Phan người ở miền ngoài, nhưng không rõ phủ, huyện nào. Võ
giỏi, tự bảo rằng võ mình được truyền từ Phạm Ngũ Lão đời Trần, thiên hạ vô địch.
Nhưng khi vào An Thái yết kiến Trương Văn Hiến, thì liền lạy xin làm đệ tử. Trước
kia họ Phan tự thị tự đắc bao nhiêu thì sau khi thọ giáo cùng Trương công lại
khiêm tốn bấy nhiêu.
Gặp được bạn cũ, Tây Sơn Vương hết sức vui mừng, mời họ Phan ở
ngay trong cung, Phan không chịu xin ra nơi các dinh thự cùng chư tướng.
Một hôm có một nhà sư, hình thù cổ quái, nghe tiếng tăm của
Phan Văn Lân, bèn đến xin gặp, Phan tránh mặt. Nhưng quân sĩ thúc giục, Phan giả
lính theo thuộc hạ ra xem. Nhưng nhà sư nhìn biết, thách Phan đấu võ. Nhận thấy
nhà sư không phải hâm mộ nghệ thuật muốn làm bạn bốn phương, mà là một khách
giang hồ, bụng đầy ác ý. Phan quyết định trừ khử để tránh mối họa về sau.
Lúc ấy nhà sư đương ngồi uống rượu nơi tầng hai một tửu lâu ở
trước thành. Phan xủ tay áo ngồi, thách nhà sư ra tay trước. Bị chạm lòng tự
ái, nhà sư nổi giận thình lình đá Phan một ngón tối độc. Phan chỉ nghiêng mình,
lấy tay hất nhà sư rớt xuống lầu vỡ sọ.
Khi Phan mới đến, ngoài Tây Sơn Vương, các tướng thấy Phan hiền
lành, ai cũng tưởng là kẻ tầm thường. Khi Phan đánh chết nhà sư, mọi người mới
biết có tài siêu việt. Tướng sĩ yêu cầu Phan cho xem tài nghệ. Phan nhất định từ
chối. Nài nỉ quá, Phan bảo rinh ba tảng đá dày chồng lên nhau, rồi đưa sống bàn
tay phải chém xuống. Ba tảng đá đều vỡ làm đôi như bị lưỡi “gươm thần” chém đứt.
Ai nấy đều gọi là người thần.
Nhà sư bị Phan Văn Lân hất rớt xuống tửu lâu là một người
Trung Quốc, thuộc phái Thiếu Lâm.
Ở chợ Gò Chàm, phía bắc thành Quy Nhơn, còn có một nhà sư nữa
cũng người Tàu thường đến biểu dương võ nghệ, thường cởi áo ngồi ngay ngắn, cho
người dùng gươm đao chém vào đầu mình tay chân. Chém mạnh mấy cũng không hề gì.
Tây Sơn Vương được tin, sợ nhà sư gây biến, muốn trừ, nhưng không thể giết được.
Võ Văn Dũng lãnh trách nhiệm trừ nhà sư.
Võ đến chợ Gò Chàm gặp nhà sư, dùng lễ khoản đãi. Khi đã nên
thân, Võ hỏi:
- Hòa thượng là người đã đạt đạo, không biết có khi nào bị lạc
thú của trần gian cám dỗ chăng?
Nhà sư đáp:
- Lòng ta như tro lạnh không có gì có thể cám dỗ.
Võ cười:
- Lời nói không đáng tin. Có thể cho phép được thí nghiệm?
Nhà sư bằng lòng. Võ thuê mươi tên thanh niên vô lại và mươi
gái thanh lâu xinh đẹp trải chiếu làm việc dâm dục trước mặt nhà sư. Ban đầu
nhà sư cười nói như thường. Nhưng hồi lâu, bỗng nhắm mắt không muốn nhìn nữa.
Xuất kỳ bất ý, Võ rút kiếm chém một nhát, đầu nhà sư rơi liền tay. Võ nói:
- Nhà sư không có thuật gì lạ. Dày công luyện khí làm cho
thân thể cứng rắn. Tâm định thì khí tụ, tâm động thì khí tan. Lúc ban đầu tâm
nhà sư không động nên nhà sư dám nhìn tự do. Đến khi nhà sư nhắm mắt thì biết
tâm nhà sư đã động rồi. Cho nên chém xuống, không thể kháng cự được.
Ai nấy đều phục Võ là cao kiến. Tây Sơn Vương rất hài lòng.
Ít lâu sau, Trần Quang Diệu đưa một tráng sĩ về tiến cử cùng
Tây Sơn Vương.
Tráng sĩ đó là Võ Văn Nhậm.
w Võ Văn Nhậm người Quảng Nam, sức mạnh hơn người,
đánh giặc giỏi, tánh phóng khoáng không chịu sự ràng buộc. Vốn là tướng của
quan trấn thủ Quảng Nam, vì không chịu tuân theo luật pháp, bị tội, phải trốn
vào Quy Nhơn.
Nhậm đến Phù Ly, nghe người đi đường cho biết có tên cường
hào cưỡng đoạt con gái chưa chồng. Nhậm giận, tuốt gươm giết tên thổ hào, rồi định
đến cửa quan chịu tội. Bỗng một tráng sĩ đến vỗ vai:
- Tôi xem anh chí khí tài lực đủ định loạn thiên hạ dễ dàng.
Giết một con sâu dân thì có chi gọi là tội mà toan bỏ cái thiên tài hữu dụng?
Sao không đến Tây Sơn Vương để chung lo việc lớn. Tôi, Trần Quang Diệu, xin tiến
cử anh lên nhà vua.
Võ Văn Nhậm hớn hở theo Trần Quang Diệu.
Tây Sơn Vương trọng dụng và sau này gả con gái là Thọ Hương
công chúa cho [14].
Tiếng chiêu hiền đãi sĩ của Tây Sơn Vương mỗi ngày mỗi bay
xa. Các anh hùng chí sĩ lần lượt đến giúp mỗi ngày mỗi đông.
Ngày kia có người tới xin được góp sức góp tài, xưng danh là
Ngô Văn Sở. Ngô Văn Sở người làng Bình Thạnh (Tuy Phước) có sức mạnh, giỏi võ
nghệ, thông binh pháp. Cùng với Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng kết bạn thân [15].
Đó là những bậc kỳ tài. Còn nhiều tay võ giỏi khác ứng mộ
tòng quân sau lập nhiều công lớn.
Các bậc văn nhân đến phò tá Tây Sơn Vương cũng đông:
w Mã Vĩnh Thắng ở An Nhơn, nổi tiếng về thơ và từ.
w Lưu quốc Hưng ở Phú Yên, có tiếng là cương chính.
w Huỳnh Văn Thuận, người Quảng Nghĩa, học rộng, nổi tiếng
hay chữ từ lúc nhỏ, có tài thuyết phục nhân tâm.
w Võ Văn Cao, người ở dưới chân núi Cù Mông thuộc Phú
Yên. Học rộng, giỏi kinh dịch, ghét đạo Phật đạo Lão, không ưa thơ văn phù phiếm.
Chuộng thực tế. Tánh nghiêm nghị, cương trực.
w Anh em Nguyễn Văn Huấn và Nguyễn Văn
Danh người gốc huyện Hùng Nguyễn tỉnh Nghệ An, tổ tiên bị chúa Nguyễn bắt
vào khai phá khu vực phía đông chân Hòn Lớn thuộc xã Đại Phong, huyện Mộ Đức, tỉnh
Quảng Ngãi. Tuy nhà nghèo nhưng thông minh hiếu học, vào An Thái thọ giáo
Trương Văn Hiến, bạn đồng môn cùng anh em Nhạc, Huệ.
Ngoài ra dưới cờ nữ tướng Bùi Thị Xuân có bốn phó nữ tướng trẻ
đẹp tài cao: Bùi Thị Nhạn, Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Dung, Huỳnh Thị Cúc.
* Bùi Thị Nhạn là con gái út Bùi Đắc Lương, một cự phú thôn Xuân Hòa
huyện Tuy Viễn. Ông Lương sanh ba trai là Bùi Đắc Chí, Bùi Đắc Trung, Bùi Đắc
Tuyên và hai gái là Bùi Thị Loan, Bùi Thị Nhạn. Bùi Thị Xuân là con Bùi Đắc Chí
gọi Bùi Thị Nhạn bằng cô, nhưng Bùi nữ tướng lớn tuổi hơn và đào tạo Bùi Thị Nhạn
thành một nữ kiếm khách.
w Trần Thị Lan là em ruột Trần Thị Huệ phu nhân Nguyễn Nhạc, con Trần
Kim Báu, cháu võ sư Trần Kim Hùng người thôn trường Định huyện Tuy Viễn. Khi
Lan lên ba thì bà Báu qua đời, ông buồn gởi hai con cho ông bà nội Trần Kim
Hùng, một thân dấn bước giang hồ. Lớn lên, Thị Huệ theo bà nội học nữ công, Thị
Lan theo ông nội học võ nghệ, có tài về kiếm thuật và luyện thân lanh lẹ như
chim én nên tự hiệu là Ngọc Yến. Võ sư rất yêu quý, đi đâu cũng đem theo. Trần
Kim Báu vào đến Bình Khương (tức Khánh Hòa sau này) mở trường dạy võ tại huyện
Quảng Phước (tức Vạn Ninh) cưới vợ địa phương sanh được một trai tên là Trần
Kim Sư. Khi lên hai thì cha mất. Kim Sư sống cùng với mẹ. Võ sư Kim Hùng được
tin con mất đem hai cháu vào thọ tang. Lúc ấy Thị Huệ đã mười bảy, Thị Lan lên
mười hai. Tang lễ xong lão sư đem hai cháu gái về xứ. Lúc về cũng như lúc đi,
lão sư bày việc mãi võ để vừa nghỉ chân vừa kiếm tiền lệ phí.
Về đến Gò Chàm lão sư gặp Nguyễn Văn Tuyết. Biết Tuyết là người
có tài, lão sư về nhà giao hai cháu cho vợ rồi cùng Tuyết đi vân du.
Sau đó Trần Thị Huệ kết duyên cùng Nguyễn Nhạc. Nghe tiếng
Bùi Thị Xuân võ nghệ cao cường, Thị Lan theo chị lên kết bạn cùng Bùi nữ tướng.
w Nguyễn Thị Dung và Bùi Thị Cúc là người Quảng Ngãi.
Bà Dung là em của Nguyễn Văn Xuân người làng Lạc Phổ huyện Mộ
Đức. Bà Cúc là em Huỳnh Văn Thuận người làng Đông Quang huyện Sơn Tịnh. Hai họ
là chỗ quen thân. Ông Xuân và ông Thuận có tài về văn học. Bà Dung và bà Cúc có
tài về kiếm thuật. Nghe tiếng Trương Văn Hiến, bốn anh em rủ nhau vào xin thọ
giáo. Trương công không thu nạp nữ đồ đệ. Ông Xuân và ông Thuận ở lại An Thái học
văn. Hai cô gái được Trương công giới thiệu lên Xuân Hòa thụ nghiệp cùng Bùi Thị
Xuân.
Bà Dung và bà Cúc tuổi tác cùng tài nghệ tương đương với bà
Nhạn bà Lan. Cả bốn đều tôn Bùi nữ tướng làm thầy và coi nhau như ruột thịt.
Người đương thời gọi là Tây Sơn Ngũ Phụng thư.
Ngũ phụng đã cùng nhau tổ chức, huấn luyện và điều khiển một
đoàn tượng binh gồm một trăm thớt voi và một đoàn nữ binh trên hai ngàn người
cho nhà Tây Sơn.
Trong Ngũ Phụng thư, chỉ Bùi Thị Xuân đã có chồng là Trần
Quang Diệu, trước khi kết bạn cùng các nữ anh hùng. Còn các người khác, kẻ trước
người sau lần lượt theo chồng sau khi đã lập nên danh nghiệp.
Bùi Thị Nhạn kết duyên cùng Nguyễn Huệ sau khi Phạm Thị Liên
qua đời.
Trần Thị Lan kết duyên cùng Nguyễn Văn Tuyết khi Tuyết đến
cùng Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Thị Dung kết duyên cùng Trương Đăng Đô là người Mỹ Khê
huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi, một danh tướng của Tây Sơn.
Riêng chỉ có Huỳnh Thị Cúc không chịu xuất giá, suốt đời theo
phò tá Bùi Thị Xuân.
Những trang tài tuấn văn võ cùng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ gây
dựng Nhà Tây Sơn ngoài những người đã liệt kê trên kia còn nhiều người nữa song
có công đắp móng xây nên khi chưa dựng cờ khởi nghĩa thì có:
- Bên võ có bảy người là: Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Trần Quang
Diệu, Nguyễn Văn Tuyết, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc, danh truyền
Tây Sơn Thất Hổ tướng.
- Bên văn có sáu người là Võ Xuân Hoài, Nguyễn Thung, Trương
Mỹ Ngọc, La Xuân Kiều, Triệu Đình Thiệp, Cao Tắc Tựu, người đương thời gọi là Lục
Kỳ sĩ.
Thất hổ tướng, Lục kỳ sĩ và Ngũ phụng thư hợp thành Tây Sơn
thập bát cơ thạch, nghĩa là mười tám tảng đá làm nền móng của Nhà Tây Sơn.
Chú thích:
[1] Hai thôn Phú Phong, Xuân Hòa, sau này ghép thành xã Bình
Phú. Phú Phong Xuân Hòa ở phía Nam, Kiên Mỹ, Thuận Nghĩa, Dõng Hòa ở phía Bắc,
cách nhau con sông Côn.
[2] Theo cụ Bùi Sơn Nhi ở Xuân Hòa thì đó là bà cao tổ của
ông Hương mục Ngạc, một võ sư trứ danh ở An Vinh, thời Pháp thuộc.
[3] Con ngựa này lúc bà ra phò Vua Quang Trung ở Phú Xuân vẫn
còn và bà thường cỡi ra mặt trận. Cho nên cụ Nghè Trì tặng bà câu: “Bạch mã trì
khu cổ chiến trường, Tướng quan bách chiến thanh uy dương”.
[4] Vịnh Bùi Thị Xuân cụ Nghè Trì có câu: Hoàng hôn thành dốc
bi già động, Hữu nhân diệu tỉ phù dung kiều.
[5] Thuận Ninh ở trong vùng Tây Sơn ở phía bắc sông Côn, thuộc
Bình Khê.
[6] Họ Trần Quang ở Nghĩa Bình có hai nhánh, một nhánh ở Ân
Tín, Hoài Ân, một nhánh ở Tư Sơn, Đức phổ. Hai nhánh trước đây thường gặp nhau
trong dịp chạp mả tổ ở Ân Tín. Trần Quang Diệu thuộc nhánh Ân Tín, hiện còn mả
tổ và từ đường. Mả tổ có bia đề: “Trần gia tổ sơn”.
[7] Kim Sơn ở Hoài Ân. Ở Kim Sơn có đường núi đi vào Bình
Khê. Quê hương nhà anh hùng Tăng Bạt Hổ.
[8] Chuyện ông cụ họ Diệp ở Kim Sơn do ông bạn Diệp Đình Chi
kể lại. Ông cụ là ông tổ cao đời của họ Diệp.
Ông Diệp Đình Chi, thời Pháp thuộc làm trợ giáo ở Đà Lạt, thời
kháng chiến chống Pháp về ở Vĩnh Thạnh. Sau Hiệp định Giơnevơ, trở lại Đà Lạt,
qua đời trước ngày thống nhất.
Ở Hoài Ân vào Bình Khê có đường núi, qua lại rất gần nhưng
khó đi.
Kim Sơn là một dãy núi nằm trong địa hạt Hoài Ân. Thế rất hiểm,
khí rất hùng. Có hai ngọn cao nhất là hòn Tổng Dinh và hòn Trà Vinh. Núi không
cao lắm (dưới 500 thước) nhưng chung quanh có núi khe làm trì. Lại có nhiều thú
dữ nên ít ai dám đến.
[9] Cao Miên là Cao Man, tên do Minh Mạng gọi, trước kia gọi
là Cam Bộc Trì nay gọi là Campuchia.
[10] Bà này sau làm tỳ tướng bà Bùi Thị Xuân.
[11] Kiên Dõng thuộc huyện Tuy Viễn ở vùng Tây Sơn Hạ tức
Bình Khê. Ở cách Kiên Mỹ một thôn phía đông là thôn Thuận Nghĩa.
[12] Roi tức trường côn. Thuật đánh roi của ông Hưng truyền đến
Hồ Ngạnh ở Thuận Truyền (thôn ở phía tây bắc Kiên Dõng) là tám đời.
[13] Có người bảo Nhưng Huy và Tứ Linh là hai kép hát hát hay
võ giỏi. Thủ hạ gồm có vài ba người. Xét nơi nào có thể làm ăn được thì tổ chức
một vài đêm hát bội để ai nấy lo coi hát bỏ việc tuần phòng, rồi mới ra tay hốt
của. (Nhưng là tiếng gọi người cầm đầu gánh hát về mặt nghệ thuật. Tư hay tứ là
thứ Bốn).
[14] Hoa Bằng trong Quang Trung, chép rằng Nhậm là tướng nhà
Nguyễn bị bắt năm Bính Ngọ 1786 trong trận Nguyễn Huệ đánh Gia Định. Nhưng
không có trận đánh Gia Định nào vào năm Bính Ngọ. Trên đây, chép theo truyền
thuyết và theo “Tây Sơn lương tướng” của Nguyễn Trọng Trì.
[15] Ngô Văn Sở gốc ở Thanh Hóa vào lập nghiệp ở Bình Thạnh
đã lâu đời. Hiện nay còn con cháu là Ngô Xuân Liêm.
4.
NHÀ TÂY SƠN ĐÁNH NHÀ NGUYỄN
Ở MẶT BẮC
Trong khi Tây Sơn Vương lo củng cố nội bo, chiêu mộ hào kiệt,
đồng lương tích thảo, thì trấn thủ Quảng nam sai quân vào đánh.
Đất nhà Nguyễn lúc bấy giờ chạy từ Hoành Sơn đến Hà Tiên, Quy
Nhơn nằm khoảng giữa, phía nam giáp Phú Yên, có dãy núi Cù Mông làm ranh giới,
phía bắc giáp Quảng Nghĩa, có dãy Bình Đê làm ranh giới. Nam cũng như Bắc đều
có đèo mở lối ra vào, nhưng địa thế rất hiểm trở.
Được tin quân nhà Nguyễn kéo vào Quy Nhơn, Tây Sơn Vương giao
thành và mặt nam Quy Nhơn cho Trần Quang Diệu và các tướng tâm phúc. Còn mình
và Tập Đình, Lý Tài cử đại binh ra chống cự quân nhà Nguyễn. Trần Quang Diệu tiến
cử tỳ tướng Nguyễn văn Xuân theo phò tá.
Quân nhà Nguyễn do phò mã Nhất thống lãnh. Phò mã chia quân
làm hai đạo, theo hai đường thủy, bộ. Đạo bộ binh do chưởng cơ Vệ chỉ huy, chưa
qua khỏi Bình Đê đã bị quân Tập Đình và Lý Tài chận đánh. Trông thấy quân Trung
Nghĩa và Hoài Nghĩa cao lớn dữ tợn, quân chưởng cơ Vệ khiếp sợ, chưa đánh đã
thua chạy, bị truy kích giết sạch. Chưởng cơ vệ không chống nổi Lý, Tập, bị tử
trận. Còn đạo thủy quân đi đường bể làm sách ứng, thuyền bị dạt vào doi cát tại
cửa sông Trà Khúc, không tiến được.
Vừa lúc ấy gặp quân Tây Sơn Vương kéo ra đánh tan hết chiến
thuyền, bắt sống được 50 thủy binh và lấy được 10 khẩu đại bác. Phò mã Nhất đại
bại rút tàn quân chạy về Quảng Nam bị quân Tây Sơn chặn đánh, bỏ lại bốn thớt
voi và nhiều xe lương cùng vũ khí.
Tây Sơn Vương toàn thắng, đắp một lũy cát tại Bến Vân (Bình
Sơn, Quảng Ngãi) giao cho Nguyễn Văn Xuân đóng giữ, rồi đem chiến lợi phẩm trở
về Quy Nhơn.
Đó là vào trung tuần tháng 11 năm Quý Tỵ (1773).
Qua tháng chạp, nhà Nguyễn lại cử hai đạo binh vào đánh Tây
Sơn Vương.
- Một đạo do Tiết chế Tôn Thất hương điều khiển kéo thẳng vào
Bồng Sơn.
- Một đạo do Tổng nhung Thành và Tán lý Đản chỉ huy, kéo đánh
lũy Bến Ván.
Quân số của binh nhà Nguyễn quá đông, Nguyễn Văn Xuân không
chống nổi, phải bỏ bến ván rút lên núi, theo thượng đạo về Quy Nhơn. Thành và Đản
thừa thắng kéo quân vào Bồng Sơn hiệp cùng quân Tôn Thất Hương chiếm núi
Bích Kê.
Tây Sơn Vương hay tin sai Tập Đình và Lý Tài theo đường rừng,
đến Trà Câu ở Quảng Nghĩa, để chận đường về của quân Nguyễn, và Nguyễn Văn Xuân
đem quân yếm phục phía nam núi Mồng Gà để làm sách ứng. Còn mình đem quân ra thẳng
Bích Kê.
Tại Bích Kê, quân Tây Sơn và quân nhà Nguyễn kịch chiến. Tôn
Thất Hương bị tử trận. Quân nhà Nguyễn bị giết gần hết. Thành và Đản rút tàn
binh chạy lui, đến Trà Câu bị phục binh Tây Sơn giết chết.
Quân Tây Sơn cướp thu được rất nhiều voi ngựa và quân lương
quân dụng.
Tây Sơn Vương kéo quân chiếm phủ lỵ Quảng Nghĩa, lưu Nguyễn
Văn Xuân lại giữ thành, cùng Tập Đình, Lý Tài kéo đại binh đánh thẳng vào Quảng
Nam.
Quân của Vương đóng tại sông Cối Giang, quân Lý Tài đóng tại
sông Thế Giang huyện Duy Xuyên. Quân Tập Đình đóng tại bãi cát gần Kim Sơn thuộc
Hà Đông để ứng viện [1].
Đầu năm Giáp Ngọ (1774), quân nhà Nguyễn do Thống binh Huy và
Hiến quận công Nguyễn Cửu Dật chỉ huy, kéo vào đánh. Trận đầu bị quân Tây Sơn
Vương đánh thua, quân nhà Nguyễn dồn nơi phố Mỹ Thị thuộc Hòa Vang. Hai bên thường
ngày kéo quân giáp trận kịch liệt, không phân thắng bại [2].
Để làm kế cửu trì, Tây Sơn Vương rút quân về Thế Giang, đóng
nơi Thiên Lộc thuộc Duy Xuyên, trước sông sau sông cứ hiểm làm đồn lũy.
Thiên Lộc là một gò cát lớn dài hơn 30 dặm, thuộc xã Văn Ly.
Hai nguồn sông phát xuất từ Kim Sơn và Ngọc Sơn hiệp lưu tại phường An Lâm huyện
Hòa Nam, Hòa Vang thành sông Trừng. Sông Trừng bị gò cát Thiên Lộc chia làm hai
nhánh Bắc Nam. Nhánh phía nam chạy đến xã Thi Lai huyện Duy Xuyên tách ra làm
hai nhánh. Một chảy xuống đông làm dòng sông Dưỡng Châu, qua xã Mỹ Xuyên tục gọi
là sông Kẻ thế, tức là Thế Giang, một nhánh phía bắc chảy qua xã Châu Nghê huyện
Duyên Phước làm sông Câu Nghê. Sông Câu Nghê chảy xuống Đông An gọi là sông Chợ
Cối, tức là Cối Giang. Cối Giang và Thế Giang đều chảy vào cửa biển Đại Chiêm.
Thiên Lộc nằm giữa nhiều nhánh sông sâu, thế rất hiểm. Quân
nhà Nguyễn không đánh nổi. Nguyễn Cửu Dật bàn mưu cùng Thống binh Huy án binh bất
động. Rồi cho đóng chiến thuyền, đặt đại bác, lén theo đường sông, lấy ván chận
nước để đưa thuyền xuống, xuất kỳ bất ý, đánh úp đồn Thiên Lộc. Đồn Thiên Lộc bị
vỡ. Binh của Lý Tài ở Thế Giang cũng bị đánh úp, binh của Tập Đình đến cứu
không kịp. Quân Tây Sơn Vương bị đại bại rút về án cứ Bến Ván và Châu Ổ (Quảng
Ngãi).
Tây Sơn Vương chỉnh đốn lại đội ngũ, rồi theo thượng đạo đi tắt
ra Ginh Giang cùng Tập Đình và Lý Tài.
Quân nhà Nguyễn đóng tại Phú Hòa thuộc huyện Hòa Vang, nương
thế sông làm hiểm cứ. Tây Sơn Vương dùng chiến thuyền từ Ginh Giang đánh xuống.
Nguyễn Cửu Dật dùng kế “sa nang”, lấy bao đựng cát ngăn nước sông, rồi giả thua
chạy, đợi quân Tây Sơn qua khỏi, vớt bao cát lên, nước ào xuống, thuyền Tây Sơn
bị đắm khá nhiều. Bị thua quân Cửu Dật, Tây Sơn Vương kéo binh đến Mỹ Thị đánh
Thống binh Huy. Huy bị thua kéo tàn binh chạy thoát. Tây Sơn Vương đóng binh tại
Mỹ Thị, sai Tập Đình đóng ở Cối Giang, và Lý Tài đóng ở Thế Giang để làm thế ỷ
giốc.
Qua mùa thu (Giáp Ngọ 1774), Hoàng Ngũ Phúc vâng lệnh chúa Trịnh
ở Đàng ngoài đem quân vào đánh lấy Phú Xuân. Chúa Nguyễn là Định vương Nguyễn
Phúc Thuần cùng đình thần chạy vào Quảng Nam, đóng ở Câu Để thuộc Hòa Vang.
Quân Tây Sơn Vương kéo đến đánh. Chúa Nguyễn chống không nổi,
chạy lên đóng ở Trà Tế Sơn thuộc huyện Quế Sơn, lập cháu là Nguyễn Phúc Dương
lên làm Đông Cung Thái Tử, để ở lại giữ Quảng Nam, rồi cùng Nguyễn Phúc Ánh xuống
thuyền chạy vào Gia Định. Đông Cung bị quân Tây Sơn đánh, chạy đến Hà Dục bị Tập
Đình và Lý Tài bắt được đem về Hội An.
Tiếp đó quân Hoàng Ngũ Phúc vượt Hải Vân vào chiếm đồn Trung
Sơn và Câu Để. Tây Sơn Vương cùng Tập Đình, Lý Tài kéo đại binh ra đánh. Tập
Đình đi tiên phong, bị quân Ngũ Phúc đánh thua, sợ tội bỏ chạy về Trung Quốc.
Tây Sơn Vương nhận thấy quân Hoàng Ngũ Phúc đã đông lại mạnh,
mình chưa đủ sức chống cự, bèn cùng Lý Tài rút hết quân về Quy Nhơn, đem hoàng
tử Dương theo. Và làm kế hoãn binh, cho người mang thư và vàng lụa ra dâng cho
Hoàng Ngũ Phúc, xin nạp đất Quy Nhơn và Quảng Nghĩa, cùng xin làm tiền khu đi
đánh họ Nguyễn. Hoàng Ngũ Phúc muốn lợi dụng Nguyễn Nhạc để đánh đất Gia Định,
bèn làm biểu xin chúa Trịnh cho Vương là Tiên phong Tướng quân Tây Sơn Hiệu Trưởng,
sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem cờ và ấn kiếm vào Quy Nhơn ban cho Tây Sơn Vương.
Hoàng Ngũ Phúc đóng binh ở Châu Ổ, cuối năm Ất Mùi (1775) rút
về Thuận Hóa. Tây Sơn Vương không lo mặt Bắc nữa, chuẩn bị đánh lấy mặt Nam.
ĐÁNH VỚI NHÀ NGUYỄN Ở MẶT NAM
Đi đánh mặt Bắc, Tây Sơn Vương không quên mặt Nam.
Vương cử Nguyễn Lữ, Nguyễn Văn Lộc và Võ Văn Cao đi vào Phú
Yên, Diên Khánh, Bình Thuận để xem xét tình hình, liên lạc cùng Vua Thủy Xá
(Pơtau Ea), Hóa Xá (Pơtau Apui), và vận động thân hào nhân sĩ địa phương hưởng ứng
cuộc nam chinh.
Phái đoàn ra đi mùa thu năm Quý Tỵ (1773).
Thủy Xá và Hỏa Xá là con cháu của Vua Chiêm Thành, chiếm cứ
sơn phần Phú Yên Diên Khánh và vùng Đăk Lăk, Ban Mê Thuột, không thần phục chúa
Nguyễn, thường kéo người Thượng xuống quấy phá xóm làng Việt Nam. Được nhà Nguyễn
phong cho chức Chưởng Cơ, không nhận. Tây Sơn Vương hứa phục hồi danh vị Phiên
Vương khi bình định xong miền Nam, hai Vua hoan nghênh phái đoàn và hứa sẽ giúp
đỡ quân Nam tiến.
Mọi tầng lớp nhân dân Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận đều
chán ghét quan quân nhà Nguyễn, ai nấy đều mong có cuộc đổi thay.
Còn quan quân nhà Nguyễn thì chỉ lo bóc lột nhân dân, không
nghĩ gì đến việc an nguy của quốc gia, cho nên việc phòng thủ rất lỏng lẻo.
Phái đoàn về trình tâu rõ tình hình, Vương liền cử Ngô Văn Sở
làm Chinh Nam Đại Tướng Quân, cùng Nguyễn Văn Lộc, Lê Văn Hưng vào đánh chiếm
ba phủ Phú, Diên, Bình.
Xuất quân mùa đông năm Quý Tỵ (1773).
Mặt tây được hai Vua Thủy, Hỏa yểm hộ, binh Tây Sơn cứ thẳng
tiến vào Nam. Đi tới đâu được hoan nghênh tới đó, và lấy ba thành dễ dàng như
trở bàn tay. Tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Hiền bị giết, và Nguyễn Khoa Kiên bị
bắt sống.
Đại thắng, Ngô Văn Sở kéo binh về, để Nguyễn Văn Lộc và Lê
Văn Hưng ở lại trấn giữ.
Trong khi Ngô, Nguyễn, Lê đi chinh Nam thì ở Quy Nhơn, Nhưng
Huy và Tứ Linh làm phản.
Nguyên Nhưng Huy và Tứ Linh nghe Tây Sơn Vương chuẩn bị Nam
chinh, liền đến xin xung phong. Nghĩ rằng Huy, Linh trước kia đã từng quấy rối
những vùng miền trong, để cho họ đem quân vào, sợ đồng bào sanh biến, nên Vương
không chấp nhận lời thỉnh cầu. Hai người bất mãn, nhân dịp đem quân đi tuần
phòng ban đêm, bỏ trốn về nguồn An Tượng, tập hợp đám côn đồ, kéo xuống đánh
phá vùng Trường Úc. Trần Quang Diệu đem quân đánh dẹp. Huy, Linh bị bắt. Tây
Sơn Vương muốn tha vì có công lấy thành Quy Nhơn. Nhưng chư tướng đồng xin giết
đi bởi “Công nhỏ không bù được họa lớn, giữ lại trong quân là nuôi ong tay áo,
cho về An Tượng là thả cọp về rừng”. Vương phải theo ý chư tướng. Huy, Linh thản
nhiên ra pháp trường, cười bảo nhau:
- Được thì vểnh râu, thua thì đứt cổ.
Ở Phú Yên, đầu xuân năm Giáp Ngọ (1774), Châu Văn Tiếp nổi dậy.
Châu Văn Tiếp là người Phù Ly, làm nghề buôn nhưng sức mạnh
võ giỏi. Khi Tây Sơn đánh chiếm thành Quy Nhơn, Châu không theo, đem gia đình
vào Phú Yên, cấ nhà ở dưới chân núi Trà Lương thuộc Tuy An, nuôi chí diệt Tây
Sơn phò Nguyễn chúa. Kịp lúc binh Tây Sơn đánh chiếm Phú Yên, Châu chiêu mộ hơn
nghìn người, dựng cờ khởi nghĩa. Cờ thêu bốn chữ lớn “Lương Sơn Tá Quốc”.
Trấn thủ Phú Yên là đô đốc Nguyễn Văn Lộc hay tin, đem quân đến
vây đánh. Quân Châu Văn Tiếp chưa được huấn luyện kỹ càng, vừa xáp chiến đã rã
tan, Tiếp tẩu thoát, chạy lên núi theo thượng đạo vào Gia Định cung thuận Định
Vương.
Mùa thu năm ấy, viên lưu thủ đất Long Hồ trong Nam là Tống
Phước Hiệp cử đại binh cùng Nguyễn Khoa Toàn ra đánh Tây Sơn.
Quân Nguyễn đánh chiếm Bình Thuận. Tống Phước Hiệp để Nguyễn
Khoa Toàn ở lại, còn mình kéo binh ra đánh Diên Khánh. Trấn thủ Lê Văn Hưng chận
đánh. Nhưng nhận thấy quân địch đã đông lại có trọng pháo yểm hộ, liệu không thắng
nổi, bèn bỏ thành trống, rút toàn quân về Phú Yên cùng Nguyễn Văn Lộc chống địch.
Chiếm được Diên Khánh rồi, Tống Phước Hiệp chia binh làm hai
đạo kéo ra Phú Yên. Quân bộ thì đóng tại núi Xuân Đài thuộc Đồng Xuân, quân thủy
thì đóng ở đầm Lãnh Úc nằm phía đông nam Đồng Xuân. Rồi đưa thư ra Quy Nhơn đòi
Tây Sơn Vương trả Đông Cung Nguyễn Phúc Dương.
Tây Sơn Vương muốn giữ kỹ Nguyễn Phúc Dương để làm con bài
phòng khi dùng đến, bèn đưa lên chiến khu. Lại truyền Nguyễn Huệ xuống Quy Nhơn
để lo việc Nam chinh. Nguyễn Huệ liền giao Tây Sơn cho Bùi Thị Xuân và Võ Đình
Tú quản đốc, kéo đạo binh người Thượng mới tuyển mộ xuống Quy Nhơn. Rồi vâng lệnh
anh, vượt Cù Mông vào Phú Yên.
Nguyễn Huệ phóng tin cho Nguyễn Văn Lộc và Lê Văn Hưng biết để
hợp lực công địch. Quân Tây Sơn cắt đứt liên lạc giữa thủy binh và bộ binh của
địch, rồi chia quân làm hai cùng lúc đánh Xuân Đài và Lãnh Úc. Tống Phước Hiệp
không thấy Vua Tây Sơn đáp ứng lời yêu sách của mình, cũng không thấy quân Tây
Sơn khởi động, đương nghi nghi ngờ ngờ, thì bị đánh úp. Không kịp trở tay, binh
của Tống cả thủy lẫn bộ đều bị tiêu diệt. Tống tẩu thoát về Nam. Quân Tây Sơn
tiến đánh, lấy lại Diên Khánh và Bình Thuận. Nguyễn Huệ giao việc phòng thủ cho
Nguyễn Văn Hưng và Lê Văn Lộc rồi kéo đạo binh người Thượng trở về Quy Nhơn [3]. Để giữ yên mặt Bắc, Tây Sơn Vương đưa tin thắng trận cho
Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Phúc liền xin chúa Trịnh phong cho Vương làm Tây Sơn Hiệu
Trưởng Tráng Tiết Tướng quân và phong Nguyễn Huệ làm Tây Sơn Hiệu Tiên Phong tướng
quân.
Vương lại sai Lý Tài vào trấn Bình Thuận, hiệp lực cùng Lê
Văn Hưng ở Diên Khánh để phòng thủ mặt Nam. Trần Quang Diệu can:
- Lý Tài là người Tàu, bụng dạ khó lường, không nên cho đi
xa. Cọp sẩy chuồng khó bắt lại.
Vương cười:
- Đã biết vậy. Song Lý Tài đánh giặc có công mà lòng phản bội
chưa có hình tích. Trừ khi không khỏi mang tiếng bẻ ná quên nôm. Hống nữa cũng
như Tập Đình, Lý Tài mạnh là nhờ nanh vuốt. Nay đám thủ hạ đã tử trận gần hết,
thì con cọp già không nanh vuốt dù hung hãn đến đâu cũng không đáng sợ. Hiện
còn dùng được cứ dùng.
Đó là cuối đông năm Giáp Ngọ (1774).
Mùa xuân năm Ất Mùi (1775), Tây Sơn Vương sai Nguyễn Lữ và
Phan Văn Lân đem thủy quân vào đánh Gia Định.
Quân Tây Sơn vây đánh Sài Côn (tức Sài Gòn). Định Vương Nguyễn
Phúc Thuần khiếp sợ, chạy về Trấn Biên (tức Biên Hòa). Tướng sĩ mở thành đầu
hàng. Quân Tây Sơn kéo vào thành. Nguyễn Lữ cho khuân hết lương thực vũ khí xuống
thuyền rồi sai Phan Văn Lân tải về Quy Nhơn, một mình giữ Gia Định.
Sang năm Bính Thân (1776), Đỗ Thành Nhân ở Đông Sơn (Tam Phụ,
Mỹ Tho) dấy binh giúp nhà Nguyễn, kéo đánh Sài Côn. Nguyễn Lữ không chống cự, bỏ
thành rút quân về Quy Nhơn, Đỗ Thành Nhân rước Định Vương về Sài Côn lo việc
phòng thủ.
Tháng 10 năm ấy, Tây Sơn Vương sanh đặng con trai đặt tên là
Bảo và mở yến tiệc ăn mừng. Đông Cung Nguyễn Phúc Dương lúc bấy giờ ở tại chùa
Thập Tháp, thừa dịp quân canh ham vui lơ là canh gác, lẻn trốn xuống thuyền
chạy về Gia Định.
Lý Tài ở Bình Thuận biết rằng Vua tôi Tây Sơn Vương có ý nghi
mình, bèn bỏ vào đầu hàng chúa Nguyễn. Nhưng rồi lại bỏ chúa Nguyễn, kéo quân đến
chiếm cứ núi Chiêu Thái ở Biên Hòa. Nghe tin Đông Cung Dương vào Gia Định, Tài
đón về tôn làm Tân Chính Vương, rồi đưa vào Sài Gòn, tôn Định Vương làm Thái
Thượng Vương. Đỗ Thành Nhân không phục bỏ về Đông Sơn.
Được tin lủng củng giữa bầy tôi nhà Nguyễn, tháng 3 năm Đinh
Dậu (1777), Tây Sơn Vương sai Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đem thủy binh vào đánh
Gia Định.
Lý Tài không chống nổi, cầu viện quân Đông Sơn, Đỗ Thành Nhân
làm ngơ. Thành Sài Côn thất thủ, Lý Tài chạy trốn ở núi Chiêu Thái, Thái Thượng
Vương Thuần chạy qua Long Xuyên. Tân Chánh Vương Dương chạy đến Vĩnh Long. Cả
hai đều bị quân Tây Sơn bắt giết. Các quan võ nhà Nguyễn đều quy hàng.
Hạ xong thành Sài Côn, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ kéo binh về Quy
Nhơn, giao cho đám hàng thần là Tổng Đốc Chu, Hổ Tướng Hãn, Tư Khấu Uy, Hộ Giá Phạm
Ngạn trấn thủ đất Gia Định.
Chú thích:
[1] Ba nơi sông Cối, sông Thế, bãi Kim Sơn ở cách nhau không
xa.
[2] Mỹ Thị tức Mỹ Khê ở trong phạm vi Đà Nẵng hiện tại.
[3] Trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim chép: “Nguyễn
Nhạc không lo mặt Bắc nữa, bèn lập mưu để đánh lấy đất Nam, đem con gái mình là
Thọ Hương dâng cho Đông Cung và khoản đãi một cách rất tôn kính, rồi sai người
đến giả nói với Tống Phước Hiệp xin về hàng để lo khôi phục đất Phú Xuân, Hiệp
tưởng thật, không phòng bị... Nguyễn Huệ đem quân đánh, Phúc Hiệp... thua chạy...
Xét: Nguyễn Nhạc có hai gái đầu và ba trai là Bửu, Đức,
Lương. Con gái đầu lúc ấy (1774) mới chừng mười, mười hai tuổi, sau này một gả
cho Vũ Văn Nhậm, một cho Trương Văn Đa. Như thế việc gả con cho Đông Cung không
thể có.
5.
TÂY SƠN VƯƠNG SỬA THÀNH ĐỒ BÀN VÀ XƯNG ĐẾ HIỆU
Thanh toán xong Định Vương Nguyễn Phúc Thuần và Đông Cung
Nguyễn Phúc Dương thì mặt Nam gọi là tạm yên.
Còn mặt Bắc.
Tháng chạp năm Ất Mùi (1775) Hoàng Ngũ Phúc đóng tại Châu Ổ
(Quảng Nam), được chúa Trịnh cho rút về Thuận Hóa. Đến Phú Xuân thì chết, Chúa
Trịnh sai Bùi Thế Đạt vào thay và cho Lê Quý Đôn làm Tham Thị vào cùng giữ Thuận
Hóa.
Từ ấy Quảng Nam thuộc về Tây Sơn.
Hai cựu thần của nhà Nguyễn là Tôn Thất Quyền và Tôn Thất
Xuân nổi dậy chống Tây Sơn, đánh lấy phủ Thăng Bình và phủ Điện Bàn.
Tây Sơn Vương liền sai Đặng Xuân Phong đi đánh dẹp.
Đặng Xuân Phong nguyên là người Dõng Hòa thuộc Tây Sơn Hạ
(Bình Khê), sức mạnh võ giỏi lại có tài cưỡi ngựa bắn cung, nhưng tánh ưa nhàn
tản, nên không hưởng ứng lời chiêu mộ của Tây Sơn Vương.
Một hôm nữ tướng Bùi Thị Xuân đứng ở trường trầu Kiên Mỹ, chợt
thấy một tráng sĩ trẻ tuổi cầm côn đồng, mang cung sắt, cỡi ngựa ô, từ Thuận
Nghĩa chạy lên Phúc Lạc [1], thái độ hiên ngang nhưng tướng mạo trung hậu. Nữ tướng lấy
làm lạ, theo dò xem. Đến Trưng Sơn, tráng sĩ cho ngựa lên núi. Đường núi gập ghềnh
mà ngựa chạy như nơi bình địa. Ngựa chạy quanh quất hồi lâu rồi mới dừng lại
nơi khoanh đất bằng và rộng nằm ở lưng chừng núi. Chợt một bầy quạ bay ngang,
tráng sĩ liền trương cung bắn liên tiếp hai phát: hai con quạ rơi xuống như hai
quả chín cây. Rồi tráng sĩ xuống tháo cương cho ngựa đi ăn. Đoạn xăn tay múa
côn. Tiếng gió vun vút. Khí lạnh ớn người. Diễn liên tiếp mấy bài mà khí sắc
không đổi. Tráng sĩ lên núi lúc mới tảng sáng. Mặt trời lên quá sào thì thắng
ngựa trở về.
Nữ tướng khen thầm:
Thật là một dũng sĩ!
Và tự trách:
Anh tài ở trước mặt mà bấy lâu mình có mắt cũng như không!
Dò biết được lai lịch của tráng sĩ Đặng Xuân Phong và Trưng
Sơn là nơi tráng sĩ thường đến tập luyện, nữ tướng liền về chiến khu, rồi cùng
Đại Tổng Lý Vũ Đình Tú xuống Dõng Hòa mời họ Đặng tham gia đại sự. “Lạ gì thanh
khí lẽ hằng”. Không đợi thuyết phục, họ Đặng hưởng ứng ngay lời mời của họ Võ họ
Bùi.
Đặng Xuân Phong liền được tiến cử lên Vua Tây Sơn, và được đi
đánh dẹp Quảng Nam để lập công.
Không phải dùng nhiều công sức, Đặng Xuân Phong mới xáp chiến
trận đầu là lấy ngay được Thăng Bình rồi Điện Bàn. Tôn Thất Quyền và Tôn Thất
Xuân đều tử trận.
Quảng Nam được dẹp yên, Tây Sơn Vương gọi Nguyễn Văn
Xuân ở Quảng Nghĩa về Qui Nhơn cử Đặng Xuân Phong thay thế, và cử nguyễn Văn
Tuyết [2] ra trấn thủ Quảng Nam, cùng họ Đặng làm răng môi giữ gìn
mặt Bắc.
Bắc Nam được yên ổn, Tây Sơn Vương đổi thành Minh Đức Vương
và cho sửa lại thành Qui Nhơn [3].
Thành Quy Nhơn tức là thành Đồ Bàn cũ của Chiêm Thành.
Thành nằm trên dãy gò sỏi thuộc hai thôn Nam An và Bắc Thuận
thuộc huyện Tuy Viễn (tức An Nhơn ngày nay). Địa thế rất lợi về mặt chiến thủ.
Thành do Vua Chiêm Thành là Xá Lợi Đà Bàn Ngô Nhật Hoan
(Indravarman IV) xây vào thế kỷ thứ X. Tường bằng gạch và đá ong. Mặt hướng vào
Nam, chu vi hơn 10 dặm, có bốn cửa. Bên ngoài có dãy Kim Sơn che phía tây, có
núi Long Cốt làm tiền án và gò Thập Tháp yểm hậu. Bốn nhánh sông Côn hội nước ở
Lý Nhơn, tạo thành cái thế nước chảy bao quanh, nhờ thế mà hào thành không bao
giờ khô cạn. Ngoài xa nữa, khắp bốn mặt lại có núi non trùng điệp, biển nước
mênh mông, triều ủng. Như phía Bắc có các núi Sa Lung, Cung Quăng, Thạch Đê...
làm bình phong ngăn từ xa, và núi Phú Cũ, Hải Lương (tức Đèo Nhông), Ô Phi làm
bình phong thứ hai ở mặt Bắc. Phía Nam có trấn sơn Phước An và An Tượng cùng
nhiều núi nối tiếp rất hiểm trở. Phía Tây có núi Hương Sơn với ba ngọn tháp nơi
gò Dương Long rất tráng lệ. Phía đông có đầm Hải hạc chu vi trên 9.000 trượng,
với núi Tháp Thầy, Bãi Nhạn, Gành Hổ, rừng Hoàng Giản có thể đồn binh ngăn giặc.
Và đầm Thị Nại với dãy núi Triều Châu, một dãy cát trắng vun cao chất ngất, thỉnh
thoảng nhô lên những ngọn núi đá, chạy từ Cách Thử đến Phương Mai là mũi đá làm
cánh cửa của biển Thị Nại.
Nhờ địa thế của thành Đồ Bàn mà Chiêm Thành đã ngăn chặn được
ngoại bang vào xâm nhập bờ cõi. Mãi đến thế kỷ thứ XV, năm Canh Thìn (1470) Vua
Chiêm là Trà Toàn gây sự, Vua Lê Thánh Tông mới cử binh vào đánh. Địa thế tuy
hiểm, thành trì tuy kiên cố, song nhuệ khí của quân Chiêm lúc bấy giờ đã nhụt,
nên Vua Lê chỉ mấy hôm công phá đã hạ được thành và bắt sống được Trà Toàn.
Vua Lê Thánh Tông đổi tên Đồ Bàn thành Hoài Nhân.
Chúa Nguyễn Hoàng đổi tên Hoài Nhân thành Quy Nhơn (1605).
Chúa Nguyễn Phúc Tần đổi Quy Nhơn làm Quy Ninh (1651).
Chúa Nguyễn Phúc Khoát lại lấy lại tên Quy Nhơn (1741).
Từ 1741 cho đến năm 1776 là năm tu bổ lại, tên thành không
thay đổi.
Nhà Tây Sơn cho mở rộng quy mô. Trước kia chu vi thành chỉ có
10 dặm. Nay mở thêm mặt đông, chu vi nới rộng ra thành 15 dặm. Xây toàn đá ong,
cao 1 trượng 4 thước và dày 2 trượng. Trước chỉ có 4 cửa. Nay mở thêm một cửa
nơi mặt thành phía nam, khoảng mới xây thêm, và gọi là Tân Môn. Còn cửa Nam Môn
cũ gọi là Vệ Môn. Trong thành đắp nhiều thổ môn đặt giàn súng, dùng làm đài
quan sát và tự vệ khi bị địch vây thành. Phía tây thành đắp để Đỉnh Nhĩ để ngăn
nước lụt. Phía tây nam đắp đàn Nam Giao để tế Trời Đất. Phía trong thành lại
xây một lớp thành nữa gọi là Càn Thành, chính giữa dựng điện bát giác là nơi
Vua ngự. Phía sau dựng điện Chánh Tẩm để Hoàng Hậu và cung nhân ở, phía trước dựng
lầu Bát Giác, bên tả bên hữu dựng hai tự đường, một thờ cha mẹ, một thờ cha mẹ
vợ nhà vua. Trước lầu bát giác có cung Quyển Bồng và liền với mặt nam Càn
Thành, có cửa tam quan gọi là Quyển Bồng Môn xây cổ lầu nên cũng gọi là Nam Môn
Lâu. Trong thành, ngoài thành, bài trí la liệt những voi đá, ngựa đá, nghé đá,
tượng nhạc công, vũ nữ... di tích của người Chiêm Thành xưa kia.
Thành sửa từ 1776 đến 1778 mới hoàn tất. Tráng lệ nguy nga.
Thành Quy Nhơn sửa xong, nhà vua xưng đế hiệu Minh Đức Hoàng
Đế, niên hiệu Thái Đức.
Thành Quy Nhơn đổi tên là Hoàng Đế Thành.
Nhà vua rước thầy học Trương Văn Hiến về làm quân sư.
Và phong:
- Nguyễn Huệ làm Long Nhương Tướng quân.
- Nguyễn Lữ là Tiết Chế.
- Phan Văn Lân làm Nội Hầu.
- Trần Quang Diệu làm Thiếu Phó.
- Võ Văn Dũng làm Đại Tư Khấu.
- Võ Đình Tú làm Thái Uy.
- Ngô Văn Sở làm Đại Tư Mã.
Các tướng khác đều phong Đô Đốc và Đại Đô Đốc.
Còn bên văn thì phong Võ Xuân Hoài làm Trung Thư Lệnh. Các
quan khác đều sắp xếp từ Thị Lang, Thượng Thư đến Đại Học Sĩ.
Bà họ Trần được rước về Hoàng Đế Thành phong Chánh Cung Hoàng
Hậu.
Bà người Thượng được rước về phong Thứ Phi. Nhưng không chịu
nổi cảnh phồn hoa náo nhiệt và nghi lễ nơi cung cấm, bà xin trở về vui với ruộng
lúa.
Bà Bùi Thị Xuân được phong làm Đại Tướng Quân, tự hiệu là Tây
Sơn nữ tướng, quản đốc mọi việc quân dân trong Hoàng Thành và tuần sát vùng Tây
Sơn.
Bok Kiơm không nhận chức tước cũng không nhận tiền của, chỉ
xin mỗi năm được nhà vua cấp muối và cá khô để nuôi lòng trung thành của đồng
bào Thượng.
Hai Vua Thủy Xá và Hỏa Xá được phong Vương tước, sai sứ đưa
ra những trầm hương, kỳ nam, hổ phách và voi ngựa làm cống vật và nguyện giữ một
lòng trung thành với Tây Sơn.
Nhà vua cũng không quên họ Đinh ở Bằng Châu.
Truyền rằng:
Họ Đinh lúc bấy giờ chỉ còn một ông lão trên bảy mươi, tánh
khí ngang tàng bướng bỉnh. Vua vời ông lão đến, ông lão nói:
- Ông làm vua là làm vua với thiên hạ, chớ với tôi ông vẫn là
con cháu. Con cháu mà ban chức tước cho cha ông, tôi thấy hơi nghịch. Chi bằng
để tôi phê rồi ông lục thì hơn.
Nhà vua chuẩn y. Ông lão viết:
- Bùng binh chi tướng.
- Uýnh ướng chi quan.
- Bộn bàng chi chức.
- Chảng chảng ngãng thiên.
Rồi mỗi lần ông lão đi thăm Vua Thái Đức, thì ngồi trên một
cái ghế có bốn người khiêng, hai bên có vài chục người cầm cào cỏ, cuốc chĩa,
xuổng, cuốc... thay thế cho cờ biển hèo tua... và hai cây dù tát nước che thế lọng.
Phía sau phía trước lại có hai đoàn người thổi kèn đánh trống bằng miệng. Tưng
bừng rộn rịp. Thiên hạ kéo ra xem đông và vui như hội.
Thăng thưởng cho mọi người xong, nhớ đến Nhưng Huy và Tứ
Linh, nhà vua bùi ngùi nói:
- Huy, Linh công chưa được thưởng, tội đã bị trừng, đối với
ta thật chẳng khác tự mình cầm lấy đao xẻo miếng thịt hư nơi vai vế!
Ai nấy đều cảm động. Long Nhương Tướng quân nói:
- Làm việc lớn không nên bận đến điều nhân nghĩa nhỏ. Thà chịu
cắn răng trong chốc lát, còn hơn phải nhăn mặt suốt đời.
Rồi cuộc vui mở khắp nơi.
Đồng bào vô cùng hoan hỷ.
Sau mười ngày yến tiệc, Vua Thái Đức lo chỉnh đốn việc dân việc
quân.
Thời chúa Nguyễn, từ Hoành Sơn đến Cà Mau, đất chia làm 12
dinh:
Chính dinh, Cựu dinh, Quảng Bình dinh, Vũ Xá dinh, Bố Chính
dinh, Quảng Nam dinh, Phú Yên dinh, Bình Khang dinh, Bình Thuận dinh, Trấn Biên
dinh, Phiên Trấn dinh, Long Hồ dinh.
Dinh chia ra phủ, phủ chia ra huyện.
Quy Nhơn, Quảng Nghĩa thuộc Quảng Nam dinh.
Gia Định gồm các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ.
Gia Định ở xa, nhà vua giao quyền cai trị cho cựu thần nhà
Nguyễn đã quy thuận, để lo cho được chu đáo phần đất từ Quảng Nam đến Bình Thuận.
Nhà vua bỏ dinh, chỉ để phủ, huyện. Từ Bắc đến Nam có sáu phủ:
Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Phú Yên, Diên Khánh, Bình
Thuận.
Huyện ở dưới quyền phủ. Trừ phủ Quy Nhơn, ba huyện Tuy Viễn,
Phù Ly, Bồng Sơn trực thuộc trung ương.
Danh hiệu Tuần Phủ đổi là An Phủ Sứ, Phòng Ngự Sứ, An Phủ cầm
đầu phủ lớn. Phòng ngự coi giữ phủ nhỏ [4].
Quân số lúc bấy giờ phỏng chừng 15 vạn (150.000)
Theo binh chế đời nhà Chu, binh chia làm 6 cấp: Quân, Sư, Lữ,
Tốt, Lượng, Ngũ. Ngũ gồm có 5 người. Lượng gồm có 5 ngũ tức 25 người. Tốt gồm
có 4 lượng tức 100 người. Lữ gồm có 5 tốt, tức 500 người. Sư gồm có 5 lữ, tức
2.500 người. Quân gồm có 5 sư, tức 12.500 người.
Tổng số là 12 quân đoàn, có bộ binh và thủy binh.
Binh chủng nào cũng tinh nhuệ.
Đặt biệt nhất là:
- 2 quân đoàn người Thượng, với 2.000 chiến mã.
- 4 lữ đoàn nữ binh, với 100 thớt voi.
Hai quân đoàn người Thượng do Long Nhương Tướng Quân Nguyễn
Huệ tổ chức và thường do Long Nhương chỉ huy.
Người nào cũng cao lớn, gan dạ. Tay cầm mác hay cầm ná, lưng
giắt dao bảy. Phóng mác trăm phát trăm trúng, bắn ná không cần nhắm cũng trúng
đích. Lại có tài cỡi ngựa. Ngựa đang chạy, lên lưng một cách nhẹ nhàng gọn
gàng, ngựa đang sải, nhảy xuống ngựa cũng gọn gàng lẹ làng không kém. Ra trận
chỉ biết tới chớ không biết lui.
Họ hết lòng trung thành với chủ tướng. Đó là vì chẳng những
chủ tướng tài cao, lượng rộng, đối với họ hết nghĩa hết tình, mà còn vì tin chắc
rằng chủ tướng là người của Trời sai xuống điều khiển họ.
Không phải họ tin mù quáng, mà chính mắt họ cũng thấy rõ
ràng.
Khi cùng Võ Đình Tú quản lý Tây Sơn, nguyễn Huệ thường đi
chiêu mộ binh Thượng. Một hôm, trời vừa hửng sáng, đám tân binh đi đến chân đèo
An Khê, thì trong sương mờ, xa xa thấy hai con rắn mun cực kỳ to lớn. Không ai
dám đi tới.
Nguyễn Huệ chắp tay khấn:
- Nếu quỷ thần có phù hộ tôi để tôi dựng nên nghiệp lớn thì
xin tránh đường cho tôi đi. Bằng không thì cắn chết tôi chớ đừng làm hại những
người theo tôi.
Khấn rồi đi tới. Hai rắn cuối xuống ngậm một thanh đao, cán
đen như mun, lưỡi sáng như nước, kính cẩn dâng cho Nguyễn Huệ rồi bò vào bụi biến
mất. Đám tân binh liền quỳ xuống tung hô Nguyễn Huệ là “Tướng nhà trời”.
Thanh đao đó Nguyễn Huệ gọi là Ô Long Đao và thường dùng lúc
ra trận.
Và để nhớ ơn quỷ thần tặng đao, một ngôi miếu dựng nơi chân
đèo An Khê, tục gọi là Miếu Xà. Người qua lại thường thắp hương cúng [5].
Còn 4 lữ đoàn nữ binh thì do nữ tướng Bùi Thị Xuân và bà họ
Trần vợ tướng Nguyễn Văn Tuyết tổ chức và điều khiển.
Bà họ Trần, song kiếm tuyệt luân, côn quyền cũng xuất chúng.
Ngày ngày lo huấn luyện nữ binh. Giảng dạy rất kỹ, thưởng phạt rất nghiêm. Võ
nghệ của chị em ai nấy đều tinh luyện. Đứng xa nhìn chị em tập thì chẳng khác
nhìn cánh đồng hoa trước gió nồm. Nhưng nếu bước đến gần thì sát khí đằng đằng
đến lạnh mình dựng tóc.
Còn voi thì do bà Bùi huấn luyện.
Voi, phần của bà mua, phần do người Thượng tặng bà, phần là
chiến lợi phẩm, cống phẩm... Bà thường dùng dãy gò ở Xuân Hòa, quê hương bà, để
luyện voi [6].
Voi đã được tập luyện thuần thục thì không cần người quản tượng.
Voi mới thì mỗi thớt phải có một nữ binh cỡi khi tập.
Để điều khiển voi, bà thường dùng ngọn cờ đỏ. Khi bà chưa ra
diễn trường, thì voi đi đứng lộn xộn. Ra diễn trường, bà phất ngọn cờ thì con
voi đầu đàn vội đến đứng nghiêm chỉnh trước mặt bà. Bà lẹ làng nhảy lên voi, vỗ
nhẹ đầu voi. Voi cong vòi rống lên một tiếng. Tất cả đàn voi răm rắp đến sắp
hàng ngay ngắn trước đầu voi đầu đàn. Rồi theo hiệu cờ, tới lui, rẽ bên nam,
sang bên bắc, khi chậm khi mau, nhịp nhàng đều đặn.
Ban đầu phải tập từng thớt một.
Sau mới tập từng đoàn.
Khi tập từng đoàn, thì nữ quản tượng nào đi kèm theo voi nấy.
Hàng ngũ sắp chỉnh tề rồi. Nữ tướng phất cờ hiệu, tất cả nữ quản tượng nhảy lên
voi một lượt, gọn và nhanh như người kỵ mã có tài nhảy lên lưng ngựa. Rồi theo
hiệu cờ mà tập... Thân vóc voi ngó nặng nề, mà bước chân voi trông lẹ làng lanh
lẹ. Khí thế hùng dũng như gió cuốn sóng dồn, nhưng diễn trường im phăng phắc,
khách bàng quan không nghe tiếng, chỉ thấy hình, những hình sống động vừa mạnh
mẽ vừa đẹp đẽ, nửa cổ kính nửa tân kỳ... Tập xong, theo hiệu cờ, đoàn nữ quản
tượng nhảy xuống voi cũng lẹ làng nhịp nhàng, với những nụ cười đắc ý.
Voi được luyện kỹ càng rồi mới đưa xuống Hoàng Đế Thành. Ai
điều khiển cũng được.
Quân số cần phải gia tăng mới đánh Nam dẹp Bắc.
Nhưng lính phải mộ chớ không bắt.
Và những lính cũ bị đau yếu được cho về nhà hoặc đưa lên các
trại sản xuất để điều dưỡng nghỉ ngơi cho đến khi mạnh. Những nông dân ở các trại
đã được huấn luyện quân sự rồi thì nhập ngũ để thay những người đi nghỉ, hoặc để
thêm vào số quân đương cần.
Vì chế độ rộng rãi nên quân số gia tăng một cách mau chóng.
Nhà vua còn cho mở nhiều xưởng đóng chiến thuyền và xây nhiều
lò đúc vũ khí. Có hai xưởng đóng thuyền lớn nhất, một ở Phương Mai thuộc Quy
Nhơn, một ở Nha Trang thuộc Diên Khánh [7]. Và lò đúc lớn nhất ở Quang Hiển thuộc Tuy Phước, dưới chân
hòn Bà. Ở các cửa sông lớn và nơi núi non hiểm trở đều có đồn kiên cố. Ở Phương
Mai lại có xây pháo đài để canh giữ cửa bể Thị Nại [8].
Việc chiêu mộ hào kiệt vẫn tiếp tục.
Kẻ sĩ bốn phương lần lượt đến phò tá. Văn thì có một nhân vật
xuất sắc:
Lê Văn Nhân, tự Nghĩa Tiên, người An Nhơn, học rộng, thơ hay
lại sở trường về văn tứ lục. Ở nhà, hễ ai cầu thơ văn thì đem giống hoa thơm và
cây ăn trái đến làm nhuận bút. Do đó người đương thời gọi vườn của ông là “Chủng
tự lâm” tức là “Rừng trồng chữ”. Vì là người địa phương nên được bổ ngay làm
Tri huyện Tuy Viễn. Làm quan thanh liêm, chuộng phong tiết, giàu phong lực, đầy
phong nhã [9]. Người đời xưng tụng là Tam Phong thái thú”.
Bên võ, siêu quần thì có:
Nguyễn Quang Huy, người Phú Yên, thiện dụng ngân câu (móc câu
bạc), ưa cỡi bạch mã. Đã có sức mạnh, lại giỏi võ nghệ, thông binh pháp. Vua
Thái Đức rất ái trọng, phong làm Phòng Ngự Sứ vào trấn Bình Thuận.
Lúc bấy giờ, Vua Thái Đức đã 35, 36 tuổi. Nhà vua có hai người
con gái đã đến tuổi lấy chồng và một trai là Nguyễn Bảo mới lên ba.
Trong các tướng tài, Vũ Văn Nhậm là người chưa vợ, nhà vua
bèn đem con gái lớn gả cho. Còn người con gái thứ nhì gả cho người con trai của
thầy học là Trương Văn Đa, tuổi mới trên hai mươi mà văn võ đã xuất chúng. Nhà
vua cho ở luôn trong cung với ý định sẽ nhờ dạy dỗ Nguyễn Bảo.
Nơi triều đường, trong cung cấm cũng như ngoài nhân gian, đâu
đó đều thuận thỏa yên vui. Mùa màng lại được. Người Kinh bắt chước người Thượng
gọi Thái Đức Hoàng Đế là Vua Trời (Thiên Vương).Chú thích:
[1] Phú Lạc, Kiên Mỹ, Thuận Nghĩa, Dõng Hòa, từ tây xuống
đông, thôn này giáp thôn nọ, thuộc về Tây Sơn Hạ (trước là huyện Tuy Viễn chia
ba - Bình Khê - An Nhơn, Tuy Phước - thì Tây Sơn Hạ thuộc về Bình Khê).
[2] Trong sách của cụ Bùi Văn Lang chép là Nguyễn Văn Duệ.
[3] Việt Nam lược sử của Trần Trọng Kim chép là “Tây Sơn
Vương”. Sách Tây Sơn của Bùi Văn Lang chép là “Minh Đức chúa công”
[4] Vua Thái Đức dựa theo quan chế nhà Trần. Nhưng đời Trần,
An Phủ Sứ thuộc văn giai ngoại chức. Phòng Ngự Sứ thuộc về võ giai ngoại chức.
Đời Tây Sơn không phân biệt văn võ, mà phân biệt phủ lớn phủ nhỏ.
[5] Miếu được luôn luôn tu bổ nên mãi trước năm 1945 vẫn còn.
Hành khách đến miếu thường xuống xe đốt hương.
[6] Gò đó vẫn còn, tục gọi là gò “Tập voi”.
[7] Tại núi Phương Mai còn di tích.
Ở Diên Khánh, xưởng cất ở dưới chân núi địa đầu thành phố Nha
Trang. Núi ấy có xưởng đóng thuyền ở dưới chân nên gọi là Núi Xưởng. Sau đó Trần
Quang Diệu cất trại thủy binh trên núi để chặn binh Nguyễn Phúc Ánh nên núi lại
mang tên là núi Trại thủy.
[8] Lò đúc Quang Hiển hiện nay vẫn còn di tích.
Nông dân địa phương thường đào được gang, quặng sắt, đồng vụn...
để đúc súng đánh Pháp.
[9] Thượng phong tiết, đa phong lực, nhiêu phong nhã. Ông là
tác giả bộ “Trần Triều Thông Sử Cương Mục” soạn năm Quang Trung thứ tư.
6.
NGUYỄN PHÚC ÁNH XƯNG VƯƠNG
TÂY SƠN BÌNH GIA ĐỊNH
Trong khi Nguyễn Nhạc xưng đế ở Quy Nhơn thì ở Gia Định Nguyễn
Phúc Ánh quật khởi.
Năm Giáp Tý chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng Vương hiệu (1744) và
chia đất Gia Định ra làm ba dinh: Trấn Biên dinh (Biên Hòa hiện nay), Phiên Trấn
dinh (Vũng Sài Gòn, Gia Định hiện nay), Long Hồ dinh (vùng Long Xuyên, Vĩnh
Long hiện nay).
Nguyễn Phúc Ánh là cháu nội Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát, kêu Định
Vương Nguyễn Phúc Tần bằng chú, đối với Đông Cung Nguyễn Phúc Dương là vai anh
con ông bác.
Nguyễn Phúc Ánh theo Định Vương vào Gia Định năm Giáp Ngọ
(1774). Năm Tân Dậu, Tây Sơn đánh chiếm Gia Định (1777), Định Vương và Đông
Cung bị giết. Phúc Ánh chạy thoát. Sau khi binh Tây Sơn rút về Quy Nhơn, giao
thành Sài Côn cho Tổng đốc Chu trấn thủ, thì Nguyễn Phúc Ánh tụ tập đám thủ hạ
cũ của chúa Nguyễn tại Long Xuyên, tấn cứ đất Tam Thụ (tục gọi là Ba Giồng thuộc
Định Tường). Tháng giêng năm Mậu Tuất (1778), được quân của Đỗ Thành Nhân ở
Đông Sơn đến giúp, Nguyễn Phúc Ánh bèn kéo binh đánh Phiên An. Không phòng bị
thành Sài Côn bị thất thủ. Đất Gia Định lọt vào tay Nguyễn Phúc Ánh. Phúc Ánh
được Đỗ Thành Nhân và tướng sĩ tôn làm Đại Nguyên Súy Nhiếp Quốc Chánh. Phúc
Ánh lúc bấy giờ mới mười bảy tuổi.
Bị mất Gia Định, Tổng Đốc Chu cùng thủ hạ chạy về Quy Nhơn.
Được ít lâu, Vua Thái Đức sai đem thủy binh vào đánh Gia Định. Tổng đốc Chu bị
Đỗ Thành Nhân đánh thua. Quân Tây Sơn tan rã. Thừa thắng Nguyễn Phúc Ánh sai Lê
Văn Quân kéo quân ra đánh Bình Thuận.
Bình Thuận, từ khi Lý Tài làm phản, thì giao cho Trấn thủ
Diên Khánh là Lê Văn Hưng kiêm nhiệm. Do đó mà thành bị Lê Văn Quân đánh lấy được
dễ dàng. Nhưng khi quân Nguyễn thừa thắng kéo ra Diên Khánh thì bị Lê Văn Hưng
chận đánh phải thối lui vào Bình Thuận. Binh Tây Sơn truy kích, đánh cho một trận
tơi bời, Lê Văn Quân vội rút tàn quân chạy về Gia Định. Từ ấy quân Nguyễn rất sợ
Lê Văn Hưng và Nguyễn Phúc Ánh gọi Hưng là Lê Vô Địch.
Từ ấy Bình Thuận trở ra thuộc về Tây Sơn, từ Bình Thuận trở
vô thuộc về Nguyễn Phúc Ánh.
Nguyễn Phúc Ánh sau khi chiếm được Gia Định một mặt lo sửa
sang mọi việc về quân sự và nhân sự, một mặt sai sứ sang giao hiếu cùng Xiêm
La.
Chỉ trong vòng hai năm, Nguyễn Phúc Ánh đã có ba vạn quân thủy
bộ, tám mươi thuyền chiến hạng vừa, ba thuyền chiến lớn, hai chiếc tàu kiểu
Châu Âu. Ngoài ra còn có thêm ba chiếc tàu đồng do các sĩ quan và thủy thủ Bồ
Đào Nha điều khiển. Ba tàu này đều đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp
là Manuel tục gọi là Mạn Hòe.
Tự thấy mình đủ sức đối đầu cùng Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh bèn
xưng Vương hiệu. Lễ tấn phong cử hành vào cuối năm Canh Tý (1780). Đỗ Thành
Nhân được phong chức “Ngoại Hữu Phụ Chánh Thượng Tướng Công”. Tất cả tướng sĩ đều
được thăng thưởng. Binh quyền do Đỗ Thành Nhân nắm trọn, chống giữ Tây Sơn ở mặt
Bắc, đánh phạt Chân Lạp ở mặt Tây. Thành Nhân lập được nhiều công lớn, nha tướng
mỗi ngày mỗi thêm đông. Sợ Thành Nhân tiếm vị, Phúc Ánh bèn tìm cách giết chết
năm Tân Sửu (1781).
Đỗ Thành Nhân chết rồi, Phúc Ánh không còn lo họa bên trong,
liền cử binh đánh Tây Sơn tại Bình Khang (tức Khánh Hòa hiện thời).
Ba đạo quân được điều động. Hai đạo bộ binh do Chu Văn Tiếp ở
Phú Yên đánh vào, và do Tôn Thất Dụ ở Bình Định đánh ra. Một đạo thủy quân do Tống
Phước Thiêm, Nguyễn Hữu Thụy, Dương Công Trừng chỉ huy, xuất phát từ Gia Định
kéo ra chận quân Quy Nhơn ở mặt biển.
Bình Khang là dinh nằm giữa dinh Bình Thuận ở phía Nam và
dinh Phú Yên ở phía Bắc, dinh Bình Khang chia làm hai phủ: phủ Bình Khang ở
phía Phú Yên, phủ Diên Khánh ở phía Bình Thuận. Trấn thủ dinh Bình Khang lúc bấy
giờ là Lê Văn Hưng có một đội tượng binh thiện chiến. Phần lớn quân lực đóng ở
Diên Khánh.
Bình Thuận thuộc quyền chiếm đóng của Nguyễn Phúc Ánh.
Phú Yên do tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Lộc trấn thủ. Chu Văn
Tiếp chỉ chiếm cứ một vùng ở Trà Lương (Tuy An).
Quân Tôn Thất Dụ kéo ra đến Diên Khánh chưa kịp đóng quân thì
bị Lê Văn Hưng cho đoàn chiến tượng xung trận. Quân nhà Nguyễn vốn đã sợ uy thế
Lê Văn Hưng, lại còn sức hùng mãnh của chiến tượng, đều khiếp đảm, rùng rùng bỏ
chạy. Quân Nguyễn chưa đánh đã tan! Còn Chu Văn Tiếp kéo quân ra chưa khỏi Phú
Yên đã bị Nguyễn Văn Lộc chặn đánh tơi bời. Binh bị giết gần hết, một mình Tiếp
tẩu thoát, chạy về trốn ở Trà Lương. Trong tình hình nguy ngập của bộ binh, thì
thủy binh của Tống Phước Thiêm lại không rời khỏi Gia Định được. Bởi bộ hạ của
Đỗ Thành Nhân ở Ba Giồng nổi loạn.
Không thể để yên cho Phúc Ánh phát triển lực lượng và chiếm
giữ lâu dài đất gia Định, Vua Thái Đức lo việc chinh Nam.
Tháng 3 năm Nhâm Dần (1782), nhà vua cùng Nguyễn Huệ, Phạm Ngạn
đem 200 chiến thuyền vào Gia Định. Binh đi thẳng vào cửa biển Cần Giờ.
Được tin Nguyễn Phúc Ánh hạ lệnh cho Tống Phước Thiêm đem thủy
quân ra chận đánh. Đạo thủy quân của nhà Nguyễn gồm trên 400 chiếc thuyền, lại
có một số tàu đồng của Pháp và Bồ Đào Nha tham dự.
Tống Phước Thiêm dàn thuyền chiến thành hàng tại sông Thất Kỳ
tức ngã Bảy, quyết tiêu diệt binh Tây Sơn. Hai bên kịch chiến. Bên ngoài có
súng trường và đại bác bắn rền trời. Thuyền Tây Sơn anh dũng xông vào bám sát
thuyền địch, dùng pháo lửa (fusée) [1] ném sang vùn vụt. Thuyền địch bị đốt cháy dữ dội. Tàu của
Pháp do Mạn Hòa chỉ huy, có 10 khẩu đại bác, bị hãm không sao ra khỏi vòng vây,
cố sức chống cự cuối cùng bị đốt cháy và đánh chìm, Mạn Hòa tử trận. Thuyền của
nhà Nguyễn không thoát được một chiếc. Tướng sĩ bị chết gần hết!
Một đội thuyền do Nguyễn Phúc Ánh trực tiếp chỉ huy đến cứu
cũng bị hỏa lực đánh tan, Phúc Ánh vội rút tàn quân chạy về Bến Nghé. Binh Tây
Sơn lớp đuổi theo Phúc Ánh, lớp kéo lên đánh chiếm Thị Nghè, Gia Định. Phúc Ánh
phải chạy trốn về Ba Giồng, theo phò vừa tướng vừa quân chỉ trên dưới 300 người;
nhưng chưa ở yên thì bị binh Tây Sơn kéo đến đánh, phải chạy hết từ chỗ này đến
chỗ khác từ Gia Định đến Hậu Giang.
Quân Nguyễn ở Bình Thuận nghe tin Gia Định thất thủ liền tiến
về cứu viện. Nhưng vừa đến Biên Hòa thì Tôn Thất Dụ bị tướng Tây Sơn là Phạm Ngạn
chận đánh, quân Nguyễn Phải thối lui. Vừa lúc đó Châu Văn Tiếp kéo quân ở Phú
Yên vào tiếp ứng. Phạm Ngạn đương đuổi theo quân Nguyễn, giết được một viên tướng
Nguyễn là Hồ Công Siêu, thì bị Châu Văn Tiếp tiếp chiến thình lình trở tay
không kịp liền bị giết. Quân Tây Sơn không dám đuổi tiếp. Tôn Thất Dụ cùng Châu
Văn Tiếp rút ra Bình Thuận.
Nguyễn Phúc Ánh ở Hậu Giang nghe tin quân mình thất bại khắp
mọi nơi, liệu không đủ sức đối phó với Tây Sơn, bèn sai Nguyễn Hữu Thụy cùng
150 người tùy tùng sang Xiêm cầu viện, còn mình thì chạy đến Hà Tiên cùng Lê
Văn Duyệt và một số quan tòng vong chạy ra Phú Quốc.
Thế là đất Gia Định được bình định. Bộ tường của Đỗ Thành
Nhân kéo binh từ Đông Sơn đến hàng. Vua Thái Đức thu nạp và trọng dụng.
Tháng 5 năm Nhâm Dần (1782) tình hình Gia Định đã tương đối ổn
định, Vua Thái Đức cùng Nguyễn Huệ kéo quân về Quy Nhơn. Đất Gia Định giao cho
Đỗ Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá trấn thủ.
Vua Thái Đức cùng Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn chưa được
bao lâu thì ở gia Định một cựu tướng của Nguyễn Phúc Ánh là Hồ Văn Lân tập hợp
một số tàn quân của nhà Nguyễn còn lẩn lút ở miền Hậu Giang, nổi lên đánh chiếm
dinh Long Hồ. Một số tướng khác như Dương Công Trừng, Nguyễn Văn Quý cũng đem
tàn quân hợp với Hồ Văn Lân đánh úp thủy quân Tây Sơn ở Lật Giang. Trong khi bọn
Hồ Văn Lân hoạt động ở Gia Định thì ở Phú Yên Châu Văn Tiếp cũng mộ quân kéo
vào giúp rập.
Đỗ Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá chỉ có 3.000 quân trong tay, phải
chia ra chống đỡ các mặt. Thành Gia Định bị yếu thế không trì thủ được lâu. Đỗ
Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá phải bỏ chạy về Quy Nhơn.
Lấy lại được Gia Định, Châu Văn Tiếp và các tướng sai người
ra Phú Quốc rước Nguyễn Phúc Ánh trở về.
Đầu năm Quý Mão (1783) Vua Thái Đức sai Nguyễn Huệ cùng Nguyễn
Lữ, Lê Văn Hưng, Trương Văn Đa cử đại binh vào đánh Nguyễn Phúc Ánh.
Biết trước thế nào Vua Tây Sơn cũng đem quân vào đánh, Nguyễn
Phúc Ánh lo phòng bị cẩn mật. Một mặt sai Lê Phúc Diễn, Lê Phúc Bình đem vàng bạc
sang Xiêm La, cầu xin Vua Xiêm cứu viện khi Gia Định bị Tây Sơn tấn công. Một mặt
lo tăng cường phòng thủ thành Gia Định: đồn Bến Nghé ở phía nam thành và đồn Thị
Nghè ở phía bắc thành là hai đồn lớn nhất và đã xây đắp từ lâu. Đồn Bến Nghé là
bình phong của thành. Đồn Thị Nghè nằm trên ngã ba sông Thị Nghè, có thể khống
chế mấy ngã sông Thị Nghè và sông Gia Định, do đó đủ sức che chở cho thành một
cách vững vàng kín đáo. Hai đồn này được tu bổ nghiêm túc. Hai đồn mới được xây
đắp: đồn Thảo Câu ở phía nam thành, trên sông Vàm Cỏ Đông; đồn Dác Ngư ở phía bắc
thành, trên sông Gia Định. Đồn nào cũng có tướng sĩ canh giữ nghiêm ngặt. Đồng
thời Nguyễn Phúc Ánh cho khôi phục thủy quân, đóng chiến thuyền. Trên khúc sông
rộng ở hạ lưu Gia Định giang có đóng nọc ngầm và hai bên sông có hàng nghìn bè
tre chất đầy củi khô và thuốc súng sẵn sàng đánh hỏa công. Một toán chiến thuyền
trên 100 chiếc trang bị đầy đủ dàn sẵn trên sông Gia Định.
Việc phòng bị lần này nghiêm chỉnh hơn lần trước thập bội.
Thủy binh Tây Sơn đến cửa Cần Giờ ngày 24 tháng 2 năm Quý Mão
(1783).
Nắm vững tình hình của địch. Nguyễn Huệ đợi lúc thủy triều
dâng, gió từ cửa biển thổi mạnh vào đất mới đốc suất chiến thuyền vào cửa sông.
Châu Văn Tiếp chỉ huy chiến thuyền Nguyễn kéo binh ra chống cự.
Tiếp đã bố trí chiến trường, quyết dùng hỏa công tiêu diệt thuyền địch, ít ra
cũng đẩy lui địch không cho tiến vào nội địa. Cho nên mới vừa giáp chiến đã vội
rút lui. Biết rằng có mưu gian, song Nguyễn Huệ vẫn hô quân tiến đánh.
Khi chiến thuyền Nguyễn đã qua khỏi khúc sông bố trí đánh hỏa
công và thuyền Tây Sơn đã lâm vào khu vực bố trí, thì các bè cũi khô nổi lửa và
cắt dây neo để cho trôi xuống thuyền địch. Nhưng vì thủy triều đương lên mạnh
và gió biển theo nước triều thổi mạnh, bè lửa trôi ngược trở lên và lửa đốt
cháy thuyền Nguyễn. Triều càng lên cao, gió càng thổi to, thuyền Tây Sơn đuổi
theo càng gấp, Châu Văn Tiếp liệu không chống cự nổi liền bỏ trốn, rồi theo đường
núi chạy sang Xiêm. Thủy binh của Phúc Ánh hoàn toàn bị tiêu diệt. Nguyễn Huệ
chia quân đến đánh hai đồn Thảo Châu và Dác Ngư. Tướng giữ đồn Dác Ngư là Tôn
Thất Mãn bị Lê Văn Hưng giết chết. Tướng giữ đồn Thảo Châu là Dương Công Trừng
bị Trương Văn Đa bắt sống. Nguyễn Huệ kéo quân đánh thành Gia Định. Nguyễn Phúc
Ánh hốt hoảng, bỏ thành đem gia đình chạy đến Ba Giồng, chỉ có năm, sáu viên tướng
và chừng trăm quân chạy theo. Tướng sĩ ở Bến Nghé và Thị Nghè cũng bỏ đồn chạy.
Nguyễn Huệ kéo quân vào thành, phủ dụ nhân dân và tướng sĩ
còn ở lại.
Chạy về Ba Giồng, Nguyễn Phúc Ánh tổ chức lại quân đội.
Đầu tháng 4 năm Quý Mão (1783) cất quân đánh Tây Sơn.
Quân hai bên gặp nhau ở Đồng Tuyên (Kiến An, Định Tường).
Quân nhà Nguyễn vừa thấy quân Tây Sơn hùng hổ kéo đến thì đã muốn bỏ chạy. Do
đó mới vừa giáp chiến thì binh liền tan rã, tướng phần nhiều bị giết. Nguyễn
Văn Quý bị Trương Văn Đa chém trên mình ngựa. Nguyễn Huỳnh Đức bị Lê Văn Hưng bắt
sống. Quân sĩ bị bắt sống trên nghìn người. Quân Nguyễn bị tiêu diệt toàn bộ.
Nguyễn Phúc Ánh tẩu thoát, chạy đến Lật Giang, chạy sang Mỹ
Tho, rồi chạy đến Ba Thắc, cuối cùng chạy đến Hà Tiên để xuống thuyền ra Phú Quốc.
Về việc chạy trốn của Nguyễn Phúc Ánh, sử nhà Nguyễn chép:
“Vương chạy đến Lật Giang thì trên sông tuyệt không có đò
sang ngang. Ngài bỗng thấy một con trâu nằm ngay nơi mé tả, Ngài bèn cỡi lên
lưng trâu để qua sông. Nhưng khi đến giữa dòng thì nước rút quá mạnh, trâu
không bơi được. May một con cá voi nổi lên há miệng ngậm lấy Ngài đưa sang bờ
bên kia. Nhờ vậy mà ngụy quân không nhận được vết tích để truy tìm. Tới xứ Vịnh
Cù, Ngài gặp Thái giám Duyệt đem theo ấn nhỏ bằng vàng cùng các quan tòng vong.
Mọi người xuống thuyền tới cửa Kinh Hào (Long Xuyên) rồi sang thuyền đi Phú Quốc...”
(Nguyễn Triều Long Hưng sự tích).
Được tin Nguyễn Phúc Ánh chạy ra Phú Quốc, Nguyễn Huệ sai
Phan Tiến Thận đi đánh bắt. Một số tướng lãnh bị bắt sống. Nguyễn Phúc Ánh
thoát chết chạy ra đảo Cổ Long (KohRong). Trương Văn Đa đem một lực lượng thủy
quân lớn đến vây đánh. Nhưng rủi gặp ngày mưa gió lớn thuyền không thể dàn ra để
bao vây mà phải dồn lại ghì chặt vào nhau để chống lại sóng gió. Nhờ vậy Nguyễn
Phúc Ánh có cơ hội đem tàn quân chạy thoát, trốn sang đảo Cổ Cốt (Koh Kut) rồi
chạy về Phú Quốc.
Đất Gia Định đã được hoàn toàn giải phóng, việc phòng thủ đã
được tổ chức nghiêm mật, tình hình trong cõi đã tương đối ổn định. Nguyễn Huệ
cùng Nguyễn Lữ và Lê Văn Hưng rút quân về Quy Nhơn để Trương Văn Đa cùng một số
tướng sĩ ở lại giữ thành Gia Định.
Nguyên trước khi Nguyễn Huệ xuất binh, Trương Văn Hiến tâu
cùng Vua Thái Đức:
- Gia Định ở xa Phú Xuân, nhân dân chưa bị khổ sở về nạn
Trương Phúc Loan, nên không căm thù nhà Nguyễn như người miền Trung. Quân ta
vào đánh quân nhà Nguyễn, nhân dân miền Nam coi là cuộc tranh giành quyền vị với
nhau, chớ không phải để giải phóng họ. Bởi vậy hễ bên nào mạnh, được thì họ
theo, theo trong nhất thời. Rồi ai được ai thua, họ bàng quan tọa thị. Do đó
quân ta cứ lấy được Gia Định rồi lại mất... Muốn giữ đất được lâu bền, thì phải
làm thế nào chiếm cho được lòng dân, nhất là lòng của kẻ sĩ.
Do đó Nguyễn Huệ mới để Trương Văn Đa, một người văn võ toàn
tài, ở lại trấn thủ Gia Định. Và khi quân thắng trận về đến Quy Nhơn, Vua Thái
Đức sai thêm hai văn thần là Cao Tắc Tựu và Triệu Đình Tiệp vào trợ lực.
Họ Cao họ Triệu vào đến nơi lo tìm hiểu dân tình dân ý. Hai
ông giả làm thầy địa lý và thầy tướng số để được gần gũi nhân dân. Hai ông nhận
thấy miền Nam hầu hết đều chất phác nhân hậu. Sĩ phu giữ khư khư lời dạy của
thánh hiền, chữ Trung của Hán Nho, Tống Nho đã in sâu vào tâm phủ. Lòng họ đối
với nhà Nguyễn tuy không sâu đậm bằng lòng người miền Bắc đối với nhà Lê, song
có tài chinh phục đến đâu cũng khó thu về cho nhà Tây Sơn trong hôm sớm. Muốn
thu phục nhân tâm miền Nam, thì phải làm sao cho họ thấy nhà Tây Sơn hơn nhà
Nguyễn về mọi mặt.
Trước hết phải có một chính sách tốt.
Chính sách đã có sẵn từ nghìn xưa. Chẳng qua tám chữ “Thân
Dân, Ái Dân, An Dân, Lợi Dân”. Khó nhất là làm sao thực thi cho được tám chữ ấy.
Trong khi ở Gia Định nhà Tây Sơn lo việc an dân thì ở Phú Quốc
Nguyễn Phúc Ánh lo cầu cạnh nước ngoài cứu viện để đánh cướp đất.
Nguyên Nguyễn Phúc Ánh có quen cùng hai giáo sĩ Cơ Đốc Tây
Phương là Linh mục Ly-ô (Liot), người Bồ Đào Nha, và Giám mục Bá Đa Lộc (Pierre
Pigneau de Béhiane Evêque d’Adran), người Pháp, trước kia truyền giáo ở Gia Định,
sau chạy sang Săn Ta Buôn (Chantabuon) ở Xiêm La lập giáo sở. Phúc Ánh bắt liên
lạc cùng hai nhà truyền giáo ấy, nhờ Linh mục Bồ Đào Nha mua lương thực và Giám
mục Bá Đa Lộc sang cầu viện nước Pháp. Phúc Ánh hứa bằng giấy tờ, sẽ cắt đất
nhượng cho nước Pháp, và để cho người Pháp được đặc quyền vào buôn bán ở Việt
Nam sau khi chiến thắng. Con trai đầu của Phúc Ánh là Hoàng Tử Cảnh theo Bá Đa
Lộc làm con tin.
Giám mục chưa kịp xuống tàu sang Pháp thì Phúc Ánh được mật
thư của Châu Văn Tiếp mời sang Vọng Các (Bangkok) hội kiến cùng Vua Xiêm.
Nguyễn Phúc Ánh sang Xiêm vào khoảng tháng giêng năm Giáp
Thìn (1784).
Vua Xiêm tiếp đãi nồng hậu.
Nước Xiêm lúc bấy giờ ở dưới triều Vua Chất Trị (Chakkri)
đương lúc thịnh vượng và đang nuôi tham vọng nuốt Chân Lạp và Gia Định để mở rộng
cõi bờ. Được Nguyễn Phúc Ánh xin cứu viện, Vua Xiêm chụp ngay cơ hội tốt.
Để chuẩn bị cuộc xâm lăng, Vua Xiêm giúp Phúc Ánh tổ chức một
đạo binh gồm đám tàn quân và bọn người Việt lưu vong trên dưới nghìn người do
Châu Văn Tiếp làm Đại Đô Đốc và Mạc Tử Sinh làm Tham Tướng.
Mùa hạ năm Giáp Thìn (1784), Vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng
làm chủ tướng và Chiêu Sương làm tiên phong, thống lĩnh hai vạn thủy quân và
300 chiến thuyền, hợp cùng đạo quân của Phúc Ánh từ Vọng Các vượt biển sang Gia
Định. Đồng thời nhà vua lại phái hai tướng là Lục Côn và Sa Uyển cùng với Chiêu
Thùy Biện, một cựu thần Chân Lạp thân Xiêm, đem hai đạo binh trên 3 vạn người,
tiến sang Chân Lạp rồi từ đó kéo xuống Gia Định phối hợp cùng thủy binh của
Chiêu Tăng và Chiêu Sương.
Châu Văn Tiếp đã thuộc được lối và biết rõ các nơi hiểm yếu ở
Gia Định, nên dẫn quân đi trước.
Thủy quân Xiêm đổ bộ lên Rạch Giá.
Bộ binh Xiêm đánh xuống Châu Đốc.
Để phòng ngự mặt biển và mặt sông, thời chúa Nguyễn, Nguyễn
Cư Trinh đã lập ra 5 đạo là Tân Châu Đạo ở Cù Lao Giêng thuộc Tiền Giang, Châu
Đốc Đạo ở Hậu Giang sát biên giới Chân Lạp, Đông Khấu Đạo ở Sa Đéc, Kiên Giang
Đạo ở Rạch Giá và An Xuyên Đạo ở Cà Mau.
Quân Xiêm kéo vào Gia Định một cách rầm rộ.
Trấn thủ Gia Định là Trương Văn Đa thấy sức giặc quá mạnh, ra
lệnh cho các nơi vừa chận đánh vừa rút lui từng bước để bảo toàn lực lượng.
Quân Tây Sơn giữ đạo Kiên Giang ở Rạch Giá và đạo Châu Đốc ở
biên cương rút về Cần Thơ. Quân giặc đuổi theo. Quân Tây Sơn theo bờ sông Hậu
Giang lui dần xuống Ba Thắc.
Ba Thắc (Srok Pra-sak) là một vùng rộng lớn bao trùm Sóc
Trăng, Bạc Liêu... Dân cư phần đông là người Cao Miên. Đất đai phần lớn là rừng
và bưng biền nước ngập.
Quân Xiêm đuổi đến Ba Thắc bị quân Tây Sơn phục kích đánh cho
một trận tơi bời phải thối lui. Quân Tây Sơn thừa thế vượt sông Hậu Giang sang
Trà Ôn để rồi lui về Đông Khấu Đạo ở Sa Đéc. Quân đóng ở An Xuyên Đạo (Cà Mau)
bị cô thế cũng rút về Trà Ôn. Giặc lại đuổi theo... Nhưng đến Man Thiếc
(Mânthít) thuộc Vĩnh Long thì gặp đạo quân của Trương Văn Đa từ Sa Đéc kéo xuống
đánh kịch liệt. Châu Văn Tiếp bị Trương Văn Đa chém chết. Quân giặc rút lui xuống
Trà Cú. Nhưng Trương Văn Đa liệu thế không thắng nổi giặc bèn bỏ vùng đất miền
Tây về phía hữu ngạn sông Tiền Giang, kéo đại binh về đóng ở Mỹ Tho.
Vì mất người hướng đạo là Châu Văn Tiếp, giặc không dám sang
sông, lấy Đông Khấu Đạo ở Sa Đéc làm Tổng Hành dinh.
Sau trận kịch chiến ở Man Thiếc vào khoảng trung tuần tháng
10 năm Giáp Thìn (tháng 11/1784) có vài trận nhỏ kế tiếp, đáng kể là trận tháng
11 năm Giáp Thìn (tháng 12 năm 1784) tại đồn Ba Lai ở giữa Định Tường và Vĩnh
Long. Chỉ huy trận này là Đặng Văn Lương, người Định Tường, theo Phúc Ánh làm tới
chức Chưởng Cơ và Lê Văn Quân cũng người Định Tường, theo Phúc Ánh làm đến chức
Đô Đốc. Đô Đốc lên thay Châu Văn Tiếp làm Tổng Nhung. Họ Đặng và họ Lê cậy mình
là người địa phương thông thạo đường lối, đương tính đem quân đánh úp quân Tây
Sơn. Chẳng ngờ bên Tây Sơn đã phòng bị trước, cho phục binh ở ngoài, đợi quân
nguyễn vào đồn rồi trong đánh ra ngoài đánh vô. Khí thế quân Tây Sơn rất mạnh,
quân Nguyễn không chống nổi bị giết gần hết. Đặng Văn Lương bị tướng Tây Sơn là
Nguyễn Văn Kim chém chết. Lê Văn Quân bị Lê Văn Kế đánh trọng thương, chạy
thoát nhưng phẫn uất mà tự sát.
Từ đó quân Xiêm - Nguyễn đóng yên một chỗ.
Trương Văn Đa với số quân không quá 10 nghìn, phải tận lực giữ
vững nửa phần đất còn lại ở phía Đông từ Tiền Giang trở ra. Vùng đất phía Tây từ
Tiền Giang, Hậu giang trở vô đều thuộc quyền kiểm soát của quân Xiêm - Nguyễn.
Chiếm được nửa phần đất Gia Định, tướng sĩ Xiêm sanh ra kiêu
căng. Chúng xem thường quân Tây Sơn, khinh mạn Phúc Ánh, không lo chiến đấu mà
chỉ lo tìm cách cướp bóc của cải, hãm hiếp phụ nữ, sát hại những người Việt Nam
tỏ thái độ hay có hành động chống đối. Chúng đã dùng chiến thuyền chở về Xiêm
không biết bao nhiêu con gái, vàng bạc của cải đã cướp được. Nhân dân ta thán.
Hành động bạo ngược của quân giặc đào sâu lòng căm thù của toàn dân miền Tây và
cả miền Đông Gia Định, căm thù cả Xiêm lẫn Nguyễn kẻ rước giặc về phá quê
hương, và hết lòng ủng hộ tướng sĩ Tây Sơn.
Nhờ lòng dân ủng hộ mà Trương Văn Đa với một số quân ít ỏi có
thể chặn đứng được bước tiến của giặc. Nhưng liệu thế không thể kéo dài được
mãi. Cuối năm 1784 Trương Văn Đa sai Đô Uy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo rõ
tình hình ở Gia Định.
Nghe qua lời tấu của Đô úy Đặng Văn Trấn, triều đình Tây Sơn
biết rằng lực lượng của giặc mạnh hơn mấy lần trước thập bội, Vua Thái Đức liền
sai Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu cùng bộ tướng đem đại binh vào tảo
trừ. Bùi Thị Xuân xin tòng chinh.
Binh Tây Sơn xuống thuyền vào Nam khoảng hạ tuần tháng 11 năm
Giáp Thìn (tức khoảng đầu năm 1785). Quân thiện chiến chừng 2 vạn, danh tướng,
ngoài Võ, Trần, Bùi, còn có Đô úy Đặng Văn Trấn và một số thuộc tướng.
Thủy binh Tây Sơn vào cửa Cần Giờ, nhưng không vào Vũng Tàu để
lên Gia Định như mấy lần trước, mà đi thẳng vào Nam theo cửa sông Tiền Giang
kéo đến Mỹ Tho. Chủ lực của Tây Sơn do Trương Văn Đa chỉ huy đóng tại Mỹ Tho.
Nguyễn Huệ sai Trương Văn Đa ra giữ thành Gia Định, còn mình
thì đóng quân tại Mỹ Tho quyết một trận tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Trước hết Nguyễn Huệ thân hành đi xem xét địa hình địa thế,
và cho người do thám tình hình của địch.
Mỹ Tho lúc bấy giờ gọi là Trường Đồn, đất đai phì nhiêu, rừng
núi hiểm trở, sông ngòi lưu thôn. Có thành bằng đất, chu vi độ bốn dặm, có hai
cửa tả hữu, hào rộng 4 trượng, ngoài cửa có cầu ván vững chắc để qua hào, ngoài
hào còn có lũy che chở. Trước mặt đồn có sông Đại Giang gọi là sông Mỹ Tho, một
chi lưu của sông Tiền Giang. Mặt sau có sông Vàm Cỏ Tây. Nước sông theo thủy
triều mà lên xuống, rất tiện cho việc giao thông. Ở phía tây đồn lại có một
cánh rừng rộng làm hào thành. Rừng ngập sình lầy và mọc toàn dừa nước, nên tục
gọi là Rừng Dừa.
Địa thế khá hiểm trở.
Trên sông Đại Giang tức sông Mỹ Tho lại có một khúc vừa sâu vừa
rộng vừa dài. Đó là nhờ nước sông Sầm Giang tục gọi là Rạch Gầm và sông Hiệp Đức
tục gọi là Rạch Cái La hay Rạch Xoài Mút chảy vào tăng lưu lượng cho nước sông
Tiền Giang. Từ Rạch Gầm đến Xoài Mút dông dài 5 dặm (khoảng 6 cây số), và rộng
gần cả dặm (1 cây số). Thủy triều lên thì tràn đầy, khi xuống vẫn không cạn. Giữa
sông có một gò đất bồi chu vi khoảng 5 dặm, gọi là Cù lao Thới Sơn và một cù
lao nhỏ gọi là cù lao Hộ hay bãi Tôn. Hai bên bờ sông và trên cù lao lau lách
và cây bần mọc um tùm và không có vết chân người qua lại.
Nguyễn Huệ dùng khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút và Rừng Dừa làm
trận địa để diệt quân thù. Vì quân Xiêm - Nguyễn tập trung toàn bộ lực lượng, cả
thủy quân tại đạo Đông Khấu ở Sa Đéc, lực lượng quá lớn (300 chiến thuyền và 5
vạn thủy lục quân), không thể nào đánh thẳng vào đại doanh của địch với số quân
không đầy một nửa. Nguyễn Huệ phải dụ địch ra ngoài nơi có lợi thế cho mình.
Nguyễn Huệ cho thủy binh mai phục trong các nhánh sông Rạch Gầm, Xoài Mút và
trong các con sông nhỏ chảy quanh các cù lao. Còn bộ binh thì một đạo mai phục ở
hai bên bờ sông và trên cù lao Thới, trên bãi Tôn, một đội mai phục nơi Rừng Dừa.
Thủy binh do Nguyễn Huệ và Võ Văn Dũng chỉ huy. Bộ binh do vợ chồng Trần Quang
Diệu điều khiển.
Vạn sự cụ bị Nguyễn Huệ cho Võ Văn Dũng kéo binh đến khiêu
chiến. Đó là chiều ngày mùng 9 tháng chạp năm Giáp Thìn, tức 19 tháng 11 năm
1785.
Quân Xiêm - Nguyễn khi được tin binh Tây Sơn kéo đến Mỹ Tho
thì liền chuẩn bị sẵn sàng để đối phó. Nhưng do chưa biết được rõ lực lượng của
địch mạnh yếu thế nào nên chưa tấn công. Bị khiêu chiến, Chiêu Tăng liền cắt Sạ
Uyển cùng một vạn bộ binh ở lại giữ đại bản doanh và các nơi hiểm yếu, còn mình
thống lãnh đạo thủy lục quân đi đánh Tây Sơn.
Bộ binh do Lục Côn chỉ huy theo tả ngạn sông Tiền Giang đi xuống.
Thủy binh do Chiêu Sương làm tiên phong kéo thẳng xuống sông
Mỹ Tho.
Hai đạo thủy bộ đều có tướng sĩ của Nguyễn Phúc Ánh dẫn đường,
hẹn nhau sau khi chiến thắng Mỹ Tho thì đồng kéo nhau ra đánh thành Gia Định.
Trời tháng chạp quang đãng. Trăng thượng huyền treo cao.
Quân giặc kéo đi rầm rộ. Nhưng không thể tiến nhanh, vì trên
bờ lau lách, dưới sông thì nước triều đương dâng.
Võ Văn Dũng vừa đánh vừa lui.
Đến giang đầu sông Mỹ Tho thì trời bắt đầu tối. Đèn được treo
trên thuyền đôi bên thắp sáng rực trời. Thuyền Tây Sơn núp trong Rạch Gầm kéo
ra hợp lực cùng thuyền Võ Văn Dũng chặn không cho thuyền giặc tiến. Đợi khi
trăng sắp lặn, thủy triều sắp rút thì Võ Văn Dũng trá bại. Thuyền giặc ra sức
đuổi theo. Đến Rạch Gầm, một phần lớn thuyền Tây Sơn tắt hết đèn đuốc, trẽ vào
rạch, còn phần nhỏ thì chạy thẳng theo dòng sông Mỹ Tho. Thuyền giặc cứ trông
theo ánh sáng mà đuổi. Khi thuyền giặc đã lọt trọn vào trận địa, thì một tiếng
pháo lệnh nổ vang. Thuyền của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy từ rạch Xoài Mút và
các sông nhỏ kéo ra chặn đánh. Đồng thời súng đại bác trên cù lao Thới Sơn và
hai bên bờ sông nã liên thanh vào thuyền giặc. Bị đánh thình lình; Chiêu Sương
hoảng hốt cho dừng thuyền lại. Thuyền trước dừng lại một cách đột ngột, những
đoàn thuyền đi sau đương đà tiến nhanh theo nước triều rút, không sao hãm kịp,
bị va vào nhau, hết lớp này đến lớp khác. Đoàn thuyền đi sau rốt vừa quay trở lại
thì bị thuyền ở Rạch Gầm kéo ra đánh thối lui vào trận địa.
Phần bị trước chặn đánh, sau đuổi đánh, phần bị hai bên hông
và trên đầu đại bác nã, phần thuyền va vào nhau, hàng ngũ rối loạn, hết phương
day trở, hết phương chống đỡ, thuyền địch lớp bị tan vỡ, lớp bị bắn chìm không
còn một chiếc. Quân sĩ lớp nhảy xuống nước bị chết chìm, lớp bị giết chết, trăm
phần không còn được một, hai. Thế là 300 chiến thuyền và 2 vạn thủy binh của
Xiêm và một số quân của Phúc Ánh bị hoàn toàn tiêu diệt.
Còn đạo bộ binh của giặc đương đi bỗng nghe tiếng đại bác nổ,
liền dừng bước. Thình lình trong lau lách phục binh của Tây Sơn vừa hét vừa
xông ra. Lục Côn trở tay không kịp, bị Bùi Thị Xuân chém một nhát bay đầu [2]. Binh lính hết hồn, đều bỏ chạy tán loạn. Nhưng sau lưng có
quân đánh, hai bên tả hữu cũng có quân đánh, chúng ùa nhau chạy về phía trước,
nhảy ào vào rừng dừa. Hai vạn binh Xiêm và số quân nhà Nguyễn, lớp bị đao kiếm,
lớp bị sình lầy, chết không còn một mống!
Trời vừa rạng đông thì chiến cuộc cũng vừa dứt. Quân Tây Sơn
toàn thắng, Chiêu Tăng và Chiêu Sương tẩu thoát. Nguyễn Phúc Ánh được một bộ tướng
là Nguyễn Văn trị cứu khỏi và cõng chạy đến trốn nơi Mỹ Đức ở Thi Giang, rồi chạy
lần ra náu ở Cồn Khơi thuộc Hà Tiên.
Tướng Xiêm Chiêu Tăng và Chiêu Sương [3] trốn thoát chạy về Sa Đéc, bị quân Tây Sơn truy kích, hối
hả cùng Sạ Uyển kéo tàn quân chạy bộ về Xiêm. Kiểm điểm quân số thì khi xuất
quân, thủy bộ cả thảy 5 vạn, lúc trở về chỉ còn mươi ngàn lục quân và không đầy
vài ngàn thủy quân! Như vậy chỉ trong một trận Tây Sơn tiêu diệt gần 4 vạn quân
Xiêm và 300 thuyền chiến.
Còn Nguyễn Phúc Ánh hết trốn nơi này đến nơi khác, liệu không
thoát khỏi tay đối phương luôn luôn cho lùng bắt, bèn cùng một số tướng sĩ chạy
qua Xiêm xin tị nạn [4].
Quét sạch quân xâm lăng, đuổi được Nguyễn Phúc Ánh ra khỏi nước,
Nguyễn Huệ lo sắp đặt tề chỉnh việc quân việc dân, rồi giao Gia Định cho Trương
Văn Đa và Đặng Văn Chấn trấn thủ, còn mình cùng Võ Văn Dũng và vợ chồng Bùi Thị
Xuân kéo đại binh về Quy Nhơn.
Cao Tắc Tựu và Triệu Đình Tiếp bàn cùng nhau:
+ Cuộc chiến thắng này đã làm sáng tỏ chính nghĩa của nhà Tây
Sơn. Cái tội “rước voi” của Nguyễn Phúc Ánh đã sờ sờ ra đó, và có công giải
thoát ách ngoại xâm của Long Nhương Tướng quân đã đủ trang bị cho chúng ta để
chinh phục nhân tâm của sĩ phu và lê thứ đất Gia Định.
+ Phần đông sĩ phu Gia Định hiểu nghĩa chữ trung một cách lệch
lạc. Họ chỉ nghĩ đến Vua, cho rằng “trung quân tức ái quốc”. Cho nên cứ khư khư
ôm chữ trung quân vào lòng, mặc dù Vua kia, chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng của
mình mà dẫm đạp lên trên quyền lợi chung của Tổ quốc và Dân tộc. Họ nghĩ rằng đất
này là của nhà Nguyễn bị nhà Tây Sơn chiếm đoạt, thì Nguyễn Phúc Ánh có quyền
nhờ ngoại bang giúp mình đánh lấy lại. Phá nước hại dân là tội của quân Xiêm,
chớ không phải tội của Phúc Ánh. Cho nên họ không oán giận họ Nguyễn mà chỉ căm
thù quân Xiêm. Phải đả phá cho được tư tưởng sai lầm đó, thì lời nói phải của
chúng ta mới lọt được vào tai.
+ Đất Gia Định rộng mênh mông mà chỉ có hai chúng ta thì
không thể nào dẫy hết cỏ dại đã ăn sâu vào trí não, để cấy lúa trồng dâu.
Hai ông liền bàn cùng Trương Văn Đa và Đặng Văn Chấn rồi một
mặt làm sớ gởi về Quy Nhơn xin thêm người, một mặt chiêu nạp nhân tài ở địa
phương làm phụ tá.
Vua Thái Đức liền sai Huỳnh Văn Thuận và Lưu Quốc Hưng vào
tăng cường.
Từ ấy đồng bào Gia Định được an cư lạc nghiệp.
Việc học hành được tổ chức khắp nơi. Ruộng đất mỗi ngày mỗi
thêm mở rộng. Quân sĩ thay phiên nhau làm việc canh tác với đồng bào. Gia Định
trở thành nơi trù phú.
Chú thích:
[1] Đích danh là Hỏa hổ lớn bằng cổ tay, làm bằng đèn khối, rất nhạy
lửa, nước tưới không tắt, chỉ đất bùn mới dập tắt.
[2] Nghe truyền rằng viên tướng Xiêm thấy Bùi nữ tướng đường
kiếm tuyệt luân, sắc đẹp lại tuyệt mỹ, đứng ngó sững sờ nên bị nữ tướng chém
không đỡ kịp. Đầu giặc bay xa đến mấy dặm và bị rơi dính trên cây cao.
[3] Các sách Quốc ngữ đều chép là Chiêu Sương và giải thích rằng
Chiêu là một chức quan. Nhưng sách Nguyễn triều long hưng sự tích lại chép là
Triệu Tăng và gọi là Thế Tử.
[4] Các sách Quốc ngữ đều chép rằng trong số tướng tá chạy
theo Nguyễn Phúc Ánh có Lê Văn Quân. Song nghe truyền Quân bị thua trận Ba hai
xấu hổ tự sát. Lời truyền phù hợp với lời ghi trong Đại Nam Nhất Thống chí nơi
mục sông ngòi và mục nhân vật.
Quách Tấn -
Quách Giao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét