Thứ Hai, 17 tháng 7, 2023
Hành trình ngày thơ ấu 3
CHƯƠNG 16 - CON HỔ THỌT KHIẾN CHÚNG TÔI GẶP MỘT NGƯỜI HỦI KHỐN
KHỔ
Ông cúi xuống uống chén rượu buổi sớm theo lệ thường. Tôi
nhìn bàn tay ông, chợt nhận thấy một ngón tay có buộc giẻ. Tôi quên cơn hờn giận
rất nhanh, băn khoăn hỏi:
- Ở bản Muốn mà không biết ông Rộc hay sao?
Nói xong, anh ta biến mất. Tôi nghe tiếng chân bước xa dần, rồi
tiếng chân chạy huỳnh huỵch tại chỗ, như người chạy vòng quanh một gốc cây. Tôi
và Dũng còm giỏng tai lên nghe nhưng không biết đầu đuôi ra sao cả.
Lúc ấy, tôi ước chi có được chiếc gối lông quạ thần kỳ. Có
nó, chắc tôi sẽ thấy được gương mặt người vợ và hai cô con gái xinh đẹp của ông
Mộc. Tôi sẽ nghe tiếng chuyện trò thầm thì của họ với ông. Hẳn họ than phiền rằng
từ khi bị giặc giết, họ nhớ bản, nhớ ông suốt đêm ngày, rằng dưới đất không có
lửa sưởi nên rất lạnh, rằng họ muốn ông luôn luôn nhớ tới họ và khẩn cầu sức mạnh
linh thiêng nào đó cho họ được trở về…
- Không. Cháu không cần nhiều tiền như vậy. Đã có anh Khiết
lo rồi mà.
- Em không biết cơ sự lại như thế. Cả thị trấn ghét lão quỷ ấy.
Tưởng lão ấy chỉ đểu với cô Lưu. Ai ngờ lão hất hủi cả đứa con đẻ của lão. Đến
nước này lão chỉ có ở với quỷ sứ dưới âm ty thôi. Chị có biết bây giờ lão làm
gì không?
Ở trên đồn, thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiếng sung vọng tới.
Các chiến sĩ vẫn bình thản giơ tay sưởi trước bếp mối khi vừa tuần tra quanh
núi hoặc đi xuống bản liên lạc với đơn vị dân quân về. Họ bảo tiếng súng ở vùng
này ngày nào cũng có. Thường là sung bọn phỉ bắn trộm vào bản hoặc bắn thú để
nướng ăn. Bọn chúng chui rúc trong rừng, nguồn tiếp tế ít ỏi nên phải ăn thịt
thú là chính. Mỗi khi ta đi tuần tra thường đón nghe tiếng súng săn mà lần tới.
Mười bận thì cũng sáu bảy bận gặp phỉ đói hoặc đám lửa nướng thịt thú nhen lên
vội vàng giữa rừng còn bốc khói chưa tàn.
Đám dân quân bản đã đi trước chúng tôi một thôi đường. Bóng họ
thấp thoáng phía trước. Anh Lềnh chân cao nên bước thì bằng hai bước của tôi...
Anh đi bình thường, tôi cũng phải chạy mới theo kịp. May mà anh biết ý đi chầm
chậm để chờ. Con người to lớn trông cù mì thế nhưng nhiều khi lại tỏ ra rất tế
nhị. Tôi đã cảm thấy mến anh. Anh cũng quý rôi nên hay ngồi kể tỉ mẩn mọi chuyện
cho tôi nghe. Từ chuyện cô vợ chưa cưới của anh bị bướu cổ hiện đang về chữa ở
Hà nội lẫn chuyện đứa cháu gọi anh bằng chú có sáu ngón chân. Mẹ thằng bé lấy sợi
chỉ thắt cái ngón thừa đi, nhưng không hiểu chị làm thế nào, thằng bé bị sốt, cứ
ưỡn bụng lên, mắt trợn ngược rồi chết... Tóm lại, tôi đã có thể coi anh như một
người bạn lớn tuổi, đáng tin cẩn. Đi đường với anh thật yên tâm. Chúng tôi tới
bản Khum vào giữa trưa. Bóng cây cối lờ mờ in ngay xuống gốc. Không có mặt trời,
một vầng mây bạc hắt sáng xuống rừng núi. Bản Khum nằm dưới chân lèn đá, không ở
giữa thung lũng tươi xanh như bản Muốn. Nhà cửa ở đây thấp nhỏ, tiều tụy hơn ở
bản Muốn nhiều. Những đống phân trâu, phân người lầy như bùn nhão dưới sàn. Ở bản
Muốn, người ta làm chuồng tiêu riêng. Ở bản Khum, đi đồng ngay vào chuồng lợn.
Tiết trời mù sương, mưa lay phay khiến những con đường dính nhơm nhớp. Phân
tràn từ những kẽ hở ván quây chuồng bò, chuồng lợn chảy ra đường. Mùi hôi thối
quẩn trong không khí tù hãm, không thoát đi được. Tôi nói với anh Lềnh:
Anh lại quay đầu nhìn quãng đường vừa đi lần thứ hai, với đôi
mắt sợ sệt, kinh hoàng.
Tiếng vó nện xuống đường nghe đều đều như tiếng tích tắc của
đồng hồ hoặc tiếng quay của bánh xe lửa nghiến trên đường ray. Nhịp điệu đó khiến
ta dễ buồn ngủ. Khi không còn lo âu, sợ hãi nữa, tôi đâm buồn ngủ thật. Hai mí
mắt nặng trĩu cứ sập xuống. Thỉnh thoảng, một con chồn đêm lao soạt vào bụi rậm
khiến tôi giật nẩy người. Ngoài những vệt lân tinh, không còn ánh sáng nào hơn.
Cứ như vậy dăm bẩy lần, tôi không giật mình hoảng sợ nữa. Ngay cả tiếng mang
tác ngay ven suối, hay tiếng hổ gầm nói thung sâu nào đó vẳng tới cũng không thề
khiến cặp mi mắt nặng trĩu của tôi nâng lên được. Tôi ngủ lúc nào không rõ. Tiếng
vó ngựa lọc cọc vẫn cứ vang lên đều đặn. Trong giấc ngủ rất dài, tôi chỉ nghe
thấy riêng một thứ âm thanh buồn tẻ đó mà thôi…
Đi suốt ngày, suốt đêm. Sáng hôm sau, người và ngựa tới bản
Khum. Lại thêm một nhà nữa có người chết, treo cành lá cữ trước cửa. Tiếng than
khóc, tiếng la gọi, tiếng gào rú của thầy mo Triệu, tiếng trống và tiếng chũm
choẹ cùng lúc vang rền náo động. Chúng tôi vào nhà trưởng bản trước. Y sĩ Tính
không nói nhiều, chỉ gật đầu chào chủ nhà rồi bước vào buồng người bện ngay. Hẳn
ông ta đã ở vùng này lâu, hẳn lương tâm người thầy thuốc trong ông thật lớn
nên ông đã chịu đựng mùi hôi hám tanh tưởi một cách bình thản. Ông khám bệnh cho
bà già, hỏi chủ nhà dăm ba câu rồi nói:
Tôi im lặng đi theo ông. Từ đó về sau, tôi hiểu rằng người thầy
thuốc thật sự phải có lòng nhân ái sâu xa, phải có tinh thần trách nhiệm cao cả.
Những đức tính đó tạo nên phẩm chất riêng biệt cho họ. Không một nghề nghiệp
nào đòi hỏi phẩm chất cao như vậy.
Tình thế thật oái oăm. Đứa bé ốm nằm trong nhà bỗng la lên như người phát cuồng. Y sĩ Tính và tôi chạy vào buồng theo mẹ nó. Trên chiếc giường không trải chiếu mà trải tấm da bò, một thằng bé còm nhom, đầu và hai mắt to thao láo đang kêu la rền rĩ. Nó rú lên từng tràng tiếng Nùng. Hơi thở vừa nóng vừa hôi. Y sĩ Tính bảo tôi:
Một vụ hè, tôi đưa Loan lên bản Muốn thăm ông già Mộc. Ông vẫn
thân thiết và gần gũi như xưa, dường như chúng tôi chẳng có một khoảng thời
gian dài xa cách. Tôi biếu ông chiếc áo khoác và chiếc mũ lông Mông Cổ. Tôi mua
cho Dũng còm khẩu súng săn mới, hai nòng. Dũng đã hoàn toàn trở thành một chàng
trai bản Muốn. Ước nguyện duy nhất của Dũng là xây mộ cho người mẹ quá cố đã thực
hiện xong. Bây giờ, cậu ta chờ ngày lành tháng tốt để lấy vợ. Người vợ tương lại
của Dũng là một cô Nùng xinh xắn học trung cấp y khoa dưới phố Lạng. Dũng còm
cho chúng tôi xem ảnh cô với vẻ tự hào. Khi nào cô gái Nùng tốt nghiệp, đeo chiếc
túi có chữ thập đỏ trở về trạm y tế bản Muốn thì họ sẽ làm lễ cưới. Ông già Rộc
chết rồi. Người bản chôn ông tại căn nhà ngoài núi, nơi đứa con ông chết vì một
viên đạn nhầm nhỡ. Ông đã cho Dũng khẩu súng săn trước lúc nằm xuống giường.
Dũng còm rủ tôi và Loan lên bản Nọi thăm vợ chồng người cậu nhưng chúng tôi từ
chối. Loan phải chuẩn bị bước vào năm học mới. Còn tôi, tôi cũng còn vô số công
việc đợi chờ. Vả lại, trước khi về Hà Nôi, tôi cũng muốn thăm lại hòn đảo Hoa
Vàng, dòng sông Xanh, mẹ con chú bé đánh cá. Hòn đảo chỉ là một gò đất rộng ước
non một sào. Có lẽ xưa kia nó cũng nhỏ bé vậy thôi, nhưng trước cặp mắt thơ dại
của chúng tôi nó đã biến thành một thế giới bí ẩn và quyến rũ. Cả dòng sông,
con đường đê nghiêng nghiêng và dải đầm sen cũng trở nên nhỏ bé như vậy.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Hắn 0000
Hắn 1. Hắn Hắn còn nhớ rõ cái ngày cha hắn bán bộ sách quý với giá ba chục nghìn bạc để lấy tiền cho hắn đi Pháp. Ngày ấy lòng hắn như nở ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét