Thứ Hai, 17 tháng 7, 2023

Hành trình ngày thơ ấu 2

Hành trình ngày thơ ấu 2

CHƯƠNG 8 - VÀ NHỮNG LO TOAN KHÔNG TÍNH TRƯỚC
Ngày mai mình sẽ sống như thế nào đây? Mình sẽ trở thành cái gì? Mình sẽ làm gì…
Trên đường về, những câu hỏi quay cuồng trong óc. Dẫu sao, tôi cũng đứt ruột khi rời bỏ cái cồng trường đồ sộ, cả hai cánh lớn quay cọt kẹt trên ổ trụ và một tán phượng vĩ xanh mướt che bên trên. Dẫu sao, tôi cũng đau lòng khi nhìn từng tốp học sinh ngược tới trường. Tôi thèm muốn số phận của họ biết bao. Đứa học trò kém cỏi nhất, láo lếu nhất, đội sổ hoặc lưu ban cũng còn sung sướng gấp ngàn lần tôi bây giờ. Dẫu dốt nát và lười biếng, nó vẫn có quyền bước vào lớp, nơi ngày ngày trên tấm bảng đen diễn ra một phương trình toán mới, một phản ứng hóa học mới, một định luật vật lý mới, một bài thơ hay một bài văn mới. Đứa học trò hư hỏng nhất cũng có quyền bước vào phòng thí nghiệm, nơi trong bóng tối chúng tôi hồi hộp ngước nhìn bộ xương thạch cao hay bức tranh vẽ con khủng long thời cổ đại. Đứa học trò tồi tàn nhất cũng có quyền cầm chiếc vợt mút của tôi, đánh bóng trên chiếc bàn tôi quen từng vết nứt, hái hoa trong bồn hoa trước cửa văn phòng… Đám học sinh đông đúc và sung sướng kia tới trường. Còn tôi, tôi trở về nhà với cuốn học bạ đen kịt. Lòng tủi hổ, tôi không dám đi đường lớn tôi rẽ xuống con đường nhỏ băng qua cánh đồng.
Về phố, tôi lang thang thơ thẩn chơi ở các cửa hàng. Tôi không muốn về nhà. Từ ngày tôi tuyệt thực, mẹ tôi không đánh tôi nữa. Nhưng mẹ không nhìn tôi và nói với tôi một câu. Sự im lặng của mẹ khiến tôi cảm thấy tôi đã chết rồi. Tôi đã chết thật.
Tôi là đứa con hư, là học trò bị đuổi, tôi không xứng đáng là con cô giáo Hạnh…
Đang đứng, tôi chợt nhìn thấy một đám đông trước cửa nhà cai Cân. Chắc có chuyện gì… - Tôi nghĩ.
Ở thị trấn, hễ có sự lạ là người ta xúm lại vòng trong vòng ngoài. Trước đây mẹ tôi dặn phải lảng tránh những đám đông hiếu sự, tò mò đó. Người bây giờ, buồn chán nên tôi tới xem. Tới nơi, chưa chen chân vào đám đông được, tôi lại gặp ngay Cóc tóc đỏ. Cóc tóc đỏ là đứa con gái kém tôi một tuổi, con ông gác chợ. Vì mặt nó bị mụn, sần sùi từ nhỏ nên bố nó đặt luôn tên là Cóc. Cóc học dốt quá, nên đúp ba năm mà không lên nổi cấp hai. Ông bố liền bắt nó thôi học ở nhà giúp bố gác chợ, thu thuế đám hàng rong. Ngoài ra, nó xếp chỗ bán lấy tiền. Cửa hàng thịt, hàng mậu dịch nào Cóc cũng đặt hàng chục hòn gạch, rổ cá, nón rách, mũ mất chóp… để giữ chỗ từ tối hôm trước. Hôm sau người ta tới xếp hàng mua thực phẩm thì Cóc bán lại chỗ cho. Chỗ tốt một hào, chỗ kém hơn năm xu. Làm cái nghề kỳ quặc thế nên con bé nổi tiếng là đanh đá, láo xược. Nó sẵn sàng chửi nhau tay đôi với một bà già hoặc cởi trần đánh nhau với một thằng bé mười ba, mười bốn tuổi. Suốt ngày phơi nắng nên da Cóc đã đen lại càng giống như nhọ chảo. Tóc đỏ xác xơ như lông bò. Những mụn thịt ở mặt ngày càng dày chi chít và to thêm Cóc tóc đỏ là hình ảnh quái gở nhất mà các bà mẹ thường đem ra dọa đám con trai. Đứa nào nho nhoe, bướng bỉnh là bị cảnh cáo:
- Mày liều liệu không tao cưới con Cóc tóc đỏ cho đấy…
Các cậu con trai dù ương ngạnh mấy cũng phải nhũn như chi chi ngay.
Vậy mà đối với tôi, Cóc lại tỏ ra tử tế. Không hiểu sao, nó chuyên gọi tôi là chị, xưng em một cách ngon lành mặc dù bình thường nó cứ mày mày tao tao với đám thiếu nữ mười lăm, mười bảy. Có lần, tôi ra chợ mua thịt, Cóc sấn sổ gạt mọi người, giành chỗ tốt nhất cho tôi. Mua xong, tôi dúi vào tay Cóc năm xu và bảo:
- Cám ơn nhé.
Cóc tóc đỏ lập tức trợn mắt lên:
- Sao chị coi khinh em thế? Em với chị mà lại ngửa tay nận năm xèng hay sao?
Rồi vỗ bộp vào túi quần, nó nói:
- Em mời chị một bát tái bò, phở nhà Hoi ngon lắm…
Tôi vừa lắc đầu từ chối thì Cóc tóc đỏ đã nắm tay tôi kéo đi xềnh xệch trước những cặp mắt tò mò vì kinh ngạc của mọi người…
Bây giờ, nó đang đứng trên hè, kể cho tôi nghe vụ xung đột nhà cai Cân:
- Chị biết không? Lão cai Cân vừa đánh mụ vợ kế đấy. Hai thằng con trai lão cũng nhảy vào đánh hôi. Công an tóm lão lên đồn. Còn hai thằng ranh bị em trai bà Lưu tát tai cho đang la lối om sòm trong sân…
- Nhưng vì sao lão đánh cô Lưu chứ? Vừa cưới nhau được hơn một tháng mà!...
- Vàng, vàng… Tiền, tiền… Từ đó mà ra cả…
Cóc tóc đỏ cong môi, khua hay tay như người rao bán dầu cù là. Vẻ mặt nó hăm hở và tức tối, đúng tính cách của một đứa trẻ quá quan tâm và làm quen với đồng tiền:
- Chị hiểu không, lão cai Cân lừa mụ vợ kế ngon ơ. Hồi cưới, lão xui mụ bán nhà về ở với lão. Thu được sáu lạng vàng và một cục tiền, lão bảo vợ đem chung vốn buôn thuốc phiện với cánh Hà nội. Mụ vợ nghe ngọt nhạt gật đầu. Thế là lão tuốt về quê. Tuần sau, lão trở về bảo đã bị lừa hết. Mụ vợ phát điên rồ kêu la, lão nện liền…
Tôi đứng lặng người. Thế là Loan bắt đầu cơ cực. Nỗi lo buồn không thể đo đếm, những tai ương không thể tính trước, người xưa nói đúng thật.
Cóc tóc đỏ thấy tôi im lặng, giơ tay lên:
- Em mà như vậy ấy à?... Em sẽ róc xương lão ra cho tới khi lão trả đủ số vàng đó…
Lúc đó một bà già cao lòng khòng đứng bên kia đường gọi to:
- Con bé trời đánh kia, bố mày hét ầm cả nhà lên kia kìa…
Cóc tóc đỏ nhướng cổ đáp:
- Rõ rồi, thưa bà…
Nó chào tôi rồi biến mất. Tôi đứng suy tính hồi lâu, quay lại, tìm quán nước chè quen, vào ngồi chờ Loan đi học về. Ỏ quán nước đó cũng như mấy quán bên cạnh, đâu đâu người ta cũng xôn xao bàn tán vụ đánh lộn ở nhà cai Cân. Nhân cớ đó, người ta lục tìm quá khứ mờ ám của lão, từ những vụ mua bán lừa đảo tới việc chạy chọt xin giấy mở cửa hàng chạy nước đá bán lẻ. Tôi ngồi nghe chuyện vặt đó cho tới gần trưa Loan hạt mít mới về. Tội nghiệp, nó đi thui thủi một mình giữa những tốp học sinh vui vẻ. Ngày thường, bao giờ chúng tôi cũng cặp kè nhau như đôi cá thờn bơn. Loan bảo tôi:
- Tối nay bố Thế đến nhà đằng ấy đấy. Buổi sớm bố ở Ty giáo dục về thì đằng ấy đã đi rồi…
Tôi biết rằng bố Thế thương tôi. Nhưng tôi không muốn gặp mặt bố nữa. Vì tôi bố đã phải chống đỡ và sẽ còn gặp nhiều sự phiền hà. Tôi không thể nào nhìn gương mặt chất phác và nhân hậu của bố, khi gương mặt đó nặng trĩu những nỗi lo buồn. Tôi bảo Loan:
- Mình không về nhà đâu.
Loan chưa kịp hỏi, tôi đã nói tiếp:
- Còn đằng ấy cũng có chuyện cần phải nghĩ đấy. Ta tìm chỗ vắng rồi tớ sẽ kể lại đầu đuôi.
Nhìn vẻ mặt tôi, Loan ngoan ngoãn phục tùng. Chúng tôi chui vào một ngõ hẻm có ngôi chùa cổ để tránh đám học sinh tan trường đang tiếp tục diễu qua. Ở đó, dưới một tán bàng xanh um, tôi kể cho Loan biết vụ xung đột tại nhà cai Cân, biết mẹ Loan hiện đang nằm bệnh viện, biết tình thế của Loan hiện tại. Sau cùng, tôi bảo:
- Đằng ấy về thẳng nhà mình. Buổi chiều, mẹ mình sẽ đưa về nhà cai Cân lấy quần áo. Có đằng ấy ở với mẹ, mình sẽ yên tâm. Mà đằng ấy sẽ bớt khổ sở.
Loan im lặng. Tôi biết nó sẽ ưng thuận hoàn toàn. Lát sau, cô bạn ngước nhìn tôi, hỏi rụt rè:
- Còn Bê… Bê đi đâu?
Tôi đáp:
- Không thể cho đằng ấy biết được. Chiều nay lúc năm giờ ta sẽ gặp nhau ở bến sông, chỗ buộc thuyền của bà An Lạc. Tuyệt đối không được cho mẹ mình và bố Thế biết rằng đã gặp mình. Thôi, đứng dậy… và đi đi…
Tôi ngồi dưới gốc bàng, ôm đầu suy tính: Đi đâu bây giờ? Đi đâu? Ở thị trấn này chăng?
Các thầy cô giáo quen biết mẹ ở khắp nơi. Họ sẽ phát hiện ra tôi và đem trả ngay cho mẹ. Và mẹ lại nhìn tôi với con mắt lạnh lẽo, buồn rầu, không nói một tiếng. Chao ơi, tôi sợ những tia nhìn nghiệt ngã đó và sự im lặng hơn những roi đòn đau rát nhất từ xưa đến nay… Hay về quê?
Không, về quê xa xôi quá. Vả lại có về đó rồi mẹ tôi cũng sẽ tìm thấy ngay. Mà tai hại hơn nữa, là tất cả bà con họ hàng, chị em họ, cháu họ xa gần sẽ biết tôi bị đuổi học. Xưa nay, tôi vẫn là ngọn cờ để họ biểu dương: “Cứ nhìn chị Bê con bác giáo Hạnh đấy, học sớm hai năm mà năm nào cũng đứng thứ nhất”. Hoặc: “Cứ nhìn cô Bê con bà trẻ Hạnh đấy, học cứ như thần đồng. Còn chúng mày thì chỉ là một lũ ăn hại thôi…” Đáng buồn thay, thần tượng của họ đã bị sụp đổ rồi. Tai ương và lỗi lầm đã cướp đi của tôi niềm tự hào nhất đối với tuổi niên thiếu. Đi tới đâu, bây giờ tôi cũng bị nỗi tủi nhục bao vây…
Nghĩ tới đó, nước mắt tôi chảy ròng ròng trên má tự lúc nào không biết. Tôi cúi đầu úp mặt vào hai đầu gối để mấy bà đi vào chùa khỏi nhìn thấy. Nghĩ lan man mãi, cuối cùng tôi quyết định đi tới nhà chú bé chụp cá bên kia sông.
Đồng hồ các nhà trong ngõ thong thả điểm mười hai tiếng chuông. Đám học sinh tan trường đã về tới nhà. Đường phố vắng vẻ hơn. Tôi đi rất nhanh ra bờ sông, mặt cúi gằm xuống đường để tránh những cặp mắt của người quen trong thị trấn. Bến sông vắng lặng. Làn nước lấp lánh dưới ánh nắng. Vài đám bèo Nhật bản hoa tím nổi bập bềnh trên sông và một con bói cá lẻ loi, lông xanh biếc chốc chốc lại nhào xuống cắp mồi. Tôi định bơi qua sông nhưng chợt nhớ mình đang đói bơi dễ bị chuột rút nên tôi cố gắng leo lên đồi, đi vòng qua cầu để sang bờ bên kia. Vượt qua đê, tôi tới làng chú bé chụp cá đêm. Men theo hồ sen, tôi lại tìm được nếp nhà tranh nhỏ xíu, cổng bằng rào tre, mảnh sân hẹp như chiếc chiếu xung quanh co vài bông mào gà và cúc kim chi vàng nở.
- Cau ơi Cau… Cọt ơi… Cọt…
Tôi cất tiếng gọi:
- Ai đấy, vào đi i i…
Giọng đàn bà cao vút trả lời. Rồi mẹ chú bé bước ra. Ban ngày, tôi nhìn rất rõ người đàn bà lai tàn tật. Lưng cô gù gập xuống khiến dáng người như con cua. Khuôn mặt đẹo nhưng quá nhỏ nên trông kỳ dị, đôi mắt rất to với những rạch sáng xanh lam, và những lọn tóc quăn màu hung rực rõ bao quanh mái đầu.
- A, cháu đã đến chơi hôm trước, đúng không?
Cô cất tiếng cười vui vẻ, hỏi tôi.
Tôi lúng túng cảm động vì thái độ hồ hởi của người đàn bà, khẽ đáp:
- Thưa cô, vâng ạ…
Chủ nhân quay người đi trước, miệng nói:
- Vào nhà kẻo nắng.
Tôi hỏi:
- Em Cau có nhà không cô?
Người đàn bà bước vào nhà, ngồi xuống chõng. Lấy tích rót nước vào chén cho tôi rồi mới trả lời:
- Em Cau đi học rồi. Nhưng cháu cứ ngồi chơi.
Chờ tôi bưng chén nước uống, người đàn bà lặng lẽ xuống bếp. Rồi sau đó, cô trở lại với một nồi đất đầy ngô bung đậu đen:
- Cháu uống nước rồi ăn ngô. Cô với em vừa ăn xong tức thì.
Tôi thấy những ánh mắt xanh long lanh của cô nhìn tôi trong sáng và nhân hậu quá. Dưới cái vỏ ngoài kỳ dị, tâm hồn cô dịu dàng và tinh tế. Lòng tốt của cô khiến tôi bàng hoàng. Tôi nói khẽ:
- Cháu cám ơn cô.
Người đàn bà cười:
- Ồ, có gì đâu…
Rồi cô nói lảng chuyện khác:
Chiều hôm đó tôi kể cho cô nghe tất cả những rủi ro của mình. Tôi kể một cách tự nhiên, tin cậy như tôi đã thân thiết với gia đình cô từ lâu lắm. Người đàn bà lắng nghe với vẻ cảm thông, trầm tĩnh. Sau đó cô bảo tôi:
- Tất cả rồi đâu sẽ vào đấy. Cháu cứ tin điều cô nói. Qua cơn bĩ cực, tới tuần thái lai.
Chừng non chiều, người tôi bỗng mệt rã rời. Mắt díp lại sau những ngày căng thẳng. Tôi có ý nghĩ nếu đặt lưng nằm xuống tôi sẽ ngủ mãi mãi không thể thức dậy được. Thế nhưng, tôi ngủ được tới năm rưỡi, Cau đánh thức. Chú bé gọi:
- Chị dậy ăn cơm. Cơm chín rồi.
Tôi choàng dậy. Tắt nắng rồi. Những ráng chiều màu đỏ, màu da cam chất ngất ở phía tây, trải lên mặt đất thứ ánh sáng như đồng chảy. Trong ngôi nhà tranh, mọi vật đã nhũ nhòa. Trước sau chỉ còn những bông cúc kim chỉ và những bông hoa mào gà là còn tươi sáng. Tôi sực nhớ giờ hẹn với Loan, hốt hoảng:
- Mấy giờ rồi, Cau nhỉ?
Chú bé ngửa mặt nhìn trời:
- Sắp sáu giờ.
Tôi nói:
- Thôi chết, mình phải đi ngay.
Cau túm tay tôi lại:
- Không đi đâu cả. Cơm dọn ra rồi. Ăn xong đã.
- Nhưng có việc cần, mà mình đã hẹn…
Chú bé nghiêm nghị nhìn tôi:
- Việc nào cũng phải ăn rồi mới có sức làm được.
Và mẹ chú từ trong bếp bước ra, má đỏ lựng hơi lửa, tiếp lời con:
- Cơm thương cháo thương hơn tất cả mọi người thương. Phải ăn đã, cháu ạ...
Tôi không còn cách nào hơn là ngồi xuống bên chiếc mâm gỗ đặt ngay giữa sân. Trên mâm, một đĩa rau khoai lang luộc chín tới xanh rờn đang bốc khói. Chiếc đĩa nhỏ đựng cà pháo kho với tép và ớt chỉ thiên.
Mẹ chú bé chụp cá bảo con:
- Cau múc tương chưa nhỉ?
Chú bé vội vã trả lời:
- Con múc tương bây giờ đây.
Nói đoạn, chú cầm chiếc bát sạch, ra góc sân. Ở đó, có một chiếc chum da lươn nhẵn bóng. Trên miệng chum úp cái chậu sành non. Cau thận trọng lật chiếc chậu sành lên. Xong, nó dỡ mấy lượt lá chuối khô phủ trên rồi mới tới lượt vải màn bên dưới. Cuốn tấm vải màn sang một bên, chú bé vực cái bát ăn cơm vào trong chum. Rồi khi nhấc bát tương lên, nó thè lưỡi liếm những giọt tương rớt bên dưới bát khiến cho tôi suýt bật cười. May mà tôi ghìm giữ được.

Chúng tôi ngồi ăn cơm khi trời chập choạng tối. Ánh hoàng hôn chỉ còn vương vất trên những ngọn tre cao vút và những tàn lá xoan mỏng manh, luôn luôn lay động vì gió thổi. Quanh sân, những con cóc già nghiến răng trèo trẹo nơi góc tường hoặc kẽ đất. Thỉnh thoảng, cào cào châu chấu từ đồng lúa bay vào, đá tạch vào tai tôi, vừa đau vừa ngứa. Tôi lo ngay ngáy khi nghĩ tới chuyện một chú ễnh ương hoặc nhái bén nhảy vào bát tương hay đĩa cá. Nhưng may sao, điều đó không xảy đến. Còn mẹ con chú Cau đã quen ăn cơm ngoài trời nên chẳng mảy may bận tâm. Sau này, khi đã quen, tôi cũng cảm thấy ăn cơm ngoài trời thú vị. Bầu không khí mát mẻ, thoáng đãng khiến ta ngon miệng hơn. Và phong cảnh xung quanh cũng làm cho bữa ăn đạm bạc thêm thú vị.
Ăn xong, tôi ra bến sông. Không thấy Loan hạt mít ở đó. Tôi ngồi chầu hẫu bên chiếc thuyền tôn của bà An Lạc cho tới hơn bảy giờ tối, Loan mới dò dẫm tới nơi.
Tôi chưa kịp hỏi, nó đã nhăn nhó:
- Mẹ đằng ấy không cho đi.
- Tai sao cơ?
- Cô bảo ở nhà với cô cho đỡ buồn. Sau đó tớ phải nói dối là tới nhà Yến sếu mượn bài tập vật lý mới đi nổi.
- Mẹ tớ có tìm tớ không?
- Có. Cô đi khắp lượt những nhà quen trong thị trấn.
- Rồi sao?
- Không tìm thấy, cô đoán đằng ấy về quê ngoại.
- Biết ngay mà...
Tôi lẩm bẩm, hết sức hài lòng vì mình đã tính đúng mọi nước.
Loan kể tiếp:
- Chiều, cô đưa tớ lên viện thăm mẹ rồi sang nhà cai Cân lấy quần áo.
- Mẹ đằng ấy ra sao?
- Đau lắm nhưng vẫn tỉnh. Mẹ tớ khóc nức nở, xin lỗi vì không nghe lời cô.
- Thế mẹ đằng ấy có bằng lòng cho đằng ấy ở với mẹ tớ không?
- Có. Mẹ tớ bảo khi ra viện, mẹ tớ không về nhà lão cai Cân nữa...
Hai đứa im lặng một lúc, rồi tôi hỏi Loan:
- Chiều ăn cơm với gì?
- Rau muống xào tỏi và trứng luộc.
- Còn mình, mình ăn rau lang luộc chấm tương mà cũng thấy ngon. Con người sẽ quen được mọi thứ...
Tôi nói vừa như để lên lớp cô bạn, vừa như tự bảo mình.
Loan nhìn tôi, mắt long lanh như ướt nước:
- Đằng ấy có đói không?... Này cầm lấy cho đỡ thèm.
Nó rút trong túi ra một gói kẹo đưa cho tôi. Tôi chưa kịp bóc kẹo ăn thì Loan đã thò tay vào lục trong lưng quần hồi lâu, rồi móc ra một gói giấy khác:
- Đây nữa.
Tôi cầm gói giấy, giơ lên dưới ánh sao?
- Gì thế này?
Loan nói khẽ:
- Tiền.
Tôi sửng sốt hỏi:
- Một mình đằng ấy mà dám ra đảo lấy tiền cơ à?
Loan lắc đầu:
- Không. Đây là tiền khác... Mà nhiều lắm, nhiều hơn cả kho tàng của chúng mình.
Nó nhìn quanh quẩn rồi quỳ gối, ghé sát vào tai tôi, thì thầm:
- Hai trăm cơ đấy. Toàn giấy mười đồng thôi.
Tôi sững sờ. Quả thực hai trăm lúc đó là to lắm. Cả vốn liếng hai đứa tôi dành dụm ngoài đảo cũng chỉ ngót nghét năm mươi đồng. Mà chỉ toàn giấy năm hào, một đồng mới. Chưa bao giờ chúng tôi có được một tờ năm đồng trong tay. Ngày ấy ăn quà chỉ cần ba hào là sang lắm. Ba hào một bát phở tái. Một hào ba quả chuối chín, mười hai cái kẹo bột, hoặc hai tấm bánh dẻo không nhân. Trứng gà chỉ có sáu bảy xu một quả. Còn trứng vịt to nhất cũng chỉ một hào mốt là cùng... Đó, bạn hãy cứ hình dung ra giá trị món tiền hai trăm đối với chúng tôi trong lúc vật giá như vậy.
Tôi cầm gói tiền, hỏi Loan:
- Tiền ở đâu ra? Ai cho thế?
Loan rụt tay lại:
- Không ai cho cả.
Tôi nói:
- Không ai cho thì cậu lấy ở đâu?
Thấy vẻ mặt nghiêm nghị và ngờ vực trên mặt tôi, Loan nói khe khẽ:
- Mình không làm điều gì xấu cả. Mai mình sẽ nói. Bây giờ mình phải về, không cô sẽ mắng.
Nói xong, không chờ tôi trả lời, Loan quay về phía thị trấn, đi mải miết như chạy.
Tôi giắt gói tiền vào cái túi nhỏ trong lưng quần. Tính tôi hay ăn vặt: lạc rang, hạt dẻ, thóc nếp rang hay bỏng ngô... Thế nên quần nào tôi cũng khâu một chiếc túi để tiện chứa thực phẩm. Không ngờ cái túi con bây giờ có giá trị lớn lao thế. Tôi cẩn thận sờ các đường chỉ may xung quanh, rồi lấy ghim băng cài chặt lại Về nhà Cau, tôi thấy chú bé đang chuẩn bị đồ nghề đi cá. Tôi bảo:
- Cho chị đi với nhé.
Cau lắc đầu:
- Không được. Mẹ em bảo chị đang mệt lắm, đêm nay phải nghỉ ở nhà nghỉ ngơi đã. Khi nào béo khỏe mới được đi. Sương đêm độc lắm, con gái không thể liều được đâu.
Nói xong, chú bé đưa mắt nhìn mẹ. Người đàn bà cười:
- Em Cau nói đúng đấy. Cháu không bì được với nó đâu.
Cau đưa mắt nhìn tôi kiêu hãnh như muốn nói: “Chị đã thấy chưa?”. Rồi nó cao giọng:
- Chị ấy ở ngoài phố nên thích ăn khoai hầm lắm đấy. Chốc nữa mẹ đổ trấu ủ một nồi mẹ nhé.
Người đàn bà gật đầu, trả lời với giọng nói thánh thót nhẹ nhàng như giọng thiếu nữ
- Con cứ đi đi. Mẹ nhớ rồi.
Chú bé đeo giỏ, xách chụp ra sân. Lưng lủng lẳng những hộp mồi lớn, mồi nhỏ. Tay nắm một bó cần câu nhỏ. Trông nó oai vệ như viên tướng xuất trận. Bỗng dưng tôi ao ước được như nó. Tôi ao ước mình cũng làm được một công việc gì đó hữu ích như Cau để nuôi mẹ, đem lại niềm vui sướng cho những người thân và trở thành trụ cột của gia đình...
Tôi cứ theo đuổi những ý nghĩ đó mãi cho tới khi mẹ chú bé đứng dậy để sắp nồi khoai theo lời con dặn. Tôi theo cô xuống bếp. Người đàn bà vần nồi cám lợn sang bên, bắc nồi khoai lên bếp. Những tàn lửa đỏ bắn lung tung như hoa cà hoa cải. chúng tôi đung khoai tới lúc nước sắp cạn thì ủ vào lửa trấu. Sẵn than, người đàn bà nướng thêm mấy củ khoai nhỏ cho tôi ăn trước. Tồi ngồi rủ rủ nói chuyện với cô mãi cho tới khuya mới lên giường đi ngủ. Trong giấc ngủ đầu tiên xa nhà, bao nhiêu giấc mơ ngắn ngủi và lộn xộn ập đến, giống như những câu chuyện thực xen lẫn những huyền thoại hoang đường. Tuy thế, đó cũng là một giấc ngủ ngon lành, nó đem lại cho tôi sự thăng bằng, niềm phấn khởi để bước tiếp trong những ngày tháng tới.
CHƯƠNG 9 - ÔNG GIÀ CHĂN VỊT
Tám giờ rưỡi sáng hôm sau tôi mới tỉnh dậy.
Căn nhà vắng vẻ. Chỉ có tiếng thạch sùng tắc lưỡi trên mái gianh. Gà trong xóm chốc lát lại gáy te te. Ngoài sân, một con mèo hoang gừ gừ với chú gián vừa chộp được. Mẹ con chú bé Cau đi đâu từ sớm. Họ để phần tôi một bát khoai hầm trên chõng. Tôi ra sân đánh răng, rửa mặt bằng tay rồi trở vào ăn khoai. Xong, tôi lững thững đi theo con đường làng, qua những khu vườn là những mái nhà nối tiếp. Giờ này, dân trong các xóm đã ra đồng. Chỉ có những bà già giữ cháu và đám trẻ lau nhau chơi khăng, chơi đáo là còn ở nhà. Phía đình làng, lớp mẫu giáo đang học. Bên cạnh đó, nhà trẻ hợp tác có cái giếng xây to tướng và một dãy khăn mặt bay phất phới trên dây phơi. Thằng cu nào đó đang ăn vạ gào rất to. Tiếng cô giữ trẻ cố át đi mà không được. Tôi ngắm nhìn những rặng táo qua mùa, chỉ còn lại dăm quả lơ thơ, nhỏ như cuống cà pháo. Hồi lâu, buồn chán, tôi quay gót ra đồng.
Từ làng ra đồng có một con đường nhỏ, chạy song song với dòng mương. Đường bờ vùng vừa đủ cho xe cải tiến chở phân ra bón và chở lúa về sân phơi. Còn khắp nơi là ruộng xanh bát ngát, chạy mênh mông tới chân trời. Lác đác có những mảnh đầm ruộng, loang loáng nước. Ở đó, dù xa, cũng có thể thấy những đốm trắng li ti xao động. Đó là những đàn vịt được lùa đi kiếm ăn.
Nắng chưa gay gắt nhưng vừa đủ rực rỡ để cho những đám mây lung linh như thêu kim tuyến. Dọc bờ ruộng, cây vòi voi uốn những chùm hoa tím xuống mặt cỏ. Còn những bụi cỏ mật xanh um thì tỏa lên mùi hương ngọt ngào, say sưa như ủ men rượu bên trong. Con mương kẻ một vệt dài thẳng tắp trên cánh đồng lúa. Và mặt nước sóng sánh lay động của nó khiến tôi nhớ lại một câu chuyện xa xưa:
“Có một hoàng tử thích chơi thuyền. Nhà vua đóng cho con chiếc thuyền rồng xinh xẻo. Rồi ngài sai quân lính đào một dòng sông nhỏ trong thành. Hoàng tử vui sướng thả con thuyền của mình lên đó. Viên cận thần của vua nói: “Thưa hoàng tử, thuyền rồng của hoàng tử đã tới biển Cát-xpiên...”. Ông hoàng con ngạc nhiên hỏi: “Thuyền ta tới Cát-xpiên rồi sao?”. Viên cận thần đáp: “Thưa hoàng tử, đúng như vậy”. Hoàng tử cười, và từ đó cứ đinh ninh dòng sông đào trong kinh thành của vua cha là biển Cát-xpiên xa xôi hùng vĩ...”
Chợt nhớ lại câu chuyện về ông hoàng con ngây thơ, tôi mỉm cười. Dẫu sao, tôi cũng trưởng thành và cứng cỏi hơn anh chàng con vua. Nghĩ lan man, tôi đã tới giữa đồng. Cách dòng mương chừng hai mươi thước, nổi lên một gò đất. Gò đất ăn liền với con đường. Trên đó, mọc sừng sững một cây gạo lớn. Gốc cây to, xù xì bướu, một người lớn dang tay mới ôm hết nửa vòng. Cành cây trổ ra bốn phía, da nâu pha từng mảng trắng phếu. Hoa gạo đã rụng hết, chỉ còn lại những chùm quả xanh non mềm mại. Tán lá mỏng, cuốn lao xao trong gió. Cây gạo già khiến tôi đứng lặng đi vì cảm phục. Vẻ đẹp của nó hùng vĩ và thanh cao quá, giống như vẻ đẹp của những ông thần trong chuyện cổ chứ không phải vẻ đẹp của một loài cây bình thường trên mặt đất.
Nhưng sau phút giây sững sờ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, tôi chợt thấy mình bơ vơ, lạc lõng giữa cánh đồng bao la tràn trề ánh nắng và mày xanh cây cỏ, tôi thấy mình như một kẻ bị lãng quên. Chẳng ai cần tới tôi, biết đến tôi lúc này. Dòng mương lấp lánh trôi. Nó tự thầm thì trò chuyện với mình. Những cây vòi voi hoa tím rủ rỉ nói với những con ong ruồi bé tí. Cây gạo oai phong kia trò chuyện với bầu trời. Những người dân đang làm cỏ lúa và vãi phân trò chuyện cùng nhau. Chỉ mình tôi trơ trọi, đơn chiếc. Tôi đi tới gốc gạo. Tôi định bụng sẽ ngồi đó chơi cho tới khi chú bé Cau đi học về. Đến đỉnh gò, tôi chợt thấy một ông già nhỏ bé ngồi thu lu dưới gò, giáp với những đám ruộng. Vì gò đất cao, từ xa tôi không thể nhìn thấy ông. Ông nhỏ bé đến nỗi tôi cứ tưởng rằng ông vừa lụ khụ bước ra từ cánh rừng nào đó của các chú lùn và nàng Bạch Tuyết. Ông đội mũ lá, mặc áo bộ đội chần ba mươi hai đường gian khổ (loại áo từ thời kháng chiến chống Pháp). Chiếc quần vải nâu xắn cao. Tay ông khoanh trước gối, vẻ mặt tư lự như mặt tượng Tuyết Sơn trong chùa. Bên cạnh ông, đặt một cây que dài, đầu buộc túm lá chuối khô. Té ra ông là một ông già chăn vịt. Trong mảnh đầm nhỏ bị vây giữa đám ruộng dưới chân ông, dăm chục ả vịt bầu đang ngoi lên hụp xuống, vẻ thỏa thuê khoái trá.
Thấy tôi đi đến, ông già quay đầu lại:
- Cháu chào ông ạ. – tôi nói.
- A, ông chào cháu – ông già đáp lời, cặp mắt ẩn dưới hai hàng lông mày bạc nhìn tôi hơi tò mò – Cháu ở đâu đến đây? – ông hỏi.
- Thưa ông, cháu ở trong phố.
Tôi đáp lời. Rồi tôi ngồi xuống vạt cỏ dưới chân gò. Những con vịt dưới đầm ăn no, phởn chí vươn cánh lên vỗ phành phạch và định nhảy sang ruộng lúa. Ông già chăn vịt đứng dậy, huơ cái cần tre buộc túm lá chuối khô, miệng dọa:
- Xùy, xùy...
Lũ vịt quác mồm kêu cạc cạc rồi hốt hoảng quay lại, nhảy tõm xuống đầm. Rồi chúng lại mò hụp, bơi lội một cách ngoan ngoãn trong phạm vi mảnh đầm nhỏ bé. Ông già chăn vịt lại ngồi xuống, đặt chiếc cần tre sang bên cạnh. Rồi ông lục túi áo, lấy ra bao thuốc thơm Thủ Đô. Móc túi bên kia, ông lại lấy ra chiếc bật lửa nhỏ xíu, mạ kền sáng loáng. Ông thong thả rút thuốc, dỗ lên mặt bao cho chặt, bật lửa châm. Cử chỉ của ông không giống tất cả những ông già chăn vịt bình thường. Những người chăn vịt không khi nào đuổi vịt “xùy, xùy...” như ông hồi nãy. Họ cũng không hút thuốc như ông. Thường thường, khi thèm thuốc, họ móc hộp thuốc lào trong túi áo ra, rút chiếc điếu tre gài ở thắt lưng, nạp một một thuốc rõ chặt. Rồi họ rút ở phía thắt lưng bên kia một que đóm mang đi từ nhà, hoặc giật mái lều lấy một nuộc lạt châm lửa. Thuốc đã cháy, họ rít liền ba bốn hơi, cổ họng thít vào thật sâu, điếu nổ giòn như pháo: roọc roọc roọc... Hút xong, thế nào họ cũng ngửa cổ lên, lim dim mắt và từ từ nhả khói trong họng ra. Họ nhả khói một cách chậm chạp, khoái trá và lâu đến nỗi đôi khi, tôi tưởng cổ họng họ có một đám trấu rấm lửa ở bên trong, nên những hơi khói trắng đục cứ tuôn mãi chẳng ngừng... Rồi nhả hết khói, bất chợt họ mở choàng mắt, đưa chiếc điếu lên nhìn như nhìn người bạn lâu ngày mới gặp. Và sau đó, họ giơ tay vỗ bộp vào miệng điếu cày. Thế là mồi thuốc tàn trong nõ nhảy ra, như con cóc nhảy ra từ miệng mụ phù thủy...
Những lần về quê ngoại, tôi thường theo đám em họ, cháu họ ra đồng. Và nhờ những ngày lang thang, rong chơi đó, tôi biết được khá nhiều thứ. Sau khi suy xét, tôi đâm nghi ngờ ông già chăn vịt kỳ lạ này. Ngoài chuyện đuổi vịt như đuổi chó và cách hút thuốc rất tỉnh thành ra, ông còn có đôi tay nhỏ xíu và những cử chỉ hết sức lịch lãm, tinh vi.
Ông cụ ở đâu đến đây?
Tôi thầm hỏi, băn khoăn nhìn mái tóc trắng như cước của ông phủ xuống tận gáy. Ông già dường như không để ý đến vẻ tò mò của tôi, ngả người ra phía sau, nhả khỏi lên trời. Mắt ông nheo lại và những nếp nhăn chi chít tụ sau đuôi mắt.
Bất ngờ, ông quay lại bảo tôi:
- Này cô bé, lại đây ông bảo.
Tôi vẫn ngồi trên vạt cỏ, phân vân.
- Lại đây với ông nào...
Ông già khuyến khích. Giọng ông nhỏ nhẹ, hơi trầm.
Tôi nhìn cặp mắt hiền hòa của ông, vững tâm tới gần. Ông dắt tay tôi ngồi xuống bên mình, cất tiếng hỏi:
- Có chuyện gì buồn mà lang thang bỏ học bỏ hành thế?... Nhìn vào mắt cháu, ông biết được điều đó... Hãy nói cho ông nghe xem sao. Có thể, ông sẽ giúp được cháu ít nhiều.Còn như nếu không giúp được cháu, ông sẽ im như hạt thóc trong vựa lúa. Cháu cứ yên tâm...
Tôi ngạc nhiên nhìn ông. Ông đưa cặp mắt già nua, thoáng nhìn tôi trìu mến. Rồi ông lại ngẩng lên, rít thuốc và lơ đãng thả từng làn khói vào khung trời xanh thoáng đãng. Sự im lặng của ông chứa đựng điều gì đó khiến tôi bỗng thấy ông gần gũi, tin cậy. Và phía sau những lời khích lệ nhẹ nhàng của ông có một sức mạnh vô hình mà tôi có thể tựa đỡ, cũng như có thể gửi gấm tâm sự của mình. Tôi im lặng hồi lâu, rồi chậm rãi cất tiếng. Mọi chuyện đều được miêu tả lại minh bạch, rõ ràng, không thêm bớt. Có lẽ, tôi đã qua những phút giây quá xúc động. Tôi đã quen được với nỗi đau khổ của mình nên tôi nói về nó với một giọng điệu bình tính. Trong thời gian tôi nói, ông già đã hai lần rút thuốc, châm lửa hút. Những mẩu tàn ném xuống vạt cỏ, dưới chân ông. Cặp mắt sâu của ông như bất động dưới hai hàng lông mày bạc trắng. Cánh mũi khẽ phập phồng và cục yết hầu chuyển động mỗi khi ông thở.
Khi tôi kể xong, ông khẽ đưa tay vuốt mái tóc tôi:
- Này cô bé, theo cháu thì việc làm của cháu sai hay đúng?
Tôi hỏi:
- Ông muốn cháu nói tới việc cháu nhốt ông Gia vào nhà tiêu? Vâng, cháu biết là sai, nhưng dù sao...
- Nhưng dù sao cũng phải làm, có đúng không?... – Ông già cất tiếng cười và ngắt lời tôi.
- Thưa ông, cháu định nói là... – tôi ấp úng.
- Thôi, không cần giảng giải... ông biết rồi.
Ông giơ tay lên, ra hiệu cho tôi im lặng. Sau đó ông nói:
- Những người theo đạo Thiên Chúa thường nhắc câu nói của Giê-Su: “Nếu có kẻ tát vào má trái của con, con hãy chìa nốt má phải cho y”. Câu nói ấy là bình phong che đậy cho cuộc sống an phận, không đấu tranh. Nếu dân tộc mình cũng chìa nốt má phải cho thực dân Pháp thì chúng ta không còn Tổ quốc. Các cháu sẽ không được học lịch sử Hai Bà Trưng, Bà Triệu, chí khí anh hùng của Nguyễn Huệ, Quang Trung. Các cháu sẽ bị bắt buộc đọc những bà sử nhập cảng: “Tổ tiên ta là người Gô Loa...”. Ngày xưa ông đã phải học như thế đấy...
Ông già thấy tôi trợn tròn mắt nhìn liền mỉm cười, gật đầu nói:
- Đúng như vậy. Hồi Pháp thuộc, ông đã nhai nhải học thuộc lòng: “Tổ tiên ta là người Gô Loa...” Ông nói vậy để cháu thấy rằng ý chí đấu tranh của một dân tộc cũng như mỗi cá nhân con người là vô cùng cần thiết...
Ông ngừng lại, nhìn tôi. Đôi mắt nheo nheo đầy hóm hỉnh mà vui vẻ. Tựa như trong đó có một ngọn lửa nhỏ đang nhảy nhót, reo cười. Và ông nói tiếp:
- Nhưng cái khó nhất là phải biết đấu tranh thế nào cho đúng. Đấu tranh với kẻ ác thì khác, đấu tranh với những sai lầm của những người xung quanh khác. Nhất là khi người đó lớn tuổi hơn và đứng vào một vị trí mà mình phải tôn trọng.
Tôi nói luôn:
- Như thế có nghĩa rằng cháu phải im lặng chịu đựng hoặc chỉ có quyền báo cáo mọi chuyện với thầy chủ nhiệm...
Ông già đặt tay lên đầu tôi, ngắt lời:
- Cứ từ từ, đừng vội vã. Ông không bảo cháu phải nhẫn nhục chịu đựng. Nhưng cần thận trọng.
- Thế ở hoàn cảnh của cháu, ông sẽ làm gì? – tôi nôn nóng hỏi tiếp.
- Ờ ờ... – ông gật gù – Ông sẽ kiên tâm theo dõi mọi sự thêm một thời gian nữa, vì biết đâu mình chẳng kết luận hồ đồ. Hoặc nếu không hồ đồ thì cũng thiếu tang chứng cụ thể. Đời xưa đã có câu: “Nói có sách, mách có chứng”. Cháu không nhớ sao?
Tôi sực nhớ lại việc chị Bội từ chối hoàn toàn sự thực và cảm thấy ông già nói đúng. Nói có sách, mách có chứng... Quả là chúng tôi đã quá ngây thơ, hấp tấp trong việc báo cáo lại những hành vi thiếu đứng đắn của ông Gia.
Ông già nói tiếp:
- Muốn được việc, tất cả điều kiện phải chín mùi. Như ông, thì cháu nên nói rõ chuyện với mẹ, với thầy chủ nhiệm, với người nào đó sáng suốt, công bằng và quan trọng hơn cả là có đủ tư cách và quyền lực giải quyết.
- Nhưng mà ông ấy trù úm cháu, hành hạ cháu ác độc lắm – tôi kêu lên.
- Ông biết chứ - Ông già nhẹ nhàng, trầm tĩnh trả lời – Nhưng dù sao cháu cũng phải cắn răng chịu đựng cho mọi sự sáng tỏ. Trong đời, đôi khi rủi ro ta gặp phải những kẻ xấu, kẻ ác. Nếu ta hấp tấp chống trả lại, không đắn đo suy nghĩ thì hỏng việc. Kẻ xấu không bị phơi áo mà chính ta sẽ thiệt thân. Ví như hoàn cảnh của cháu vậy, cháu bị đuổi học, còn ông giáo hư hỏng kia thì lại trắng án...
- Đời toàn những bất công – tôi kêu lên lần thứ hai, tức tối.
Ông già lại nhè nhẹ vuốt tóc tôi, cười:
- Đừng vung tay lên thế, va vào đầu ông thì ông đau lắm. Ông già rồi, không chịu được đòn như cháu đâu. Này cô bé ngoan ngoãn ơi, cháu đang buồn nhưng đừng vội bi quan. Đời có bất công chứ không hoàn toàn bất công như cháu nói. Mẹ cháu có thương yêu cháu hết lòng không? Có thể mẹ cháu chỉ quen nghĩ một cách đơn giản và không lường hết những phức tạp của cuộc đời nên đã không tìm được cách cư xử đúng với cháu trong lúc này và khiến cháu bỏ nhà ra đi... Nhưng mẹ cháu vẫn là người tốt. Thầy chủ nhiệm của cháu thì tuyệt diệu. Đúng không? Còn cậu bé có ông bố nát rượu đó, tên là gì nhỉ? À Ly, Ly... một cái tên đẹp như tên con gái. Nó cao thượng đấy chứ? Và còn mẹ con chú bé đánh cá ở làng này nữa... Biết bao người! Vì những người đó mà cuộc đời này tươi đẹp và đáng sống biết bao. Cháu đừng mong trên trái đất chỉ toàn những người tốt. Cái xấu đi kèm cái tốt như bóng đêm đi bên ánh sáng. Không có đêm, sao ta phân biệt được ngày? Kẻ xấu, kẻ ác bao giờ cũng tồn tại trong xã hội, và người tốt phải đấu tranh với chúng... Vả lại, cái xấu ngày nay đâu có thấm tháp gì! Cháu cứ tưởng xem, tên giáo viên đồi bại kia lại là một thằng mắt xanh mũi lõ. Nó có thể hãm hiếp mẹ cháu, đốt nhà cháu...
- Thà như thế để cháu đi làm cách mạng giết chết nó còn hơn... Chứ như thế này tức lắm... – tôi ấm ức nói.
- Cha cha cha... – ông già cười to – Đừng nói tầm bậy. Không có thù hận nào mãnh liệt và thiêng liêng hơn thù hận của dân tộc bị cướp đoạt tự do. Nỗi oan ức bây giờ của cháu chỉ là cái gai đâm sầy tí da chân thôi. Phải dũng cảm vượt lên, cô bé ơi. Phải nghĩ tới tương lai.
- Chẳng có tương lai nào hết... – tôi nói – Bà hiệu trưởng đã gửi thông báo kỷ luật cháu khắp các trường cấp ba trong tỉnh. Cháu biết đi đâu bây giờ? Thế là chấm hết.
- Chấm hết. – ông già nhắc lại câu nói với vẻ diễu cơt thân ái – năm mười bảy, sống dưới ngọn roi của pô-lít Pháp, ông vẫn thấy cuộc đời bắt đầu chứ không phải là chấm hết...
- Nhưng cháu biết làm gì bây giờ? Chẳng lẽ cháu lại đi bán kem lấy tiền lời hay ra chợ xếp hàng bán năm xu một chỗ...
Tôi định nói đùa nhưng miệng lại méo xệch và nước mắt cứ tự tuôn ra ào ào không thể nào ghìm được.
Ông già lặng im giây lát, rồi lại vuốt tóc tôi:
- Đừng mưa rào nữa mà! Trời đã tạnh ráo từ lâu rồi... Cô bé ơi, nín đi rồi ông kể cho mà nghe. Hồi trước ông đọc một cuốn truyện bằng tiếng Pháp, nhan đề Pa-pi-ông, nghĩa là con bướm. Con bướm là biệt hiệu của một người tù. Và cuốn truyện đó thuật lại cuộc đời của anh ta. Con bướm vốn là một thanh niên lương thiện bị kết tội oan. Cuộc sống tù tội khiến anh ta trở nên một người gan góc, lỳ lợm, có khả năng làm những việc ghê gớm như bắt cá sấu, giết kẻ mưu phản dễ như trở bàn tay, tổ chức những cuộc vượt ngục mạo hiểm và đẫm máu... Con bướm trốn trại nhiều lần. Lần nào cũng bị bắt và đầy đọa khổ sở hơn, anh ta bị nhốt dưới hầm cấm cố, quanh năm không nhìn thấy ánh mặt trời. Phải ăn cả những con gián, con rết sống để sống. Anh ta đã từng lạc tới đảo của những người hủi bị chìm trong đầm lầy, bị vùi dập trong những cơn giông tố... Mặc những đầy ải khủng khiếp đó, ý chí tự do của người tù không lùi bước. Cuối cùng, khi tất cả bạn bè đầu hàng, yên phận cuộc sống trong trại gian, con bướm đã vượt biển trên một chiếc bè làm bằng những quả dừa khô và đi tới châu Mỹ. Lúc đó, anh ta đã già, tóc trắng như sương. Pa-pi-ông viết cuốn truyện tư thuật cuộc đời mình và trở thành một nhà văn lẫy lừng của thế giới. Chính phủ Pháp, cái chính phủ bỏ tù oan Pa-pi-ông tại đảo Guy Am đã phải mời anh trở về thăm tổ quốc, không phải với danh hiệu một tù nhân, mà với danh hiệu một nhà văn được hâm mộ...
Thấy tôi há hốc miệng nghe, ông già cười:
- Thế nào?
Tôi thẹn thùng cúi xuống.
Ông già chăn vịt hỏi tiếp:
- Cháu đã đọc Goóc Ki chưa?
Tôi đáp:
- Cháu mới đọc “Bài ca chim báo bão” trong văn tuyển lớp chín.
Ông già hỏi:
- Còn quyển “Thời thơ ấu” và “Trường đại học của tôi”?
Tôi thẹn thùng thú nhận:
- Chưa ạ.
Ông già lắc đầu:
- Thật đáng tiếc. Đọc những tác phẩm đó, cháu sẽ hiểu được nhiều điều. Goóc Ki tiếng Nga có nghĩa là cay đắng. Ông là đứa trẻ mồ côi, phải lang thang kiếm sống từ thời thơ ấu. Ông đã từng đọc sách bằng ánh trăng phản chiếu lên một chiếc xoong nhôm, chứ không phải dưới ánh đền một trăm nến như cháu ở nhà – nói tới đây, ông nhìn tôi cười giễu cợt – Goóc Ki đã từng làm đủ mọi nghề, sống với những kẻ mà người ta quen gọi là lớp người đáy của xã hội. Các trường đại học của ông chính là khuôn hình của cuộc đời rộng lớn và đau khổ ở nước Nga xưa. Đi qua cuộc đời ấy, ông vẫn giữ được tấm lòng nhân ái, cao thượng của mình. Ông trở thành môt nhà văn được nhân loại yêu quý.
Tôi im lặng. Ông già lại nhìn vào mắt tôi:
- Chắc chắn rằng Goóc Ki không bao giờ nghĩ tới chuyện chấm hết, dù ông đói khát hay đau khổ.
Ngừng lại giây phút, ông hạ giọng nói khẽ khàng:
- Đừng bao giờ nghĩ tới chuyện chấm hết, ngay cả khi người ta đã già rồi.

Dứt câu, ông trầm ngâm nhìn ra phía trước. Tôi im lặng ngồi bên ông. Tôi biết ông đang theo đuổi những ý nghĩ rất riêng biệt và tôi không muốn khuấy động giây phút trầm tư đó. Những câu chuyện ông vừa kể còn xáo động tâm tư tôi.Chúng khơi mở một thế giới hùng vĩ và lấp lánh. Có lẽ từ khi tôi lớn tới giờ, chưa người nào làm được công việc thiêng liêng đó. Ông già thổi vào tôi một ngọn lửa kỳ diệu, khiến tôi bỗng thấy mình khôn lớn vượt bậc, nhìn cuộc sống với cặp mắt trong sáng, tự tin và bình tĩnh trước mọi gian nguy. Nỗi đau khổ tôi đang chịu bỗng trở nên nhỏ bé, tầm thường. “Ít ra mình cũng phải vượt qua những tai ương và nguy biến dữ dội gấp năm lần như thế...” – tôi nghĩ vậy mà yên tâm. Dẫu sao tôi cũng phải đứng lên đi tiếp tới mục tiêu của đời mình.
Mặt trời lên cao. Ánh nắng ngả sang màu trắng. Cánh đồng xanh mênh mông yên lặng. Chỉ còn nghe gió rì rào. Xa xa, nơi đồng lúa tiếp giáp với chân trời, những gợn mây trắng mỏng từ từ bay lên cao như những con cừu rong ruổi qua thảo nguyên vô tận của thinh không. Tôi bỗng nảy ra ý muốn ôm chúng trong vòng tay, những con cừu nhẹ như bông, trắng như sữa và hẳn là mát lạnh. Vài đốm nắng lọt qua tàn lá gạo rọi xuống gáy tôi nóng ấm. Tôi chợt nhớ ra là đã trưa và có thể là Cau đã về nhà. Tôi đứng dậy:
- Thưa ông, cháu xin phép ông.
Ông chăn vịt như choàng dậy. Ông nhìn tôi rồi nói:
- Cháu về làng hả?... Thôi được cứ về đi...
Tôi cúi chào ông, định quay lưng bước đi. Ông già vội vã gọi:
- Này cô bé...
Tôi nhìn ông:
- Ông bảo gì cháu ạ?
- Có mỗi việc quan trọng nhất thì lại quên – ông nói, lục túi áo lấy ra một chiếc bút máy hoàn toàn bằng vàng tây, nhỏ như điếu thuốc lá – cháu cho ông ghi tên tuổi của cháu, mẹ cháu và số nhà cháu ở, tên trường và lớp cháu học, cả thầy chủ nhiệm nữa. Ông sẽ cố gắng hết sức mình...
Ông nghe tôi đọc và ghi trên bao thuốc lá những dòng chữ nhỏ li ti. Xong, ông cất chiếc bút sang trọng và bao thuốc váo túi chiếc áo cổ lỗ có ba mươi hai đường gian khổ:
- Dũng cảm lên, cô bé nhé... Ông hy vọng ông cháu ta sẽ còn được gặp nhau. Nhất định sẽ gặp nhau, trong một hoàn cảnh thú vị hơn bây giờ. Người ta nói trái đất tròn mà... Có đúng không?
Tôi không biết trả lời sao, đành ấp úng:
- Thưa ông, cháu cảm ơn ông... Cháu chào ông ...
Ông già giơ bàn tay nhỏ bé, nhăn nheo và nổi những vệt đồi mồi:
- Ông chào cháu. Chúc cô bé gặp may mắn trong cuộc đời. Hãy nhớ những lời ông nói. Nó không thú vị như trò chơi nhưng rất có ích cho cháu, ngay cả khi cháu đã lớn rồi...
Ông đứng dậy, bắt tay tôi như bắt tay một người bạn thật sự. Khi tôi ra về, ông trở lại chỗ ngồi. Hết con đường bờ mương vào đến làng, tôi còn thấy bóng ông dưới gốc cây gạo hùng vĩ. Nhỏ bé và uy nghi, mái tóc trắng như cước bay phơ phất,ông đúng là ông già tốt bụng từ trong cánh rừng của nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn đi lạc tới đây.
CHƯƠNG 10 - CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CUỘC PHIÊU LƯU
Tôi về nhà, đã non trưa. Hóa ra tôi đã ngồi trò chuyện với ông già chăn vịt gần ba tiếng đồng hồ.
Cau lúi húi nấu cơm dưới bếp. Nó bảo tôi:
- Hôm nay chỉ có hai chị em mình ăn cơm thôi. Mẹ em sang nhà cô Nhài làm giúp đám cưới rồi ăn ở đó luôn.
Nó bảo tôi ra vườn hái một nắm lá lốt.
- Để bỏ vào canh ếch. Chị đã ăn canh ếch nấu lá lốt bao giờ chưa?
Tôi rửa nắm lá lốt đưa cho Cau và đáp:
- Chị chưa bao giờ ăn ếch cả.
Cau nói:
- Thế thì dại quá. Thịt ếch ngon ghê lắm. Người ta đã bảo gà đồng mà lại.
Rồi nó đọc luôn:
Măng chua nấu với gà đồng
Chơi nhau một mẻ xem chồng về ai?...
Tôi cười rũ ra. Chúng tôi cùng ngồi trước một chiếc nồi đất đang sôi lục bục trên bếp lửa. Cau giải thích cho tôi hiểu rằng các món canh như cá, cua, lươn, ếch nấu nồi đất thường ngon hơn nồi đồng, xoong nhôm, vì đất hút hết mùi tanh. Ở làng này, người ta thích ăn canh cua, canh lươn và canh ếch. Canh lươn cho rau răm, hành, còn canh ếch cho măng mụt tước nhỏ với lá lốt và ớt chỉ thiên. Món nấy ở làng quê đơn giản vì người ta còn vội làm nhiều việc khác. Nhưng nhất thiết phải tươi và nóng. Bưng nồi canh ra, mở vung là hơi phà lên mù mịt, mùi lá thơm bốc lừng nhà, thế mới đạt tiêu chuẩn.
- Đây này, chị xem nhé...
Cau bảo tôi. Miệng nói, tay nó mở vung nồi. Trong lớp hơi nước bốc mù mịt, tôi thấy những miếng thịt ếch trắng nõn nhào lộn với nhiều sợi dài như sợi bánh đa, đó là măng mụt và măng vòi tre tước nhỏ. Cau nêm một thìa tương vào nồi canh, rồi ném nắm lá lốt thái nhỏ vào. Xong nó hối hả bắc ra ngay, không để những sợi rau thơm kịp chín. Thằng bé lấy chiếc vung đất úp chặt miệng nồi lại, bảo tôi:
- Được rồi đấy, chị bưng ra mâm cho em.
Trên mâm, đã có đĩa cá bống kho tương khô lăn lóc. Cau xới cơm ra bát rồi mở vung nồi canh.
- Nào, ăn thôi.
Mùi canh ếch bốc lên ngọt ngào. Những miếng thịt ếch còn tươi rói nên vừa trắng lại vừa ngọt. Tuy không có mì chính, chỉ nêm tương ăn cũng tuyệt vời. Chỉ có điều đáng tiếc là canh rất cay, tôi ăn ớt chưa quen nên ho sặc sụa.
Ăn xong, chú bé phải tới trường ngay. Chỉ còn mình tôi nằm nhà, lắng nghe tiếng mọt đục gỗ và những con thạch sùng tắc lưỡi trên mái gianh. Tôi nhớ lại cuộc gặp gỡ với ông già chăn vịt lạ lùng buổi sáng. Cặp mắt hiền hậu và tinh anh của ông hiện lên trước tôi, khích lệ:
- Nào hãy dũng cảm mà tiến lên, cô bé.
Ô, nhưng tôi sẽ tiến lên bằng con đường nào cơ chứ? Việc lánh nạn lên một trường huyện xa xôi nào đó thì đã hết hy vọng rồi. Ở lại thị trấn, nhìn tụi bạn ngày ngày cắp sách tới trường, tôi không thể nào chịu nổi. Nơi đó quá khứ oanh liệt của tôi chưa phai mờ trong tâm trí mọi người và do đó nó sẽ không ngừng day dứt tôi. Về quê ư? Cũng không được vì ở đó tôi cũng đã trót được coi như hình tượng tốt đẹp nhất cho lũ trẻ trong họ hàng học tập. Hay tôi xin làm thợ nhỏ ở một xưởng cơ khí hay nhà máy nào đấy? Cũng không được vì tôi đâu đã đến tuổi lao động... Cuối cùng, tôi chợt nhớ đến bố tôi. Con người thân yêu nhất nhưng lại xa biền biệt đến nỗi tôi chẳng kịp nghĩ tới trong những lúc vui sướng cũng nhu khi đau khổ. Bây giờ tôi bỗng dưng nhớ tới người. Có lẽ vì một thằng bé nào đó bị bạn đánh vừa khóc vừa gọi “Bố ơi” ở ngoài đường. Tiếng gọi của nó vọng vào trong nhà, đánh thức những ý nghĩ trong tôi: “Ồ, mình cũng có một người bố. Lẽ ra trong lúc này, tôi cũng có thể gọi: “Bố ơi, con khổ quá, bố bảo con làm gì bây giờ? Bố có thương con không? Bố che chở cho con và đừng ghét con...”. Và khi đó, chắc chắn bố sẽ ôm tôi vào lòng: “Con Bê của bố, làm sao bố ghét bỏ con được. Bố sẽ che chở cho con. Bố sẽ dìu đỡ con...”
Lần nào về phép, bố cũng ôm tôi tha thiết, âu yếm như thế. Vậy mà những lúc đó tôi lại cố gắng chui khỏi vòng tay bố để nhông ra phố chơi, để khoe với lũ bạn chiếc túi thổ cẩm hoặc chiếc vuốt hổ treo ở sợi dây đeo cổ. Tôi chê người bố có mùi thuốc lá và mùi hăng hăng là lạ mang ở trên rừng về.
Mẹ tôi mắng:
- Con nhà bất hiếu.
Còn bố chỉ cười hiền lành. Rồi bố chìa tay:
- Bê ơi, bố con mình ra sông tắm nhé. Bố nghe mẹ viết thư kể rằng con bơi vượt sông được rồi, bố mừng quá. Cả đồn biên phòng của bố đều biết tin con Bê đã vượt được sông... Nào, bố con mình cùng nhau bơi thi chứ?...
Chao ơi, những giờ phút đó ngắn ngủi và mau qua. Bây giờ bố đang làm gì trên miền rừng xa xôi đó? Bố có biết tôi đang đau khổ và đang khóc vì nhớ bố không?
Ngoài đường, thằng bé lúc nãy bị đòn lại khóc ré lên, gọi:
- Bố, bố ơi...
Tôi chợt nảy ra ý nghĩ: lên biên giới tìm bố. Hai bố con sẽ được ở với nhau cho tới vụ hè. Rồi sẽ định liệu năm học tới. Đằng nào thì tôi cũng phải bỏ hẳn năm nay. Ở trên đồn biên phòng heo hút đó, chắc bố nhớ tôi ghê lắm. Tôi lên, chắc bố sẽ mừng biết bao. Tôi sẽ mang kim chỉ vá áo quần rách cho bố. Tôi sẽ mang thuốc lá, dầu cù là, thuốc ho cam thảo và ô mai mơ cho bố... Tôi quyết định ngay: Mình sẽ đi. Dẫu sao mình cũng là con một đại úy mà kinh nghiệm chiến đấu và lòng dũng cảm khiến nhiều cán bộ cấp tá phải kính nể. Đã nhiều lần tôi nghe bạn bè bố nói vậy. Tôi phải đủ can đảm để lên miền biên giới đó, đứng ở cửa đồn biên phòng mà gọi to:
- Bố ơi, con Bê của bố đã lên.
Bố tôi sẽ ngẩng đầu lên, kêi:
- Trời đất, thật hay mơ thế này. Các cậu nhìn xem, con Bê của tôi đã lên tới tận đây sao?...

Viễn cảnh tươi đẹp khiến tôi vui vẻ, lòng nhẹ lâng lâng. Tôi cứ nghĩ tới đó mãi và trôi vào giấc ngủ êm ái, dễ chịu.
Khi tôi tỉnh dậy, đã gần năm giờ chiều Mẹ Cau về, đem theo gói xôi lớn:
- Cháu ăn một nửa, phần em Cau một nửa.Chiều nay khỏi phải nấu cơm. Phần cô, cô đã ăn no nê rồi.
Xôi đám cưới là xôi gấc đỏ tươi, vừa ngọt vừa béo ngậy mỡ. Tôi ăn xôi xong, chào cô để ra bến sông chờ Loan. Lần này chỉ năm phút, cô bạn đã tới.
Tôi hỏi:
- Mẹ cậu khỏe chưa? Sao cứ ỉu xìu thế?
Loan đáp:
- Mẹ tớ đỡ rồi. Nhưng hai người em của mẹ tới dưới quê lên. Các cậu ấy tới nhà lão cai Cân đòi tiền. Lão chửi ầm ĩ và sai hai thằng con ra cổng đuổi. hai cậu tớ kéo cả một dây đàn ông trong họ tới định đốt nhà. Thế là chính quyền, công an phải tới can thiệp. Chuyện ầm lên, tớ xấu hổ quá.
Tôi an ủi cô bạn:
- Người lớn họ đánh nhau. Mình dính gì vào đấy mà sợ?...
Rồi tôi kể cho Loan nghe ý định của tôi. Loan kêu thét lên. Tôi tưởng nó hoảng sợ can ngăn, không ngờ cô bạn hí hửng nói:
- Tớ đi với. Nhất định đằng ấy phải cho tớ đi. Hai đứa mình sẽ cùng đi. Thú thật!
Tôi lắc đầu:
- Không được. Nhiệm vụ của cậu là phải ở nhà học. Học cho giỏi để sau này còn kèm cặp tớ.
Loan kêu to:
- Tớ không thể học được nữa. Đằng ấy thì lang thang. Mẹ tớ thì nằm trên viện. Chuyện nhà ầm ĩ lên, tớ không dám nhìn mặt ai cả. Đến bố Thế, tớ cũng phải tránh đi...
Tôi nói:
- Tự dưng bỏ học, có họa là người điên.
Loan bướng bỉnh lắc đầu:
- Không. Tớ quyết sẽ đi. Xưa nay, tớ cứ làm theo sự chỉ huy của đằng ấy. Bây giò, tớ làm theo ý mình.
Tôi chưa kịp đối đáp, Loan dọa thêm:
- Nếu đằng ấy không cho tớ đi, tớ sẽ báo mẹ đằng ấy tới đây bắt đằng ấy về nhà. Nào, suy tính đi.
Tôi chưa bao giờ thấy Loan hạt mít tỏ ra bướng bỉnh và đáo để như lúc ấy. Tôi nghĩ bụng: Có khi mình phải nhượng bộ nó thật. Mà kể ra, đi hai đứa cũng vui hơn... Tôi đành dàn hòa:
- Thôi được. Nhưng gặp khó khăn gian khổ dọc đường, đừng có oán tớ, nghe chưa?
Loan mừng cuống quýt, và nó trở lại hiện lành, êm ái ngay tức khắc:
- Mình hứa mà... mình hứa là sẽ...
Tôi ngắt lời:
- Còn chuyện này nữa. Số tiền hai trăm cậu lấy ở đâu? Nếu là tiền phi nghĩa thì phải trả ngay.
Loan chợt ngẩn ra, thở dài. Sau đó, nó khẽ nói:
- Hồi mẹ tớ bán nhà, chú tớ không đồng ý. Vì đất là nhà của ông bà nội để cho. Nhưng mẹ nghe lão cai Cân cứ bán. Chú tớ khóc, bảo tớ rằng: “Cháu tìm cách lấy lại một món tiền trong số tiền bán nhà để lập bàn thờ cúng vong hồn bố cháu. Chú tàn tật yếu hèn, chú không giữ được mảnh đất tổ tiên để lại. Chú xin thắp ba nén nhang để vong linh bố cháu chứng giám cho tấm lòng ...”. Thế rồi, từ đó tớ rình mãi nhưng không có cơ hội. Một hôm, tớ đang ngồi đi đồng trong chuồng xí chợt thấy thằng con lớn lão cai Cân chạy xuống nhà tắm, lật ngói lên, giấu một gói giấy. Tớ đoán chắc đó là tiền. Tụi con lão luôn tìm cách ăn trộm, ăn bớt tiền của bố. Chờ cho nó ra phố, tớ nhấc viên ngói, lấy gói tiền cất đi. Hôm sau thằng đó cứ quanh quẩn tìm nhưng không dám kêu. Nó hậm hực kiếm cớ đánh thằng em. Còn tớ, tớ chờ dịp đưa cho chú tớ làm bàn thờ, nhưng chưa thấy chú lên. Bây giờ, tớ nghĩ đằng ấy cần tiền hơn...
Tôi lắng nghe chuyện. Lòng tôi bỗng dấy lên nỗi chua xót. Bố Loan ngày xưa là chú thợ cơ khí khỏe mạnh, đẹp trai, hiền như đất. Tôi nhớ hai cánh tay lực lưỡng của chú thường tung Loan và tôi lên cao. Hàm răng trắng ánh khi chú cười. Và mỗi khi chú khom lưng làm ngựa cưỡi, chúng tôi thương kêu:
- Ếp ếp, nhong nhong...
Người đàn ông tốt bụng hiền lành đó đã chết đột ngột làm sao! Em chú, một anh thợ rèn ở làng, khập khiễng, nhút nhát tới mức chỉ cần một đứa trẻ hay một cô hàng xôi trêu cũng đỏ mặt lên, lưỡi líu lại. Người em đó đã không đủ sức giữ mảnh vườn mà anh mình đã tưới biết bao mồ hôi lên.
Loan thấy tôi im lặng hồi lâu, hỏi:
- Đằng ấy bảo sao?
Tôi thở dài:
- Thôi cũng được. Coi như đây là tiền của bố cậu. Chúng mình sẽ dùng nó vào chuyến đi này. Khi nào có dịp, ta sẽ lập bàn thờ và cúng vong linh cho bố cậu.
Rồi tôi dặn Loan những công việc cụ thể: Phải lấy đủ quần áo, nhất là áo rét vì miền núi khí trời lạnh lắm. Phải tìm bằng được lá thư bố tôi đề địa chỉ và ghi rõ đường đi. Mẹ tôi đã theo đường này lên thăm bố khi tôi chín tuổi. Phải vào phố mua khăn mặt, bàn chải và thuốc đánh răng, kẹo bạc hà, ô mai cam thảo, thuốc lào, kim chỉ, phong bì, giấy viết thư với tem. Ngoài ra, phải nhớ mang chiếc hộp bằng nhôm ở nhà đi. Thứ nồi lưu động đó, nấu ăn dọc đường là tiện nhât. Các chú bộ đội đã bảo thế.
Tôi ra lệnh:
- Cậu phải chuẩn bị tất cả mọi thứ trong vòng ba tiếng đồng hồ. Đúng chín giờ, mình lại chờ cậu ở đây. Ta ra đảo kho tàng. Sớm mai, lên đường.
Loan nín thở, nghe tôi nói. Mắt nó long lanh, đầy xúc động. Tôi cũng thấy hai đầu gối run run. Chao ôi, thiêng liêng làm sao cái phút giây trước chuyến đi xa đầu tiên của cuộc đời. Loan về thị trấn, tôi quay lại nhà chú bé Cau, xin mảnh giấy viết thư cho mẹ:
Thưa mẹ kính yêu của con,
Con rất đau khổ vì đã gây cho mẹ những nỗi lo buồn. Con mong mẹ tha thứ cho con. Ngày mai, con sẽ lên đường đi xa, con sẽ tiến lên bằng đôi chân bé nhỏ và lòng dũng cảm của mình. Con sẽ cố gắng để trở thành con ngoan của mẹ, trò yêu của bố Thế. Mẹ đừng lo cho con. Lúc nào con cũng giữ một tâm hồn trong sạch và ngay thẳng. Mẹ ở nhà đừng ốm và đừng buồn vì con nữa. Con chắc mọi người không nỡ quên con. Trước khi đi, con gửi mẹ và tất cả họ hàng ruột thịt nhà ta lời chúc tốt đẹp.
Con gái mẹ: Vũ Thị Bê
Tái bút: Loan đi cùng với con. Mẹ nói để cô Lưu yên tâm.
Gập lá thư làm tư, tôi bỏ vào túi quần. Rồi tôi lấy trong số hai trăm, ba mươi đồng, đặt dưới gối chú bé Cau. Và không nói một lời, tôi lẳng lặng ra dòng sông xanh quen thuộc. Giá ban ngày, tôi đã có thể thấy được làn nước trong với những gợn sóng lăn tăn, những đám cỏ mềm xanh như lá liễu và bầu trời lơ soi mình trên đáy nước. Nhưng bây giờ là đêm, nên tôi chỉ có thể lắng nghe tiếng gió rì rào và tưởng tượng ra chúng mà thôi. Tôi tìm được cái thuyền của bà An Lạc rồi. Chút nữa, tôi sẽ chở Loan ra đảo. Sáng tinh sương mai, chúng tôi sẽ đi bộ lên một ga xép cách thị trấn năm cây số và lên tàu. Trước khi lên tàu, tôi bỏ thư cho mẹ. Khi chúng tôi tới một thị trấn cách ga hơn một trăm cây số, mẹ sẽ nhận được thư tôi.
- Trời ơi, con gái của mẹ, sao con dại dột thế?... Sao con bỏ mẹ ra đi? Giờ này, con gái tôi bơ vơ ở đâu rồi?
Mẹ sẽ nức nở gục đầu lên chiếc bàn chất chồng vở học trò chờ chấm.
- Mẹ ơi, con không dại dột đâu, và mẹ cũng đừng lo cho con bơ vơ giữa cuộc đời...
Tôi thầm nói với mẹ như vậy. Và nước mắt tôi chảy ra tự lúc nào không rõ, ướt lạnh trên hai má.
Thôi, chào sông nhé, chào dòng sông thân yêu, chào hòn đảo đã cất giấu kho tàng và những bí mật tuổi thơ. Chào thị trấn quê hương. Tất cả ở lại nguyên vẹn, tươi đẹp. Và hãy chúc cho tôi một lời may mắn, trước khi tôi bước vào chuyên đi xa thứ nhất của cuộc đời.
CHƯƠNG 11 - BÀI HỌC ĐẦU TIÊN TRONG CUỘC HÀNH TRÌNH

Chuyến tàu dẫn chúng tôi vào cuộc phiêu lưu là một chuyến tàu chợ. Tàu chợ là tàu chạy chậm, đỗ ở tất cả các ga xép để đón khách. Khách đi tàu thường là dân miền xuôi lên trên núi mua khoai, sắn khô phòng ngày giáp hạt, dân buôn măng khô, mộc nhĩ, nấm hương, gạo nếp, củ nâu từ miền núi về. Và cá mắm, cá khô, tôm tép ướp muối, các loại kim chỉ màu, phẩm nhuộm… tóm lại là trăm thứ đồ vặt vãnh ở dưới xuôi lên. Hàng hóa của họ đặt chồng lên nhau chặt như nêm cối. Lần đầu tiên đi tàu, tôi không khỏi choáng váng vì sự đông đúc, nhộn nhạo, vì tiếng trò chuyện, cãi cọ ồn ào, vì cả mùi trầu thuốc, mùi mồ hôi chua khẳn và mùi khai từ buồng vệ sinh đầu toa theo gió tạt xuống. Nhưng dẫu sao, đấy cũng là những giây phút đầu tiên chúng tôi rời tà áo mẹ, bước vào đời. Tôi và Loan đều hồi hộp khi con tàu thét lên hồi còi dài để giã từ cái ga xép chúng tôi vừa từ đó lên. Những toa tàu dồn nhau lịch kịch. Các đầu nối xô lại khiến hành khách ngã giúi giụi. Một làn khói trắng tuôn lên trời cao. Rồi con tàu chuyển bánh, lăn về phía trước.
Hai đứa tôi ngồi sát vào nhau. Mặc dù chúng tôi mua đủ hai vé, một bà buôn gạo to béo vẫn huých chúng tôi vào một xó để đặt bộ mông đồ sộ của bà vào ghế:
- Chúng mày là trẻ con, ngồi thu vào một chỗ trong kia.
Bà ra lệnh. Không đợi chúng tôi trả lời, bà bắt đầu mở túi lấy trầu ăn và nói chuyện oang oang với đám bạn buôn chuyến ngồi quanh.
Chúng tôi nhìn ra bên ngoài. Những cánh đồng quen thuộc lùi lại phía sau. Những thửa ruộng tôi và Loan từng đi tát cá dầu về nấu dưa. Dòng mương chúng tôi vẫn cùng nhau lội mò trứng vịt đẻ rơi. Trái đồi tròn, xanh um kia là trái đồi Đông Na, nơi có ngôi chùa xinh xắn, những trái đào ngọt lịm và những trái đu đủ chín cây đỏ hườm hườm. Bà vãi chùa thật hiền từ, còn lão già sống với bà là một conquỷ độc ác. Lão đã nhốt tôi trong căn buồng tối tăm, hôi mốc và khiến tôi đói lả suốt ngày đêm… Dòng mương thẳng tắp có những gợn sóng lăn tăn, dọc con đường bờ vùng học sinh trường tôi đã góp sức đào với dân xã. Chính cái hôm đào mương, trời vừa mưa vừa nắng, Ly đã bị cảm và bố Thế cõng nó đưa lên bệnh viện… Những kỷ niệm lần lượt hiện về khiến tôi xốn xang trong dạ. Loan cũng im lặng. Hẳn nó cũng đang xúc động như tôi. Khi con tàu rẽ vào một đoạn đường ngầm xuyên qua núi, tôi bỗng muốn khóc. Nhưng tôi không dám để cho Loan hạt mít biết mình yếu mềm như thế. Tôi ngoảnh mặt ra ngoài cửa sổ và đưa lưỡi liếm những giọt nước mắt mằn mặn đang theo nhau chảy xuống.
Con tàu chui khỏi đoạn đường hầm. Từ đây nó chạy giữa những trái đồi nối tiếp. Trái đồi nào cũng tròn và thấp, làng mạc bám xung quanh giống như những trái cam màu xanh.
- Các bà, các cô giúp cháu với. Cháu tìm mẹ cháu từ sáng tới giờ mà chẳng thấy đâu… Mẹ ơi i i!… Mẹ ở đâu rồi?
Tiếng kêu than của một đứa trẻ vang lên giữa lúc nhịp chuyển động đều đặn của vòng bánh quay đang làm mọi người gà gà ngủ. Riêng bà lái buôn to béo ngồi cạnh chúng tôi đã ngủ rất say, miệng há hốc, thở phì phò như bễ lò rèn. Mấy bà bạn buôn chuyến với bà cũng gục đầu xuống gồi ngủ mê mệt. Chỉ đám khách đi tàu bình thường như chúng tôi là quay lại nhìn đứa bé:
- Mẹ ở đâu rồi? … Mẹ ơi i i… Hu hu hu…
Nó cất tiêng than hời rồi khóc tức tưởi như bị đòn oan. Đó là một đứa bé trai trạc tuổi tôi, gầy gò, đen đủi. Đôi mắt đen, rất sáng nhưng không nhìn thẳng vào ai. Nó cứ mở trừng trừng, nước hàng mi dày lên như nhìn vào nỗi bất hạnh của sự cô đơn, của tai hoạ mà nó đang phải gánh chịu. Đôi vai gầy hơi so. Tóc dài lợp xuống tận gáy. Thằng bé mặc chiếc sơ mi kẻ sọc đã cũ bẩn và chiếc quần dài tới đầu gối. Những sợi vải tua lùa rủ xuống khách đi tàu, gồm những cán bộ, bộ đội, sinh viên và hai đứa tôi, đều tỏ vè băn khoăn. Mấy người lớn tuổi sốt sắng hỏi:
- Nhà cháu ở đâu?
- Cháu ở Hưng Yên, làng Lệ Xá… Bố mẹ cháu bỏ nhau rồi. Mẹ cháu đưa cháu lên Lạng Sơn tìm cậu. Từ sáng đến giờ chẳng thấy mẹ cháu đâu nữa… Mẹ ơi i i!…
Thằng bé kể lể xong lại khóc, lại gọi mẹ bằng cái giọng vô cùng ảo não. Một chàng trai xoa đầu nó:
- Tại sao có hai mẹ con mà lạc nhau được? Chú trông cháu có đến nỗi khờ khạo đâu.
Thằng bé liếc nhìn anh rất nhanh và đáp:
- Cháu ngủ. Mẹ cháu cũng ngủ. Mẹ cháu bảo sớm mai tới ga mua bánh mì ăn. Lúc thức dậy, cháu không thấy mẹ cháu đâu nữa… Mẹ ơi i i… Mẹ ở đâu bây giờ?
Sau mỗi câu trả lời, đứa bé gọi mẹ càng thảm thiết hơn.
Mấy chị ngồi quanh tôi thì thào:
- Có lẽ mẹ nó không nuôi nổi nên bỏ con đi nơi khác.
- Hoặc chị ta theo nhân tình nhân ngãi nên bỏ con khỏi vướng thân chăng?…
- Ăn nói hồ đồ… Làm gì có thứ đàn bà quạ tha gà mổ thế!… Đến hổ cái cũng còn biết thương con, huống chi là người…
- Thế vì cớ gì mà thằng bé bị bỏ bơ vơ?
Mỗi người một ý, xôn xao bàn tán. Thằng bé vẫn đứng giữa đám đông, ngước đôi mắt sầu não lên, khuôn mặt lem nhem bụi bẩn và hoen nước mắt. Một chú bộ đội rút chiếc bánh mì kẹp thịt trong túi ra đưa cho nó:
- Chắc từ tối hôm qua tới giờ cháu chưa ăn gì?… Cháu ăn tạm chiếc bánh này. Bụng cháu thì cũng đủ no đấy…
- Cám ơn chú - thằng bé lắc đầu - Mẹ ơi, mẹ ơi!…
Nó không ăn uống gì mà đưa mắt nhìn quanh để tìm kiếm một cách vô vọng. Trong đám hành khách có người khẽ chép miệng:
- Nó là con nhà tử tế đấy. Đói thế mà có thiết ăn đâu… Nó mải tìm mẹ… Đến khốn khổ cho số kiếp con người…
Thằng bé không để ý những lời bình phẩm xung quanh. Nó đưa mắt nhìn tôi, vừa như ngạc nhiên vừa như muốn tìm một câu an ủi, một niềm cảm thông. Những kẻ đồng niên bao giờ cũng dế thân thiết với nhau hơn là với những người khác tuổi. Tôi nghĩ thế nên goi:
- Bạn có thể cùng đi với chúng tôi tới Lạng Sơn. Chúng tôi có đủ thức ăn dọc đường cho cả ba người đấy.
Mấy chị cán bộ hùn vào:
- Phải rồi, cùng tuổi đi với nhau dễ ăn dễ nói hơn. Cháu cứ lại ngồi với hai bạn gái cho vui. Tới Lạng Sơn, các cô dẫn vào đồn công an tìm mẹ…
Thằng bé im lặng đưa mắt nhìn chúng tôi. Rồi nó lại nhìn bà lái buôn to béo vẫn đang há hốc miệng như con cá ngão mà ngủ, thây kệ mọi chuyện trên đời.
Loan hạt mít sốt sắng chìa túi thức ăn gồm rất nhiều thứ: nào bánh dày kẹp chả, bánh giò, xôi nén, bỏng nắm ngào mật…
- Đằng ấy không lo tụi tớ đói đâu. Ối thức ăn cơ mà.
Đứa bé chừng như yên tâm, lặng lặng tới ngồi bên mép ghế đối diện với chúng tôi. Loan mời mãi, nó mới chịu ăn miếng xôi nén với chả. Mặt thằng bé buồn thiu khiến chúng tôi không dám hỏi thêm một lời nào về tình cảnh thương tâm của mẹ con nó.
Xình xịch, xình xịch, xình xịch,… Con tàu cứ chạy đều. Những trái đồi bên ngoài dần dần thưa thớt và cao hơn. Đã có những khoảng rừng ven chân núi đá. Không còn những thôn ấp trung du tròn trịa như những trái cam xanh mà chỉ có các xóm trại lơ thơ giữa thung lũng hoặc bám chênh vênh lưng chừng đồi. Ngắm mãi cảnh cũng chán mắt. Tiếng bánh tàu nghiến trên đường ray tạo nên một âm điệu đều đặn buồn tẻ khiến dần dần mí mắt tôi cứng đờ, rơi sập xuống. Tôi dựa đầu vào ghế mà ngủ. Trong giấc ngủ, gió lẹ làng từ ngoài ô cửa tới vuốt ve làn da và mái tóc tôi. Hương thơm của lúa, của những vườn cây xa xôi đưa tới. Tôi mơ thấy mình đang cưỡi trên lưng con ngựa hồng. Con ngựa xinh đẹp phi nhịp nhàng qua những dãy múi xanh thẳm vùng biên cương. Rồi nó hý vang lên khi tới trước một đồn biên phòng ở đỉnh ngọn núi cao chót vót. Tiếng hí của con ngựa hồng rung chuyển khoảng trời im vắng. Bố tôi ở trong chiếc lán nứa, phía sau mảnh sân cắm lá cờ bước ra, kêu lên mừng rỡ:
- Con Bê của bố, con Bê của bố lên tới tận đây… Này các cậu xem, con gái tôi có cừ khôi không?… Nó đã lên tới tận đây mà thăm chúng mình…
Có người đập vào vai tôi rất mạnh, nhưng không phải bố tôi mà là bà lái buôn to béo có cặp môi nứt nẻ quết trầu.
- Tới ga Voi Xô rồi đấy, chúng mày có xuống không?
Tôi giụi mắt, đáp:
- Chúng cháu còn đi xa hơn nhiều, bà ạ.
Loan hạt mít cũng vừa tỉnh dậy. Hẳn nó vừa được một giấc ngon lành, say sưa như tôi. Tiếng cô phát thanh viên trên loa ra rả:
- Tàu đã tới ga Voi Xô. Mời hành khách kiểm tra hành lý, trật tự xuống tàu. Ai đi trước xuống trước, ai đi sau xuống sau, không nên chen lấn, phòng kẻ gian móc túi.
Các bà các cô lục tục đứng dậy, tìm túi, tìm nải, quang gánh lên vai xuống ga. Tôi thò cổ khỏi cửa sổ để nhìn cái ga đầu tiên vùng trung du.
Chợt Loan hốt hoảng kêu lên:
- Bê ơi, túi quần áo đâu rồi?
Tôi quay vào, ngẩng đầu nhìn lên giàn gác hành lý. Chiếc ba lô đựng toàn bộ áo quần đồ đạc của chúng tôi đã không cánh mà bay. Thằng bé lạc mẹ ngồi đối diện với chúng tôi cũng biến mất. Bây giờ không phải thằng bé đó khóc mà chính Loan hạt mít hu hu.
- Mất hết áo quần đồ đạc rồi… Biết làm thế nào bây giờ? Hu hu hu…

Trong chiếc ba lô đó, tôi xếp đủ áo quần mùa hè lẫn mùa đông của hai đứa. Chiếc phong bì có vẽ đường lên Khậu Phai. Tất cả những thứ tôi sắm sửa để đem lên cho bố tôi và các chú bộ đội: kim chỉ, dầu cù là, khuy áo, tem thư, kẹo bạc hà ngậm ho, ô mai cam thảo, một cân đường phèn, ba lạng hàn the để quấy bánh đúc (Tôi nghe nói bộ đội hay thèm ăn mấy thứ quà vặt đó). Cả bộ Đông Chu Liệt Quốc. Ngoài ra số tiền dành dụm và pho tượng vũ nữ bằng bạc của bà ngoại Loan cho. Chao ơi, đối với chúng tôi, đó là một gia tài quá lớn. Vả chăng, khi bắt đầu cuộc hành trình đầy mạo hiểm này, tôi chưa hề nghĩ tai hoạ xảy ra với mình chua cay thế. Tôi cứ tưởng tượng cảnh gặp hổ ngang đèo, gặp tướng cướp từ các đám lau rậm xông ra giống như những chuyện bọn lục lâm đòi tiền mãi lộ thời trước… Ai dè kẻ gieo tai hoạ chỉ là một thằng nhãi gầy gò, loẻo khoẻo.
Loan hạt mít vẫn khóc nức nở.
Tôi cố gắng để không khóc. Tôi cũng khóc thì còn ra thể thống gì nữa?…
Đằng nào thì tôi vẫn là con chim đầu đàn, là người dẫn đường cho nó. Những hành khách xung quanh xúm lại hỏi thăm. Khi vỡ lẽ, người ta thốt kêu lên:
- Khiếp thật, kẻ cắp bây giờ đóng kịch giỏi hơn tài tử xi nê ma. Lúc nãy mình định gọi nó tới cho ăn nữa chứ…
- Trông mặt mũi hiền lành, sáng sủa thế… Ai ngờ được là quân lừa đảo…
Bà lái buôn to béo ngồi cạnh chúng tôi bĩu dài cặp môi khô nẻ quết trầu:
- Tại sao các ông các bà không gọi tôi dậy? Tôi mà dậy thì tôi tống cổ thằng lỏi con ra khỏi toa này ngay. Chuyến buôn xuôi bán ngược nào tôi chả gặp mặt nó. Lúc nó giả vờ lạc mẹ, lúc nó giả vờ bị chú dượng đuổi khỏi nhà. Lúc nó giả vờ bị mất hết áo quần, tiền bạc, nó đi xin từng người tiền về quê… Dân buôn chúng tôi nhẵn mặt nó nên cứ thấy tụi tôi là nó lảng ngay. Các ông các bà là ma mới nên bị vào tròng. Phải tay tôi, tôi cứ xách tai lên, vặn ra đằng sau cho lòi con mắt ra mới thôi…
Hết tràng diễn thuyết, bà chồm người ra cửa sổ nhổ nước quết trầu rồi bảo chúng tôi:
- Từ rày phải cảnh giác, các cháu ạ. Chúng mày là con nhà lành, ra đời dễ gặp quân mèo mả gà đồng gạ gẫm, lừa gạt lắm. Chớ có tin người mà chết.
Tôi ngao ngán nhìn túi thức ăn đặt dưới chân. Ra đi hay quay về? Lấy gì mà tiếp tục cuộc hành trình, khi trước mắt là con đường dài dằng dặc, không có một người thân quen, một nơi tựa đỡ?… Còn quay về thị xã với mẹ tôi, với hoàn cảnh hiện tại, trước những con mắt tò mò thương hại của mọi người?… Rồi sẽ có những bàn tay xoa đầu tôi và nói:
- Thôi, đừng có viển vông, ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung là chết đấy…
Hoặc:
- Cứ ở nhà nuôi gà cho mẹ mày vài năm cũng chẳng sao. Chưa vỡ bọng cứt đừng có đòi bay bổng…
Mới nghĩ tới đó, mặt tôi đã nóng ran lên. Tôi không thể hèn kém như vậy! Goóc Ki từng tự kiếm sống bằng nghề bới rác vụn, đánh giày, làm thuê… Vậy mà ông đã trở thành nhà văn lỗi lạc trên thế giới. Tại sao tôi không thể làm như vậy? Không phải để trở thành một nhà văn mà chỉ để kiếm đủ tiền lên chơi với bố tôi, một người lính biên phòng…
Tôi bảo Loan:
- Đừng khóc nữa. Đằng ấy có khóc hết nước mắt cũng không ích gì. Chúng ta vẫn còn cách sống.
Tôi nói thầm cho Loan biết rằng chúng tôi vẫn còn một trăm bảy mươi đồng. Số tiền hai trăm của Loan đưa, tôi cho mẹ con bé Cau ba mươi đồng, còn lại tôi khâu vào túi con ở lưng quần. Số tiền đó đủ mua cho mỗi đứa một bộ áo quần và chiếc áo bông. Còn lại, chúng tôi sẽ ăn uống dè xẻn để dành tiền mua vé lên Cao Bằng. Từ Cao Bằng lên đồn Khậu Phai, mọi chuyện sẽ tính sau. Loan nghe xuôi tai, không khóc nữa. Vả lại xưa nay nó vẫn tin tôi.
Bản tính nó ít lo nghĩ, tư lự. Chỉ mười lăm phút sau, Loan đã giở bánh giò ra ăn rồ vỗ tay cười toe toét khi thấy một con sơn dương chạy qua thung lũng ven đường. Tôi cũng ăn xong, ngồi tựa vào lưng ghế nghĩ ngợi. Dẫu sao, tôi không khỏi lo âu. Tôi chưa biết cái gì sẽ xảy ra trong những ngày sắp tới. Và cuộc phiêu lưu của chúng tôi sẽ tới ngả đường nào?… Bên ngoài, những dãy nũi xanh rì tiếp tục lướt qua. Ánh chiều vàng rực trên sườn non đã nhạt, rồi bóng tồi bò từ những khoảnh rừng đen thẫm tới. Ngọn đèn điện đỏ quạch trong chiếc lưới sắt được bật lên, soi lờ mờ. Hành khách trong toa ăn no, chuyện vãn chán, gà gật gục vào nhau ngủ, Loan tựa đầu vào vai tôi, ngáy khe khẽ. Còn tôi, tôi không ngủ được. Mắt mở thao láo, tôi tìm một đốm lửa trong những hình thù quái dị của núi non đang trôi qua khung cửa con tàu. Ngày trước, bà tôi vẫn bảo, ban đêm gặp lửa cháy là gặp điềm may. Khi con tàu đi khuất vào một hẻm núi, tôi bỗng nhìn thấy một đốm lửa thật. Ánh lửa đỏ rực, lắt lay, chập chờn giữa thung lũng. Hình như một người dân nào đó đã gieo vào lòng tôi, một đứa bé xa lạ, niềm tin đinh ninh rằng mình sẽ gặp may mắn trong đời.
CHƯƠNG 12 - THỊ TRẤN LẠ LÙNG VỚI NHỮNG CON NGƯỜI LẠ LÙNG
Tàu tới ga vào lúc hai giờ rưỡi sáng. Đám hành khách bừng tỉnh khi người phát thanh nhắc nhở:
- Tàu đã tới ga… Ai đi trước xuống trước, ai đi sau xuống sau, không nên chen lấn xô đẩy, phòng kẻ gian móc túi…
Giọng nói vang trong loa rất to, rè rè như người nói đang buồn ngủ. Con tàu chạy chậm lại rồi bỗng dưng phanh kít trên đường ray. Đám dân buôn đứng giữa hai hàng ghế bị xô ngã nháo nhào. Họ lầm bầm chửi rủa rồi lần lượt đi ra hai đầu toa. Chúng tôi chờ họ bớt chen chúc mới đứng dậy. Một thanh niên cùng chuyến tàu với chúng tôi bước tới nói:
- Đi xuống ga với anh. Chắc hai em không có họ hàng quen thuộc ở đây
Tôi nói:
- Vâng, cảm ơn anh.
Trong bụng, tôi phân vân chưa biết xử trí ra sao. Suốt chuyến đi, kể cả lúc thằng bế giả vờ khóc lóc, kể cả lúc chúng tôi bị mất cắp, anh đều không nói năng gì. Đôi mắt anh nhìn mông lung đâu đó. Mái tóc mềm gió đánh bay xoà xuống tận chân mây. Anh ngồi cách chúng tôi hai ghế nên chúng tôi cũng không để ý tới anh nhiều.
Khách đi tàu đã xuống ga vãn. Chúng tôi bước theo anh. Bậc lên xuống rất cao, anh lần lượt nhấc bổng từng đứa xuống. Rồi anh xách chiếc túi đựng thức ăn nhẹ tênh của chúng tôi, cười:
- Gia tài bây giờ nhẹ bỗng rồi, phải không?… Hồi còn bé, anh cũng bị mất cắp một lần. Nhưng không phải vì một thằng bé con mà là một con mụ rất dẻo mồm. Mụ ta dụ anh đi mua kẹo hồng, mua bánh ngọt, rồi tháo chiếc vòng bạc mẹ anh đeo ở cổ cho anh.
- Thế xong rồi sao cơ?
- Rồi anh bị một trận đòn nên thân và nhớ tới tận bây giờ…Này, nhưng đừng nói chuyện nữa, đi cẩn thận kẻo ngã xuống hẻm núi đấy.
Đường từ ga xuống gập ghềnh cheo leo thật. Nó hẹp chừng non hai thước, rải đá trắng nhưng lâu ngày mưa đã xói mòn, đá lở hết. Chỉ còn trơ những rễ cây cổ thụ và những tảng đá lớn nằm bám vào gốc cây. Nhà ga không có đèn. Người gác ghi cầm cây đèn hộp vuông kính chắn xanh, đỏ, vàng đánh tín hiệu cho tàu đi xong, liền bước vào phòng bán vé đóng sập cửa lại. Thế là tất cả tối đen. Mọi vật chỉ còn hiện lên lờ mờ ánh sao và ánh lửa hắt từ đám quán ăn tít dưới đường quốc lộ. Chúng tôi túm áo nhau, nắm chặt tay anh thanh niên tốt bụng mà đi. Những người dân buôn gánh hàng sát bên chúng tôi. Họ là dân địa phương nênhọ thuộc đường. Nhiều người nói chuyện với nhau bằng thứ tiếng riêng mà chúng tôi không hiểu.
- Người Hoa đấy – anh thanh niên giải thích – Các em có ngửi thấy mùi thơm không? Họ buôn thuốc từ dưới ga Đồng Mỏ lên đây…
Trong đêm, mùi thơm bốc lên thoang thoảng, lẫn với mùi mồ hôi và mùi lũ ngựa thồ hàng cũng đang lóc cóc đi xuống. Phía trước, đèn các quán đã sáng rõ. Quán lớn treo đèn măng sông. Quán nhỏ mắc hai, ba ngọn đèn dây. Những người bán quán bận áo quần đen, khuy vải tết. Họ mời khách liên tục bằng hai ba thứ tiếng:
- Vào ăn cơm kẻo di tàu đêm đói bụng. Phở ngọt, phở chua ngon lắm.
- Cơm tám có thịt kho đường, đậu rán, dưa chua… Nào, vào đi…
Nói tiếng Kinh xong, tiếp đến tiếng Hoa, tiếng Tày, tiếng Nùng. Anh thanh niên đi cùng bảo:
- Có khi họ còn nói được cả tiếng Lô Lô, tiếng Sán Dìu, Sán Chỉ. Dân bán cơm là dân giỏi ngoại ngữ nhất thế giới.
Anh dắt chúng tôi vào một quán cơm nhỏ, treo hai ngọn đèn dây. Chủ quán còn trẻ, mặc áo xanh kiểu cổ viền, khuiy vải tết, tóc cắt ngắn. Trông vẻ mặt cô ta hiền hiền.
- Cô Múi, cho chú cháu tôi ăn cơm với.
Chủ quán cười:
- Chào anh Cao, lâu ngày quá mới gặp. Anh lại có thêm hai đứa cháu nữa rồi à?
Anh Cao cũng cười:
- Ờ, chị tôi đẻ nhiều lắm. Hôm nay cơm có món trám đen không?
Cô bán hàng gật đầu:
- Có, có… Cho thêm hai bìa đậu nhồi thịt rán nữa nhé. Hôm nay tôi đãi khách tý hon.
Một tốp khách buôn đông đúc kéo vào, ngồi chật ba chiếc ghế dài, kiểu ghế băng của học sinh, quây xung quanh. Cô bán hàng nhanh nhẹn dọn đồ ăn cho chúng tôi rồi quay sang phục vụ đám khách mới.
- Nào, các cháu ăn tự nhiên đi. Giống như chúng ta ăn cơm ở nhà vậy… - anh Cao so đũa, đưa cho chúng tôi mời mọc ân cần – Đi đường xa, ăn cơm ngon hơn ăn cơm ở nhà… Thế nên người ta mới thích du lịch phải không?
Anh nheo mắt cười, trông hiền lành và hóm hỉnh. Tôi quên những buồn bực, lo âu đang đè nặng trong lòng, lây cái vui hồ hởi của anh. Chúng tôi ăn cơm ngon lành. Món trám đen nhồi thịt của cô hàng lạ miệng và hấp dẫn nhất. Đám khách buôn ăn uống xì xụp cạnh chúng tôi. Họ vừa ăn vừa uống rượu. Rượu không uống trng chén mà uống cạn từng bát đầy. Mùi rượu nông nặc phả ra khiến chúng tôi rờn rợn. Nhất là khi họ cười, những chiếc răng bọc vàng bọcbạc của họ loé lên dưới ánh lửa. Những người đàn bà giơ tay cào tóc, còn những người đàn ông gãi mái đầu cắt ngắn gần như trọc. Ăn cơm xong, chúng tôi uống nước ngay tại đấy. Những người khách ăn vẫn tiếp tục vào. Anh Cao đếm tiền trả chủ quán và bảo chúng tôi:
- Chú cháu ta kiếm chỗ ngồi cho họ bán hàng.
Chúng tôi xách túi bước ra đường. Kiếm chỗ nào ngồi bây giờ? Dãy phố kéo dài hun hút, tối đen, không bóng người qua lại. Thỉnh thoảng có những chiếc xe thồ lóc cóc gõ trên đường đá. Riêng khu quán ăn, đèn đuốc sáng trưng. Những quán ăn lớn có biển đề:
Ở đây có chỗ trọ
Năm đồng một giường
Ôi chao, đối với túi tiền của chúng tôi, năm đồng một chỗ ngủ qua đêm thì lớn quá. Nhất là khi chúng tôi vừa bị mất sạch sành sanh. Anh Cao bảo:
- Anh cũng không giàu có gì. Chúng ta không thể phí mười lăm đồng bạc để nằm mấy tiếng đồng hồ đợi trời sáng. Mà những quán trọ này khủng khiếp lắm. Không cẩn thận, mình có thể bị truyền bệnh thì nguy. Bây giờ, anh trải ni lông dưới mái hiên kia. Anh em mình ngồi dựa vào nhau ngủ một lúc. Các em bằng lòng chứ?
Cố nhiên, chúng tôi bằng lòng ngay. Anh Cao dắt chúng tôi tới một căn nhà gần đó, nơi ánh đèn khu quán ăn còn rọi tới, đủ soi rõ mặt người. Ngôi nhà này có mái hiên rộng, lợp ngói ống kiểu cổ.
Đối với chúng tôi lúc đó, nó là nơi trú thân tốt đẹp. Anh Cao rút trong túi du lịch mảnh ni lông, trải xuống thềm. Anh cởi thắt lưng buộc chiếc túi du lịch vào chân. Rồi anh lấy áo khoác trùm cho cả ba người. Xong, chúng tôi cùng tựa lưng vào cửa ngôi nhà mà ngủ. Giấc ngủ tới mau lẹ. Nhưng chừng hơn một giờ sau, tôi tỉnh dậy vì lạnh quá. Chiếc áo khoác của anh Cao không đủ giữ hơi ấm. Loan hạt mít ngồi giữa nên vẫn ngủ ngon lành. Anh Cao cũng vậy. Có lẽ vì bên trong sơ mi anh còn mặc áo dệt kim dày. Tôi rét run cầm cập. Khí núi đêm lạnh buốt. Khu quán ăn đã tắt hết đèn, đóng cửa. Trời đất đen như mực. Những ngôi nhà lô nhô trong đêm giống như hai hàm răng lởm chởm của con cá sấu. Phía sau dãy phố là những ngọn núi cao sừng sững, hiểm trở, bí ẩn và đầy đe doạ. Hơi gió lùa qua hẻm núi vang lên từng hồi còi dài, rên rỉ. Thỉnh thoảng một con chim buông tiếng kêu khàn khàn khiến tim tôi nhảy thót lên. Mắt mở thao láo, tôi nhìn vào bóng đêm, chờ đợi một con vật khủng khiếp nào đó bò tới, há cãi mõm đỏ lòm ra trước mặt mình. Trong cơn sợ hãi tôi nhớ lại hình ảnh con khủng long ở phòng thí nghiệm nhà trường. Nó bước từ bức tranh xuống, khụng khiệng đi trên đường, lúc lắc cái cổ khổng lổ và dài hơn cả một chiếc cần cẩu. Rồi tôi hình dung ra những bày người vượn Nê an déc tan, người Crô ma nhông từ những hang sâu trong dãy núi hiểm trở kia đi tới, giơ cánh tay lông lá cho tôi:
- Mày tới đây làm gì? Có muốn đi cùng chúng tao không? Nào, đứng dậy đi…
Tay chân tôi tê cứng như bị ngâm trong thùng nước đá lạnh. Đúng lúc đó, có một bóng đen lừ lừ đi tới thật. Tim tôi muốn nhảy vọt khỏi lồng ngực. Tôi định thét lên gọi anh Cao nhưng lưỡi đã cứng như bị đóng băng giữa hai hàm răng. Cái bóng đen rất cao, lòng khòng, hơi gù gù. Gã đi khật khưỡng như môt kẻ say rượu, nhưng không nói lảm nhảm và bốc mùi men. Gã đi từng bước một, bước nọ nối bước kia, lặng lẽ tựa như bóng ma, hai cánh tay dài đung đưa như hai que củi buộc hững hờ, lủng lẳng cạnh sườn. Tôi định thét lên, định quát thaơ đuổi gã, nhưng rút cục, tôi cứ ngồi lặng người đi, hai mắt mở thao láo. Mùi hôi lùa vào mũi tôi. Nhờ ánh sao, tôi nhận ra những mảnh vải rách lả tả bay dưới hai cánh tay gã. Cái bóng đen đó đi tới tận nơi chúng tôi ngồi, lặng im ngắm nghía hồi lâu. Rồi gã cất tiếng hát:
Ta có một con mèo xinh thật là xinh.
Ta có một ngôi nhà cánh cửa sơn xanh, sơn xanh…
Vừa hát, gã lại vừa đủng đỉnh bước đi. Gã đi vào trong phố. Té ra, đó là một người điên. Tôi đặt tay lên ngực vẫn thấy tim đập thình thình.
- Thật là thần hồn nát thần tính…
Tôi tự mắng mỏ mình, đúng là cái câu bà ngoại vẫn mắng tôi ngày xưa, mỗi lần tôi sợ kêu ma, đòi bà dắt ra đầu hè để ị vào bô chứ dứt khoát không xuống chuồng tiêu vì sợ bóng cây sung già đứng gần đó. Tiếng gà trong phố nhất loạt gáy lên. Toi đoán chứng khoảng ba giờ sáng. Sau cơn hoảng sợ, tôi dần trở lại bình tĩnh. Tôi nhìn vào bóng đêm bịt bùng với con mắt tự tin hơn. Những viền răng cưa khủng khiếp màu đen in lên trời đêm cũng không hăm doạ tôi dữ tợn như những giây phút đầu tiên tôi đặt chân lên mảnh đất này. Sau cùng, tôi nghĩ rằng con người có thể quen được với tất cả mọi thứ, kể cả nỗi lo âu và sự sợ hãi. Tôi co hai chân lên, thu đầu gối sát ngực để đỡ rét. Rồi tôi ngủ lúc nào không rõ. Một giấc ngủ ngắn nhưng không còn mộng mị.
Khi anh Cao gọi tôi dậy, mặt trời đã lên khỏi dãy núi phía đông. Hơi sương giá chưa tan nhưng ánh nắng tràn ngập mọi nẻo. Cảnh vật bừng lên như một đoá hoa vừa chớm nỏ. Tất cả những hình thù quái dị, đen tối đe doạ tôi đêm qua giờ đây phơi bày dưới ánh nắng trở nên tươi đẹp lạ thường. Hai dãy phố đã mở cửa. Các hàng quán lau chùi bàn ghế, mời mọc người vào. Những chiếc đèn lồng bằng lụa đỏ từ Trung thu năm ngoái còn treo tới tận bây giờ. Màu lụa tuy đã cũ nhưng vẫn vui mắt. Những ông phỗng xanh, phỗng đỏ đứng trước các tủ bánh kẹo, thuốc trà. Người trong phố đi chợ. Đủ màu sắc, áo quần của dân Hoa. Nhưng nhiều nhất vẫn là màu chàm của người Tày, người Nùng xuống núi. Những con đường núi óng ánh vì mặt trời chiếu trên cỏ ướt. Hoa dại nở từng chùm đỏ khắp nơi. Cả những gốc cây um tùm dưới ánh nắng cũng xanh lại. Anh Cao dắt chúng tôi tới một hàng bánh bao mua ba chiếc bánh ăn sáng. Xong anh bảo chúng tôi chờ anh ra bến xe một lát. Chúng tôi uống hết chén chè xanh thì anh quay về.
- Anh phải đi ngay bây giờ. Nửa tiếng nữa xe sẽ chạy. Còn các em phải đợi ba ngày nữa mới có chuyến xe đi Cao Bằng. Những ngày này các em ở lại quán cơm tối qua, nói với cô Múi xin ngủ nhờ. Cô ấy cũng là người tốt bụng.
Tới đó, anh rút ví, đếm tiền đưa cho chúng tôi:
- Không may cho các em, là anh cũng chẳng giàu có gì. Các em cầm tạm ba chục mà chi tiêu thêm. Khi nào rỗi, nhớ biên thư cho anh. Cứ đề: Phạm Văn Cao, lớp… Trường đại học địa chất.
Tôi nhìn chiếc ví lép kẹp của anh, lắc đầu:
- Không, chúng em không nhận của anh. Anh nghèo hơn cả chúng em nữa.
Anh Cao cười, hàm răng lấp lánh:
- Anh tới nơi trong ngày nay. Các em còn phải đi nhiều ngày nữa. Thôi cầm lấy,… còn bé mà khái tính thể hả cô?…
Anh xoa đầu tôi rồi rút trong ví ra một mẩu giấy nhỏ, hí hoáy viết. Tôi tưởng anh ghi địa chỉ của anh cho chúng tôi. Nhưng anh lại viết cho cô Múi, người bán hàng cơm tối qua.
- Các em đưa cho cô ấy. Cô ấy sẽ giúp đỡ các em phần nào… Thôi, chúc các em may mắn nhé… Anh đi đây…
Không kịp để chúng tôi cảm ơn hoặc nói lời từ biệt, anh cầm chiếc xắc du lịch, đi vùn vụt về phía bến ô tô. Chúng tôi đứng tần ngần nhìn theo anh, mái tóc mềm gió thổi lật về phía sau, cổ chiếc áo sơ mi bay lật phật. Sau này, không bao giờ chúng tôi gặp lại anh nữa. Bởi vì, cái địa chỉ anh nói, chúng tôi không kịp ghi nhớ trongphút giây bối rối. Nhưng gương mặt anh với nụ cười rạng rỡ vẫn luôn hiện lên trong ký ức của tôi, như một khung trời mới lạ, như một dải núi non vời vợi mới hiện lên trước chân trời. Tôi đứng tần ngần mãi, cho tới khi Loan hạt mít gọi:
- Bê này, đi tới hàng cô Múi đi chứ. Anh Cao viết cho cô ấy đây này.
Tôi cúi xuống đọc những dòng chữ nhỏ, nét bay bướm và sắc:
Thân gửi A Múi,

Tôi không có thời giờ ở lại phố lâu. Nhưng tôi vẫn giữ cảm tình tốt với A Múi. Chúng ta là những người bạn quý hoá nhau, có phải không? … Tiện đây, tôi nhờ A Múi một việc. Hai em nhỏ này tôi gặp trên tàu. Chúng bị mất cắp hết tài sản mà còn phải lên tận Cao Bằng. A Múi cố gắng giúp chúng ăn ở trong mấy ngày tới. Tôi mong A Múi vui lòng. Tôi cảm ơn A Múi và hẹn dịp sẽ tới chơi.
Tôi nắm mảnh giấy nhàu nát trong tay như nắm lá bùa hộ mệnh. Rồi tôi cùng Loan quay trở lại khu nhà trước cửa ga. Nơi đó, suốt ngày ồn ào người buôn bán, qua lại ăn uống. Dọc đường Loan kêu đói. Tôi biết nó đã no bụng nhưng con mắt còn thèm. Bánh bao ở đây quả thực ngon vì do người Hoa làm, khác hẳn thứ bánh bao cứng dèn dẹt dưới thị xã quê hương tôi. Tôi mua một chiếc cho Loan. Phần tôi, tôi nói rằng no rồi. Quả thực, tôi phải dè sẻn vì cuộc hành trình còn hứa hẹn nhiều trắc trở. Loan hạt mít ngượng. Nó bẻ cho tôi một nửa nhưng tôi không ăn. Cô nàng vật nài mãi, tôi mới ăn một mẩu cho nó vui lòng.
Chúng tôi đến cửa hàng cô Múi vừa lúc cô đang lau chùi quét dọn bàn ghế, hiên trước, sân sau. Tôi lễ phép chào cô, đưa mảnh giấy anh Cao viết. Cô bỏ chiếc chổi đang cầm trong tay xuống, kéo ghế ngồi đối diện nhìn chúng tôi với cặp mắt tò mò và hỏi:
- Các cháu mất hết đồ đạc hả? Các cháu không phải cháu chú Cao hả? Các cháu lên Cao Bằng thăm người nhà hả?…
Cô hỏi liền một hồi. Tôi trả lời từng điểm một. Xong rồi, cô bảo:
- Ở đây với cô mấy ngày cũng được nhưng phải thật thà, không được ăn cắp vặt, nghe chưa?…
Tôi thấy họng đắng lại. Tôi chưa từng bị nghe một câu nói thô lỗ và tàn nhẫn như thế bao giờ. Máu chảy rần rật trong huyết mạch tôi. Hai tai tôi có tiếng trống thình thịch. Mãi sau, tôi mới cất được tiếng nói:
- Cháu không phải con nhà ăn cắp. Chào cô…
Tôi xách túi quay đi. Hình như cô Múi cũng biết mình vừa làm một việc sai lầm. Cô đuổi theo tôi, gọi:
- Đấy là cô nói vậy thôi. Đừng có dỗi…
Tôi muốn đi ngay, nhưng lúc đó Loan hạt mít nài nỉ:
- Bê ơi! Bê ơi!!…
Hẳn là nó sợ cảnh bơ vơ giữa đường giữa chợ. Hẳn là nó sợ cảnh màn trời chiếu đất như đêm qua. Nhất là khi không còn một người nào đáng tin cậy như anh Cao ở bên mình. Tôi nghĩ thương Loan và hãi hùng nỗi bơ vơ nên đành xách túi quay lại.
Cô Múi bảo:
- Trông mặt mũi các cháu cũng con nhà tử tế đấy.
Trong bụng cơn uất vẫn trào lên. Tôi muốn nói: “Không phải chỉ là con nhà tử tế mà là con cô giáo Hanh chứ không phải con cô bán cơm hàng cho lái buôn…”. Nhưng tôi đành nuốt nước bọt như nuốt một viên thuốc đắng và lặng thinh bước vào nhà.
Ngày hôm đó cũng như những ngày hôm sau, tôi cùng Loan hạt mít giúp cô Múi quét dọn cửa nhà, lau chùi chén bát, tước măng, nhặt rau, nhổ lông gà lông vit… Để trả công, cô cho chúng tôi ăn ngày ba bữa cơm khá thịnh soạn và cho ngủ trong căn buồng xép sau nhà. Cô Múi sống một mình. Tôi hơi ngạc nhiên vì thường ở tuổi cô, người ta thường ở chung với bố mẹ hoặc với chồng con. Nhưng quan hệ cách biệt giữa chúng tôi không cho phép tôi hỏi điều đó. Duy chỉ có một lần, một người đàn ông tới đem theo chiếc xe máy với chiếc va li căng phồng. Ông ta vào thẳng trong buồng. Cô Múi đưa cho tôi với Loan hai đồng bạc, bảo:
- Cho hai đứa ra chợ mua sim ăn. Tối hãy quay lại.
Chúng tôi trở về đúng sáu giờ tối để đón khách tày xuôi. Người đàn ông kia đã đi. Ngoài ra, chúng tôi không biết gì hơn. Tôi không thể nghĩ cô chủ quán cơm đó lại là người bạn của anh Cao được. Mặc dù cô ta đối với chúng tôi cũng chẳng tồi tệ gì.
Xe đi Cao Bằng cứ ba ngày mới có một chuyến. Nhưng rủi cho chúng tôi, dịp đó đường bị sụt vì lũ, xảy ra tai nạn giao thông nên phòng giao thông yết bảng báo tin các chuyến đi tạm dừng cho tới khi đường sửa xong. Đã sang tới ngày thứ bảy rồi. Tôi nóng ruột sôi gan. Ngày nào tôi cũng ra bến xe thăm hỏi tin tức. Chưa có hy vọng gì cả. Mà mùa thu đã tới từng ngày. Mùa thu ở đây ví như mùa đông ở dưới đồng bằng. Nhất là ban đêm, khí núi lạnh tê tái. Đã mấy lần, Loan giục mua áo rét nhưng tôi chần chừ vì sợ không đủ tiền mua vé và ăn đường lên tới Khậu Phai. Tôi mới mua thêm cho mỗi đứa một bộ áo quần thường nữa. Như vậy số vốn một trăm bảy mươi đồng cũ, cộng với ba mươi đồng anh Cao cho, hụt xuống còn một trăm năm mươi tư đồng. Nếu mua hai chiếc áo bông, mỗi chiếc ba mươi sáu đồng, nó sẽ hụt đi bảy mươi hai đồng nữa. Chúng tôi không thể nào nhịn đói để mua vé đi Cao Bằng rồi từ đó ăn rễ cây, uống nước suối mà lên tới đồn Khậu Phai. Có thể một chàng Thạch Sanh nào đó sẽ làm được điều đó, nhưng chúng tôi thì không. Bởi lẽ, chúng tôi vốn chỉ là dân cày đường nhựa, chưa biết phân biệt cây cà pháo với cây cà độc ra sao. Dầu là một đứa liều lĩnh, ưa mạo hiểm, tôi cũng không thể vượt ra ngoài những khả năng có thực của mình.
Sang ngày thứ tám, trời bỗng nổi gió heo may. Loan hạt mít lạnh quá, sụt sịt khóc. Chính tôi cũng nổi da gà và cảm thấy muốn ốm đến nơi. Tôi đành ra mậu dịch mua hai chiếc áo bông nền xanh chấm đỏ. Mặc hai chiếc áo đó, trông tôi và Loan chẳng khác gì các cô bé ở thị trấn miền sơn cước này. Giá như tôi cắt tóc trước trán nữa thì chúng tôi hoàn toàn khiến mọi người lầm lẫn là những Hoa kiều có gốc rễ lâu năm. Cô Múi khen chúng tôi mặc áo mới đẹp quá. Còn tôi buồn nẫu ruột vì số tiền còn lại không cho phép chúng tôi tiếp tục hành trình. Chẳng lẽ cứ ở đây làm một thứ người ở không công cho co chủ quán cơm phố Khách…
Ngày lại ngày, công việc nhàm chán của quán cơm càng khiến tôi bứt rứt. Cô Múi thì vui thích ra mặt vì từ ngày có chúng tôi giúp việc, cô bán được gấp đôi gấp ba số hàng và tiền lời nhiều lên. Loan vô tư. Nơi nào có tôi, tránh được bộ mặt lãi cai Cân là nó vui thích. Thỉnh thoảng, cô nàng cũng nhớ mẹ sụt sịt khóc một lúc, nhưng những trò vui khác lại làm nó quên đi rất mau. Ở đây cũng không thiếu trò chơi. Đám trẻ con quán ăn có tiền, chúng thường rủ nhau chơi bài, đánh chắn, có đứa mua cả khỉ về làm trò, có đứa dạy được mèo và chó biết đi xe đạp con, làm xiếc…
Loan ham mấy trò vặt đó. Chỉ riêng tôi, tôi tìm cách tháo gỡ khỏi tình cảnh này. Đã có lúc tôi định nói với cô Múi trả tiền công hàng tháng cho chúng tôi, Khi nào có đủ tiền ăn đường, chúng tôi sẽ đi. Nhưng suy đi tính lại, tôi ngượng ngùng không dám nói. Trẻ con trong phố vẫn kiếm được tiền bằng cách lên núi hái sim, trèo ổi, hoặc đun nước bán cho khách đi tàu. Tôi và Loan cũng không thể làm được điều đó vì chúng tôi bị trói buộc với những công việc của cô Múi… Rút cục, tôi thấy mình đang chui vào chiếc sừng trâu. Thế nhưng, vào lúc tôi buồn rầu vì hết hy vọng thì cuộc đời lại đột ngột rẽ sang ngả khác. Thật đúng câu ngạn ngữ của người đời: Cái rủi không báo tin, điều may không gửi dấu.
CHƯƠNG 13 - MỘT ÔNG BỤT GIỮA ĐỜI THƯỜNG
Buổi sớm hôm đó trời lạnh. Tôi thức dậy, mặc tấm áo bông mới mua rồi bắt tay vào việc quét dọn nhà cửa. Cô Múi đang ngủ. Cô tự cho mình quyền được ngủ muộn vì những việc vặt vãnh đã có hai đứa chúng tôi lo. Loan cũng thức dậy sau tôi, mang rổ măng ra tước nhỏ. Món măng chỉ xào với trứng hay thịt bò là món được gọi nhiều nhất trong các bữa ăn. Hai đứa chúng tôi vừa làm vừa trao đổi về vụ xô xát giữa cô Múi và chủ quán bên cạnh đêm qua. Lúc đó, một ông già bận quần áo chàm, đeo tay nải cũng nhuộm chàm bước vào:
- Chà chà cô Múi đâu mà để hai đứa nhỏ trông hàng?
Tôi mau miệng trả lời:
- Cô Múi còn ngủ ạ. Ông muốn ăn bánh hay uống nước? Chưa có cơm đâu. Cô Múi chỉ nấu cơm đón khách chuyến tàu chín giờ rưỡi sáng thôi.
Ông già đặt tay nải xuống ghế, chăm chú nhìn tôi:
- Ông không ăn cơm. Ông chỉ muốn uống một chén trà với ăn cặp bánh mật.
Tôi bỏ chổi xuống, lau tay, rót nước cho ông. Sau đó tôi gỡ một cặp bánh mật trên dây treo cạnh bức tường, bóc đặt lên đĩa đem tới trước mặt ông:
- Bánh mới lấy chiều hôm qua, còn dẻo lắm ông ạ.
Ông gật đầu tỏ ý hài lòng. Ông ăn bánh chậm rãi, uống từng ngụm trà nhỏ rồi cất tiếng nhẹ nhàng hỏi:
- Cháu này… Ông mới tới đây tháng trước, quán chỉ có một mình A Múi. Hai cháu vừa ở dưới xuôi lên chăng?
- Thưa ông, vâng – Loan đáp – Chúng cháu không định lên đây đâu. Chúng cháu định lên đồn Khậu Phai, xa hơn Cao Bằng gần một trăm cây số nữa. Nhưng chúng cháu bị mất cắp hết quần áo, đồ đạc, không đủ tiền nên đành ở lại đây.
- Đồn Khậu Phai – ông già trầm ngâm nhắc lại, hai hàng lông mày rậm và trắng như cước nhíu lại – Các cháu lên đó làm gì?
- Lên thăm chú Tùng, bố của bạn Bê – Loan giơ tay chỉ vào tôi – Chú Tùng là đại uý, trưởng đồn biên phòng Khậu Phai. Ông đã lên tới trên đó bao giờ chưa?…
- Chưa. Ông chưa lên đó…
Ông già lắc đầu. Rồi sau khi ăn xong cặp bánh mật, uống cạn chén trà, ông hỏi:
- Các cháu có họ hàng với cô Múi không?
- Thưa ông, không.
- Các cháu làm ở đây mỗi tháng được bao nhiêu tiền công?
- Thưa ông, cô Múi chỉ nuôi chúng cháu ăn và cho ngủ nhờ thôi.
- Hả? Hả?…
Ông già nhướng cặp mày trắng lên hỏi. Rồi không chờ chúng tôi trả lời, ông lão lần trong túi áo chàm, lấy ra một gói thuốc lào, vê thuốc nạp vào nõ, châm lửa hút. Khói thuốc ông phả ra làm quán trắng mịt mờ. Lúc đó, cô Múi đã trở dậy. Cô ra bề nước sau nhà, súc miệng ùng ục.
Ông già nhìn chúng tôi hiền từ, chậm rãi nói:
- Ông chưa lên Khậu Phai bao giờ, nhưng ông có đứa cháu là lính biên phòng đóng ở gần đó. Khậu Phai, Khậu Phát, Nường Le, Phìa Khoảng là một dãy những đồn biên phòng ở trên vùng đá cheo leo. Các cháu không thể tự tìm lên đó được. Mà ở đây làm nười ở không công cho cô Múi bán cơm cũng chẳng hay. Ông chỉ có một mình thôi. Nhìn mặt các cháu sáng như gương, ăn nói lễ phép, ông thương lắm. Về ở với ông đi. Ba ông cháu mình sẽ cùng làm nương, cùng săn thú, cùng ăn con cá bắt dưới suối lên. Ông sẽ viết thư gọi thằng cháu của ông về phép. Khi nào đi, nó sẽ dẫn các cháu đi cùng. Nào, các cháu có bằng lòng không?
Tôi nhìn Loan. Loan nhìn tôi. Cả hai chúng tôi đều tin cậy ông già ngay từ phút đầu gặp gỡ và cùng cảm thấy sung sướng đến bàng hoàng khi nghe ông nói những lời giản dị dịu dàng như thế. Cô Múi dưới sân đi lên, khăn mặt vắt trên vai. Ông già bắt đầu nói với cô ý định của ông. Chúng tôi im lặng chờ đợi. Dẫu sao chúng tôi đi, cô Múi cũng mất một món hời, tôi nghĩ thế. Nhưng tôi không ngờ, cô lại đỏ bừng mặt lên, nói sa sả:
- Không được, không được, anh Cao giao chúng nó cho tôi trông nom mà. Bao giờ anh Cao về, tôi mới trả.
Ông già gõ gõ ngón tay lên mặt bàn nước:
- Trông nom gì mà hai đứa phải làm từ tinh mơ, còn cô rúc trong chăn ngủ cho đẫy mắt. Tháng tháng, không cho trẻ lấy vài chục bạc cầm tay. Trông nom trẻ như vậy cũng gần giống địa chủ trông nom tá điền đấy…
Cô Múi đứng sững, nghẹn họng không nói được nữa. Nhưng gương mặt đỏ tía của cô chứng tỏ cô căm uất ông già tới bầm ruột bầm gan. Ông già nghiêm nghị nhìn tôi và Loan, nói như ra lệnh:
- Hai cháu thu xếp quần áo, đi thôi…
Những ngày tháng ở với người đời đã dạy tôi khôn lớn. Như con chồn, con cáo đánh hơi thấy mồi, tôi cũng nhận biết được khá chính xác ai là người tốt, ai là kẻ bất lương. Nhìn cặp mắt ông già, tôi biết ông là một cây đại thụ vững vàng mà tôi có thể tựa vào trong cuộc đời phía trước. Tôi đứng lên, bỏ cây chổi quét nhà ra sân sau, thu dọn đồ vật, gấp quần áo cho vào chiếc túi ngày xưa chúg tô dùng làm túi đựng đồ ăn khi bước vào cuộc hành trình. Chỉ vẻn vẹn hai bộ quần áo. Còn hai bộ mới mua, chúng tôi đã mặc lên người, cùng với tấm áo bông. Số tiền nằm trong cái túi con khâu dính với lưng quần. Chúng tôi bước tới trước mặt cô chủ quán cơm:
- Chúng cháu xin phép cô ạ. Chúng cháu chào cô ạ…
Dẫu sao, tôi cũng muốn coi cô như một ân nhân, mặc dù cô chỉ làm cái việc có lợi cho túi tiền của cô.
Cô Múi không trả lời, mặt hầm hầm đầy sát khí. Tôi nhẫn nại chào cô lần thứ hai. Lần này cô đành miễn cưỡng gật đầu. Ông già trả tiền chén nước trà với cặp bánh mật rồi khoác tay nải lên vai:
- Nào đi
Chúng tôi ra khỏi khu quán cơm, thẳng đường bước vào phố. Những cây đèn lồng lụa đỏ cũ kỹ, những ông phỗng xanh đỏ đầy bụi trông mới mẻ, rực rỡ hẳn lên trong mắt tôi. Cả những chiếc lá bàng đỏ úa rời khỏi cành đang nhào lộn trên không trung cũng như lời chào đón. Tôi thầm nghĩ: “Cuối cùng, mình sẽ gặp những điều may mắn, những con người nhân ái, giàu tình thương”.
Ông già đi rất nhanh. Cứ vài chục bước, ông lại dừng để đợi chúng tôi:
- Ông đưa các cháu vào chợ chơi. Quá trưa ta về bản. Hôm nay là ngày chợ phiên. Trai gái hát vui lắm đấy.
Tiếng là ở phố Lạng đã lâu nhưng chúng tôi bận phục vụ quán cơm của cô Múi nên chưa biết chợ phiên vùng núi ra sao. Nghe ông già nói vậy, tôi thú lắm. Loan nhảy cẫng lên như đứa bé lên ba. Ông già hỏi tên tuổi từng đứa. Chúng tôi lần lượt kể chuyện mình, không hề giấu giếm. Ngay cả món tiền nhỏ bé khâu ở lưng quần chưa bao giờ cho cô Múi biết, tôi cũng đưa cho ông. Ông già cười, xoa đầu tôi:
- Khổ thân con bé. Từng này tiền làm sao đủ mua bánh tét ăn mà đòi lên tận Khậu Phai.
Ông bỏ món tiền còm đó vào túi. Tới lúc vào chợ phiên, ông tiêu hết một món tiền lớn gấp ba số tiền chúng tôi dành dụm. Thoạt tiên, ông đưa hai đứa vào hàng phở chua nổi tiếng của người Hoa. Sau đó lại sang hàng bánh bao nhân xá xíu ăn mỗi người một chiếc lớn. Rồi ông dắt chúng tôi vào chợ chơi. Trai gái người các dân tộc thổi khèn, lượn lờ từng đôi một, hát đối đáp như kiểu hát quan họ, hát ghẹo vùng Bắc Ninh và Vĩnh Phú. Nhưng điệu hát của họ trầm buồn, đều đều, lại khác ngôn ngữ nên chúng tôi không hiểu. Ông già đưa chúng tôi tới dãy hàng bán thắng cố. Hàng chục chiếc chảo gang to tướng, nước đầy tới miệng, luôn luôn sôi sùng sục. Bên trong là những tảng thịt trâu, thịt ngựa, thịt bò thi nhau nhào lộn, váng mỡ lẫn bọt huyết nổi từng đám lềnh bềng. Ông già bảo:
- Dưới lớp thịt ninh kia có các loại xương nữa đấy. Phải có xương nước mới ngọt.
Những người dân miền núi tới chợ ngồi sụp xuống quanh chảo thắng cố. Nước sôi lục bục, khói tỏa nghi ngút. Người bán vớt thịt, xẻo một miếng, múc một bát nước đưa cho người mua. Người mua sì sụp húp nước, cắn thịt nhai ngon lành. Nhưng tôi ngửi mùi mỡ bò bay lên gây gây thì sợ hãi. Tôi nói với ông già:
- Cháu không biết ăn thứ này đâu.
Ông nhìn tôi, cười:
- Chính ông cũng không biết ăn. Cháu đừng sợ ông ép.

Ông dẫn chúng tôi đi một lượt qua những hàng bán hồng, bán bưởi, bán trám, hạt dẻ, củ mỡ, khoai sọ, nấm hương, mộc nhĩ… Lại tới một hàng bán thịt nhuộm hoa hòe đỏ chót lẫn những mảnh tiết đen thái nhỏ. Người ta gọi đó là món ngầu pín. Toàn đàn ông ngồi ăn. Họ ngồi uống rượu từng bát. Tôi hỏi ông già có ăn hay không. Ông cũng lắc đầu. Lòng đầy thắc mắc, tôi hỏi:
- Ông ơi, sao là người vùng này mà ông lại không biết ăn mấy món đó?
Ông già cười:
- Cháu có biết tên ông là gì không?... Ông tên là Mộc. Thời trẻ ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, theo ông chú làm thợ mộc đi lang thang khắp vùng kiếm ăn. Người ta gọi ông là anh thợ mộc. Gọi mãi đến quen miệng, quên cả tê cha mẹ đặt cho. Ông ở trên này, lấy vợ người Nùng. Bà xinh xắn lắm, dệt vải giỏi nhất bản. Ông với bà có hai đứa con. Hai năm sau chiến dịch biên giới, Tây càn giết sạch dân bản. Ông đang săn thú trong rừng nên thoát chết. Từ đó, ông cứ ở một mình, không lấy ai nữa. Từ ngày hòa bình, ông cũng chưa về thăm quê. Quê ông ở Kẻ Sặt. Chắc các cháu cũng chưa tới đó bao giờ?...
Tôi thú nhận:
- Vâng. Cháu chưa lần nào được ra khỏi thị trấn quê hương. Xa nhất cũng chỉ là quê ngoại, cách thị trấn mười lăm cây số.
Ông già Mộc nói tiếp:
- Ở vùng này lâu nhưng ông vẫn không quen được với nhiều món ăn của dân địa phương. Đặc biệt là món thắng cố và ngầu pín. Còn thịt thú rừng biết làm thì ngon lắm. Khi nào săn được, ông sẽ nấu nướng cho các cháu ăn.
Ông dắt chúng tôi dạo qua dãy hàng xén, mua kim chỉ, rất nhiều chỉ màu, phấn viết bảng, giấy viết và bút mực. Ông còn mua cả hai chiếc khung thêu bằng nhôm tròn. Ông mua cả một lô những chiếc vòng đeo tay đủ màu sắc. tôi kinh ngạc hỏi:
- Ông mua đem về bản bán lại hay sao?
Ông cười:
- Ờ, bán lại cho hai cháu.
Ông mua cho chúng tôi hai bộ quần áo hoa nữa, tuy đường may vụng nhưng vải láng rất dày và mịn. Sau đó, ông đưa chúng tôi sang dãy hàng bán cá mắm, mắm tôm, nước mắm khô, cá tép khô… Ông mua mỗi thứ một cân, đựng đầy cái bị cói mà ông rút trong tay nải ra. Đến lúc này, tôi mới hết ngỡ ngàng. Ông già Mộc đích thực là một nông dân vùng đồng bằng. Dẫu đã xa quê mấy chục năm ròng, ông vẫn không thể quên những món ăn quen của thời thơ ấu.
- Nào, hai đứa còn muốn ăn gì nữa không?
Ông hỏi chúng tôi khi đã ra khỏi khu chợ ồn ào, lấm bụi.
- Không, không, chúng cháu no căng bụng rồi ạ.
Tôi vội vã trả lời. Tuy vậy, ông vẫn đưa chúng tôi vào cửa hàng giải khát, gọi nước bát bảo lường xà uống rồi mới lên đường về bản.
- Ông ở có xa không ông?... Đi bộ mấy giờ thì đến nhà – Loan hạt mít hỏi.
- Cũng không xa lắm. nhưng đối với đôi chân của hai cháu thì khá xa đấy. Mình cứ đi chầm chậm thôi. Tới đâu mệ, ta lại nghỉ. Chưa về đến nhà ngay thì ta ngủ nhà bạn. Ông có vô khối bạn bè ở các bản dọc đường.
Tôi cau mày mắng Loan:
- Chưa chi đã ngại xa… Đáng lẽ đằng ấy cứ ngồi bán quán cơm như cô Múi là tốt hơn cả.
Ông già Mộc sợ Loan dỗi nên vội vã gạt đi:
- Ái chà, đừng nói bạn như thế, Loan nó hỏi cho biết đường thôi. Nào, đi đi. Hết đoạn phố này, ông cháu ta sẽ rẽ xuống đường tắt. Đúng trưa, nắng gay gắt. Trời lạ im gió nên chúng tôi đã cởi hết áo bông mà vẫn còn thấy nóng. Thời tiết ở miền núi thay đổi như một kẻ trái tính trái nết. Tuy vậy, tôi vẫn bước phăng phăng. Núi non như gần lại phía trước. Đường chân trời cũng trở nên thoáng đãng, thân thuộc. Những con đường mòn quanh co, uốn lượn qua các sườn non, vắt qua những thung lũng sâu trông như dải lụa mềm. Cảnh trí tươi đẹp quá, khi ta có một người để thương yêu, để tin cậy. Ông già Mộc gánh gánh đồ nặng trĩu đi phía trước chúng tôi. Những bước chân ông rắn rỏi, đều đặn, không có một chút cố gắng nào. Tôi bỗng hình dung rõ ràng, ông là ông bụt hiện lên với cô Tấm trong truyện cổ. Ôi, thật kỳ diệu khi ta bỗng bắt gặp những ông bụt sống cùng ta trên mặt đất, giữa cây cỏ, dưới ánh mặt trời. Những ông bụt hiền lành, bình dị của đời thường.
CHƯƠNG 14 - NHỮNG NGÀY THẦN TIÊN
Tôi muốn kể lại quãng đường ông già Mộc đưa tôi từ phố Lạng về bản Muốn, những con suối tôi đã đi qua, những vòi nước phun từ kẽ đá mát lạnh và trong suốt, những con bướm to lớn kỳ dị chưa bao giờ tôi gặp trong đời… nhưng như vậy thì sẽ tốn vô khối trang giấu và thời giờ của các bạn. Tôi chỉ nói về quãng đời thần tiên tôi đã sống với ông già ở bản Muốn.Một bản nhỏ, nép mình trong thung lũng, bốn bề núi non vây bọc, nhưng xinh đẹp và thú vị đúng với cái tên của nó. Ai chưa đến đó thì muốn đến. Ai đã ở đó thì chẳng muốn đi. Cả bản có trên hai chục nóc nhà. Nhà nọ cách nhà kia chừng vài trăm thước, người ở bản gọi là cách nhau vài quăng dao. Nhưng đứng ở sàn trước nhà này nói với sang sàn trước nhà kia vẫn cứ nghe thấy. có lẽ không gian ở đây tĩnh lặng và mỗi âm thanh đều được các vách núi ném vọng lên gấp ba lần. Nhà ở bản Muốn toàn là nhà sàn kiên cố, dựng bởi hàng chục cây cột lớn, tầm cao mỗi cây cột đúng bằng hai chiều cao từ mặt đất lên tới nóc đình dưới vùng xuôi. Đi trong nhà, người chỉ thấp chưa đầy góc cột. Có thể dựng gỗ cưa xẻ, đóng đồ mộc ngay trong nhà. Sàn nhà lát gỗ tấm dày. Trước nhà, nối tiếp với cầu thang chính là sân ken bằng gỗ cây hoặc gỗ tấm, rộng chừng ba bốn chiếc chiếu. Sân sau nhà hẹp chừng non một thước, nối với cầu thang phụ, thường là nơi kê chum đựng nước, sắn mới dỡ ngoài nương về, củi khô sắp sẵn để tiện rút vào bếp đun. Gian dùng làm bếp đun kế với cầu thang phụ. Một gác gỗ chạy lưng chừng gian để chất các bồ đựng thóc nếp, thóc tẻ, khoai sắn khô cho lợn, ngô đậu và các thứ giống. Chính giữa sàn thường có một ô vuông khuôn bằng sắt hoặc đắp bằng đất ngăn cho lửa khỏi cháy lan ra gỗ sàn. Suốt mùa thu và mùa đông, những thân củi lớn dài chừng hai thước, châu đầu trên khuôn bếp. Ngọn lửa cháy không ngưng nghỉ, khi bùng lên rực rỡ, khi âm ỉ leo lét quanh các đốm than hồng. Bất cứ lúc nào người ta cũng có thể nướng khoai, nướng sắn, rang bỏng nếp hoặc bày những trò nấu ăn khác trên cái bếp lửa cháy trường kỳ đó. Đi qua gian bếp tới gian chính, nối lên sân trước và cầu thang lớn. Gian chính có khi rộng bằng cả năm gian nhà dưới xuôi cộng lại. Lần đầu tiên bước lên, tôi và Loan cứ ngỡ ngàng đi hết đầu nọ tới đầu kia, tưởng như mình lạc vào cái cung điện bằng gỗ của một bộ lạc nào đó còn sót lại. Phía bên trái gian nhà chính là một dãy bốn căn buồng nhỏ, có cửa gỗ dày, khép kín đáo. Ông già Mộc bảo những gian đó là để cho đàn bà, con gái trong nhà. Từ khi vợ và các con ông bị giặc Pháp giết, ông vẫn giữ nguyên chăn nệm, gối màn trong mỗi ngăn. Cứ đến mùa hè ông đem ra suối phơi giặt. Khi đưa tôi và Loan về, ông cũng đem những tấm nệm, những tấm chăn thêu ra trước sân phơi nắng, đập bụi. Chúng bốc lên mùi nấm mốc. Tôi nhìn gương mặt rắn rỏi như tạc bằng đá của ông già Mộc, biết rằng ông đã từng đau khổ và cô đơn, rằng ông thương chúng tôi bằng tình thương chân thực và bằng trái tim khao khát yêu thương của một ông già đơn chiếc. Sau khi đun nước nóng cho chúng tôi tắm giặt, ông bảo chúng tôi giũ nệm trải trong các ngăn buồng. Ông gọi một ông già rậm râu bên nhà tới. Ông nói một tràng tiếng Nùng. Lát sau, ông già rậm râu về lấy một con dao nhọn sáng loáng. Tôi trông thấy đã sởn gai ốc. Muốn gì đây cũng là xứ lạ. Chúng tôi không khỏi còn chút hồ nghi. Ông già Mộc với ông già rậm râu nói với nhau vài câu, chỉ trỏ đám lợn đang chạy lông nhông dưới sàn. Sau đó hình như họ thỏa thuận với nhau nên gật đầu một cách hỉ hả và cùng chạy xuống cầu thang phụ. Người hò, người hét, cuối cùng hai ông cũng túm được một con lợn lang cỡ bốn năm chục cân. Té ra, ông già Mộc gọi ông già rậm râu tới nhờ thịt lợn. Bấy giờ chúng tôi mới hoàn hồn.
Tôi không ngờ ông già Mộc đón chúng tôi thịnh soạn và trịnh trọng như thế. Hôm đó, ông thịt lợn, giã giò nạc, giò mỡ, làm lòng theo đúng kiểu miền xuôi. Còn thủ lợn và bốn chân giò, ông đem luộc lên bày tất cả vào một chiếc nông nhỏ, giống như chiếc mẹt dưới xuôi, đan bằng tre cật sợi tâm vàng óng.
Lặn mặt trời, ông đứng trước sân, khum tay che miệng làm loa hú gọi những người thân trong bản. người đầu tiên nghe tiếng hú của ông là một bà nạ dòng mặc áo dài nhuộm chàm, thắt lưng chàm bỏ múi. Bà lại đứng quay mặt về hướng núi hú gọi người khác. Người nọ gọi người kia theo kiểu dây chuyền. Cứ như thế chừng non nửa tiếng đồng hồ, thung lũng vang đầy những tiếng hú bổng trâm, cao thấp. Rồi người nọ theo người kia lục tục kéo đến. tôi rất ngạc nhiên vì người nào cũng đem theo một bó nứa rất dài. Ông già Mộc giải thích đó là bó đuốc. Đi chơi buổi chiều phải đem theo đuốc để soi đường lúc trở về. Người khách nào tới cũng ra cầu thang phụ rửa chân. Nước ở đây giống như vòi nước máy ở thành phố. Nhưng nó không chảy trong các ống thép mà chảy qua các ống nứa dài, ống nọ nối ống kia bắc ngang lưng núi, ăn sâu mãi tới đầu nguồn suối. Sau khi rửa sạch chân, khách bỏ dép dưới cầu thang, đi chân đất vào nhà, qua gian bếp, gian chính mà tới sân trước. Ông già Mộc bảo: “Khách thân tình được đi cửa sau, khách lạ, khách quý đi cửa trước”. Khi khách khứa đã xếp chân ngồi thành vòng tròn, ông già Mộc xoa tay nói:
- Hôm nay, tôi gặp hai đứa cháu dưới xuôi lên chơi. Tôi thịt con lợn mời bà con bản tới ăn mừng. miếng xôi người đàn ông không vụng, miếng thịt người già nướng không ngon, nhưng trong bụng vui, mời bà con uống rượu.
Nói xong tiếng Kinh, ông lại dịch sang tiếng Nùng. Đám dân bản nhìn chúng tôi, người gật gù, người cười cười, người đưa tay vuốt tóc hoặc nắm tay hai đứa. Tự nhiên biến thành một nhân vật trung tâm được mọi người chú ý, tôi ngượng đỏ mặt. Loan hạt mít tự nhiên hơn tôi. Nó cứ tít mắt lại mà cười. Trong đám dân bản, bà nạ dòng mặc áo dài chàm biết tiếng Kinh khá sỏi. Bà ta quay sang nói dồn dập:
- Ôi dà, các cháu xinh đấy, trông các cháu ngoan đấy. Bao nhiêu tuổi rồi?... Á à…mười ba tuổi mà to vậy?... Lên ở bản Muốn là đẹp gái ra nhiều lắm đấy. Da hồng như cánh hoa đào. Rồi không muốn về dưới xuôi nữa đâu…
Chờ cho bà hết bài diễn thuyết lộn xộn và nồng nhiệt đó, ông già Mộc bưng hũ rượu rót vào từng chén. Ông có mười hai chiếc chén sứ Giang Tây rất đẹp. Không hiểu sao, bao nhiêu năm chiến tranh, qua những lần chạy giặc khổ sở như vậy mà ông vẫn giữ được nguyên vẹn những thứ của dễ vỡ đó?...
- Nào chúc hai cháu mạnh giỏi, ngoan ngoãn… Chúc bà con khỏe, cứng cáp chân tay, săn thú thú chết gieo lúa nương lúa nương đầy giàn.
Ông già Mộc bưng chén rượu chúc. Những người khác cũng lần lượt chúc theo. Bữa ăn bắt đầu. Ba con dao nhỏ sắc lẻm đặt ba góc. Thịt nướng, thịt luộc, lòng lợn để nguyên trên từng chiếc nống xinh xắn, sạch sẽ. Ai ưng ăn miếng nào, cầm dao xẻo miếng nấy. Thoạt tiên, mọi người còn nói chuyện. Tới nửa chừng bữa ăn, rượu ngà ngà, ông già Mộc vào trong nhà lấy ra một cây đàn tính. Ông rậm râu lúc nãy cầm dao giết lợn trông thành thạo như một ông hàng thịt chính công, bây giờ cầm cây đàn tính gẩy. Cặp mắt đen của ông trở nên dại dại, hiền từ.
- Tính tính tinh… tang tình tình tang tính…
Âm điệu réo rắt của cây đàn hòa lẫn tiếng hát trầm đục, hòa lẫn tiếng suối reo xa xa vọng tới và tiếc nước chảy róc rách trong các ông dẫn nước thành bản nhạc lạ lùng, không bao giờ có thể quên. Đệm vào giai điệu đó là tiếng chày giã gạo ở các cối nước thì thụp đều đặn, khiến tôi tưởng như thời gian ở đây dài dằng dặc một năm bằng một thế kỷ ở vùng đồng bằng.
Mặt trời đã lặn từ lâu. Thoạt tiên còn nhìn rõ lờ mờ mặt người. Sau chỉ thấy những bóng đen ngồi đối diện hoặc cạnh ta. Mọi người say hát, không ăn và uống rượu nữa. họ cứ hát hết bài này sang bài khác. Những giai điệu không khác nhau là bao. Dân ca vùng này khác hẳn những bài quan họ dưới quê tôi, nó buồn, lặng lặng như cảnh núi non tĩnh mịch vậy. Khi đất trời đã tối đen như mực tàu, ngôi sao bạc nhỏ lấp láy trên đỉnh núi, ông già Mộc mới vào nhà lấy cây đèn ba dây lên thắp. Ánh sáng khiến đám người đang mê mẩn vì những bài ca kia bừng tỉnh lại. họ tiếp tục trao đổi những câu chuyện, tiếp tục uống rượu, ăn thịt, và cười khe khẽ mỗi khi ông già Mộc pha trò. Người bản thường ít cười. nếu không có ông già Mộc, hẳn suốt bữa ăn họ chỉ lầm rầm hoặc hát như vậy. Ngọn đèn ba dây sáng lay động một khoảng rộng. Ngoài xa, núi non chập chùng đen thẳm. Tiếng kêu của những con vật, chắc con hoẵng hoặc nai, tôi đoán vậy vì nó giống như tiếng kêu của con nai, con hoẵng tôi đã được xem phim vọng tới. Bữa ăn đêm vùng núi đượm một vẻ kỳ dị khiến tôi thú vị. Tôi hít thở khí trời mát lạnh hơi sương, tìm một góc vắng nằm dài, ngắm những vì sao li ti gắn trên trời. Khuya lắm, bữa tiệc mới tan. Mọi người lục tục đốt đuốc ra về. Đứng trên sàn nhìn xuống, trông như có một con rắn lửa lượn giữa thung lũng.
- Nhìn kìa, đẹp chưa?...
Tôi kêu lên, chỉ cho Loan hạt mít. Nó đứng sát vào tôi, khẽ nói:
- Ờ thú thật. Thú vị thật. trong phim cũng chưa thấy cảnh này đấy nhé.
Chúng tôi đứng ngắm những đốm lửa một lúc lâu cho tới khi chúng tan tác đi nhiều ngả, khuất sau những vườn bưởi, vườn dâu gia, những nếp nhà sàn, mới vào nhà.
- Nào các cháu, giúp ông một tay nhé – ông già Mộc gọi.

Từ lúc chúng tôi đặt chân lên sàn, ông không cho chúng tôi mó tay vào một việc gì thuộc về bếp núc. Tới lúc ông cất tiếng gọi, tôi nhanh nhẹn đáp:
- Vâng. Chúng cháu đi rửa bát chén, ông nhé.
- Không đâu, không đâu… - ông già Mộc lắc đầu – Bát chén mai rửa nước nóng. Giờ ông cháu ta làm thịt cho tươi.
- Vâng. Các món thịt cháu vẫn biết làm.
Tôi đáp lời, xắn tay áo chuẩn bị thái thịt để kho hoặc làm ruốc bông theo kiểu miền xuôi. Nhưng ông già Mộc lại lắc đầu:
- Không phải vậy.
Ông gọi tôi:
- Cháu lại đây. Cứ mỗi lần ông bảo, cháu lại rắc một bát muối vào cối, rắc từ từ và thật đều.
Rồi ông gọi Loan:
- Cháu nhặt thịt ném vào cối cho ông. Khi nào ông bảo thôi thì ngừng tay lại.
Chúng tôi đi theo ông vào gian bếp, chờ đợi. ông vần ra một chiếc cối đá to như chiếc cối chìm giã gạo dưới đồng bằng, nhưng rất cao và dày. Chày giã dài hơn một thước. Đặt cối đặt chày xong, ông bưng ra chiếc thúng lớn đựng thịt lợn đầy tới cạp. Những miếng thịt đã pha sẵn, đều tăm tắp, miếng nào cũng nặng chừng năm sáu lạng. Rồi ông lại lấy ra một chiếc sọt tre đáy nhỏ, miệng rộng, tựa hình cái chum và một ôm rơm mới thơm mùi nắng. Sau đó ông bảo Loan cầm từng tảng thịt ném vào cối, tôi thì rắc muối lên. Ông vừa giã vừa đảo cho những hạt muối sắc cắm sâu vào thớ thịt. Hết mặt nọ, lật mặt kia. Khi những tảng thịt đã thấm muối, ông xếp ra sọt. Đáy sọt lót rơm. Thịt xếp xong một lượt lại ém rơm lên lượt nữa. Hết thúng thịt thì đống rơm to tướng cũng sạch trơn. Chiếc sọt tre đầy thịt tới tận ngọn. Ông già Mộc bưng sọt thịt muối đặt nơi thoáng gió:
- Cứ thế này, ông cháu ta có thể ăn thịt luôn trong hai ba tháng mà vẫn tươi ngon.
Xong việc, chúng tôi rửa mặt rửa tay chân bằng nước nóng rồi đi ngủ. Tôi với Loan nằm cùng một ngăn buồng, trên đắp chăn, dưới trải nệm. Cả hai đưa đều bâng khuâng, trăn trở vì thấy cuộc sống của mình biến động không thể nào lường trước. Nỗi vui, nỗi buồn, lòng mong nhớ, sự thắc thỏm xáo trộn trong lòng. Nhưng khoảnh khắc đó cũng chỉ kéo dài được năm mười phút. Rồi chúng tôi ôm nhau ngủ.
Hôm sau, mặt trời lên khỏi núi tôi mới tỉnh dậy. Loan vẫn còn ngủ say. Má nó đỏ hồng. tôi để cho bạn ngủ, lặng lẽ bước ra ngoài buồng.
- Lại đây uống nước cho ấm bụng.
Ông già Mộc gọi. Ông ngồi bên bếp, uống trà. Tôi nhìn chạn bát đã thấy bát chén rửa sạch, úp từng hàng, từng lối. Trên bếp, chõ xôi đang bốc hơi thơm lựng. Ông già Mộc đưa cho tôi chiếc ấm đồng to bằng cả chiếc gầu múc nước, bảo:
- Nước nóng đó, rửa mặt đi.
Tôi ra cầu thang sau, hứng nước lạnh giá chảy long tong từ ông mương vào thau, rồi pha nước nóng trong ấm để rửa mặt. Rửa nước nóng khi khí trời tê tê lạnh thật thú vị. Tôi vào bếp, trách ông già Mộc không gọi tôi dậy sớm rửa bát chén, thu dọn nhà cửa. Ông bảo:
- Cháu ngoan đấy. Nhưng ông ít ngủ, ông làm cho vui tay vui chân. Các cháu đang tuổi no ăn no ngủ mà không được phỉ sức thì ốm người đi… Nào, ngồi đây uống nước với ông, chờ bạn dậy rồi ăn xôi sáng.
Tôi hỏi:
- Mặt trời lên khỏi núi, sao ông không phải đi nương?
Ông già cười:
- Ông có một mình, nuôi lợn, nuôi bò, làm đồ mộc cũng chưa tiêu hết tiền, đi nương nhiều làm gì nữa?... Đó, cháu nhìn đàn bò của ông xem…
Ông chỉ xuống khe sàn. Dưới chuồng thênh thang có tới mười lăm con bò. Còn lợn thì khoảng ba chục chú. Gà lớn, nhỏ đậu tựng bầy trên các thanh ván gác ngang, cao thấp khác nhau. Có hơn mười chiếc ổ rơm treo giáp vách gỗ quây chuồng. Quả thực, so với người nông dân miền xuôi, gia tài của ông già quá đồ sộ. Tuy nhiên, mùi phân bò, phân lợn, mùi nước tiểu khai nồng từ dưới sàn bốc lên khiến tôi khó chịu. Nhất là buổi sớm, khi gió thung lũng chưa tới lùa đám hơi lưu cữu hôi hám đó đi. Tôi hỏi:
- Sao ông không làm chuồng nuôi bò, nuôi lợn, gà riêng? Ở thế này mùi khó chịu lắm. Ở lâu sinh bệnh ra đấy.
Tôi định nói ở thế này mất vệ sinh, nhưng sợ ông giận nên đành nói trệch đi như vậy. Ông già Mộc gật đầu:
- Ông biết chứ. Dưới xuôi, mình có làm chuông bò bên dưới nhà ở đâu… Ông đang vận động bà con trong bản làm chuồng bò, chuồng lợn riêng. Nhưng phải dần dần. Không mỗi lúc mà thay đổi được. Bà con ở đây quen ở như bây giờ. Họ bảo người ở trên, bò lợn ở dưới thì hổ sợ hơi người không dám tới bắt bò bắt lợn. Làm chuồng riêng, hổ về khênh đi hết. Ông học tập trên huyện về gần một năm nay mà đã ăn thua đâu. Bữa trước, bà Kín (tôi biết là bà nạ dòng mặc áo dài nhuộm chàm sang ăn cơm tối qua) vừa làm chuồng bò nhốt riêng hôm trước, hôm sau con cọp thọt về tha con bò cái chửa đi mất. Ai nấy sợ hãi bỏ cả. Giờ chỉ còn mình ông cương quyết quây chuồng bò, chuồng lợn riêng. Cháu có thấy đám gỗ dựng giáp sàn sau không?… Đó là gỗ cọc chuồng. Nhưng còn thiếu nhiều gỗ ván lắm.
- Ô, ông yên trí, cháu sẽ giúp ông lấy gỗ làm chuồng bò. Cháu khỏe không kém con trai đâu, ông ạ. Ở nhà cháu vẫn vật nhau với tụi chúng nó đấy…
Tôi hăng hái xắn tay áo lên.
Ông già Mộc nhìn tôi, hấp háy cười, ánh lửa trong mắt ông vui như đang nhảy múa:
- Ô, cháu ngoan quá. Cháu chỉ nói thế là ông ấm lòng, đủ sức vác gỗ về làm chuồng bò rồi… - Ông cầm cánh tay tôi, lăc lắc – Tay này phải tốn năm gian nhà thóc, ba gian nhà thịt mới vác nổi gỗ rừng… Cháu nghe chưa?...
Lúc đó Loan hạt mít lò dò từ trong buồng bước ra. Tôi giục nó đánh răng, rửa mặt để còn ăn xôi sáng. Tôi đói bụng rồi. Quái lạ, hình như ở trên này dạ dày tiêu nhanh gấp đôi dưới phố. Tôi chưa bao giờ thấy mình ăn khỏe và háu ăn như thế.
Ăn xong, ông già Mộc bảo chúng tôi cùng lên nương dỡ sắn. Chúng tôi tưởng dỡ sắn về nấu ăn nhưng ông bảo sắn ở đây chỉ nấu cho lợn. Năm nào, không may mất mùa, người bản mới ăn độn sắn vào nếp hông xôi. Từ nhà lên nương đường không dài, nhưng phải leo dốc khá cheo leo. Chúng tôi cứ bám theo gót ông già mà đi. Dọc đường, ông chỉ cho chúng tôi những nguồn nước trong suốt vọt từ kẽ đá ra. Người bản kê ống nứa vào hứng. Mỗi nhà tìm một nguồn nước. Cụm nhà nào gần nhau thì bắc chung ống máng dài. Dòng suối chảy qua phía bắc thung lũng rất xiết nên đặt được hơn mười chiếc cối giã gạo. Gạo trong các cối trắng muốt. gạo nhà ai nhà nấy tới lấy. Không được trộm của ai. Thảng hoặc nếu có kẻ cắp thì đó chỉ là những con chuột núi lông xù dạn dĩ to bằng con mèo nhỏ. Chúng đã quen với cối nước nên bò tới, thò mõm vục ăn gạo ngay khi chày vẫn thùm thụp nện xuống chạm cả vào râu. Những con chuột đó là những tên trộm không tòa án nào xử được. Chúng quá tinh ranh. Dẫu có gài bẫy cũng đố ai bắt được. Dọc theo dòng suối, giữa các cối gạo nước thường có những cây cổ thụ hoặc những mái lều con, người bản làm để trú nắng mưa khi lên nương hoặc đi đường. Từ trên cao nhìn xuống, chúng giống như những hộp diêm xinh xắn. Phía dưới các cối giã gạo, nơi dòng suối đã trở nên hiền hòa, nước mỏng và tràn lên bái sỏi phẳng lì thì không còn những cây đại thụ mà chỉ có rau cải xanh um ven bãi và những đám hoa rừng đủ màu sắc nở trong các búi cỏ dại. Mặc dù mặt trời lên cao, sương đọng trong các đám cỏ vẫn chưa tan hết, chúng phản chiếu ánh nắng như những hạt thủy tinh. Sơn ca núi từ lưng chừng trời đâm nhào xuống cỏ, rồi lại từ những búi cỏ xanh rờn bay vút lên, buông tiếng hót vang lừng.
Tôi đứng trên nương lau mồ hôi, cùng Loan ngắm nhìn cảnh núi non, lắng nghe chim hót và thấy lòng lâng lâng như đang chắp cánh bay lượn. Tôi ước chi mình được là con chim kia, suốt tháng năm bay lượn dưới ánh nắng rực rỡ, giữa khoảng không xanh thẳm của bầu trời, và cất tiếng hót mê say, ngợi ca cảnh núi non hùng tráng… Ồ, giá như vậy, giá chúng tôi có cánh bay như vậy!...
Ý nghĩ của tôi không kéo dài được thêm vì ông già Mộc bỗng đứng thẳng lưng, giơ bàn tay che mặt, nhìn trời rồi gọi:
- Hai cháu ơi, về nhà thôi. Trời sắp dông rồi đấy.
Tôi nhìn quanh. Chẳng thấy một đám mây đen nào. Cũng không có ráng mây mỡ gà, mỡ chó. Chỉ một vệt mây tê tê vắt ngang dãy núi phía đông và trời bỗng dưng lặng gió. Ông già Mộc đặt chiếc đòn gánh tre, hai đồng trồng hai quầy sắn, gọi lần thứ hai, hối hả hơn:
- Về mau thôi các cháu. Dông đến nơi rồi. Khí trời oi như thịt voi để qua đêm… Về thôi…
Miệng nói, chân ông bước. chúng tôi vội vã bước theo ông. Mỗi đứa ôm trong tay một chùm sắn nguyên gốc nặng tới năm sáu cân. Ông già Mộc ngoảnh lại:
- Các cháu ném sắn xuống, mai kia lấ cũng được. Từng này, lợn đủ ăn ba bốn ngày rồi.
Tôi tiếc rẻ chùm sắn ngon. Dưới xuôi, tụi tôi vẫn mua sắn luộc chia nhau từng khúc ăn vào giờ ra chơi. Tôi nói:
- Cháu mang được mà.
Ông già bảo:
- Không. Các cháu vứt hết đi, chạy cho nhanh.
Tôi ngần ngừ:
- Nhưng nếu đêm nay lợn rừng ra ăn hết…
- Nó ăn hết thì tôi, không tiếc. Đi nhanh lên.
Ông nói gấp gáp. Chúng tôi đành vứt bỏ hai chùm sắn, đi theo ông. Đường xuống núi còn khó hơn đường lên vì rất dễ ngã. Chỉ vô ý sẩy chân là đập đầu vào đá hoặc lăn xuống hẻm như chơi. Chúng tôi đi tay không mà toát mồ hôi mới theo kịp ông già. Quả nhiên chưa hết dốc, mây đã từ đâu cuồn cuộn bay tới trong nháy mắt, như bùa phép của loài ma quỷ. Gió từ cánh rừng thổi tới, rú lên từng hồi. Cây cối đổ ngả nghiêng, xiêu vẹo. Khi ba ông cháu chúng tôi vừa bước lên cầu thang phụ, mưa ào ào đổ xuống.
- Ôi chà chà, thật là may…
Ông già nói. Chúng tôi im thin thít. Giá chúng tôi không chịu nghe lời ông thì đã ướt như chuột lột từ chân dốc kia rồi. Mọi người rửa chân, vào nhà ngồi quanh bếp lửa sưởi. Ai nấy đều đã thấm rét. Nước trong ống máng không chảy long tong như mọi khi mà ào ào như thác xối. Chiếc chum hứng đầy tràn. Hơi nước bên ngoài bay mờ mịt vào cả trong bếp, nơi ngọn lửa hồng nhảy nhót, tỏa hơi ấm và gieo nỗi yên ấm vào tâm hồn chúng tôi. Tôi bỗng nhớ tới con sơn ca núi lúc nãy vừa bay lượn, cất tiếng hót thánh thót trên bầu trời. Giờ này không biết nó núp trong hốc cây hay hang đá? Hẳn đôi cánh ướt đã cụp lại để giữ hơi ấm trong cơn mưa rừng lạnh buốt này. Vừa mới đây thôi tôi đã thèm khát ước ao số phận của nó. Nhưng bây giờ, tôi biết mình lắm. Không, con người vẫn hơn tất cả. Dẫu cùng cực hay nguy khốn, con người có khối óc, có đôi tay và do đó con người sẽ có một mái nhà trú ẩn. Tôi xòe bàn tay lên đám than hồng, nhìn cảnh trời mưa bão mịt mùng và bâng khuâng nhớ tiếng hót của con sơn ca bé nhỏ.
CHƯƠNG 15 - VÌ CON NGỰA BẠCH MÀ GẶP THẰNG DŨNG CÒM

Ông già Mộc không chỉ làm nghề thợ mộc. ông cũng gieo lúa nương, trồng sắn, nuôi lợn, nuôi bò đàn như tất cả những người dân bản. Ngoài ra, ông còn săn thú và biết nấu cao. Trong nhà ông không treo những tấm da hổ, da báo. Ngực ông không đeo vuốt hổ, nhanh hổ như những tay thợ săn chuyên nghiệp ưa khoe tài, nhưng qua nhiều câu chuyện tôi thấy dân bản kính nể ông về tài săn thú và nấu cao là những nghề vốn dĩ không phải là của dân đồng bằng. Một chiều, theo lệ thường, tôi chuẩn bị bữa ăn. Ông già Mộc lúi húi phía sau nhà thay mấy tấm ván mục trên cầu thang phụ. Hôm đó, tôi và Loan bắt được ít ốc suối nên chúng tôi kiếm lá lốt, bày trò giã nghệ, thái thịt nấu nướng công phu hơn mọi bữa. Sắp được ăn, bỗng có người gọi phía trước:
- Ông Mộc ơi, ông Mộc có nhà không?
Tiếng Kinh rất rõ ràng, không hề pha trộn giọng vùng núi. Tôi bỏ chiếc muôi múc canh, chạy ra.
- Ông Mộc có nhà đấy chứ?
Một người đàn ông gầy gò, đen đủi hất hàm hỏi tôi, tự nhiên như ông ta bieté tôi từ lâu lắm.
- Ông cháu có nhà – tôi đáp – Mời ông ngồi chơi, uống nước đã.
Rồi tôi bảo Loan:
- Đằng ấy xuống gọi ông đi.
Loan đứng trong bếp, gọi gióng giả. Kỳ thực, không cần chúng tôi gọi, ông Mộc cũng đã nghe tiếng khách lạ vào nhà. Nhưng ông cứ lẳng lặng làm việc, dửng dưng. Thái độđó khác hẳn thái độ niềm nở của ông đối với dân bản.
Người khách cứ im uống nước, tự rút ra gói thuốc lá vụn, cuốn sâu kèn hút,nhẫn nại ngồi chờ. Khoảng nửa giờ sau ông già mới rửa chân tay vào nhà.
- Ông lên đây theo tiếng con cú kêu, hay theo lối con cáo dẫn?... Ông lại muốn rủ tôi nấu cao hổ, cao khỉ như năm xưa chăng?
Ông già mộc cất tiếng hỏi ngay, giọng không vui không giận, nhưng lạnh lùng.
Người khách cụp đuôi mắt, đưa bàn tay khô khốc gãi những kẽ ngón chân còn đầy bụi đường.
- Ông Mộc, chuyện đã qua rồi…
Ông già Mộc đáp:
- Chuyện ân nhớ nghìn năm, còn chuyện oán cũng phải trăm năm mới lạt dạ.
Người khách im lặng, mặt buồn xo. Đôi vai ông ta chảy xuống trong tấm áo màu xanh da trời đã nhem nhuốc cáu bẩn vì ghét bán và bụi đường. Mặt ông ta hóp lại, cằm nhọn hoắt. Cặp tai bé xíu và mỏng như hai chiếc mộc nhĩ dán vào da đầu. Đôi lông mày thưa thớt luôn cử động mặc dù bộ mặt ỉu xìu của cúi gằm xuống và cặp mắt như gằn vào một điểm trên tấm gỗ lát sàn. Ông già Mộc châm thuốc hút. Không ai nói được với ai một lời nào nữa. cho tới khi điếu thuốc đã tàn, ông già Mộc mới đứng lên:
- Thôi dẫu sao ông cũng lội suối, qua đèo tới đây. Ông vẫn là khách, ông ra sân sau rửa chân tay rồi vào uống rượu, ăn cơm… Nào, cháu Bê, cháu Loan. Canh ốc được chưa nhỉ?... Ông đói bụng lắm rồi.
Chúng tôi dọn cơm trên chiếc mâm gỗ đen bóng như sừng. Mân có chân cao nên ngồi sàn ăn rất tiện. Không phải xôi nếp mà là cơm gạo tẻ. Óc nấu thịt, nghệ, lá lốt, gần được như món canh ốc dưới xuôi. Thịt lợn rán và xào nấm hương.
- Chà chà, hai đứa làm bếp giỏi quá. Hôm nay ông phải uống ba chén rượu mới được.
Ông già Mộc cắt một lát cao hổ đen, mùi tanh, vị mằn mặn, cho vào chén. Ông cời mấy cục than hồng đặt chén cao chảy tan rồi rót rượu vào uống. Thỉnh thoảng ông cũng cho chúng tôi uống một tí rượu pha với nước đường chứ không cho uống cao. Ông bảo:
- Chưa tới tuổi bốn mươi, uống cao hổ với ăn nhung, thịt nứt ra. Không chết thì cũng không làm gì được.
Người khách lạ sau khi rửa chân tay, lặng lẽ ngồi xuống bên mâm. Ông già Mộc rót cho ông ta chén rượu và bảo:
- Ông đi đường xa mệt, cứ ăn no uống say rồi đi ngủ. Muốn chuyện gì mai nói.
Bữa cơm lặng lẽ, tuy ngon miệng nhưng không vui như mọi ngày. Lệ thường, ông già Mộc hay kể chuyện. Ví như ông kể trong cái hang gần nương sắn của ông có một conkhỉ già lông đã rụng trơ trụi. Một hôm cả bầy đang đu trên cành cao, con khỉ già bỗng trượt tay rơi xuống. Một con khỉ khác túm được chân nó nhưng không đủ sức kéo lên. Con khỉ già cứ chơi vơi trên miệng vực, rú lên thê thảm. Cả bầy khỉ hoảng sợ cũng rú lên. Con khỉ đựcđang túm chân còn khỉ già gần như sắp rơi theo vì căng thẳng. Sau cùng, con khỉ già quay cổ chí chóe kêu làm hiệu chocon khỉ đực kia buông tay. Khỉ đực chần chừ. Con khỉ già thu hết sức lực hét lên một tiếng dữ tợn. Khỉ đựcgiật mình buông tay, khỉ già rơi xuống vực sâu giữa những mỏm đá và chết. Bầy khỉ chuyền cành cây lần xuóng, chúng kêu than, đưa tay quệt nước mắt rồi khiêng con khỉ già bỏ vào hang. Ông già Mộc dã chứng kiến cảnh đó. Ông bảo chúng tôi rằng đôi khi tình thương yêu giữa những con vật khiến cho con người phải thèm muốn và kinh ngạc. Hoặc ông kể chuyện săn nhím, chuyện bắt chồn. Thành ra bữa cơm nào cũng giống như một buổi sinh hoạt văn nghệ với hai đứa tôi. Riêng bữa cơm hôm nay thì không. Thế nên tôi không khỏi có ác cảm với ông khách xa lạ đó. Cơm xong, ông già Mộc bảo chúng tôi đi ngủ sớm. Ông chỉ góc nhà có sẵn chăn nệm cho người khách ngủ, rồi ông cũng đi ngủ luôn. Giữa nhà, ngọn lửa cháy bập bùng. Chốc chốc, hơi gió lùa vào đám than hồng rực, thổi những tàn than bay rực rỡ. chúng tôi nằm nghe ngóng xem ông Mộc có nói chuyện với con người lạ lùng rất đáng hồ nghi kia không. Nhưng tuyệt nhiên chỉ có tiếng than nổ lép bép. Sau cùng, tôi ngủ quên. Sớm hôm sau, khi tôi thức dậy, ông già Mộc và người khách lạ đã ngồi bên bếp lửa. trời còn tối om. Gió lạnh. Sương bay mù mịt như sữa loãng tràn vào tận trong nhà. Ngọn lửa được khêu cháy rừng rực. Ánh lửa hắt lên khuôn mặt rắn rỏi điềm tĩnh của ông già. Ông đang hút thuốc. Người khách lạ ngồi xo ro, quay lưng lại phía tôi nằm, nói thẽ thọt:
- Tôi đã tính cặn kẽ với ông rồi mà. Tôi không dám đơn sai. Ông giúp cho kẻo vợ tôi chết mất. Lần này, tôi không còn ham làm giàu nữa. Vợ tôi chết, tôi không thể nuôi nổi năm đứa con.
Ông già Mộc chậm rãi nói:
- Lân ftrước ông cũng bảo vợ ông sắp chết mà.
Người khách van vỉ:
- Lần ấy tôi nói dối ông. Tôi mang cao về, bán đi hết để lấy tiền. Tôi định buôn gỗ lấy lãi để trả ông nhưng tôi bị kiểm lâm phạt, thu mất hai bè gỗ lát… Rồi tôi thua bạc… Nhưng lần này tôi không dám làm thế nữa. Vợ tôi ốm nặng lắm, nếu nó chết, tôi đành dăt năm đứa con đi ăn mày…
Ông ta cúi gục đầu xuống, trông khốn khỏ. Đốt xương sống lòi ra nhô cao phía trước gáy. Ông già Mộc vẫn tiếp tục nhả khói thuốc. Và người đàn ông kia, dường như cảm thấy tuyệt vọng, ngước nhìn ông già, đưa một cánh tay lên cao.
- Tôi xin thề… - giọng ông ta như nghẹn lại – Tôi xin thề vong linh của năm đứa con tôi. Nếu tôi còn đơn sai, chúng nó sẽ chết. Chúng nó sẽ chết.
Mấy tiếng cuối, ông ta nói gần như khóc. Rồi ông ta rũ mái tóc lâu ngày chưa cắt, xơ xác, bẩn thỉu xuống. Giống như một kẻ hành khất ngồi bên lề đường.
Ông già Mộc ném mẩu thuốc thừa vào đám lửa bếp, thở dài:
- Thôi được, tôi thương năm đứa trẻ vô tội. Tôi sẽ giúp ông.
Nói xong, ông đứng lên, vào gian nhà chính, lụcgì đó trong chiếc tủ đồ sộ mà ông vẫn dùng đựng quần áo, tiền bạc, đồ đạc, đồ đồng và nhiều thứ linh tinh mà tôi không biết tên. Sau đó hồi lâu, ông lại bước tới, ngồi xuống bên bếp lửa:
- Bệnh của vợ ông không trị được bằng cao hổ. Phải có cao ngựa bạch.
- Cao ngựa bạch? – người khách hỏi – Tôi có nghe thầy thuốc nói tới thứ cao đó đâu.
Ông già Mộc không trả lời mà trầm ngâm suy tính:
- Phải lần tới bản Nọi, may ra mới có. Xương hổ đã khó mua. Xương ngựa bạch lại càng khó mua hơn. Người có ngựa bạch không bao giờ bán vì xua nay họ cho rằng con ngựa bạch ra khỏi nhà chở theo một nửa linh hồn. Dân vùng này tin điều đó… Tôi sẽ giúp ông, nhưng có được hay không cũng còn tùy ở ý Trời.
Người khách lạ bỗng quỳ thụp xuống, hai tay chắp lại, vái lia lịa:
- Tôi lạy van ông, ông thương lấy năm đứa trẻ. Tôi có tội nhưng chúng nó thì không. Ông cứu cho mẹ nó được sống.
Ông già Mộc chắc hẳn không muốn nhìn cảnh đó. Ông quay mặt đi:
- Đừng làm như vậy. Ông ngồi lên. Tôi không nói thì thôi. Đã nói, một lời như con dao cắm vào cây gỗ rắn, khó rút, khó lay…
Người khách lạ đang gục đầu trên mặt sàn chống tay ngồi thẳng dậy. Bên ngoài, trời đã rạng sáng. Sương loãng ra như sữa lỏng. Từng đám mây lướt thướt bay qua khung cửa nhà. Loan trở mình, thức giấc. Nó hỏi tôi:
- Đằng ấy dậy lâu chưa?
- Rồi.
Tôi đáp khẽ và bấm nó lặng yên. Ngoài bếp, ông già Mộc nói:
- Ông đi kiếm tiền mà nuôi trẻ. Việc đã hứa giúp ông, tôi sẽ làm. Một tháng nữa, ông quay lại đây.
Ngời khách đáp lí nhí gì đó. Hình như ông ta cảm tạ ông già Mộc. Ông già bảo khách ăn xôi sớm. Ông ta ăn rất nhanh rồi khăn gói ra đi. Chúng tôi cứ nằm im thít trong buồng. Chờ cho người khách kia đi một lúc, ông già Mộc mới gọi chúng tôi dậy rửa mặt, ăn xôi. Tôi hỏi chuyện ông về con người kỳ quặc đó, nhưng ông chỉ đáp một câu:
- Ông ta là dân Kẻ Sặt, cùng làng với ông đấy. Con người tham tiền, coi nhẹ nghĩa nhẹ tình là bạc, không ăn ở bền được với ai. Nhưng vợ con ông ta vô tội nên mình phải giúp họ… Thôi cháu còn bé, đừng nghe nhiều chuyện xấu cho đen óc, đen đầu. Ngày mai ông cháu ta sẽ sang bản Nọi. Ông sẽ cố tìm mua con ngựa bạch về nấu cao.
Hôm sau, cả nhà dậy thật sớm.Ăn xôi xong, phải nén xôi gói trong lá chuối nướng. Lại phải hong than thui thịt lơn và thịt nai khô đem theo ăn đường. Tôi vui sướng vì từ ngày tới bản Muốn, đây là lần đầu tiên chúng tôi được đi xa. Đường lên bản Nọi ngược về phía tây bắc thung lũng. Phải vượt qua dãy núi sau lưng bản rồi xuống một đường mòn đi qua những rừng ổi lưa thưa dọc con suối cạn. Hết rừng ổi tới một thung lũng chỉ có những mảnh ruộng cao thấp từng hàng lúa đang lên mượt. Hết thung lũng, con đường chui vào giữa hai ngọn núi đá. Núi cao, cây cối mọc lưng chừng giống như tổ quạ màu xanh. Thỉnh thoảng một bầy khỉ lại chuyền cây, chí choé gọi nhau. Gần đỉnh núi, có miệng hang lớn chừng hai người đi lọt. Ông già Mộc bảo cái hang đó rộng chứa đủ năm mươi gia đình, ăn thông sang lưng núi bên kia. Hồi chín năm kháng Pháp, dân mấy bản quanh đây thường chạy vào đó tránh giặc.

Khoảng gần trưa, chúng tôi nghỉ dưới một gốc cây sao già ven đường mòn, giở xôi nén với thịt nướng ra ăn. Loan đeo bên lưng bầu nước chè xanh. Uống nước chè xong, mọi người ra rửa tay ở một nguồn nước nhỏ gần gốc sao đại thụ. Nguồn nước chảy từ lưng chừng núi, mát lạnh, trong như pha lê. Hai người dân Nùng đi sau chúng tôi cũng tới đó, rửa mặt, rồi chụm hai bàn tay uống nước núi một cách ngon lành. Tôi định uống thử nhưng ông già Mộc không cho. Ông bảo:
- Chưa quen dạ, uống nước trong kẽ đá ốm rụng hết tóc.
Rồi ông trải ni lông cho chúng tôi nằm bên vệ cỏ. Còn ông, ông ngồi tựa lưng vào gốc cây sao, ngủ ngay. Mười lăm phút sau, chúng tôi chưa kịp nhắm mắt, ông đã thức dậy, giục chúng tôi lên đường:
- Mình không đem đuốc, không có đèn săn trên trán, không có súng săn trên tay, không đi đêm được.
Ông nói đầy hình ảnh, theo cách nói của dân vùng cao. Chúng tôi tiếp tục đi. Buổi chiều, nắng oi và ít gió nên khá mệt. Cả hai chúng tôi đã cởi áo bông từ trước bữa ăn trưa mà vẫn thấy khó chịu. Qua con suối, chúng tôi đòi ông cho rửa chân tay, nghịch nước chừng dăm phút rồi mới chịu đi. Khi trời hết nắng, lớp sương mờ mờ đã lan khắp cửa rừng, chúng tôi tới bản Nọi. Bản này là một phố nhỏ, nơi tụ tập buôn bán của dân dưới xuôi lên và dân Mèo, lân Lô Lô trên núi cao xuống. Bản cũng toàn những nhà sàn nhưng không xa nhau vài trăm thước như ở bản Muốn. Nhà nọ với tay sang nhà kia mượn con dao, vay nắm muối được. Dưới sàn nhà, phân lợn, phân bò ngâpj ngụa. Vì người ở chen chúc, súc vật cũng chen chúc, gió không lùa mùi phân đi khiến chúng xông nồng nặc. Giữa bản, có một đám chừng hơn chục nóc nhà làm theo kiểu nền lát gạch như dưới xuôi. Đám nhà đó toàn là dân bán phở, bán hàng tạp hoá, làm đậu phụ, tương và mắm. Chợ bản Nọi gần đám nhà trệt đó. Khi chúng tôi tới, chợ đã tan.
Chỉ còn trơ lại những mái ngói cổ, lợp trên những cây cột cũ kỹ, mòn nhẵn vì tay người cọ xát. Những đám hồng giậm nát, bã mía, rác rưởi, lá bánh còn ngổn ngang chưa ai quét.
- Ta tìm quán ăn bát phở cho ấm bụng – Ông già Mộc nói.
Chúng tôi đi theo ông tới căn nhà to nhất đám nhà trệt. Nhà này cũng có hiên như nhà dưới xuôi, nhưng lại lợp ngói ống là thứ ngói cổ chỉ riêng các lò ngói vùng cao mới sản xuất. Cột đỡ hàng hiên vẽ rồng phượng. Một tấm biển lớn bằng tôn kẻ chữ “Phở” đỏ chói. Dưới là hàng chữ sơn xanh nhỏ hơn: “Ngon, lành, thơm, bổ, theo đúng mùi vị phở Hà nội. Kính mời”.
Chúng tôi vào quán. Lò lửa cháy rừng rực. Thùng nước dùng sôi toả mùi mỡ bò gây gây. Rõ ràng, mùi nước dùng không thể giống mùi nước phở dưới xuôi được. Hơn nữa, thịt bò luộc treo trên móc đã khô đen. Không có túm hành treo, cũng không có tương ớt. Bánh phở thái to, cứng quèo. Bù lại, chủ nhân cho rất nhiều gừng và ớt chỉ thiên cay tới bỏng môi, trào nước mắt.
- Lâu lắm mới thấy ông tới bản Nọi ăn phở. Ông định mua xương khỉ hay xương hổ về nấu cao chăng?
Bà chủ quán bưng phở đặt trước bàn, nói. Bà ta trạc tuổi cô Lưu, người nhỏ nhắn, da trắng, tóc búi sau gáy, ăn mặc hoàn toàn như một phụ nữ vùng xuôi.
Ông già Mộc đáp:
- Ờ, lâu lắm tôi mới lại muốn nấu nồi cao. Ông bà chủ vẫn khoẻ chứ?
- Dạ, cảm ơn ông. Chúng cháu bình thường. Ông có lời dạy vợ chồng cháu không ạ?
- Tôi muốn nhờ ông nhà tìm mua cho con ngựa bạch.
Nghe tới đó, bà chủ quán “à, à…” một tiếng thật dài.
- Ngựa bạch khó tìm lắm. Tháng trước, có một người khách thấp nhỏ da đen cầm tiền tới nhờ nhà cháu mua hộ. Nhưng nhà cháu lắc đầu bỏ đi.
Ông già Mộc đặt bàn tay gân guốc lên bàn:
- Tôi biết người đó rồi. Nhưng tôi nhờ thì ông khắc tìm cho chứ?
Người đàn bà cười:
- Dạ, ông để nhà cháu về xem…
- Ông ấy đi đâu rồi?
- Nhà cháu sang bản bên xem cái lư đồng, muốn mua về làm đồ thờ tổ tiên. Khoảng tàn bếp lửa, nhà cháu về đấy.
Ông già Mộc gật gù, cầm thìa múc nước phở húp. Ông giục chúng tôi ăn cho nóng. Mặc dù phở ở đây thua xa phở dưới quê, nhưng vì đói nên chúng tôi cũng ăn một cách ngon lành. Ăn xong, ông già Mộc bảo:
- Bà xem có đậu nóng gọi cho chúng tôi mấy bìa chấm tương. Rồi mua cho hai đứa trẻ chục bánh rán nữa.
- Vâng, đậu nóng nhà bà Mén lúc nào cũng có. Ông uống rượu nữa để cháu lấy một thể. Còn bánh rán thì phải tới ông ké San. Dạo này, cả bản chỉ còn mình ké San làm bánh rán. Phiên chợ nào ông ấy cũng bán hết ba chảo đầy.
Nói xong, bà chủ cầm chiếc rổ con ra đi, trong rổ có cái bát nhỏ, chắc là để đựng tương.
Trời chạng vạng tối. Nhìn ra ngoài chỉ thấy những hòn đá mấp mô trên mặt đường vì ánh lửa rọi. Hơi sương lạnh dần, khác hẳn lúc chiều khi chúng tôi qua suối. Loan khoác áo bông lên vai. Ông già Mộc hút một điếu thuốc trong khi chờ đợi. Chừng tàn hai điếu thuốc, người đàn bà trở về. Trong chiếc rổ con, đậu phụ còn bốc hơi nóng nghi ngút. Một tấm lá dong lớn gói bánh rán cũng nóng bỏng tay, mỡ thấm đầy.
- Ông uống rượu với đậu nóng ngon lắm, ông à.
Chủ quán nói, đặt bát tương nhỏ trước mặt ông già rồi vào trong nhà bưng ra hũ rượu rót vào chén.
- Các cháu ăn đậu chấm tương trước rồi ăn bánh rán sau. Đậu ở đây ngon lắm – Ông già Mộc bảo.
Chúng tôi theo lời ông, ăn món đậu chấm tương trước. Quả là đậu phụ rất ngon, bột mịn, thơm, ngọt và béo. Ông già uống một hớp rượu lại bẻ một miếng đậu chấm tương và nhấm một chút ớt ăn kèm. Người đàn bà chủ quán đã lui về phía sau quầy hàng, đẩy những thanh củi vào lò cho chúng cháy lom dom. Bất chợt, một thằng bé cắp rổ bước vào:

- Mợ ơi, thịt đây rồi. Bò vừa xẻ chiều nay.
Tiếng nói quen đến lạ lùng. Tôi và Loan quay ra. Lúc đó, thằng bé kia cũng đặt rổ thịt xuống, nhìn chúng tôi ngỡ ngàng.
- Dũng!… Dũng còm!…
Tôi kêu lên, vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ.
Chúng tôi đứng lên. Dũng cũng từ từ bước vào, nói rất khẽ:
- Ồ, Bê, Loan… Làm sao mọi người lên tới đây được?…
Mắt nó mở to ra, loang loáng như đọng đầy nước. Nó vẫn gầy còm, tuy nó cao hơn ngày xưa chút đỉnh. Mái tóc cắt cụt ngủn khiến cho gương mặt nó có vẻ dại dại đi một cách kỳ khôi.
Ông già Mộc điềm tĩnh nhìn chúng tôi bằng con mắt từng trải và nhân hậu. Còn người đàn bà chủ quán thì sửng sốt hỏi:
- Mấy người này có quen nhau thật à? Mấy người này có quen nhau thật sao?
Tôi giải thích cho ba ta hiểu rằng chúng tôi là những đứa trẻ đã cùng sống với nhau thời thơ ấu, học cùng trường và cùng một quê hương.
Ông già Mộc vỗ vai Dũng còm:
- Ngồi đây cháu. Gặp bạn hiền là điều vui nhất trong đời. Uống một chút rượu với ông rồi ăn đậu, ăn bánh.
Dũng còm e dè ngồi xuống ghế. Nó dưa mắt băn khoăn nhìn bà mợ lúc đó đang xếp những tảng thịt bò to lớn từ rổ lên thớt. Người đàn bà hiểu ý, ngẩng đầu lên nói:
- Ông có lòng tốt, mày cứ uống rượu ăn bánh cho vui.
Dũng cầm chén rượu ông già Mộc rót cho, ngửa cổ uống một hơi. Nó uống rượu như một người dân miền núi thực thụ. Ông già Mộc hỏi:
- Cháu lên đây được bao lâu?
- Dạ, gần một năm.
Ông già gật đầu:
- Mỗi năm xa nhà, khôn lớn một gang. Khi nào cái khôn cao bằng cây lim trên núi, người ta khắc đủ khôn sống với đời. Nào, uống chút rượu nữa…
Nhưng Dũng còm không dám uống chén rượu thứ hai. Nó cầm bánh ăn và quay sang nói chuyện với chúng tôi. Tất cả những gì đã xảy ra ở quê hương, thân thuộc, từ chuyện nó mất tích, chuyện tôi và Loan bơi thuyền ra đảo Hoa Vàng để mọi người đi tìm xuốt đêm, chuyện lão Gia độc ác, chuyện tồi tệ của cai Cân đối với cô Lưu… tôi kể hết. Dũng còm trầm ngâm như một ông lão, nó nghe đủ chuyện rồi khẽ nói:
- Ông cai Cân không biết yêu con đâu. Ông ấy chỉ yêu tiền thôi. Tớ chẳng bao giờ coi ông ấy là bố. Tớ không có bố. Tớ chỉ có một người mẹ đã chết rồi. Khi nào lớn lên, làm người chủ gia đình, tớ sẽ có nhiều tiền và tớ sẽ làm giỗ mẹ tớ to hơn ngày Tết Nguyên Đán.
Chúng tôi lặng nghe Dũng còm nói. Bỗng nhiên, một người đàn ông bước vào. Đó là chủ quán, con người lạ lùng đã xuất hiện ở thị trấn khi gánh xiếc của người lùn đang biểu diễn. Ông ta vẫn cao lớn, da đỏ ửng, mặc áo đen khuy vải tết, nhưng không đội mũ cát-két bằng ka ki màu da bò bẩn thỉu mà đội mũ nồi xanh đen. Đôi mắt sáng quắc một cách dữ tợn dưới hai hàng mày rậm. Vừa đi lạnh về nên hơi thở ông phả ra trắng như sương. Ông đập bó đuốc đang cháy xuống đất, lấy chân giẫm lên cho tắt hẳn rồi bước vào nhà.
- Ôi chào, chào quý khách. Đã lâu lắm rồi ông mới lại tới đây.
Người chủ quán buông cây đuốc, giơ cả hai tay nắm bàn tay ông già Mộc lắc lắc.
- Ông chịu khó lặn lội vậy à?… Ông đã mua được đồ đồng chưa? – Ông già Mộc hỏi.
- Được rồi. Tôi đã trả tiền nhưng tới tuần trăng sau mới lấy - người đàn ông đáp lại vui vẻ. Rồi ông ta hỏi – Lâu nay ông có uống được hai ba chén rượu không?
- Được chứ - Ông già Mộc gật đầu – Tôi còn đủ sức vác cây gỗ lim trên núi về thay cột nhà. Tôi đang muốn nhờ ông tìm mua chi một con ngựa bạch.
- Sao?… Người đàn ông nhướng cặp mày lên – Đã lâu lắm ông có nấu cao ngựa bạch đâu? Vừa lâu công lại vừa tốn kém.
- Tôi biết chứ. Nhưng đây là việc cứu người.
- Người bà con của ông chăng?
- Không. Người cùng quê thôi. Nhưng chị ta có năm đứa con nhỏ. Chị ta không sống được, năm đứa trẻ sẽ mồ côi.
Người đàn ông gật đầu:
- Tôi biết rồi. Vợ cái người bữa trước lừa ông lấy cao hổ và cao khỉ. Tuần trăng vừa qua hắn lại đây năn nỉ nhờ tôi mua giùm để dắt về xuôi nhờ nấu cao nhưng tôi quay mặt đi.
Ông già Mộc đáp:
- Ờ, đúng đấy.
Người đàn ông hỏi:
- Hắn xấu bụng thế, ông còn giúp hắn làm gì? Tiền bán cao của ông một gang tay hắn còn chưa trả đồng nào.
Ông già Mộc đáp:
- Tôi không giúp ông ta đâu. Tôi cứu năm đứa trẻ vô tội thôi. Nào, ông giúp tôi chứ?…
Ông chìa bàn tay đặt lên bàn. Người đàn ông khẽ đập tay ông ta lên tay ông già, nói:
- Ông nói một lời, trèo qua bảy tám ngọn núi tôi sẽ tìm được ngựa đem về đây.
Bà chủ quan xào một đĩa thịt bò với ớt và lá sả non đem ra. Người chồng rút chiếc khăn vắt trên vách lau mặt rồi rót rượu vào chén. Ông ta bảo vợ rang lạc, nướng tôm khô thêm. Rồi ông ngồi uống rượu với ông già Mộc. Còn chúng tôi vào trong nhà ngủ. Bà chủ quán thu xếp cho chúng tôi ngủ trong một chiếc giường nhỏ ở góc buôn trong. Sau đó bà sai Dũng còm sang nhà ai đó mua thêm gừng để ngày mai làm phở bán. Mai là ngày chợ phiên. Chợ bản Nọi ngày nào cũng có nhưng cứ năm ngày môt phiên nhỏ và ba phiên nhỏ tới một phiên lớn.
Trong câu chuyện của ông già Mộc với chủ quán buổi tối hôm đó, tôi nghe ông già hỏi:
- Thằng bé này là con cháu ông chăng?
Người chủ quán trả lời:
- Ôi dà, chuyện dài lắm.
Ông già bảo:
- Lửa còn cháy trong lò, đêm còn dài, ông cứ kể. Tôi trông nó, lòng tôi cũng thương. Mà nó lại là bạn với hai đứa cháu gái đi cùng với tôi đấy.
Người đàn ông đáp rành rẽ:
- Chuyện không đẹp đẽ gì. Người khác tôi không nói đâu, nhưng ông hỏi thì tôi kể. Thằng bé này là con bà chị ruoọt tôi. Chị em tôi lưu lạc nhau từ hồi chạy Tây. Chị tôi buôn bán giàu có lắm. Ngoài số của cải củ chị, chị còn giữ vòng vàng, nhẫn vàng, hoa tai mặt đá của mẹ tôi để lại. Cả những đồ đồng thờ cúng tổ tiên. Tôi không biết hết nhưng nghe nói là đủ bộ lư, đỉnh, chân nến, hạc chầu, cả mâm thau, ấm nước nửa… Chị tôi nhiều lần nhờ người tìm tôi về nhận số đồ gia bảo và những thứ tư trang mà mẹ tôi gửi lại vì tôi là con trai, người thờ cúng tổ tiên trong họ. Chị tôi chưa tìm được tôi thì đã chết vì có u trong ruột. Tôi tìm tới hỏi anh rể nhưng lão chối phăng. Lão còn vác gậy đuổi tôi khỏi nhà. Nghĩ căm trong dạ, tôi bắt thằng bé con đem đi, tưởng lão thương con phải trả của. Nhưng lão lại thương của hơn con, lão cứ lờ như không… Chuyện dang dở, tôi chưa biết tính thế nào… xong người đàn ông thở dài.
Ông già MỘc trầm ngâm gõ gõ ngón tay lên mặt bàn hồi lâu, rồi nói:
- Thằng bé cũng không quý trọng gì bố nó… Tội nghiệp cho đứa trẻ.
Người chủ quán nói:
- Tôi nghe nói lão nhiều vàng lắm. Lão đang cầm đầu một dây buôn thuốc phiện lậu từ dưới xuôi lên Mèo Vạc thì phải. Bữa trước có người anh em của tôi gặp lão trên đó.
Ông già Mộc hỏi:
- Thế đứa bé ông tính sao?
Người đàn ông đáp:
- Vợ chông tôi chưa có con. Tôi giữ nó nuôi cũng được.
Ông già ôn tồn nói:
- Đứa trẻ có thuận, mình nuôi mới tốt. Nó không vui trong bụng, người sẽ héo như cây cỏ bị nhổ khỏi nương vườn. Ông cứ ngẫm lời tôi nói mà xem…
Chủ quán im lặng. Hình như ông ta khẽ thở dài, rồi rít thuốc. Tôi nghe tiếng Dũng còm về, báo tin đã mua đủ gừng với ớt để làm phở bán ngày mai.
- Thôi, mày rửa chân mà đi ngủ - Người chủ quán, ông cậu ruột của nó nói.
- Vâng.
Thằng bé đáp rồi ra sân sau. Nó đi ngang qua chỗ chúng tôi nằm, nhẹ như cái bóng. Tiếng nước chảy róc rách phía sân. Rồi có tiếng guốc gỗ khua lọc cọc. Dũng còm chui vào cái chăn chiên ở góc giường ngủ. Tôi không thấy nó mắc màn. Lúc ấy, tôi mới hiểu niềm hạnh phúc của chúng tôi khi gặp ông già Mộc. Rời bàn tay của mẹ, nào dễ mấy ai may mắn tìm được người giàu lòng nhân ái như chúng tôi. Tôi định gọi Dũng còm nhưng sợ người lớn nghe thấy. Vả lại, cũng đã khuya. Cả ông già Mộc lẫn vợ chồng người chủ quán đều lục tục chuẩn bị đi ngủ nên tôi đành im lặng. Mùi chăn chiếu lạ làm tôi thao thức lúc lâu. Nhưng rồi tôi cũng ngủ được khi gà vừa gáy lần thứ nhất.
Sớm hôm sau, tôi thức dậy muộn nhất so với tất cả mọi người. Loan hạt mít đã ăn sáng từ lâu. đứng ngoài cửa nói chuyện với Dũng còm. Lò lửa của bà chủ quán cháy rừng rực. Mùi mỡ bò, mùi xương bò ninh bốc hơi ngầy ngậy, gây gây. Người vào ăn phở đông. Phía trước la liệt sọt, lủ đựng hàng của dân vùng cao mang sa nhân, hồ, nấm hương, mộc nhĩ, măng khô… về bán. Những chiếc xe ngựa từ các phố huyện tới mua hàng đem về xuôi đứng từng dãy. Mùi phân ngựa tươi bốc lên hăng ngái. Bóng áo chàm, áo đen, áo trắng lướt qua. Bụi chưa bốc lên vì hơi sương còn quẩn nhưng tiếng ồn ào đã khiến ta hình dung cảnh chợ phiên thật rõ. Bà bán đậu ghé qua cửa hàng, đưa cho vợ chồng chủ quán một rổ đậu nóng hổi trước khi mang hàng ra chợ. Chúng tôi lại được ăn món đậu phụ chấm tương ngon lành, lạ miệng. Ăn xong, ông già Mộc bảo:
- Các cháu chào ông bà chủ đi. Ta qua chợ rồi về.

Chúng tôi chào vợ chồng người chủ quán. Dũng còm đứng một góc nhỏ, nó nhìn chúng tôi với con mắt thèm khát buồn tủi. Ông già Mộc gọi người chủ quán ra gốc cây trước cửa nói chuyện hồi lâu. Sau đó, ông chủ quay vào trao đổi vài câu với vợ, rồi ngồi xuống ghế.
- Mày ra đây cậu bảo – ông gọi Dũng còm.
- Dạ.
Thằng bé đến, đứng trước mặt ông cậu, vẻ nhẫn nại chờ đợi theo thói quen. Người chủ chỉ tôi và Loan rồi hỏi:
- Mày có muốn đi chơi với hai bạn không?
Dũng còm há miệng như muốn thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên. Nó đưa mắt hết nhìn vợ chồng người cậu lại nhìn chúng tôi, vẻ mặt băn khoăn, ngần ngại.
- Cậu hỏi thật, mày có muốn đi chơi với hai bạn một vài tháng thì tao cho đi - người đàn ông nhắc lại, giọng dịu dàng hơn.
Dũng còm như quýnh lưỡi lại. Lúc sau nó mới nói khẽ trả lời:
- Nếu cậu với mợ cho…
- Mày đi, nhà cũng bận, nhưng tao sẽ bảo con Dính sang giúp. Ở đây suốt ngày mày rầu rĩ, chúng tao cũng chẳng vui thú gì… - người mợ nói thẳng thắng một cách tàn nhẫn.
Tôi thấy Dũng còm cúi đầu, đáp lí nhí:
- Vâng ạ.
Ông chủ quán bảo:
- Vào nhà thu xếp quần áo mà đi.
Dũng còm vâng một tiếng sung sướng, chạy vào buồng, Quần áo của nó cũng chẳng nhiều nhặn gì, tất cả không đầy một túi dết. Nó đeo vào vai, chào vợ chồng ông cậu, hớn hở bước theo chúng tôi. Cái gia đình của chúng tôi từ đó gồm có bốn người.

Quảng Bá, 19/11/1983
Dương Thu Hương
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hắn 0000

Hắn 1. Hắn Hắn còn nhớ rõ cái ngày cha hắn bán bộ sách quý với giá ba chục nghìn bạc để lấy tiền cho hắn đi Pháp. Ngày ấy lòng hắn như nở ...