Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024

XXXXTùy bút Võ Phiến

Tùy bút Võ Phiến

Vài nét về Võ Phiến

Võ Phiến tên thật Đoàn Thế Nhơn (sinh 20 tháng 10 năm 1925 tại huyện Phù Mỹ, Bình Định; là một nhà văn Việt Nam. Ông là tác giả của 4 tiểu thuyết, 9 tập tuỳ bút, nhiều tập truyện ngắn, một tập thơ và nhiều tác phẩm phê bình tiểu luận. Ông còn có bút danh là Tràng Thiên.

Võ Phiến là con của ông giáo Đoàn Thế Cần và bà Ngô Thị Cương. Ông có người em ruột là Đoàn Thế Hối (sinh 1932) cũng là nhà văn với bút hiệu Lê Vĩnh Hoà. Khoảng 1933, bố mẹ cùng em ông xuống Rạch Giá còn ông vẫn ở lại Bình Định với bà nội. Ông theo học trường làng và trung học ở Quy Nhơn.

Năm 1942, ông ra Huế học trường Thuận Hóa và bắt đầu viết văn. Bài tùy bút đầu tiên Những đêm đông được ông viết năm 1943 và đăng trên báo Trung Bắc Chủ Nhật. Năm 1945, Võ Phiến đi bộ đội cho đến năm 1946 thì ông ra Hà Nội học trường Văn Lang. Năm 1948, ông kết hôn với bà Võ Thị Viễn Phố và dạy học ở trường trung học bình dân Liên Khu V.

Cuối năm 1954, Võ Phiến ra Huế làm việc tại Nha Thông tin một thời gian rồi chuyển vào lại Quy Nhơn, tại đây ông tự xuất bản hai tác phẩm đầu là Chữ tình (1956) và Người tù (1957), gửi bài đăng trên hai tạp chí Sáng Tạo và Bách Khoa.

Sau tác phẩm Mưa đêm cuối năm (1958, Sài Gòn), Võ Phiến bắt đầu được biết đến. Ông vào làm việc tại Sài Gòn và cộng tác với các báo Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Văn, Khởi Hành, Mai, Tân Văn, Bách Khoa...

Năm 1962, Võ Phiến lập nhà xuất bản Thời Mới.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông định cư tại Los Angeles, Hoa Kỳ. Võ Phiến tiếp tục xây dựng nền văn học Việt Nam tại hải ngoại, xuất bản tập san Văn Học Nghệ thuật từ 1978 đến 1979, và từ 1985 đến 1986. Ông sống tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ. Ông qua đời lúc 7 giờ tối ngày 28/09/2015 tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 90 tuổi

 

Nhận xét

Giáo sư Trần Đình Sử, nhà phê bình, đánh giá rất cao các bài tùy bút của Võ Phiến: “Trước đây ta cho rằng Nguyễn Tuân viết tùy bút số một, nhưng còn Võ Phiến. Nhiều khi tôi trộm nghĩ tùy bút Võ Phiến không hề thua kém, thậm chí có khi hơn.”

Về Một Xóm Quê

Vậy là yên phần của chị Hai tôi. Còn mười đám ruộng nữa thì tôi về đến nhà. Và tôi sẽ thuật lại với ông tôi những giờ phút cuối cùng của chị. Có lẽ tôi phải kể lại tất cả những điều tôi viết trong các lá thư đã gửi về. Kể rằng suốt hai tháng nay, từ khi vào bệnh viện, chị tôi nằm liệt trên giường, mặt chị càng ngày càng teo tóp và da mặt vàng quá lắm đến nỗi trông như xoa nghệ. Chị trông vào đèn thấy ánh sáng vàng sẫm lại. Gần đây, ba bốn lần trong một ngày chị ngất đi, khi tỉnh dậy chị mân mê sờ thử các ngón tay mình, và cảm thấy mỗi ngón tay lớn dần lên, lớn bằng mỗi lóng mía tây. Chắc ông tôi cũng sẽ bảo tôi kể lại những cơn ho khiếp hãi của chị.

Như thế cái chết của chị có nhiều điều để nhắc nhở hơn là cái chết của anh Hai tôi. Khi anh tôi đi chuyến dân công cuối cùng, anh không cho giặt chiếc chiếu vẫn lót cho đứa cháu trai đầu lòng mới mười ba tháng; anh muốn mang theo cả mùi nước tiểu của con để những đêm nằm trên núi bớt nỗi nhớ con. Người con trai quê mùa đó ít đi xa nhà lắm. Khi ra đi lại không gặp may. Trong một quyển sách ngoại ngữ nào đó có câu:

La Victoire, un jour, les cherchant,

Les trouvera trois pieds sous terre...

Câu đó nói đến những người tốt số. Còn anh Hai tôi thì dẫu kháng chiến thắng lợi, Vinh Quang có muốn cũng không biết tìm đâu cho thấy hài cốt. Anh tôi chết không có mồ. Và cũng không chắc được vùi sâu đến ba tấc đất.

Còn mươi đám ruộng nữa thì tôi về đến nhà, gặp ông tôi và đứa cháu vừa mất mẹ. Tôi không thấy có gì buồn thảm lắm, mà chỉ thấy một cảm giác dã dượi. Trước cảnh chiều, lòng tôi thản nhiên, nguội lạnh như trước một cảnh điêu tàn đã quen thuộc. Con suối khô, cát dưới chân kêu rào rạo, còn giữ hơi nóng âm ấm. Một đường nước con, không ngập khỏi mắt cá chân, chảy ngoằn ngoèo giữa suối. Trước khi tôi trèo lên khỏi bờ suối bên kia, một con mèo từ trong bụi bước ra cách tôi vài mươi thước tây. Nó nghẻo đầu lại nhìn một lát bằng cặp mắt buồn rầu, rồi như thấy rằng tôi không phải là một nhân vật đáng quan tâm, nó tiếp tục đi thẳng.

 

 

Phải. Cả tôi và nó đều là những người và vật rất tầm thường, không có gì tuấn kiệt, cùng sinh trưởng ở một vùng quê không có gì đáng gọi là linh địa cả. Xóm tôi ở sát mép một khu đồi. Ngày xưa có nhiều gia đình rải rác ở sườn đồi và tận trên đỉnh đồi. Dần dà những gia đình ấy điêu tàn, suy sụp và lần lượt dời nhà xuống chân đồi. Bây giờ trên ấy thành ra gò hoang, còn lại mấy mươi cây dừa còi và ba cái giếng cạn mà trẻ chăn bò thường thi nhau đứng từ xa ném đá xuống như thảy tiền vào lỗ đáo.

Một lượt di cư ấy cũng chưa khiến cho vùng chúng tôi phát đạt. Toàn xóm gồm năm mươi ba gia đình, mà tính ra đã ngót mười gia đình có kẻ chết vì bệnh lao. Tôi cứ e ngại. Đối với người đồng hương tôi đành phải nói lén lút vụng trộm, chứ thực ra sự kiện này chưa hề được xác nhận rộng rãi ở xóm tôi. Ông Ba Hề thuở sinh thời vẫn khăng khăng quả quyết rằng chứng bệnh của ông cần phải gọi chính danh nó là ho tổn. Kẻ nào bảo là ho lao đều sai cả. Hai Nhiên từ khi phát bệnh cho đến khi chết chỉ có sáu tháng, cho nên cứ theo lời thánh y qui định rằng “cửu khái thành lao” thì bệnh ho ấy dứt khoát chưa có đủ thời gian để thành bệnh lao chính thức. Còn ông Tám Linh, ban đầu ai cũng cho là mắc đúng bệnh lao. Mãi đến tháng bảy năm ngoái, một đêm nóng bức, ông rón rén mở cửa ra đi, xách theo một đoạn dây dừa; mờ sáng hôm sau người ta tìm thấy xác ông treo lủng lẳng trên một cành cây rù rì trước miễu mới hay ông ta mắc phải chứng tà. Các trường hợp khác cũng không đơn giản hơn chút nào, cho nên tôi có cho rằng tất cả mười người đều chết vì bệnh lao, chẳng qua là một lối nói hồ đồ, trong lòng riêng lấy làm ái ngại.

Trừ mười nhà bệnh tật kia ra, còn lại hơn bốn mươi gia đình để sống với đời thì cũng chưa có kẻ nào làm được điều gì hiển hách vẻ vang. Họa chăng có thể kể đến tên một kẻ hào hoa là Bái Công và một kẻ có chút công danh là phó lý Biên.

Bái Công đã già lắm và gầy nhom, đen thui thủi, râu tóc lưa thưa xơ xác. Chính tên thật là Bái, đáng lẽ nên gọi là ông Bái. Ông Bái, dịch ra là Bái Công cũng không sai nghĩa; vả lại người trong xóm đều đồng ý để cho ông ta chia một chút vinh quang của nhà Hán nên đều gọi ông là Bái Công. Bái Công sống không vợ không con đến già trong một túp nhà chật hẹp. Thuở bé Bái Công thích gánh pháo tre đi bán chợ Tết, đứng giữa hai bầu pháo, rao ba hoa năm bảy câu, bóc miếng giấy ngũ sắc dán trên ngòi, châm lửa, ném chiếc pháo vào giữa đám trẻ con xúm xít, đợi pháo nổ đánh đùng rồi cười ha hả. Lớn lên Bái Công thích đánh võ, đã từng rước thầy Tàu về nhà học hai năm. Tiếng đồn rằng ông ta có thể đứng trên cái hộp quẹt múa xong một ngọn thảo mà hộp quẹt không vỡ. Khi đã đứng tuổi Bái Công mới thích cờ và rượu. Nhiều lần, đêm khuya đi uống rượu về, Bái Công bị hai chân bất lực vất bỏ giữa đường. Người ta gặp ông nằm sấp úp mặt xuống bờ ruộng hát nghêu ngao, mặc cho lũ sao trời nhấp nháy sau lưng thâu đêm. Về già con người hào hoa đó sống chật vật, lui hui trong bếp nấu từng bữa cháo cho heo như một người đàn bà rất tầm thường.

Còn phó lý Biên trong thời kỳ nắm quyền hành cũng không để lại được một tiếng thơm. Một đêm khuya nào đó có người dân làng mở cửa vào phòng bất ngờ trông thấy phó lý Biên nằm chung giường với vợ mình. Trước sự phát kiến không hợp thời, ông phó lý phi thân qua cửa sổ rất nhẹ nhàng, tưởng rằng thế là đã tìm được một cách giải quyết công việc ổn thỏa nhất. Không ngờ việc đến tai viên chánh tổng. Viên này giẫy nẫy lên kêu rằng đêm hôm đó phó lý Biên đã dày xéo lên hạnh phúc của mình. Người dân làng đau đớn thêm một lần nữa. Vợ y thẹn thùng, sợ hãi thêm. Còn phó lý Biên thì gặp ngay một trở ngại trên bước đường công danh.

Sau những nhân vật như đã kể vừa rồi, tôi tưởng đã đến lúc có thể bắt đầu nói ít nhiều về gia đình mình. Khi tôi lớn lên thì các cô tôi đã đi lấy chồng, ba tôi đi làm ăn xa trong Nam, chú tôi lang bang. Ở nhà chỉ có cụ ông cụ bà đã cao niên, cùng má tôi và hai anh em tôi. Ba tôi thấy cảnh nhà cơ cực, bỏ nhà ra đi bảy tám năm mất dạng, không có một lá thư gởi về. Gia đình biết rằng ba tôi không phải là người bạc bẽo, phóng đãng, nhưng lệ thường ở quê tôi những kẻ bỏ nhà ra đi mà chưa dành dụm gầy dựng nên cơ nghiệp gì thì chưa chịu trở về và chưa lộ tung tích với bà con, vì tự lấy đó làm một điều xấu hổ. Chú tôi có chút học thức, nhưng lại thích sống tự do, lang bạt khắp nơi, không biết cày ruộng mà cũng không chịu đeo đuổi một nghề nghiệp gì, khiến bà tôi rất lúng túng mỗi khi phải trả lời với bà con xóm giềng về chức vụ của chú. May sao, không biết tự đâu, dân làng nảy ra cái ý gọi chú tôi là thầy ký. Đó thực là một sáng kiến hay ho vẻ vang của quần chúng. Gia đình tôi liền xác nhận chức vị của chú ký, mặc dù chú không từng làm thông ngôn ký lục cho chính phủ bao giờ.

Thuở bé tôi mến chú. Chú thường nay đây mai đó, ghé về nhà không có định kỳ. Mỗi chuyến về của chú là một việc quan trọng trong gia đình, và là một cơ hội thích thú đối với tôi. Trong va-li của chú lần nào cũng có những món là lạ, xinh xắn: những tấm hình thực đẹp, những con voi, con khỉ tiện bằng ngà, bằng sừng, những cái nhẫn làm bằng vỏ ốc, bằng xà cừ, những cái khăn tay nhỏ xíu, những con bướm bằng bìa chỉ cần gác một đầu lên ngón tay là có thể lơ lửng chấp chới v.v...

Thường thường về đến nhà chú ký quay ra ngủ, để bù lại những đêm trước thức chơi bời hay đi xe đi tàu. Tôi lân la đến nằm bên cạnh, ngắm nghía những cái nhíp, cái dao con thật xinh dính vào xâu chìa khóa trễ ra ngoài túi, và tôi nằm hít mùi nước hoa thơm thoang thoảng bên mình chú ký, trí mơ tưởng đến cái thế giới thị thành kỳ lạ ở đâu đó, cách xa xóm đồi chúng tôi.

Phần nhiều mỗi lần chú ký về, ông bà tôi im lặng trong một vài ngày để chú nghỉ ngơi. Sự im lặng tôi thấy có phảng phất cái gì khó hiểu. Rồi sau đó khởi lên cuộc rầy rà to. Bà tôi mắng nhiếc, có khi lấy cây đập lên lưng chú tôi. Không khí trong gia đình căng thẳng mấy hôm, cho đến khi bà tôi dịu xuống thì chú ký lại nêu lên qua quít một lý do vu vơ rồi xách va-li ra đi. Cô tôi cắt nghĩa rằng ông bà tôi bất bình vì chú tôi đã ngót ba mươi tuổi đầu mà vẫn chơi bời, không chịu cưới vợ, không chịu nghĩ đến tương lai. Những khi bị chất vấn đến kỳ cùng, chú tôi vẫn khăng khăng bảo rằng chú chưa tìm ra một người đàn bà đủ đức hạnh để làm bạn trăm năm. Có lẽ chú ký tôi đã chọn qua ngót trăm người con gái, trong số đó có nhiều kẻ trước khi gặp chú thì vẫn hãy còn đứng đắn. Thế mà vẫn chưa tìm thấy đức hạnh. Cho hay việc tìm kiếm đức hạnh cũng kham khổ như việc ngậm ngải tìm trầm. Cả nhà tôi đành thúc thủ, để mặc chú tôi một thân băng mình vào giới phụ nữ bốn phương, xông pha mạo hiểm một cách tuyệt vọng.

May sao, cuối cùng rồi chú ký cũng gặp gỡ được thím ký, hiện thân của đức hạnh.

Trong những năm mà ba với chú tôi còn lang thang xiêu bạt thì cả gia đình trông cậy vào ông tôi. Ông tôi là một nhà nho thất thời, từng hỏng một lần ở trường thi hương. Thuở nhỏ ông đã nghe tiếng súng của nghĩa quân cụ cử Mai Xuân Thưởng bắn xạch xạch như tát nước gàu sòng làm cho sĩ tử khắp tỉnh bừng lên nao nức. Nhưng rồi tiếng súng cụ cử Mai im bặt, cụ cử Mai bị xử tử. Ông tôi cũng từng theo đám người lao nhao vác rựa đi “làm giặc” trước cổng thành Bình Định, rồi Pháp lại giải tán Giặc Rựa. Ông bèn đánh bạc một thời gian; sau đó, nguôi ngoai thế sự, ông tôi ra làm hương bản trong làng. Cứ thế suốt hai mươi năm trời ông tôi vừa phục vụ một chính phủ đặt dưới quyền người Pháp vừa nguyền rủa người Pháp thậm tệ. Và năm này qua năm khác, cả nhà tôi đau đáu nhớ trông ba tôi biệt tích, chú tôi phiêu lãng.

Vào những buổi trưa vắng vẻ, tôi lúc thúc ở nhà dưới, quanh quẩn chơi bên cạnh bà và má tôi, bỗng nghe ông tôi đang nằm một mình ở nhà trên, cất tiếng thét lớn:

“Quan hầu nhập yết, nhập yết, ãi ãi... Tâm như hỏa liệt hỏa liệt! Nhĩ tợ lôi oanh lôi oanh! Quan Vân Trường bội ngô huynh trưởng, hàng Tào lập công, Phi hỏi chơ: Hà sự đáo ngã thành, tất kỳ trung hữu trá. Chư tướng! Truyền chỉnh tu binh mã, mau bố liệt can qua. Âu là, huy xà mâu sát phá oan gia! Trăm lạy đại ca, ngàn lạy đại ca, xin chiếu giám cho Phi, phen này Phi nói thiệt, huyền thủ cấp báo ngô ca trưởng...” 1

Giọng thét dồn dồn đầy nộ khí vang lên trong ngôi nhà vắng lặng, bỗng dưng phát lên rồi bỗng dưng dứt hẳn, làm cho chung quanh tưng hửng sững sờ. Chúng tôi lại càng thấy cảnh nhà vắng vẻ và trống trải thêm. Có khi một lát sau nghe có tiếng guốc lẹp kẹp của ông tôi. Tôi rụt rè ngẩng đầu lên thì thấy nét mặt ông tôi lại bình thản, đôi khi có một vẻ lạnh tanh ngao ngán, chẳng còn đâu là dấu vết của cái nộ khí bừng lên trong giọng hát vừa rồi. Bà tôi không ngừng công việc, liếc nhanh về phía ông, ái ngại. Không ai nói gì, nhưng trên tất cả mọi người tôi cảm thấy rõ ràng đè nặng một mối buồn về cảnh nhà ly tán.

Đến năm tôi lên bảy, ba tôi mới trở về làng với hai chiếc va-li to tướng làm cả xóm vây quanh nhà tôi suốt một buổi chiều để trầm trồ khen ngợi về điềm hưng thịnh của gia đình. Tuy thế mà ba tôi cũng không thể ở nhà được quá hai năm: ở xóm quê tôi sinh kế quả thực là quẫn bách. Lần này ra đi ba tôi đem cả má tôi và đứa em trai mới sinh ra, đi vào Nam lo làm ăn. Cảnh nhà lại càng xơ xác. Những buổi trưa — lại vẫn những buổi trưa — tôi nằm ngủ lơ mơ bỗng giật mình thức giấc, nheo mắt nhìn ra đám chuối sau vườn đứng dưới ánh nắng chói chang, vài đám mây trắng chết trân trên đầu, nghe vang lên tiếng con chim khách lảnh lót như tát vào tai, tôi thấy tất cả cái trống trải vắng vẻ của không gian trưa hè hắt lọt vào lòng. Và tôi thấm thía nỗi buồn của ông tôi khi người nhìn thẳng vào cái quạnh vắng của cảnh nhà mà thét lên như cố xua đuổi: “Ãi ãi, quan hầu nhập yết nhập yết!” Tôi thấm thía tất cả ý xót xa, ái ngại, chán nản trong cái liếc nhìn của bà tôi.

 

 

Chú tôi thỉnh thoảng ghé về một ngày, ba tôi thỉnh thoảng gửi về một lá thư. Anh Hai tôi tập nắm chuôi cày. Và tôi thì may mắn được cắp sách đi học. Cuộc đời của chúng tôi đang diễn ra như thế thì chiến tranh nổ ra giữa Pháp với Đức.

Cái kết quả đầu tiên của cuộc chiến tranh ấy có những chỗ tốt đẹp không ngờ. Ông tôi đang sống uể oải, buồn nản, bỗng nhiệt thành hoan hỉ lạ kỳ. Thì ra đã bao nhiêu năm giữ một chức vụ nhỏ dưới chế độ bảo hộ, ông vẫn ôm giữ mối thâm thù nhẫn nhục rất kín rất nhũn của lớp nhà nho đối với quyền hành người Pháp ở xứ này, lớp nhà nho mà lịch sử đã dần dà thu hết sinh lực. May đâu dân tộc Đức lại đập ngay vào nước Pháp để cho ông tôi hể hả biểu lộ một hình thức đặc biệt của tinh thần phản đế.

Chiều chiều tôi đi học về, cắp theo một tờ báo. Hai ông cháu xúm lại hăng hái nghiên cứu về những vấn đề mà có lẽ bộ tham mưu của Hitler cũng ngại ngùng. Chúng tôi tính xem trong bao lâu thì quân Đức chọc thủng chiến lũy Maginot, tính xem có cần xua quân tràn qua Bỉ và Hòa Lan không. Trong lúc đó thì cả hai ông cháu đều mù mờ về vị trí các nước ấy. Nói chung là về vị trí mọi nước. Ông tôi bảo tôi mang cái bản đồ trong quyển địa lý lớp nhất ra, rồi người đeo mục kỉnh lên. Tôi dò dẫm hồi lâu, chỉ cho người đâu là nước Đức, đâu là nước Pháp. Người khoan khoai ngắm nghía:

- Ờ! Nước Đức đấy hả? Nước Đức thật đấy à! Ở cái chỗ trông đắc địa quá.

Sau khi ngắm đi ngắm lại kỹ lưỡng những ô đỏ, ô xanh trên bản đồ ấy như hai nhà tướng số xem nốt ruồi để luận về hậu vận, lần nào chúng tôi cũng đi đến kết luận là nhất định Đức sẽ tiêu diệt Pháp. Và chúng tôi cũng còn định cả một thời hạn tối đa cho quân đội quốc xã phải tiến đến Ba-lê.

Những điều tính toán của chúng tôi tiếc thay lại không được công bố để bổ túc cho quyển Mein Kampf. Dù sao đó cũng là phương tiện cách mạng phản đế hợp lý nhất mà một ông hương bản với một cậu học sinh tiểu học có thể phối hợp sử dụng.

Được chúng tôi ủng hộ như thế ít lâu, quả nhiên Đức đánh bại Pháp. Ông tôi và tôi cùng sung sướng và kiêu hãnh như chính mình đã dự một phần cam go trong chiến cuộc. Tôi thầm mong cho chiến tranh cứ tiếp diễn và sẵn sàng vui lòng tiếp tục điều khiển nhiều trận đánh như trận Pháp – Đức nữa.

Sau đó thì ông cháu tôi cùng nhau ủng hộ nước Nga. Cái nguyên cớ đầu tiên nào đã khiến chúng tôi muốn đứng bên cạnh thống soái Staline, bây giờ khó bề nhớ lại cho rành mạch. Chỉ nhớ chính vào lúc ấy chúng tôi bắt đầu nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản. Chuyện ấy xem ra cũng chẳng tốn mấy công sức. Ông tôi suy diễn hai chữ cộng sản ra đến nơi đến chốn, rồi đối chiếu với những lời đồn đại tản mác lâu nay trong quần chúng làng Thanh Bình về chủ nghĩa cộng sản ở nước Nga, lại cẩn thận đem ra đối chiếu với kiến thức của các lý hương các làng kế cận có dịp giao du. Thế là hai ông cháu đủ am tường về chủ nghĩa nước Nga. Ông tôi thường tiếc thầm rằng nếu cả Khổng Tử cùng Lão Tử ra đời chậm đi hăm lăm thế kỷ thì Các Mác đã kết nạp được thêm hai đồng chí đắc lực, có thể mời giữ chức cố vấn. Những hôm nhà có ngày kỵ, các cô và dượng tôi về đông đủ, ông tôi khoe với mọi người rằng Các Mác sắp sửa diễn lại trên thế giới cuộc sống của đời vua Nghiêu đúng như lời sách thánh hiền đã nói ngày xưa. “Sắp sửa rồi đấy! Chỉ còn trận đánh nhau với Đức này nữa là xong. Rồi thì là thế giới đại đồng: đêm ngủ không cần đóng cửa, đồ vật rớt ngoài đường không ai thèm lấy; mọi người đều đủ thóc mà ăn, đủ vải mà mặc, kẻ già người yếu có chỗ nuôi dưỡng.”

Bà tôi vừa hỏi dò dẫm vừa giả vờ khiêm tốn từ chối một hạnh phúc quá lớn lao: “Còn lâu chứ dễ gì đã cộng sản ngay được? Lớp tuổi mình chắc gì được hưởng. Sợ e rồi chết rụi cả trước khi cộng sản tới!”

Hai ông cháu tôi cùng quả quyết cam đoan:

- Cũng chẳng mấy chốc nữa đâu! Sắp sửa rồi! Sắp sửa rồi! Thắng một trận này là xong!

Rồi bỏ rơi các người đàn bà, chúng tôi xoay ra bàn với nhau về chiến sự ở Nga. Từ ngày xảy ra chiến tranh ở Âu châu, nhờ được theo học chữ Tây, tôi được ông tôi nâng lên một địa vị quan trọng. Những khi bàn luận như thế, điều làm cho chúng tôi an tâm nhất là cái diện tích mênh mông của nước Nga. Lối hành quân của các tướng lãnh Đức thật là bạo tàn mãnh liệt, nhưng chúng tôi đã quyết tâm rồi. Chúng tôi nhất định không bỏ rơi nước Nga xô-viết. Ông cháu tôi tính toán với nhau, quyết định đem thí một nửa nước Nga để làm kiệt quệ sinh lực của Đức, rồi sau này mới liệu thế mà tấn công. Kế hoạch ấy được đem ra phổ biến rộng rãi khắp làng Thanh Bình. Do đó mà trong những ngày nguy nan nhất ở Stalingrad cả Ba Hề, Hai Nhiên, cả Bái Công cùng xúm nhau góp ý kiến với chúng tôi. Rồi cộng sản mon men lần lần đến nước ta. Rồi khi cách mạng hô khẩu hiệu ngay trước cổng nhà chúng tôi, thì ai nấy đều tươi tỉnh như vừa đánh thắng cá ngựa!

Chú tôi cũng vừa về làng đem theo thím ký tôi, hiện thân của đức hạnh, và một đứa con trai. Sự tình cờ đã cho chú gặp ngay cuộc cách mạng thì chú cũng chẳng có ý tỏ ra ghẻ lạnh. Chú nhận một chức ủy viên Lao Động trong ủy ban xã. Từ đó người trong làng gọi chú tôi là ông Lao Động. Cố nhiên thím tôi phải được gọi là bà Lao Động. Các cô tôi đều cùng một quan niệm cho rằng chức tước của cách mạng thật ngô nghê. Ông tôi thì đã từng nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản từ trước nên hiểu rằng chú tôi đã chọn một chức vị vinh dự. Còn bà tôi thì người bằng lòng đổi trọn cả cuộc cách mạng mùa Thu để cho chú tôi được thiên hạ gọi là thầy ký như cũ. Thế nhưng lịch sử cứ đi thẳng con đường định mệnh của nó, và chú thím tôi cứ nghiễm nhiên thành ra ông Lao Động và bà Lao Động, không có cách gì sửa đổi được, mặc cho những ý kiến dị đồng xôn xao trong gia đình.

Dần dà người ta lại được biết thêm rằng cách mạng còn lắm điều mới lạ nữa. Cô Bốn tôi chạy về mách với bà tôi nửa kiêu hãnh nửa ngượng ngùng rằng cô đã hóa thành bà Quân Sự rồi. Chao ôi! Thực là mầu nhiệm! Nếu không có cách mạng đố ai biết được dượng Bốn tôi có tài thao lược để đảm nhiệm chức vụ ủy viên Quân Sự xã? Và Bái Công cũng đứng ra nhận chức ủy viên Ngoại Giao. Cứ thế mỗi làng đều có đầy đủ ủy viên Văn Hóa, ủy viên Xã Hội v.v... Bao nhiêu là người trong làng Thanh Bình bỗng nhiên thấy mới ra vì cách mạng. Thế mà cách mạng chưa chịu ngừng lại ở các ông bà ủy viên. Nó cứ nhất định tiến sát xuống quảng đại quần chúng. Hầu như mọi người đều có danh hiệu, mỗi xóm có vô số bậc lãnh đạo, gọi là tổ trưởng, đoàn trưởng, đội trưởng, xóm trưởng, liên gia trưởng, vùng trưởng...

Đã từng nghiên cứu về chủ nghĩa của Nga xô như ông tôi rồi cũng đến phải ngẩn ngơ. Người không ngờ rằng để tiến về cảnh thái bình thịnh trị của thời Nghiêu Thuấn lại cần phải ghép người ta vào những tổ chức chặt chẽ như thế, đặt ra nhiều kẻ cầm đầu như thế. Tuy vậy không vì lẽ gì mà nhất đán người có thể dễ dàng rời bỏ chủ nghĩa nước Nga. Người vui vẻ giơ nắm tay lên ngang đầu chào hết các đồng chí già trẻ trong làng Thanh Bình.

Từ đó về sau suốt chín năm, xóm đồi của chúng tôi đã làm cách mạng như thế nào thực là ngổn ngang trăm nỗi không tài nào kể hết. Chỉ biết khi chuyến tàu cuối cùng chở bộ đội tập kết ra Bắc rời khỏi quân cảng Qui Nhơn thì xóm làng như giật mình ngơ ngác tưng hửng, tựa hồ một con đồng đang lảo đảo múa men chợt tỉnh mùi nhang, sực nhìn lơ láo. Và cũng tựa hồ một con bệnh kiệt quệ, cạn sinh lực: gần hết những kẻ trai tráng không còn ở xóm làng nữa.

Riêng gia đình tôi thì trong những năm quẫn bách người thím đức hạnh mà chú tôi đã dày công tìm kiếm cũng không có điều kiện thích hợp để phát huy đạo đức. Thậm chí trong cuộc sống thiếu thốn giữa thím với anh chị Hai tôi có khi không tránh khỏi đôi điều xung đột làm cho bà tôi rất khổ tâm. Nhưng rốt cuộc, sau mọi gian khổ, bà tôi chẳng còn, chú tôi cũng mất, anh và chị Hai tôi rồi cũng qua đời. Và thím tôi thì thật đã vô cùng cơ cực.

Riêng ông tôi vẫn còn ôm những hoài bão lớn lao. Ngày ngày ông ngồi mơ ước sự sụp đổ của đế quốc Nga xô.

Cuộc đời dừng lại ngẩn ngơ chẳng bao lâu, rồi cuộc đời lại ro ro tiếp diễn. Chính quyền mới thiết lập. Và phó lý Biên trở ra tham chính, quản trị cả thôn. Thời kỳ nghiêm trọng chưa qua nên thôn trưởng cần được võ trang: ông võ trang bằng một con roi mây. Bà con xóm gò quấn quýt xung quanh phó lý Biên (bỡ ngỡ như con đồng vừa tỉnh mùi nhang khói), ngơ ngác ngẩng tìm một hướng tin. Thì chẳng biết từ cõi hư vô nào phát ra cái dư luận cho rằng phải quì xuống sụp lạy trước một đấng chí tôn mới ra con người lương thiện, rằng không tín ngưỡng không thể gọi là đứng đắn. Trước khi ông thôn trưởng kịp ra tay tìm xét lai lịch của dư luận kia thì dân xóm gò đã rối rít lên, kẻ chạy vào nhà thờ, người chạy vào nhà chùa. Hai đấng cứu thế cơ hồ không kịp chìa tay ra ôm lấy chúng sinh ùa ngã vào lòng.

 

 

Tôi đứng cách xa mười đám ruộng trông vào xóm tôi trong buổi chiều vắng vẻ. Ở phương tây có một đám mây đậm màu lặng lẽ nhìn một đám mây đậm màu lặng lẽ ở phương đông. Cuối xóm, lại một đám mây đỏ bầm đứng yên lặng bên cạnh dăm cái tàu dừa cũng yên lặng, không phe phẩy một lá nhỏ. Hai bên định đương đầu nhau hàng giờ. Nhưng rồi đám mây buồn bã xịu màu xuống, tái dợt dần, chuyển ra xanh lạt, rồi xanh đậm. Trên đầu dãy núi tím, mây vẩy tê tê, màu xám. Dần dần bao nhiêu vẩy tê tê đều hóa ra lông chim phơi phới, và trở màu thâm đen...

Tôi ngẩn ngơ, lạc lõng. Ra chiều chiều, những buổi chiều long trọng như thế, xung quanh xóm tôi vẫn hằng bố trí một cuộc mây núi bốn bề thi nhau, đùa nhau, vây nhau, biến hóa đổi màu thay sắc lặng lẽ bao la trong một trò chơi lớn mà cả xóm gò chẳng ai hay biết đến!

Nhìn một ánh lửa đỏ loe ở nhà Bái Công nhảy chấp chới trong bếp, tôi tự nhiên cảm thấy tất cả cảnh côi cút bé mọn ở cái sinh hoạt của dân cư xóm gò. Qua bao nhiêu thời gian rồi! Bao nhiêu lần gió thổi cờ bay phất phới trên cao... Đến bây giờ đêm đêm phó lý Biên vút vút con roi kỷ luật, giữ yên tĩnh cho xóm làng. Và ông Bái Công hào hoa lại lui cui nhen một ánh lửa chấp chới trong buổi hoàng hôn...

Tôi tiếp tục đi về xóm. Về để kể lại cho ông tôi nghe cái lúc chị tôi mất ở nhà thương, và để nói với ông rằng những dò hỏi tìm kiếm về tin tức của gia đình ba má tôi ở trong Nam đều không có kết quả.

 

Tôi muốn kể chuyện dâu bể của xóm tôi. Nhưng quả rằng xóm quê tôi tầm thường chẳng phải là nơi linh địa. Cho đến những điều dâu bể cũng tầm thường nhạt nhẽo, chẳng thành chuyện ra hồn. Chỉ nghe một cái gì buồn rả rích như từng giọt từng giọt của trận mưa dai dẳng kéo dài, kéo dài qua... qua cái gì? Qua suốt mười mấy năm dài chưa dứt sao?

1957

Chú thích:

1 Tuồng Tam Quốc (tú Thận).

Xem Sách

Chàng nhổm dậy, hạ lưng ghế xuống thêm một bực nữa. Rồi xoay người lại, nằm thử. Bấy giờ thì thật là hoàn toàn thoải mái. Chiếc ghế vải này vừa vặn lắm.

Ở hè nhà, phía ngoài đường lớn, có tiếng rắc rắc đều đều của chiếc tông-đơ hớt tóc đang hoạt động. Người thợ đặt một bàn làm việc nhỏ ngoài hè. Còn phía bên này thì có con hẻm lát gạch tử tế, hẻm vượt quá nhà chàng là tịt: một ngôi nhà chận bít nó lại. Ngay trước nhà ấy có chum nước, lâu lâu nghe có tiếng người ra chum múc nước rửa ráy. Tất cả những tiếng động ấy, những hoạt động ấy, đều ở bên ngoài. Tất cả chỉ củng cố thêm cảm tưởng an toàn của chàng. Chàng hoàn toàn được an toàn lúc này, không còn nghi ngờ gì nữa.

Bên ngoài trời lại vừa đổ mưa nặng hột nữa. Càng tốt. Như thế càng tăng thêm cảm tưởng an toàn. Không nghe tiếng mưa rơi, nhưng khi mưa đã đủ nhiều thì nước từ máng xối đổ xuống lách tách. Chàng đánh diêm châm thuốc. Hút cho ấm, ngả người trên ghế vải, trong một gian phòng đóng cửa thật kín, gian phòng của chàng, bên cạnh kệ sách, chiếc giường, và những áo xống của chàng mắc trên vách...

Trong tấm gương ở mặt tủ, chàng chợt thấy phản chiếu đầu chàng, ngậm píp. Trong gian phòng lờ mờ cái đầu thiếu chi tiết trông quả là giống bức họa của Liêu Hà vừa trông thấy ngoài hè phố. Họa sĩ Liêu Hà là bạn chàng từ ba mươi năm. Hắn ta đã theo dõi khuôn mặt và đầu chàng từ lâu. Trong ba mươi năm, tùy theo các phong trào nghệ thuật kế tiếp nhau — ấn tượng, siêu thực, lập thể, vô hình dung, trừu tượng v.v... — hắn đã vẽ nhiều đầu và mặt chàng, khi theo lối này khi theo lối khác.

Còn chàng, đâu phải vừa. Thoạt tiên, khi mới có thơ đăng báo lai rai, chàng lừa cơ hội đưa ra tấm hình đẹp trai nhất của mình. Cái hình trong đó chàng ăn mặc chỉnh tề nhất và mỉm cười. Về sau, chàng thích được chụp hình với mấy cuốn sách trên bàn. Trên ba mươi tuổi, hồi đó chàng đã vững chỗ ngồi trên thi đàn, tâm hồn đã chín chắn hơn, chàng ăn mặc tự nhiên có chút cẩu thả: thường thường chỉ có sơ-mi, không cà-vạt; gương mặt có nét suy nghĩ thường xuyên. Đến lúc chàng bắt đầu mang kính trắng và hút píp thì Liêu Hà kiểu thức hóa cái đầu chàng một cách tài tình bằng ít nét đơn sơ. Trông qua, nhận ngay ra chàng. Điều quý báu hơn nữa là còn nhận được kẻ có khuôn mặt ấy phải là một nghệ sĩ đang có nhiều băn khoăn trước cuộc đời. Hai con mắt với cặp kính tròn xoe thao láo nhìn vào một nỗi hoang mang đáng hãi. Đó là chàng, mà đó cũng là một nghệ sĩ nói chung của thời đại, là một biểu hiệu đẹp đẽ dùng chung cho cả giới. Chắc chắn vì thế mà hình vẽ của Liêu Hà được phổ biến rộng rãi nhanh chóng, lắm khi được dùng như một hình trang trí ở mục thi ca các tạp chí. Dần dần, đối với đa số độc giả nó không còn là khuôn mặt chàng, khuôn mặt của một ai nữa; đó là khuôn mặt của nghệ sĩ. Chẳng bao lâu, đó sẽ là khuôn mặt của nghệ thuật.

Ban chiều, lúc dừng chân bên một hàng sách lộ thiên ở đường Lê Lợi, chàng trông thấy cái đầu kiểu thức hóa của mình trên bìa một tờ báo. Đây có vẻ một tờ nội san, ruột in ronéo, nhưng bìa in màu tử tế. Trời mưa lắc rắc, chủ hàng phủ lên sách một tấm ny-lông. Qua tấm ny-lông cũ lấm tấm nước, chàng đứng nhìn khuôn mặt mờ nhòe của mình một lúc.

Không ai biết, người chủ hàng sách, những người qua lại, những người mua sách loanh quanh bên cạnh chàng, không ai biết, không ai nhận ra liên hệ giữa chàng và cái hình vẽ trên bìa báo nọ, tuy hình vẫn giống chàng. Rất giống, nhưng giữa một bức chân dung đẹp với một thi sĩ trên năm mươi tuổi già, dựng chiếc xe gắn máy bên lề đường, dạo xem sách lộ thiên, mưa rơi trên mái tóc bạc... Một bên đi vào thế giới những trừu tượng không suy suyển của nghệ thuật, một bên đang chịu những khốn đốn của một thể xác nặng nề đến thời hủy hoại.

Nhìn khuôn mặt mờ nhòe của chính mình qua tấm ny-lông che mưa, chàng đã nghĩ đến điều ấy. Chàng cũng nghĩ đến tất cả những lòng vòng dài dằng dặc của con đường gian nan đi tới vinh quang, những lo lắng, mưu mẹo, những xung đột, va chạm, những thất bại dọc đường. Dĩ nhiên không quyền lực nào có thể bắt được chàng đi lại con đường đó, không ai đi lại con đường đời mình hai lần, tuy vậy nghĩ đến chàng vẫn ngại. Dĩ vãng như một công trình cố gắng quá lớn lao, chàng không đủ sức chịu nổi một ý nghĩ về nó nữa.

May thay, chàng đã nằm trong phòng, gian phòng của chàng. Chàng hút thuốc. Và khói thuốc bay lên trong phòng chàng, thong thả, điềm tĩnh, yên ổn hơn bất cứ bay ở đâu. Chàng đã ở bên cạnh những cuốn sách xếp trên kệ, vứt trên bàn: đó là những thứ hết sức hiền lành. Bốn mươi năm gần gụi đã cho chàng biết chắc chúng không thể làm được điều gì bất ngờ. Bên cạnh chúng, chàng tha hồ yên tâm.

 

 

Chàng chỉ yên tâm được bên lũ sách của mình. Không thể yên ngay cả ở những tiệm nước ba tàu, nơi mọi người vẫn tự do đến tiêu phí thì giờ thừa thãi, tự do ngồi dựa vách lơ mơ hàng giờ, khạc nhổ v.v...

Chàng vào một tiệm như thế. Bàn bên cạnh gọi hai ly cà-phê sữa. Chàng vẫy bồi bàn lại: một chú nhỏ béo bự, con mắt bên trái mang một cái bướu sưng vù bằng quả cam. Mắt bên ấy bị híp mất, có lẽ từ nhỏ. Hắn đến, nghiêng người xuống (chàng có tính gọi món ăn món uống giữa chỗ đông người bao giờ cũng kín đáo, nhỏ tiếng). Chàng dặn: một tách sữa nước sôi, cho vào chút cà-phê, ngần này. Chàng dùng hai ngón tay ra dấu cho hắn thấy rõ: chỉ một xíu. Dứt lời rồi, chàng lại thêm: “Một tí ti, cho sữa khỏi tanh thôi. Tôi không chịu được cà-phê nhiều: nhức đầu.” Chàng vỗ nhẹ vào trán, nơi chàng thấy nhức đầu, rồi cười với chú bồi bàn...

Nghe xong, hắn ngửng mặt lên, la lớn:

- Hai cà-phê sữa! Một sữa cà-phê!

Chàng nhìn lên: nét mặt hắn ta tỉnh khô. Hắn đã quay sang phía khác. Tất cả sự căn dặn tỉ mỉ của chàng bị đơn giản hóa một cách thô lỗ. Chàng cảm thấy bị phản bội. Sự cố gắng dài dòng thân mật của chàng bị hất gạt ra bất ngờ, hóa thành lố bịch, lẩm cẩm. Không khí sinh hoạt trong tiệm đột nhiên lạnh lùng, tàn nhẫn. Chàng thấy sự trống trải quanh mình, và không muốn ngồi lâu.

Trí chàng mãi không rời khỏi sự việc nhỏ nhặt vừa xảy ra. “Phải, chàng đã chờn vờn tới gây thân thiện. Chàng cần gì phải cắt nghĩa như thế về chuyện nhức đầu nhức óc. Đó chỉ là do sự tử tế của chàng. Quá đáng đối với một chú bồi bàn. Thế mà hắn ta...”

Cái lưng đầy mỡ của hắn, suông đuột từ trên xuống dưới, không eo. Con mắt, thoạt người ta chỉ chú ý tới chỗ tàn tật lớn ở phía trái choán đầy khuôn mặt, không ai ngờ đến cái láu lỉnh nơi con mắt còn lại... May thay, cuối cùng chàng lại trở về nằm trong gian phòng, của mình, không một phiền hà. Tất cả mọi rầy rà đều được trút bỏ ngoài cửa phòng, như người ta chùi đế giày trên tấm thảm để gạt lại những bùn đất trước khi bước vào nhà. Ở đây chắc chắn không có một ai khác ngoài chàng. Một sự cô đơn ấm áp.

Giã từ cái dạ con của mẹ để ra ngoài đời, con người vẫn luôn luôn mơ hồ nhớ về chỗ quê hương nguyên thủy của mình, nơi mình đã trải qua một thời cô đơn trong ấp ủ ấm áp. Một nghệ sĩ già, thỉnh thoảng ngắm nghía mấy chùm tóc bạc óng ánh như cước của mình, cần được ngắm nghía trong khung cảnh an toàn như thế. Một nghệ sĩ già không vợ, không con, không còn cha mẹ, không còn một liên hệ nào với làng quê của mình nữa. Một nghệ sĩ già, sau ba mươi năm vất vả với những cảm nghĩ của chính mình, những đòi hỏi của kỹ thuật thể hiện, những khen chê của đời... Gian phòng, hãy tối lại một chút cho gần với cái âm u trong lòng mẹ thuở nào.

 

 

Hai lần bút chiến, trong đó có một lần bị thất lý, thua đậm. Một người tình ăn ở với nhau hơn ba năm bỗng bỏ chàng đi theo người khác. Hồi đó chàng mới ba mươi ngoài tuổi và không ngờ đến một trường hợp như thế. Sau khi cãi cọ xô xát, một mình quay về một xóm lao động bên Phú Lâm, chàng không buồn vào nhà, dừng lại xem mấy người đánh boule, bên một cây bàng to lớn, dưới đèn điện. Hàng ngày, trưa và chiều hai buổi đi về, chàng vẫn thấy mấy người đàn ông chơi cái trò ném những quả cầu sắt bằng nắm tay ở khoảng đất trống ấy, nhưng lúc này chàng mới có dịp thơ thẩn theo dõi trò chơi của họ. Chàng đã xem họ đến một giờ sáng, rồi đâm chán, bỏ về nhà. Trằn trọc mãi không ngủ được, lại ra xem. Hai giờ, ba giờ, đến năm giờ sáng vẫn còn có kẻ chơi. Mỗi lúc mỗi ngạc nhiên, chàng không tưởng tượng nổi một trò như vậy có thể hấp dẫn người ta đến thế. Người chơi có vẻ chăm chỉ, không mừng rỡ, la lối, tranh cãi ồn ào; nhưng lặng lẽ theo đuổi suốt đêm. Và sáng ra — đèn điện ngoài đường tái màu, rồi tắt — chàng lững thững vào nhà, người mỏi mệt bã ra, sự đau đớn trong lòng cũng mỏi mệt tê mê. Suốt ngày chàng nằm, thể xác và tâm hồn thấm thía, hiu hiu, trong một rã rời an ủi. Thế rồi chàng qua khỏi cơn khủng hoảng. Từ đó chàng nhìn những người lao động, giản dị và bền bĩ, trong trò đánh boule bằng cái nhìn khác. Gặp những nhóm người tụ nhau dưới bóng cây ở những khoảng đất trống, đó đây trong đô thành, ném bịch bịch những hòn sắt, một xúc động buồn bã dịu dàng dấy lên trong lòng mà chàng không nhớ ra mối liên hệ mơ hồ nào giữa chàng với quang cảnh ấy...

Hai lần bút chiến. Một lần người yêu đã sống với nhau gần như vợ chồng bỗng bỏ đi. Và lần khác đánh nhau với bạn bè trong tiệm ăn, một miếng chai vỡ cắt đứt gân đầu gối tưởng chừng đến mang tật suốt đời (thực ra bây giờ chàng hãy còn nhận ra cái sẹo rõ ràng, dù sờ bên ngoài lớp vải quần py-gia-ma). Nhưng tệ hơn cả là hôm đó chàng có vẻ bẩn thỉu quá: báo chí thuật lại om lên, mô tả chàng bị trút cả tô phở lên đầu, thịt và bánh phở dính đầy tóc tai, lọt vào tận bên trong áo, mặt mũi bỏng vêu lên, mình mẩy ướt bầy nhầy...

Một lần người yêu bỏ đi. Một lần đánh nhau với bạn, rồi lại những hôm ngồi ở tiệm nước bên rạp V.H. chờ mãi, chờ mãi, cô bạn gái không đến, bàn chân nóng nảy của chàng thỉnh thoảng đá phải cái ống nhổ bằng nhôm dưới bàn, khua ồn một tiếng đáng ghét.

Những hôm chờ bạn gái không đến. Rồi một lần, sau tập thơ thứ ba, bẵng đi năm năm chàng không in được tác phẩm nào nữa. Và văn giới đồn đãi, độc giả nghi ngờ, và chàng đâm hoang mang.

Nhưng rồi thi phẩm thứ tư lại ra đời sau đó, rồi cuốn thứ năm, thứ sáu, v.v... để cho chàng thành hẳn một thi sĩ địa vị vững vàng như ngày nay.

Những cô bạn gái lỗi hẹn, những bài thơ ra đời khó khăn, những lần kẹt xe ở bắc chờ đợi suốt ngày, những bận đau ốm, có khi nằm ở đồn điền một người quen cả tháng, buồn chết người v.v...

Để tiến cho tới cái tuổi già năm mươi, trời! phải trải qua quá nhiều sự việc, nhiêu khê, nhọc nhằn... Quá nhiều.

May là rốt cuộc chàng lại nằm được trong gian phòng, của chàng.

Ở đây, có thể hoàn toàn yên tâm.

 

 

Vâng, chỉ có sau cánh cửa phòng mình chàng mới yên tâm thực sự. Bước ra một bước, ai biết được sự bất trắc gì đang chờ mình?

Cách đây nửa giờ, một cậu bé vừa làm khổ chàng. Chiếc xe gắn máy không chịu nổ. Nó đã bị bỏ ngoài mưa lâu quá, bu-gi lạnh chăng, hay bu-gi bẩn, đóng khói chăng? Bất quá vậy là cùng, chàng nghĩ thế. Mở ra, cạo cạo mấy cái là xong. Nhưng chàng không có khóa mở bu-gi, chàng đánh mất từ lâu. Ghé vào một tiệm sửa xe, chàng nghĩ nên nói ra sự nhận xét của mình để giúp người ta chữa cho nhanh. Nhưng cậu bé nhiều tự ái quá, coi như chàng muốn xen vào chuyên môn của nó. Mặt nó lạnh như tiền, nó làm như không nghe thấy tiếng chàng nói. Nó ngoe ngoảy tháo con ốc này, giật sợi dây kia, lung tung. Thằng bé đáng là đứa con thứ năm thứ bảy của chàng, nếu chàng có con. Thế mà trước thái độ của nó... Ít ra chàng nên ngồi im, mặc xác nó cho yên chuyện. Chàng sợ cái không khí lạnh buốt vì căng thẳng quanh sự lẻ loi của chàng lắm sao? Chàng tiếp tục mấy câu thân thiện làm gì cho nó cắt ngang một cách mất dạy?

Đã vậy mà trước khi ra đi chàng còn tìm một câu pha trò cho nó cười được một cái mới yên lòng. Có phải vì mưa đổ rỉ rả hoài suốt cả buổi chiều, một mình ngồi mà không chờ đợi một ai cả ở vỉa hè, cảnh ấy gây ra sự lo âu vu vơ? khiến chàng nài nỉ thân thiện?

May cho chàng, bây giờ thì mặc kệ, mưa cứ tha hồ rả rích trên đường sá đô thành, chiều xuống cứ tha hồ buồn ở các đầu đường, xó chợ, vỉa hè... Chàng đã yên vị trong gian phòng, của chàng.

Một thi sĩ năm mươi tuổi già có dư, mặc dù có một bà cô hay ngủ tỉnh trong buổi ấu thơ xa tít tắp, mặc dù có tô phở hắt vào người trong cuộc xô xát với bạn bè, mặc dầu năm lần mười lần trục trặc trong chuyện yêu đương, mặc dù bao nhiêu ngổn ngang phiền lụy... rốt cuộc vẫn có thể về phục vị, cố thủ trong một gian phòng với lũ sách, và tìm thấy an ninh hoàn toàn. Thật là huyền diệu. Đây là tường đồng vách sắt, là thành quách, là thâm cung của chàng.

 

 

Nằm trên ghế vải, chàng vói tay lấy cuốn Tơ tình của Dư Hoài Nhân.

Cuốn sách này chàng vừa ý lắm. Hôm nào, chiều chiều, chàng cũng thích xem cuốn này.

Một gian phòng thật là của mình, với những cuốn sách thật quen thuộc: không có gì an ủi hơn.

Chàng bắt đầu lật. Trang 164. Có thể ngừng ở đây được. Vâng, được lắm. Trang này thật là hấp dẫn. Ở góc bên trái phía dưới trang sách, một chữ O nhoẻn cười, vui ra phết. Nó chú ý đến chàng hay chàng chú ý đến nó trước tiên? Dù sao cũng thích: hôm nào cũng gặp lại nó. Cái chữ O này láu lỉnh lắm nhá.

Giữa trang, một chữ N ngúc nga ngúc ngắc. Nó làm như vẫy gọi chàng thật gấp. Phải đến ngay với nó chớ. Nó lại làm như dãy đành đạch. Im nào! Nó vẫn còn như là run rẩy. Chàng biết: vờ thế chứ run gì!

Lũ chữ đến hay. Chàng biết chúng nó hết mà. Biết kỹ mà. Chúng giở trò gì ra, chàng đều biết tất. Chàng yêu chúng, như một bà góa không con yêu lũ mèo quanh quẩn trong nhà.

Ngừng lại với chúng một lát rồi chàng lật đến trang 286. Đây mới là chỗ nghỉ ngơi lâu. Mọi hôm chàng vẫn thảnh thơi ở đây hàng giờ. Chàng ngắm một bức hình, một phụ bản, của họa sĩ Liêu Hà. Chàng nhẩn nha ở đây. Trong tranh có một khoảng rừng, có chim, một đàn chim bay đi bay lại. Chàng theo dõi chim bay. Chàng để ý có con bay đi mất, chờ mãi không thấy trở lại. Chàng chịu khó chờ rất lâu, nhưng vô ích. Điều ấy khiến chàng lo lắng.

Trong tranh có đám người khá đông, cãi cọ, níu kéo nhau. Cứ một người rán sức lướt tới được một chút lại có người túm kéo giật lùi. (Nếu không, chẳng mấy chốc cả bọn sẽ biến mất hết về góc bên phải, phía trên.) Thi sĩ nhận ra một hình dáng quen quen. Chàng đưa hình lại gần mắt hơn tí nữa, nhìn kỹ! Người nọ bỗng ngoảnh mặt lại thình lình. Chết cha! Chàng vội ngó tránh đi, nhưng e không kịp. Linh mục X..., ông ta làm gì ở đây? Rõ ràng người ấy là linh mục X..., đeo kính trắng, cái soutane của ông bị kéo rách mất một vạt. Hình như mồm ông ta mấp máy nói gì ơi ới, ông ta kêu nói gì vậy? với chàng chăng?

Rút kinh nghiệm, thi sĩ không dám đưa hình sát gần nữa. Tuy vậy rồi một lát sau chàng vẫn nhận ra một người quen nữa trong đám đông. Một cô giáo. Cô mặc áo tàu, hở cả cánh tay. Cô giáo cũng bị đẩy tới đẩy lui, cũng múa may náo nhiệt như những người khác. Và đến một lúc, chàng tự bắt gặp mình có ý rình chờ lúc cô giáo giơ cao cánh tay lên, để xem nách cô ta, xem thử...

Chàng toan xấu hổ, nhưng kịp nhớ ra là mình đang tuyệt đối an toàn trong phòng mình. Chàng có thể tự do. Chưa bao giờ chàng thấy mình vừa ý hơn.

10 – 1966

Cái Còn Lại

Năm đó chàng độ hăm lăm hăm sáu tuổi. Không chừng đến ba mươi cũng nên. Chàng không nhớ rõ: vào khoảng từ hăm sáu tới ba mươi. Một đêm đầu tháng chạp mẹ chàng trở bệnh. Hai giờ sáng, chàng lấy tờ báo chiều hôm trước ra tìm bác sĩ trực.

- Đường Võ Di Nguy, số chừng ấy, khoảng nào nhỉ? Số lẻ, phía bên nào nhỉ?

Cả nhà không ai nghĩ ra. Một danh từ, một con số, không có gì đặc sắc cả, không ai để ý đến, không ai có một ý niệm gì hết.

Khi chiếc tắc-xi ngừng, chàng nhận thấy phòng mạch này cũng có vẻ quen quen, chàng đã đi ngang qua nhiều lần.

Thủy đỡ mẹ xuống xe. Chàng bấm chuông gọi. Đây là lần đầu chàng đến phòng mạch ban đêm. Trước nhà, dưới ô-văng, có một ngọn đèn đặt trong hộp kính mờ, bên ngoài vẽ dấu chữ thập đỏ. Ánh sáng lạnh nhạt, buồn hiu. Năm ba con vật li ti có cánh bay lởn vởn. Một con thằn lằn rình trên vách, gần đấy. Làm sao biết có người thức nghe tiếng gọi của chàng vừa rồi?

Chàng ngần ngại, rồi bấm chuông lần nữa. Một ngọn đèn khác, cũng bóng đục, nhỏ bằng quả bóng bàn, bật sáng ngay phía trên cửa sổ. Bên trong đã trả lời.

Lát sau người y tá mở cửa, mời vào. Lại chờ đến năm phút nữa là ít. Phía trong phòng việc của bác sĩ, người y tá đi lại, mở đèn, khua động. Bên ngoài, chàng nhìn vơ vẩn từ tấm lịch đến mấy bức tranh cũ trên vách. Vách bẩn, đã quá lâu không quét vôi lại. Căn phòng có vẻ không được săn sóc.

Viên bác sĩ lặng lẽ làm việc, hỏi rất ít, nói rất ít, dáng điệu mang nặng giấc ngủ. Ông chích cho mẹ chàng một mũi kim, pha trộn bằng hai thứ thuốc. Ông ta nói với cô y tá vắn tắt, thấp giọng một cách biếng nhác, thiếu cố gắng. Nhiều lần ông phác một dấu hiệu nhỏ thay cho lời nói. Họ hiểu với nhau. Không phải viên bác sĩ làm việc không cẩn thận. Lúc ngồi viết toa thuốc cho mẹ chàng, ông ta có lần ngừng lại để nghĩ ngợi, đắn đo. Ngón tay trỏ của bàn tay trái, một ngón tay to lớn đè lên cánh mũi, ấn xuống, buông ra, rồi ấn xuống. Mẹ chàng bận bịu với các khuy áo trong áo ngoài phải cài lại. Thủy và chàng theo dõi ngón tay băn khoăn của bác sĩ trong giây phút trở thành nghiêm trọng. Cô y tá nhìn nét mặt chàng, chia xẻ sự lo lắng.

Có lẽ vì sự lo lắng ấy, vì một ngón tay đã ấn trên một cánh mũi đồ sộ của viên bác sĩ, cũng có lẽ vì là một cuộc khám bệnh hai giờ sáng, vì là một con bệnh hiếm hoi, cho nên mẹ chàng được cô y tá đưa ra tận lề đường. Khi chiếc tắc-xi rồ máy, gài số, sắp chạy, chàng nghe cô ta đập gọi ngoài hông xe. Chàng vội mở cửa ra, để được chỉ cho thấy một chéo áo dài của mẹ chàng bị kẹt vào cửa xe, ló ra bên ngoài. Chàng nói cảm ơn, cô y tá quay vào không kịp nghe.

Sáng hôm sau chàng lại trở lại phòng mạch. Cô y tá ngồi một mình ở phòng khách, lom khom dũa móng tay. Vóc người rắn chắc, tròn trịa, đẹp. Nước da không được sáng, hai cánh tay phơi trần ngoài tay áo blouse có nhiều lông, không phải thứ lông tơ yếu ớt mà là những sợi lông đen khá dài. Nhìn vào mặt, chàng nhận thấy lông mày của người con gái cũng mạnh mẽ, rậm rạp. Hình như trong dòng dõi cô ta có pha một chút máu Ấn-độ? Có lẽ vì vậy nên cô ta có cái mũi tuyệt khéo, sống mũi cao hơn mũi phần nhiều người Việt Nam.

Cô ta vội hỏi: “Cụ không bớt đau sao ông?” — “Bớt. Có khá. Nhưng có một thứ thuốc trong toa tìm mua không được. Tôi tới xin bác sĩ đổi cho thứ khác.” — “Ông chờ tí. Bác sĩ chưa đến.” — “Trực một đêm, mỏi mệt. Cô đến sớm nhỉ.” Người con gái mỉm cười, cúi xuống móng tay. Một bà giúp việc, độ trên bốn mươi, mặc tạp-dề xanh, từ phía sau đi ra trước nhà, băng ngang qua phòng khách. Một lát rồi lại trở vào, băng qua phòng khách, đi luôn vô một phòng nào ở sau.

“Cụ được sáu mươi chưa...?” Chàng đáp: “Có lẽ chưa tới đâu cô, tôi không nhớ rõ.” — “Trông cụ có vẻ yếu đuối... Cô đi theo đỡ cụ đêm hôm đó là...” — “Cô đoán coi là gì với tôi?” Người con gái nhếch cười nhưng không nói gì, vẫn cúi xuống móng tay, chờ đợi. Chàng hỏi: “Cô trông nó giống tôi không?” — “Nếu không giống tôi đã không hỏi.” — “Đàn bà con gái ý tứ thật. Bọn tôi, cứ... thắc mắc là hỏi liền!” Hai người cười với nhau; chàng cười xòa, còn người con gái thì hưởng ứng lặng lẽ.

Cô ta hỏi tiếp: “Em kề?” — “Kể như kề. Nó có con chị, mất từ nhỏ. Chắc nó cũng một tuổi với cô.” — “Cô ấy năm nay bao nhiêu?” — “Mười chín.” Một chiếc xe chở gạch vừa chạy ngang qua trước nhà, cô y tá không nghe được tiếng chàng nói. Cô ta ngẩng đầu, hơi nghiêng mặt về phía chàng, nhướn mắt lên, nhướn riêng con mắt phía chàng, làm cho vòng mi bên ấy vươn cao lên, cong vòng. Cử chỉ thay thế một câu hỏi tỏ ý bảo chàng lặp lại câu nói vừa rồi. Cô ta tự cho phép một sự thân mật bất ngờ. Con gái khi phải đi bước trước, họ cũng đi một cách tài tình, kín đáo.

Một lát sau, khi viên bác sĩ đến, thì chàng đã kể cho cô gái biết chàng đang theo học ở đâu, tuần trước chàng tập nhu đạo bị trẹo xương như thế nào, và cô ta đã kịp nói cho chàng biết cô sắp thôi làm việc ở phòng mạch này, cô không phải là y tá, không biết thuốc men gì cả v.v...

Chàng hỏi bác sĩ xong, trở ra, phòng mạch vẫn chưa có thêm người khách nào. Cô y tá đứng vịn tay lên cửa nhìn theo chàng. Gọi được xe, chàng giơ tay chào, cô ta yên lặng cười, không làm dấu gì để đáp lại, nhưng tiếp tục cái nhìn săn sóc cho đến khi xe chạy.

Về nhà, chàng bắt đầu tẩn mẩn để ý đến vài vấn đề: phòng mạch này không phải là nhà ở, chỉ là một căn phố nhỏ thuê để tiếp khách, viên bác sĩ đến đó để khám bệnh rồi về, vậy những đêm trực chỉ có một ông với một cô y tá, họ ở lại như thế nào? cô ta là gì đối với viên bác sĩ? một cô em họ, một cháu gái? một người giúp việc? điều này có liên quan gì tới quyết định thôi việc của cô ta? Và chàng với cô ta sao gần nhau dễ dàng, giản dị quá, việc hai người sẽ thân nhau không có gì tự nhiên hơn, như không sao tránh được.

 

 

Nhưng không phải mỗi lúc người ta mỗi có dịp đi tới phòng mạch bác sĩ.

Một hay hai tháng sau, mua đôi giày ở một tiệm gần đấy, chàng sực nhớ, ghé vào xem thì quả phòng mạch đã có cô y tá khác.

Từ đấy căn phố nhỏ có chữ thập đỏ trên hộp kính mờ ấy trở lại lặn vào đám đông vô danh của nhà cửa đô thị. Chàng đi qua đi lại không chú ý đến nó, không nhớ gì về nó nữa. Nó lại trở về gia nhập vào những cái nhàm chán của cuộc sống thường nhật. Không ai có thể lưu ý đến từng ngôi nhà bên đường đô thành. Đường Võ Di Nguy, số lẻ, phía nào nhỉ? Cả nhà chàng lại không ai nhớ ra.

Có lần, độ chừng một năm sau đó, ở ngã bảy Chợ Lớn, đường bị kẹt vì một đám ma lớn kéo đi chậm chạp, chàng dừng xe ở đường này trông thấy ở đường kia một người con gái mặc chiếc áo vàng, tay xách chiếc giỏ mây, đi bên cạnh một người con gái khác, vừa đi vừa nói cười, cả hai tiến sâu vào một ngõ hẻm. Trông như họ đi chợ vừa về. Chiếc giỏ có vẻ nặng, cô gái hơi nghiêng người nhưng bước đi vẫn nhanh. Chàng nhận ngay ra cô y tá năm trước, và đột nhiên nhận rõ mối cảm tình của mình đối với cô ta. Chàng nghĩ đến một chi tiết chưa bao giờ nhớ tới, từ hồi ấy đến giờ: lúc viên bác sĩ vào phòng mạch, cô ngừng câu chuyện đang nói với chàng, đứng lên, chợt bắt gặp mắt chàng đang nhìn vào cánh tay cô, cô ta nhoẻn cười lấy bàn tay kia xoa mấy vòng lên cánh tay bị nhìn. Nhiều sợi lông rối lại, rồi bung ra. Cô ta ngượng vì những sợi lông ấy, hay hãnh diện vì chúng? Chàng nghĩ: cô không nên ngượng nghịu, hãy cứ để yên thế, chúng nó kích thích.

Những cuộc gặp gỡ như thế không soi sáng, không giải thích gì thêm cho nhau. Chúng chồng xếp lên nhau, không liên hệ.

 

 

Bây giờ là ba mươi năm sau. Cuộc sống thường nhật càng đầy dẫy những cái vô danh mù mịt, lu lít, nối nhau kế tiếp lướt qua đời chàng, không một khua động. Một buổi sáng, bỗng nhiên chàng nhớ đến cô y tá đêm nọ ở phòng mạch một bác sĩ trực.

Bây giờ mẹ chàng đã qua đời trên mười lăm năm, tóc trên đầu chàng mười phần bạc đến bảy tám, và rụng mỗi ngày một nhiều, phơi lộ những khoảng da đầu láng bóng;

Bây giờ, sau khi chàng có một người vợ thứ nhất, người ấy chết vì một mụt độc sau lưng, đứa con lớn đăng lính, lấy vợ, ở lại ngoài Bắc, không tin tức, không buồn liên lạc với chàng, đứa con gái kế lấy chồng làm thợ sửa máy thu thanh, sau khi chàng có người vợ thứ hai, người này gian díu với một thằng bạn khiến chàng nhúng tay vào một vụ sát nhân, sau khi mãn tù về, ngán ngẩm chuyện vợ con, xế chiều chàng tình cờ gặp người đàn bà luống tuổi hiện đang ăn ở với chàng;

Bây giờ, khi hầu hết những hy vọng, dự định về cuộc đời của chàng đã tan vỡ hết, trong một trăm điều dự tính có chín mươi chín điều sụp đổ, chàng sinh sống bằng nghề chăm nom vườn hồng ba mươi tám giống hoa của một người chủ Huê kiều, thỉnh thoảng có dịp hưởng chút hãnh diện nhỏ nhặt khi được thi thố một vài hiểu biết chuyên môn. Một buổi sáng trời kéo dài một trận mưa lôi thôi sùi sụt, ngồi buồn với tờ nhật trình cũ ngày hôm trước, bỗng nhiên chàng sực nghĩ tới những gì loáng thoáng xảy ra giữa chàng với cô y tá nọ, chàng, ngót sáu mươi tuổi đầu, và cô con gái mười chín.

Giữa khoảng cách từ sự việc loáng thoáng xảy ra đó đến ngày nay chàng đã ba lần vào dưỡng trí viện (lần sau cùng ở mãi hai năm rưỡi, tưởng không khỏi điên), chàng đã đền tội bốn năm ngoài Côn Lôn, sáng sáng cùng đoàn tù nhân khổ sai nối đuôi nhau trên con đường trải nhựa độc nhất trên đảo, lặp lại muôn lần như một cuộc hành trình duy nhất suốt năm này qua năm nọ từ lao xá đến rừng, để chiều đến lại nối đuôi thả bộ mười cây số trở về chỗ nằm của mình, chàng đã tự tử hụt một lần, suýt chết vì bệnh lao phổi một lần v.v..., và ngày nay, một buổi sáng trời mưa, trong không gian kéo dài một điệu hát nhão nhòe nhão nhoẹt từ một máy thu thanh nào phát ra, chàng bỗng nhớ đến sự việc nhỏ nhặt, loáng thoáng ấy.

Ngày nay sáu mươi tuổi già, đầu tóc mười phần bạc đến bảy tám, ngồi một mình với tờ nhật trình cũ và tách cà-phê ba đồng nhấm nghe chua chua, chàng chợt thấy lại sự việc cũ; giống như một hôm, trưa nắng, một người đứng trên miệng giếng cúi nhìn xuống lòng giếng quang tĩnh chợt trông thấy cả đáy cát trắng, thấy một mẩu dây dừa, một chiếc gàu rách đứt dây nằm đó từ năm nào, thấy chiếc gương con bỏ túi của chị Hai bị tuột rơi hồi chị còn giúp việc trong nhà (bây giờ chị đã có chồng có con, đi làm ăn phương xa), và lẫn lộn giữa những thứ ấy là một món đồ chơi bằng nhựa (một chiếc máy bay? một chiếc xe hơi?) chính ta đánh rơi năm xưa. Hóa ra những cái ấy vẫn còn, còn cả, được giữ ở một nơi nào đó, giữ hầu như y nguyên mà vô dụng. Để một buổi trưa quang tĩnh, ta tha hồ nheo mắt nhìn, ngắm nghía.

Chàng ngồi với tách cà-phê chua và nguội; bên kia đường, trong một gian nhà cửa đóng, từ bên trong lọt ra qua các khe lá sách ánh đèn vàng cạch của một bóng điện độ bốn chục nến thắp suốt ngày. Cái ánh đèn bất động và ngoan cố ấy... À, đó cũng là ánh đèn chàng bắt gặp buổi sáng năm xưa, trong lúc ngồi nói chuyện với cô gái (vốn không phải là y tá) ở phòng mạch, mắt thỉnh thoảng nhìn sang căn nhà sát bên cạnh. Có lẽ đó là ngọn đèn chong trong kho chứa hàng của một tiệm Tàu.

Trời, một ngọn đèn vàng cạch tầm thường, khuất lấp trong cái thường nhật vô danh như thế, vẫn sáng đâu đó nơi chàng suốt ba mươi năm.

12 – 1966

Ế Ị !

Các nhà chuyên môn cho rằng ở các làng mạc vắng vẻ tiếng động chỉ có chừng ba mươi décibels vào ban ngày và trên vài mươi vào ban đêm.

Con người có thể chịu đựng thêm một chút ồn ào nữa cũng không sao, miễn là đừng vượt quá ba mươi lăm ban ngày và ba mươi décibels ban đêm. Thế nhưng ngày nay, tại những khu phố gọi là yên tĩnh nhất, vào đêm khuya (nếu không phải là giờ thiết quân luật) tiếng động cũng vượt quá năm mươi décibels. Đó là không kể những ồn ào bất thường trong thời chiến: tiếng quân xa di chuyển từng đoàn, tiếng phi cơ phản lực đi đi về về...

Thần kinh Đỗ chịu đựng kém. Từ hồi về sống ở đô thị chàng đâm ra đố kỵ âm thanh. Tiếng nhạc cũng ít khi dám nghe. Bối âm thường xuyên đã ầm ĩ quá rồi, tăng thêm một tiếng động, tinh thần thêm bị kích thích, bực bội.

Vậy mà rồi một hôm Đỗ tự bắt gặp mình chờ đợi một tiếng kêu lớn. Chờ đợi mơ hồ, nếu không tình cờ để ý có lẽ không biết đến.

Số là đối với mỗi người trong ngày chỉ có một giờ nào đó coi là thích nhất. Các cụ trước kia chọn cái lúc tờ mờ, đêm vừa tàn ngày vừa rụt rè hiện đến; trong cô tịch, các cụ ngồi nhấp trà suy nghĩ.

Đỗ không lấy trầm tư làm thú. Chàng thích cái khoảng thời gian trơ trẽn từ chín rưỡi tới mười giờ. Lúc đó, điểm tâm xong, tách cà-phê nóng đã làm cho người tỉnh táo, những công việc khẩn cấp nhất trong ngày đã tạm giải quyết xong, tâm trí nhẹ nhàng, thảnh thơi. Ngoài trời nắng vừa đủ ấm, sương vừa đủ ráo, ánh sáng tươi mà chưa gắt. Bấy giờ, chàng có thể khoanh tay ngồi trước bàn, ngừng công việc, nghếch mặt nhìn trời xanh ngoài cửa sổ, đầu óc rỗng tuếch mà vẫn ngấm ngầm hân hoan, không có một dự định gì mà vẫn tràn trề hy vọng. Chừng mười thước tây dưới tầng lầu của chàng xe cộ tiếp tục ồn ào; nhưng chàng tha thứ. Ở sân thượng một tòa nhà nào đó, cùng trong khu phố, có người (chắc chắn là lao công một sở công hay tư) có thói quen xấu là đốt giấy lộn vào buổi sáng, khiến tro tàn tản mác theo gió, lặng lẽ đậu lên mặt bàn, lên mái tóc chàng. Nhưng Đỗ tha thứ.

Bởi vì lúc bấy giờ — chính vào lúc bấy giờ — một tiếng rao cất lên. Hớ hơ ị ị ị (hay Hế ê ị ị ị?... Chàng cố lắng tai nhưng không thể phân biệt). Chỉ có tiếng “ị” sau cùng là rõ ràng. Rõ ràng và kéo dài vô cùng vô tận. Hế vang lên, rồi tiếng ị cứ ngun ngút, nhỏ dần nhỏ dần, như tơ như tóc, không biết lúc nào nó còn đó, lờ mờ, và lúc nào nó đã tan biến vào không gian ngọt lịm. Chỉ chắc chắn cái lúc tiếng rao cất lên, không thể quả quyết khi nó chấm dứt.

Đó là một âm thanh khác thường. Chàng có cảm tưởng nó lạc lõng giữa khung cảnh đô thị. Nó lại cũng không phải của thế kỷ này. Rao thứ gì, chàng không biết. Giọng là giọng một người xẩm, trong trẻo. Nhưng người này bán một món đồ ăn chăng? coi bói chăng? bán chổi lông gà? bàn chải giặt đồ chăng? Đôi ba lần, chàng thử tìm hiểu, nhưng chàng vừa xuống lầu, chạy ra đến ngoài đường, thì người bán hàng đã rẽ mất vào một ngõ hẻm nào trong xóm. Vả lại chuyện đó không ích gì, món hàng không quan hệ, cốt yếu là tiếng rao. Nó cất lên giữa khu phố như tiếng con chiền chiện ngoài đồng nội. Cả hai đều làm cho trời thêm xanh, nắng thêm sáng, mây bạc phiêu phiêu thêm cao.

 

 

Chàng vừa liên hệ tiếng rao nọ với đồng nội. Quả có mối liên hệ ấy.

Hế... ế..., vâng, ở đâu cũng hế được. Nhưng còn ị ị ị..., cái đuôi thanh âm hun hút ấy không phải của đô thị. Ở đây, một tiếng rao không thể ngân dài, thong thả, bình thản, vừa tiếp diễn vừa tự thưởng thức cho đến cái ngân nga nhỏ nhất của mình như thế. Đây là một tiếng rao đầy tự tín; nó đĩnh đạc, cho rằng khắp thôn ấp, sau những bờ rào, lũy tre yên lành, trong những khu vườn tĩnh mịch, bao giờ cũng có sẵn những lỗ tai theo dõi cái ngân nga dài dòng của nó, rằng nó không tan biến vô ích trong sự ồn ào nóng nảy vô tình. Âm thanh ấy mang nơi mình tất cả cái không khí trung cổ. Giữa nó với khung cảnh thôn xóm làng mạc có một tương quan xương thịt. Nó là một di tích, một cổ tích tồn tại giữa thời đại này trước sự thờ ơ tội lỗi của các nhà khảo cứu. Nó là thứ cổ tích quí báu hơn mọi thứ cổ tích, vì nó không sót lại như một thanh gươm sét dỉ đào được từ lòng đất, như chiếc áo cũ của một nàng công chúa bày trong viện bảo tàng, như một vật hết công dụng, mà nó tồn tại sống động, mặc dù lỗi thời. Nói cho đúng, đây thực ra không phải chỉ là một chứng tích của cuộc sinh hoạt quá khứ; đây chính là một yếu tố nguyên vẹn của sinh hoạt ấy đang tiếp tục sống trong lòng hiện tại.

Tiếng rao hàng ngày nay tranh nhau phát lên thật lớn nhưng không hề kéo dài. Nhất là kéo dài để rồi nhỏ dần, yếu dần. Nó kéo dài làm gì nhỉ? Chỉ cần thét lên thật lớn, thật đột ngột, thế thôi. Người rao hàng điên cuồng nào ngày nay mà lại đem năng lực phát âm của mình phung phí trong những ngân nga vô bổ, bị xóa lấp dễ dàng giữa các tiếng động xô bồ thường xuyên của đô thị? Chỉ có Ế ị ị... là bất chấp mọi đổi thay của hoàn cảnh.

Hế ị ị... cất lên, một hơi gió mát mênh mông thoảng qua bầu trời. Chàng nghe tâm hồn phơi phới nhẹ nhõm. Tưởng tượng đâu đó có một người đàn bà Tàu, mặc thoòng choóng đen, đầu đội chiếc xẩu mầu to tướng, hay chiếc thồng củ mầu mang từ xứ sở quê hương sang đã mấy mươi năm rồi, gánh hàng bằng cây đòn gánh gỗ đen bóng vì mồ hôi của bao nhiêu thế hệ lao động, một người đàn bà của nước Tàu ba bốn nghìn năm lịch sử chùng chình mãi ở thời kỳ kinh tế nông nghiệp, lưu luyến mãi với ruộng vườn thôn ấp, một người đàn bà như thế lững đững ở một góc phố gần đây... Một người Tàu như thế là cả nếp sống yên lành, nhân hậu.

Ế ị giữa buổi mai, và tiếng hò ơ trên sông, tiếng hát ru em kéo dài bất tận trong đêm khuya của người đàn bà Huế, ôi những đeo đẳng tâm tình của thời Nghiêu Thuấn xa xưa. Một bên là những thầm thì tỉ tê trong cô tịch của đêm trường, là những nỉ non tình cảm len lỏi canh khuya, thấm sâu vào lòng người. Một bên là niềm vui an lành vút lên cao thẳm giữa nắng sớm tưng bừng.

Từ lâu rồi, ở đô thị, Đỗ quen với những âm thanh có công dụng rõ rệt, thiết thực... Tiếng huýt còi của cảnh sát công lộ, tiếng rao báo, rao phở, tiếng gọi xe v.v... mỗi mỗi đều vắn tắt. Những trao đổi vắn tắt trong phạm vi những điều thiết dụng ấy làm cho mối tương giao ở đô thị hóa nghèo nàn, lạt lẽo. Chỉ có người đàn bà Tàu nọ là vẫn một niềm tin cẩn ở xung quanh. Ế ị ị ị có kéo dài lạc lõng bơ vơ trong lạnh lùng, thờ ơ của phố phường, có mất đi vô ích vô duyên chăng; nó càng làm cho chàng nao nao tiếc mối giao tình đậm đà đã mất giữa người trong tập thể.

Đó vậy mà một độ Ế ị bỗng im mất. Một hôm chàng bắt gặp sự chờ đợi của mình.

 

 

Nó mất từ ngày nào, không biết được đích xác. Thiếu một tiếng rao trong khu phố, không phải như thiếu mất bữa ăn sáng.

Chỉ nhớ mùa mưa, có độ suốt tuần lễ trời cứ xấu hoài, sáng nào cũng có nhiều cơn mưa. Thế rồi một sáng thứ hai trời sáng lên, rực rỡ, chàng sực nghĩ đến Hế ị thì không nghe thấy nữa.

Rồi thì công kia việc nọ ngổn ngang làm chàng quên nó gần như hoàn toàn.

 

 

Cho đến một hôm khác, ở một ngã ba đường, chàng trông thấy một chiếc xe GMC vướng đổ một gánh hàng rong, độ ba bốn cái bát bị bể nát và nhiều gia vị mắm muối tung tóe bên đường. Anh tài xế xuống xe, đỡ gánh hàng rong lên, xếp lại các món còn lành lặn. Trong lúc ấy xe cộ bị chận lại bắt đầu dồn ứ, làm nghẹt đường, động cơ nổ, khói tỏa mù. Chủ gánh hàng là một bà già Tàu, nét mặt không chút giận dữ, mắt trông xuống đất, nói từng tràng dài, nói đều đều, vẻ điềm nhiên nghiêm chỉnh, chắc chắn là nói để phân phải trái. Người tài xế dọn vội vã, rồi trèo lên xe, rồ máy đi tuốt. Lúc bấy giờ bà già mới ngừng nói và mới kịp ngạc nhiên.

Anh tài xế không chắc là người xấu, nhưng công việc cấp bách, xe cộ nghẹt đường thúc dục anh, sự thiệt hại của người đàn bà không đáng là bao mà anh ta lại không sẵn tiền trong túi. Đại khái có những lý do như vậy. Nhưng bà già Tàu nọ không chờ đợi sự việc kết thúc kiểu ấy. Trong cách phản ứng nghiêm chỉnh và thong thả của bà ta có sự chậm trễ ít ra một vài thế kỷ.

Có phải Ế ị là món hàng vừa bị đổ đó chăng?

 

 

Thỉnh thoảng, trời Sài Gòn gặp một buổi mai thật ngon lành, nắng reo vui trên tường vôi, trên mái ngói; điểm tâm xong, Đỗ ngồi khoanh tay trước bàn tìm một cái cớ cho mối hân hoan hi vọng nơi mình, chàng chợt bắt gặp sự chờ đợi của mình: chàng chờ đợi tiếng rao ngân nga nọ, như là đang vuốt ve một ảo tưởng thanh bình.

12 – 1966

Giọt Cà-phê

Hồi còn nhỏ chàng cũng thích nghe cậu Bảy “nói” Vân Tiên như bao nhiêu người khác trong vùng. Cậu Bảy giọng ấm. Cái hay ho ở cả nơi chỗ tốt giọng đó. Còn các điệu “nói” kỳ thực không có gì xuất sắc. Một điệu, phỏng theo lối hát bài chòi, đặc biệt ở các chữ “cò”, dặm liên tiếp:

“Trịnh cò Hâm khi cò ấy ra cò tay

Vân cò Tiên bị cò gã xô cò ngay xuống cò vời.”

Bây giờ giá có ai đem thơ lục bát ra trình bày theo kiểu ấy, chàng đinh ninh là người ta muốn chế giễu điệu dân ca địa phương mình. Nhưng hồi còn xúm xít bên cậu Bảy nghe Vân Tiên thì lúc cậu hạ xuống chữ “cò vời... ời...” chàng thấy thấm thía lắm. Xung quanh khối người cảm động... “Xô cò ngay xuống cò vời... ời... ì”. Bắt đầu chậm từ chữ “ngay”, đứng lại ở chữ “vời”; phải dừng lại đây một chút để ai nấy kịp suy nghĩ về tai họa vừa xảy đến cho Vân Tiên.

Truyện Vân Tiên của cậu Bảy có những đoạn khác lạ. Chẳng hạn:

“Phút đâu Bùi Kiệm vừa về, Thấy chị Nguyệt Nga bận quần lãnh tía áo xa-tanh lưỡng đoạn.”

Hồi cụ Đồ Chiểu mở truyện Tây Minh đọc dưới đèn cụ không trông thấy trong sách xưa bên Tàu một Nguyệt Nga mặc áo xa-tanh. Mặc kệ chứ. Người phóng tác ra bản Vân Tiên của cậu Bảy tỏ ra không nệ sách, mà được trai gái vùng chàng chịu lắm.

Cậu Bảy là nghệ sĩ. Và tuy ở trong xóm làng quê kệch, cậu cũng sống cái đời tài hoa của một nghệ sĩ. Cậu có lắm bạn bè, cậu giải trí nhiều mà làm công việc thì ít, cậu có nhân tình nhân ngãi sớm mà vợ con thì muộn. Đại khái thế.

Tuy nhiên cậu có cuộc đời của cậu và chàng có đời chàng. Ngay đến cuộc đời của chàng nó cũng như gãy rời ra, mất ở chỗ này một đoạn, lìa ở chỗ kia một đoạn, xa lạc nhau, không dính dấp gì với nhau, khiến nhiều lúc gặp lại chàng đâm bỡ ngỡ, huống hồ là cuộc đời của cậu Bảy.

Tuần trước chàng gặp ở Thị Nghè một người trông quen quen, nghĩ mãi, thì ra là bác chủ ghe đã giúp đỡ cả gia đình chàng trong hồi tản cư năm xưa, đôi ba lần chở tất cả gia đình nhà chàng đến chỗ này, không xong, lại chuyển đến chỗ khác. Hôm qua chàng hớt tóc bên Hòa Hưng, vừa ngồi vào ghế chợt nhận ra kẻ đang cầm tông-đơ húi đầu chàng chính là người bạn quen nhau ở một cơ quan hành chánh bên kháng chiến trước kia. Lại một hôm nghe nói ở đầu hẻm có quán phở vừa mới khai trương, ngon lắm, chàng tới ăn phở thì gặp ngay chủ quán là viên trưởng ty Công An của tỉnh chàng, mới năm nào đây thôi.

Người chủ đò bây giờ cụt mất một chân, nửa thân trên lại nở nang thêm, đâm béo, nên chàng khó nhận ra. Anh bạn nhân viên hành chánh kháng chiến cũ thì bỗng có nhiều điệu bộ vờ vĩnh, ăn nói dạ thưa luôn mồm, cái nhìn cái ngó có vẻ gian: không biết trong thời gian xa cách anh đã gặp những biến cố gì mà tính tình chịu nhiều thay đổi vậy... Nhưng dù họ ít đổi khác, chàng cũng không chắc đã nhớ lại nhanh chóng, dễ dàng. Phải thẳng thắn nhìn nhận là thế. Ở cái thời buổi loạn ly này đời sống của mỗi người như chắp bằng trăm mảnh, như tấm áo cà sa trăm màu. Chắp vá thế mà vẫn tiếp tục còn là một cuộc đời là may lắm rồi đó. Hàng ngày đây đó bao nhiêu là đời sống vô tội đang bị hủy đi oan uổng, như thế kẻ gặp đủ cảnh này cảnh nọ như chàng mà vẫn sống, thế là quá quắt rồi, đòi gì nữa. Nhất là đừng đòi có một liên hệ hợp lý giữa hồi này với cảnh kia. Không riêng gì chàng, xung quanh đa số đều vậy cả. Trong một bữa tiệc hoặc ở nhà hàng Maxim’s, hoặc ở tầng năm tửu lầu Đồng Khánh, hoặc ở nhà hàng Văn Cảnh v.v... một ông giám đốc xí nghiệp sang trọng hào hoa, đang nhắp uých-ky, đang hút xì-gà, đang cười toe toét với bạn bè là những ông giám đốc, những nhà kinh doanh khác, bỗng có kẻ tình cờ nói tới chuyện tù nhân mỗi tối ngủ trước cầu tiêu, một tuần tắm một gáo nước, ông giám đốc sẵn miệng liền góp ngay vào một kỷ niệm riêng, một “kinh nghiệm bản thân”! Giữa cảnh sống hiện tại của con người kia và chuyện lao tù thực không có chút mạch lạc nào hết. Vậy mà nhiều người trong đám bạn bè ông giám đốc đều có thể góp chuyện kỷ niệm riêng được. Vậy đó. Chính biến này kế tiếp chính biến nọ, ai tránh được những tai ương bất trắc giăng ra như địa võng thiên la. Trong một cuộc sống trăm mảnh của thời kỳ này, một đoạn đời hoạt động ở hàng ngũ bên kia có thể được ghép với một đoạn đời phục vụ ở hàng ngũ bên này, những ngày trôi sông lạc chợ có thể ghép bên cạnh những đêm ăn chơi đế vương...

Từng mảnh đời như thế ngổn ngang trong mỗi cuộc sống, ai hơi sức đâu và thì giờ đâu kiểm điểm lại cho hết. Sống trước quên sau, cứ thế cho xong, đối với ngay chính đời mình cũng vậy, huống hồ đời người khác. Họa hoằn mới có một cơ hội... Thường thường, đó là vào dịp... sắp tắt hơi. Người ta bảo vào một vài giây phút cuối cùng con người chợt nhìn thấy được tất cả cuộc đời mình, rất nhanh mà rất đầy đủ. Nhà triết lý luận rằng đời sống bắt buộc con người phải hướng về phía trước để dồn các khả năng vào việc lo liệu cho tương lai, vì vậy Tạo hóa khôn ngoan và chu tất bèn che kín phía quá khứ để cho các năng lực tinh thần của con người khỏi tản mác uổng phí và nguy hiểm. Ngoại trừ trường hợp các nghệ sĩ là những kẻ không quan tâm đến cuộc sống thực tế cho nên tha hồ tẩn mẩn trầm mình vào dĩ vãng, và ngoại trừ lúc con người sắp lìa đời, sự lo lắng thiết thực không cần thiết nữa, Tạo hóa bèn mở tấm màn che cho tất cả quá khứ tràn về một loạt.

Nhà triết học có phải đã quên những trường hợp uống cà-phê? Trong lúc con người ngồi trước tách cà-phê, đấng Tạo hóa siêng năng và thực tiễn vào dịp ấy cũng đâm ra đãng trí. Hai chân len lén rút ra khỏi đôi giày da chật chội, đạp trên chiếc ghế con bỏ trống bên cạnh, hay gác lên bờ tường thấp, ngã người trên lưng ghế, ngước nhìn lên trời (bầu trời vắng vẻ cao vời vợi), từ từ đảo mắt quan sát xung quanh một cách biếng nhác (trong khoảng sân của quán cà-phê lộ thiên từng nhóm từng nhóm tự khép lại như những ốc đảo riêng biệt), trên bàn phin cốc đã sẵn, bình thủy nước sôi đã sẵn, ta ngồi chờ... Bấy giờ, cứ một giọt cà-phê rụng xuống là trăm nghìn câu chuyện cũ dâng lên trong ký ức, lan man bất tuyệt...

Cà-phê rụng xuống không vội vã, ồ không! Một giọt cà-phê biết tự trong không bao giờ vội vã. Dù cho giữa khung cảnh sinh hoạt hấp tấp tơi bời của đô thị văn minh ngày nay, giọt cà-phê chân chính vẫn bình tĩnh thong thả tụ hình, đắn đo, đủng đỉnh lắc lư, suy tư, chán chê rồi bấy giờ mới chịu buông mình xuống tách. Về cái phong thái đĩnh đạc cẩn trọng, dám chắc những giọt cà-phê của thế hệ hôm nay không có gì để hổ thẹn với những giọt cà-phê tiền bối năm ba thế kỷ trước.

 

 

Cà-phê rụng chậm, như thế là phải. Nếu nó rụng khác đi thì chàng đã không có cớ gì để xẩm tối hôm ấy nhớ đến tiếng tu hú kêu sau vườn nhà cậu Bảy. Đây là những tiếng tu hú mười lăm năm về trước. Bây giờ thì cậu Bảy không có vườn mà cũng không có nhà nữa.

Cậu Bảy là nghệ sĩ, đêm ở nhà cậu, trước kia, có nhiều cuộc vui, có nhiều người lui tới hơn ở các nhà khác trong làng. Chàng đến đó vui chơi, và lắm khi ở lại ngủ luôn.

Ngủ đêm ở nhà cậu Bảy thì đến khuya, lúc bạn bè dần dần rút về hết rồi, đàn hát dẹp rồi, ai nấy tìm chỗ nằm, một ngọn đèn hột vịt được vặn nhỏ tí ti đem đặt trên chiếc bàn con giữa nhà, nấp sau một cái bình tích đứng che bớt ánh sáng. Trong vắng vẻ bấy giờ nghe tiếng con chim kéo vải kêu íp íp đều đều. Lúc trong nhà còn đông người ồn ào thì tiếng ấy không ai để ý. Vậy, ở nhà cậu Bảy, người ta ngủ trong tiếng chim kéo vải đổ đều thâu đêm như thế.

Nhưng cái đặc biệt là lúc trời tờ mờ sáng. Ngủ ở nhà cậu Bảy không bao giờ chàng thức dậy muộn hơn: lần nào cũng là vào lúc mặt đất còn mập mờ từng vũng bóng tối, da trời hơi biêng biếc một màu thiếc lạnh, vài ngôi sao lạc lõng còn đang thoi thóp đó đây, không khí còn ủng mùi sương ướt, vào ngay lúc ấy chàng đã vụt thức giấc vì tiếng tu hú kêu ngoài vườn. Bên chỗ chàng nằm có cửa sổ, ngoài cửa sổ là mấy bụi mía. Tu hú kêu, chàng hé cửa ra, lá mía cắt những đường nét khỏe mạnh, bấy giờ hãy còn là màu đen. Hơi sương tràn vào khiến chàng tỉnh táo. Tu hú tiếp tục kêu. Gà lần lượt xuống sân, đàn gà con ban đầu líu ríu quanh mẹ chưa muốn tản ra xa. Tu hú lại kêu nữa. Dần dần chân trời phía đông ửng đỏ một vùng, chàng bắt đầu trông rõ cây rù rì đen xũ lá bất động bên bờ ao giữa đồng; chàng bắt đầu trông thấy tàn cây thị già tỏa ra đồ sộ ở bìa rừng bên nhà; cây thị, cây tam thất, rồi cây quăng, cây cầy v.v...

Chàng không biết một thứ tiếng chim gì như tiếng chim tu hú lúc rạng đông. Nó tràn đầy sinh lực. Thật là một tiếng chim kỳ lạ. Con tu hú, không biết nó rình rập ra sao, nhưng bao giờ cũng là chính nó bắt gặp bình minh trước tiên, và lớn tiếng tri hô cho ai nấy đều hay.

Thực vậy, ngủ ở nhà cậu Bảy, chàng có cảm tưởng thời gian tiến tới mỗi bước đều trịnh trọng. Không có phút nào bị bỏ qua. Luôn luôn có sự đón đợi, rình chờ, nghe ngóng. Suốt đêm con chim kéo vải vẫn canh thức, ngọn đèn hột vịt vẫn canh thức. Canh thức kín đáo — ngọn đèn lim dim, tiếng chim buồn buồn — nhưng cần mẫn bền chí. Đêm thong thả chuyển biến, âm thầm chuyển biến, để rồi đến một lúc nó hóa ra ngày. Lúc nào vậy? Cái lúc quan trọng ghê gớm đó là lúc nào mà êm ru vậy? Tất cả đều thấp thỏm, nhưng bao giờ cũng chỉ có con tu hú là nhận ra lúc đó trước tiên.

Tiếng tu hú không thỏ thẻ, không ríu rít, cũng không véo von. Nó không có cái công dụng của những tiếng chim khác. Tiếng tu hú bất chợt gióng lên lảnh lót lúc còn tờ mờ tối, như một nguồn vui tưng bừng. Rồi nó lăng xăng, gióng giả, đôn đốc, thúc đẩy. Tu hú, tu hú! Các ngôi sao cuối cùng vội vã lặn mất. Chân trời phía đông từ màu đen âm u chuyển ra màu trắng ửng. Tu hú, tu hú! Chân trời từ trắng thành đỏ. Ơ, con chim kéo vải tịt đâu mất? Tịt mất hay nó vẫn còn kêu mà không ai chú ý? Lá mía lá dừa hiện ra, đen, rồi xanh. Rồi ánh sáng ùa lên tràn khắp đồng, sương nhấp nháy trên cỏ, trên lúa. Nắng mênh mông. Ngày toàn thắng. Lúc bấy giờ con tu hú nghỉ ngơi chăng? Nó nghỉ hay nó vẫn còn kêu mà không ai chú ý?

Ngủ đêm ở nhà cậu Bảy là như thế. Mỗi đêm đều như đêm ba mươi tết, như tối giao thừa. Sự đón đợi cái giờ phút đầu tiên của ngày bao giờ cũng thấp thỏm tưng bừng như thuở khai thiên lập địa. Sự đón đợi của cỏ cây muông thú, của thiên nhiên, bao giờ cũng thế chăng? Chỉ có con người là chây lì, là dám coi thường sự lặp lại của nhịp đêm ngày chăng? Nhà cậu Bảy được dự phần vào không khí đón đợi ấy là vì ở gần bìa rừng, gần ao hồ chăng? Hay vì cậu Bảy là nghệ sĩ?

Dầu sao, trong buổi ấu thời của chàng những buổi bình minh ấy là nhất. Đêm nghe kể chuyện chị Nguyệt Nga mặc quần lãnh tía, sáng thức dậy trong tiếng chim tu hú vang lừng, thế là nhất.

Về sau này, lớn lên, sau những đêm thức khuya vui chơi đàn hát ở đô thị, sáng dậy chàng thường cảm thấy rã rời, tâm hồn lây sự mỏi mệt của thể xác. Đêm vui chơi ở nhà cậu Bảy không để lại dư vị chán chường như thế.

Tờ báo chiều nay có trích đăng mấy đoạn nhật ký của một cán bộ cộng sản bắt được tại vùng quê chàng. Vùng quê chàng nay không còn là của chàng, đó là vùng cộng sản. Tên cán bộ ghi vào nhật ký nhiều mối tình, trong đó có một chuyện xảy ra ngay tại chỗ trước kia là nhà cậu Bảy. Dân làng tối đến bị bắt buộc phải tụ họp vót chông nhọn, vừa làm việc vừa kể chuyện vui vừa hát ca cho đỡ buồn ngủ. Tên cán bộ cũng vót chông, lân la bên cạnh phụ nữ, và nửa đêm về sáng đã rủ được một cô vào bụi rậm. Xong rồi, cô gái ôm cứng lấy hắn khóc ướt vai.

Nhà cậu Bảy bị đốt cháy đã hai năm nay, cậu bỏ đi hoạt động trên núi bốn năm rồi. Bây giờ ai ở đó? Đêm đêm vót chông người ta kể chuyện gì, lại chị Nguyệt Nga mặc quần lãnh tía nữa sao? Tên cán bộ kéo gái vào đâu, vào chỗ bụi mía đầu hè ngày xưa đó chăng? Vào chỗ bụi chuối sau vườn vang tiếng tu hú đó chăng? Nhảm quá.

Trong quán Thu Hương, ở một góc sân, chàng theo dõi giọt cà-phê mới vừa rụng, chàng lắc đầu: Nhảm. Nhảm quá cỡ.

 

 

Thực vậy, giọt cà-phê thường khi nhắc nhở những điều nhảm nhí.

Trong trí chàng rụt rè lấp ló hiện về sự phân vân về cảnh tượng người đàn ông mất tai. Quán phở của người trưởng ty Công An cũ vì ở gần nên chàng vẫn thường lui tới, có khi chỉ để uống một ly nước ngọt, một tách cà-phê rót từ trong siêu ra. Người thợ nấu phở loay hoay ở cái bếp phía cửa ra vào, một cậu bé đi đi lại lại để bưng thức ăn hầu khách, chủ quán ngồi sau quầy, mắt thường nhấp nháy. Một cửa tiệm như thế là bình thường. Nghĩa là ở mặt tiền nó không có gì đáng chú ý. Thế nhưng sau quầy hàng có một vuông cửa sổ, trông qua cửa sổ ấy thấy thấp thoáng chút ít về cái sinh hoạt ở hậu trường, một thứ sinh hoạt có nhiều mơ hồ, u ẩn, rắc rối. Sau đó bao giờ cũng tối, tuy có một bóng điện vàng cạch thắp suốt ngày. Vách tường ám khói đen thui, đồ đạc ngổn ngang chật chội. Sau đó, có khi chàng nghe tiếng khóc tỉ tê, có khi tiếng kể lể của người già, có khi chàng bắt gặp hai cặp chân đàn ông và đàn bà dừng lại giữa cầu thang gác, quấn quít lén lút, có khi những tiếng hằn học, rì rầm... Chủ quán ngồi nhấp nháy đôi mắt, cách cái sinh hoạt ấy nửa thước tây, như án ngữ để che đậy.

Cái gì sau đó? Có thể cũng là một sinh hoạt bình thường, với đủ chuyện ai, lạc, ái, ố..., cũng bình thường như ngoài mặt tiền, nhưng bình thường theo lối riêng của thứ sinh hoạt hậu trường. Có thể trí tưởng tượng của chàng đã làm việc quá nhiều. Nhưng cũng có thể cái hậu trường ấy có nhiều u ẩn rắc rối thật, và đó là nguyên do gây ra những thăng trầm bất ổn trong cuộc đời người trưởng ty cũ.

Trong mùa mưa, một hôm chàng ngồi ở tiệm phở đến gần tối mà không thấy có đèn. Điện bị cúp bất ngờ. Bóng tối từ phía sau tràn qua quầy hàng, ngập đầy phòng trước. Ở buồng trong, tối tăm, sinh hoạt lại càng thêm nhiều rì rầm khả nghi, như những khổ đau buồn thảm, nhốn nháo, mà một người muốn giữ riêng trong lòng. Vẻ đứng đắn, bình thường ở gian phòng trước, có vẻ vờ vĩnh.

Đèn cầy chưa kịp đốt mang ra, trong quán lác đác đôi ba người. Ở chỗ góc gần lối thông ra phòng sau, bên cạnh quầy hàng, có hai người đàn ông đối diện nhau với chai 33 trên bàn. Chàng vẫn tưởng họ chỉ uống. Bấy giờ chàng mới để ý rằng họ đang ăn. Họ tiếp tục ăn trong bóng tối mập mờ. Bóng tối mỗi lúc một đậm màu trùm lên họ; chú ý nhìn: bóng tối như xao động chuyển dao. Một người đưa đũa lên gắp lấy vành tai kẻ đối diện, kéo nhằng ra. Người kia co rúm lại, không một tiếng kêu. Nhưng chắc chắn là người thứ nhất đã gắp được tai, điềm nhiên nhúng vào tô, ăn thong thả. Hai thực khách đều lặng lẽ. Chủ quán ở bên cạnh, lặng lẽ.

Mỗi lúc chàng mỗi lo âu, khiếp đảm. Sự bí mật đã vượt qua khung cửa nọ, từ phòng sau lan ra tới trước? Người chủ quán liệu có vẫn thụ động, bất lực? Thực khách nọ lại đưa đũa lên, nhằm một phía tai khác. Tai nạn chỉ còn gang tấc nữa là xảy ra. Bỗng nhiên đèn bật sáng. Phía tai kia được cứu thoát. Ngồi ở xa, chàng xem chừng trên gương mặt nạn nhân còn nét kinh hãi. Hai người kêu thêm la-ve, ăn nữa uống nữa, hồi lâu mới đứng lên.

Lúc họ đi ngang qua trước mặt, chàng trông thấy rõ ràng người khách mất một vành tai, thành sẹo đã lâu.

Trong mùa mưa vừa qua, nhiều buổi chiều chàng lân la ngồi muộn ở quán phở nọ. Càng ngày chàng càng có cảm tưởng phía sau đời sống của người chủ quán phong trần có nhiều khốn đốn, trắc trở, âm thầm, dày đặc. Ngồi trước tách cà-phê khét và chua của ông ta, chàng mở mắt chiêm bao những điều kỳ dị, hãi hùng.

Ở đô thị, người này không dễ xâm nhập vào cuộc sống người kia, dẫu tiếp cận thường xuyên từng cuộc sống vẫn cách nhau. Chàng tha hồ chờn vờn quanh người chủ quán, vẫn không vào được trong cái bí mật của ông ta. Chàng tha hồ lượn vòng từ chuyện này tới chuyện kia, bao quát mọi người mọi cảnh, chàng vẫn lẻ loi: tình trạng của một người chờ cà-phê nhỏ giọt. Không mấy khi người ta vừa yên tĩnh một mình mà vừa lan man khắp nơi như khi ngồi trước phin cà-phê. Đó là chỗ u cốc ẩn cư lý tưởng của người đô thị.

 

 

Cậu Bảy! Chàng lại gặp cậu Bảy ở chỗ u cốc nữa rồi. Cậu bị “gắp”, thảm thương. Làng cậu bị đánh qua đánh lại, đã tan hoang; đồng bào kẻ đi lên núi như cậu, kẻ khác kéo về quận lánh nạn. Bà con lánh nạn ngày ngày tản mác làm ăn, trưa chiều tựu hội về trại, xúm xít bên nhau, đem những điều nghe thấy kể lại cho nhau, nhất là những tin tức nghe được về làng xóm cũ: Một cuộc hành quân về hướng làng cũ, một trận dội bom, trận kích chỗ này, vụ ám sát chỗ kia v.v...

Hàng ngày có những chiếc phi cơ trực thăng thám thính bay trên các vùng chánh phủ chưa kiểm soát được. Bất cứ gặp bóng người nào, phi cơ đều hạ xuống, mời lên, chở về quận. Một người thơ thẩn? Trực thăng hạ xuống: à, nông phu vác cuốc thăm đồng, xin mời. Một đám đông lố nhố? Phi cơ hạ xuống: à, đám tang, chờ cho quan tài hạ huyệt xong, mộ lấp xong, xin mời mọi người. Tất cả về quận, có hành chánh lưu vong ở sẵn tại quận nhận xét, ai là cộng sản thì đề nghị tra hỏi giam giữ, ai là đồng bào lương thiện thì bảo lãnh xin thả ra trại lánh nạn, cùng bà con làm ăn.

Phi cơ bay lượn trên trời, đảo mắt tìm kiếm khắp xóm làng, rồi thình lình hạ xuống, thộp bắt nạn nhân đem lên trời. Sự việc xảy ra y hệt diều bắt gà. Diều đưa chân ra túm gà, mang lên không, như thế vẫn được gọi là “gắp” gà (như người ta dùng que gắp than lửa, dùng đũa gắp món ăn). Do đó bị trực thăng bắt, người dân quê gọi là bị gắp. Cứ mỗi chuyến trực thăng trinh sát đi đâu về, hạ xuống, đã có một số đồng bào, phần lớn là trẻ con rảnh việc, chực sẵn để kiểm điểm từng người trên máy bay bước xuống. Năm mười phút sau, tin bay về trại: “Sáu Chột bị gắp. Mới vừa gắp chuyến này. Bà con chưa biết hả? Ba Thành cũng bị gắp. Mẹ ơi! bà ơi! bác Năm, cô Tám bị gắp rồi.”

Hôm đó thì cậu Bảy bị. Tình cờ mà chàng chứng kiến cảnh cha con cậu Bảy bị gắp đưa về. Cảnh tượng ấy sẽ in vào trí chàng lâu.

Cậu Bảy là nghệ sĩ, cậu có quyền không cần đến một khổ người to lớn, cao hơn một thước rưỡi. Tuy nhiên chiều hôm đó khi cậu loay hoay, bé nhỏ, tay dắt đứa con trai còn bé nhỏ hơn, giữa mấy người lính Mỹ vạm vỡ cao lêu khêu, khi cha con cậu gần như phải chạy lụp xụp mới theo kịp những bước khoan thai của mấy người Mỹ, bỗng nhiên trông cậu khổ sở. Nhất định là cậu khổ: về trường hợp cậu, hành chánh lưu vong của xã không còn phân vân gì nữa, cậu bị gắp chuyến này là tai họa rồi. Xung quanh cậu tiếng động cơ ầm ầm, người người cao lớn, súng ống lách cách, giữa sức mạnh ấy nhiều điều chẳng lành chờ đợi cậu, cậu bị uy hiếp, sắc mặt cậu tái đi. Một chiếc trực thăng khác lại mới vừa đáp xuống, gió quạt mạnh ào ào. Dĩ nhiên, cha con cậu Bảy không bay mất vì cái gió ấy, nhưng áo quần phấp phới quanh người, cha con cậu te tái điêu đứng trong cái gió phũ phàng. Ngay lúc ấy, chợt cậu Bảy trông thấy chàng và mấy người quen biết đứng phía ngoài trạm gác phi trường. Vụt một cái, người cậu rắn lại, nét mặt cậu đanh lại, nghiêm hẳn ra. Suýt nữa cậu buông tay, quên chụp đè lên chiếc mũ trên đầu.

Chàng đã hiểu. Chàng muốn ngoảnh mặt tránh đi cho cậu Bảy bớt lúng túng. Cậu không muốn để ai bắt gặp mình thiểu não. Cậu Bảy đang bảo vệ cho thể thống của cách mạng mà, chàng hiểu. Cậu nhiều tự ái. Quần áo cậu phấp phới như thế kia, cha con cậu te tái thảm thương như thế kia, ấy vậy mà cậu đang cố gắng giữ sự thể cho cách mạng. Ở đời có những cảnh tượng người ta không nên ghé mắt chứng kiến, người ta cầu mong cho sự tình cờ không khiến mình phải mục kích: cảnh một người thất thế đang đỏ mặt ấp úng hỏi vay món nợ đầu tiên, cảnh người đàn ông tuổi tác lóng cóng không kham nổi một người đàn bà đang tự trao cho mình, cảnh một người chuyên săn đuổi tiêu diệt đế quốc xâm lăng vừa bị đế quốc gắp được v.v...

Chàng ngoảnh mặt đi, nhưng không kịp. Một phút tò mò không cố ý, chàng phải trả giá lâu dài. Thỉnh thoảng một ý nghĩ về cậu Bảy ngẫu nhiên hiện đến, và chàng áy náy, lờ mờ thấy như trót có điều gì luống cuống đối với cậu. Chàng băn khoăn kiểm điểm: thì ra vẫn chỉ một chuyện ấy.

Nhưng bây giờ cậu ở đâu? Số phận cậu được quyết định như thế nào? Đứa con trai ngơ ngác cậu dắt theo độ nọ rồi nó ra sao? Cậu vợ con muộn màng, chỉ có nó là độc nhất chăng? Cha con đi đâu mà bị gắp trọn bộ vậy? Cậu Bảy thì chắc chắn là tù tội rồi, nhưng còn thằng bé nó phải được tự do. Ai nuôi nó? nó làm gì để kiếm miếng ăn lúc này? Đánh giày chăng? Bán báo chăng? Rửa xe cho Mỹ, ăn cắp đồ Mỹ, dắt gái cho Mỹ chăng?

Có điều chắc là lúc này nó không về làng được nữa. Nó đang phiêu dạt đâu đây ở một đô thị. Những buổi mai của nó không có tiếng chim, nhất là chim tu hú, đêm khuya của nó rền tiếng xe. Trong bụi bặm ồn ào, chiều chiều nó ao ước thả được cái diều giấy trong ngõ hẻm chật mà không bị vướng dây điện. Rồi một hôm nào đó chàng rất có thể sẽ gặp lại nó, như gặp anh thợ hớt tóc ở Hòa Hưng, bác lái đò ở Thị Nghè v.v...

 

 

Nếu thằng con cậu Bảy thả con diều, diều nó không thoát nổi dây điện đâu. Những sợi dây điện ác nghiệt. Chàng nghĩ đến cái quang cảnh chàng trông thấy, ngắm nghía cách đây vài buổi chiều; lòng chàng xịu xuống, mềm đi.

Hôm đó, tới nhà người bạn ngồi chờ hồi lâu không gặp, chàng bỏ đi. Ra tới ngoài cổng, phân vân chưa tính đi đâu, chàng dừng lại, ngước nhìn lên trời. Mắt chàng ngừng lại ở một chiếc dù bằng nhựa mỏng treo toòng teng trên dây điện, chiếc dù trẻ con chơi, to cỡ bàn tay xòe, có đeo theo một anh lính bằng ngón tay trỏ, xam xám, từ từ xoay qua xoay lại trong gió.

Một chiếc dù bị treo dính lơ lửng như thế là niềm thất vọng của một chú bé con. Trên một quãng đường dưới trăm thước tây, chàng nhẩm đếm được trên tám mươi chiếc dù. Trời, trẻ con đâu mà lắm thế. Một ngõ hẻm chật chội thế này, đông đảo thế này, con nít nó phá, phải biết.

Chàng không có được cái tính yêu trẻ. Nhất là cái đám trẻ kéo ra đầy các ngõ hẻm đô thị, chúng ngỗ nghịch, ồn ào, quẩn chân, hỗn láo, phá phách, chúng làm chàng bực, ghét. Thế nhưng buổi chiều hôm đó, chứng kiến những niềm vui bé bỏng của chúng lơ lửng giữa trời, chàng tội nghiệp, cảm động. Cảm động có lẽ tựa như một bà mẹ có đứa con đi xa, tình cờ mở ngăn tủ đựng đồ chơi của nó ra bắt gặp những nắp keng, con búp-bê gãy tay, cái cúc áo nhà binh, chiếc bóng điện hỏng v.v... Những đồ vật ấy càng vô nghĩa, ngớ ngẩn bao nhiêu càng làm bà mẹ thương hại xúc động bấy nhiêu.

Chàng cũng không có được cái khiếu tìm ra những chỗ đáng yêu của đô thị. Thế nhưng chàng bỗng mủi lòng trước cái vui thú nghèo nàn của đám trẻ. Một góc phố tồi tàn, hỗn tạp, lôi thôi, một quãng đường ngóc ngách, chật hẹp, tự dưng chúng cũng có cách gợi một xúc cảm nồng nàn. Chàng không còn dửng dưng thù nghịch với sinh hoạt đô thị. Chàng đã bắt gặp cái linh hồn của các ngõ hẻm, ồ, thứ linh hồn ngộ nghĩnh như những đuôi diều giấy, những chiếc dù nhựa ve vẩy trên sợi dây điện!

Lâu ngày rồi chàng sẽ biết yêu nó như yêu những buổi bình minh xưa kia ở nhà cậu Bảy.

 

 

Chàng lo lắng không biết trong khoảng sân của ngôi quán lộ thiên mà ấm cúng này, rồi những giọt cà-phê nhỏ giọt chúng định đưa chàng lan man tới đâu đây? Tiệm phở âm u, bác lái đò gãy chân, rạng đông trên một làng sơn cước, cơn gió thổi cha con cậu Bảy tại phi trường v.v... Đủ mọi thứ đầu cua tai nheo. Trong một kiếp nhân sinh ngắn ngủi giữa thời loạn, chàng sống tản mác một cuộc sống đầu Ngô mình Sở, một cuộc sống rách mướp, chắp vá. Mà cà-phê lại có cái thói hay đưa tâm trí con người ta vào những phiêu lưu dật dờ càng xa xôi tản mác gấp mấy trong cuộc sống thực. Bởi vậy ngôi quán chàng đang ngồi có cái sáng kiến rất hay là đối diện với một nhà bán... quan tài danh tiếng nhất thủ đô. Nên như thế. Khi người ta suy nghĩ quá dông dài nên có cái gì nhắc họ một sự kết thúc. Và sực nhớ tới món thiết dụng cuối cùng của một đời người, chắc chắn là lắm kẻ đâm cụt hứng, lo kết thúc vội vàng sự nghĩ ngợi viễn vông.

Người ta cho rằng dân Việt Nam có trên nghìn điệu dân ca, tất cả chỉ nguyên xung quanh hai câu lục bát mà thôi, đó là hiện tượng hiếm hoi trên thế giới. Điệu dân ca với chữ cò của cậu Bảy nhất định đã góp mình vào hiện tượng ấy. Chàng ước ao có dịp nào chữ cò ấy đề cập tí chút tới cà-phê để phả vào nó một tinh thần dân tộc. Chẳng hạn:

“Rung cò rinh một cò giọt cà cò phê

Cà cò phê một cò giọt trăm cò bề bâng cò khuâng”

Chỉ ngại khi giọt cà-phê nó biết mình được ca tụng kiểu ấy, nó sẽ không còn màu đen hay màu nâu; nó sẽ đỏ ửng lên vì thẹn mất.

 

 

Cậu Bảy nghệ sĩ với nét mặt của cậu ám ảnh chàng, nét mặt thoạt rắn lại khi bị quan sát. Chàng chịu cậu.

Chàng tự biết không còn được thế. Những nhồi xóc liên tiếp của thời thế đã làm chàng mềm oặt như con bún. Chàng bị xô đẩy từ vị trí này đến vị trí khác, hết buồn phản ứng. Đâu đâu cũng một kiếp trầm luân. Cậu Bảy, khi cậu sẩy chân tuột giốc, coi bộ cậu bất bình, cậu cự nự. Vâng, hình dáng cậu có xác xơ, thần sắc cậu có bơ phờ, nhưng cậu mím miệng, nghiêm rắn lại, trông cậu vẫn ra gì, vẫn sự thể.

Nhưng như vậy được đến chừng nào, cậu Bảy? Trải qua một hồi xáo trộn nữa, rồi ai đoán biết sẽ gặp cậu ở đâu, gặp đứa con trai bé dại của cậu trong hoàn cảnh nào. Ai biết được rồi thời thế sẽ đưa mình tới đâu? rồi mình làm cái thứ gì? anh thợ hớt tóc chăng? anh bán phở chăng? tù nhân chăng? kẻ cướp chăng? Hỡi Tạo hóa! Rồi ta sẽ hóa thành gan con chuột chăng? sẽ biến thành cánh con bọ chăng? tay tả làm con gà, tay mặt làm hòn đạn chăng? Dĩ nhữ vi thử can hồ. Dĩ nhữ vi trùng tỵ hồ... Thử can hồ, trùng tỵ hồ... Can hồ, tỵ hồ...

“Nhữ cò vi trùng cò tỵ thử cò can

Tý cò thần vi cò mã vi cò đàn vi cò kê”

Ấy chết! Thầy Trang thứ lỗi cho. Nhảm quá cỡ. Giọt cà-phê thỉnh thoảng lại đưa ra một điều nhảm nhí.

Những lúc chàng mơ mộng vẩn vơ, cuộc đời mênh mông càng hóa mênh mông thêm, những chuyển hóa bất ngờ của nó càng phiền tạp thêm, chàng mềm người trong cảm tưởng tự phó thác.

 

 

 

Chàng đã bị nhồi xóc đến điều, nổi chìm thật dữ, nhưng — chàng biết — chàng vẫn không thể ghét bỏ cuộc đời này. Hơn thế nữa, không thể không mến yêu nó. Đó mới là cái chỗ nhược căn bản của con người.

Chàng biết mình mang nặng chỗ nhược ấy. Mai sau, khi chàng đã nằm kỹ dưới ba tấc đất, áo quan lâu ngày — dù là thứ áo quan tốt của cửa tiệm danh tiếng bên kia đường — sẽ mục rã, chàng nằm yên tiếc rằng từ ngày chàng rời mặt đất sự chuyển biến trong thân thể chỉ xảy ra có một chiều, không dành một chút gì bất ngờ. Hôm nay rã đôi mắt, ngày mai mềm đến hai môi, ngày kia sập mất cái mũi... Cứ thế. Chán quá đi mất.

Suốt mùa khô ráo thời gian dài bất tận, không có bình minh, hoàng hôn, không có đêm ngày, không có gì nhắc nhở đến cuộc sống trên kia. Thế nhưng khi mùa mưa đến thì khác. Nước mưa thấm vào đất, âm thầm len lỏi qua nhiều lớp đất, như qua một cái phin vĩ đại. Cuối cùng đến mặt áo quan, nó dừng lại một chút, lưỡng lự, ngập ngừng, thăm dò. Nhưng áo quan đã mục: nó được phép. Bèn có những giọt nhỏ xuống: một giọt bên phải, một giọt bên trái, một giọt... Thôi, đúng rồi! đúng vào nơi trước kia vốn là trái tim của chàng. Chàng tê buốt cả người, rồi tinh thần tỉnh táo như vừa mới tiếp nhận sinh khí. Đã lâu, mòn mỏi đợi chờ, mới lại được tiếp xúc với một chút gì lọt từ trên kia xuống, một chút trần gian. Và trong bóng tối của lỗ huyệt chàng tha hồ miệt mài suy nghĩ không dứt về những tiếng gió thổi qua tàn lá, tiếng tu hú trước buổi bình minh, quán hủ tiếu thưa khách nửa khuya, ánh hỏa châu lúc gần sáng, vành tai một thực khách trong tiệm phở quen, diều giấy chằng chịt trên dây điện ngõ hẻm v.v...

“Rung cò rinh một cò giọt trần cò gian

Trần cò gian một cò giọt miên cò man chuyện cò đời”

Trong một lỗ huyệt tối om khác, cậu Bảy kiểm thảo về cuộc sống đã qua, về những đêm đàn hát vui chơi, về phong cách của mình những lúc sa cơ thất thế. Chàng chắc cậu được hài lòng, mát mẻ.

3 – 1967

Một Ngày Để Tùy Nghi

Buổi chiều, anh về tới nhà trời hãy còn sáng một lúc lâu. Trong ráng chiều, đôi ba con én nhào lộn ngoạn mục trên các mái nhà.

Một buổi chiều, cuối mùa đông, anh Tư đi làm về, trong người rân rân mệt mỏi, nằm trông theo những con én bay ngược bay xuôi trong xóm. Én bay rạo rực. Nó không bay vì nhu cầu chuyển dịch. Nó lướt qua rồi tức thì lộn trở lại, bay vô ích. Nó bay như chỉ để phô trương, để biểu diễn những pha bất ngờ. Én bay trong xóm đôi ba con hay năm bảy con? Khó đếm được. Nó bay loạn xị. Nó rạo rực niềm vui trên xóm nghèo, trong ráng chiều, khi người người mệt mỏi. Anh Tư nằm trông theo én bay cho đến khi đèn đường bật sáng.

Mưa bắt đầu rơi lai rai trong bóng tối lúc nào không hay. Khi anh ló đầu ra sân sau, tới chỗ chum nước thì mưa ướt tóc, tay quờ nắm cán gáo thì cán gáo ướt đầm.

Mưa rơi im lặng lai rai trong lúc anh Tư ăn cơm và lúc anh ăn xong nằm đọc báo. Rồi mưa tạnh bao giờ cũng không hay biết. Khuya, trăng lên cao, sáng mát. Dưới ánh trăng, ngôi mả vôi nằm lù lù trước nhà, phía bên trái cửa ra vào, với cái bia mộ cũ kỹ rêu lở; dưới ánh trăng ngõ hẻm gồ ghề, tường nhà mảng tối mảng sáng; dưới ánh trăng mấy cái quần áo phơi chưa khô ở sân sau, chiếc xe đạp ba bánh của đứa con v.v... Đâu có gì để ngắm trăng. Nhưng đêm trăng gợi một nao nức vu vơ.

Anh Tư nghĩ đến câu thơ cổ, lạc loài trong trí nhớ:

“Nhị thập tứ kiều minh nguyệt dạ”

“Nhị thập tứ kiều”? Có gì hấp dẫn hơn những tường nhà mảng tối mảng sáng trong xóm? hơn những chiếc lốp xe cũ vứt nằm trong hẻm? những quần áo vắt phơi trên dây? Đâu có gì, đêm trăng trong câu thơ lạc loài, không mô tả, đêm trăng trống huếch trống hoác mà vẫn thu hút.

Anh Tư muốn thức, nhưng khuya rồi, không được thức nữa.

Giữa chừng giấc ngủ, chợt tỉnh dậy. Có tiếng xe gầm gừ trước nhà. Chiếc xe đang cố gắng nhích tới nhích lui, trở đầu một cách khó khăn. Đêm đêm vẫn có mấy người tới đánh bạc ở nhà bên cạnh, bây giờ họ ra về. Ánh đèn xe của họ chiếu sáng tận trong phòng anh Tư. Trước ánh đèn xe, mưa lại rơi lai rai tự lúc nào. Bấy giờ có lẽ đã quá giờ giới nghiêm một chút, chiếc xe mấy người đánh bạc đi xa rồi, cả xóm vắng lặng. Anh Tư chẳng còn được bao nhiêu thì giờ nữa, anh vội vã ngủ lại.

Lần khác, anh thức giấc, bốn trái hỏa châu cùng sáng rực một lúc, treo lơ lửng giữa trời về phía Tân Cảng. Ánh sáng rọi tận trong mùng. Anh bỡ ngỡ nhìn rõ những đường may ráp hai lá mùng, nhìn thấy tờ báo trải nằm trên trần mùng. Bốn trái hỏa châu trừng trừng sáng rực một lát rồi tắt. Bên ngoài còn lại thứ ánh trăng xanh mát. Mưa lại đã ngưng tạnh. Anh không còn thì giờ nữa.

Lần khác nữa, thức giấc, nghe có tiếng xích-lô máy nổ lẻ loi ở xa. Hết giới nghiêm. Gần lắm rồi, không còn thì giờ. Anh cần nghỉ thêm một chút.

Quả nhiên vừa chợp mắt lại được một tí đã nghe tiếng rao hàng: “Mì...nóng đây.” Hết. Từ lúc này, thì giờ không thuộc về anh Tư.

 

 

Bình minh lóe lên như một cánh tay giơ cao, sắp sửa đập xuống. Anh Tư sợ bình minh. Mỗi buổi sớm là một đe dọa. Mỗi buổi sớm mở đầu một ngày nhọc nhằn. Ngày nào cũng là ngày của công việc. Việc nọ tiếp việc kia, giờ khắc đun đẩy nhau liền liền suốt tới chiều.

“Mì...nóng đây.” Anh mở mắt. Sương trắng lờ mờ ngoài cửa. Trong không gian có tiếng con cu cườm buông xuống, nặng chình chịch. Tiếng u trầm làm cho buổi sớm lắng vào những suy tưởng sâu xa. Anh Tư muốn nằm yên chút nữa, theo dõi con chim cườm. Nhưng sáu giờ rưỡi rồi. Muộn rồi. Anh Tư đâu còn thì giờ? Anh chỉ có một giờ trước mặt. Một giờ để làm mấy động tác thể dục, để rửa mặt, cạo râu, đi cầu, để ăn sáng, mặc đồ, để soát lại chiếc xe qua loa trước khi phóc lên thẳng xông tới sở.

Anh Tư không thể dậy trễ mười phút. Tiếng con cu cườm nặng chịch những suy tư trong sương sớm u trầm không thuộc về anh. Ánh sáng trên mái ngói, trên lá cây mỗi buổi mai không thuộc về anh. Minh nguyệt dạ không thuộc về anh...

Nhị thập tứ kiều? Ở đâu vậy? Cảnh trí nó ra sao? Đêm trăng, anh nghĩ tới nó. Nó gợi những mơ ước xa khơi. Anh Tư tưởng tượng mình phất phơ thơ thẩn ở chỗ “nhị thập tứ kiều” xa xôi viễn vông đó. Nhưng, nhị thập tứ kiều cũng không thuộc về anh. Anh Tư tưởng tượng những rạch nước chạy giữa hai hàng cây trong các khu vườn ở Lái Thiêu, ở Chợ Giữa, tưởng tượng rừng tre gai ở cao nguyên miền Trung, những giải mây ẩm ướt, mang vô vàn giọt nước li ti lê thê kéo ngang qua đèo Hải Vân. Anh Tư tưởng tượng những ngóc ngách trong đô thành, cảnh sống sầm uất đầy bất ngờ của xã hội nghèo túng, tưởng tượng những quán cà-phê ba tàu, những vườn hoa đây đó ở Sài Gòn Chợ Lớn, những nơi có thể ngồi phất phơ nhẩn nha... Nhưng những thứ đó không thuộc về anh: công viên, tiệm nước ba tàu, vườn cây Lái Thiêu v.v... Anh Tư không thể ở bất cứ đâu. Anh Tư chỉ có thể ở sở.

Bình minh lóe lên như một cánh tay giơ cao, và anh Tư cúi đầu xuống chịu trận.

 

 

Anh Tư đã cúi đầu chịu trận sáng hôm nay, sáng hôm qua. Anh cúi chịu ngày này qua ngày khác, năm này qua năm nọ. Anh không có ngày nào của anh, thuộc về anh. Cả cuộc đời là của công việc. Sự mưu sinh tước đoạt trọn cuộc sống của anh.

Giả sử anh cắt ngang chuỗi ngày liên tục ấy, tự do sử dụng thì giờ để làm những cái anh thích, sống theo một chương trình tự anh xếp đặt, như thế dăm ba ngày anh sẽ mất việc ngay, khốn đốn ngay. Anh không tự ý ngừng cái nhịp sống ấy được. Nhìn về phía tương lai tít tắp, anh Tư không thấy đến bao giờ có thể gặp những ngày do anh làm chủ, thuộc quyền sử dụng của anh. Trên giấy tờ thường có những bản sao văn gửi đến các cơ quan “để tùy nghi”. Nhưng ngày tháng trong đời, khiếp! không có những ngày để tùy nghi. Không thể có một cuộc đời để tùy nghi.

Anh Tư tưởng tượng coi cải lương đã đời tới mười hai giờ đêm, ăn cháo cá ở Chợ Cũ hồi một giờ sáng, về nhà đọc truyện tàu vài chương, đem đàn và mấy bản nhạc thích thú ra đánh đi đánh lại tới hai ba giờ sáng trước khi đi ngủ. Mờ sớm, con cu cườm điểm từng tiếng u trầm trong sương, anh lắng tai, theo dõi. Anh tha hồ nghe chim gáy, nghĩ đến bên ngoài sương đang còn lạnh, tha hồ thu người vào chăn; trong sự ấm áp, thấy thích anh có thể cùng vợ ân ái, thong thả, nhẩn nha. Rồi lăn kềnh ra ngủ nữa. Bên ngoài, ánh bình minh hiền lành đánh tan sương, sưởi ấm không khí. Anh Tư thức dậy quá chín giờ. Hỏi đến các hàng quà rong bán món ăn sáng thì đều bán hết ráo trọi: mì nóng, hết! bún riêu, hết! cơm bì, hết!... Anh cười ha hả thích chí, tự mình chiên lấy một đĩa trứng, chạy mua một khúc bánh mì, tự pha một cốc cà-phê. Điểm tâm xong, mười giờ rưỡi sáng. Ăn cơm trưa lúc ba giờ chiều v.v...

Như thế là một ngày được tùy ghi. Một ngày giả tưởng. Một ngày huyền hoặc. Cuộc ái ân huyền hoặc lúc bình minh, bữa điểm tâm huyền hoặc hồi chín giờ sáng...

Anh Tư tưởng tượng cái ngày ly kỳ của mình, anh tha hồ vùng vẫy trong cái ngày ấy, như con cá trong nước con chim trên trời, anh ngược anh xuôi, đảo lộn hết chương trình trật tự sinh hoạt, anh tung hoành... Anh Tư say sưa... Nhưng cái ngày ấy ở đâu? Cuối tầm mắt mình, anh không hề trông thấy nó.

 

 

Về phía tương lai không trông thấy, nhưng trong dĩ vãng soát lại ắt có.

Hồi anh Tư còn nhỏ, cha anh còn đi làm việc nuôi cả nhà, hồi ấy hẳn anh đã có những ngày trọn vẹn để tung tăng, muốn làm gì thì làm, còn cha anh thì cũng như anh bây giờ, ông vượt từng ngày từng ngày. Cho đến cái ngày cuối cùng, ông không đủ sức vượt nổi, ông chùng chình rồi ngừng hẳn lại vào lúc bốn giờ chiều. Đáng tiếc! nắng đã xế nghiêng. Giá ông cố gắng được hai giờ nữa thì én chiều sẽ bay rộn ràng khắp xóm, ông sẽ cảm thấy thoải mái, như con ngựa về tới chuồng.

Cha anh ngừng lại nửa chừng, khi ấy ông đang làm cai ở một xưởng dệt.

Sau đó thì anh đi làm. Ủa, không phải từ đây không tìm được những ngày tự do của anh. Trong kỷ niệm của anh Tư có những đêm nhậu say tới hai giờ sáng, hôm đám cưới thằng Hùng làm cùng sở anh buồn tình lang thang suốt đêm, hồi mới tập thổi sáo hôm nào anh cũng chờ hơn mười một giờ mới lên gác thổi cho tới một hai giờ sáng... Trong kỷ niệm lại có những lần cuối tuần anh đưa bạn gái đi Cấp, về tới sở vừa đúng tám giờ sáng thứ hai, có những buổi trưa ngồi trong rạp xi-nê thường trực với đào v.v...

Soát lại dĩ vãng, anh Tư ngạc nhiên. Ngày này tiếp ngày kia, ngày nào cũng vẫn là ngày của công việc, tất cả bấy nhiêu ngày tháng vẫn đều là của hoạt động mưu sinh: thế nhưng hồi trai trẻ giữa công việc liên tiếp anh Tư đã tìm ra những khe hở để thổi sáo, để tán cô bạn. Tài tình thật.

Dần dần những khe hở như thế trở nên khó tìm thấy.

Một hôm, trong một khe hở thời gian, anh Tư làm quen với một người con gái dễ thương. Nàng cho anh biết địa chỉ, ở một ngõ hẻm bên Khánh Hội. Anh ghi nhớ. Sau, gặp lại, nàng mượn của anh cuốn truyện xem chơi. Anh định lấy cớ đòi sách, tới nàng. Nhưng rồi lây lất chưa tới được. Kế, nghe nói nàng mê một anh trung sĩ. Nàng “mê” ra sao, anh không rõ. Anh không quan niệm được thái độ yêu đương của nàng. Nhưng vì biết nàng “mê” người ta rồi, anh bỏ qua.

Thật lâu, tình cờ gặp lại nhau, anh Tư nhận thấy cô bạn đổi tính, buồn bã, lơ đãng, nhưng vẫn còn cảm tình đối với anh. Hai người thân mật, hàng ngày gần nhau. Anh được biết là anh trung sĩ nọ đã mất một chân ngoài mặt trận, không chết. Dĩ nhiên, anh Tư muốn biết giữa nàng với người tình xấu số ấy bây giờ ra sao, rồi sau này tính sao. Anh Tư khó đề cập thẳng, nàng thì vắn tắt, khó hiểu. Nàng nói: “Khó chứ anh.” Anh tưởng tượng như vậy nghĩa là: bỏ không nỡ, tiếp tục thì không còn yêu. Tưởng tượng mơ hồ thế thôi, không tiện hỏi thêm. Trông nàng uể oải, lạnh nhạt, vật vờ, gần như vô tình. Anh nghĩ đó là một hình thức của sự đau khổ, nên anh ái ngại.

Một ngày trời lạnh, buổi trưa cùng nằm dưới một tấm ra. Anh Tư xoay người. Cô bạn đang khoanh hai tay vòng trên đầu. Nàng toan gỡ tay, hạ xuống. Anh nhẹ nhàng ấn giữ hai tay, để yên vòng trên đầu. Hai tay chống đối yếu ớt; rồi nửa chừng, nàng mỉm cười, để yên. Hai mắt nhắm. Trong khi anh cử động, mắt nàng vẫn nhắm, bình yên. Một lúc, anh để ý nàng đang ngậm lấy môi dưới của anh, mút nhè nhẹ, chăm chú như một đứa bé con. Anh Tư thấy lòng bình thản: anh không chút vồ vập, anh thong thả, thong thả. Cô bạn mút đều đều, êm ả. Một lúc, anh ngừng cử động, nhìn xuống chợt thấy mắt nàng hé ra một lằn nhỏ; trong lằn hé ấy tròng mắt chạy qua chạy lại long lanh. Anh có cảm tưởng nàng thao thức, bất an, ngờ vực. Và anh tiếp tục, và nàng hoàn toàn nhắm mắt, bằng lòng. Êm ả, khoan thai. Cả hai cùng im lặng. Mỗi lúc anh ngừng, tròng mắt nàng ngờ vực bất an trong lằn hé tí ti, và anh lại tiếp tục...

Xong, hai người nằm bên nhau. Ngày lu lít, lờ mờ, không có ánh sáng, không khí lành lạnh. Trong nghỉ ngơi, thỉnh thoảng anh Tư bắt gặp một ý nghĩ của mình, lẻ loi, biếng nhác, như một con ruồi bay lơ thơ vẽ một đường vòng yếu ớt trong căn phòng vắng vẻ buổi trưa. Anh nghĩ đến sự nhớp nháp của mình trên người cô bạn gái, đột nhiên anh thương mến mênh mông, thương man mác bao la. Cái uể oải của nàng kêu gọi một uể oải nào đó tiềm phục sẵn nơi anh. Anh Tư vụt phác giác ra sự mỏi mệt của mình. Ngày tháng trước mặt anh chợt có vẻ đe dọa. Anh sợ nó. Anh có cảm tưởng từ nay mình sẽ khó tìm ra những khe hở thời gian để yên hưởng một chút êm đềm bên cạnh bạn. Và anh không muốn xa rời nàng nữa.

Ít lâu sau đó, anh Tư xin cưới nàng.

Rồi càng ngày, quả nhiên, anh càng không tìm thấy cơ hội rảnh rỗi giữa công việc mưu sinh. Anh không biết tìm đâu ra. Lâu dần, anh không tưởng tượng nổi, không quan niệm nổi mình có thể tìm thấy nữa. Chỉ mải đối phó với sự giục giã cấp bách của một buổi sớm, anh đã hụt hơi. Một ngày vừa qua thoát, anh Tư vừa nghỉ ngơi được tí chút, một ngày khác đã tới ngay. Nấp sẵn tự bao giờ ở chân trời, bình minh vụt ló ra chiếu lòa vào cửa, hô to: “Đây, một ngày nữa nhá!” Và anh Tư thưa: “Vâng.” Càu nhàu, khổ sở, nhưng vẫn lẽo đẽo phục tùng, anh Tư không có cách nào ngoài cách thưa: Vâng.

Từ đây cho đến cuối đời anh, cho đến ngày tàn của nhân loại, miên man ngút ngàn, cứ kế tiếp nhau những tiếng quát: Ngày nữa nhá! Ngày nữa! Ngày nữa! Nữa nhá! Nữa nhá!... Những âm vang, những tiếng vọng ma quái tự lặp nhau, đinh tai nhức óc, khủng khiếp, tuyệt vọng.

 

 

Giữa những âm vang giục giã gắt gao ấy, ở một tuổi nào đó trong đời, người ta còn có thể dùng dằng, dừng lại chỗ này một chút chỗ kia một chút để vui thú. Nhưng người ta không cầm cự được lâu, rồi chỉ còn có chạy dài.

... Buổi chiều, cuối mùa đông, anh Tư đi làm về, nằm trông theo những con én bay ngược bay xuôi trong xóm, với nỗi lo ngay ngáy về cái đêm sắp ập tới.

Anh Tư nằm trông cho đến khi én hết bay, và mưa rơi lai rai trong bóng tối từ lúc nào không biết. Mưa rơi lặng lẽ, êm đềm, nhưng hồi lâu đã tụ đủ để rớt giọt.

Phía bên kia đường, trước hiên căn nhà lá của ông Hai Xích-lô, một cô gái mặc chiếc áo dài trắng đứng đùa với những giọt nước từ trên mái rơi xuống. Hẳn nàng nghĩ trong nhá nhem tối không ai trông thấy, không ai để ý tới mình. Nàng đưa tay ra hứng nước, nàng ghẹo từng giọt nước lòng thòng ở đuôi lá. Nàng mỉm cười vui thích một mình.

Anh Tư biết: một cô gái không thể vui thích với những giọt nước mà mình trêu ghẹo. Cô ta chỉ có thể đang vui với niềm rạo rực nơi mình. Nàng tìm chỗ vắng, để, cô độc, được tha hồ đối diện với niềm rạo rực của mình. Nàng ghẹo giọt nước như trêu con chó, con mèo, trong lúc trí nàng bị thu hút vào một ấn tượng nào, một hình ảnh nào, một ước mơ nào đó.

Anh Tư nghĩ tới cô bạn ngày xưa của mình. Nàng đã “mê” anh trung sĩ cách nào? có “mê” như cô gái trước hiên nhà đối diện kia chăng? Anh Tư thắc mắc, không mường tượng được thái độ yêu đương nọ, chỉ biết thái độ nàng yêu mình. Anh nhớ lại lúc nàng nhắm mắt. Nhắm mắt để không cho bạn nhìn được mình. Mỗi người giữ lấy tâm tư riêng, từ chối sự xâm phạm của bạn. Sự thỏa thuận thụ động, buồn bã.

Nhưng tất cả đã xa rồi. Anh sẽ không còn tìm được những khe hở thời gian nào để trông bạn nhắm mắt, để thổi bài sáo giữa khuya, để nghe con chim cườm buổi sớm, để điểm tâm nửa buổi mai...

Còn cô gái nhà bên kia, cô hãy còn xoay xở được. Hãy cố gắng. Đùa với nước mưa đi. Và ngày mai, ngoài tám giờ của công việc, hãy xoay xở đâu đó vài giờ để... Cố lên!

Mưa tạnh. Trăng sáng, giãi xuống ngôi mả vôi lù lù trước cửa, choán khuất nửa chân cô gái. Phần anh Tư, anh phải đi ngủ, chuẩn bị chờ đợi buổi bình minh sắp đến, nếu không anh sẽ mệt nhoài và không vượt nổi thêm một ngày, như cha anh xưa kia.

Còn cô gái, cô cứ thức. Chúc cô may mắn.

12 – 1967

Một Chỗ Thật Tịch Mịch

Chàng vẫn tin rằng cứ đến giữa khung cảnh ấy mà an tọa, một mình, rồi lặng lẽ suy tưởng, thì chẳng mấy chốc sẽ có chim chóc đến làm tổ trên đầu. Một chiếc tổ chim thật rối trên đỉnh đầu, một vòng hoa tư tưởng đáng ước ao như thế có lúc chàng đã dám nghĩ là không khó. Chỉ cần đến đó, một mình. Chỉ cần có thế, nhưng ấy là điều chàng chưa bao giờ làm. Đâu khó gì? Chỉ vì chàng chưa bao giờ có cái duyên đối với một hành vi như thế.

Khung cảnh nọ cách xóm làng không xa. Nằm trên vùng đồi hơi cao. Xế trưa, thơ thẩn trên đồi, chàng trông xuống thấy dừa với tre trong xóm xanh um, nổi bồng lên cuồn cuộn như từng đám rong lớn trong hồ nước. Xóm làng coi xinh xắn, nhỏ hẳn đi. Nhà cửa thì thưa thớt, nằm khuất trong đám cây xanh. Và sự sinh hoạt của dân làng thì càng khuất xa hơn nữa.

Tha hồ nhìn ngắm, vẫn không thấy động tĩnh gì. Lắng tai hàng giờ, không bắt được tiếng hát tiếng la nào. Họa hoằn, như có tiếng ai kêu ơi ới, nhưng tiếng văng vẳng rồi tắt ngay, mơ hồ, không rõ rệt.

Một đôi khi, mắt chàng bắt gặp một bóng người ngoài đồng, trên một con đường bờ ruộng ngoằn ngoèo nhỏ xíu. Một dáng người tí teo ngọ nguậy trong nắng xế bao la. Một chiếc nón trắng lấp lánh giữa đồng trống, tận xa tít... Chiếc nón lấp lánh, di động chậm chạp, trong lúc con ó rằn giăng đôi cánh xác xơ giữa nền trời, trong lúc con cuốc phát tiếng kêu đều đều trong nắng rưng rưng... Chàng càng có cảm tưởng xa cách cuộc sống khiêm tốn của xóm làng hơn bao giờ hết...

Chỉ cần dừng lại, an tọa, chẳng mấy chốc...

 

 

Nhưng chàng không đến đó để an tọa.

Và càng tiến xa, cảnh càng vắng hơn. Có một vùng đồi chia làm nhiều khoảnh lớn, như những khoảnh vườn rộng với hàng cây bao bọc bốn bề. Trong số ấy có khoảnh vốn là vườn thật, nhưng vườn cũ, vườn hoang. Bởi vì xưa kia trên đồi có một số gia đình sinh sống, về sau bỏ đồi xuống xóm. Trong những khu vườn hoang ấy còn lại hoặc một cây mít, hoặc năm ba cây dừa, có cây cụt ngọn chết khô từ lâu.

Những khoảnh khác là đất trống, bỏ hoang cho cỏ mọc quanh năm. Cho bò, cho dê ăn. Từ đám đất này qua đám khác chỉ có một lối thông rất hẹp, phải vạch cây vạch lá, lách mình len lỏi. Len qua xong, lọt vào khoảnh đất mới, nhìn quanh quất lại bốn bề có cây vây kín, một ngọn gió không vào nổi. Lại càng vắng vẻ thêm lên một bậc. Vài con chim giật mình quay đầu nhìn khách lạ. Có con nhấp nhỏm mãi, không yên tâm. Có con dứt khoát bay vụt đi, làm rung rinh một chùm quả dái ngựa. Bỏ khách lại với cái bóng của mình, in dài trên nền cỏ.

Thử vạch lá, lách mình len qua một khu đất nữa. Lại càng xa nhân gian thêm lên một bậc. Một con cút cụt đuôi cắm đầu lủi trốn vào bụi rậm. Một con gà rừng chậm hiểu, ngẩng nhìn giây lát trước khi hoảng hốt vỗ cánh một cách nặng nề. Gió không len vào nổi: nắng xế càng nồng.

Cứ thế từ đám đất này qua đám đất khác. Chàng không gặp gì khác hơn là những cây dái ngựa, cây bông trang, là lá giang, lá vằn, là thỉnh thoảng một con bò, mấy con dê. Và thường xuyên là cái bóng chàng, in dài trên nền cỏ. Tuy vậy, mỗi lần lách mình qua một khu đất mới, thoạt tiên chàng đều có một ngạc nhiên mới, trước một khung cảnh vắng vẻ mới.

Cái vắng vẻ chồng chất lên nhiều tầng. Sau cùng đến một bãi rộng mênh mông. Cuối bãi cỏ là khu rừng nhỏ, cây cao bóng cả. Mé rừng là một ngôi miếu.

Hẳn nhiên đây là nơi xưa kia con chằng tinh từng mài răng chờ xé thịt Thạch Sanh. Một ngôi miếu cổ, khuất nẻo như thế, hẳn nhiên...

 

 

 

Nhưng một ngôi miếu cổ, khuất nẻo như thế, cũng là nơi mà một thiếu phụ trong truyện của Pearl Buck từng ném chiếc áo vừa cởi ra, trùm lên đầu các tượng thần để che mấy cặp mắt lom lom. Chi không thích những cặp mắt lom lom.

Khi chàng lần đầu trông thấy Chi, chàng bị thu hút ngay. Chàng nhìn không chớp mắt chiếc cổ trắng muốt tuyệt diệu, nhìn mấy sợi tóc xòa xuống má, cặp mắt sâu, đen nhánh, mở to, trông thông minh và nồng nàn lạ lùng. Chi ngồi giữa bạn bè. Chàng không hề biết người con gái ấy tên là gì, từ đâu tới. Mới trông thấy lần đầu, chàng mê mẩn ngay. Chàng chăm chú nhìn: chàng mê cặp chân mày đen đậm, mê đôi mắt sâu, mê những sợi tóc sau gáy và những sợi tóc mai bên má v.v...

Chàng chăm chú, lom lom. Suýt thành lố bịch. Có lẽ chàng đã có vẻ lố bịch rồi cũng nên. Trong phòng, ai nấy có lẽ đã để ý đến chàng. Còn chàng thì khốn khổ, vẫn chưa tìm ra cái gì để mở miệng, chưa biết nói câu gì.

Dĩ nhiên Chi không hề trông thấy chàng, không hề ngó qua một tí nào về phía chàng. Thình lình Chi ngẩng phắt đầu lên, nhìn thẳng vào mắt chàng, cười xòa, kêu: “Nóng quá”, rồi hai tay nắm hai chéo áo dài, ngửa cổ ra, quạt mấy cái.

Chết một nỗi là sau đó chàng càng bối rối, vẫn không tìm được câu nào để nói. Và chàng hóa ra lố bịch hẳn. Chàng loay hoay, khốn đốn. Tuy vậy đồng thời chàng đã biết chắc chắn mình có hy vọng. Bắt đầu có hy vọng ngay từ lúc ấy.

Như vậy không đáng lo lắng sao? Nếu chỉ cần nói “Nóng quá” để tỏ tình thì có thể Chi đã nói câu ấy biết bao nhiêu lần, với biết bao nhiêu người? Thế nhưng chàng nghĩ lui nghĩ tới, nhớ đến con mắt Chi nhìn chàng lúc ấy, miệng nàng cười lúc ấy, giọng nàng nói lúc ấy; và chàng quả quyết: không lầm được.

Quả nhiên, dần dần, hai người quen nhau. Rốt cuộc Chi đến với chàng nơi ngôi miếu cổ.

 

 

 

Hai người tìm đến để nói với nhau những câu chuyện tuyệt vời.

- À này anh...

- Gì?

- Anh biết không...

- Không. Anh chưa biết. Gì thế Chi?

- Bà ngoại đóng đinh bị búa đập trúng ngón tay cái...

- Thật hả? Trời ơi, bao giờ?

- Mới hôm qua. Khiếp, ngón tay bầm tím.

- Tội nghiệp chưa... Nhưng em may áo mới lúc nào thế?

- Dốt! Áo thế này mà mới!

- Anh có trông thấy em mặc áo màu tím này bao giờ đâu.

- Đố anh biết ở đâu ra?

- Anh thua.

- Nhuộm đấy.

- Em nhuộm lấy?

- Anh coi được không?

- Được quá chứ lại. Em khéo thật.

- Thôi ông. Muốn nịnh cũng phải am hiểu mới nịnh được, chứ dốt như anh... Mua được thuốc tốt, nhuộm đâu khó gì.

- Em đem cái này cho anh, phải không?

- Cây ổi trước rào đấy... Có quả to nhất để dành cho anh, dơi nó vừa khoét đêm qua.

- Em tránh qua phía này đi. Có kiến...

- Để yên em coi. Mình không cử động nó không cắn. Anh thấy không, con này bò mãi trên chân em mà không cắn.

- Dại gì. Nó còn muốn bò dần lên cao...

- Thôi ông. Lại bắt đầu nói bậy!

Trên trời cao, nắng gắt, mây trắng sáng lòa. Nhưng xung quanh ngôi miếu cây cao mịt mùng. Bóng cây mát lạnh. Màu của cây xanh lá xanh ánh lên quần áo, thấm mát vào da thịt!

“U cảnh mỗi bạch nhật

Thanh huy chiếu y thường”

 

Gần như mỗi nhật, thanh huy đều có chiếu y thường một lần. Hai người thủ thỉ, trong lúc con sóc trèo ngược trèo xuôi một nhánh cây thị, trong lúc đàn két hái rớt lộp độp trái cây đâu đó phía sau miếu, trong lúc con ó rằn giăng cánh xác xơ trên trời xanh...

Và đến khi chàng ra về thì trên cỏ bóng chàng đã ngã quá dài. Trong mỗi khoảnh đất hoang, bờ cây bao bọc ngã bóng quá dài. Và những quả dái ngựa thì chúng in những cái bóng cũng dài quá cỡ, thành ra kỳ hình dị tướng. Một quả dái ngựa hơn sải tay! ôi chao, trên đường về đôi khi chàng tưởng thấy bị giễu cợt.

Tuy nhiên không có một cơn gió lay động, không có một tiếng huyên náo. Cảnh vật nghiêm trọng, thâm trầm. Chàng tha hồ sống với cảm xúc của riêng mình, tha hồ gìn giữ cẩn trọng nguyên vẹn cảm xúc riêng.

Chàng giữ gìn cho đến lúc đêm về. Nằm trên chiếc chõng tre đặt ngoài vườn, chàng nhìn trăng cao. Chàng nhìn lá tre trên đầu mình với những giọt nước long lanh tụ ở đuôi lá. Chàng nhìn mây kéo nhau lướt êm đềm bên cạnh mặt trăng. Tai chàng lơ đãng theo dõi tiếng chày giã gạo đều đều trong xóm. Và chàng lặng lẽ ôn lại những lời chàng nói, những lời Chi nói, những cảm xúc của hai người. Chàng như con bò nhàn hạ nhai lại cảm xúc của chính mình. Chàng sống lại, trong đêm, ở một góc vườn, những giờ nồng nàn dưới trưa...

Và tre trúc, và sương đêm, trăng sao v.v...tất cả giữ một xa cách kính cẩn đối với tâm sự của chàng.

 

Tất cả đều giữ một sự xa cách kính cẩn. Ngay cả cái lúc mà Chi lặng lẽ khóc.

Phải, có lần Chi khóc. Chuyện đó gần như dĩ nhiên. Vì sự gần gũi lâu ngày, thanh huy chiếu y thường nhiều lần, quá nhiều lần. Rồi một hôm, Chi khóc lặng lẽ.

Chàng hỏi: “Em làm sao thế? Chi, anh có làm em khổ không? Hả, Chi, Chi. Em...” Nàng lắc đầu không trả lời, tiếp tục khóc. Còn chàng thì loay hoay. Như một con gà mái loay hoay trong ổ sau khi đẻ xong chiếc trứng, hoàn toàn không hiểu gì về công việc mình vừa làm.

Ngay cả cái lúc ấy, tất cả vẫn xa cách kính cẩn. Két vẫn ăn trái làm rơi lộp bộp sau miếu, con rắn lục vẫn hút một tiếng dài thoang thoảng lửng lơ, con sóc vẫn nhảy nhanh nhẹn từ cành nọ sang cành kia trên cây thị, con kỳ nhông nghểnh đầu rồi lủi đi... Tất cả đều khuyến khích: “Tự nhiên, xin cứ tự nhiên! Xin các người tự nhiên!”

Và Chi thấy an ủi. Và nước mắt nàng khô dần trên mi.

°

Hạt nước mắt Chi đã khô trên phần tư thế kỷ. Trong chừng ấy thời gian, giặc giã liên miên. Xóm cũ mất đi sáu phần mười nhà cửa. Dân làng mười người tản mác hết tám. Cây cối xâm chiếm hết vùng đồi, bao trùm ngôi cổ miếu...

Còn chàng, bây giờ chàng ngược xuôi trên các con đường nhựa của đô thị, mũi hít mùi xăng nhớt mùi rác rến, mặt mày tóc tai mỗi chiều về phủ dày một lớp bụi. Còn chàng, bây giờ ngày ngày chàng tất tả chạy vào chạy ra sở nọ sở kia, chàng leo lóc cóc các thang lầu, chàng đụng đầu đều đều với những công việc buồn nản.

Mỗi tối, trong tiếng muỗi vo ve bên màn, chàng lắng nghe sự tàn tạ của cuộc đời.

Nhưng cuộc đời không cam phận tàn tạ. Nó không chịu cam phận. Giữa tiếng muỗi vo ve những khi thức giấc nửa đêm, từ trong cùng thẳm của tâm hồn chàng nổi lên tiếng kêu đều đều, tiếng kêu gióng giả, khắc khoải như tiếng cuốc trong nắng đậm xế chiều, tiếng đỗ quyên tiếc nhớ tiền triều. Nó gọi kêu một khung cảnh tịch mịch, thật tịch mịch...

1 – 1969

Lúc Dừng Nghỉ

Avez-vous quelquefois, calme et silencieux,

Monté sur la montagne, en présence des dieux?”

V. HUGO

Lúc ấy chừng một giờ khuya. Trăng ở giữa trời. Chàng sực thức dậy, và mỗi lúc mỗi tỉnh táo thêm. Kéo mền đắp ngực, nằm ngửa mặt nhìn lên; hồi lâu chàng dần dần có cảm tưởng không phải mình chỉ tỉnh táo vì tách rời hẳn giấc ngủ, mà còn vì rời xa cuộc sống thường nhật.

Trăng thanh chiếu xuống, mênh mông. Trăng lặng lẽ từ canh này sang canh khác, lúc nào cũng có đó, mà lúc nào cũng bàng bạc, bao la, lạnh lẽo, không chút nồng nàn. Khi mọi người an giấc, bất chợt chàng mở mắt, băt gặp mặt trăng trong cảnh vắng vẻ tay đôi; mặt trăng cần mẫn vẫn có đó. Nhưng cái kỳ diệu không phải chỉ ở chỗ thao thức tay đôi trong vắng vẻ, cái kỳ diệu còn ở chỗ đối diện im lìm không nồng nàn.

Chàng thức — Càng lâu càng ý thức sự bỡ ngỡ của cuộc hội ngộ. Quanh năm, chàng vẫn sống ở đây, đêm đêm chàng vẫn ngủ ở đây; trăng vẫn tháng tháng xuất hiện đều đặn; nhưng hai bên không gặp nhau — Trong cuộc sinh hoạt suốt từ đầu năm tới cuối năm, chàng không hề gặp trăng, bạn chàng không hề gặp, láng giềng của chàng trong khu phố không ai gặp. Năm tàn tháng lụn, bỗng một đêm chàng mở mắt và bắt gặp...

Chiều, sau buổi làm về, bạn bè mấy người rủ nhau nướng sò nhậu lai rai. Rượu ngà ngà, sò vừa hết, có người xướng ra chợ tìm cái gì hay hay tiếp tục cuộc vui. Anh em người nọ mời người kia, chàng uống hơi nhiều. Về nhà chàng lăn ra ngủ ngay. Bấy giờ, đâu chừng mới bảy giờ rưỡi.

Chàng thức giấc có lẽ vì khát nước, cũng có lẽ vì con chó hực một tiếng bên cạnh. Nó có hực chăng? Trong giấc ngủ không nghe rõ, lúc tỉnh dậy chàng không nhớ quyết; nhưng tỉnh dậy đầu tiên chàng trông thấy nó bên cạnh, mắt đăm đăm theo dõi vài đồng loại nô đùa dưới đường. Trên gác, chỉ có mình chàng và con chó là thức; mọi người trong gia đình đã ngủ say.

Một mình chàng, với chó, với trăng. Hồi lâu, chàng thấy không phải mình chỉ vừa tỉnh rượu, tỉnh ngủ, mà còn tỉnh khỏi cuốc sống thường nhật, tỉnh khỏi cuộc nhân sinh nồng nàn.

°

Cuộc nhân sinh! Một cuộc quay cuồng từ đầu năm tới cuối năm, từ năm này sang năm khác. Mỗi người bị bao vây, bị tràn ngập. Không quay về phía nào, không ngoảnh đi đâu mà không gặp đồng loại, không gặp những vấn đề do cuộc sống chung với đồng loại đặt ra. Người là một ám ảnh thường trực của nhau.

Từ sáng tinh sương mở mắt ra cho đến khuya khoắt nhắm mắt lại, không lúc nào trí óc rời khỏi những tin tức về cuộc sống xã hội: chuyện giặc giã, cướp bóc, chuyện yêu nhau giết nhau, đồng bạc phá giá, cuộc mổ tim, nạn đói, đình công, chống đối, vụ đánh ghen, cuộc đảo chính v.v...

Chuyện mình, chuyện người, chuyện vui buồn riêng của cá nhân, chuyện của từng gia đình, chuyện chung của mỗi quốc gia, của đôi ba quốc gia với nhau, của cả thế giới... Lúc nào cũng có chuyện. Chuyện ơi là chuyện. Con người gần như luôn luôn cuốn lấy nhau, quần nhau, vầy vò nhau không ngớt.

Báo chí in ra từng buổi một, phát thanh loan đi từng giờ, dồn dập đầy nghẹt những tin về cuộc sinh hoạt. Rồi sách, từ những cuốn sách dày năm bảy trăm trang, nghìn trang, cho đến những cuốn trên dưới trăm trang, từ những cuốn gom góp mấy chục bài thơ tình lả lướt, kể lại một câu chuyện phụ tình cũ rích, cho đến những suy tư nhăn nhíu mặt mày về kinh tế, về xã hội, về tập tục trong các bộ lạc bán khai, về vai trò của mỗi từ trong mỗi cú, của mỗi cú trong ngôn ngữ, của ngôn ngữ trong cuộc sống các dân tộc v.v... Không ngày nào không có một cuốn sách mới ra đời, không có những suy nghĩ mới, những đề nghị mới, những công kích, phê bình, phi bác lẫn nhau. Ông ký giả này nói, hảng thông tấn kia nói, học giả nọ nói, học giả khác nói... Nói, nói, nói... nói không ngớt. Nói hoài, nói mãi, nói liên miên, nói lạc quạc như vịt đầy chuồng, nói ồ ồ như ong vỡ tổ... Con người luôn luôn bám riết lấy, đeo dính lấy cuộc nhân sinh, bị hút chặt vào cuộc nhân sinh không rời. Như mê sảng về cuộc sống của mình.

Bữa lót lòng buổi sáng, những tính toán làm ăn suốt ngày, cuộc cãi nhau ở ngoài chợ, cái hôn vụng trộm trong thang máy, chai la-ve nhậu nhẹt buổi chiều, cái đồng hồ điện vừa hỏng phải kêu thợ sửa, đám cưới của cô em đầu tháng tới phải lo, cuộc ân ái đêm nay v.v... Suốt ngày vùi đầu. Suốt ngày nay rồi lại suốt ngày mai, ngày mốt. Cuộc ân ái đêm nay, rồi cuộc ân ái đêm mai, lại những bữa lót lòng buổi sáng, những cãi cọ trên xe buýt, cái đồng hồ nước hỏng, đôi giày lủng đứt chỉ, cái vé số trúng vài chục nghìn, tiếng chê của người này, câu khen của người kia v.v...

Cuộc sống nồng nàn — Chàng vùi đầu vào đấy, hùng hục như bao nhiêu kẻ khác xung quanh. Cùng năm mãn tháng, bỗng một đêm tỉnh rượu, giữa khuya, mở mắt và sững sờ với vành trăng lặng lẽ ngang đầu.

°

Vài ba món đồ lót, một chiếc khăn lau mặt phơi trên sợi dây giăng ngang chỗ chàng nằm. Chậu xương rồng bụi bặm khô khấc. Và con chó nằm bên.

Dưới đường, những chiếc xe hơi, xe ba gác, xích-lô đạp và xích-lô máy xếp dọc bên lề. Những thùng rác, trụ điện. Hai con chó trửng giỡn đuổi nhau, vờn nhau. Con chó nằm bên chàng nhìn xuống thèm thuồng. Thỉnh thoảng nó không cầm lòng được, cuống quít, cào chân trên ván gác và hực lên một tiếng. Ngoại trừ sự rạo rực của con chó, tất cả không gian rỗng tuếch, không một tình cảm. Trăng vằng vặc mà vô tình. Các vũng bóng tối lạnh lẽo, mà khắp vùng ánh sáng cũng lạnh lùng, sáng không nhiệt liệt. Cuộc sống ngưng lại, nghỉ ngơi. Đường dầu trông như nguội đi không phải vì nhiệt độ ban đêm hạ thấp mà vì vắng ngớt bước chân rộn ràng, bánh xe xuôi ngược. Cảnh vật trút hết mọi bận rộn. Hư tâm.

Ủa, khu phố của chàng đây sao? Nó đấy ư? Quanh năm chàng quen thấy nó hừng hực, nhễ nhại, nó say mê, thiết tha, nó chán chường, phờ phạc... Đêm nay, nó vụt lột cổi hết mọi tình người: “gỗ đá còn trơ gỗ đá thôi”. Xi-măng, hắc ín, ngói, vôi... hiện nguyên hình. Và chàng cảm thấy an lành thoải mái bên cạnh vật vô tri.

Bắt gặp khu phố của mình nửa đêm trăng, như thể bắt gặp hoặc cô gái điếm, hoặc một ông thầy nghiêm khắc, bắt gặp hoặc anh cặp rằng, hoặc nàng công chúa kiêu kỳ, trong giấc ngủ hồn nhiên. Như thể nhìn một người từ phía sau lưng, từ cái phía không biểu thị.

°

Trong nhiều trường hợp người ta chỉ muốn nhìn một chút từ phía lưng.

Phía sau của con người, của cuộc sống, của cuộc nhân sinh bề bộn. Con người, lắm khi ta đâm sợ hãi, e ngại.

Buổi trưa, chàng nhớ lại, vừa mới trưa hôm nay, tại một ngã tư, đèn đã bật đỏ, hai người lính còn phóng xe gắn máy tới, quẹo trái, suýt tông vào một cô gái đang băng qua đường. Cô gái rùng mình. Nhưng tất cả sự trách móc oán hận chỉ thể hiện bằng một khóe mắt nhìn xiên, liếc theo, rất thấp, bất quá đến lưng chừng bánh xe gắn máy, một khóe mắt thật kín đáo.

Bản năng nghìn đời đã khiến nàng không để mắt mình chạm mắt đồng loại, bàn năng tự vệ dạy nàng tránh sự nguy hiểm, — ít ra là sự rầy rà phiền phức, bất trắc. Linh tính báo cho nàng, khuôn phép giáo dục in vào trí óc nàng rằng về phía ấy có nhiều phiền lụy. Phía những kẻ đồng loại. Nàng nên cố gắng chối từ, đừng tiếp nhận quá nhiều hình ảnh đồng loaị, càng không nên tiếp nhận ánh mắt của họ. Nên luôn luôn thủ thế.

Cũng buổi trưa, chàng nhớ lại, vừa mới trưa hôm nay, chiếc xe Lam dừng lại đón khách, nhiều người tranh nhau leo lên. Khách đông, xe chật, rốt cuộc một nữ sinh đành trụt lại vì thiếu chỗ. Khi chiếc xe bắt đầu chuyển đi, cô em lui lại bên mép đường, mắt vẫn dán xuống đất, đưa một bàn tay nắm lên che miệng, ho một tiếng khẽ, nhè nhẹ. — Cô em ho đấy ư? — Đâu có! Việc gì mà ho? Cô em có đau đớn gì đâu? Chẳng qua phải làm một cử chỉ. Cô em đang khó chịu, đang ngượng nghịu, vì cảm giác bị hành khách trên xe Lam chú ý đến mình.

Có gì đâu. Chỉ nhìn thôi, kẻ khác đã khiến ta bất an. Xã hội mỗi ngày mỗi đông đảo, sự gặp gỡ, tiếp xúc, đụng chạm với đồng loại mỗi ngày mỗi nhiều, mỗi chặt chẽ. Ai nấy luôn luôn bất an.

Cùng năm mãn tháng, tình cờ chàng có cơ hội gặp vầng trăng trong một khoảnh khắc hoang đảo, một khoảnh khắc giải tỏa. Thoát khỏi cuộc bao vây của nhân sự, thoát khỏi tình trạng căng thẳng. Trong khoảnh khắc trở về với thiên nhiên.

°

Trong thuở hồng hoang, trên mặt đất mênh mông, con người thưa thớt hiếm hoi, tìm nhau khao khát. Thuở ấy đứng giữa thiên nhiên là lạc loài, lo hãi. Nép vào tập thể đồng loại là trở về.

Ngày nay chúng ta bị dìm đầu vào xã hội. Thể xác không ngớt chịu đựng những va chạm cụ thể: vách nhà ta sát vách nhà láng giềng, đôi bên lấn nhau từng phân đất. Trí óc không ngớt tràn ngập những vấn đề nhân sự, từ ngày khôn lớn biết suy nghĩ cho đến hơi thở cuối cùng. Người người bị bắt buộc đối diện nhau thường trực, bao vây nhau, ám ảnh nhau. Người bị ngộp vì người.

Trong tình cảnh ấy, chàng lại tìm thấy cảm tưởng yên ổn trong cái hững hờ lạnh nhạt của thiên nhiên vô tình: của vầng trăng đối diện với mặt đất, của trời rộng đối diện với sông dài...không một chút gay cấn sôi nổi, không cả một chút gì tương quan với nhau. Cùng nhau tồn tại, thản nhiên, trang nghiêm, vô sự.

Đêm nay, trong khoảnh khắc, chàng giũ hết hiện tại, băn khoăn, giũ hết tình người như cởi bỏ chiếc áo, chàng cũng đối diện với vầng trăng, thản nhiên, trang nghiêm, hững hờ. Đối diện như trời rộng với sông dài, như cảnh trí thiên nhiên với một cảnh trí thiên nhiên.

Mai đây, sáng mai, cuộc sống lại hồi sinh, náo nhiệt điên cuồng. Và mặt trăng, nếu nó chưa kịp lặn, nó sẽ khổ sở vì sự chậm trễ. Nó còn sót lại giữa bầu trời như một con tàu mắc cạn trên bãi bể sau khi thủy triều đã rút. Nó sẽ tái dợt như thây ma. Nó không còn chút ánh sáng nào để tỏa xuống, để chứng tỏ sự có mặt. Không ai còn biết đến nó nữa. Nắng nồng nàn và cuộc sinh hoạt nồng nàn bừng lên và phủ nhận nó. Còn chàng, sẽ bị dìm đầu hay sẽ tự ý nhào đầu vào cuộc sống ấy. Chàng sẽ không biết đến vầng trăng khốn khổ giữa bầu trời nữa. Chàng sẽ lạc nó, xa nó, mất nó, không biết đến bao giờ.

°

Chàng đốt một điếu thuốc. Đêm nay, trong khoảnh khắc gặp gỡ, chàng cùng với vầng trăng cùng sáng lên với nhau, thản nhiên, trang nghiêm.

Những Đám Khói

Mỗi lần đi đâu về, tôi thường mất đi mấy hôm. Trong người ngầy ngật, lờ đờ, không thích hoạt động, không thấy hào hứng bắt tay làm một việc gì.

Về Sài Gòn là trở về với công việc. Nhưng không khí hoạt động của Sài Gòn không dễ xóa nhanh được ấn tượng còn vương vấn trên các giác quan. Ấn tượng của nơi vừa sống qua mấy hôm. Hoặc tiếng kêu lốc cốc leng keng đuổi theo những đàn bò mỗi chiều kéo về dọc bờ sông Ba, bò đeo mõ đeo lon dưới cổ, con lớn con bé lũ lượt trên một bãi sông nhiều rau răm đồng, tiến về một xóm đầu sông khuất trong sương khói lù mù bên cạnh thị xã Cheo Reo. Hoặc cái bóng mát của một đám mây, vào buổi trưa thanh vắng, thong thả lướt từ ngọn đồi nọ sang ngọn đồi kia trên thành phố Gia Nghĩa tịch liêu. Hoặc tiếng gió Lào ở Quảng Trị, tiếng gió “nam cồ” ở Phú Yên, làm nôn nao cả ruột gan, làm náo động những đêm hè. Hoặc cái màu hoa muồng vàng trên các tỉnh cao nguyên. Hoặc những giờ lướt bằng “tắc ráng” trên các con rạch, con xẽo ở Hậu Giang...

Những cái đó không dễ xóa nhanh. Sau khi tiếp xúc với chúng, ta trở về Sài Gòn, các giác quan ta vẫn còn lưu luyến với chúng. Các giác quan như vẫn còn no nê. Cần có một thời gian nghỉ ngơi để tiêu hóa những cái đó.

°

Và một trong những hình ảnh tan biến chậm chạp nhất trong cảm quan tôi là hình ảnh các đám khói ở chân trời miền đồng quê Kiến Tường.

Mùa nắng, đường tốt, xe đò chạy từ Cai Lậy đến Mộc Hóa, cách nhau bốn mươi sáu cây số, mất chừng hai tiếng đồng hồ: Mỗi giờ hăm ba cây số. (Và mùa mưa thì gian nan hơn, chậm hơn nhiều.)

Xe lắc lư bò dọc theo con kinh Mười Hai. Bò thong thả, thế mà bụi mù cũng đủ làm khổ sở những ngôi nhà bên đường. Nhà sơ sài, vách lá, nền nhà và sân đất khô nứt nẻ đường ngang đường dọc thật lớn và thật sâu, bờ hè lở như cóc gặm. Vườn cũng sơ sài như nhà: không có cây ăn trái, cũng không có được bao nhiêu thứ cây, quanh đi quẩn lại hình như sân vườn nào cũng chỉ được mấy cây tràm.

Nhà như thế, vườn như thế, cảnh ngoài đồng càng sơ sài hơn: trống không đến tận chân trời.

Không có làng mạc nào cả; bấy giờ là cuối tháng giêng đầu tháng hai, không có hoa màu nào cả. Chỉ có cỏ ngập mênh mông; và thỉnh thoảng, xa xa, một vài chòm cây — hoặc tre hoặc me tây — những thứ cây chịu đựng được cả nắng hạn cả mưa lụt.

Trên cánh đồng trống trải và rộng như thế, lâu lắm mới thấy một dáng người loay loay. Và người đâu, thường có cờ đấy. Vâng: cờ, tức quốc kỳ.

Ở đây, người thưa thớt quá. Trên đồng vắng, một đôi người lơ thơ dễ bị máy bay nhận lầm là quân du kích. Để khỏi bị bắn bậy toi mạng, người dân ra đồng làm lụng thường cắm cây cờ bên cạnh. Một chiếc roi xỏ vào một lá cờ, ghim sâu xuống đất, thế là an tâm. Một người câu cá: một lá cờ. Đôi ba mẹ con lúi húi xới đất: một lá cờ. Một trẻ mục đồng: một lá cờ...

Dân thị thành tha hồ nghĩ đến những lá cờ cắm trước đầu xe các ông thủ tướng, tổng thống, các nhân vật chính quyền tiền hô hậu ủng v.v... và tha hồ nghĩ ngợi về tầm quan trọng của mỗi người dân ở đây. Phải, ở đây mỗi người đều quan trọng: không phải từng gia đình cần xác nhận lập trường bằng một lá cờ sơn vẽ trước nhà, trên vách, mà gần như mỗi cá nhân cũng xác nhận công khai giữa trời cho ai nấy biết rõ màu sắc chính trị của mình. Để cho giản tiện, trên vùng lãnh thổ “an ninh đến chín mươi phần trăm” này, nhà nước nên khuyên dân chúng khi ra khỏi nhà, mỗi người dắt sau lưng áo hai lá cờ, như Tạ Ôn Đình trên sân khấu...

Trên cánh đồng như thế, một buổi xế trưa đầu mùa xuân năm nay, tôi có dịp đi về một làng biên giới. Đồng không mông quạnh. Ở chân trời, vài đám khói ùn lên, chậm chạp, tỏa cao và rộng. Khói đốt cỏ: Nông dân phát cỏ, dồn lại đốt, để chuẩn bị làm mùa. Chao ơi, những đám khói đốt cỏ ở chân trời trong nắng trưa, sao mà xúc động, cảm hoài. Những đám khói kể lể nỗi niềm bao la cuối một chân trời mênh mông. Đứng him mắt mà trông: khói lặng lờ, không vội vã, khói bát ngát, nhẫn nại, xa vời; hàng giờ hàng giờ, khói tỏa, vừa hiền từ vừa mơ mộng...

Sau một ngày đi, mệt mỏi, tê mê, đến đêm ta vừa đặt lưng xuống nằm ngủ, những đám khói ấy lại ùn lên trong giấc mơ. Và trong giấc mơ, không gian mênh mông càng vắng lặng, khói tỏa càng chậm, càng bát ngát...

Đô Thị Hoang Sơ

Gia Nghĩa, nơi chung sống đề huề nhiều thế kỷ, giữa đô thị tôi đã bắt gặp những giờ phút xứng đáng cho một cảnh ẩn cư khuất tịch nhất.

Có những buổi sáng thức dậy trong tĩnh mịch hoàn toàn: không có tiếng xe cộ, tiếng động cơ nào, trong sương mù chỉ có tiếng gà e é vọng từ ngọn đồi này sang ngọn đồi kia.

Có những buổi trưa, nằm lười trên chiếc ghế bố đặt dưới một bóng cây ngoài vườn, mắt lim dim, tai mơ màng nghe tiếng trẻ con lội tắm đùa giỡn chí chóe dưới suối Dak Nong gần đó. Thỉnh thoảng một tiếng la lớn làm giật mình. Trước con mắt bỡ ngỡ của người vừa thức giấc: một đám mây trắng sáng rực trên đầu một cây chò cao ngất trước nhà, một cặp bướm vàng đuổi nhau bay nhanh qua khu vườn, rồi dừng lại chờ nhau chờn vờn trên bụi cây mép suối: hai con bướm đẹp “làm thơ” giữa trời. “Hạnh phúc thật đơn sơ”.

Rồi giấc ngủ trở lại. Trong khi thần trí lơ mơ, bên tai văng vẳng tiếng trò chuyện rì rầm của mấy thiếu phụ ngồi trên chiếc cầu doi ra mặt nước hay trên một thân cây gãy nằm là sà sát mặt nước mà giặt giũ rửa ráy, tiếng rì rầm nghe như xa như gần lúc đứt lúc nối... Cũng trong khi thần trí lơ mơ, loáng thoáng qua đầu hình ảnh một dáng cây khô toàn xương trên đỉnh đồi, hình ảnh một lằn khói đốt rẫy uể oải, như đang mải miết trầm ngâm hồi tưởng về trăm nghìn câu chuyện huyền hoặc của cuộc sống núi rừng từ muôn vạn năm xưa... Hồi tưởng vu vơ trên từng sợi khói mỏng rã dần, rã dần, tự xóa trong không. Khói xanh âm thầm tỉ tê với trời xanh về một quá khứ xa vời, như thế lặng lẽ từng buổi trưa dài, như thế ngay trong lòng đô thị diễn ra những hồi tưởng âm thầm của rẫy bái. Rẫy trong thị xã? Vâng, cái lạ đời ấy vốn là đặc điểm của nơi này.

Những buổi trưa như buổi trưa ấy tựa hồ bất tận. Thời khắc biếng nhác, nhẩn nha. Khách tha hồ ngủ rồi thức, thức rồi lại ngủ, tha hồ tận hưởng cái thú nhàn dật. Cho đến khi chán chê, khách vươn vai đứng lên, ngó quanh quất bên nầy bên kia: bên phía sau đồi khói vẫn lờ đờ, bên phía chợ đàn én vẫn còn bay tan tác...

Đàn én ở chợ Gia Nghĩa ấy, vào những tháng xuân tháng hạ, buổi sáng chúng bay thấp tua tủa như ong; trưa xế, chúng lên thật cao, tản mạn, tơi tả, tan tác đầy trời; đến chiều, chúng lại hạ thấp như một niềm vui rộn ràng quấn quít trên nóc chợ...

Và chiều, có những buổi chiều, bên cầu Vườn Ương, tôi tưởng chừng đụng đầu với sự Tịch Liêu hiện hình, một Tịch Liêu sừng sững trước mặt mình, cụ thể, cơ hồ sờ mó được.

Khoảng sáu giờ rưỡi, sương bắt đầu đổ. Bảy giờ, đường sá vắng vẻ. Không một ngọn gió, không một chiếc lá lay động. Có tiếng con chim gì kêu thưa thớt muộn màng. Một con sóc từ trên ngọn cây tuột xuống, tiến ra tận giữa mặt cầu ván, chạy qua chạy lại, tìm kiếm loanh quanh... Trong lúc đó, tiếng ve phát lên rầu rầu...

Tiếng ve vào cái giờ ấy bên dòng suối Dak Ut mới thật là lạ lùng. Nó rỉ rả, thâm trầm. Như vừa kêu vừa suy ngẫm. Nó âm thầm, thu lắng. Bắt đầu phát ra riu rỉu, vươn dần lên; đến một lúc, tự thấy sắp trở nên ồn ào, nó giật mình tự hãm lại, rồi bắt đầu một đợt khác rỉ rả. Như một dòng suy tưởng hết sức khiêm tốn, suy tưởng miên man, tự phán về một thân phận hẩm hiu.

Thật lạ. Tiếng ve là thứ âm thanh khua động mùa hè chói chang. Nó rộn rã, ồn ào. Hăm bảy năm trước có lần lên chơi Bạch Mã, đến giờ tôi chưa quên được buổi trưa hôm ấy đứng bên đường nhìn xuống thung lũng sâu thẳm xanh ngắt, bỗng tai nghe lần đầu phát lên thứ tiếng ve chuông khua vang rôn rổn, kinh động núi rừng. Tôi cũng không quên lũ ve hỗn hào náo nhiệt ở Huế làm cho mùa hè chỗ cố đô thêm phần gay gắt... Không có ở đâu ve kêu như bên cầu Vườn Ương Gia Nghĩa: nó kêu như than thân trách phận, như để tăng thêm cảnh quạnh quẽ khuất lấp, như để than vãn một nỗi niềm cô tịch...

Rồi đêm đến. Thôi, hãy đừng nói đến những đêm thâm u không đèn không trăng, hãy bỏ qua chuyện u tịch... Hãy nói qua loa về cái gió mùa ở đây.

Trên khắp cao nguyên Trung phần dễ không có tỉnh nào gió dữ bằng ở Gia Nghĩa. Dưới trung nguyên càng không thể có. Ở những thành phố khác, gió bất quá rung mái tôn, đập cánh cửa, bẻ gãy cây v.v... Gió ở đây, cách xa hàng cây số đã nghe nó lay động ầm ầm như đoàn công-voa xông tới. Trước khi nó ập tới, nó đã ra uy hung tợn.

Ngựa trong phim cao bồi Viễn Tây bên Mỹ phải chạy lộp cộp trên sườn núi lởm chởm làm lăn lóc từng viên đá trái. Ngựa dữ người hách mà chạy lịch bịch trên cỏ vườn, trên bãi cát, cũng mất cả hiên ngang. Gió cũng vậy. Gió có cái uy phong của nó. Nó cũng đòi một khung cảnh của nó.

Chiếc Áo Dài

Nữ sĩ Linh Bảo đi dự một đại hội thường niên của các nhà sinh vật học Hoa Kỳ tại tiểu bang Vermont, một hôm vừa bước vào phòng ăn bỗng nghe tiếng một người đàn ông Mỹ nói sau lưng: “Bà mạnh giỏi không? Áo zài. Chời ơi!” Nữ sĩ quay lại, hỏi chuyện, thì ông Mỹ tịt: Ông ta chỉ biết có mỗi một câu tiếng Việt ấy. Và trong câu tiếng Việt duy nhất của ông ta đã có cái “áo zài”.

Năm ngoái, trên sân khấu trình diễn tại hội chợ Osaka, so sánh với thiếu nữ của mấy mươi quốc gia trên thế giới, các cô gái Việt Nam vẫn được đặc biệt chú ý mỗi lần xuất hiện với chiếc áo dài.

Đầu năm 1970 ấy, một phái đoàn đại diện báo chí và các cơ quan truyền thông của ta sang thăm Đại Hàn, ông Tổng trưởng Thông tin và Văn hóa Đại Hàn — bấy giờ là ông Shin Bum Shik — có tặng mỗi người một xấp hàng để về làm quà cho vợ! Mở ra xem thì là thứ hàng rất mỏng và dài đúng 2m80. “Chời ơi”, ông Shin Bum Shik am hiểu cái món “văn hóa” Việt Nam ấy sao mà kỹ quá vậy?

Hai trăm năm mươi năm trước, vào đúng ngày cuối năm Canh Thìn đời Cảnh Hưng, sứ giả nước ta là Lê Quí Đôn gặp sứ giả Triều Tiên là Hồng Khải Hy tại Yên Kinh nước Tàu. Đôi bên bút đàm, thành ra thân mật. Đêm trừ tịch của cái năm Canh Thìn ấy, sứ thần Triều Tiên sai con trai mang đến cho Lê Quí Đôn một phong thư và một món tặng phẩm. Trong thư có những câu: “Nhân giở bản đồ, biết có quí quốc, hai nước chúng ta, Đông Nam xa cách, loài trâu ngựa có dông nhau cũng không kịp. Thế mà được cùng hội họp nơi Hồng Lô quán, thực là ngoài sức tưởng tượng”.

Hai trăm năm sau, sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước Hàn Việt càng vượt xa cái sức tưởng tượng của Hồng sứ giả không biết đến bao nhiêu mà nói. Không cần “giở bản đồ”, người đồng bào lỗi lạc của Hồng sứ giả không những đã biết rõ về nước Việt Nam, lại còn biết vanh vách đến cả món y phục của đàn bà con gái nước này nữa. Không những Shin tiên sinh nắm vững kích thước của áo dài, ông lại cảm thông đến cả cái sở trường của nó, là thật mỏng!

Nhưng trong câu chuyện này không phải chỉ có Shin tiên sinh là đáng khen. Phải nhận rằng về phần chiếc áo dài Việt Nam, tự nó cũng phải xuất sắc mới được. Thật chứ: Để cho bấy nhiêu chi tiết về nó thấu đến tai nhà lãnh đạo văn hóa một quốc gia cực bắc, món nữ phục của nước Đông Nam Á này phải lẫy lừng lắm.

Áo dài lẫy lừng ở quốc ngoại. Nó cũng không ngớt ghi những thành công liên tiếp ở quốc nội.

Đôi ba mươi năm trước, phụ nữ miền Nam không mấy người mặc áo dài. Ngày nay thì chiếc áo dài đã thẳng xông xuống tận Năm Căn, U Minh... Áo dài đã Nam tiến đến mũi Cà Mau.

Con đường Tây tiến của nó nhiều trở ngại hơn, nhưng không hẳn sẽ bế tắc đâu. Hôm 14 tháng 4 năm nay, ai có đến xem lễ chịu tuổi của đồng bào gốc Miên tại ngôi chùa đường Trương Minh Giảng đã có dịp thấy hầu hết các cô gái Miên đều mặc áo dài. Ở Ninh Thuận, Bình Thuận, các nữ sinh trung học gốc Chàm mặc một thứ áo cổ truyền đã cải biến, rất gần với chiếc áo dài của ta.

Hai sắc dân thiểu số tiến bộ nhất đã dần dần chấp nhận áo dài, chắc chắn một ngày không xa, chúng ta sẽ thấy các bạn gái sắc tộc trên Tây nguyên mặc áo dài. Phải, hiện nay thì chưa có, hay hiếm có lắm, cái hình ảnh một thiếu nữ Gia-rai, hay Ba-na, hay Xơ-đăng v.v... với áo dài tha thướt. Nhưng họ đã dùng bà ba, áo thun, xú-chiêng, sơ-mi... Họ sẽ tiến đến áo dài là cái chắc.

Và như thế, thiết tưởng áo dài có một đóng góp không nhỏ vào việc làm nồng nàn thêm tình cảm dân tộc.

Trong một thiên truyện nọ của Sơn Nam, thầy phái viên nhà báo Chim Trời ở Sài Gòn xuống tận xóm Cà Bây Ngọp ở Rạch Giá tìm ông độc giả Trần Văn Có để đòi hai đồng sáu cắc rưỡi tiền mua báo. Đến nơi, chủ và khách, sau bữa cơm chiều, đốt lửa un khói rồi chui vô trong mùng trốn muỗi, ngồi nói chuyện. Quanh quẩn một hồi, hai người gặp nhau ở những trang Quốc văn giáo khoa thư: kẻ nhớ bài “Chốn quê hương là đẹp hơn cả”, người thuộc bài “Thú chăn trâu”, mỗi người thay nhau đọc to lên một câu, có khi cả hai cùng hợp xướng: “Đầu tôi đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi ngựa...”. Cuộc hàn huyên thú vị quá, tình nghĩa giáo khoa thư đầm ấm quá. Sáng hôm sau, thầy phái viên báo Chim Trời từ giã ông bạn đi về Sài Gòn, không thâu một cắc bạc nào.

Hãy tưởng tượng một ngày kia những người bạn gái gặp nhau, kẻ ở U Minh người trên Phú Bổn, kẻ gốc Chàm Phan Rí, người gốc Miên Sài Gòn v.v... mà có thể cùng nhau bàn tán om sòm về những chuyện tà nam, tà bắc, cổ thuyền, cổ hở, cổ tròn, cổ vuông, eo suông, eo thắt v.v... thì cuộc gặp gỡ sẽ hào hứng, thân mật biết mấy! Giữa đàn bà con gái với nhau mà không gặp nhau được ở đề tài ăn mặc, không đem chuyện áo chuyện xống nói với nhau được thì biết làm sao gây được thân tình?

Nhất định rồi một ngày nào đó, tất cả các bạn gái Việt Nam sẽ gặp nhau. Và cũng nhất định, cuộc gặp nhau trên vạt áo dài con gái càng đông đảo, vui thú, thân thiết hơn cuộc gặp trên những trang Quốc văn giáo khoa thư.

Thế cho nên chúng ta tin mạnh ở sự thành công của cuộc thống nhất đất nước bằng chiếc áo dài. Nó êm thấm, đẹp đẽ hơn những đường lối thống nhất bạo tàn biết bao!

°

Áo dài Việt Nam thắng lớn trong nước và ngoài nước, do đâu mà được vậy?

- Do nó cho thấy gió.

Nhiếp ảnh gia Nguyễn Cao Đàm, sau nhiều tháng ở hội chợ Osaka, chứng kiến sự thắng lợi của chiếc áo dài Việt Nam trước các đối thủ quốc tế, sau khi so sánh các ưu khuyết điểm của y phục phụ nữ các nước được phô diễn tại đây, đã nhận xét như thế.

Mặc áo dài mà đứng yên chưa chắc đã ăn đứt nổi những cô gái Âu Á khác mặc y phục dân tộc của họ. Nhưng mặc áo dài mà đi, mà múa v.v... thì người con gái Việt Nam linh động hẳn lên.

Áo dài Việt Nam nó vừa theo sát những nét tuyệt mỹ của thân người, lại vừa thêm cho tấm thân ấy sự linh động phơi phới mà nó vẫn ao ước. Những tà áo nhẹ ve vẩy phất phơ trong gió làm cho một thân hình nặng nề nhất, cục mịch nhất, cũng hóa ra thanh thoát.

Thân người là đẹp, nhưng thứ y phục chỉ nhằm khai thác cái đẹp của thân người thì rõ ràng là tục. Trang phục là văn hóa, văn hóa là một cố gắng cải biến thiên nhiên. Trang phục mà như mini-jupe, thì ấy là một cuộc phi nước đại trở về tự nhiên, gợi lên những ham muốn trực tiếp vào “tòa thiên nhiên”, là một chối bỏ văn hóa.

Nhưng thân người đẹp, y phục không được phép xóa hẳn cái thân người đi. Trang phục mà như chiếc kimono Nhật thì là một sự quá trớn của văn hóa đấy nhé. Văn hóa cũng phần nào thôi chứ.

Chiếc áo dài Việt Nam là một sự dung hòa giữa tự nhiên và văn hóa. Phần trên của nó đề cao thân người, bạo và tục; đã có phần dưới rất thanh, thoát hẳn thân người.

Nhìn vào một người nữ mặc áo dài, sau khi bị khích động vì cái phần trên, mắt lần dò nhìn xuống, thì ở phần dưới lại chỉ thấy... gió! Vâng! ở đây chỉ thấy có gió (như người nhiếp ảnh gia tinh mắt đã thấy), có cái thướt tha, cái bay bướm mà thôi.

Luận về dân tộc tính, có người đã đặc biệt chú ý đến cái đức tính truyền thống của người Việt Nam là đức tính thiết thực, thể hiện trong lối ăn mặc những áo quần (nhất là quần) rất ít màu sắc. Đúng lắm, quần áo chúng ta lại còn thiết thực ở chỗ gọn ghẽ, giản đơn nữa. Tuy nhiên, nhận xét đây không bao gồm chiếc áo dài phụ nữ. Áo dài gái Việt thì được phép màu mè sặc sỡ, được phép lả lướt. Tha hồ!

Mà như vậy phải chứ. Trong cuộc sinh hoạt thường nhật ở một hoàn cảnh gian khổ, dân tộc ta thiết thực; nhưng áo dài không phải là sinh hoạt thường nhật. Nó là hội hè. Dân tộc nào cũng tự cho phép mình có những ngày hội, những cuộc vui.

Những ve vẩy phấp phới của các tà áo dài là niềm vui hợp lý mà chúng ta tự thưởng cho mình bên cạnh những lao tác nhọc nhằn. Là cái văn vẻ trong cuộc sống tinh thần của dân tộc, sau khi đã nỗ lực củng cố cuộc sống vật chất.

Bởi vậy, trên đất nước, hễ nơi nào còn đang khai phá, còn đang bận rộn vất vả nhiều về công cuộc xây dựng những cơ sở vật chất của đời sống thì chiếc áo dài chưa vội xuất hiện. Chỉ nơi nào đất mới đã khai phá xong, điều kiện sinh sống đã thiết bị xong xuôi, con người đã thảnh thơi, bấy giờ thì hai vạt áo của người đàn bà Việt Nam mới tự buông thõng xuống, phe phẩy, và reo vui với gió.

Hồi sinh thời, anh Y Uyên thích một câu ca dao của tỉnh Phú Yên:

“Con ngựa tía ăn quanh đèo Cả,

Vầng nguyệt đêm rằm bóng ngả về đông.

Chẳng thà tôi giục ngựa về không,

Chẳng thèm cướp của giành chồng người ta”.

“Về không”? — Tốt lắm. Nhưng chuyện “giục ngựa” nghe có hơi kỳ. Đây là chuyện của con gái Phú Yên ba bốn mươi năm trước. Thuở ấy, con gái Phú Yên quấn khăn trùm đầu, cưỡi ngựa phóng như bay. Thuở ấy dĩ nhiên họ chưa mấy người mặc áo dài. Thuở ấy, ở Phú Yên, gái cũng như trai, còn phải xông pha vất vả; cũng là cái thuở — như Võ Hồng từng cho biết — mà văn bằng yếu lược là cả một sự hiếm hoi, cuộc sống tinh thần chưa kịp lo đến. Như thế không phải chỉ riêng trong Nam, mà ngay ngoài Trung, trước đây chẳng bao lâu cũng vắng bóng chiếc áo dài phụ nữ.

Rồi dần dần Phú Yên có văn sĩ, có luôn áo dài. Rồi trong Nam cũng lại nhiều văn thơ, và... áo dài. Áo dài xuất hiện, rồi thịnh phát cùng với sự tăng cao của mức sống, cùng với sự thuần hóa của nếp sống.

Nó là món trang phục đẹp đẽ. Nó đáng yêu, đã đành; nó lại là một dấu hiệu đáng mừng.

12 – 1971

Anh Bình Định

Đề tựa một cuốn sách của ông Nguyễn Đình Tư, ông Nguyễn Hiến Lê cho biết đã từng muốn kiếm một khu vườn ở lại Vũng Lắm hay Xuân Đài.

Vị học giả từ đất Bắc vào toan mua vườn làm nhà ở Phú Yên vì ông “thương” cảnh đẹp Phú Yên, muốn thưởng ngoạn cho thỏa thích. (Thương là chữ của ông Nguyễn, nhại một tiếng trong ca dao địa phương). Là dân Bình Định, tôi có hơn ông Nguyễn thêm một lý do nữa để lưu luyến Phú Yên: ở đây, người ta “thương” trai Bình Định.

“Người ta” là con gái, thế mới càng thú vị. Thú vị và hiếm có. Bởi vì trong văn chương bình dân của từng địa phương không dễ tìm ra một câu thắm thiết tình tứ của miền này hướng về miền kia như câu hát của gái Phú Yên:

“Anh về Bình Định chi lâu,

Chiều chiều em đứng hàng dâu ngó chừng.

Hai hàng nước mắt rưng rưng,

Chàng xa thiếp cách giậm chưn kêu trời”.

Tìm đâu cho được những câu như thế? Câu hát về trai Quảng gái Huế chăng? Chẳng hạn:

“Học trò trong Quảng ra thi,

Thấy cô gái Huế chân đi không đành”.

Nhưng thực ra ở đây chỉ có chàng trai xứ Quảng bị “chọc quê”, chứ không hề có tình cảm của cô gái Huế.

Còn về cô gái Phú Yên thì cái tình cảm của cô không còn có thể ngờ vực gì nữa: câu hát trên đây không phải là ngẫu nhiên, là trường hợp duy nhất. Người ta bắt gặp nhiều câu tương tự: hoặc cô dặn “anh” mua cho cô một chiếc nón lá dày làm quà Bình Định, hoặc cô trách “anh” bỏ cô kéo vải hái dâu một mình hơi lâu v.v... Tình cảm quí báu nọ được xác nhận đi xác nhận lại nhiều lần.

Vì gái Phú Yên đa tình chăng? — Sự thực gái Phú Yên chỉ mới mang tiếng đa tình từ khi bị Tản Đà xem tướng 1. Nhưng con mắt Phú Yên dù có đa tình, mắt ấy cũng chưa từng “ngó chừng” theo ông Tản Đà. Chỉ có câu chuyện “đứng hàng dâu ngó chừng” theo anh Bình Định!

Vì anh Bình Định gần gũi, vì lửa gần rơm chăng? — Không phải thế. Tỉnh Phú Yên còn một mặt giáp giới tỉnh Phú Bổn, một mặt giáp giới tỉnh Khánh Hòa: Những gần gũi ấy chưa lưu một vết tình cảm nào, ít ra là trong văn chương truyền khẩu. Gái Phú Yên không tỏ ra đa tình với một ai khác, chỉ đa tình với trai Bình Định mà thôi.

Vả lại, Bình Định còn một mặt giáp giới Pleiku, một mặt giáp giới Quảng Ngãi: Ca dao ở cả Quảng Ngãi lẫn Bình Định đều không đề cập đến một liên hệ tình cảm nào giữa bên nầy và bên kia đèo Bình Đê.

Cái tình của gái Phú Yên đã là tình chuyên nhất lại là tình lâu bền, trải qua nhiều thế hệ. Tại Khánh Hòa có câu hát:

“Anh về Bình Định thăm cha,

Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em”.

Từ thế hệ trước, cha Bình Định đã gặp mẹ Phú Yên! Làm sao cắt nghĩa được mối duyên nợ truyền kiếp này?

°

Cắt nghĩa là chuyện khó. Trong khi chờ đợi, tạm có vài suy đoán vu vơ.

Dân tộc mở rộng bờ cõi về phương Nam làm nhiều đợt, chúng ta dừng lại ở Thanh Hóa thật lâu từ đầu công nguyên; đến thế kỷ thứ VII thứ VIII tiến vào Nghệ An, Hà Tĩnh; đến thế kỷ thứ XI, vào Quảng Bình, Quảng Trị; thế kỷ thứ XV, tiến vào Bình Định; thế kỷ thứ XVI, XVII thanh toán đất Chiêm Thành; sau cùng sang thế kỷ thứ XVIII, thì chiếm luôn đất Chân Lạp.

Cứ tiến lên một chặng lại nghỉ ít lâu, rồi tiến chặng nữa. Kể ra là sáu chặng; nhưng sáu chặng ấy có thể phân làm hai thời kỳ khác nhau: Thứ nhất, từ đèo Cù Mông trở ra, cuộc chinh phục và mở mang thuộc công lao các triều vua đóng đô ngoài Bắc. Thứ nhì, từ đèo Cù Mông trở vào, thuộc công lao các vua chúa nhà Nguyễn.

Năm 1470, vua Lê Thánh Tôn đánh chiếm thành Đồ Bàn, tiến tận đèo Đại Lãnh, nhưng rồi chỉ giữ lại để cai trị phần đất phía bắc đèo Cù Mông. Năm 1611, Nguyễn Hoàng đánh Chiêm Thành, lập ra đất Phú Yên. Vào giữa khoảng thời gian hơn trăm năm ấy xảy ra việc Nguyễn Hoàng vào trấn đóng Thuận Hóa năm 1558 với ý định chia đôi sơn hà, gián đoạn sự liên lạc Nam Bắc.

Trong thời kỳ Nam tiến thứ nhất, mỗi lần chinh phục được đất mới, thì triều đình ngoài Bắc đưa người từ các tỉnh ngoài đó vào mở mang; cứ thế đến tận thế kỷ XVI. Vì vậy, dân Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, trong buổi đầu phần đông có nguồn gốc trực tiếp ở Bắc, hay ở bắc Trung phần. Nhiều nhân vật đã lập nên nghiệp lớn ở Bình Định vốn là người đàng ngoài: Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tấn (gốc Thanh Hóa), Lê Đại Cương, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ (gốc Nghệ An) v.v...

Trong thời kỳ thứ hai, vào đến Phú Yên, không còn tình trạng ấy nữa. Khi Nguyễn Hoàng lấy được Phú Yên thì Nam Bắc đã chia biệt, không còn lấy được người Bắc đưa vào Phú Yên. Những đợt di dân đầu, chúa Nguyễn có thể đưa người Thuận Quảng vào; nhưng sau đó, liên tiếp trong mấy trăm năm, hầu hết có lẽ là việc di dân tự động của người Bình Định. Nhân vật Phú Yên được lưu danh, ngoài vị thành hoàng mở đất (Lương Văn Chánh). không có ai là gốc ở đàng ngoài. Có chăng chỉ những người từ Bình Định vào, như Châu Văn Tiếp, như Võ Trứ...

Phải chăng vì vậy mà có cái tình khắng khít giữa Phú Yên với Bình Định?

°

Di dân ở thời kỳ trước, từ Thanh Nghệ vào Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, không gây nên cái tình cảm ràng buộc hai miền như di dân ở thời kỳ sau từ Bình Định vào Phú Yên; nói cách khác, không có ái tình Thanh Quảng hay Nghệ Quảng trong ca dao mà chỉ có ái tình Bình Phú trong ca dao, như thế là vì lối di dân mỗi thời mỗi khác.

Thời trước, từ Bắc vào đất mới quá xa. Dân Thanh Nghệ vào Thăng Hoa (Quảng Nam ngày nay), Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Hoài Nhơn (Bình Định) hoặc tuân theo chiếu vua kêu gọi, hoặc vì mang án lưu hình v.v..., đã đi là đi luôn, đi để lập nghiệp ở các miền đất mới, không tính ngày về. Thậm chí đời nhà Hồ, di dân phải thích hai chữ tên châu mình lên cánh tay. Ra đi như thế là từ bỏ một quê hương để nhận lấy cho mình một quê hương mới. Trước chuyến đi là dân Nghệ, dân Thanh; sau chuyến đi tức khắc thành hẳn một thành phần của dân Quảng, dân Bình Định.

Trái lại, vào thời sau, trong những cuộc di dân tự động, “anh Bình Định” vào Phú Yên làm ăn, “thương” cảnh Phú Yên, “thương” người Phú Yên, ăn ở với em Phú Yên nhưng vẫn không rời bỏ hẳn quê hương Bình Định sát kề. Ngoài đó còn có cha mẹ, có mồ mả tổ tiên, có cả những dính líu về tài sản ruộng đất nữa. Ngày giỗ ngày kỵ, những dịp chia ruộng bán nhà v.v..., anh không thể vắng mặt. Một bổn hai quê, anh Bình Định đi đi về về mãi, khiến em Phú Yên phải giậm chân kêu trời. Như thế cho đến một ngày kia, khi anh đã con đàn cháu lũ đùm đề, gánh gia đình cũng như sản nghiệp tạo dựng của anh ở quê vợ đã quá nặng quá lớn, đủ thu hút tất cả thì giờ, tâm trí, cùng sự hoạt động của anh, khi tuổi anh đã cao, sức anh đã suy sút, bấy giờ anh mới đành chịu định cư hẳn ở Phú Yên, lấy quê vợ làm quê mình. (Nhưng bấy giờ lại đến lượt đứa con trai của anh, theo tiếng gọi phương Nam, nó lên đường vào Khánh Hòa làm ăn và lại gặp một em ở trong đó. Cha Bình Định, mẹ Phú Yên, vợ Khánh Hòa: cuộc Nam tiến cứ thế tiếp diễn...).

Thành thử anh Bình Định hấp dẫn, đầu đuôi chỉ vì một lối di dân nhì nhằng.

 

Chú thích

1 “Đa tình con mắt Phú Yên” (thơ Tản Đà).

Gắn, Gùa Và Gu

Trong Xóm Cầu Mới, Siêu với Mùi một hôm có dịp ghé vào chợ Keo, ngồi nghỉ chân một lúc, ăn vài món quà, rồi ra đi. Nhưng đối với Siêu, đó là một kỷ niệm tuyệt vời trong mối tình của chàng: “Siêu vừa nhận thấy trong đời chàng, chàng sẽ không bao giờ quên cái lúc ngồi với Mùi ở quán hàng trong cái chợ hẻo lánh này”... “Siêu cảm thấy trước cái buồn của lòng chàng một hôm nào, mười năm sau chàng lại sẽ đến cái chợ này một mình, để có lại được cái tâm hồn chàng hiện nay và để buồn rầu một cách êm ái nhớ lại một hôm đã xa xôi ở đúng chỗ này lòng chàng đã rung động vì yêu Mùi.”

Người đọc thầm nghĩ: Đối với Siêu thì chuyện đó cũng được đi. Được tất: bờ sông, chân núi, góc vườn, lều chợ v.v... chỗ nào cũng có thể đẹp, cũng đáng nhớ tới “mười năm sau”, miễn chỗ ấy có Mùi và có chàng. Nhưng đối với Nhất Linh thì lạ chứ: Bộ trên đời hết cảnh thơ mộng rồi sao mà lấy một khu chợ làm khung cảnh ái tình?

Siêu tình cờ gặp chợ Keo trên đường về làng; chứ Nhất Linh không tình cờ mà chọn. Ông quả yêu thích cái cảnh “bà cụ bán hàng có cái yếm đỏ thắm, cây đa với những cái lều chợ xơ xác, và tiếng ồn ào lẫn với mùi bèo, mùi mắm tôm, mùi bánh đa, khoai nướng thoang thoảng trong gió và trong nắng, với tiếng một con chim chích chòe vừa hót đâu đây.”

Vả lại ai bảo cảnh chợ không thi vị? Đoàn Văn Cừ đã không làm thơ về cảnh chợ và trở thành nổi tiếng đó sao?

Như thế, có một điều chắc chắn: là đã có những kẻ sĩ yêu chợ. Và tôi có thể ba hoa dăm ba điều về chợ búa mà không ngại bị chê cười là phàm phu tục tử.

°

Nhân bắt gặp Nhất Linh và Đoàn Văn Cừ tại chợ, chúng ta nhận thấy họ còn gặp nhau ở mấy điểm nữa. Trong cái “Chợ tết” của nhà thơ có:

“Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.”

“Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ

Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.”

lại có

“Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê

Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.”

Thì ra ở chợ Keo kia cũng như ở chợ tết này đều có chiếc yếm thắm, có bà cụ lão, và có cây đa. (Vào thời Đoàn Văn Cừ thì cô gái mặc yếm, thời Nhất Linh sau này chiếc yếm thắm được trao lại cho bà lão: chút khác biệt ấy cũng là tự nhiên.) Hình như đối với hai vị văn thi sĩ tiền bối chính những cái đó làm cho cảnh chợ đáng yêu: những cái nghèo nàn mà quen thuộc, những hình ảnh gợi lại nếp sống cổ truyền ở đồng quê miền Bắc.

Những kẻ sĩ yêu chợ và những cặp tình nhân yêu quà, ghé vào các ngôi chợ ở trong Nam bây giờ không gặp cây đa và yếm thắm nữa. Hình ảnh quen thuộc nhất có lẽ là cái nhà lồng giữa chợ, nơi xông lên mùi thịt nướng thơm không chịu nổi. Và thịt nướng không hay đi vào thơ.

Nhưng điều tôi lấy làm thích thú trong cái sự dạo chợ đó đây không phải là ở chỗ tìm lại một nếp sống cũ thân yêu, mà là ở cái chỗ được luôn luôn ngạc nhiên trước những dị biệt phong phú.

Một người từ các miền ngoài vào Nam thoạt tiên không thể không hoảng hồn trước cảnh tượng của loại chợ chuyên biệt như chợ cá, chợ rau, chợ trái v.v... ở Sài Gòn. Trời đất! rau trái cá tôm ở đâu mà như núi như non, bán buôn cái gì mà rầm rộ từ bốn năm giờ sáng.

Cái lớn lao qui mô thì đã đành thủ đô là nhất: những Trần Quốc Toản, Chánh Hưng, Cầu Ông Lãnh, Cầu Muối v.v... là nhất. Nhưng kẻ dạo chợ đâu có cao vọng tìm kiếm cái vĩ đại? Một chút gì ngộ nghĩnh, hay hay, cũng đủ rồi. Chẳng hạn ở cái chợ cá Vị Thanh, dọc theo bờ sông, khách trông thấy bày bán những con thịt trắng hếu, bằng nắm tay, bằng múi bông: “Cá gì vậy cà?” Khách lại gần xem cho kỹ: À! Thì ra chuột đó. Chuột đồng làm thịt sẵn, dàn bán la liệt.

Lại chẳng hạn, ở chợ Cà Mau, có những người bán hàng — một con bé, một cô gái — đặc biệt chăm sóc món hàng của mình. “Hàng” đem bán được đựng trong những cái thau bằng nhôm cũ kỹ, và người bán thì không ngớt sờ soạng vào trong thau, như vuốt ve mãi món hàng không nỡ rời tay. Gì mà âu yếm nâng niu quá đáng vậy? — Thưa, rắn đó.

Rắn hổ, rắn vi cá, rắn vi tượng v.v..., đem bán tại chợ có thứ đã bị đập nát đầu, nhưng có thứ bán sống. Rắn sống thì con nào con nấy bị may miệng bằng một sợi dây thép; hai đầu dây bị cắt cụt vểnh lên như hai sợi râu cá trê, hay như cái lưỡi rắn thè ra. Rắn sống lúc nhúc trong thau tất nhiên là tìm cách trườn thoát ra ngoài, vì vậy người bán hàng phải luôn luôn đặt một bàn tay vào đống rắn, luôn luôn rờ rẫm hết con nọ đến con kia: con nào trườn ra liền bị kéo vào kịp thời. Người bán rắn trông có vẻ âu yếm món hàng của mình hơn cả.

Ở Ban Mê Thuột, một buổi sáng đầu thu cách đây ba năm, một buổi sáng nắng đẹp, khí trời mát mẻ, tôi lăng quăng một hồi và có cảm tưởng rất lờ mờ về ranh giới thực sự của khu chợ. Trên lề đường, ở một góc phố cách chợ hàng trăm thước, một chú bé thượng du đứng thơ thẩn. Chú bé đứng như ngắm hàng hóa bày bán trong tiệm, như xem người qua kẻ lại: chú cũng có vẻ là du khách, nhưng coi lại thì chú ta có một con vượn lớn bằng chai la-ve: con vượn màu lông vàng óng, mõm đen, hai mắt nhắm khít lại, đang vòng tay ôm quanh cổ chú bé, hai chân sau ôm nách, dính vào ngực chú bé. Con vượn ấy, chú thách giá mười ngàn đồng: sự buôn bán đã bắt đầu từ một góc phố xa. Từ đó, người thượng dừng lại rải rác, hoặc với những gùi chứa bầu, bí, mướp, ớt, ổi..., hoặc với những chai mật ong. Các bạn hàng đặc biệt này không hề chiếm được thuê được các chỗ ngồi cố định trong lều chợ, không có sạp hàng: họ đi lơ ngơ, gặp ai hỏi mua đâu thì dừng lại đó. Cái “sinh hoạt chợ” lan rộng ra ngoài ranh giới chợ: nó thành ra là cái sinh hoạt của cả một khu phố.

Chợ lan rộng ra, mà thiên nhiên thì tràn lấn vào. Ở một góc đường có cái bót gác của nhân dân tự vệ: trên đống bao cát chất chồng cỏ mọc tùm lum, xanh tốt mơn mởn. Trong ánh nắng mai rực rỡ, bướm bay chờn vờn thật nhiều trên bót gác nọ. Bướm trắng bướm vàng, con nào con ấy to tướng, sung sướng nhởn nhơ từ đại lộ nọ sang đại lộ kia. Chúng quấn quít bên những người thượng quen thuộc, những con vượn, con sóc, con két quen thuộc vừa mới xuống chợ, chúng quấn quít trên những mớ ổi rừng mớ ớt rừng còn nguyên mùi hoang dại...

°

Chợ là thế giới của đàn bà và của cái ăn. Siêu có lý khi chàng ghé vào chợ để yêu Mùi và để ăn luôn mấy tô bún riêu.

Các món quà ở miền Bắc thường thường là đã cao niên cả, đã có một lịch sử lâu dài, đã phổ biến rộng rãi. Trong Nam, món ăn vặt thật là phong phú, thật là linh tinh, mà rất nhiều món chưa kịp tiến ra khỏi chỗ địa phương, cũng chưa kịp tiến đến hình thức cố định.

Vào các chợ miền Hậu Giang mà tìm bún riêu thì nhất định không có đã đành, thậm chí những phở, những bánh cuốn v.v... cũng không có nữa. Ngoại trừ vài chỗ “đô hội” như Cần Thơ ra, thì ở các nơi khác, chẳng những trong chợ không có mà khắp các phố cũng không hề có.

Ngược lại, món địa phương thì vô số kể: bún Kiên Giang của bà Ba tại chợ Rạch Giá, bún nước lèo ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh, bún tằm bì Chương Thiện, hủ tiếu Mỹ Tho, cháo tấm giò heo với giá với gừng trên bến Ninh Kiều, hủ tiếu bò sa tế ở Cà Mau...

- Nói gì vậy? Những thứ đó đều có mặt ở Sài Gòn hết.

- Ở Sài Gòn thì có: hầu hết các món địa phương toàn quốc đều có về Sài Gòn trình diện. Như vậy không có nghĩa là “phổ biến rộng rãi.” Chẳng hạn món mì Quảng có mặt ở Sài Gòn mà không ra đến Huế, không vào đến Qui Nhơn.

Vả lại, món ăn trong Nam tiếp tục biến đổi không ngờ. Hủ tiếu Mỹ Tho mà ăn tại Mỹ Tho, tại mấy cái quán dọc bờ sông, thì ăn với xà-lách, hoặc xà-lách-xoong (cresson), hoặc với giá, với cúc tần ô. Cũng món hủ tiếu ấy tại Sài Gòn thì nó đi với rau cần. Và cái sự phát giác ra thứ rau cần để kết hợp với hủ tiếu thật đã chứng tỏ cả một thiên tài: ngày ngày tại đường Tôn Thất Đạm, không biết bao nhiêu là giỏ rau cần tươi tốt đã “phục vụ” một cách vô cùng đắc lực, vì được dùng đúng cái khả năng sở trường của nó.

Còn nước dùng, có nơi cho luôn vào tô hủ tiếu, có nơi lại múc ra một chén riêng, như thể một món nhiệm ý, có cũng được không cũng xong, để tùy nghi sử dụng.

Lại như cái món bún nước lèo, bởi vì là một món ăn Việt gốc Miên cho nên còn phải trải qua nhiều chặng đường canh cải hơn. Tôi có dịp dự một bữa ăn với các vị sư sãi tại chùa Samrong Ek ở Trà Vinh, có món gỏi hoa đu đủ, có bún nước lèo... So chén bún hôm ấy với tô bún ngồi ăn ở chợ Sóc Trăng hương vị đã khác, cách trình bày cũng khác. Sang chợ Bạc Liêu, gặp thứ bún nước lèo bì (cái ý kiến cho bì vào tô bún nước không mấy sáng giá). Thế rồi lên đến Sài Gòn thì cái bún nước lèo nó canh tân quá trời: chẳng những thành phần tôm, thịt, cá... rải bên trên đã cải cách, mà thậm chí thứ nước dùng cũng ly khai chất mắm bò-hóc (Nó được thay thế bằng mắm cá sặc, và nghe đâu cả mắm... ruốc nữa!) Gió bụi kinh thành đã làm nó mất gốc đến thế đấy, các đồng bào gốc Miên ạ.

Phở Bắc, miến gà, bún thang, bún bò Huế, mì Tàu v.v... ở đâu cũng nấu như nhau. Chúng ta tiến đến những công thức gần như cố định, bất biến. Mỗi tiệm chỉ có thể có một vài bí quyết nho nhỏ, chứ không thêm bớt được gì vào “đại thể”: không thêm bì vào bún thang, không bớt được mùi ruốc và sả của bún bò v.v...

Đến như mì Tàu, lưu lạc sang xứ ta, nó vẫn giữ kỷ luật chặt chẽ. Ở Huế hay ở Sài Gòn, Cà Mau, gọi tô mì hoành thánh, chú Ba vẫn bưng đến một tô y hệt từ mùi vị đến cách thức trình bày; gọi tô mì vàng nhỏ sợi hai vắt, chú Ba làm xong vẫn bỏ lên một chiếc bánh tôm và xé rẹt rẹt một lá xà-lách...

Mì Tàu, phở Bắc v.v... so với các món trong Nam, một bên như thơ Đường như phú tám vế, một bên như thơ tự do, thơ phá thể. Từ địa phương này đến địa phương khác, từ chợ nọ sang chợ kia, bún nước lèo và hủ tiếu tha hồ biến cải: ai nấy được tự do sáng tạo trên các loại tác phẩm ấy. Đây là những món ăn còn đang tiến mạnh, những món ăn trẻ, nó chưa hoàn thiện, nó hãy còn khuyết điểm đấy nhưng mà sinh động, hướng về tương lai. Mười năm sau, tại chợ Keo, Siêu sẽ ăn một bát bún riêu y hệt như mười năm trước, chứ chúng ta sức mấy có thể ăn hai tô bún nước lèo giống nhau sau khoảng cách thời gian lâu dài đến thế.

°

Tuy nhiên, dẫu xa mười năm, tôi chắc không quên được một kỷ niệm về ăn uống ở Cà Mau dạo nọ. Hôm ấy đi quanh quẩn trong chợ một lúc, không tìm thấy chỗ nào bán rùa, bèn đứng lại, hỏi em bé bán rắn:

- Em có biết chỗ nào bán rùa?

- Muốn gắn có gắn, muốn gùa có gùa.

Quả nhiên. Em mở một cái bao nhà binh Mỹ vẫn dùng chứa cát xếp quanh lô-cốt: quả nhiên là có gùa. Độ vài chục con.

- Bao nhiêu một con, em?

- Mua làm chi một con? Mua ký đi ông. Ký gắn hai chăm, ký gùa ba chăm.

Thế thì cũng dễ chịu, không đắt. Nhưng đã có gắn có gùa, mấy ông bạn địa phương còn lo thêm một khoảng cần thiết: có gụ.

Và trong bữa nhậu trưa hôm ấy lần đầu tiên tôi được biết thế nào là một sự “cần thiết”. Chúng tôi không cầu kỳ, không chọn thứ rượu mạnh nào, chỉ là la-ve thôi; nhưng một anh bạn ngã chục chai, một anh khác cứ thong thả uống từ từ và cuối cùng xếp xuống sau lưng một đống mười tám cái vỏ chai.

Dĩ nhiên chuyện trò nở như bắp rang:

- Uống như vậy mà nhiều gì đâu? Ở đây, một người đàn bà, tức chị Sáu Đô-la đó mà, chĩ từng uống ba mươi tám chai. Nên nhớ là bắt đầu chĩ thổi kèn liên tục mười một chai, nghe!

- Thổi kèn?

- Ừa. Tức là uống ngay trong chai, không cần rót ra ly. Nói cho đúng, đó là la-ve 33.

- Trời! Khiếp quá.

- Khiếp gì? Ở chợ Sông Ông Đốc tôi đã gặp một bà trên năm mươi tuổi uống luôn hai lít rượu đế. Nghĩ sao chớ?

- Tôi nghĩ không biết tại sao ở đây ai nấy chịu nhậu quá vậy.

- Ờ ờ... Bị ở đây buồn quá, không có thứ gì tiêu khiển mà. Xa xôi, hẻo lánh...

- Nói vậy chớ ở chỗ núi non như Cheo Reo, Kontum... không buồn sao: ở đó đâu có nhậu nhiều. Có người cho là tại vùng Cà Mau nhiều muỗi, có bệnh sốt rét, nên dùng rượu ngừa bệnh. Thì miền sơn cước cũng sốt rét vậy... Có lẽ muốn thổi kèn liên tục mười một chai la-ve phải có một điều kiện nào đó. Thí dụ ở xứ này làm ăn dễ dàng, đồng tiền rời rộng hơn các nơi...

- Cũng có vậy. Vả lại Trời ổng khiến làm sao mà ở đây nhiều món nhậu quá: Không nhậu không được ông ơi. Hãy nói rùa với rắn: ông coi, được quá chớ. Nè, rắn xé phay, rắn xào lăn, rùa rang muối, cháo rắn v.v...: Ký rùa ký rắn là làm được đủ thứ. Mà hai loại đó dễ kiếm quá chừng. Gần đây mới sinh ra cái chuyện đi chợ mua rùa với rắn, chớ trước kia, hồi tôi còn nhỏ, ai mà bán buôn những loại đó? Nhà nào chẳng có, lúc nào không sẵn chớ hả? Nói giả thử lâu lâu mình muốn nhậu một bữa rủi thiếu rắn thì cứ sang nhà láng giềng bắt về dùng, trả lại mấy hồi? Đó! Trời cho mình sống giữa cái sẵn sàng như thế, Trời ổng mời mọc thường xuyên, mà mình cầm lòng không nhậu cũng khó chớ ông bạn?

Khó thật.

Rồi câu chuyện hào hứng đi vào cái ăn: Rùa tiện lắm. Có bạn tới nhà, có rắn có rùa thì cứ việc bày rượu ra ngay: năm phút sau đã thấy thịt rùa dọn lên. Rùa rang muối nhanh hết sức. Dọn cũng giản dị: đừng chặt, đừng xé gì cả; cứ dọn nguyên con nóng hổi, chủ khách mỗi người lấy tay rút phăng ra một cái chân rùa mà gặm, chấm với muối tiêu. Miệng ngồm ngoàm, một tay cầm cái chân rùa, một tay ly rượu, thỉnh thoảng đặt ly xuống, nhón một cái lá rau răm. Cứ thế, trong khi chờ đợi các món khác.

Đến món khác, câu chuyện chuyển sang cái chơi, cái nghịch: Rắn vi tượng ăn không ngon bằng rắn hổ, nhưng nó không nguy hiểm. À, nhốt nó trong chum coi thì lờ đờ, vậy mà lanh lắm nghe. Cứ có người nhảy qua chum, thế nào nó cũng phóng lên cắn trúng phóc. Đã có nhiều anh chàng cá tiền đòi ăn thua: kẻ nhảy cao nhất cũng không tránh khỏi bị vi tượng để lại mấy chiếc răng vào bắp chân. Vậy đó: hễ cắn xong là răng dính luôn vào thịt, cũng như ong chích xong thì mất nọc. Hà hà...

Sau đó câu chuyện trở lại triết lý về cái nhậu: Bảo bà này uống hai lít đế ông kia bốn chục chai bia, không phải lúc nào cũng vậy đâu. Nhậu nó phải có hứng; có hoàn cảnh, có bạn bè thì mới nhậu được. Nhiều hôm, mình nằm nhà buồn thiu, vợ thấy thương hại, làm món ăn ngon, mua rượu về cho: uống một ly la-ve mình thấy đắng nghét. Uống một mình, cóc uống nổi một chai.

Nhưng hôm ấy phải nhận rằng các ông bạn của tôi có hứng.

Sau cùng chúng tôi lăn kềnh ra. Riêng về phần tôi, mặt đỏ nhừ, đầu nặng như đá, tôi dụi xuống, thiếp đi không biết được bao lâu. Buổi trưa nóng bức, cả khu phố vắng vẻ không có tiếng xe cộ gì.

Trong giấc ngủ nặng nề tôi mơ thấy loáng thoáng cảnh chợ búa lao xao, rồi người vật rắn rùa lùi xa dần, mất dạng, rồi còn lại mình tôi lên thác xuống ghềnh, gieo neo vất vả. Mình tôi lầm lũi hun hút, lòng chơi vơi lo lắng, chán ngán não nề.

Kìa! Mới đó chợ búa đông đảo mà sao vụt một cái chỉ còn lại mình tôi biền biệt? Tôi đi đâu vậy? Đi đâu mà heo hút khổ sở vậy? Lòng tôi thắt lại... Hắt hiu như “dạo chợ mình ta” 1! Ồ, không! Như mất chợ...

Giật mình thức dậy, mồ hôi ướt dưới cổ, nhâm nhấp bên thái dương, tim đập thùm thụp. Biết rằng vừa rồi chỉ là một cơn mơ, nhưng cảm tưởng khi thức vẫn nối tiếp khi mơ; vẫn cái lo lắng chơi vơi, như thể một mình lên thác xuống ghềnh, gian nan cô quạnh một cách vô cớ.

Dần dần, để ý đến tiếng hát phát ra từ cái ra-dô nhà bên cạnh. Trong xế trưa vắng vẻ, giọng người nữ ca sĩ lên bổng xuống trầm, một mình nàng giữa nắng trưa. À, thì ra đây là lý do. Trong mơ tôi đã đi hun hút theo một giọng đơn ca cô quạnh buồn thảm này đây. Lên thác xuống ghềnh là do cái trầm bổng này đây. Mình tôi với mình nàng. Mình nàng dìu mình tôi, bằng âm thanh...

Tôi nghểnh đầu nhìn quanh: các ông bạn cao hứng vừa rồi vẫn ngoẹo đầu ngủ vùi, say sưa, mê mệt.

Nhìn xuống nhà dưới: bà bác của anh bạn chủ nhà, không hiểu đau gì, lúc nào, đang nằm sấp lưng, giác hơi: bốn cái bầu pha-lê dính trên lưng. Mái tóc trắng của bà cụ xõa quanh đầu, bù xù.

Cảnh nhà càng vắng vẻ. Tiếng hát một mình len lỏi trong buổi xế trưa.

Đã lâu mà tôi chưa quên được cái cảnh tượng ấy: một cơn vui quá độ vừa qua đi, một cơn hứng chí nhìn ở phía sau... lưng! Nó tiêu điều còn hơn cả “Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.”

Chú thích:

1 Dạo núi mình ta, tên một thi phẩm của Hà Thúc Sinh.

Rụp Rụp

Ông Bình Nguyên Lộc quả quyết rằng trong một bàn ăn mười ba người, gồm mười hai người Việt và một người Hoa, đồng vóc dáng, đồng trang phục, ngồi im không nói, ông cũng phân biệt được kẻ Việt người Hoa.

Như vậy đã là tài, nhưng ông còn đi xa hơn: có thể nhìn hình dáng mà phân biệt được người Tàu Phúc Kiến với người Tàu Quảng Đông, người Tàu tỉnh này với người Tàu tỉnh khác. 1

Cũng trong quán ăn, trong khi chờ đợi tô hủ tiếu, tôi có dăm ba lần theo dõi cử chỉ của người làm bếp, và chợt lấy làm ngạc nhiên về một nhận xét. Không phải ngạc nhiên về chuyện suy tưởng nhân chủng ưa liên quan với các tiệm ăn quán nhậu. Mà là vì tôi có cảm tưởng đôi khi có thể nhìn mà phân biệt một người Việt miền Nam với một người Việt miền Trung, tức một đồng bào ở miền ông Bình Nguyên Lộc với một đồng bào ở miền tôi. Nói cách khác, tôi có cảm tưởng mình cũng... tài giỏi như ông Bình Nguyên Lộc: cái mới kỳ cục!

Một buổi trưa, tại Cần Thơ, trong ngôi quán ở đầu một ngõ hẻm gần bến xe Lam, lần đầu tiên tôi chú ý đến điệu bộ có vẻ ngộ nghĩnh của người chủ quán.

Ngôi quán khá chật và tối. Giữa trưa, trong quán vẫn có ngọn điện vàng cạch thả toòng teng trên đầu người chủ. Người này mặc mai-ô quần lính, đầu đội chiếc mũ địa phương quân rộng vành, chân mang đôi giày da đen, kbông vớ. Tại sao phải giày và mũ trong một chỗ kín như thế? Có thể chỉ là một thói quen, hay chỉ là một trường hợp ngẫu nhiên nào đó; tức một chi tiết không có ý nghĩa gì. Tuy vậy tôi vẫn ghi lại, vì hình ảnh ấy tưởng còn hiển hiện trước mắt tôi lúc này. Hình ảnh một người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, và làm việc hào hứng.

Mỗi người có một cách biểu lộ sự hào hứng. Riêng cái cách của người chủ quán hôm ấy, trời ơi, trông mà mê. Hai tay ông ta thoăn thoắt: chặt khúc xương, xắt lát thịt, gắp mớ ớt, múc vá nước từ trong thùng đổ ra tô, xóc xóc mớ hủ tiếu vừa mới trụng qua nước sôi, rắc một tí tiêu bột v.v... Tất cả bấy nhiêu cử chỉ đều rập ràng, hơi có vẻ nhún nhẩy. Mỗi cái quơ tay, cái nhấc lên hạ xuống đều như có gì quá mức cần thiết một chút. Mỗi cử chỉ bao hàm bảy tám phần cần thiết, lại thêm vài ba phần thừa thãi, chỉ để cho đẹp mắt, để biểu diễn sự thích thú trong công việc. Động tác nghề nghiệp gần chuyển thành sự múa men. Một điệu vũ ca ngợi lao động.

Đứng bên chủ quán là bà vợ, tôi đã tưởng bà làm công việc chạy bàn. Nhưng không: Lúc một cậu bé gầy gầy cưỡi chiếc xe đạp vụt về trước cửa, xách vào cục nước đá, thì đã rõ đây mới là người chạy bàn chính thức; người đàn bà chỉ tạm thời thay thế cậu ta trong chốc lát.

Khi đã đủ một vợ một con bên mình, chủ quán điều động càng hào hứng:

- Bàn trong. Một nhỏ một lớn. Rồi! Bưng.

- Bàn ngoài, số một. Tô lớn, khô. Rồi! Bưng, bàn số một.

- Bàn số ba tính tiền. Tám chục với ba lăm là trăm mười lăm. Trăm mười lăm với tám đồng là trăm hăm ba. Trăm rưởi trừ trăm hăm ba, còn lại...

Bà vợ nhắc:

- Hăm bảy.

- Hăm bảy. Nè!

Ông ta đưa món tiền lẻ, cậu con mang ra cho khách. Rảnh tay, ông ta chặt một miếng cánh gà, nho nhỏ, quăng gọn vào mồm, nhai. Lại nhanh nhẹn chặt luôn miếng khác, trao cho vợ. Người đàn bà thụt né vào sau cánh cửa; ăn xong lại ló ra, sẵn sàng...

- Tô nước, tô khô. Bàn số hai. Rồi!

Cứ thế, chủ quán làm việc, cắt đặt công việc, điều khiển vợ con v.v..., điệu bộ vẫn lại cứ như có gì thừa thãi một chút. Bảy tám phần cần thiết, đôi ba phần để bày tỏ sự hài lòng, để biểu diễn sự hoạt động ăn khớp của một tổ chức hoàn hảo, một bộ máy hợp khuôn rập, chạy đều ro ro.

Vừa rồi có lẽ đã có sự lạm dụng: hầu hết mỗi câu nói của người chủ quán đều có một tiếng “rồi”. Nếu tôi ghi nhớ sai, ấy là vì đã quá chú ý đến tiếng đó. Nhưng hay nhất, ngộ nhất lại là cái tiếng “rồi” tưởng tượng phát ra từ mỗi cử chỉ. Mỗi cử chỉ — ngắt cọng rau, xóc mớ hủ tiếu v.v... — đến chỗ sau cùng thường được gằn mạnh. Như thể một tiếng “rồi” phát ra bằng động tác thay vì bằng âm thanh: Một tiếng câm.

Dầu sao lần ấy tôi không có một đối tượng quan sát im lặng như ông Bình Nguyên Lộc; nhưng các lần sau này thì họ im lặng.

Sau buổi trưa ở Cần Thơ, về Sài Gòn những lần vào quán hủ tiếu, tôi sực nhớ hình ảnh nọ, và tò mò nhìn theo chủ quán: thỉnh thoảng lại gặp những điệu bộ ấy. Có khi ở một người đàn bà, có khi ở một người đàn ông đứng tuổi. Họ nhanh nhẹn, mau mắn; nhưng cái đặc biệt là, trong cử chỉ, họ như muốn nhấn mạnh vào tính cách toàn hảo của những hoạt động rập ràng mau mắn ấy.

Những người ấy họ có cung cách làm việc giống nhau. Cung cách ấy, gọi nó ra sao? Tôi tìm một chữ để diển tả. Tôi loay hoay tìm kiếm... A! Đây rồi: “Rụp rụp”! Họ làm việc “rụp rụp”.

Chữ nghĩa sao mà thần tình. Lại chính là một tiếng địa phương ra đời ở miền Nam này. Thế mới biết sự xuất hiện của một tiếng nói mới không bao giờ là chuyện ngẫu nhiên, không lý do. Phải có một thực tại mới, đòi hỏi được mô tả sát đúng. Phải có một sự cần thiết réo gọi nó, đích danh nó.

“Rụp rụp” là một đáp ứng tài tình cho một đòi hỏi như thế. Làm rụp rụp không phải chỉ là làm mau mắn, mà còn với một vẻ hứng chí trong sự mau mắn.

- Nhưng tại sao lại bảo đó là của miền Nam? Đâu phải người nào trong Nam cũng làm việc rụp rụp?

- Tất nhiên đó không phải là tác phong của toàn thể. Cũng không thể nào biết được là tác phong của một tỉ lệ người Nam lớn nhỏ ra sao. Có điều tác phong ấy không gặp thấy ở các miền ngoài. Vả lại, còn có chuyện khác...

- Nào, xem chuyện khác có gì rõ rệt hơn chăng.

°

Trong một bài tục ca của Phạm Duy, có câu: “Người dân nhìn thoáng hết hồn luôn”, lại có câu: “Lệch đi thì chết, cấm sờ luôn”. Những tiếng “luôn” dùng kiểu đó không có trong ngôn ngữ các miền ngoài.

Cũng thế, ở ngoài Trung mỗi khi xe đò dừng lại dọc đường, hành khách lên xe xong, anh “ết” hô to cho tài xế nghe: “Chạy!”; ở trong Nam, anh ta hô: “Chạy luôn!”.

Tại sao lại luôn? Những tiếng “luôn” ấy không có nghĩa, nhưng dĩ nhiên không phải không có công dụng. Trái lại, công dụng đó thường khi khiến nó còn được xem trọng hơn những tiếng có nghĩa rõ rệt đứng trước nó. Chẳng hạn trong trường hợp “chạy luôn”: tiếng “chạy” hô phớt qua, tiếng “luôn” được gằn mạnh. Người ta nghe “Ch... luôn!”; có khi chỉ nghe có một tiếng “Luôn!”.

Không chừng đó cũng là trường hợp đã xảy đến cho tiếng “vô”. Mời nhau uống rượu, anh em hô: “Dô”!” Có lẽ thoạt tiên là tiếng “nhậu vô”, “uống vô” chăng? Dần dần tiếng trước bị lướt phớt qua rồi bị bỏ rơi. Chỉ còn lại tiếng sau; từ một tiếng trợ từ, nó tiến lên nhận lấy cái nghĩa của các tiếng nhậu, uống.

Trong “chạy luôn”, nghĩa ở tiếng chạy; trong “hết hồn luôn”, nghĩa ở hết hồn; trong “nhậu vô”, nghĩa ở nhậu v.v... Còn tiếng “luôn”? Nó thêm vào một thái độ phát biểu, không thêm gì vào cái ý nghĩa đã phát biểu. Trong “chạy luôn” chẳng hạn, ‘luôn” là một tiếng kêu hơn là một tiếng nói: nó phát lên để tỏ thái độ thúc dục, nó không nói gì về cái nội dung của sự thúc dục ấy. Nó có công dụng về giọng điệu, chứ không phải về ngữ ý.

Như vậy trong cách nói này cái nội dung, cái cần thiết, đôi khi bị lướt qua; cái phụ, có phần thừa thãi, lại được nhấn mạnh.

Lại cái thừa thãi.

Trong cử chỉ, một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết; trong lời nói, cũng một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết. Cử chỉ và lời nói đều được phóng đại lên...

- Vẫn không có gì rõ rệt.

- Không rõ, về mặt nào?

- Một dấu hiệu để phân biệt bản sắc địa phương như vậy không mấy cụ thể.

- Thực ra ở đây vấn đề không phải là đi tìm một dấu hiệu phân biệt. Cái đó đâu cần tìm kiếm nữa? Đã có sự khác nhau thật rõ ràng, thật cụ thể, ấy là cái chỉ số sọ của ông Bình Nguyên Lộc: cuộc di cư của nhóm Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Địch làm cho đồng bào ta ở miền Nam có xương sọ hơi dài thêm 2. Kẻ Nam người Bắc tha hồ yên lặng, ông Bình Nguyên Lộc đo đạc là biết ngay.

Vậy ở đây không có chuyện tìm một dấu hiệu phân biệt. Chẳng qua là chộp bắt một nét cá tính phản ảnh trong phong cách, ngôn ngữ. Và hình như sự phản ảnh không dừng lại ở vài tiếng trợ từ, ở mấy điệu bộ. Hình như trên sân khấu cải lương, một bộ môn nghệ thuật của miền Nam, chúng ta có cảm tưởng nhận thấy cá tính ấy xuất lộ ở phong cách diễn xuất...

- Cảm tưởng? Không có gì rõ rệt.

Chú thích:

1 Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn, 1971, trang 736, 737.

2 Sđd., trang 453.

Nhớ Làng

Trước kia thi sĩ Yến Lan ở gần cửa đông thành Bình Định cũ. Ông có nhiều bài thơ nói về chỗ quê hương mà ông thiết tha. Bình Định trong thơ Yến Lan không là đất anh hùng của Quang Trung, đất huyền bí của Chiêm Thành v.v... Không có gì lớn lao hãi hùng như thế trong thơ Yến Lan. Tuy nhiên, người cùng quê đọc thơ ông thường nhớ quê thấm thía nhất.

Một hôm Yến Lan nhớ làng và vẽ lại cảnh làng:

“Ở đây nắng mới võ vàng

Dừa cao lỏng khỏng cành xoan ngòng ngoèo

Con đường thời ngút cheo leo

Mình đi chỉ bóng cùng theo với mình.” 1

Làng của thi sĩ ở giữa một vòng thành quách, xưa kia hẳn là huy hoàng dinh thự, chen chúc phố xá. Nhưng thành quách đã phế hủy, sinh hoạt đã tàn tạ. Cho nên rốt cuộc hình ảnh do thi sĩ đưa ra sao mà giống cảnh làng tôi ở một vùng sơn cước hẻo lánh: sao mà vắng vẻ, tịch liêu, sao mà quạnh hiu, ngui ngút...

Và đó cũng là hình ảnh nổi bật nhất về Bình Định quê nhà trong trí tôi, mỗi khi ngùi ngùi hồi tưởng lại những ngày bé dại.

Nhưng lúc này, vào thượng tuần tháng sáu 2 thì hai câu thơ sau đây của Yến Lan mới thật là xúc động:

“Chiều nay mở cửa ra trông

Thấy làng đâu, chỉ thấy lòng mà thôi.”

°

Thật vậy, lúc này tôi không còn làng.

Làng đâu? — Làng tôi ở đúng cái vị trí được nêu lên hai mươi lần mỗi ngày trong các bản tin chiến sự từng giờ đọc trên đài phát thanh vào những hôm đầu tháng sáu này, được nhắc đến trên trang nhất của tất cả các nhật báo mỗi chiều tung ra tới tấp khắp nước đó. Ở đúng cái chỗ hai ba cây số tây nam quận lỵ Phù Mỹ đó. Tức cái chỗ sư đoàn 3 Sao Vàng của bên kia cùng với trung đoàn 41 sư đoàn 22 của bên này đánh vùi nhau liền ngày liền đêm trước sự theo dõi của các hãng thông tấn quốc tế. Tức cái chỗ mà vài ngày trước khi tử nạn, ông John Paul Vann cho là nhà cầm quyền Bắc Việt nhất quyết xua quân xông vào để tìm cho kỳ được cái thắng lợi chính trị như trong trường hợp tỉnh lỵ Quảng Trị. Tức cái chỗ có tin loan rằng đã đếm được 360 xác địch, rồi có tin khác loan báo đếm đến năm trăm, rồi sáu trăm xác địch... Cũng tức là cái chỗ từng có chiếc Phantom bị bắn hạ trong một hoạt động không trợ...

Ờ! Chiếc phản lực cơ tối tân ấy của Hoa Kỳ, nó đã gầm thét dữ dằn, rồi nó đã rơi xuống chỗ nào vậy? Nó rơi xuống cái bờ ao, nơi chị vợ bé của anh Bốn Thôi đêm khuya về chợ gặp người câu ếch nham nhở đó chăng? Xuống cái bìa rừng nơi Năm Cán Vá vẫn lén lút hẹn hò đó chăng? Xuống gốc cây mù u, nơi chị Bốn Chìa Vôi đã bắt trọn ổ bốn con sáo sậu năm nào đó chăng? Nó rơi xuống chỗ cây bồ kết sau nhà Bái Công, nơi chiều chiều ông lão gầy đét như que canh giữ ngọn lửa chập chờn nấu nồi cháo nuôi mấy con heo đó chăng? Ai mà nghĩ được rằng những chỗ như thế lại có dịp đón một chiếc phản lực đến từ nước Hoa Kỳ!

Trận chiến xảy ra giữa một bên là biển người với một bên là những phương tiện tối tân như thế đã làm chết chừng bao nhiêu? 360, hay năm trăm, hay sáu trăm? Ấy là những con số chính thức. Về phần bà con địa phương chạy loạn đây đó, gặp nhau họ lắc đầu lè lưỡi: “Lần này dám tới cả ngàn — Ngàn mà được hả? Chính mắt tôi trông thấy... Lạy Trời Phật, thôi đừng bao giờ nhắc tới.”

Con số chính thức với con số không chính thức có khác nhau, phần sai không hẳn ở phía bà con địa phương đâu. Có số xác địch đếm được, có số xác địch không đếm được, xác chôn giấm chôn giúi; có số chết ở chiến trường, có số nhắm mắt ở những căn hầm, những ngôi nhà, những lều trại tạm làm trạm cấp cứu; có những số gục ngã ở đồi cây khe suối vì phi pháo, vì bom của phi cơ chiến lược v.v..., có những số thiệt hại còn lâu mới kiểm điểm được, hoặc có thể không bao giờ kiểm điểm cho chính xác được. Nhà nước chỉ đếm xác địch ở nơi nào nhà nước đã kiểm soát, còn dân chúng chạy đôn chạy đáo thì chứng kiến khắp cùng. Cho nên — lạy Trời Phật — những điều người dân trông thấy mới lại càng bội phần thê thảm. Và thê thảm nữa là không phải chỉ có địch chết mà thôi. Ở Phù Mỹ cũng như ở Hoài Ân, Tam Quan, ở Hoài Nhơn, Hội Đức v.v... ai nấy đã rõ một khi Sao Vàng đến thì sự tai ương ra sao: bao nhiêu cán bộ và vợ con cán bộ, tóm được là tiêu diệt...

Sau những ngày như thế, còn gì đâu nữa ở làng? ở những xóm làng hiền lành với “dừa cao lỏng khỏng cành xoan ngòng ngoèo”!

°

Câu chuyện xác địch xác ta khiến tôi nghĩ đến những điều nghe thấy trong một bữa ăn với người làng trước đây một năm.

Hôm đó, về Qui Nhơn, tôi đang đi trên một con đường ở khu Sáu bỗng nghe gọi lớn: “Chú Hai!” Tôi giật mình quay lại. Trông anh Hai Cư — tức anh Ấm Sứt — bấy giờ có vẻ mừng rỡ thực tình. Chúng tôi không có tình bà con, nhưng người làng với nhau đã bảy tám năm cách mặt, bỗng nhiên gặp nhau giữa lúc gia đình anh Ấm có niềm vui lớn: Mừng rỡ là phải.

Anh Ấm kéo tôi vào nhà để cùng mừng với anh: Đứa con trai duy nhất của anh vừa thi đậu vào lớp đệ thất trường công lập, hôm ấy anh cúng cháo, đãi đằng bà con. “May ơi là may! Với lại tuy cháu nó yếu đuối, nhưng được cái Trời cho khiếu thông minh.” Anh Ấm tíu tít một cách khiêm tốn như thế. Cảnh nhà không đông đảo náo nhiệt bằng, nhưng cái hớn hở của người nhà thì tôi chắc chắn là trội hơn cái hớn hở ngày anh mở tiệc khao làng trước đó hăm lăm năm, vào dịp anh được tập ấm, miễn sai.

Anh Ấm bỏ làng ra tỉnh hồi nào, tôi không hay. Anh đang làm gì để sinh sống, tôi cũng không rõ. Tôi bắt đầu bằng câu khen ngợi về khiếu thông minh trời cho của cậu bé, rồi về ngôi nhà sạch sẽ xinh xắn của anh Ấm. Xong, hỏi thăm đến sinh kế.

- Khá lắm, chú Hai. Anh Ấm bây giờ thành ra có nghề.

Vừa nói câu ấy là một người đã có tuổi, quấn chiếc khăn lông quanh cổ, tay bưng một ly rượu thuốc. Người ấy ngừng ly rượu trước vành môi, hất mặt về phía tôi nói tiếp:

- Làm thợ đấy.

Tôi hớn hở:

- Thế à? Anh ấy học nghề từ bao giờ? Mà thợ gì vậy?

- Thợ vịn.

Xung quanh tôi, tiếng cười nổ vang ầm ĩ, cởi mở. Anh Ấm thì vẫn một vẻ bẽn lẽn, y như ngày nào bị bà con chòm xóm đặt cho cái tên Ấm Sứt.

“Thợ vịn” là một chuyện buồn cười. Và mọi người cùng cười, để chế giễu cả anh Ấm lẫn người Mỹ. Số là bỏ làng bỏ ruộng ra đi, anh Ấm đến chỗ phố xá thị tứ thoạt tiên đâu có biết làm gì để sinh sống. Sau đó, có người tốt bụng giới thiệu anh vào làm sở Mỹ. Mỹ thuê thợ cất doanh trại. Anh Ấm nương tựa vào sự dìu dắt che chở của bạn bè, anh làm thứ “thợ” đặc biệt: người ta xây tường thì anh đưa hồ, người ta lợp nhà anh quăng ngói, người ta đóng trần anh vịn chân thang, người ta cất giàn thì anh đỡ cây gỗ v.v... Và anh “Ấm-thợ-vịn” vẫn được Mỹ tính giờ trả lương khá hậu, để anh nuôi con ăn học và xây dựng nhà cửa khang trang. Đám bà con tụ tập ở nhà anh Ấm hôm ấy nhấp rượu mừng cho tiền đồ đứa trẻ, rồi cười ngất tiếp tục những khám phá đầy hào hứng thích thú về người Mỹ.

Bà cụ thân sinh ra anh Ấm bắt gặp cái nhìn dò hỏi của tôi về phía người thực khách quấn khăn lông, bà cụ thì thào: Đó chính là ân nhân của gia đình, là người tốt bụng đã tìm việc làm cho anh Ấm. Ông ta không phải người làng, tôi không quen biết là phải. Ngay đối với anh Ấm, thực ra ông ta cũng không hẳn là quen biết: chỉ là người cùng quận, cùng lánh nạn, thế thôi, nhưng ông ta tốt bụng. Bà cụ thấp giọng:

- Tội nghiệp, người thế mà con cái không may.

- Không may ra sao?

- Có thằng con lớn vừa mới chết tháng trước.

- Đau sao vậy bác?

- Đi lính, đóng đồn. Ở ngoài nó cối vô, trúng chết đó mà.

- Nó...cối?

- Ừa... Còn thằng con trai nhỏ, chưa vợ con gì, thì lại cũng gặp rủi ro năm ngoái. Đang lui cui trong vườn, hai bên đánh nhau, trong đồn câu ra, trúng chết.

Đến đây, tôi chợt hiểu: Có lần tôi đã được nghe nói đến một người chết vì “mọt thụt”. Moọc-chê tức súng cối. “Cối vào” hay “mọt thụt”, cùng nghĩa như nhau. Còn “câu ra” cũng lại nói về một hoạt động của trọng pháo nữa. Thế là hai đứa con trai của ông bạn nọ, kẻ làm lính trong đồn người làm dân ngoài đồn, kẻ chết vì đạn cối vào người chết vì đạn câu ra. Như vậy gọi là hai cái chết ở hai bên trận tuyến!

Ông bạn tốt bụng lại ngừng ly rượu ngang môi, hai tai ngờ vực dường như loáng thoáng theo dõi câu chuyện của bà cụ. Chúng tôi nghĩ nên đổi ngay đề tài, tránh những kỷ niệm đau buồn. Và tôi hỏi anh Ấm về trường hợp khiến anh bỏ làng về tỉnh.

Anh kể rằng hồi năm 66 anh đang còn làm ăn ở làng. Một hôm, xế chiều, “Lực lượng” phái người về tập hợp tất cả đàn ông trai tráng, phân thành đội ngũ rồi dẫn đi. Thoạt đầu, họ đưa về phía núi, ngừng lại dọc đường, cho học tập, rồi lại đi. Trời vừa xẩm tối, họ dẫn chạy vội vã, ngược lại, về phía quốc lộ số 1. Thì ra lúc đầu họ muốn đánh lạc sự theo dõi của dân làng.

Đêm ấy anh Ấm Sứt cùng với những “dân công chiến trường” khác được bố trí cách trận địa non cây số. Hễ có thương binh đưa đến thì họ khiêng chạy. Chạy đến đâu? — Cái đó đã được học tập kỹ càng: Họ chỉ cần theo dấu hiệu. Trên bờ ruộng, tại mỗi ngả ba ngả tư, đã có sẵn những thẻ tre đặt ngửa; phơi bề ruột lên. Trong đêm tối, ruột tre màu trắng là dấu hiệu dẫn đường.

Vào khoảng một giờ sáng, trận chiến bùng nổ. Cho đến hai giờ rưỡi, các đội tản thương hoạt động có qui củ. Tới ba giờ rưỡi thì “Lực lượng” bị áp đảo mạnh; xe tăng, máy bay tấn công ào ạt, tới tấp, hàng ngũ “Lực lượng” rối bời, tán loạn. Anh Ấm Sứt hôm đó chạy trối chết. Anh chạy đến đâu, tưởng như phi cơ gầm rít chận đầu đến đó. Dĩ nhiên, anh không chạy theo dấu thẻ tre. Cũng vì vậy, năm hôm sau anh tìm cách mang mẹ già và vợ con về quận, rồi về tỉnh.

- Từ đó tới giờ anh chưa có dịp “học tập” thêm điều gì mới chứ?

Mọi người lại nghí ngố, lại cười ầm lên với những nhận xét đầy hào hứng thích thú về “Lực lượng”.

Trước, học tập về những thẻ tre lật ngửa ruột, anh Ấm Sứt đã có sự đóng góp dù không đến nơi đến chốn vào hoạt động “giải phóng”. Bây giờ, là thợ vịn, hẳn nhiên anh đang đóng góp một bàn tay dù vụng về vào công cuộc tạo dựng căn cứ của người Mỹ. Hoặc năm trước anh gục ngã trên một bờ ruộng nào đó, hoặc nay mai anh bị banh thây vì một quả mìn nổ chậm của đặc công chẳng hạn: một anh Ấm có thể bỏ thây ở hai bên trận tuyến. Trước là xác địch, sau là xác ta. Đố ai biết nơi anh trước sau có sự thay đổi gì trong “lập trường”? Cũng như giữa hai cậu con trai của ông bạn tốt bụng khăn lông quấn cổ, kẻ chết do cối người chết do câu, đố ai biết được giữa địch ấy và ta ấy có gì khác nhau trong “tư tưởng”?

Nhưng không phải vì lẽ không tìm được sự khác nhau mà bà con trong làng không giết nhau, không chết kỹ. Giết nhau thật hung tợn, chết thật thê thảm.

°

Có phen tôi đã ngượng ngùng hổ thẹn vì sự hung tợn ở quê mình.

Hồi đó, hồi tháng tư năm ngoái, có vài tờ nhật báo phanh phui ra một vụ động trời. Ở xã nọ một viên xã phó xử tử nhiều dân làng, trong số có cả những đứa trẻ chưa tới mười bảy tuổi. Trong thiên điều tra rùng rợn, viên xã phó được mô tả là hung thần. Hung thần, tên Ngô Xuân H..., đã bị tóm cổ, chắc chắn sẽ bị đền tội v.v...

Xã nọ, tôi biết: cách làng tôi không xa. Nhưng còn Ngô Xuân H... là ai vậy cà? Dù kẻ gây tội không là thân thuộc, một tội ác quái gở như vậy xảy ra sát cạnh làng quê cũng làm tôi cảm thấy liên lụy. Tôi lo lắng, hỏi quanh hỏi quất. Rốt cuộc, hôm ấy anh Ấm cho biết:

- Năm Hà đấy mà.

- Năm Hà? Ủa, anh ta tên Ngô Xuân H... đấy hả? Năm Hà có mụ vợ...

Tôi còn đang tìm một cách nói thì anh Ấm đã xác nhận:

- Thì đấy, thì đấy.

Hóa ra đó là hung thần, ai mà biết! Hồi nào tới giờ bà con làng nước vẫn quen gọi là Năm Hà, và cái tên ấy có độ làm nở nhiều nụ cười ở chỗ địa phương. Về phần anh ta, Năm Hà không có vẻ gì hài hước, cũng không hay cười cợt. Trái lại, anh ta trông khổ não. Người gầy choắt và đen, khuôn mặt hóp lại: hồi hai mươi tuổi, tưởng chừng anh ta đã già tự bao giờ. Tôi không nghe anh Năm ho hen gì, không hiểu sao anh ta lạc giọng, tắt tiếng: nói khàn khàn, gần như không phát ra âm.

Tôi không biết con người xấu xí nọ đã cưới được chị vợ ấy trong trường hợp nào. Chị Năm không hẳn là một cô gái đẹp. Nhưng hồi nhỏ, trông chị ngon lành. Chị khỏe mạnh, ngồn ngộn. Da thịt chị nõn nà, ửng hồng. Da thịt ấy như sáng lên, như hớn hở.

Không ai có thể bảo một chị vợ như thế là một điều bất hạnh đeo bên mình. Tuy nhiên người ta có cảm tưởng một chị vợ như thế từ khi về với anh Năm Hà thì hóa ra một động lực thôi thúc đun đẩy anh đến nhiều cố gắng mới, khiến anh thêm vất vả. Thật vậy, không có chị có lẽ anh vẫn thủ phận cày cuốc cặm cụi; có chị tự dưng anh Năm bỏ công chăm sóc đến sự ăn mặc hơn, lại tự dưng phát sinh một vài tham vọng, không chịu lép vế đối với bạn bè trong làng xã. Bấy giờ là thời kháng chiến, anh Năm đi làm cán bộ, đi hội đi họp, tham gia công tác xã hội, công tác chính trị v.v... Dù phát âm khó khăn, sau nhiều cố gắng anh cũng thành công về mặt ngôn luận, cũng thường được chú ý về sự phát biểu tại các hội nghị.

Lối nói của anh có sự kiểu cách riêng: Tiếng “chuẩn” ở địa phương thường đọc sai ra “chửng”, anh Năm thì sửa giọng cẩn thận và đọc là “chẩng”: “chẩng bị” sang tổng phản công chẳng hạn. Anh đặc biệt thích chữ “xuyên qua”: “Xuyên qua” các ý kiến vừa phát biểu tôi nhận thấy..., “xuyên qua” lời trình bày của chủ tọa hình như có sự mâu thuẫn v.v...

Nhà anh cán bộ Năm Hà tất nhiên có nhiều dịp tiếp đãi cán bộ các cấp. Một độ, có một trung đoàn đến trú đóng tại địa phương, và một đại đội trưởng ở trọ nhà anh Năm. Ít lâu, anh nghe có lời thì thầm về những liên hệ giữa chị Năm với cấp chỉ huy quân sự nọ. “Xuyên qua” kết quả dò la quan sát, anh Năm Hà thấy có nhiều lý do ngờ vực.

Một hôm, giữa trưa, anh từ ngoài đồng về bất thình lình, trông thấy cửa buồng đóng kín. Anh lắng tai nghe: có tiếng động bên trong. Anh Năm Hà choáng váng, bỗng nhiên đâm quýnh, vừa thấy mình cần phải có một hành động lại vừa không biết mình phải làm gì. Bất giác anh áp mặt vào cánh cửa, cố nhìn qua một khe hở. Không trông thấy được gì: khe cửa nhỏ quá. Anh xoay trở, nghiêng đầu sang bên này, ngoẻo sang bên kia. Cuối cùng anh trông thấy. Chỉ thấy được một khoảng nhỏ xíu thôi. Anh Năm Hà thấy một bàn chân đàn bà đang nằm, bàn chân của chị ấy. Trên mặt chiếu, bàn chân xuôi xuống, cố hết sức chúc mũi xuống, như kiễng chân nhón gót. Bốn ngón chân quắp xuống, còn ngón chân cái thì rướn cong lên. Nó rướn cong, ôi chao, quá sức nó, làm nổi cao một sợi gân. Trời, ngón chân cái, nó rướn cong như cái đuôi con chuột trong cơn hấp hối, bị kẹp nát đầu trong chiếc bẩy, cái đuôi oằn lên trước khi con vật chết hẳn... Anh Năm Hà cuống cuồng, run bấn. Cái gì vậy? Trước mặt anh, ngón chân cái oằn lên... Anh Năm Hà nghẹn cứng ngang cổ, không thở được nữa. Cuối cùng, cổ phát ra một tiếng hực, rồi nước mắt anh tuôn ra...

Sự việc hôm đó đưa tới nhiều rắc rối, và cuộc đời cán bộ của anh Năm gặp trở ngại. Anh Năm nản lòng về sự hoạt động chính trị.

Mãi mười năm sau, dưới chế độ khác, anh mới lại ra làm việc làng trong hoàn cảnh bất đắc dĩ. Bấy giờ anh đã là một người đàn ông đứng tuổi, lam lũ, cùn mằn. Lúc ấy tình hình an ninh ở địa phương rất tồi tệ, nhiều thôn không có ai làm trưởng ấp, quận trưởng phải chỉ định một trung sĩ địa phương quân làm trưởng ấp. Vào năm 66, 67 gì đó, một chủ tịch xã có chủ trương mới. Ông ta xin quận cho lập trưởng ấp dân sự, từ chối quân quản. Được quận chấp thuận, ông ta về từng thôn, tập họp dân chúng lại, nói: “Tôi biết quân quản không tốt, vì một số ấp trưởng quân nhân đã hoành hành phá phách, thất nhân tâm. Vậy xin đồng bào đề cử người tín nhiệm ra làm trưởng ấp. Nếu không có ai ra làm việc, hoặc không có ai đề cử, bắt buộc phải tiếp tục chế độ quân quản, bấy giờ đừng có ai trách tôi không nghĩ đến quyền lợi và nguyện vọng đồng bào.”

Ấp trưởng được bầu cử ở những địa phương thiếu an ninh như thế thường thường hoặc là cộng sản, thân cộng, hoặc lưng chừng, khiếp nhược, hoặc khù khờ, vô tích sự. Anh Năm Hà đã được dân chúng chọn làm một ấp trưởng, không rõ anh thuộc hạng nào trong các thành phần kể trên.

Về phần ông chủ tịch xã, ông ta chỉ chú trọng đến hạng cộng sản và thân cộng. Ông ta đã có kế hoạch đối phó. Thỉnh thoảng quận có thủ tiêu một số đặc công nguy hiểm. Những lần như vậy, chủ tịch xã điều đình với quận trưởng: Buổi chiều, cho gọi ấp trưởng cầm súng chỉ huy một toán nghĩa quân áp giải nạn nhân về ấp trước mắt dân làng; tối đến, có tiếng súng nổ; sáng ra, gọi dân đi chôn xác. Như thế, dẫu cho ấp trưởng thoạt tiên có là tay sai cộng sản đi nữa, dần dà cũng bị chúng ngờ vực. Sợ hãi, ấp trưởng ngã về phía chính phủ, chạy về xã, về quận để nương tựa. Họ xác nhận sự ngờ vực của cộng sản, họ bị chúng đeo đuổi, đe dọa: do đó họ càng quyết liệt chống trả để giữ mạng sống.

Anh Năm Hà là một ấp trưởng như thế. Anh bám riết vào việc làng việc xã; sau một thời gian, anh được thăng lên xã phó phụ trách an ninh.

Và tình hình an ninh, ở chỗ địa phương anh, thì không hề sáng sủa thêm. Chung quanh anh, cộng sản đầy dẫy. Hành quân đến, chúng trốn chạy tan biến; hành quân xong, chúng lại xuất hiện, khủng bố. Có lần, chín giờ mai, ba tên kéo đến văn phòng xã quất một băng AK, ném hai trái lựu đạn. Lần khác, nửa đêm, hai tên ập vào nhà, tóm được anh Năm, lôi đi; giữa đường, anh thoát chạy, chỉ bị một phát đạn làm gãy mất cánh tay trái. Lại có lần khác nữa, chúng cho trẻ con đặt mìn trong ngăn kéo bàn giấy của anh; chúng phục kích anh ở một khúc đường vắng, gần nhà v.v...

Trung đội nghĩa quân sống chết với anh suốt mấy năm hao hụt đã quá nửa, riêng anh thì tàn phế. Anh với họ không ngớt tả xông hữu đột để giành lấy mạng sống. Anh rình rập, bắn giết, anh bắt, anh xử v.v... Trong số nạn nhân của anh, đàn ông có, đàn bà có, trẻ con cũng có. Trong nguy hiểm, anh phản ứng quyết liệt, có lẽ bừa bãi. Trong cảnh sống hỗn loạn, anh xài thứ luật rừng.

Anh Năm đã may mắn sống còn, đã vượt qua ba năm kinh khủng nhất. Đến khi an ninh được vãn hồi, trục lộ giao thông đã an toàn, xe lớn xe nhỏ đã chạy về tới xã, cán bộ từ tỉnh từ quận đã lui tới, đầu tháng một phái đoàn cuối tháng một phái đoàn thượng cấp về thăm cơ sở v.v... Lúc bấy giờ bèn có thiên điều tra, có vụ truy tố.

Anh Năm Hà bèn hóa ra một hung thần quái gở, ghê tởm trước dư luận.

Hãy tưởng tượng anh Năm trước tòa. Xấu xí, khù khờ, người quắt queo, má hóp, tay cụt, kỳ hình dị dạng như anh, đứng giữa cảnh uy nghiêm của pháp đình, giữa những quan tòa và trạng sư trang trọng, chỉnh tề, giữa đám ký giả phóng viên nhanh nhẹn hoạt bát v.v..., anh sẽ gây nên cảm tưởng thảm hại và gớm ghiếc biết bao về một hung thần. Được lôi từ một làng quê hóc hiểm như thế, từ một hoàn cảnh tranh sống man rợ như thế, ra chỗ đô thị văn minh, đặt trước sự hạch hỏi phán xét của luật pháp tinh vi, anh sẽ cuống quít biết chừng nào. Lý lịch của anh sao mà kỳ cục, đáng ngờ: lúc phục vụ bên này lúc lại hoạt động cho bên kia; thái độ, hành tung mập mờ, khó hiểu, mâu thuẫn...

Và con người xấu xí, bí hiểm, hung ác đó lù lù giữa tòa, đang nghiền ngẫm những gì trong đầu óc tối tăm của anh ta? Anh đang nghĩ đến một cuộc phục kích ban đêm? một vụ hạ sát ban ngày? đến phát đạn cắt cụt cánh tay ngày nào? đến ngón chân của chị vợ năm xưa? Anh ta đang nhớ đến làng xóm, đến khu vườn do tổ phụ di lưu? đến những “dừa cao lỏng khỏng cành xoan ngòng ngoèo” đó chăng?

“Xuyên qua” một cuộc đời ngổn ngang như cuộc đời của anh có thiếu gì điều để anh suy nghĩ, nhưng tất nhiên anh không thể suy nghĩ về những lập luận để đối đáp bào chữa trước tòa. Sức mấy! Anh mong gì ngo ngoe nổi trước pháp luật? Hung thần khiếp hãi, trông lên các quan tòa: những vị thông minh, tuấn tú, có vị trẻ măng, mơn mởn, tất cả đều đường hoàng, chững chạc, tất cả thuộc về một thế giới khác. Mà quả họ đến từ một thế giới khác, họ có đời sống khác hẳn của anh. Trong khi anh Năm Hà lặn ngụp trong sắt máu, trong cảnh giết chóc dã man, thì những vị đó lớn lên ở những đô thị an lành, học ở những trường đại học trong nước hay ngoài nước, nghiên cứu về luật pháp, về phép trị nước, về nguồn gốc các chế độ dân chủ v.v... Nơi xảy ra giết chóc hỗn loạn dã man không phải là nơi nghiên cứu, không liên quan gì đến các vị ấy. Chỉ đến bao giờ có sự thái bình, hết hỗn loạn hiểm nguy, thì các vị đó trở về, lại nắm quyền cai trị, để khiến phép nước được tôn trọng, để đem sự hiểu biết rành rẽ về hành chánh ra ứng dụng và dạy dỗ những cán bộ hạ tầng khờ khạo, đem luật pháp ra xét xử những lầm lỗi bấy lâu v.v...

Và anh Năm Hà, lầm lỗi chất chồng đầy đầu, bấy giờ hẳn là run lên. Một lúc nào đó, đến tột cùng của khiếp hãi, chắc chắn anh sẽ hức lên một tiếng, và nước mắt tuôn trào.

Anh đã không chịu rời bỏ làng, nên ra nông nỗi. Hung thần sẽ đền tội. Đó là phận của anh.

Còn chị Năm? Ở làng, trong những ngày hãi hùng đầu tháng sáu này, chị còn? chị mất? Nếu mất, chị chết vì đạn cối vào hay vì đạn câu ra? thân chị được kể làm xác ta hay xác địch?

°

Những ngày hãi hùng đầu tháng sáu, nghĩ đến làng, tôi thấy sao mà làng càng xa, càng đầy bí ẩn. Chỉ biết nhớ làng, không “thấy làng đâu”, cũng không mong “hiểu nổi làng đâu”.

6 - 1972

Chú thích:

1 Sau này, đọc hồi ký Yến Lan, nhớ mãi về anh của Nguyễn Thị Lan (tức bà Yến Lan), được biết bài ‘Nhớ làng’ viết ở Thanh Hóa (nơi Yến Lan đang dạy học) vào năm 1942. Như vậy thi sĩ trông cảnh làng ở tỉnh Thanh mà nhớ làng mình. (Ghi chú năm 2005 — V.P.).

2 Năm 1972 (Ghi chú năm 2001 — V.P.).

Hạt Bọt Trà

Dịch thể ngạnh ngọc bào”: tôi lấy làm suy nghĩ về chữ “bào” rất nhiều.

Ca tụng cái bọt của chất nước ngọc? Trà là nước ngọc? Tốt lắm, nhưng còn chút bọt kia, nó giữ vai trò gì ở đây? Ai cũng biết trong chén trà Tàu bé bằng hạt mít, bậc đài các chỉ thưởng thức cái hương và cái vị của một hớp nước mà thôi. Làm gì có bọt bèo trong đó? Bọt bèo rườm rà cũng không có cả trong chén trà bột của người Nhật. Vả lại dù có dăm ba hạt bọt, thì đó đâu phải là một yếu tố làm nên giá trị của trà? Nói đến làm gì?

“Khát uống trà mai hương ngọt ngọt,

Giấc nằm hiên nguyệt gió hiu hiu.”

Đó, nói như cụ Trạng Trình thế là đúng điệu: Thưởng trà, khách tao nhân chú trọng nhất cái hương.

Còn ham trà đến như ông Lư Đồng, uống trà mà ngon trớn đến như ông ta — làm luôn một hơi bảy chén, đến nỗi gió dậy dưới nách ào ào 1 — thế mà Lư Đồng cũng không một lần đề cập đến bọt trà.

Có thể ngờ rằng những hạt bọt trong chén trà Tàu đã tan đi từ mười lăm thế kỷ rồi. Các lối uống trà khuấy (mạt trà) thịnh hành ở Nhật Bản, hay trà ngâm (diệp trà, tiễn trà, yêm trà) như ở Trung Hoa từ đời Minh về sau, đều không đếm xỉa đến bọt. Họa chăng hạt bọt được quí chuộng vào thời kỳ xa xưa của trà bánh (đoàn trà) nấu với đủ các món gia vị lủng củng, nào gừng, nào hành, nào vỏ quít, nào muối đó chăng?

Dẫu sao một hạt bọt trà dính trong câu thơ Tàu lưu lạc từ hơn nghìn năm xưa quả không đủ sức làm dâng lên sự suy tưởng trong một trí óc nặng nề. Sở dĩ tôi đã đâm ra nghĩ ngợi chỉ vì những hạt bọt nọ còn dính trên mớ râu của một ông cụ người cùng làng, cách đây không lâu.

°

Trong chỗ dân dã ở thôn quê miền Trung, người ta gọi nó là Chè, mà không gọi là Trà. Uống Trà Tàu là cái thú của hạng giàu sang; người bình dân thì uống Chè Huế.

Trà Tàu, pha theo lối Tàu. Chè Huế nấu lối Huế. Lối Huế không giống lối nấu chè tươi hay chè khô ngoài Bắc. Từ Huế, lần vào các tỉnh nam Trung phần, lối nấu chắc chắn cũng có thay đổi ít nhiều; vì vậy các quán nước chè bên đường ngoài Huế thường thấy có một chai nước cốt trữ sẵn, món đó không hề có ở vùng Nam Ngãi Bình Phú...

Trong bếp của mọi gia đình ngoài Trung đều có đủ hai món đồ gốm dùng để nấu nước: cái ấm và cái om. Om dùng cho chè Huế.

Chiếc om, hình thù nó như một trái sim lớn: nó tròn quay và miệng loe ra (như tai sim). Vì om không có quai như ấm, như nồi, siêu, xoong, chảo v.v... cho nên để nhắc nó người ta không thể dùng đôi đũa bếp: phải dùng cái cặp.

Cặp om là một thanh tre cật, dài non sải tay, uốn cong gập làm đôi, vòng cong vừa ôm khít chỗ eo của miệng om.

Có om có cặp, thế là đủ. Bỏ một vốc lá chè khô vào om, đổ nước vào, nổi lửa lên. Nước sôi, sắp trào ra, thì lập tức chế thêm tí nước lã vào để trấn nó xuống. Một chốc nó lại sôi bồng lên: lại tí nước lã nữa. Ba bận, bốn bận như thế... Cần nhất phải kiên nhẫn: lửa không nên cháy hỗn quá, nước chế thêm không nên nhiều quá, mỗi lần chút ít thôi. Có thế chè pha ra bát mới tốt bọt được.

Chè nấu xong đến chuyện pha nước. Bát bày sẵn bên bếp, trước tiên cho vào bát độ sáu bảy phần mười nước lạnh. Xong, dùng cây cặp nhắc om lên, rót nước chè sôi vào bát cho đến đầy.

A! Cái công việc rót nước ấy là cả một nghệ thuật đấy. Hạ om thấp quá thì bát chè ít bọt: đưa lên cao quá thì sẽ làm nổi lên những quả bong bóng to tướng. Bát nước kém bọt là hỏng, đã đành. Mà bọt nổi bong bóng lớn cũng là chuyện vụng về mà người nội trợ tự trọng phải cố tránh. Kẻ pha nước thông thạo biết chọn đúng cao độ cho om nước, biết rót xuống một dòng nước vừa phải, không nghiêng trút mạnh quá khiến bọt không tụ được, lại còn biết di động miệng om để phân phối bọt cho đều khắp, biết ngắt dòng nước đúng lúc để rồi rót thêm chỗ này một chút chỗ kia một tí, bổ di kịp thời vào những khoảng trống không đẹp mắt v.v... Đến khi mọi sự đã viên thành, kẻ ấy gặc miệng om một cái trước khi ngừng tay, biểu diễn sự hài lòng trong cử chỉ chấm dứt.

Bát nước ngon lành phải thật nhiều bọt, đầy bọt, bọt hầu như phủ kín mặt nước, thứ bọt dẻo quánh lại, và nhỏ hạt.

Pha một bát nước vừa ý rồi mà phải đứa bé bưng nước không cẩn thận cũng đáng bực mình lắm. Bưng bát nước đầy thế nào từ dưới bếp lên đến nhà trên trao cho ông khách mà bọt không sánh ra ngoài, mà mặt nước không dao động đến nỗi làm vỡ bọt: được thế mới gọi là không phụ công phu kẻ nấu và pha nước.

Đến đây đã rõ: Bao nhiêu công phu như đều dồn vào một chủ đích: “... ngạnh ngọc bào”.

°

Ông khách đón nhận bát nước, bưng trên tay, nhìn vào đám bọt tràn trề sung mãn mà không cầm lòng được. Bọt nước long lanh rạng rỡ phản chiếu khuôn mặt khách, lặp lại một vạn lần cái rạng rỡ ánh lên trong mắt khách. Nghịch ngợm, khiêu khích nhau đến thế thì không chịu được. Khách cúi đầu, chọn lựa một điểm thế thích nghi, chúm miệng thổi nhẹ để xua đuổi lũ bọt nước tránh giạt ra, dọn một khoảng trống vừa đủ chỗ đặt môi. (Dĩ nhiên, không một ai tính chuyện đớp mớ bọt nọ vào bụng!)

Bị đuổi, lũ bọt vội vàng vẹt tránh ngay. Nhưng hễ khách vừa nhúng môi xuống thì tất cả bọn chúng liền ập tới, bám riết quanh mép. Mực nước càng xuống thấp chúng càng rủ nhau kéo đến dồn dập, chen nhau lấn nhau, vỡ nổ lèo xèo trên môi trên mép của khách.

Có thể khách không hay biết về những gì xảy đến cho lũ bọt: Khách đang ngon trớn mà. Và tất cả sự khoái thích của việc uống chè Huế là ở trong cái trớn ấy.

Bát nước đã có lót đến sáu, bảy phần nước lạnh cho nên pha đầy nước dù đang sôi vào nó vẫn không quá nóng. Nó không như chén trà Tàu. Nó chỉ nóng vừa đủ cái độ khiến khách có thể uống ồng ộc một hơi, uống luôn không dừng, không ngẩng mặt lên, không rời môi khỏi miệng bát, cho đến cạn bát mới thôi. Mà bát chè Huế thì phải biết nó là những thứ bát khổng lồ. Hồi tiền chiến, người ta dùng bát Bài Thơ, bát Con Rồng: Một bàn tay xòe rộng chỉ che vừa miệng bát. Trong thời kháng chiến, nhiều gia đình thiếu thốn phải dùng đến những cái “vùa” đất: vùa chỉ thua bát ở nước men chứ kích thước không thua sút tí nào. Bởi vậy cái ngon của trà Tàu là cái ngon tiểu vẻ của hạng phong lưu đài các, cái ngon cầu kỳ kiểu cách của một chút vị ngọt ở chót lưỡi, chút hương thoảng qua mũi v.v...; còn cái ngon của chè Huế thì phàm tục thô bạo hơn, nhưng nó là cái ngon khỏe mạnh, thích hợp với bản chất nông dân lao động.

Trà Tàu để nhấp từng tí, là thứ trà của sự suy tưởng mơ màng. Còn chè Huế, không ai uống nó mà uống từng hớp rời. Đã tợp vào là cứ thế thừa thắng xông lên ào ào, cứ ráo riết dồn dập cho đến cùng.

Mà đến tận cùng một bát Con Rồng thì bảy chén trà con của Lư Đồng thấm vào đâu. Khách mà uống xong một bát chè Huế thì — theo ngôn từ nhà thơ Trung Hoa — dưới mỗi bên nách tất phải nổi lồng lên một trận bão. Và — theo cái lối mệnh danh của thời đại — có thể dưới nách bên này là một trận Hélène, bên kia là Jackie chẳng hạn.

Uống chè như vậy đâu đến nỗi vô vị?

°

Ở chỗ thôn quê nghèo nàn ngoài Trung, trong cái xã hội của hạng sống lam lụ quanh mình, tôi chưa được nghe câu chuyện nào liên quan đến cái giới uống trà Tàu. Đây đó chỉ nghe toàn những giai thoại về chè Huế. Anh Ba Càng Cua mỗi sáng nhất định phải điểm tâm một bát thật đậm rồi mới ra đồng cày bừa được, mà hễ đã uống nước rồi là khỏi cần ăn; ông Tư và ông Tam Khoang vẫn cầm cự nhau suốt ba mươi năm nay: ông này mỗi lần hai bát thì ông kia cũng vẫn giữ vững đủ hai bát mỗi lần; ở làng nọ có người uống một lượt đến ba bát Bài Thơ; thôn kia có ông lão hai bát gặp được chàng trai hai bát rưỡi, lấy làm khoái, gả ngay con gái cưng cho v.v... Lại cũng không hiếm những câu truyền tụng về các bậc dị nhân ở tổng này huyện nọ uống một mạch hoặc bốn bát, năm bát nước, hoặc cả om nước, hoặc nửa vò nước v.v..., nhưng tôi ngờ rằng những chuyện đó thuộc về huyền thoại.

Dầu sao trong thôn dã có huyền thoại về chè om, về anh hùng chè lá, thì đủ biết om chè đã có địa vị nào đó trong cuộc sống tinh thần của dân gian.

Riêng đối với ông Tam Khoang, nó có vai trò trong cuộc đời tình cảm. Cũng như phần đông các tay cao thủ chè om, ông Tam Khoang có vóc người dềnh dàng, lực lưỡng. Trong chỗ xa tít nhất của ký ức tôi, ông đã có hai chòm râu mép. Ngày nay, trên bảy mươi tuổi già, ông cụ bạc trắng cả râu mép lẫn râu cằm.

Hồi tôi còn nhỏ, mỗi lần ông đến nhà, tôi thường lãnh việc bưng nước để được xem ông uống. Ông thong thả, chững chạc, trông không có vẻ gì là một người đang khát. Bưng tô nước lên tay, bao giờ ông cũng ngừng lại ngắm qua một chút để đánh giá; nếu có đàn bà trong nhà ngồi gần đâu đấy, ông không quên bình phẩm vắn tắt vài lời. Rồi thì bắt đầu: từ từ, không chút vội vã, ông uống cạn một bát, bình thản chờ đợi, rồi lại uống cạn một bát khác... Khi ông Tam Khoang ngẩng đầu lên lần thứ hai thì rất nhiều bọt trắng đã đeo lấy hai vệt râu mép. Tôi thích chí, chỉ chỏ: ông nở một nụ cười hiền lành, đưa tay áo quệt ngang một cái, rồi dùng hai ngón tay — ngón cái và ngón trỏ — vẹt sửa lại bộ râu.

Tôi chắc chắn không có một lần uống nào ông không bị lũ bọt chè quấy rầy bộ râu ấy; nhưng cũng không có lần nào đối với chúng ông không có cử chỉ khoan hòa.

Trước con mắt trẻ thơ của tôi bấy giờ, một con người đã thực hiện cái kỳ công là nuốt trọn hai bát nước to tướng như thế, với một vẻ vừa đĩnh đạc khả kính lại vừa giản dị khiêm nhường như thế, có vẻ đẹp riêng. Tôi ao ước mơ tưởng một ngày nào đó trong đời có thể học được cái phép làm một dị nhân từ tốn độ lượng kiểu ấy, để cho lũ bạn bè chúng nó lác mắt ra, vừa kinh hãi vừa cảm phục trong lòng. Cho đến ngày nay thì tôi đã chắc chắn đến mười phần là trọn đời mình không sao có được cái phép lạ ấy trong khi ông Tam Khoang vẫn đều đều mỗi ngày tái diễn ba bốn lần.

Do đó, tôi hoàn toàn cảm thông cái tâm sự của bà Tư. Bà có người chồng xuất sắc: ông Tư có tài uống một hơi hai bát chè. Nhưng bà không cầm lòng được trước phong thái của ông Tam Khoang. Từ hơn ba mươi năm trước, trong chỗ chòm xóm với nhau người ta thường gặp ông Tam Khoang đến chơi nhà ông Tư, chủ khách mỗi đàng hai bát nước xong, mặt mày thỏa thuê tươi rạng, đàng nào lặng lẽ mân mê ve vuốt râu mép của đàng ấy... Tất nhiên không phải là một cuộc đấu râu. Đây là sự gặp gỡ của hai kẻ đàn ông nơi lòng mến mộ của một người đàn bà.

Đối với mối tình tay ba ấy bà con làng xóm không có lời chỉ trích nghiêm khắc, chỉ có những giễu cợt khúc khích. Mối tình cứ thế kéo dài suốt ba, bốn chế độ chính trị, suốt đôi ba mươi năm ly loạn.

Cho đến ba năm trước đây thì xảy ra một biến cố: gia đình ông Tam Khoang quyết định tản cư lên tỉnh lỵ, gia đình ông Tư ở lại làng.

Thật là tan tác, bi ai. Tuy nhiên rồi sau đó người ta thấy rõ lòng người vẫn thắng nghịch cảnh: đôi ba tháng một lần ông Tam Khoang tìm được dịp về làng, ghé chơi nhà ông Tư.

Ghé chơi ông Tư, một mặt công khai chủ khách hể hả uống bốn bát nước chè, một mặt kín đáo ông Tam Khoang giúi cho bà Tư hoặc một xấp lãnh nhuộm đen bằng mặc nưa ở biên giới, hoặc một cái quần xa-teng Mỹ A v.v... Chỗ tỉnh lỵ coi vậy mà có lắm sáng kiến cung cấp cho ông nhiều lý do chính đáng để ông quyết định những chuyến về làng mạo hiểm. (Phải, đã ra tỉnh lại trở về làng là một chuyện nguy hiểm mà đám con cháu ông Tam Khoang tìm mọi cách để can ngăn.)

Ông Tam Khoang mạo hiểm hơn một năm trời như thế rồi thì rốt cuộc gia đình ông Tư cũng dọn lên tỉnh. Lại đề huề, lại sum vầy.

Ôi, cái cảnh sum vầy mới ngộ nghĩnh làm sao. Trong chuyến gặp nhau gần đây nhất, tôi được biết bây giờ giữa hai ông cụ có sự khắng khít như chưa bao giờ mật thiết đến thế: không ngày nào ông Tam Khoang không có mặt tại nhà ông Tư đủ hai buổi sớm chiều.

Có thể giải thích rằng trong cảnh xa lạc xóm làng những cụ già bơ vơ giữa đô thị thường tìm đến nhau như tìm về dĩ vãng của mình. Nhưng lý do cụ thể hơn hết, lý do sờ mó được, ấy là chiếc om chè.

Đúng thế, cách đây nửa năm, chiếc om nhà ông Tam Khoang bị vỡ, và ông không thể tìm mua ở đâu cho được chiếc om khác thay thế. Om đất bây giờ đã biến mất trên thị trường. Om đất đã chết không kèn không trống, không một lời báo trước; vì vậy không ai được biết để mà phòng bị, tích trữ. Và một người đã uống chè Huế hơn nửa thế kỷ như ông Tam Khoang chẳng lẽ nay lại đi nấu chè trong cái niêu đồng? Vậy sự hiện diện thường trực của ông tại nhà ông Tư là một sự chính đáng.

Trong những ngày cuối cùng của cuộc sống, mặc dù cảnh đời ly loạn, hai ông cụ vẫn tiếp tục ngày ngày cúi xuống thổi những tảng bọt ngon lành nổi trên bát nước trao lên từ đôi bàn tay thân yêu nhăn nheo: cứ như thế họ hưởng hạnh phúc. Tôi hỏi thăm:

- Thưa, các cụ vẫn uống được hai bát như xưa...

Hai ông cụ tranh nhau đáp:

- Cám ơn ông Hai. Nhờ trời vẫn đủ hai bát mỗi lần.

Trên môi ông Tam Khoang nở một nụ cười kín đáo, man mác. Tuy vậy người ta cũng nhận thấy về già ông mất đi cái khiêm nhường đáng yêu của một người tự tin: về già — dù kín đáo — ông lại không giấu được một chút kiêu hãnh.

°

Sự mất tích của chiếc om đất không chỉ có tác dụng làm khắng khít một mối tình già. Tôi lo rằng sự mất tích ấy cũng có thể gây ra đôi điều không hay.

Không phải các dân tộc nhất thiết phải gìn giữ mãi mãi các phong tục ăn uống. Trong lịch sử, người Trung Hoa đã lần lượt trải qua những cách uống trà khác nhau hoàn toàn; có sao đâu? Lại còn nhờ thế mà họ tiến được đến những bình trà Thiết Quan Âm, Bạch Mao Hầu v.v... danh tiếng ngày nay, chắc chắn là hơn hẳn món trà uống với muối gừng xưa kia.

Nhưng trong trường hợp của chè Huế, dường như đây không phải là một biến chuyển để tiến tới. Trái lại.

Đất Bình Định từng ghi được nhiều thành tích về trà. Trong cuốn sách viết về chỗ quê hương, thi sĩ Quách Tấn có nói đến thứ khổ trà ở miền An Lão Hoài Ân, thứ trà quí được vua chúa thích một thời. Trong đoạn hồi ký về chuyến ghé Nam kỳ năm 1778, một nhà hàng hải người Anh tên Chapman đã chú ý đến ngành buôn bán trà đang hồi cực thịnh tại đây: từ hải cảng Qui Nhơn cho đến hoàng thành của Nguyễn Nhạc, dọc đường nơi nào cũng thấy những cửa tiệm bán trà.

Có lẽ cả thứ trà dâng cho vua Nguyễn Gia Miêu cũng như thứ trà thịnh phát dưới triều Nguyễn Tây Sơn đều là trà pha chế lối Tàu. Còn chè Huế sau này thì không còn ai dâng vua, cũng không hề được bày bán trong tiệm: người ta chỉ bán chè Huế ở chợ, hay bán rong dạo xóm dạo làng...

Thời của trà vua chúa đã qua, đến thời của chè om cho dân dã, cũng được chứ sao. Nhưng bây giờ om cặp lại mất tích, rồi sắp hóa sinh ra thứ chè gì nữa đây? Cứ sự thể này thì hình như chè om tính đi luôn vào lịch sử không để lại thừa kế, không lưu vết tích. Thay thế cho nước chè, rồi sẽ có những thứ khác, thiếu gì. Các người làm văn hóa dân tộc đang ngậm ống nhựa hút tùn tụt những ly pepsi, coca v.v... không thấy đó sao? Thật tốt, thật hợp vệ sinh.

Có điều một người Nhật Bản, ông Okakura Kakuzo, đã mỉa mai nhẹ nhàng một vị huấn cổ học giả đời Minh bên Tàu khi ông này lúng túng không biết giải thích thế nào về hình dáng chiếc “trà tiễn” được nói đến trong một tác phẩm đời Tống. Sự lúng túng ấy gần mang ý nghĩa sỉ nhục, khi một bậc trí thức Trung Hoa quên mất cả phong tục tập quán của dân tộc mình sau một thời gian bị quân Mông Cổ cai trị.

“Trà tiễn” là món có công dụng rõ rệt mà người đời còn quên nó, huống hồ “trà bào”! Thật vậy, cái om, cái cặp, và đặc biệt là cái bọt chè, rất có thể là những tai họa cho các vị huấn cổ học giả nước nhà trong tương lai. Năm ba mươi năm sau, nói đến sự thích thú trước một bát nước chè đầy bọt thì còn hiểu thế quái nào được? thì các bậc học giả dám ngẩn tò te lắm chứ.

Trà tiễn để mà khuấy, chứ còn bọt chè dùng để làm gì? Không uống được, không ngửi được, không nếm được v.v... nó thành ra cả một sự bí hiểm, một sự thách đố đối với các nhà nghiên cứu. Ẩm giả yêu bọt chỉ vì bọt sao chớ? Cũng như nghệ thuật vị nghệ thuật vậy sao?

Bởi thế, trước khi bọt chè tan vỡ tiêu tùng hết, nên có đôi lời ghi chép về chút chuyện bọt bèo.

12 - 1972

Chú thích:

1 “Thất uyển khiết bất đắc, duy giác lưỡng dịch tập tập thanh phong sinh” (Trà ca).

Mùa Xuân, Con Én

Mùa xuân con én đưa thoi”

Nguyễn Du

Người ta vẫn có một cách chăm sóc các giống vật bằng... từ ngữ. Được chăm chút thì con heo còn là con lợn, trong loài có heo nái, heo nọc, heo lứa v.v...; con bò sinh ra con bê, con nghé v.v... Xa cách cuộc sống con người, như công như nai..., đâu có được hưởng nhiều từ ngữ đến thế.

Có chú ý đến mới có nhiều phân biệt, có phân biệt mới cần đặt ra nhiều tiếng gọi. Nếu sự thực quả có vậy thì con én ở ta đáng thương quá chừng: người Việt Nam không quan tâm đến nó chút nào.

Con sâu cái kiến đều có tên, nhưng con én không có tên gọi. Mãi đến khi tiếp xúc với dân tộc Trung Hoa, ta mới mượn của họ chữ yến mà gọi bừa đi.

Bừa thực chứ: con hirondelle, con sterne, con salangane v.v... của người Pháp, đối với ta đều là én tất. Về sau này, loài chim trắng có, vàng có, nâu có, loài serin, canari theo tiếng Pháp, đối với ta cũng là yến nữa! “Én”, “yến” tuốt hết, bất cần phân biệt.

Người Tàu, đối với con yến, họ có những lối gọi mô tả: huyền điểu, du ba điểu, ất điểu. “Con chim đen”, “con chim giỡn sóng”, “con chim bay lăng quăng”. Không yêu nó, không theo dõi hình dáng, màu sắc, điệu bay của nó với con mắt âu yếm thì không thể có những tên gọi như vậy.

Còn chúng ta, đáng “yêu” như cái tổ yến mà chúng ta cũng không thèm “chi” cho một từ ngữ. “Yến sào”, người Tàu gọi sao ta gọi vậy, thế thôi. Ta cứ gỡ bán đều đều, cứ xơi đều đều, mà không cần gọi tên.

Một cái tên gọi cũng không có, cho nên con én ở xứ ta chẳng được tìm hiểu bao nhiêu.

“Mùa xuân con én đưa thoi”. Nhà thơ nói vậy là nói về con én bên Tàu. Ở xứ lạnh, mùa rét én đi mùa ấm én về; chứ còn ta mùa nào mà chẳng có én quanh mình? Ở các bờ biển Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa, người ta gỡ tổ yến đợt chót cho đến cuối tháng bảy âm lịch mới xong.

Én ăn gì, ta cũng không biết. Ta gọi một thứ én muỗi, một thứ én... cỏ! Có người bảo nó ăn rau câu ngoài bể, cho nên tổ nó giống như kết bằng rau câu. Có người bảo nó ăn bọt bể. Lại không biết có người nào đó thuyết phục ông cố Alexandre de Rhodes rằng con én Khánh Hòa nó tìm hút nhựa cây trầm hương, cho nên tổ của nó thơm tho! Vất vả thay con én Khánh Hòa!

Cái ăn đã thế, cái chết của én càng bí mật. Những người thợ lấy tổ yến, sống chín tháng mỗi năm ngoài đảo cô quạnh, từ năm này sang năm khác, đều ngơ ngác hỏi nhau: Én nó chết ở đâu nhỉ? Những con én già nó xuống nước trở về làm bọt nước chăng? Nó lên trời theo ông Thiên Vương Phù Đổng chăng? Không ai ăn thịt én, sao mà cũng chẳng ai thấy xác én? Họa hoằn mới có một con én chết vì tai nạn bên tổ, thì xác nó không rữa không thối mà khô đét lại như xác ướp các ông vua Ai-cập: cái gì lạ vậy?

Thế rồi lại còn giấc ngủ của loài én. Có ai trông thấy một con én nhác nhớn ngủ vào giờ nào chăng? Những người làm nghề giữ tổ yến, bóc tổ yến, sống với yến nhiều năm vẫn bảo rằng yến làm tổ ríu ra ríu rít suốt đêm, còn ban ngày nó bay vụt ra ngoài khơi biền biệt.

Chim đêm là nó, chim ngày cũng là nó. Nó sống vội sống vã. “Bỉnh chúc dạ du”, nhà thơ có ý thức nhất về cái ngắn ngủi của kiếp sống cũng không vội vã hơn con én.

Cái ăn cái bay của loài én đã làm tôi khoái nó muốn chết hồi thơ ấu.

Trên ruộng lúa tháng ba vừa cắt xong, không biết én nó tìm đớp con muỗi con mòng hay con sâu con bọ gì mà nó bay thật thấp, nó ngoặc những đường tới lui thật bất ngờ. Trông én bay chừng vài ba chục con như thế, nó rộn ràng, vui không chịu được: đứa trẻ tiếc mình không cánh, nôn nao cả ruột gan. Én nó bay ngang tầm tay, hay thấp dưới đầu gối, từ xa nó lao tới như muốn đâm ngay vào bụng mình, đột nhiên nó lách qua một bên. Lúc nào đứa trẻ cũng tưởng có thể chộp lấy một con én dễ như chơi, nên múa tay khoa chân lung tung, nhưng dĩ nhiên không bao giờ xảy ra cái chuyện hoang đường trẻ bắt én bằng tay không giữa đồng! Không có đâu.

Dù không bắt được cũng không giận được. Đứa trẻ bị én nó trêu chọc vẫn có cảm tình với loài chim trời duy nhất biết đùa giỡn, nghịch ngợm, “chịu chơi”.

Bay hình chữ ất là bay một cách đáng yêu như thế.

Đến như giờ giấc sinh hoạt của én, về sau này lớn lên, đi đây đi đó, tôi không ngớt ngạc nhiên.

Sau một ngày đường vất vả, đến một thành phố lạ, bạn vất hành lý ở lữ xá, dạo xem mấy đường phố qua loa, ăn tối, rồi đánh một giấc li bì. Nếu tại lữ điếm, dưới mái ngói mà có một đàn én, thì cái lúc thức giấc của bạn vào buổi sáng hôm sau sẽ là tuyệt vời.

Đêm lữ thứ mà gặp nhà trọ nuôi bồ câu, thì mờ sáng khách sẽ rầu thúi ruột về cái tiếng rì rầm, đùng đục, cái lối âu yếm rầu rĩ, làm hỏng cả buổi bình minh. Trái lại, tiếng én kêu là cả một sự tưng bừng. “Chrirr... chrirr...” Én kêu như thể ta chụp mạnh tay xuống một con chút chít, đệm không khí vồng lên, dội lên, rung rung. Như thứ lò-xo âm thanh khua rung không gian.

Năm giờ, năm rưỡi. Một lúc nào đó, trời hãy còn tối, nhưng én nó đã bắt được tin vui, đã chộp được dấu hiệu bình minh. Thế là “chrirr.. chrirr...” Ban đầu thưa thớt một con én, vài con én kêu. Rồi mỗi lúc sự hưởng ứng mỗi rộng rãi, khắp trời.

Bạn xô một cánh cửa sổ, nhìn ra: Vẫn còn tối. Trên bầu trời hãy còn tinh tú nhấp nháy, không thể phân biệt tăm dạng một bóng chim nào, tất nhiên càng không thể trông thấy một dáng én tí tẹo. Nhìn xuống phố xá hãy còn vắng tanh. Bất quá ở một bãi đất trống, ở một góc đường, thơ thẩn mấy con chó con mèo... Thế mà én đã rộn ràng.

Thế rồi, một lát sau, sinh hoạt thành phố mới bắt đầu bằng tiếng rao hàng của mấy đứa trẻ: “Mì nóng đây! Mì ngọt, mì lạt!”, bằng bóng người chệt già lom khom đạp chiếc xe, miệng hít mạnh một khói thuốc cho ấm, chở đi không biết món hàng cồng kềnh gì sau poọc-ba-ga... Rồi tiếng xe gắn máy, tiếng cửa lùa mở từ đầu phố này đến cuối phố nọ... Thành phố đã tỉnh dậy, dưới đất.

Trên trời, én như được khuyến khích, như đắc thắng, càng ríu rít hơn. Bây giờ trên nền trời xanh bạc đã trông thấy những cánh én lao tới lao lui, rộn cả lên. Chrirr... Chrirr... nó cuống quít, nôn nao, rộn rực một niềm vui không chịu được, niềm vui rung lên trong tiếng kêu.

Nhào lộn ngoài trời một lát, lại có một con én bay vụt vào dưới mái ngói, đến sát bên cạnh tổ, nó chao qua chao lại, chập chờn cặp cánh nhọn như vẫy chào cái tổ rồi bay vụt đi. Nó không vào tổ, nó không đậu, không nghỉ, nhưng nó trở về, ghé chào, rồi ra đi. Không hiểu tại sao vậy.

Chỉ biết, đối với du khách, những tiếng kêu mừng như thế trong buổi bình minh, dáng én lao xao bên cửa sổ lúc mờ sáng, những cái ấy làm cho tách cà-phê uống đầu tiên, tô hủ tíu ăn trong bữa lót dạ đầu tiên ở thành phố lạ được thêm thú vị. Không sao? Trước niềm vui của đàn én, người khách vô tình nhất cũng không ngăn được một cảm tưởng lạc quan, yêu đời. Giữa đô thị, được đánh thức bằng tiếng chim như thế, trong không khí lành lạnh của tinh sương, khoác vội chiếc áo, xỏ chân vào dép, bước đi trong tiếng đôn đốc, giục giã của đàn én sớm, tìm gấp một quán cà-phê, mở con mắt không thành kiến ngơ ngác nhìn vào cái bắt đầu của một quang cảnh sinh hoạt mới lạ, như thể mở ra một cuốn sách mới mua về, mới đọc thử mấy trang... Như vậy chẳng cũng sướng sao?

°

Riêng phần tôi, tôi không quên được mấy chú én tiễn biệt lần đến chơi Hà Tiên cách đây hai năm.

Hôm rời Hà Tiên về, chúng tôi dậy thật sớm. Trời bên ngoài hãy còn tối, chúng tôi bật đèn trong phòng lên. Phòng ngủ trông ra bờ sông, bên kia sông là ngọn núi Tô Châu.

Chúng tôi còn đang xếp mấy món đồ vào va-li thì bỗng đâu một chú én lao vào mùng, đậu trên mép giường, nhìn ngơ ngác. Một chú rồi một chú khác, một chú nữa... Én vốn lanh lẹn; tôi không hiểu tính nết, tập quán của én ở đây nó ra làm sao mà khiến tôi bắt được rất dễ dàng mấy chú én trong phòng.

Lấy cặp ra, mở phẹc-mờ-tuya, bỏ én vào làm chút kỷ niệm.

Tám giờ sáng, bước xuống một chiếc giang tốc đỉnh, ngồi một lát tôi chợt nghe bên mình có tiếng lẹt sẹt kín đáo, rụt rè. Nhìn lại: thì là tiếng phát ra từ cái cặp da. À! Tôi nhớ ra hai chú én bị nhốt. Hẳn là hai chú muốn nhắc nhở điều gì. Tôi kéo phẹc-mờ-tuya hé ra một chút; trong ngăn cặp tối một cặp mắt long lanh, một cái đầu thò lên, dò hỏi. Không thấy tôi phản đối, chú én vụt lao ra. Một chú rồi hai chú.

Phải chứ, đến với nhau một chút cho vui vậy thôi. Khách đã lên đường, đây là lúc én trở về với núi Tô Châu chứ.

°

Tôi cũng không quên cái đêm ở Phan Thiết. Buổi chiều lỡ một chuyến bay, phải ở lại một đêm bất đắc dĩ với tất cả sự bồn chồn lo lắng về bao nhiêu công việc dở dang ở Sài Gòn.

Tôi trở về một phòng ngủ cũ kỹ bên bờ sông. Mới chạng vạng tối, én đã ré lên, rít lên quanh nhà. Tiếng kêu rối rít, điệu bay rối rít làm bấn loạn ruột gan.

Đêm đến, mười giờ, trời bắt đầu mưa. Kẻ lỡ tàu thao thức nghĩ đến căn bệnh của người thân trong gia đình đang còn nằm bệnh viện, nghĩ đến một tòa soạn đang chờ bài, đến một cuộc hẹn lỡ làng, một ngày kỵ giỗ gần kề, vài lời nói luống cuống đang ám ảnh mãi, gây cảm tưởng bất an khó chịu v.v... Bên ngoài, én vẫn ríu rít trong tiếng mưa đêm.

Vào khoảng một giờ sáng, mưa như ngớt tạnh, người đã mệt lả trong những nghĩ ngợi triền miên. Khoảng ba bốn giờ, mưa lại đổ nhẹ trên mái ngói. Và bên sông, trong mưa vẫn xen vào tiếng én.

Trời! Én nó thức làm gì mà đêm hôm khuya khoắt, và gió mưa dầm dề nó vẫn không ngừng kêu, mà tiếng chim luôn luôn lẽo đẽo quanh quẩn bên mối ưu tư của khách vậy? Mà nó thành ra một thứ bạn tâm tình cố thiết không rời nhau suốt năm canh dằng dặc của những khách lữ thứ bồn chồn thấp thỏm vậy? Việc kiếm sống của nó khó khăn đến thế sao? Một tinh thần nại khổ như vậy đáng được tưởng thưởng, ít ra bằng cái chất nhựa trầm hương thơm tho hiếm hoi của ông giáo sĩ Đắc Lộ mới được.

12 – 1973

Một Mùa Thu

Tôi cứ có cảm tưởng mãi năm nay mới gặp mùa thu đầu tiên trên đất Mỹ. Năm ngoái, đối với riêng mình, là một hoang mang bỡ ngỡ không ngày tháng, không mùa, không tiết. Trời bắt đầu chuyển lạnh lúc nào không hay; lá cây rừng đổ từ bao giờ không nhớ; quanh nhà, con chim nào là con chim mùa nắng, con nào là chim mùa đông giá cũng không rõ; sự xuất hiện cùng vắng thiếu của chúng, tôi không để ý đến... Chợt một hôm tuyết ở đâu bay lới phới đầy trời, mới hay là mình vừa đụng đầu với một sự bất thường.

Năm nay trời đất ở xứ này chưa hẳn đã là quen thuộc, tuy vậy sau một thời gian lân la gần gũi, kẻ vô tình nhất trong chúng ta có lẽ không thể không chú ý tới một ít thứ cây cỏ chim muông.

Chẳng hạn, hồi đầu mùa hè, có một độ chúng tôi lấy làm khó chịu về một thứ bông chẳng biết từ đâu cứ phất phơ giữa trời. Đang đi, chợt một tí bông tấp vào mũi. Chiều chiều, ra vườn dạo cho thoáng một chút, lúc mở cửa bước vào nhà, vợ ngạc nhiên thấy ta đội trên đầu mấy chòm trắng xóa. Ơ kìa, có là Ngũ Tử Tư chăng nữa thì cũng phải chờ qua một đêm mới kịp bạc đầu chứ, có đâu gấp gáp quá vậy? Quơ tay lên, vuốt xuống: thì ra lại là thứ bông ấy. Cây gì mà sản xuất ra thứ bông quái ác vậy cà?

Ra công tìm mãi, một hôm bắt gặp “thủ phạm”: cây cao lớn lạ thường, tàn lá sum suê, một mình nó đứng ngất nghểu giữa xóm cũng đủ phân phối mớ bông phơi phới nọ bay rải rác khắp một khu vực mấy con đường. Lá cây gần giống hệt lá bồ đề. Trái nhỏ, chỉ bằng đầu ngón tay; khi vỏ ngoài tách ra thì tỏa bông theo chiều gió. Bởi cái thứ bông đó, nó có tên là cotton-wood.

Trong khu phố có hồ Powderhorn, ngày ngày vào những giờ tốt nắng vẫn thường thơ thẩn dạo chơi. Một dạo, bỗng để ý thấy mặt hồ không được sạch sẽ. Thoạt tiên, tôi ngờ cho lũ vịt: đây là mùa vịt trời thay lông chăng? Gớm, chỉ chừng ấy con vịt, sao mà lông trôi lềnh bềnh đầy cả mặt hồ thế kia? Về sau, xem lại, thì ra vẫn là bông cotton-wood.

Bên hồ có rừng cây đồi cỏ xanh dờn. Thỉnh thoảng mang theo một ít thịt ướp sẵn và mấy lon la-de: thịt ướp với gia vị đông phương, nướng giữa trời, tỏa mùi thơm ngào ngạt, làm ngạc nhiên cả những người bạn Âu Mỹ cách xa hàng dăm bảy chục thước. Thức nhắm ấy, với la-de ấy, với cỏ cây nước đồi ấy, có thể tạm giải khuây được lắm. Miễn đừng có cotton-wood.

Thật vậy, cái gì mà trên mặt cỏ, suốt mấy tuần lễ liền, cứ đầy những bông lơ phơ; cái gì mà miếng thịt vừa lấy ra đặt trên lò đã có miếng bông tấp dính vào, ly nước vừa rót, ngoảnh qua ngoảnh lại đã có sợi bông đáp xuống...

Tóm lại, trong mùa hè đã nhiều lần bực mình, suýt nổi giận với cây cotton-wood. Ngoại trừ trường hợp nằm mà nhìn cái tàn cây của nó vào những lúc vắng gió. Vắng gió thì bao nhiêu thứ cây khác khắp đồi đều đứng sững, im phăng phắc, làm cho không khí hóa ngột ngạt. Những lúc ấy, cotton-wood không im: nó vẫn phất phới tàn lá lao xao.

Cotton-wood lá mỏng mà rộng, cuống lá mềm mà lại rất dài, thành thử nó luôn luôn chao động trong mỗi hơi gió nhẹ. Một chút xíu gió thoảng qua, cả rừng cây không biết đến, nhưng nó biết. Cả rừng cây im lặng, riêng nó lao xao. Nó như thể một xôn xao vô cớ, một niềm vui đơn độc. Thế này thì ra nó cũng có một nét đặc biệt không hẳn là dở.

Như thế cho đến một hôm vào trung tuần tháng chín dương lịch. Đang đi dọc bờ sông Mississippi, bỗng dừng chân, giật mình trước một cái gì thật rực rỡ: một cây cotton-wood vàng óng, đứng cheo leo giữa lưng chừng triền sông, trên một mỏm đá.

Tôi vừa nói “vàng óng”. Quả có thế. Cái màu vàng ấy không hề gợi đến chút ý nghĩa tàn phai nào cả. Dường như toàn thể tàn lá của cái cây cao lớn nọ đều vàng cả, vàng từ cái lá trên chót đỉnh cho đến chiếc lá thấp nhất. Lá vàng như con tằm chín mùi, vàng như tơ óng mướt. Ít ra là nhìn từ một khoảng cách.

Lần đầu tôi bắt gặp mùa thu ở xứ này. Tôi không phiền trách cây cotton-wood nữa.

°

Kể ra đem cái thể chất của một người từ miền Đông Nam Á sang đây mà nghe ngóng thời tiết thì nhiều lúc chẳng ra làm sao cả. Tháng nào là hạ, là thu? “Mát mẻ” đến mức nào là trời chớm thu? Thật bối rối!

Ngày 21 tháng 9 năm nay, theo lịch là ngày cuối cùng của mùa hè. Cùng ngày ấy tại miền bắc tiểu bang nghe đâu tuyết đổ cách Duluth chừng bốn chục dặm! Biết tới bao giờ cơ thể chúng ta mới làm quen, mới thông thạo dò dõi được bước đi của thời tiết ở cái xứ có tuyết mùa hè?

Họa chăng chỉ có cách theo dõi màu lá cây. Theo dư luận địa phương thì năm nay lá cây đổi màu sớm hơn thường lệ vì ảnh hưởng của hạn hán. Cho nên, những ngày đầu của hạ tuần tháng chín, từ cái hôm tuyết đổ nọ, các triền sông Mississippi, sông Saint Croix bày ra cảnh tượng tuyệt vời. Nhất là ở những khúc sông nào qui tụ nhiều cây phong.

Cây phong mùa thu quả thật là kỳ diệu. Các loại cây khác thường thường chuyển màu từ xanh ra vàng: thế cũng đã là hay, khi toàn cây cùng vàng, toàn rừng hay toàn một vạt rừng, một khoảng đồi, một khúc sông vàng rực lên. Nhưng phong thì nó không bằng lòng với cái đơn giản ấy. Cái chết của lá phong là cả một cuộc triển lãm màu sắc huy hoàng.

Vâng, lá phong cũng có màu vàng. Nhưng nó còn chuyển ra màu đỏ, màu hồng, màu cam, màu huỳnh thổ v.v... Trong đám có nhiều loại phong, mỗi thứ một màu, lại có cây đổi màu trước, có cây chuyển màu sau. Thành thử một đám phong vào mùa thu là một cảnh tượng lộng lẫy lắm màu.

Màu sắc của lá phong già cũng không mảy may gợi ý tàn úa, chết chóc. Đã vàng, thì vàng tươi vàng chói; đỏ thì đỏ rực, đỏ phơi phới, đỏ ửng lên như thể tràn đầy sinh lực.

Bông hoa mà hồng, mà vàng, chẳng qua nó chỉ hồng hay vàng lốm đốm. Lá phong già thì rực lên toàn cây, toàn vùng. Sao mà nó có thể tự xếp đặt cho mình một cái chết tưng bừng đến thế!

Đang len lách dạo trên những lối đi nhỏ hẹp, rậm rạp, sâu hút bên triền sông, chợt gặp một đám phong già, tự dưng như thể ánh sáng ùa tỏa trên đầu. Màu lá nọ tự nó tỏa sáng, tỏa hân hoan. Lá cây tỏa niềm hân hoan cuối cùng với những tia nắng rực rỡ cuối cùng của một năm. Một tuần lễ, hai tuần lễ sau, ta trở lại nơi này, có thể chẳng còn gặp lại lá cây nữa, chỉ còn toàn cành trơ đen thui.

Đang len lách dưới lối đi lưng chừng triền sông, nghe trên bờ sông có tiếng ồn ào, la hát nghêu ngao. Lần bước lên xem, thì ra là một đám nam nữ thanh niên cũng du ngoạn, cũng thưởng lãm phong cảnh, nhưng lúc này đang quây quần xung quanh một thùng la-de!

Mỗi người bỏ ra năm mươi xu, không phân biệt tửu lượng, và được cấp phát một chiếc ly nhựa. Thế là cứ việc uống, uống được bao nhiêu cứ uống. Uống cho ấm người, cho hứng chí, rồi nắm tay nhau, quàng vai nhau, tiếp tục lẩn vào rừng cây, tiến ra mép nước, nhìn sông, ngắm lá v.v... rồi nghêu ngao hát, rồi nằm xuống đệm lá nghỉ ngơi, mê mẩn. Hồi lâu lại có thể mang chiếc ly đi kiếm la-de nữa, để tiếp tục vui với cảnh thu giữa trời.

°

Giữa cảnh vật ấy, thỉnh thoảng Việt kiều gặp Việt kiều. Bà con nhìn nhau, thường thường cùng ngấm ngầm một cảm tưởng: “Tiếc quá! Thế này mà lại không phải là quê hương ta!”

Phải chi cảnh đẹp đẽ và thanh bình này mà “ở ta” cái thưởng ngoạn mới đậm đà ngây ngất đến đâu. “Ở ta” thì có cảnh lại có tình, có cái lộng lẫy của hiện tại lại còn có các kỷ niệm của quá khứ lẩn quất. Cho nên thú ngoạn cảnh mới càng thấm thía.

Còn như không “ở ta”, cảnh vật tự trình diễn trước những con mắt thán phục mà bỡ ngỡ. Trên bãi cỏ này, sườn đồi này, khúc sông kia, chúng ta chưa kịp có một kỷ niệm nào cả. Cho nên cảnh không có tình.

Đi trên bờ sông Mississippi, nghĩ tới Mark Twain. Nghe nói ông ta yêu sông Mississippi, tha thiết với sông, lấy một âm thanh từ cái sinh hoạt của hạng người làm ăn sinh sống trên sông mà làm bút hiệu. Còn chúng ta ngày nay, yêu sông chỉ biết giương mắt nhìn sông, chứ đã biết đâu đến cái sinh hoạt trên sông Mississippi, như biết giọng hò điệu hát trên sông Hương, sông Đồng Nai, sông Ông Đốc v.v... Yêu cảnh mà không biết đến cuộc sống trong khung cảnh ấy, làm sao yêu thắm thiết?

Thế nhưng, nghĩ đến một ngày kia, khi chúng ta đã thâm nhập vào cuộc sống xứ này đến cái độ không còn mỗi lúc mỗi hồi tưởng về những kỷ niệm ở quê hương... Có cái ngày ấy chăng? Dù sao, chỉ nghĩ tới đã thấy xót xa.

Minneapolis, 1976

Một Mùa Xuân An Lành

Vùng quê tôi thường có những mùa đông nghiệt ngã, không phải vì giá rét, nhưng là vì các trận bão lụt. Không mấy năm là ở miền Trung Việt Nam không gặp thiên tai, hoặc lớn hoặc nhỏ.

Tuy vậy, thường thường sau hạ tuần tháng mười âm lịch, ai nấy có thể an tâm. Tiền nhân dặn dò con cháu hãy cố gắng đề phòng một ngày hăm ba tháng mười 1. Thế rồi thôi. Sau đó, có thể bắt đầu nghĩ tí chút về các cuộc vui mùa xuân.

Trong kỷ niệm của tôi về những ngày thơ ấu miền quê, hội vui mùa xuân dính liền với... hột đậu phụng. Ở đây, người ta trỉa đậu vào tháng chạp. Cứ hễ bao giờ người lớn trong nhà tổ chức “lột đỗ” — tức bóc vỏ đậu phụng (để lấy hột đem trỉa) — là trẻ con có quyền hí hửng nghĩ tới chuyện ăn Tết. Vì thế, ngay trong công việc lột đỗ đã mơ hồ một không khí hội hè.

Khi đậu được xúc từng thúng từ trong bồ đem ra phân phát, mọi người trong gia đình, từ lớn đến bé ai nấy đều có phần của mình. Có kẻ nằm trên võng vừa đu đưa vừa lột đỗ; có người mang rổ ra vườn, tìm nơi thanh vắng mát mẻ, vừa lột đỗ vừa hát se sẽ, để trí theo đuổi những mơ mộng ân tình; có những ông bà cứ vừa bóp trái đỗ kêu cúc cắc, vừa lắng dõi theo sự trăn trở uể oải của vài mối ưu tư cũ kỹ đã mất sức phá phách; có những đám trẻ tụ tập ở một góc hè, vừa lột đỗ vừa tranh cãi sôi nổi về các chương trình vui chơi... Đối với tất cả, những tiếng cúc cắc, lách tách của vỏ đậu bị bóp vỡ đều ngầm một ý nghĩa hào hứng trong cái cảnh toàn gia nhất tề lao động.

Phải nhất tề như vậy là vì công việc gấp rút, hối hả. Có những năm chúng tôi trỉa đỗ đến chiều hăm chín, hay thậm chí cho đến ba mươi Tết. Tiếng vỏ đậu vỡ cúc cắc đuổi gấp đến sát Nguyên Đán. Lột đỗ là dọn đường cho Tết đến; không nhanh tay, không đồng lòng, e không kịp. Tiếng vỏ đậu vỡ lách tách đưa thẳng tới tiếng pháo nổ đì đoành. Lột đỗ vui là thế.

Người ta trỉa đậu phụng trên đất khô ráo. Người ta cũng chỉ có thể dựng chòi, đánh bài chòi giữa trời, vào một mùa thực tạnh ráo, ấm áp. Vì vậy cuối tháng chạp ở quê tôi đã hưởng cái khí hậu của mùa xuân.

Nửa đời người sống với thời tiết như thế, bỗng năm nay tôi đón cái Tết đầu tiên tại miền bắc Hoa Kỳ với chừng nửa thước tuyết trước thềm nhà, trong cái lạnh vào khoảng hăm lăm độ dưới không độ bách phân.

Đã từ hai tháng rưỡi, không hề thấy một giọt nước ở thể lỏng ngoài trời. Lại phải chờ thêm chừng nửa tháng nữa mới gặp được một trận mưa. Trời đã biết rơi nước lỏng xuống là đã biết cố gắng để trở nên quen thuộc, tôi mừng thầm. Nhưng sự cố gắng cũng chỉ làm nổi một trận mưa mà thôi. Rồi lại tuyết giá mịt mù.

Tháng giêng đã trôi qua trọn vẹn, vẫn chẳng thấy tăm dạng mùa xuân đâu cả. Cơ sự này thì hỏng quá! Không Tết thì chẳng ra làm sao: mới vừa ra khỏi nước đã quên ngay tục lệ. Mà có tổ chức Nguyên Đán giữa cái hoang tàn khốc liệt của mùa đông, giữa cảnh chết chóc tàn rụi của mọi loài thảo mộc dưới bầu trời thê lương này, thì chẳng hóa ra là muốn chế giễu cái ý nghĩa đổi mới, khởi đầu, của một ngày hội dân tộc sao?

Hôm hai mươi tháng ba dương lịch, nghe loáng thoáng tiếng reo vui của người xung quanh kêu rằng mùa xuân đã bắt đầu. Nhưng thực ra nó chỉ mới bắt đầu trên tờ lịch. Mãi tận cuối tháng, tuyết mới chịu tan cho.

Nhưng đâu dám thấy vậy mà yên tâm? Ban đêm hàn độ vẫn quanh quẩn bên cạnh số không, và mãi tới đầu tháng năm dương lịch hãy còn đổ một trận tuyết lớn lê thê suốt ngày.

Tháng năm dương lịch tức là tháng tư âm lịch rồi đấy: “Thiều quang chín chục đã ngoài... chín mươi” rồi, còn chờ đến bao giờ mới được trông thấy mùa xuân, hả trời?

°

Không phải chỉ có người (đặc biệt là người tị nạn), mà cây cỏ hình như cũng lấy làm sốt ruột lắm. Chúng không thể nào tung hoa, tung lá ra dưới tuyết; nhưng chúng nô nức chuẩn bị, ráo riết chuẩn bị: ở mỗi đầu cành không biết từ bao giờ đã tích sẵn một cái nụ. Từ những bụi cây lè tè bên rào cho đến những cây cao lớn trên đồi, ven đường, trong rừng v.v... tất cả đều ở tư thế sẵn sàng.

Nụ lá cứ mỗi ngày mỗi lớn, rồi cương tròn, rồi mọng lên. Chúng không thể nào chờ đợi được nữa. Chúng như những giọt nước tụ ở đuôi tranh trước hiên, như những giọt cà-phê rưng rưng dưới rá phin: sắp vỡ, sắp rụng đến nơi.

Có phải vì sự chờ đợi trong một dồn nén kéo dài như thế mà hoa lá ở xứ này nở rộ trong cảnh chụp giựt, như thể tranh nhau, lấn nhau? Trời vừa ấm mấy hôm, đầu tuần nụ lá vừa hé mở, cuối tuần đã thấy cây xanh dờn, đến tuần sau khắp thành phố um tùm rậm rạp. Hoa nở rộ, rồi cũng tàn nhanh. Tuyết vừa tan, ở ven tường đã thấy có tí lá xanh lấp ló như vẫn rình sẵn từ lúc nào. Thế rồi ta chưa kịp để ý tới, một buổi sáng bỗng nhiên hoa tím hoa vàng ở đâu phọt lên tùm lum. Hỏi ra thì là Johnny-jump-up 2 đó! Tính danh sao mà ngộ nghĩnh. Bé Johnny nghịch ngợm, chợt nhảy cỡn rồi chợt biến mất! Dăm mười hôm sau, quanh tường hoa uất-kim-hương (tulip) khoe đủ màu sặc sỡ.

Ven rào, trong công viên, ở ven rừng, vẫn có thứ cây không cao lớn nhưng sum suê, hoa lá ửng một màu hồng rực rỡ. Giữa đám cây xanh nhạt có đậm có, nó điểm vào một màu khác lạ vui mắt, nó in xuống mặt hồ những cái bóng lộng lẫy, nó gợi nhớ hình ảnh hoa anh đào làm rực một phương trời. Thứ bông huy hoàng ấy — bông crabapple — cũng chỉ rực lên một vài tuần lễ gì đó rồi xìu xuống, lặn mất.

Hình như bây giờ đến lượt hoa tử đinh hương (lilac). Gọi là tử, kỳ thực tím có, trắng có, xanh nhạt có...; lá nó khiến nhớ đến lá của cây bông giấy ở quê nhà, mà hoa nó cũng lắm màu như hoa giấy. Lúc tử đinh hương hết hoa thì bên rào lại trắng xóa hoa spirea rập rờn trong gió.

Cứ thế, hết đợt nọ đến đợt kia, các giống hoa xô đẩy nhau, dồn nhau, đuổi nhau trong một cuộc trình diễn gấp gáp. Phải chứ, thì giờ đâu mà nhẩn nha?

°

Cái hôm mà bé Johnny nhảy cỡn ở ven tường, tôi hứng chí chụp vội chiếc mũ lên đầu, đi tung tăng một hồi, để hứng đón lấy tia nắng ấm đầu tiên của năm.

Đi ngang qua công viên trước trường Mỹ Thuật, chợt chùn bước sững sờ trước thế nằm của dăm ba cô sinh viên trên sân cỏ, cái thế nằm không tha thứ được ở một người con gái Việt Nam trước mắt công chúng. Chẳng qua các cô sinh viên nọ muốn cho tất cả các bộ phận trong người đều được hưởng ánh dương, cái ánh dương ấm áp, quý báu đã vắng mặt từ sáu tháng qua.

Về nhà, trong trí hãy còn lởn vởn mấy ý nghĩ phàn nàn về cái phong cách vừa mục kích, tôi vén một lá màn cửa cho sáng sủa thì... Ô kìa! Qua khung cửa sổ, trông thẳng sang nhà láng giềng, thấy ngay một cô gái, gần trọn người lồ lộ, nằm tênh hênh phơi nắng... trên mái nhà!

Nhà đôi ba tầng trong xóm có những chỗ nhô ra một mái hiên con con. Và nàng trải chăn, thoát y, tận hưởng ánh dương quang hàng giờ hàng buổi cách mặt đất cả chục thước tây như thế; cả khu phố không ai là không thể trông thấy. Quanh nàng một con mèo mướp thơ thẩn. Trên tàn cây du gần đấy, một con sóc nhảy từ cành nọ sang cành kia...

Thế rồi, nắng càng rực rỡ, phơi phóng càng nhiều. Hoặc khênh giường, hoặc trải chăn, hoặc khuân nệm ra vườn, ra bãi cỏ trước nhà, hoặc ra bờ hồ, trên sườn đồi v.v... Cởi ra mà phơi.

Ngẫm nghĩ có hôm khách Mỹ đến nhà gặp ta chưa kịp thay bộ đồ bà ba, khách lẫn lộn bà ba với py-gia-ma, lấy làm khó chịu. Ở trong nhà mặc quần áo, kín từ cổ tới chân, mà hóa ra thất lễ; trong khi giữa công chúng phơi gần trọn người thì là đủ... lễ! Trong trận cãi vã lao nhao giữa các nền văn hóa, có những cái oái oăm kỳ cục.

°

Nửa đời người bỗng lạc loài đến nơi xa lạ, đón một cái tết không còn ra tết, nhưng tôi lại được hưởng một cảnh xuân tuy muộn mà thật huy hoàng.

Bởi vì đến muộn, đến trong sự đợi chờ sốt ruột, đến sau một mùa giá rét khắc nghiệt, cho nên mùa xuân càng tưng bừng, càng làm cho say sưa, ngây ngất.

Ai nấy quý từng tia nắng. Trai trẻ, hễ ngoài giờ làm việc học hành là tuôn tràn ra sân thể thao, ra sông hồ, đồi suối v.v... Nếu không chơi banh, chèo thuyền, thì người ta câu cá. Có người lái xe đi hàng trăm dặm để câu, có kẻ lấy vé máy bay sang tận Gia-nã-đại để câu (mặc dù ngay tại tiểu bang này có hơn một vạn cái hồ). Câu xong, hoặc gỡ từng con cá khỏi lưỡi câu, vứt trả xuống nước ngay tại chỗ, hoặc mang về cho bạn cho bè. Câu lấy vui hơn là lấy ăn. Câu để có cớ hoạt động mà chạy hết hồ nọ sang sông kia. Nắng lên tự dưng kiếm cớ mà chạy quanh chạy quẩn, thế thôi. Còn các ông già bà cả không tung tăng được, cũng dắt díu nhau ra khỏi các nhà dưỡng lão, kẻ còn đứng nổi trên hai chân thì tình nguyện đẩy xe cho người cùng kiệt, họ nối nhau lũ lượt dạo quanh dăm ba nẻo đường.

À, đã thế trời cũng không hẹp hòi. Đã thích nắng thì cho thỏa thích: mới năm giờ rưỡi mặt trời đã mọc, nghĩa là từ năm giờ chân trời đã hừng sáng. Thế rồi mãi gần chín giờ đêm, mặt trời mới chịu lặn. Tám rưỡi tối, vài con sáo siêng năng hãy còn thơ thẩn trước sân cỏ.

Trời đã hậu đãi những ngày dài mười sáu giờ, một kẻ từ xứ nhiệt đới đến dù không ham phơi phóng, dù không có được mấy thứ cần phơi như các cô gái nõn nà xứ này, tôi cũng không đành nằm nhà giữa một mùa đẹp như thế. Suốt ngày lang thang, thơ thẩn, phất phơ bên các dòng nước, ngồi mỏi rồi lại nằm dim mắt dưới bóng cây...

Cụ Tiên Điền chịu cái “mầu quan san” của loài cây phong về mùa thu; uy tín lớn lao của cụ khiến cây phong mùa xuân chịu thiệt thòi. Thực ra cái màu (không phải là quan san) của cây hồng phong vào tháng tư dương lịch cũng hay lắm: hoa vàng nhạt, lá đỏ gắt, đỏ đậm, hoa nhiều hơn lá. Thế rồi cứ theo thời gian lá rậm dần, lớn dần, chuyển dần ra màu xanh; hoa thì tàn dần. Cho đến giữa tháng năm, tàn cây hùng vĩ với vô vàn những trái cánh đôi, đứng giữa các loài cây khác vẫn giữ một vẻ độc đáo, trông chẳng giống ai.

Cụ Tiên Điền thì thiên về mùa thu, mà thi hào Lý Bạch lại thiên về cái lá:

“Minh triêu quải phàm khứ

Phong diệp lạc phân phân”

(Dựng buồm mai sáng thẳng dong,

Tơi bời rơi rụng lá phong ven bờ)

Giả sử họ Lý không phải dong buồm trên sông thu, mà một ngày xuân nào đó nhân lúc quá chén nằm thiu thiu dưới bóng cây trên đồi, chợt thức giấc trong ngọn gió mát, mở mắt trước cái cảnh trái phong, muôn vạn cánh phong khô xoay tít trong gió, tản mạn đầy trời..., tôi chắc họ Lý cũng không chê đâu.

Cái cảnh trái phong bay loạn lên như thế, nó là cả một hội vui giữa không gian, là sự tưng bừng của nắng gió giữa trời. Nhất là ở nơi Thủ-Phủ-Nước 3 này, tôi đã chờ suốt chín tháng mà không trông thấy một con bướm, ở một nơi như thế lấy gì làm linh động không gian nếu không có điệu múa may của những cánh phong?

°

Tôi vừa đề nghị với họ Lý một lối thưởng xuân lười lĩnh có thể làm chướng mắt người Mỹ hiếu động. Về phần mình, đành thú thực những giờ biếng nhác lơ mơ trên cỏ dưới cây là những giờ thích thú nhất trong mùa xuân này, mùa xuân đầu tiên của cuộc đời lưu lạc.

Trải qua những xáo trộn dữ dội về tinh thần của năm qua, trải qua một mùa đông tù hãm vừa rồi, tôi thẩn thơ trong nắng ấm, thần trí khật khừ, như một kẻ vừa ốm dậy, nhưng bao nhiêu giác quan lại đê mê trong khung cảnh diễm ảo.

Xứ sở này đẹp đẽ quá, thanh bình an lạc quá. Và đôi khi đang trông nắng lao xao trên lá, lấp loáng trên nước, nghe tiếng chim hót lanh lảnh, chợt sững sờ: Kìa! Không phải mình đang hưởng một mùa xuân an lành nhất từ ba mươi năm qua đây sao?

Quả thực là an lành. Từ ngày lớn lên trên đất nước quê hương, có bao giờ như năm nay, được đón xuân mà không lo lắng về những trận tấn công, phản công, về những kế hoạch, sách lược, cao điểm, những biến cố hoặc chính trị, hoặc kinh tế, hoặc quân sự đang rình rập đâu đó? Bây giờ thì... khỏi hẳn!

Từ nay về sau, mùa xuân nó không còn tự liên hệ với hạt đậu phụng, cũng không liên hệ với chính sách, kế hoạch, cao điểm nào nữa. Nó liên hệ với cái gì? Với thằng Johnny nhảy cỡn chăng? với sự phơi phóng chăng? Không biết. Dù sao tất cả những thứ sau này đều không gây ra thảm trạng, âu lo.

Đất nước tôi đã chọn những nẻo đoạn trường, nó sẽ tiếp tục đi những nẻo đoạn trường. Xuân này, xuân tới, và bao nhiêu xuân nữa, đồng bào tôi sẽ còn lo lắng, đảo điên: những cuộc nổi dậy, những vụ đàn áp, những thanh trừng, sửa sai, chuyển hướng, thi đua, nhảy vọt v.v... Riêng mình đã bị đánh văng ra ngoài vòng. Từ nay riêng mình chỉ có những mùa xuân an lành. An lành một cách xót xa.

Nhận thức ấy làm cho cuộc đời bỗng trở nên trống huếch trống hoác. Trống kinh khủng, ghê rợn. Bỗng nhiên mà không còn có một tương lai nào trước mặt, mà đứng ngoài vòng mọi lo lắng. Chao ôi, cái an lành của những cuộc đời không tương lai.

Nắng xuân càng huy hoàng càng làm ta chơi vơi, choáng váng. Ta không cánh mà như thể xoay tít trong không, tựa hồ những trái phong giữa trời.

5 - 1976

Chú thích:

1 “ Ông tha bà lại không tha

Giáng cho một trận hăm ba tháng mười.(Ca dao)

2 Tục danh của loại hoa pansy dại.

3 Tức Minneapolis.

Lạnh

Hồi tôi nhắm mắt đưa chân tới thành phố xa lạ này, tôi đâu có ham giật cái giải gì? Vậy mà đến đây năm trước năm sau liền được ngay cái hân hạnh chứng kiến Thủy Phủ (Minne: nước; Polis: đô thị) đạt luôn một hơi bốn kỷ lục về thời tiết.

Cách đây mười một năm, ngày 8 tháng 1 năm 1966, trời lạnh -20 độ F, và được xem là ngày 8 tháng 1 lạnh nhất tại địa phương. Năm nay cũng đúng vào ngày ấy, hàn độ xuống -23 độ F. Một kỷ lục.

Ngày kế tiếp, 9-1-74, cố gắng hạ xuống đến -21 độ. Nhưng năm nay, ngày 9 tháng 1 lại tụt xuống một lèo tận -32 độ. Thêm một trận đại thắng mùa đông nữa.

Ngày 10 tháng 1 năm 1912, trời lạnh -23 độ. Kỷ lục vẻ vang ấy giữ vững suốt sáu mươi lăm năm; đến năm nay, lúc 11 giờ rưỡi đêm 10-1, nhiệt kế lại xuống -27. Rồi đời cái kỷ lục của năm 1912.

Ngày kế, 11 tháng 1 vẫn năm 1912, là cả một nỗ lực vượt bực trong lịch sử khí tượng của xứ này: -30 độ. Nhưng vào lúc tờ mờ sáng 1-11 năm nay, hàn độ xuống tận -31 độ: hết thuốc chữa.

Vẫn chưa xong. Chúng ta mới nói đến chuyện thượng tuần tháng 1 dương lịch. Theo thường lệ, đó chỉ là màn mở đầu. Rồi từ đây tới cuối tháng, hạ hồi còn nhiều hứa hẹn.

Xung quanh mình, thiên hạ nhốn nháo cả lên: Một trăm giờ liên tiếp dưới không độ. Khiếp ơi là khiếp! Trong sở làm, trên xe buýt, trong các siêu thị v.v..., gặp nhau ở đâu cũng toàn nói chuyện “trăm giờ dưới không độ”.

Không độ? Cái ngôn ngữ ở đây ta nghe chưa quen, nghe cứ như là nó không được... thật! Cách thức đo lường ở đây rắc rối, kỳ cục, không giống ai. Cái gì mà nói ra nghe cứ lỉnh kỉnh những phít (feet), những pao (pound), những in (inch), những mai (mile) v.v... Rồi 12 in một phút (foot), mà 3 phit lại một da (yard); chẳng ra làm sao cả.

Hai trăm năm rồi, người Mỹ cứ cứng đầu cứng cổ giữ lấy những đơn vị đo lường cổ lỗ, lủng củng ấy; mãi tới khi nghe tin dân An Nam sắp sửa chạy sang, họ mới hoảng hồn bỏ thói cũ, vội vàng chấp nhận hệ thống đo lường thông dụng trên thế giới. Nhưng đã muộn: thói quen ăn sâu, phải chờ một thời gian chuyển tiếp để người Mỹ tập làm quen với các đơn vị mới. Hiện giờ, trong ngôn ngữ hàng ngày ta vẫn nghe toàn pao, với phít, với mai.

Trở lại với cái không độ của người Mỹ: Đây là độ Fahrenheit. Khi nhiệt kế Fahrenheit chỉ 32 độ thì nhiệt kế bách phân quen dùng ở ta xuống tới không độ từ khuya. Thành thử, thực ra đâu phải vừa rồi chúng tôi chỉ sống có một trăm giờ dưới không độ? Phải nói là hàng tháng, hàng một vài tháng trời dưới không độ bách phân liên tiếp.

Vả lại, bảo rằng ngày 9-1 lạnh -32 độ, ấy chỉ là nói về cái độ lạnh không kể ảnh hưởng của gió. Một khi ra đường, có tí gió vi vút, thì dám xuống tới dăm, sáu chục độ như chơi!

°

Giữa thời tiết ấy, hình như khắp cả chốn Thủy Phủ chỉ có loại chó husky là hí hửng. Đó là một giống khuyển gốc Tây-bá-lợi-á. Gặp lạnh, chúng khoái tỉ ra mặt.

Ngoài ra, bao nhiêu chim muông đều có vẻ khốn khổ. Mấy ngày liền, tôi không gặp một con sóc nào cả; cho đến lũ chim sẻ đông đảo cũng tự dưng vắng bóng, chẳng thấy đâu.

Sóc, sẻ, với vịt là những con vật tôi vẫn liệt vào hàng đặc biệt thân thuộc từ khi mới đến đây. Từ xứ nhiệt đới sang, trông con sáo không giống hẳn con sáo bên nhà, trông con chó không mấy giống con chó bên nhà, nhìn con bò không hề giống con bò bên nhà, nhìn hình thù người qua kẻ lại không mấy giống bà con bên ta. Ngoảnh đi ngoảnh lại, chỉ có con sóc bên đường, đàn sẻ trên cây, với lũ vịt trên các mặt hồ là trông quen mặt, không có gì khác với các giống đồng chủng nhiệt đới. Ta có cảm tưởng chúng vẫn theo ta từ bên nhà sang đây.

Sóc ở đây thật nhiều. Mùa hè, trong công viên, trên lề cỏ bên đường, trên cành cây, trên mái nhà, đều có sóc nhởn nhơ. Có những lúc ta đang nằm trong nhà xem dở trang báo, nghe có tiếng khua nhẹ bên cửa sổ: một chú sóc men đến không biết từ lúc nào bên mép cửa, chân đặt lên mặt kính, đang nghểnh đầu nhìn ta bằng đôi mắt chăm chú, dò hỏi. Ở công viên, có những con sóc bạo dạn, trèo lên vai khách, chồm tới đòi chia xẻ một miếng trái cây khách đang ngậm nơi miệng.

Đang gần gũi như thế, sóc có thể vụt phóc lên ngọn cây cao. Trên cây, nó “bay” từ cành này sang cành kia, nhẹ phới. Nó như là thứ chim không cánh. Giống khỉ cũng không kém tài, tuy nhiên hiện nay ở các đô thị không mấy khi gặp khỉ sinh hoạt tự do. Cho nên trong chỗ đông đúc thế này, loài sinh vật lông mao mà có thể nhảy nhót cao đến thế giữa không trung, e chỉ có các tay hiệp khách truyện Tàu và các chú sóc.

Từ mấy hôm nay chẳng thấy sóc đâu nữa. Nghe nói chúng lo rúc vào các đống lá cây, nấp vào các hốc cây.

Con vịt thì trên mặt hồ chúng được hưởng một khoảng nước lỏng nho nhỏ, mấp mé ba chục độ ấm. Xung quanh những nơi chúng bị cầm chân suốt mùa đông như thế toàn những tuyết trắng mênh mông, tôi đâu dám lảng vảng đến làm gì.

°

Sóc, vịt, sẻ v.v... các giống vật thích ứng thật tài tình, con người như chúng ta đành thua xa.

Mặc dầu đã quấn vào người bao nhiêu là lớp áo, lớp quần, lớp khăn cổ, lớp mũ trùm đầu, mỗi lúc ra ngoài ta vẫn cứ điêu đứng như thường. Một khoảnh da mặt bị hé lộ ra là một khoảng bị tê, bị rát như bỏng.

Từ ngoài bước vào nhà một lúc, da mặt như co rút lại, máu bắt đầu xông dồn ra cứu nguy các chỗ tê cóng. Bấy giờ ta có cảm tưởng môi vêu lên, cử động vụng về, vành tai chót mũi bị kim chích, đau réo lên.

Không bao giờ từng bộ phận trên nhân thể lại kêu gọi sự chú ý gấp rút đến thế. Thường nhật ta vẫn biết mình có tay có chân, có mắt, có mũi, nhưng mấy ai buồn để ý đến đâu? Tự dưng lúc này nào mũi nào tai bỗng nhức nhói, rậm rật, như thể kêu la khẩn cấp: “Thưa ông, đây là cái tai, đây là cái tai của ông:”, “Đây là cái mũi”, “Đây là vành môi khốn khổ của ông”, v.v...

Ờ, thì là tai, là mũi. Nhưng gì mà nhặng xị, ồn ào quá vậy? Không yên một tí được sao?

- Không được! Ít ra phải mười phút sau khi vào nhà, các bộ phận nó mới trở lại tình trạng bình thường, mới chịu ngưng léo nhéo.

Ra đường là khốn khổ, mà sự ra đường thì tùy thuộc vào chiếc xe. Chiếc xe hơi mùa mày lại dễ lâm bịnh. Trong bốn ngày kỷ lục nọ tính trung bình cứ mỗi giờ trong thành phố có bốn trăm cú điện thoại gọi đến các trạm xăng yêu cầu ra tay tế độ những chiếc xe không chịu nổ máy, bất chấp mọi biện pháp săn sóc đề phòng từ trước!

Phép đề phòng thật vất vả. Ngoài chuyện cho chất nọ chất kia vào xăng, vào bình điện, vào thùng nước v.v..., ngoài việc trùm chăm đắp mền cho xe, lại còn cứ ba bốn giờ nên nổ máy xe một lần cho nóng máy. Ban ngày còn khá, đêm đến, giữa khuya trời lạnh như cắt, mà đang ở trong nhà ấm áp, phải nai nịt đồ đạc chồng chất vào người, ra đường nổ máy xe. Có loại xe như Volkswagen không chịu nổ mà ngừng một chỗ, phải cho nó dạo lòng vòng mấy khu phố hồi lâu. Khuya khuya, cho xe đi dạo, rồi đắp mền cho xe tử tế; hầu hạ xe kỹ như thế xong mới được phép vào nhà ngủ.

°

Trong cái khoảng thời gian “trăm giờ dưới không độ”, một phóng viên của tờ Minneapolis Star gặp một thiếu phụ bật khóc trên quãng đường năm dãy phố đi đến chỗ đậu xe, liền hỏi, và được thiếu phụ nức nở vừa đáp: “Tôi mới từ California dời nhà lên đây. Chịu không thấu. Tôi muốn trở về”.

Từ một tiểu bang Hoa Kỳ đến một tiểu bang Hoa Kỳ mà nàng đã chịu hết thấu, nàng đã khóc lên khóc xuống. Huống hồ ta từ Đông Nam Á.

Vậy mà ta lại không nói được chuyện trở về. Ta lại còn chừng vài chục năm trước mặt để đương đầu: ngày ngày lò mò thức giấc lúc trời còn tối om, lóng cóng ra xe, tới sở; bốn rưỡi chiều ta ra khỏi sở đã lại tối om om, tuyết đổ tơi bời, trời sầu đất thảm!

Nguyên một cái ở đã khốn khổ, lại còn cái ăn. Không lóng cóng như thế, sao có được cái ăn?

Từ hồi nào tới giờ tôi vẫn tự mắng mình là đứa vô thần bất trị. Trong suốt mấy mươi năm trời, xứ tôi náo loạn cả lên vì sự xung đột giữa các niềm tin — hoặc niềm tin duy vật, hoặc niềm tin duy tâm. Ấy vậy mà đầu óc tôi cứ trơ ra, không chịu thấm nhuần tín ngưỡng vào đấng thần linh nào cả. Tôi vẫn ngờ rằng trước sau rồi cũng có ngày sự sai quấy hỗn láo ấy phải chịu một trừng phạt.

Quả nhiên. Ngày ấy đã đến. Và tôi đang chịu sự trừng phạt đến nơi đến chốn của ông thần quái ác nhất: ông... Thần Khẩu.

Tôi kêu trời trong giá lạnh xứ người: Biết bao giờ mình mới thoát nổi sự cai trị, đầy ải nghiệt ngã ấy? mới chấm dứt được cái cực hình phục vụ ông Thần Khẩu, một sự phục vụ nhục nhã, không lý tưởng nào cả.

1 – 1977

Mười Giờ

Gửi Võ Đình

Cây sweet pea — người Tàu gọi là đậu tuyết hay đậu xạ hương gì đó — màu sắc thật là sặc sỡ. Ở đây người ta chỉ trồng lấy màu, lấy hoa, lấy hương (xạ hương?). Người láng giềng gieo hạt hồi mùa đông, đầu xuân đã có hoa nở rộ trên hàng dậu ngăn cách hai khoảnh vườn. Tháng ba dương lịch, bà láng giềng thông báo cho ông về chuyện phá lũ dây đậu để gieo hạt anh túc. Cũng lại một hoa sặc sỡ nữa. Bà ta có cái thú làm nở ra những đóa hoa cánh mỏng dính có sắc màu lòe loẹt. Bà ta dự tính như thế, ông tán thành ngay. Mà hình như lũ bướm cũng tán thưởng lắm.

Ông lạc mất trang sách từ lúc nào không hay. Tay vẫn cầm hững hờ cuốn sách, nhưng mắt ông đã rời chữ. Xung quanh ông, khắp phòng, ánh sáng ùa vào nhiều quá, ùa vào tràn trề. Hai mặt phòng có nhiều cửa gương lớn, phòng ông vào giờ này là cả một niềm hân hoan.

Mấy hôm gần đây kể như hôm nào cũng vậy, rốt cuộc rồi cũng đến thế thôi: ông bỏ sách, loay hoay tìm một mảnh giấy, một cái gì để cài vào làm dấu trang sách nhưng không tìm được, ông đành úp mặt cuốn sách xuống thảm. Rồi ông nằm ngẩn ngơ trong ngôi nhà sáng choang. Rồi ông ngồi dậy đốt một điếu thuốc, khói xanh tỏa chầm chậm qua những tia ánh sáng. Rồi ông mở cửa bước ra hiên. Ông trở vào pha cà-phê uống. Ông mở cửa ra vườn sau, nghếch mặt nhìn nghiêng nhìn ngửa, đến bên cây này cây nọ, lại nghếch mặt nhìn đàn sáo đậu trên dây điện, nhìn con quạ trên cây thông sau lưng căn nhà trên ngọn đồi bên kia đường, có khi nhìn lên trời xanh trống không. Rồi ông bước đến đứng một lúc dưới bóng cây long não. Rồi ông cảm thấy mình lơ ngơ, không có việc gì giữa ngôi vườn vắng vẻ, ông lại vào nhà, ông đốt một điếu thuốc nữa v.v... Ông nằm xuống, cầm lấy cuốn sách. Một lát, ông lại nhổm dậy, úp sách xuống mặt thảm. “Căn phòng này coi bộ sáng quá, sáng dữ đa!”. Ông nhìn qua cửa kính, theo dõi lũ chim hải âu từ đâu ngoài bãi mới kéo vào khu phố này, lượn thấp trên các mái nhà, sà cả xuống mặt đường. Ông đứng lên, mở cửa, bước ra hiên xem hải âu chúng nó làm gì! Xem ra chúng cũng chẳng làm gì đáng kể: không ăn không uống, không tìm sâu tìm hạt gì, chúng chỉ bay lên bay xuống, lượn đi lượn về rà rà khắp xóm vậy thôi. Có con đậu lên một chiếc tán đèn bên đường, một con hải âu xám trên chót đỉnh một cột đèn, đậu và phóng uế, xong lại bay đi, vậy thôi. Rồi ông nhìn sang hai con bướm chờn vờn trên hàng dậu sweet pea. Bướm nó bay, hay nhỉ, nó không bay thẳng từ nơi này đến nơi khác, như không cốt bay để đến; nó bay như nhảy như múa, như đùa như giỡn mà chơi. Một lát, tự cảm thấy thừa thãi trước hiên, ông quay vào nhà, sửa lại chiếc gối, ghé nằm xuống, cầm cuốn sách lên, xem đồng hồ: Thế mà đã mất khối thì giờ!

Gần như hôm nào cũng vậy. Đến một lúc nào đó, ông chợt để ý và tự hỏi: “Có gì vậy cà?” Hồi gần đây có gì xảy ra? biến cố gì vậy?” Kiểm điểm mãi, cũng thấy ra biến cố: Mười giờ.

°

Mười giờ là một biến cố. Đáng lẽ ông đã biết từ lâu, vậy mà không hiểu tại sao ông lại lú đi, chẳng chịu thấy. Mười giờ sáng; trời đất vào cái giờ ấy, nó lạ lắm. Bây giờ nhớ lại thì ông đã nhiều lần khốn khổ vào cái lúc mười giờ. Hồi nhỏ, ngày ngày ngồi trong lớp học, mỗi buổi mai vào khoảng mười giờ, thỉnh thoảng hoặc một con chim bay ngang qua cửa sổ kêu đánh “chéo” một tiếng nhỏ, hoặc mấy đứa chăn trâu đùa giỡn với nhau ngoài đồng để lọt vào tai ông mấy tiếng léo nhéo, hoặc tốp lính kéo đi rộp rộp ngoài đường v.v..., thế là ông trông ra cái nắng tưng bừng bên ngoài và lạc mất tiếng thầy giảng một lúc lâu, thần trí vẩn vơ mãi đâu đâu.

Ngày nhỏ lơ đãng trong lớp, lớn lên ông lơ đãng ngay tại nhà. Cứ mười giờ mai, vào giờ nắng ráo, ấm áp, là như thế. Cứ như có ai kêu ai réo ở ngoài trời. Cứ như có hội hè ầm ĩ linh đình, có trống thúc cờ reo giục giã khẩn cấp ở ngoài. Nằm không yên, ngồi đứng không yên.

Giá mà lúc ấy ta xô cửa, bước ra ngoài, bắt gặp quả tang “cái mười giờ”, nhìn tận mặt nó một lúc thì rồi cũng nguôi ngoai. Rồi thấy mình lơ ngơ thừa thãi. Rồi cũng đến trở vào nhà thôi. Nhưng nằm lì trong nhà, ngồi lì trước bàn viết, nắm mãi cuốn sách trên tay, thì khổ sở đa!

Mười giờ, ngoài trời có gì vậy? Thì trời xanh vậy thôi. Thì mây trắng tơ tướt ngang trời vậy thôi. Nhưng trời xanh thao thiết mênh mông vào lúc mười giờ, tưởng chừng nó có cái hấp lực hút bật dậy những thây ma. Những xác chết nhập tràng chồm lên dưới một tác động ma quái.

Ma quái chứ. Mở cửa ra, vẫn chỉ có trời xanh, có cây xanh, có ánh nắng nhấp nháy trên lá xanh, mọi sự y nhiên, như xế hôm qua, như trưa hôm trước, như sáng hôm kia, như một ngày năm ngoái, năm kia... Nhưng mà không! Mười giờ hôm nay, vào giờ phút này, tưởng chừng nó đập gõ khua ầm lên trước cửa mình vậy. Mỗi hôm nó mỗi quấy động, nó luôn luôn mới, luôn luôn bất ngờ, nó là biến cố hàng ngày. Hôm nào mười giờ cũng làm mình rạo rực, nao nức, như là một Mười Giờ đầu tiên buổi khai thiên lập địa. Mười Giờ nào cũng là một Mười Giờ hoang sơ. Khu phố có thể tha hồ vắng vẻ, cứ mười giờ là tưởng chừng có hội hè tưng bừng: Mười giờ ngoài cửa, nó là một im lặng ầm ĩ, huyên náo, chát chúa.

Hoa có thứ hoa giờ tí có thứ hoa giờ ngọ, hoa tự do chọn lựa giờ giấc. Thứ hoa chọn lúc khuya khoắt vắng vẻ như hoa quỳnh, nó tha hồ đơn độc, ẻo lả, kiều mỵ. Còn hoa mười giờ không thế. Nó là hoa bầy hoa lũ. Là thứ hoa đồng khởi. Nó dậy lên, đứng lên cùng lượt, rực lên chói chang. Nhất hô bá ứng: Mười giờ cất tiếng gọi, từng từng lớp lớp điệp điệp trùng trùng hoa nọ liền đứng lên giữa trời. Không có ai mang hoa mười giờ vào phòng, vào những căn phòng nhỏ hẹp, để cho những ông cụ già móm mém vừa nhắp từng hớp trà vừa “thưởng thức”. Hoa mười giờ phải nở giữa khoảng rộng, dười trời bao la.

Đã mười giờ lại mười giờ sáng một ngày xuân, thôi thì khỏi nói. Đám dạ lý hương bên hè phát triển mạnh quá, lấn tràn vào cửa, mùa đông vừa qua ông đã phát bớt đi quá nửa lùm. Những gốc dạ lý hương bị đốn tưởng đã chết khô, bẻ gãy rôm rốp. Thế mà sang xuân bỗng thấy mầm xanh phọt lên. Lại nhớ có lần trong đống củi xếp sau hè thỉnh thoảng lại có cành bắn mầm nứt lá non. Tiếng gọi mùa xuân, sức kêu gọi của sự sống, Trời! nó mạnh kinh khủng!

Nghĩ đến cái rạo rực trong lòng một cành củi, một gốc cây khô, ông lại nhân tiện nghĩ qua về cái rạo rực trong lòng mình: “Ờ! mà mình cũng “rạo rực” lắm, đâu đã yên? Khối thì giờ mất đi một cách vu vơ. Thế mà không để ý thì không biết đấy”. Ông nhìn xuống mấy ngón tay vàng khè khói thuốc, mấy ngón tay dẹp, mỏng, khô quắt dần. Ông nhìn thoáng qua, rồi quay mắt đi, chán ngán. Tuy nhiên cũng nhếch miệng cười bâng quơ.

Ngoài sân, con bướm chờn vờn bên dậu hoa sweet pea. Rồi nó rời dậu hoa, bay nhanh qua suốt chiều ngang của khoảnh sân trước, tưởng đi luôn sang vườn nhà bên cạnh, bỗng đâu lại thấy nó chập chờn ngay trước hiên. Cái bóng của con bướm múa rộn ràng trên tấm màn cửa. Vào lúc ấy, chợt vẳng lên tiếng một đứa trẻ. Tiếng gọi la eo éo gì đó, nghe không rõ ràng, cách vài con phố, cất lên mấy tiếng rồi bặt mất.

Ông bàng hoàng. Tiếng kêu ngắn quá không kịp phân biệt là tiếng nước nào. Mễ chăng? Mỹ chăng? Việt chăng? Tưởng chừng tiếng một đứa trẻ ngày xưa hắt vào căn nhà tranh của ông từ một ngôi gò nào trong làng. Tưởng chừng tiếng mấy đứa trẻ la giỡn ở một góc phố vẳng lọt vào lớp học hồi niên thiếu... Một cái gì rung lên, quẫy mạnh trong ông. Ông xao động cả người.

°

Ông nhớ bữa ăn sáng cuối cùng với một người đàn bà. Người đàn bà đã chung sống với ông hơn chín tháng, ở một ngôi nhà mát mẻ thanh tịnh bên Tân Qui Đông. Hồi tưởng lại những ngày đó thật êm đềm.

Hồi đó, hai người gặp nhau giữa một đám bạn. Ông có một cảm tình mơ hồ với Loan lúc vừa mới gặp, tuy vậy ông không bắt chuyện, cũng không có dự tính gì. Vào một lúc nào đó ông nói một câu vẩn vơ (bây giờ ông không còn nhớ đại khái ra sao nữa, hay nói cho đúng là ông quên bẵng đã từ lâu chứ không phải mới bây giờ). Loan nghe xong, không nói gì; nàng quay mặt về phía khác, nhìn mông ra xa, mỉm cười nhẹ nhàng, bâng quơ. Ông sực kiểm điểm và nhận thấy câu nói vừa rồi của mình quả nhiên là có hướng về nàng, một cách vô ý thức. Sự hưởng ứng của nàng xa xôi dè dặt, lại hơi hững hờ.

Vậy mà ít lâu sau hai người gần gũi, rồi ông rước nàng về chung sống.

Nghĩ lại, giá bấy giờ nàng niềm nỡ có lẽ ông đã lảng tránh. Độ ấy tự dưng ông tránh hết những thái độ nồng nhiệt, tích cực, hăm hở. Tự dưng ông mệt mỏi tận chỗ sâu xa nhất trong tâm hồn. Đang ở một căn phòng thuê tại đường Cô Bắc, đi lại các tòa báo khá tiện khá gần, ông quyết định rút hẳn về bên Tân Qui Đông. Ông từ chối bớt một số công việc tòa soạn, hạn chế bớt một số khoản chi tiêu, hạn chế giao du, để hưởng một thời gian yên tĩnh. Bên cạnh Loan. Và Loan là cả một sự yên tĩnh, êm đềm.

Hai người sống với nhau không lâu, nhưng “hợp nhau kinh khủng”, ông công nhận thế.

Hôm về ở với ông, nàng không có gì nhiều nhặn để mang theo. Y phục, nàng cũng không sắm bao nhiêu. Nhưng nàng có chở theo một chậu trúc đằng ngà. Kể ra không phải là thứ cây kiểng hiếm hay quí. Một cây trúc đằng ngà nhỏ hơn cổ tay bị chặt ngang lưng chừng, cao chừng thước rưỡi tây, thế thôi. Đưa cây trúc xuống xe, nàng cười. Ông bảo đặt nó ngay trước hiên nhà, ngoài cửa sổ từ phòng khách trông ra. Nàng đồng ý dễ dãi.

Cây trúc thế mà khỏe. Cành lá nó tỏa rộng ra sum suê. Nhiều buổi trưa vắng lũ chim sẻ kéo đến ríu rít trong tàn lá ấy. Mỗi lần nghe tiếng khua động trong nhà, chúng bay tán loạn. Trưa mùa hè nhiều lúc không được trông đến, trúc khô nước, lá cuốn cả lại. Múc một lon nước đổ vào gốc cho nó, thử lắng tai, có thể nghe tiếng lá khô mở ra rào rào, khe khẽ. Chừng vài giờ lá lại cuốn queo, lại cần thêm lon nước nữa.

Tàn lá ấy làm khổ cây trúc. Có những đêm gió lớn, sáng ra thấy nó lăn kềnh, nằm chình ình trước hiên. Cái chậu đất nặng nề là thế vẫn chưa đủ để giữ thăng bằng. Rốt cuộc Loan phải hè hụi trói cây trúc vào song cửa bằng một sợi dây kẽm. Ông muốn giúp nàng một tay, nàng cười cười:

- Anh cứ để nó cho em. Em trị được mà.

Thực ra ông ngờ rằng không phải chỉ có thế. Không phải là nàng không muốn phiền đến ai khác chỉ vì nàng đủ sức “trị” nó, mà bởi vì nàng muốn tự tay mình chăm sóc cây trúc “của mình”. Cây tre cây trúc ít khi là cây kiểng của một người đàn bà. Có thể đây là một kỷ niệm riêng sao đó. Nàng có cây trúc trong trường hợp như thế nào? nàng “thừa hưởng” của ai? Có lúc ông thoáng nghĩ ngợi về điều ấy, nhưng rốt cuộc cả hai cùng lảng tránh, bỏ qua vấn đề. Sáng sáng hai người ngồi trước hiên điểm tâm, uống cà-phê, và nhiều lần ông khen cây trúc đẹp. Nàng thắc mắc:

- Không thấy nó nẩy được mụt măng nào.

- Ờ nhỉ. Trồng lâu chưa?

- Lâu.

- Ờ, thế thì lạ.

Vậy rồi thôi. Ông không hỏi thực sự nó ở với nàng từ bao giờ.

“Trị” cây trúc là công việc của nàng. Ngoài ra nàng còn một thành tích nữa, cũng đáng kể. Sau nhà có cây mít, không biết nàng tìm đâu ra cái chuông, đem về treo lên một cành mít, rồi lại buộc một khúc cây bên cạnh làm cái dùi. Thỉnh thoảng, trong gian nhà vắng lặng, hoặc ông đang nằm đọc sách, hoặc chợt ngừng bút giữa trang giấy, hoặc đang ngồi lơ mơ uống tách nước..., chợt nghe một tiếng “boong.., oong...oong...” từ sau vườn.

Tiếng chuông đánh thức sự tịch mịch vắng vẻ. Ông tán thưởng:

- Hay nhỉ. Không có tiếng chuông, mình không để ý đến sự im vắng của xung quanh.

Nàng không nói gì. Một lát, ông lại ngẫm nghĩ:

- Thì vẫn là im vắng, nhưng một im vắng vô ý thức. Lâu lâu một tiếng “boong” làm cho sự im vắng tự ý thức về mình. Thành ra một sự vắng lặng có ý thức.

Nàng vẫn không nói gì. Nàng nhìn mông ra ngoài, cười bâng quơ.

Người đàn bà ấy không có mấy nữ trang, mấy món phấn son trang điểm; nàng bỏ thì giờ vào những thứ vớ vẩn: cái chuông, chậu cây... Hai người sống với nhau như thế cho đến một hôm ông bắt gặp Loan với một vẻ khổ sở. Vài ngày sau, nàng bảo ông biết nàng vừa được tin nhà, nàng phải về quê, ở dưới Sóc Trăng. Hoàn cảnh nàng có gì rối rắm khó khăn lắm. Ông khựng lại, nhìn nàng chăm chú một lát, biết rằng sự thể không thể nào đổi khác được, ông thở dài.

Hôm cuối cùng, loay hoay thế nào mà họ thức trắng đêm. Buổi tối, ngồi trước hiên nhà mãi cũng buồn, ông lấy xe chở nàng đi ăn cháo cá, rồi hai người ra ngồi bờ sông hóng mát tới khuya. Về, ông lại pha cà-phê uống, rồi ngồi xem sách. Loan lên giường nằm hồi lâu không ngủ được, vẹt màn chui ra. Ông bỏ sách, ngồi với nàng, chuyện trò lẩm cẩm. Đêm hết lúc nào không hay. Lúc nhìn qua cửa sổ thấy chân trời ửng sáng, ông sực nhớ ra, kêu đói, bảo Loan chải tóc tai để đi ăn sáng. Nàng ái ngại:

- Anh thức suốt đêm, có mệt không? Nhà sẵn còn trứng. Hay để em chiên “ốp la” ăn với bánh mì. Được không?

Ông lắc đầu. Lúc này ông muốn ngồi ở tiệm, ăn một tô phở nóng, thơm tho.

Thì đi. Qua cầu Tân Thuận, gặp hơi nước mát, ông hít mạnh vào phổi, thích thú. Rồi ông cao hứng dừng xe lại bên kia cầu tìm một cái quán gần bờ sông, ngồi nhìn mặt nước sáng dưới ánh bình minh, nhìn người qua kẻ lại, thấy khoan khoái, tỉnh người dần. Hỏi chủ quán: không có phở, chỉ có bò kho, có trứng “ốp la”. Không muốn bỏ một chỗ ngồi thích ý, ông gọi trứng “ốp la” và quay lại bảo Loan:

- Nhất ẩm nhất trác, định trước cả. Số mình sáng nay ăn trứng thì chỉ được ăn trứng thôi... Huống hồ những chuyện lớn trong đời, chạy đâu khỏi số?

Nàng nhếch cười buồn bã.

Ăn xong, đốt điếu thuốc, ngồi trước tách trà thơm, ông lờ mờ nghĩ về những ngày sắp tới. Chắc chắn ông sẽ trả ngôi nhà ở Tân Qui mà trở về bên Sài Gòn. Ở một mình chỗ quạnh vắng, buồn chết. Vả lại, tiền dành dụm đã vơi, ông cần ở gần các tờ báo để làm việc nhiều thêm. Ông nghĩ đến cuộc dọn nhà trong tuần tới, nghĩ đến công việc lấy tin vào lúc mờ sáng ở các tòa soạn nhật báo, đến công việc viết lách liên tu bất tận suốt ngày... Ông thẫn thờ lẩm nhẩm: “Mệt kinh khủng!”

Nghe một tiếng cười khẽ, ông ngoảnh lại: Loan cười lớn hơn, nàng lấy tay che miệng cười ngặt nghẽo, rồi lấy tay che cả mắt. Lát sau, khi nàng bỏ tay xuống, nước mắt hãy còn trên má. Lưng bàn tay nàng cũng ướt.

°

Loan ra đi tuần trước thì tuần sau ông cũng dọn nhà đi luôn. Hai người để lại trong vườn cũ cái chuông trên cây mít. (Cây trúc tất nhiên là Loan đem theo. Nó lên xe sau cùng, khi nàng đã chất đồ xong và đã lên ngồi trên xích-lô máy nàng mới nhờ người phu xích-lô bê nó đặt lên sàn xe, và nàng bảo ông: “Để lại, anh không trị nó nổi đâu. Nó sẽ vòi vĩnh, làm phiền anh.” Ông biết đó chỉ là một cách nói. Đó không phải là lý do khiến nàng không rời nó.)

Ông thuê một căn phòng nhỏ ở tầng lầu hai một tòa nhà lớn gần chợ Thái Bình. Trong cái hiu hắt của một cảnh sống đơn chiếc, có những buổi xế chiều, sau một giấc ngủ trưa mê mệt, ông thức dậy, nằm thười trên giường, ngao ngán nhìn bức tường phòng trơ trụi không một cái tranh cái ảnh. Cửa sổ đóng kín, căn phòng im mát và râm râm tối. Nằm im hồi lâu, trí nghĩ vẩn vơ từ chuyện nọ sang chuyện kia; trong vắng vẻ tĩnh mịch chợt ông tưởng chừng nghe thấy một tiếng “boong...oong...oong!”

Ông bàng hoàng ngẩn ngơ. Ông không nghĩ đến Loan, nhưng từng giác quan của ông chúng vẫn nhớ nàng. Trong cùng thẳm cõi vô thức của ông cái hơi hướng của những ngày cùng Loan chung sống vẫn còn vương vất. Từ cái này đến cái nọ, từ chuyện này đến chuyện kia, chúng trở về. Cái cổ tay của nàng, bữa cháo khuya trước hiên nhà bên Tân Qui, và ơ kìa! cổ chân, còn cả cái cổ chân của nàng nữa, thật là kỳ cục! và mùi tóc nàng nữa, và cái nhìn mông rất bâng quơ v.v... Ở tuổi ông vẫn còn những vẩn vơ vậy sao?

Ông tự cười mình, lẩm nhẩm mấy câu lăng nhăng:

“Mình về mình nhớ ta chăng?

- Nhớ mình? Ta quyết đoan rằng là: Chưa!

Nhớ mình? đã nhớ đâu cơ

Chẳng qua chỉ có vẩn vơ nhớ... nhà

Vườn quê mỗi buổi chiều tà

Bâng quơ tai nhớ một và tiếng chuông

Cà-phê mỗi sáng tinh sương

Nhớ đôi cành trúc vấn vương bên thềm

Lưng trời nhớ một cánh chim”

Mãi sau đó khá lâu, một hôm ông có dịp sực nghĩ đến giọt nước mắt của Loan trong bữa điểm tâm cuối cùng. Trong một thoáng, tự dưng ông tưởng thấy rõ cả cái lý do, như thoắt “ngộ” sự thực tròn vẹn. Lý do là cái tiếng “kinh khủng”... Đó là một thói quen của ông. Ông thường nói: “Dại kinh khủng. Hay kinh khủng. Rắc rối kinh khủng”... Hôm đó ông vừa kêu “Mệt kinh khủng” thì Loan cười. Nàng cười một thói quen. Rồi lại nghĩ rằng từ đây nàng sẽ chẳng bao giờ còn nghe “kinh khủng” nữa, chẳng còn gần gũi với cái thói quen hàng ngày ấy của ông nữa, nàng khóc lúc nào không hay. Một thói quen ngộ nghĩnh, chẳng đâu vào đâu, nhưng nghĩ rằng nàng sẽ mất nó mãi mãi, cho nên cuối tiếng cười có những giọt nước mắt.

°

Một cuộc chung sống mấy tháng rồi tan rã đã lâu thỉnh thoảng còn hắt về một tiếng chuông mơ hồ như thế. Và ở Sóc Trăng chắc chắn một đôi khi ở chỗ người qua kẻ lại, ở một góc đường, một quán nước, đâu đó chợt thoáng nghe hai tiếng “kinh khủng” Loan cũng ngẩn người ra bồi hồi.

Hơi hướng một cuộc tình đã dai dẳng, ông nghĩ đến cái hơi hướng của cuộc đời. Của cả cuộc đời.

Mai kia, ông ra đi khỏi cõi đời này, chắc đâu cái hơi hướng của nó không đeo đuổi? Ba tấc đất đâu đã thực là đủ sâu? Trong nghĩa trang, những khu nghĩa trang với đồi cỏ xanh mướt, cây xanh mơn mởn, mười giờ lũ chim sẻ, chim quành quạch kêu tíu tít, kêu rối cả lên, và nắng thì chan hòa, những khu nghĩa trang đô thị nằm ngay cạnh các con lộ rộn ràng, sát kề cuộc sống náo nức, trong những khu nghĩa trang như thế làm sao yên được giấc nghìn thu! Khó đa. Cuộc đời còn inh ỏi hơn một tình nhân. Dĩ nhiên ông không muốn nhớ, nhưng không nhớ mà được sao? Một tiếng còi xe, một tiếng gọi la trong vắt của đứa bé ở một góc phố..., những cái ấy hắt lọt xuống lòng huyệt vào nửa buổi mai huy hoàng, nó làm kinh động giấc nghìn thu đến chừng nào. Không nhớ Cuộc Đời, không nhớ “mình” mà được sao? Mình réo gọi, mình hút ta lên từ đáy mộ mỗi buổi mai mười giờ chứ lị. Những inh ỏi của trần gian, chao ôi!

“Mình “về” mình nhớ ta chăng?

- Nhớ mình? Không nhớ được răng hả mình?

Ba tấc đất, biết bao tình

Mười giờ mình vỗ rập rình nắp săng

Mình xua gió thổi mây giăng

Mình tung ánh nắng vang vang khắp trời

Mình rung chuyển đất lay đồi...

Mai kia rồi nữa ta rời xa nhau

Nhớ mình không nhớ được sao?”

°

Ông lẩm nhẩm trong trí mấy câu sau cùng, rồi đứng lên, bước ra sau vườn, nhìn bâng quơ: đàn sáo đậu trên dây điện đã bay đâu mất cả. Ông nhìn mông lên trời xanh trống không một lát rồi quay vào nhà.

Mười giờ, ông bỗng dưng như thể một kẻ lểnh lảng: ở trong nhà thì nghe như có tiếng réo gọi đâu đó xa xa, tung cửa ra ngoài không thấy ai, không thấy gì cả. Trông bên nọ ngóng bên kia dáo dác một lúc, cảm thấy tưng hửng, bèn quay vào.

Quay vào, thì nghe réo gọi bên ngoài. Văng vẳng, mơ hồ, mà khẩn trương, hối hả. Thoạt tiên mình còn ngờ vực lấy mình, về sau càng lúc càng nhốn nháo cả ruột gan. Tiếng gọi thiết tha quá, cấp bách quá, không sao không đáp ứng được. Lại tung cửa chạy ra. Và nhìn xuôi trông ngược vẫn chẳng có gì. Chỉ có ngọn gió vừa lướt qua. Chỉ có cây gồi già đội một mảng mây trắng to tướng đứng trân trên ngọn đồi...

Như vậy là chẳng có gì? — Lẽ đâu thế? Tiếng réo gọi mơ hồ nhưng không thể chối cãi. Sự Sống đó. Tiếng réo gọi của Sự Sống đó mà. Từ nơi cùng thẳm hư vô, nó gọi ta. Cái lanh lảnh trong một tiếng trẻ con, cái rào rào trong gió lá; một cánh bướm chập chờn, một cành tre dưới nắng: Nó đấy. Nó cả đấy. Nó xa xôi tận cùng thẳm mà cũng gần gũi trong gang tấc. Sự Sống đó. Tiếng gọi của Sự Sống nhiệm màu. Tiếng gọi của Trời Đất đó. Của Vũ Trụ Càn Khôn mịt mờ ảo huyễn mà quyến rũ mê hoặc khôn lường đó.

Rồi mai kia:

“Nhớ mình không nhớ được sao?”

5 – 1987

Ổi Tàu

Bạn hiền,

Bạn đang cười ré lên đấy chứ gì? Bạn nên tiếp tục. Tốt lắm. Đời“di tản”, cười được lúc nào hay lúc ấy. Giờ này bạn tha hồ thích thú. Bạn thích thú về sự lố bịch của tôi: “Tên này chúa nhảm. Chưa chi đã dạy đời! Bảo người ta bôn chôn, rồi mình cũng nhấp nhổm như gái ngồi phải cọc. Sao không cố bám luôn lấy đất ấy mà an cư lạc nghiệp?”

Tôi không chối cãi vào đâu được. Dù không có một trí nhớ tốt, tôi cũng chưa quên lá thư ấy. Hồi đó, mới mấy tháng trước đây, bạn thay đổi địa chỉ liền liền, quả tôi có cảnh cáo bạn về một số hậu quả không hay của sự lăng quăng. Tôi nói năng y hệt một kẻ biết điều, khôn ngoan, chín chắn, lúc nào cũng làm chủ được mình, không để cho những phút yếu lòng, những cơn hứng bất tử lung lạc. Thế rồi thoắt cái, bây giờ bạn bắt gặp quả tang tôi cũng lại dọn nhà ra đi.

Vâng, bạn cứ cười. Chỉ cần giơ phong bì lên, so hai cái địa chỉ cũ và mới, thấy ngay tôi đã đi một mạch ngót hai nghìn dặm đường. Từ Trung Bắc tới tận Tây Nam nước Mỹ. Thế đáng gọi là một cuộc chạy dài.

Gần đây, tôi vắng thư. Mãi bận rộn vì cuộc chạy dài ấy tôi không viết được cho bạn. Hôm nay phải trở lại với bạn chút ít về chuyện nam di đấy. Không phải là để cắt nghĩa. Ối! “Ai đi cắt nghĩa được thiên di, có nghĩa gì đâu... cứ việc đi”. Thế thôi. Mạnh bạn bạn ngược xuôi, mạnh tôi tôi ngang dọc, mới đến xứ này, hãy cứ nhốn nháo như thế trong ít năm đầu, rồi sau sẽ hay.

Tuy không hẳn là cắt nghĩa được lý do tại sao tôi quyết định về sinh sống ở miền nam, nhưng đây cũng là một chuyện có liên quan đến việc nam di. Thật vậy, hôm đó khi lần đầu trông thấy nó trên đường xuống Cali tham quan, tôi đã biết ngay mình không thể cầm lòng được. Thế nào rồi cũng phải xuôi nam thôi.

°

Tôi bắt gặp “nó” trước tiên ở tiểu bang Utah.

Hôm ấy chúng tôi đến thủ phủ tiểu bang thì trời vừa chạng vạng tối. Nghe nói ở đây có nhiều cái hay: có niềm tín ngưỡng riêng, có nước mặn giữa đất liền, có đàn ông đèo bòng dăm bảy khối hạnh phúc v.v... Dừng chân lại đây một đêm để học lấy đôi ba sàng khôn hẳn là điều rất đáng làm.

Thoạt tiên chạy ngang chạy dọc mấy vòng cho biết qua mặt mũi Salt Lake City, rồi chúng tôi tìm vào một khách sạn. Kê xong mấy khoản khai báo trên mẫu giấy ghi danh tá túc, tôi xoay người lại, sắp sửa rời cái quầy nơi văn phòng thì tầm mắt chợt hạ đúng vào chỗ bồn hoa giữa sân. “Ơ kìa, ngộ chưa! cái gì lạ vậy cà?” Tôi vội vàng đến nỗi suýt tông cả người vào tấm kính lớn ngăn cách văn phòng khách sạn với sân cỏ.

Quả nhiên tôi không lầm. Ra đến giữa sân, tôi đứng sững sờ. “Nó” đây rồi. Thực “nó” đây rồi. Làm sao có thể ngờ được sau hăm mấy năm trời tôi lại tái ngộ với “nó” trên bước đường lưu vong, ở mãi tận xứ Hoa Kỳ thế này. “Nó” đến đây từ bao giờ! định cư lúc nào? trải qua những bước thăng trầm như thế nào mà rốt cuộc bây giờ trông phởn phơ quá vậy? thể thống quá vậy?

Nhưng “nó” là ai? Bạn đừng vội nổi cáu. Tôi không cố ý ỡm ờ. Tôi đang viết thư chứ có phải viết truyện kiếm hiệp hay trinh thám đâu mà treo lơ lửng sự bí mật để bắt bạn hồi hộp? Tôi rất muốn kêu phắt tên “nó” ra từ lúc đầu, nhưng không kêu được đấy thôi. Tôi kẹt quá.

Kêu bằng tên nào bây giờ? Ở vùng quê tôi ai nấy vẫn gọi “nó” bằng tên ấy: ổi tàu. Nào, tên đấy, bạn đã thấy có gì rõ thêm chưa nào? Ổi tàu là thứ ổi quỉ quái gì vậy? Bạn suy luận: Vịt ta nhỏ bé, vịt xiêm thì bự; dâu ta bằng đầu đũa, dâu tây bằng ngón chân cái; gà ta khiêm tốn, gà tây là gà khổng lồ; trà ta xoàng, trà tàu thì nhất; thậm chí con chuột tàu cũng quí hơn con chuột ta... Vậy ổi ta bằng quả bóng bàn, ổi tàu áng chừng nó là thứ ổi mỗi quả bằng một nắm tay, hay bằng quả bóng rổ chăng? thịt nó vừa ngọt vừa thơm bát ngát chăng?

Bạn mà nghĩ thế, bạn khốn đốn ngay. Thật vậy, táo tàu tha hồ hơn táo ta, trà tàu tha hồ hơn trà ta v.v..., nhưng ổi tàu thì lại là tính danh của một sự lố bịch đấy bạn ạ. Hạt ổi tàu nó bé như hạt tiêu, nó chen chúc một khóm chi chít như thể một đám ruồi xúm nhau đậu chổng ngược đít lên vậy.

Nếu bạn muốn, tôi có thể khai thêm một tên nữa. Ở quê tôi, bà con còn gọi nó là... nho. Vâng, cây nho trái nho ở tôi đấy. Bên Tàu bên Tây, người ta lấy nho làm rượu. Bồ đào mỹ tửu óng ánh dưới trăng, ngời ngời trong thi ca xứ người. Ở tôi, thứ trái chi chít nọ cũng là nho: danh với thực nhảm là thế.

Nhưng quê tôi thô lậu, bạn không biết đấy là đâu; tiếng nói địa phương ở vùng tôi không có sức phổ biến rộng. Ở tôi nói gì, gọi là gì, bạn không biết được. Tốt hơn nên cung cấp cho bạn cái danh xưng thông thái dùng trong sách vở, lẽ ra phải thông dụng toàn quốc. Nhưng cái đó lại khó, tôi có ý muốn phục vụ bạn thực kỹ mà không xong, rồi bạn xem.

Muốn sách vở thì có sách vở. Trong sách thực vật của ông Phạm Hoàng Hộ, cây lantana camara được gọi là cây thơm ổi. Lantana camara là thứ lantana nào? thuộc chi phái họ hàng gần xa ra sao? cái đó tôi không rõ. Nhưng lantana thì chính thị là nó. Tên thơm ổi làm tôi mừng rơn. Nhà học giả đã nhất trí với đồng bào vùng tôi ở tiếng ổi, lại còn bảo là nó thơm. Tuy nhiên vừa buông cuốn sách của học giả xuống liền gặp rắc rối ngay.

Ông Phạm là con người của những cây cỏ miền Nam nước Việt, thế tại sao tiếng nói của ông không mấy giống với tiếng nói những người miền Nam khác? Tôi gặp nhiều đồng bào miền Nam sống quanh đây, tôi đưa thứ cây ấy ra hỏi. Liền có câu đáp:

- Cứt heo đấy mà.

- Hả? Thưa... theo ông...

- Thì cây cứt heo đấy, ông ơi. Nó đấy.

Kẻ bảo thơm, người gọi c..., biết chọn sự trung dung ở đâu bây giờ?

Rồi tôi nẩy ý hỏi đến đồng bào miền Bắc. Nhiều người không biết, chắc chắn đó là những vị sinh trưởng ở đô thị, không mấy quan tâm đến cây cỏ. Một hôm tôi gặp một ông từng ở thôn quê. Ông cầm nhánh cây, ngẫm nghĩ:

- Tôi chắc nó là cây cứt lợn... Chắc thế. Không hẳn là giống cứt lợn ở ta, nhưng...

Ông bứt một chiếc lá, vê vê, rồi ngửi, rồi lại ngẫm nghĩ:

- Cứt lợn đấy... Trông màu hoa có khác. Nhưng... nó đấy.

Như vậy tôi nghĩ số phận nó đã gần như được quyết định: kẻ Nam người Bắc cùng bảo thế thì hẳn tên nó là thế rồi. Cả sách vở thông thái cùng với một địa phương nhỏ bé của tôi không đủ sức gỡ danh dự cho nó đâu. Nó chỉ còn trông cậy ở chỗ này nữa thôi: là hình như có khá nhiều địa phương độc đáo như địa phương tôi, tiếp tục từ chối cái tên xấu xa mà gọi nó cách khác. Ở Huế, ở Nha Trang, Phan Thiết, Kontum v.v..., chưa từng nghe nói đến bông hoa c... heo hay c... lợn. Biết đâu nó không là nho thơm hay ổi thơm? Ở Quảng Ngãi, bà con chú ý đến màu hoa, gọi là bông ngũ sắc.

Trong niềm hi vọng ấy, tôi đã ngập ngừng chần chờ, không muốn xưng ngay tính danh nó ra lúc vừa bắt đầu. Nhưng từ lúc này, sau khi đã giải bày cặn kẽ, tôi xin gọi nó bằng cái tên quen thuộc ở quê tôi: ổi tàu.

Tôi chắc bạn đang thắc mắc: vì sao tôi lại mê ổi tàu? lại làm lớn chuyện về ổi tàu?

°

Tôi mê ổi tàu? Nói thế là hãy còn nhẹ nhàng quá đấy. Có thể bảo về một phương diện nào đó tôi tự đồng hóa với ổi tàu. Nó là tôi.

Gần như tôi sinh ra giữa ổi tàu. Không hiểu do đâu mà quê tôi lắm ổi tàu đến thế. Không có rào dậu nhà ai mà không có ổi tàu chen chúc. Không có gò đống nào mà không có ổi tàu lan tràn, không có bờ ruộng, bờ ao, bờ khe, bờ suối nào mà không có ổi tàu đứng giăng hàng san sát... Một khoảnh đất khoảnh vườn ngưng canh tác hay thiếu chăm sóc trong ít lâu là đã thấy cỏ và ổi tàu dấy lên ngay. Không mời mà đến, không gọi mà thưa: Thứ cây vô duyên ấy cứ tự xuất hiện lừng lững, xuất hiện hàng hàng lớp lớp. Ở quê tôi ổi tàu tràn ngập như... bể cây. Chỗ nào cũng có nó, đi đâu cũng thấy nó; mà không đi, cứ nằm liệt tại nhà, ngước mắt lên nhìn là đã thấy nó rồi.

Lớn lên trong cảnh ấy, riết rồi tôi có cảm tưởng ổi tàu là một sự tất nhiên của thiên địa càn khôn. Hễ có đất là có ổi tàu, tôi không thể quan niệm nổi một vũ trụ vắng bóng ổi tàu. Tôi trịnh trọng suy tư: “Ổi tàu có đó, vậy vũ trụ hiện hữu.” Tôi yên trí nằm ngủ trên một chân lý nền tảng.

Tôi nằm ngủ như thế suốt tuổi ấu thơ. Thế rồi xong tiểu học, bắt đầu xa làng xa huyện, tôi dần dần tự tách rời khỏi ổi tàu. Đi học hành làm ăn ở Qui Nhơn, Huế, Hà Nội, Sài Gòn, Chợ Lớn v.v..., tôi không có dịp gặp ổi tàu nữa. Hàng lâu, mãi lo sách đèn, bài vở, lo bạn bè đàm đúm nhởn nhơ, không nghĩ đến nó. Khi nhớ lại, thì thấy vắng bặt tự bao giờ. Quả tình không hề thấy nó ở đầu đường Gia Long cuối đường Hưng Đạo nào, không thấy nó lấp ló ở những cổng trường Đồng Khánh, Trưng Vương, không thấy nó phất phơ dọc bờ sông Hương, sông Nhà Bè v.v... Rong chơi đây đó: Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Biên Hòa v.v...: không có đô thị lớn bé nào thấp thoáng bóng ổi tàu. Có lần đánh bạo nêu lên cái tên nó để dò hỏi, thì ai nấy ngơ ngác. Kẻ Thừa Thiên, Quảng Trị, người Đồng Nai, Bến Nghé, đều không biết mình nói đến cái gì. Một vài anh bạn che miệng khúc khích:

- Cái gì của tàu? Ghẻ tàu hả? “Nẫu” nói gì hỏi gì vậy cà?

Tôi biết sự tình không ổn, vội vàng tháo lui:

- Không không... Ơ, ờ... Đâu có! Có ai hỏi gì đâu...

Tôi cấp tốc thu hồi nó về ngay, cất giữ cho mình, như một niềm riêng tư không tiện tiết lộ cho bất cứ ai khác. Ngay từ hồi ở trong nước mà ngoài làng quê ra, ai nấy đã ra người tứ xứ, không chịu cảm thông. Đi đây đi đó, chỉ riêng tôi ấp ủ lấy tên tuổi cùng hình dáng của riêng nó mà thôi: trong trường hợp ấy bạn bảo sao mà không có lúc tôi tự đồng hóa với nó.

Ổi tàu là vậy. Bỗng trong một lúc bất ngờ nhất, tự dưng tôi đối diện nó ở tân thế giới, giữa thủ phủ xứ Utah. Không sững sờ được sao?

Bạn có tin hay không tin tùy bạn, tôi không ép. Nhưng tôi phải cho bạn hay đó là một đối diện mừng mừng tủi tủi đấy bạn ạ. Bởi vì trong cuộc trùng phùng, ổi tàu của tôi không còn là ổi tàu hèn mọn nữa, nó chợt ở một ngôi vị cao sang không chờ đợi!

Thú thực với bạn từ ngày bỏ nước ra đi nhiều lúc tôi tự thấy xuống giá ngang xương, cảm thấy mình có vẻ rạc rài thế nào. Còn ổi tàu, trong buổi hoàng hôn tái ngộ ấy, ối tàu nó đang ngự giữa một bồn hoa lộng lẫy. Nó đang trịnh trọng sánh vai cùng bao nhiêu là loài hoa rực rỡ. Vâng, nó đấy, ổi tàu — nhất danh là cứt lợn — nó đang hớn hở giữa muôn hồng nghìn tía đấy, bạn có tin được không?

Ngày còn ở quê hương, không ai có thể tưởng tượng cứt heo lại đem làm cây cảnh. Sang Hoa Kỳ, cứt heo lên ngôi. Sao mà vẻ vang thế? Tôi mừng cho nó, tủi cho mình.

Tình cảnh tựa hồ như thể một kẻ đồng hương với Chí Phèo bỏ làng ra đi lưu lạc nhiều năm, ngày kia đến kinh đô một xứ lạ bỗng nhiên gặp lại Chí Phèo mũ áo xênh xang giữa chốn triều đình, hay gặp Thị Nở đã hóa thành một đấng phu nhân đường đường với đầy đủ kẻ hầu người hạ.

Cây cỏ cũng như người, bạn ạ. Cũng là cây ổi tàu mà ngày xưa khi nó đứng ở đầu gò, góc rào, ven suối, trông nó chẳng ra làm sao; bây giờ chễm chệ giữa sân trước tòa lâu đài sang trọng, trông lại tư cách hẳn ra. Nó khoan thai gật gù nhè nhẹ trước gió chiều mát mẻ. Trông cao phẩm giá lắm cơ.

Nói cho đúng, ở đây nó có được bồi dưỡng kỹ càng hơn: những phân, nước, những thuốc trừ sâu bọ, những cắt tỉa chăm sóc thường xuyên có làm cho lá nó xanh mướt hơn, hoa nó thắm hơn, dáng hình nó óng ả hơn thuở hoang dại ngoài cõi thiên nhiên. Tóm lại, trông nó đắc ý ra mặt. Nó chịu Hoa Kỳ hơn là quê tôi. Nó chịu lắm. Nó đắc ý một cách rất vong bản. Quả nhiên sau này rõ ra là nó đã dắt díu tất cả bà con họ hàng di cư sang Hoa Kỳ từ lâu. Thật vậy, ngày bé tôi chỉ biết có một loại ổi tàu, thứ bình dân xoàng xĩnh nhất. Sang đây tôi dần dà điểm mặt được ít ra là hàng chục loại ổi tàu khác nhau. Có thứ cây có thứ dây, có thứ đứng có thứ nằm, nằm và bò lê bò la trên mặt đất, có thứ quấn quít leo lên những loại cây khác, có thứ lớn có thứ bé, hoa lá lăn tăn như hường tường vi, có thứ hoa đỏ, hoa vàng, có thứ hoa tím ngát, hoa hồng hồng v.v... Không biết từ đâu mà chúng lũ lượt kéo nhau ra đông đảo thế.

Thế này thì quá cỡ. Hoa Kỳ thật quá cỡ: bom nguyên tử, nó có; phi thuyền vũ trụ, con thoi không gian, nó có; to khổng lồ như loại cây hồng sam (sequoia) cả một chiếc xe hơi có thể chui tọt qua gốc cây, nó có; nhỏ tí xíu như con chim vo ve (humming bird) lông lớn lông bé khắp người đếm không quá chín trăm chiếc, nó có. Chưa hết! sau rốt nó còn sưu tập đủ loài đủ giống ổi tàu của tôi nữa.

Từ Utah xuống Cali, càng đi càng gặp thêm nhiều ổi tàu. Bạn bảo tôi còn sự chọn lựa nào khác hơn. Một chút quê tôi đã bắt gặp ở đây rồi. Phải “về” Cali thôi.

°

Bạn đang ngờ ngợ, cho rằng tôi có thể thuộc vào hạng người tha thiết với quê hương, tôi có khuynh hướng “về nguồn” đấy chứ gì? tôi là một phần tử có tinh thần dân tộc chứ gì? Nhảm, bạn đừng cao xa như thế, đâm hỏng ra. Tôi không về cội về nguồn gì ráo. Tôi chỉ có khuynh hướng trở về với... cái tôi đấy thôi.

Thú thực với bạn: trong khóm ổi tàu tôi chỉ trông thấy toàn những hình ảnh của chính mình. Nhiều lắm bạn ạ.

Tôi trông thấy dọc theo chân rào trước nhà những đứa bé, trai và gái, những đứa bé bốn năm tuổi lúc thúc bên nhau, giơ những bàn tay bé tí teo, xòe những ngón tay thật là xinh túm lấy mớ bông ổi tàu để nhổ lên, ngửa cổ, xoay ngược gốc hoa vào miệng, cố mút lấy một hạt mật ngọt mà con ong cũng chê là quá nhỏ. Đến mùa trái chín, những đứa bé ấy đi gỡ từng nhúm trái ổi tàu li ti như những hạt tiêu đen, sung sướng cho vào mồm. Trái chín vỡ ra trong các bàn tay vụng về, quệt quạc trây lên má lên mép, nom lem nhem luốc nhuốc. Ngày này qua ngày khác, tháng nọ sang tháng kia, các trò chơi, các thú vui nghèo nàn của những đứa bé ấy diễn ra quanh quẩn bên các chân rào. Những cặp mắt đen láy ấy, những bàn tay tí xíu ấy, những tiếng nói cười bi bô, ríu rít ấy... ngày lại ngày... bên cạnh những bụi ổi tàu chen chúc dày đặc ở bờ rào. Bây giờ tôi còn tưởng tượng ngửi lại được cái mùi của lá ổi tàu dập nát trên tay, cái mùi thật mạnh.

Này bạn, trong những đứa bé lúc thúc bên chân rào ấy, về sau có đứa cầm súng đánh nhau và chết về súng đạn, có đứa từng trở thành mẹ chiến sĩ, rồi có đứa đã thành bà ngoại bà nội nhăn nheo!

Dĩ nhiên trước khi nhăn nheo họ đã trải qua một thời kỳ khác. Thời kỳ mà mắt họ long lanh, ngực họ căng lên rạo rực, môi má của họ đỏ hồng... Tôi lớn lên, rời xa làng, thỉnh thoảng về quê, từng có dịp gặp lại đôi người. Những cô bạn bé xíu ngày xưa giờ đâm ngượng ngùng, mặt đỏ ửng, trên một khúc đường làng vắng vẻ họ ý tứ đứng nép sát một bờ rào (lại ổi tàu). Ánh mắt nhìn nhau, câu chào giọng nói với nhau lúc bấy giờ, chao ôi, những cái đó sương khói thời gian lớp lớp tỏa mờ vẫn chưa xóa lấp nổi đâu. Ở cuối trời, xa xôi tít tắp, sương khói lờ mờ cứ mãi rung lên, phải chăng là rung lên vì những xôn xao đắm đuối chưa chịu lắng chìm hẳn.

Xin lỗi bạn, tôi có cao hứng quá không nhỉ? Tôi còn muốn nhắc thêm với bạn về một hình ảnh nữa. Cái hình ảnh của chàng trai mới lớn, đầu đội chiếc nón cối, giữa buổi mai đứng bên bờ sông La Tinh nghe chim hót... Ấy chết, bạn đừng nghĩ con sông La Tinh chảy đâu đó gần kinh thành La-mã, hoặc giả quanh quẩn bên cạnh thành phố Venise thơ mộng! Không có đâu. La Tinh là tên con sông ở quê tôi đó, bạn ơi. So với những tên tuổi lừng lẫy vừa nói qua, nó là một sự hài hước. Tuy gọi là sông, nó bé lắm. Trong nhiều tháng trời nó cạn khô. Chỉ vào tháng chín tháng mười nước lũ mới tràn bờ; rồi nước rút đi nhanh chóng; sang xuân là nó đã hiền khô như một con suối. Lòng sông gần như chỉ những toàn cát với cuội. Gọi là nước, bất quá một dòng róc rách, ngoằn ngoèo cho vui vậy thôi. Ấy, trên bờ một con sông như thế chàng ta đứng nghe chim hót. Và tay chàng thì... mãi vân vê một lá thư tình cứ như đang lồng lên trong túi áo, lá thư tình đầu tiên!

Những con chim nào đã hót trong buổi sáng thần tiên hôm ấy? Chỉ biết ngày nay, cách xa ba mươi năm dư, bên tai chàng còn vang vang tiếng cưởng tiếng sáo. Trời xanh trong vắt. Những con khướu, con cưởng, con sáo ở đâu ven sông mà chúng kêu lên ong óng, kêu lanh lảnh, làm rung động cả bầu không khí buổi mai rực rỡ. Tiếng cưởng sáo nó khua vang inh ỏi buổi mai, làm chàng nôn nao rối loạn cả lên. Và làm cho từ đó chàng cứ có cái cảm tưởng là hạnh phúc trần gian toàn xuất hiện dưới hình thức tiếng chim kêu!

Chúa quyền năng tha hồ làm được vô số những buổi mai như thế, cố nhiên. Nhưng trong đời chàng, chàng không gặp lại một cơ hội tương tự. Thời gian trôi qua, mỗi lúc chàng mỗi xa cơ hội tương tự. Phải chăng lặp lại là một việc làm thiếu sáng tạo, không xứng đáng, cho nên đấng quyền năng nhất định không tái ban phát cho chàng buổi mai nào như thế nữa. Suốt đời chàng chỉ có thể ngoảnh đầu ngóng về một buổi mai bên bờ sông La Tinh.

Và bờ sông ấy — tôi cam đoan với bạn — suốt từ nguồn cho đến bể, tuyệt nhiên không hề có bóng dáng một cây liễu cây dương nào để gọi là thơ mộng. Chỉ có lau, có sậy, có tre, có dứa, có những thứ cây loàng xoàng, cùng với... ổi tàu mà thôi.

Thành thử trong bao nhiêu năm thiếu vắng nó, mặc dù bị chế giễu vì sự dò hỏi về nó, tôi không nản chí. Bị chế giễu, tôi tháo lui. Nhưng trong thâm tâm vẫn một mực đinh ninh: rồi sẽ có ngày... Tôi tự an ủi: Yên chí! Chờ ngày thái bình thịnh trị, trở về làng, tha hồ tái ngộ. Đành là chiến tranh dữ thật, nhưng bom đạn nào bột khai quang nào mà tru diệt nổi ổi tàu? Nó sẽ trơ trơ cùng tuế nguyệt. Rồi xem: thế nào cũng lại gặp nhau mà!

Bây giờ bạn đang ở Mỹ, bạn nghe nhắc đến hình ảnh “thân yêu” của người thanh niên nón cối, bạn cười muốn chết. Bạn cười cho cái thời vàng son của tôi chứ gì. Tốt thôi. Trong kho kỷ niệm của chúng ta còn có nhiều mẫu hình ảnh ngộ lắm. Có câu hát:

“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai”.

Người quân tử đội nón cối ước chừng là cháu ba bốn đời của người quân tử từng vắt lên vai thứ khăn đậm màu nọ. Cũng như thế hệ quân tử đầu trần ở Mỹ hiện nay là con cháu của lớp quân tử đội mũ dạ vừa qua. Thời thế đổi thay. Hình dạng người quân tử không ngớt tùy thời thay đổi. Duy ổi tàu vẫn thế. Ở khách sạn Utah cũng như hồi ở xóm tôi.

Đến đây bạn kêu ngấy đến tận cổ rồi chứ gì? Bạn hết chịu thấu ổi tàu, bạn ngáp lên ngáp xuống, bạn than dài thở vắn: Thư đâu có thư lê thê lòng thòng đến thế v.v... Mặc kệ! bạn không thể thoát ra dễ dàng khỏi ổi tàu đâu. Tôi còn những mấy trang nữa dành cho bạn đấy. Không phải vì ác ý: chính tôi cũng không thoát khỏi nó phen này. Đã khơi động đến niềm xưa, thôi thì liên miên, rứt ra không nổi.

°

Hãy trở lại xóm tôi. Xóm tôi toàn những gò là gò: gò Huyện, gò Ngựa, gò Đu, gò Căng, gò Đình, gò Cầy, gò Muồng, v.v... Cứ như chỗ tôi hiểu biết, cách đây không lâu vùng này còn là hoang địa. Xóm tôi chưa có dấu vết văn minh. Nói cách khác, trước tôi đôi ba đời gì đó chủ quyền vùng này hãy còn thuộc về cây cỏ và muông thú, chưa thuộc về loài người. Ông Kha-luân-bố tìm ra tân thế giới trước, xong rồi các nhà thám hiểm vất vả còn phải nghỉ ngơi một thời gian dài, mãi về sau mới có người tìm ra xóm tôi đấy, bạn ạ. Lúc mới tiến chiếm đất, người tạm sống chung với muông thú: chồn, cáo, cọp beo, heo rừng v.v... Cuộc sống chung còn để lại nhiều kỷ niệm. Dân làng vẫn kể rằng trước đây cứ đến đúng cái đêm trước ngày giỗ ông Bưng là có con cọp về ngồi ngoài hè, đưa chiếc đuôi lòn qua ngạch cửa, quơ quất vào trong nhà. Đám con cháu phải quát đuổi om sòm lên cọp mới chịu bỏ đi. Sở dĩ có chuyện ấy vì trước kia con cọp nọ đã vồ bắt ông Bưng trong lúc ông đang lom khom cắt tranh; người nhà chỉ còn tìm được nửa thây ông để chôn cất.

Cọp bắt người thì thỉnh thoảng, nhưng chuyện cọp bắt heo bắt chó ở xóm tôi là chuyện thường, bà tôi hãy còn nhớ rõ mồn một những vụ như thế. Vì vậy, ngay sau này, khi tôi đã lên năm lên bảy, vào những lúc trời chạng vạng tối, tôi đang loanh quanh gần bà, chợt có tiếng te te cất lên đâu đó là bà tôi liền lắng tai nghe ngóng, đầy e ngại.

Con te te, bạn biết chứ? Nó là loài chim nhỏ bằng nửa nắm tay, đặc biệt có cặp chân nhỏ và dài lêu khêu như que hương. Nó thường kiếm ăn ở các gò. Te te, không thấy nó đi bao giờ; nó chỉ có chạy. Bạn hãy còn xa, nó nghểnh cổ trông chừng; bạn đến gần thêm, nó vùng cắm đầu chạy một mạch rồi dừng phắt bất ngờ. Bạn lại tiến, nó lại chạy, hay cất cánh bay luôn.

Chim thì bé mà tiếng kêu của nó vang rất xa. “Te te... ù uét! Te te... ù uét!” Tiếng cao và xẳng the thé. Rất nhiều buổi tối, từ lúc chạng vạng cho đến bảy tám giờ đêm, thằng bé là tôi nằm trong ngôi nhà ít người không đèn không lửa ở chỗ đồng quê quạnh vắng, nằm nghe tiếng côn trùng rỉ rả và nghe cái tiếng lạ lùng của con te te kêu thét lên khi xa khi gần không biết từ những chỗ bìa rừng, những khoảnh gò đống nào tràn đầy bóng tối trong khắp vùng. Tôi lo sợ chơi vơi như một mình bơ vơ giữa cõi hồng hoang chất chứa bí ẩn, mơ hồ đe dọa. Bà tôi đinh ninh rằng hễ te te nó “đánh” vào lúc chạng vạng tối thường thường là có cọp loanh quanh đâu đó. Te te nó nhạy lắm. Một bước động nhẹ trên mặt đất cũng không qua khỏi tai nó.

Gạt ra một bên tất cả các định nghĩa lòng vòng cùng các tiêu chuẩn rắc rối về văn minh với văn hóa, tôi nhất trí với những ai nhận định giản đơn rằng nơi nào có máy móc, có điện, có lắm xe, có xa lộ mênh mông chằng chịt là văn minh, còn nơi nào người ở lẫn với cọp beo, với lợn lòi, với te te v.v... thì còn hơi thấp văn minh. Tôi không thiên vị, không yêu xóm gò vì nền văn minh cao. Không, tôi chỉ yêu vì nó là cõi thiên đường.

Khi tôi phải rời làng đi học trường huyện trường tỉnh, phải ở trọ nhà người ta tháng nọ sang tháng kia, mỗi lần có dịp về, lúc còn cách nhà một vài trăm thước, là tự dưng chân tôi quýnh lên, líu quíu cả lại, tôi gần như không bước được nữa.

Xung quanh nhà tôi toàn những gò. Muốn về nhà, dù đi đường nào tôi cũng bắt buộc phải băng qua một cái gò.

Suốt dọc đường, trên xe lửa, xe hơi, tôi nén được niềm vui. Nhưng khi chân giẫm lên một đầu gò, tôi trông thấy bóng dáng lẻ loi của một con te te lỏng khỏng giữa những nấm mộ lè tè, với mớ cỏ may khô xơ xác, với những đám ổi tàu..., tức thì tim tôi nó lồng lộn lên, nó làm loạn cả lên, nó quá xá, không sao kềm chế nổi nữa.

Tới gò là tới nhà. Tôi đã sắp đặt trong đầu bao nhiêu là kế hoạch, là trò lạ. Đã đến lúc đem ra thi hành. Trò nào cũng hay ho, tuyệt vời, thần tình cả. Hoặc giả tôi rón rén đi rất nhẹ nhàng vào cổng, nấp xem bà tôi đang lom khom bên luống rau nào, đang cặm cụi chăm nom những giàn cà với dây bí dây bầu nào, tôi sẽ bước êm như ru đến đứng ngay sau lưng bà, đứng như thế mà nhất định vẫn không chịu lên tiếng đâu, tôi đứng cho thật lâu xem bà tôi làm những gì, tôi sẽ nén cho khỏi bật cười, tôi đứng chờ đến lúc bà tình cờ quay lại, trông thấy tôi... Lúc ấy... phải biết!

Hoặc giả tôi lẻn vào thẳng trong nhà như một cái bóng. Tôi cất mũ nón, thay đồ đạc, không để ai nhận thấy vừa mới về, tôi làm y như thể tôi vẫn ở nguyên trong nhà với mọi người từ bao giờ, tôi vào giường nhặt một chiếc gối mang ra nằm ngay xuống chiếc trường kỷ giữa nhà. Bà tôi có thói quen dù làm gì ở ngoài vườn lâu lâu cũng ghé vào nhà uống một tách trà, có khi còn khều một vài lá trà tàu trong bình ra bỏ vào miệng nhai móm mém cho thơm. Giữa hai hớp trà chợt bà ngước mắt trông thấy tôi đang nằm... ngủ (?!) trên trường kỷ thì... ối chao ơi! Tưởng tượng đến cái cảnh bà luống cuống quýnh quáng lúc ấy, tôi hết chịu nổi. Bà líu ríu kêu lên mấy tiếng. Thế là cô tôi, em tôi... nhào vô nhà, cùng xúm lại la lối, cười rú. Tưởng tượng ra cảnh ấy, đột nhiên chính tôi lại đâm quýnh quáng ở đầu gò. Lần nào cũng vậy.

Tôi có nhiều trò, nhiều mẹo lạ như thế. Tựu trung mẹo nào cũng căn cứ trên một niềm tin căn bản: là sự hiện diện của tôi quí giá vô cùng, nó là một nguồn vui lớn lao kinh khủng, nó làm cho mọi người mừng rỡ không thể tả được.

Ngày tôi còn bé, hai thân tôi đem nhau đi làm ăn trong Nam, vì chỗ quê hương quá nghèo nàn không hứa hẹn gì. Tôi sống với ông bà cô chú. Các cô chú, cũng lại vì sinh kế, không luôn luôn có mặt tại nhà. Trong nhiều năm trời thường thường không có cha mẹ nào chờ đón tôi ở gia đình, nhưng tôi không có chút nghi ngờ gì về lòng thương yêu quí mến của mọi người đối với mình. Tự giấu mình đi, để dành một cơn vui bất ngờ, khủng khiếp (!) cho ai nấy trong nhà, tôi tự trao cho mình cái giá khiêm tốn của một... lô độc đắc! Tôi chọn một hình thức trao giải thật ngoạn mục, cho có một ép-phê bùng nổ kinh hoàng. Và tôi không tính sai. Tôi thành công liên tiếp. Mỗi lần về là một chấn động. Tôi hoan hỉ, hể hả, hài lòng về mình. Cho đến bây giờ không lúc nào thoáng nghĩ đến một mô gò xơ xác với cỏ may hiu hắt, với ổi tàu bụi thấp bụi cao, mà tôi không rộn rã trong lòng.

Bây giờ, trên xứ này, thân tôi là một hạt cát. Sự hiện diện lạc lõng của tôi trên cõi lục địa mênh mông này không là cái gì cả. Không có con đường nào, ngôi gò nào, lùm cây bãi cỏ nào làm tôi run chân cả. Tôi tha hồ phất phơ lang bạt, không có nơi nào khác nơi nào, ở đây không có một nơi nào để mà “về” cả. Có về, chẳng qua là một kiểu “về” vờ vĩnh như về Cali.

- Ủa! còn đòi gì nữa? Đời vô thủy vô chung vô cùng vô tận, ta là cát bụi trong khoảnh khắc. Bạn không biết vậy sao?

- Bạn biết từ lời dạy của triết gia là một chuyện. Mà khi bạn thấm cái ý nghĩa cát bụi ấy mới thấy nó thê lương là chừng nào.

Nhưng ơ này! bất chấp mọi dạy dỗ của thánh hiền, tôi cứ cam đoan với bạn: Đời ta có thể phù du, vũ trụ có thể là hư không, nhưng ngày nào ta còn đi về một chốn quê xó xỉnh hoang vu nào đó có chim te te với ổi tàu, ta còn là lớn lao choáng cả càn khôn, ta còn là cả một càn khôn đấy bạn ạ. Tôi tin thế nên tôi dọn nhà đến sống bên cạnh ổi tàu đây.

°

Tôi thấy bạn lắc đầu ngao ngán: “Úi dào! thư với thả! Con cà con kê mãi chỉ vì một nỗi... cứt lợn!”

Thôi thì buông tha bạn vậy. Nhưng bạn nhớ ghi lại cái địa chỉ mới của tôi trước khi vứt bỏ lá thư chán ngắt này đấy nhé.

°

12 – 1987

Hoan Ca

Từ hồi nào tới giờ tôi vẫn khoái câu hát xẩm ấy:

“Buồn về một nỗi tháng giêng

Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài

Buồn về một nỗi tháng hai v.v...”

Cứ thế buồn miết. Tháng nào cũng buồn. Dân tộc tôi ham buồn và kính trọng cái buồn. Tuy vậy, trong trường hợp này, thực tình mà nói tôi không khoái vì nỗi buồn. Mà vì chuyện nằm nghiêng. Không biết trời xui đất khiến thế nào một ý kiến ngộ nghĩnh như thế lại nảy ra trong đầu óc một nghệ sĩ nào đó xa xưa. “Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài”. Ngộ quá!

Một người có thể nghe câu hát ấy với đôi tai hờ hững là một người đắc tội. Người như vậy giá một hôm tình cờ có gặp trên đường vài con ngựa rủ nhau khiêu vũ trên sáu chân cũng không lấy làm ngạc nhiên, có trông thấy chiếc cầu vồng mười tám màu cũng không lấy làm ngạc nhiên. Tức là một người không chịu xúc động trước bất cứ biểu thị ngoạn mục nào của cuộc sống, của trời đất. Đối với người ấy, Chúa có ra sức làm phép lạ cũng vô ích thôi. Đối với người ấy, không có cái gì là lạ.

Câu hát nọ, lâu lâu tôi tưởng tượng dông dài, và càng khoái thêm. Câu lục bát “con chim cái cú” đâu phải do một nghệ sĩ bất thần nghĩ ra, rồi viết xuống, rồi rung đùi một mình? Đó là bài hát mà. Một người hát, trăm người nghe. Một người hát, hát biết mấy trăm mấy nghìn lần, trước biết bao nhiêu thành phần đối tượng khác nhau: ở hè phố, trên bến tàu, ở đầu chợ, mép sông v.v... Tức là đã chịu hằng hà sa số cuộc thử thách, và đã vượt qua tất cả. Giả sử trong một lần nào đó nó xuất hiện mà có kẻ thắc mắc, buột miệng kêu “kỳ cục”, thì bài hát đâu có lưu truyền được lâu? Không. Tôi tin không hề có lời thị phi nào về con cú nằm nghiêng, con cú thở dài cả. Tôi tin nó chỉ gặp toàn sự tán thưởng. Cho nên nó cứ nằm nghiêng một mạch luôn mấy trăm năm. Hẳn là nó phải lấy làm đẹp lòng. Mà tôi thì đắc ý về chỗ mình đã bắt kịp cái khiếu thưởng ngoạn khoáng đạt của đồng bào mình. Tôi hí hửng như thế cho đến gần đây, sau chuyến đi chơi Hạ-uy-di về, tự dưng có “vấn đề”.

Cũng bài hát ấy:

“Buồn về một nỗi tháng năm

Chưa đặt mình nằm gà gáy chim kêu.”

Nỗi tháng năm làm tôi ái ngại quá chừng. Ca hát kiểu ấy là có ý trách đêm ngắn ngày dài. Là phiền lòng về chỗ con chim con gà nó bắt đầu sinh hoạt quá sớm. Là ham cái ngủ mà chê cái sống. Sao vậy cà?

°

Hạ-uy-di đêm tháng năm cũng ngắn. Tôi chắc nó phải tận lực bình sinh co rút hết sức, cho cùng cực ngắn, vì áp lực thôi thúc; thế mà người ta vẫn cứ sốt ruột.

Trời chưa kịp sáng, mới bốn giờ bốn rưỡi gì đó, một sự rậm rật vô ý thức đã đánh thức tôi dậy. Nằm nán một lúc, trông qua cửa kính, thấy ánh sáng bên ngoài đổi màu. Không chỉ còn là ánh điện. Có một thứ ánh sáng gì khác hẩng lên rồi, không biết từ lúc nào. Và tai cũng bắt gặp những khua khuống không thường. Đêm Hạ-uy-di nó vẫn vậy sao? nó không lúc nào an giấc cả sao? Không phải gió dữ lộng hành, không phải mưa xối tầm tã. Chỉ là những tiếng động khẽ thôi, rời rạc thôi, nhưng cũng đủ chứng tỏ rằng đêm Hạ-uy-di ngủ cứ chập chờn, làm cho mình cả thẹn về giấc ngủ nặng nề của mình, ngủ một mạch tù tì luôn mấy giờ qua; thức giấc, khoác mền ra, dưới cổ ướt nhâm nhấp mồ hôi. Mình ngủ nghê cách nào mà thô tục thấy rõ.

Chợt có tiếng gì như tiếng huýt sáo mồm? Tiếng mỗi lúc mỗi lớn thêm rất nhanh. Không còn ngờ gì nữa. Tôi xô cửa, chạy ra bao lơn, nhìn xuống. Một người đàn ông bưng cái khay nhựa, trên có năm chiếc ly nhựa đậy nắp trắng toát, bước nhanh qua trước cửa phòng tôi. Đó là một người vạm vỡ mà thấp, da đậm màu, mình trần, ngực nhiều lông, chân mang dép. Thoáng trông thấy bóng tôi xuất hiện, ông ta ngước mặt lên, giơ bàn tay phải với ngón trỏ và ngón cái khoanh một vòng tròn: dấu hiệu “Tốt. Tốt lắm.” Cái gì tốt? Ông ta giải thích vắn tắt: “Ở hành lang khách sạn.”

Tôi tự trách mình chậm hiểu. Cái gì xảy ra ngoài chỗ hành lang vào giờ này? Tất nhiên một người đang huýt sáo mồm bước đi nhún nhẩy thế kia không thể loan một tin tức án mạng. Vậy thì ở chỗ hành lang phía mép bể kia đang diễn ra một vũ hội bán phần loã thể chăng?

Tôi vội vội vàng vàng, đánh răng súc miệng qua loa, chải tóc qua loa, bương bả đi về chỗ mách bảo, bụng bảo dạ: “Ấy. Những món vũ như thế dám chấm dứt cấp kỳ trước khi bình minh ló dạng lắm đa. Thì con người tốt bụng nọ không phải đã mang tấm lưng trần về phòng rồi đó sao? Biết bao tấm lưng nõn nà khác đang lẩn trốn? Không khéo lỡ hội Long Hoa mất!”

May quá, tôi không hề lỡ hội. Tôi đến nơi, chen vào giữa đám người hớn hở, chào mừng nhau, chúc tụng lẫn nhau, nói cười hể hả, trong khi chờ đón nhận một ly cà-phê nóng hổi, hoàn toàn miễn phí. Trong khoảng hành lang đèn đuốc sáng trưng, ai nấy rộn ràng, lăng xăng, kẻ rắc vào ly thêm tí kem, người rót chút sữa, kẻ khuấy đường lia lịa... Ánh điện thì sáng choang, không khí thì thơm lừng: tôi không tưởng tượng ra một khung cảnh bình minh nào kích thích hơn. Cái hoạt động vào lúc mặt trời chưa kịp ló dạng, trong một gian phòng ngào ngạt mùi cà-phê, là một cảnh hoạt động lạ lùng, nó làm phấn chấn hẳn con người. Lao vào đám người ấy, tôi bị cuốn phăng tới, tôi quên mọi chuyện: Mình có thực sự cần cà-phê không? có phải đang định đi kiếm cà-phê mà uống không? uống gấp gáp hối hả vào giờ này để làm gì? để kịp một chuyến khởi hành quan trọng nào? kịp bắt đầu một công tác khẩn trương nào? Không thắc mắc về ba cái lỉnh kỉnh ấy, tôi xông vào làm theo mọi người: cũng bốc ngay một cái cốc, cũng vồ lấy chiếc que, lọ đường, bình sữa v.v..., cũng khuấy lia khuấy lịa. Vô ý thức, tôi hoạt động vì hoạt động (cũng như nghệ thuật vị nghệ thuật).

Có cốc cà-phê trên tay, lững đững bước tới cửa, bấy giờ tôi mới ngớ ra: Đi đâu? Về lại phòng mà ngủ tiếp chăng? Mua tờ báo, bật đèn lên ngồi đọc chờ sáng chăng? Quay trở lại chỗ hành lang rộn rịp này, kéo chiếc ghế ngồi nhấm nháp chăng?...

Chợt một ý kiến nảy ra: tôi theo chân mấy người vừa vượt qua mặt, rẽ về phía bãi bể. Ở đó tôi bắt gặp ý nghĩa của một buổi sáng tháng năm, vào cái lúc “gà gáy chim kêu”. Ở đó, quặt một tay vớ chiếc ghế nhựa kéo đến bên một gốc cây bàng, sửa ghế cho ngay ngắn, tôi ngồi xuống, gác chân lên một gốc cây khô chưa kịp dọn nằm cạnh đấy, tay kia nâng cốc cà-phê lên tợp liền mấy tợp, hít hít cái mùi cà-phê trộn lẫn với mùi sương mai mùi nước bể, rồi ghếch mỏ nhìn mông ra mặt nước với chân trời..., đột nhiên tôi “ngộ” cái nghĩa sống trên cõi đời quí báu. Tôi ngộ cái một, không kịp tốn một sát-na suy tưởng nào.

°

Bạn định hỏi tôi bãi bể ở chỗ ấy nó đẹp cách nào? cát nó phẳng nó mịn ra làm sao? màu trời ở đấy xanh kiểu nào? cái gió cái mây buổi mai ấy nó đặc biệt ra sao? v.v... Phải vậy không? — Ấy, đừng! Bạn đừng hạch hỏi, tra vấn nhiều quá. Lỡ tôi bốc lên tán bậy huyên thiên, phải tội chết. Tôi là kẻ yếu lòng. Hứng lên rất có thể tôi khoác lác, khiến thiên hạ bực mình. Ai mà không bực mình khi bị những lời lẽ ba hoa thiên địa vã tới tấp vào tai? cái ba hoa của một kẻ đi chưa được nửa ngày đường đã đòi rùm beng.

Bạn hỏi là kẹt cho tôi! Vả lại không cần hỏi ai cả. Bạn chỉ cần đến đấy, một chỗ xa cách mọi công việc bận bịu, ngồi xuống nơi lằn ranh giới giữa đất và nước, vào cái giờ ranh giới giữa đêm với ngày, thế thôi. Thế là tất cả năm giác quan của bạn sẽ bỏ phiếu theo tôi, theo cảm tưởng của tôi. Cái làn da của bạn nó vui, lá phổi của bạn nó phập phồng phởn phơ, từ cái tai cái mắt cái mũi, cho đến cái thần trí của bạn, tất cả chúng đều thấy khinh khoái. Bạn sẽ thông cảm với tôi ngay.

Lúc này tôi không dám giấu bạn điều gì, và xin thú thực rất khẽ vào tai bạn: Bấy giờ tôi chẳng hề có được một ý nghĩ nhỏ nào trong đầu, cũng không hề triển thi một môn thuật nào, hoặc hít khí hạo nhiên đưa thẳng vào đan điền nhốt lại, hoặc vận khí công chuyển lang thang khắp huyệt nọ huyệt kia v.v... Bấy giờ tôi rổng như cái xị mà một tửu đồ vất ra sau khi nốc cạn giọt đế cuối cùng. Tôi ngồi trống trơ hàng giờ. Xung quanh tôi cũng thế: chỗ này một chiếc ghế trắng, chỗ kia vài chiếc ghế khác chiếc xanh chiếc vàng v.v..., trong cái nhá nhem trước bình minh những khối đen lù lù ấy cũng lặng lờ, cũng im thin thít như tôi, cũng thỉnh thoảng làm một tợp cà-phê, hít một khói thuốc. Và chúng tôi cứ thế mà... sung sướng. Sung sướng cùng mình.

Bạn không tin? Vâng, bạn đừng tin điều gì trước khi bằng cớ được trưng ra. Và bằng cớ thì lúc trời dần dần hửng sáng, tôi bắt đầu góp nhặt đây đó được dăm ba cái cớ để trình bạn. Tôi không phao truyền một tin lành, một niềm vui vô căn cứ. Xin trình:

Thoạt tiên là những mẫu tàn thuốc quanh chân ghế. Nhiều lắm. Trông bẩn mắt lắm, bạn ạ. Bẩn mắt mình, và nhất định là bẩn mắt luôn đám quản lý khách sạn. Tất nhiên phải có nhân công thuê làm công việc dọn tàn thuốc cho sạch sẽ khoảng bãi bể trước mặt khách sạn. Nhưng không cách nào dọn kịp. Không phải vì lẽ ở Hạ-uy-di tàn thuốc nó có tài đẻ thêm tàn thuốc tới tấp. Mà chỉ vì sự sống ở đây nó thao thức không ngừng.

Ngày tháng năm thì dài, mà đêm đến mình vẫn không ngủ được. Ngoài bãi lại có tiếng nói tiếng cười, trên các lối đi cứ có bóng người loáng thoáng, nước bể cứ rập rình mãi, trên trời thì hằng hà sa số vì sao cứ thi nhau sáng, sao lớn sao bé chập chùng nô nức cứ lao nhao như hội như hè giữa thinh không suốt đêm v.v...; ngoảnh qua ngoảnh lại khắp trời đất chưa có thứ gì chịu ngủ cả thì mình ngủ thế quái nào được. Cho nên nếu mình không tham gia một hoạt động nào cho vui nhộn, ít nhất cũng cầm đôi ba lon bia và gói mực khô hay tôm khô gì đó, ra biển với một vài người bạn. Thế rồi người thức thì thuốc điếu chúng nó cũng thức theo, thỉnh thoảng nó lóe sáng một cái trong khoảng bóng tối một tàn cây bàng, thỉnh thoảng một mẫu tàn bị vứt xuống cát giật mình bắn ra mấy tia lửa nhỏ giận dữ. Những tàn thuốc của đêm khuya vừa nhắm con mắt sáng rực của chúng được một lát thì lác đác những mẫu tàn thuốc đón đợi bình minh đã kế tiếp nằm lóm đóm trên bãi.

Sự sống của hôm trước không chịu tắt, chịu nghỉ; sự sống của hôm sau lại không chịu chờ. Nó không kiên nhẫn, nó không nhường nhịn. Nó nhấp nhổm, nó rậm rật, rốt cuộc nó bắt đầu trước cái lúc được phép bắt đầu. Vì vậy mà hôm trước với hôm sau suýt nữa va chạm nhau.

Tàn thuốc lặng lẽ tiết lộ niềm hân hoan của con người, cái rạo rực của sự sống là như thế. Và như thế tôi chợt ái ngại về nỗi tháng năm ở xứ mình. Ở đây ngày không đủ dài cho cái chơi, cái sống; ở mình đêm quá ngắn, không đủ cho một chút nghỉ ngơi. Mình vất vả quá. Thương lắm thay.

°

Bạn không thích loại bằng cớ bẩn thỉu vừa được trưng dẫn chăng? Tôi xin trình bạn loại khác vậy.

Lúc ánh sáng còn chưa đủ để nom rõ mặt người, cách tôi chừng chục thước tây có anh chàng hai tay bưng hai ly cà-phê, đã ngồi xuống một chiếc ghế lại còn lấy chân khều thêm chiếc ghế nữa đến bên cạnh. Anh ta ngồi xuống được một lát thì từ trong khách sạn te tái chạy ra một thiếu nữ. A! Cô nàng còn mãi bận nhiều công việc trước chiếc gương nên chậm trễ. Cô phăng phăng lao tới, nhảy tót vào lòng anh chàng Hai Ly, khiến anh ta phải giang rộng cánh tay ra để nước khỏi chao đổ lên người. An tọa vào ngôi vị hạnh phúc xong, cô nàng cười ngặt nghẽo, rồi níu lấy một cánh tay anh Hai Ly, kéo vào tận môi mình một ly để cô ta khánh thành hớp nước thơm đầu tiên trong ngày.

Sau đó, anh chàng hạ hai tay xuống, ôm vòng trước ngực cô bạn. Họ ngồi yên, và sung sướng... cùng mình.

Rồi trời sáng rõ hơn nữa, đủ để tôi đoán con người đang đứng cách tôi ba thước tây là một người Phi-luật-tân. Mái tóc muối tiêu thật ướt, chải lật ngược ra sau, phủ ót. Quần jeans, áo sơ-mi màu vàng tươi; áo quần thật sạch sẽ, khô dòn. Ông bạn cài một chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ gắt lủng lẳng bên hông. Một tay ly cà-phê, một tay kẹp điếu thuốc. Tôi chưa hề trông thấy ai phô diễn sự hài lòng lặng lẽ mà hùng hồn như ông bạn. Hít thật sâu một khói thuốc, khuỳnh rộng vòng tay nâng ly cà-phê lên, nghiêng người cúi đầu hớp một hớp nóng hổi, rồi thở khói ra ào ào bát ngát giữa trời. Ông bạn không đơn điệu: lúc phun khói bằng mồm, lúc xịt khói bằng mũi, lúc ngước mặt lên mà phà, lúc cúi đầu xuống mà thổi v.v... Kiểu nào trông cũng hay ho cả. Không có một kiểu nào hững hờ, máy móc, như cái ăn cái hút đều đều trong cuộc sống thường nhật buồn tẻ. Ở ông bạn, mỗi khói thuốc là một sáng tạo.

Ông bạn đứng thì dạng chân ra. Nhưng ông bạn không đứng yên: một khói thuốc, đi tới mấy bước, đạp chân vào gốc cây nhún thử mấy cái, thu chân về, dạng chân ra; một hớp cà-phê, quay ra, dí mũi giày xuống đất, dấm dứ mấy cái, lại thu chân về, dạng chân ra; ông dùng ngón trỏ đập lên điếu thuốc, dùng ngón út gạt rụng tàn thuốc; khịt mũi, quẫy mạnh đầu, nghiêng mặt dùng lòng bàn tay đỡ cằm thốc mạnh lên một cái, bẻ cần cổ cho máu huyết lưu thông (?) v.v... Và ông bạn cựa quậy đến đâu thì chiếc mũ lưỡi trai cựa quậy đến đó. Khắp người ông bạn là một niềm hân hoan. Không phải thứ hân hoan e dè, mà là thứ hân hoan rậm rật nó không cho phép một đường gân thớ thịt nào được uể oải, được yên nghỉ.

Có điều làm tôi ân hận. Số là niềm vui nọ có sức thu hút cao: mắt tôi bất giác cứ hướng mãi về ông, khiến ông bạn tự dưng cảm thấy bất an. Phun khói thuốc lên trời xong, ông bạn quất một khóe mắt về phía tôi; thổi một khói thuốc xuống đất xong, ông bạn lại liếc qua về phía tôi v.v... Tôi áy náy, rồi sợ hãi, lấy làm phiền lòng về mình, tự trách thái độ khiếm nhã của mình. Tôi vật vã kêu thầm trong bụng: “Oan cho tôi lắm, ông bạn ạ! Tôi không hề có ý chế giễu chút nào. Sự hài lòng về mình, sự hài lòng lộ liễu về cuộc sống, về một khoảnh khắc an lành nào đó của cuộc sống, những cái đó không bao giờ lố bịch cả. Ông bạn hồ nghi về ý nghĩa sự quan sát lén lút vụng trộm chăng? Cái lén lút ấy chỉ nhằm giấu giếm một lòng ganh tị, ao ước, thèm muốn thôi. Ông bạn hãy nhún nhẩy thêm nữa vào, cứ việc ve vẩy thêm nữa, để cho những kẻ xấu tính hay ganh tị, những kẻ ấy uất lồng lên. Tôi sẵn sàng đón chịu sự trừng phạt...”

°

Ấy, khi lũ tàn thuốc thao thức tiếp nhau lóe lên ngoài bãi, khi anh chị Hai Ly tọa vị trên ghế mà tưởng trôi trên mây, khi đàn sáo cứ bay lên đáp xuống giữa khoảng bãi cỏ và các ngọn dừa, kêu ong óng vang cả bình minh v.v...; xin tưởng tượng xem: Khi ấy mà tôi còn nằm chình ình một đống trên giường, ngáy ồ ồ, ngủ mê ngủ mệt, ngủ lăn ngủ lóc, mồ hôi mồ kê đầm đìa, thỉnh thoảng mớ mết ú ớ mấy tiếng, ngủ như một đứa trẻ chưa dứt sữa mẹ, như một gã tục tử sau đêm trác táng, say sưa, sau một đêm bài bạc... Hoặc giả như một tên dân thành thị ở lục địa, tất tưởi bôn ba đầu tắt mặt tối vì công việc! Tưởng tượng ra như thế, cái đống lù lù trong phòng một khách sạn Hạ-uy-di vào lúc bình minh trông nó thô tục biết chừng nào.

May mắn làm sao, nhờ một tiếng huýt sáo mồm mà tôi thức dậy gần kịp thời, bắt gần kịp nhịp sống địa phương, mà tôi bắt theo gần kịp ông bạn Phi-luật-tân. Ông bạn, mũ kết đã lủng lẳng cài ngang hông rồi, tức là đã sẵn sàng. Sau bãi bể là cuộc họp, sau cuộc họp là ông bạn chụp chiếc mũ lên đầu, vù luôn. Còn tôi — ấy chết — tôi phải chạy về phòng chỉnh đốn y phục dung nghi, xếp đồ lặt vặt vào túi hành trang, tất cả phải nhanh nhanh một chút để khỏi trễ buổi họp.

Họp cái gì vậy? Chấn hưng kinh tế chăng? Mở rộng tự do chăng? Đoàn kết đấu tranh chăng? — Ấy, đừng có om sòm như thế. Ở đây, chỉ có một đề tài thôi. Mọi hoạt động chỉ nhằm một chuyện: Chơi.

Chiều hôm qua, sau mười tiếng đồng hồ rong chơi hết rừng này bãi kia đến núi gần đồi xa, trở về khách sạn, vừa xô cánh cửa bước vào phòng đã thấy có kẻ nào lòn vào một tờ giấy mời họp. Hứa hẹn có thuyết trình viên kinh nghiện lão luyện. Thuyết trình về... nghề chơi. Đúng tám giờ, người lão luyện thao thao: Bãi nào nông bãi nào sâu? Muốn lặn xem cá màu đáy bể thì đi đâu? Muốn phóng ngựa đồi hoang đi ngả nào? Ăn luau có bao nhiêu nơi tổ chức? Du thuyền chạy ven đảo có mấy hãng chuyên trách? v.v... Nhao nhao hỏi đáp náo nhiệt một hồi; rồi xổ số. Người này trúng hai chỗ ngồi trên trực thăng bay quanh đảo; người khác trúng cái vé cưỡi ngựa xem hoa; người khác nữa trúng vé đi thuyền ra khơi và lặn xem cá v.v... Vỗ tay mừng đôm đốp. Rồi kẻ trúng người không cùng rời phòng họp toả ra, xông vào cuộc chơi cho đến chiều.

Chơi là lẽ sống của kẻ đến Hạ-uy-di, là nguồn sống của người ở Hạ-uy-di. Quanh năm thiên hạ các nơi lũ lượt kéo đến đây vui chơi, mùa hè cũng như mùa đông. Và ở đây trăm nghề hầu hết là nghề phục vụ du khách bốn phương.

°

Tôi đến đảo Kauai vào những ngày mà ông Gorbachev thăm viếng Hoa Kỳ. Buổi tối, bật ti-vi lên, vặn ngược vặn xuôi khắp các đài, tôi không bắt gặp bóng dáng nhân vật nọ đâu cả. Chỉ có bãi tắm, có thác nước đổ ào ào giữa cảnh rừng xanh sum sê cây cỏ! Chỉ có những toà khách sạn lộng lẫy chiếm cả từng khu vực mênh mông, với hồ, với rạch đào ngoằng ngoèo cho khách chèo outrigger nhởn nhơ, có đảo nhân tạo đắp lên cho hạc cho công cho trĩ nó múa v.v... Tôi không có ý cam đoan rằng truyền hình Hạ-uy-di tuyệt đối cấm cửa các chính khách; tuy nhiên muốn tìm cho được khuôn mặt ông Gorbachev hay khuôn mặt ông Bush dưới khóm lá bụi hoa nào đó, công phu lắm đa. Chắc là phải chờ đợi lâu lắc, phải kiên nhẫn lắm. Tôi không có đức kiên nhẫn. Sau một ngày đường vất vả, tôi ngủ khò trước khi kịp thấy mặt lãnh tụ hai siêu cường.

Hôm sau, có tin tổng thống Nam Hàn bay sang Cựu-kim-sơn để gặp Gorbachev, làm cho Kim Nhật Thành lồng lộn lên. Tôi lấy làm tò mò quá, đến quầy báo mua một tờ xem thử. Ơ kìa! không hề có những cái nhảm nhí ấy trên báo chí Kauai. Tuyệt không! Garden Island Extra là một tờ báo kỳ cựu ra đời từ đầu thế kỷ; giá có dịp lưu lạc sang ta nó là một bậc huynh trưởng đấy. “Đảo Vườn” là mỹ danh của Kauai, vì đảo này cây cối um tùm xanh tốt như một khu vườn lớn. “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Tờ báo của Đảo Vườn ra mỗi tuần một số mười hai trang. Phần quan trọng nhất (hai trang) dành cho mục gia chánh! (Tuesday’s kitchen. Báo phát hành mỗi ngày thứ ba). Trang một loan các tin chấn động: hoạt động của những ông bà thị trưởng, nghị viên, dân biểu địa phương, của một trại chủ nuôi được con bò to tướng sắp mang đi đấu xảo tại hội chợ nông nghiệp ở Lihue hay có thể tận Waikiki chẳng hạn v.v... Phần còn lại tất nhiên là của nền văn minh vui chơi: lại trượt nước, lại bơi lội, ăn luau, lại câu cá, ngắm cá v.v...

Những ai không theo phép tắc địa phương, không tuân lệ làng, đều bị phạt vạ nặng nề. Thật vậy, tôi quay ra hỏi mua một tờ Los Angeles Times: một đồng bảy mươi lăm xu! Gấp bảy giá bán tại Eo Ê. Đáng đời những kẻ táy máy, đã đến đây còn đòi bận tâm theo dõi cái vớ vẩn xa vời.

Lệ làng có thưởng tất có phạt chứ. Những tách cà-phê miễn phí phát ra vô hạn định mỗi buổi sáng là thưởng đấy, còn gì nữa? Trước bảy giờ nhà hàng chưa mở cửa bán bữa ăn mai, mà cuộc sống ở Hạ-uy-di thì nó không thể chờ đợi đến bữa ăn mai. Đối với những ai biết hưởng ứng theo địa phương, biết tỏ ra sốt sắng đối với cuộc sống, Hạ-uy-di vui vẻ chiều chuộng ngay. Sau bảy giờ, hạng sống lười sống lĩnh sống uể sống oải uống một giọt là phải trả tiền một giọt. Sau bảy giờ, Hạ-uy-di sòng phẳng như mọi nơi trên thế gian.

°

Cái chơi ở đây là cái thiêng liêng.

Tại thung lũng Kakalau thuộc đảo Kauai, trên một ngọn đồi có mỏm đá Tiên Đồng. Kìa, trẻ con làm gì, trông chờ ai mà đến nỗi hoá đá? Trông cha lặn lội trèo non vượt núi đi “giải phóng” chăng? Trẻ con đã làm gì có công lao hiển hách mà nên tượng, mà thành tiên thành thần. Chúng cưỡi ngựa sắt đánh giặc Ân chăng? — Không đâu. Đấy là hai đứa trẻ biết chơi thôi mà. Tục truyền rằng xưa kia vào một đêm trăng có hai tiên đồng xuống trần gian giỡn trăng vui đùa mải mê quên về. Lúc mặt trời lóe sáng, cả hai bị hoá đá.

Trẻ xưa biết chơi, trẻ nay càng biết chơi. Trẻ trai biết chơi, trẻ gái càng biết chơi. Trong một cuốn sách gọi là tiểu thuyết, cuốn Hawaii của James A. Michener, hồi đệ nhị thế chiến một thiếu tá mang quân hàm đại tá giả định trong một phái đoàn Hoa Kỳ sang đảo Bora Bora lo quốc quân trọng sự. Trong những ngày bàn quốc sự, phái đoàn không được mời ở khách sạn đâu. Mỗi vị có một túp lều tranh với một... quả tim vàng. Riêng phần đại tá Hale cô bé tiếp ông chỉ lớn hơn con gái ông có một tuổi. Cô bé mười lăm tuổi nọ được bố mừng tuổi bằng cách cất cho ngôi nhà con con gần bãi bể để vui hưởng lạc thú đến tận cùng thỏa mãn trong thời gian trước khi lấy chồng.

Buổi sáng cuối cùng cùng nhau trên bãi bể cô bé hỏi và được vị đại tá bảo rằng ở lục địa Hoa Kỳ không có phong tục như thế, cô ta buồn xo: “Thật đáng tiếc. Năm tháng qua nhanh lắm mà. Chẳng mấy chốc...” Cô bé chỉ về phía một bà lão đang còng lưng mò bắt từng con sò trên bãi, nói một câu tiếng Pháp theo giọng địa phương: “Et bientôt c’est tout fini et nous ne jouons plus.” 1

Ối Trời! Không chơi nữa thì còn gì là đời! là cuộc sống!

Thế cho nên tiên chơi lấn sang ngày, mà người thì chơi lấn về đêm. Và chơi quanh năm...

“Tháng giêng ăn tết ở nhà,

Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè...”

Tháng tư, tháng năm, tháng sáu..., cứ thế chơi miết. Tất cả sẽ thành tiên đồng tiên lão. Ở đây không có sự phân biệt: Thứ bảy chủ nhật là ngày nghỉ ngày chơi đã đành. Thế thứ hai là ngày gì? Là ngày phè phỡn đấy. Còn thứ ba thứ tư, là những ngày gì? Thưa, là những ngày nhởn nhơ... Ngày nào cũng là ngày của Chúa cả, xin đừng phân biệt. Hãy hỏi ông thuyết trình viên lão luyện ở các cuộc họp tám giờ mai thì biết. Ôi, Hạ-uy-di!

Ở Hạ-uy-di nếu có ngày kiêng cữ, có một tháng ngừng chơi, tất xảy ra trục trặc lớn ngay. Trăm nghề sẽ bị chấn động to. Sinh hoạt xã hội tha hồ điên đảo. Đảo Bora Bora của cô bé Tehani nọ chính là quê xưa đất tổ của dân Hạ-uy-di. Xứng nguồn xứng ngọn lắm.

Từ Hạ-uy-di nhìn về nguồn như thế; từ Hạ-uy-di nhìn ra ngoài vũ trụ xa xăm cũng có thể bắt gặp một lời nhắn nhủ như thế lắm. Viễn vọng đài Keck từ ngọn núi Mauna Kea vừa chụp hình được giải thiên hà NGC 1232 nào đó cách quả đất 65 triệu năm ánh sáng. Mỗi năm ánh sáng là cả một khoảng cách chúng ta ước chừng sáu nghìn tỉ dặm đường đấy.

Viễn vọng kính đài Keck là cái kính mạnh nhất, lớn nhất thế giới hiện thời. Thành thử tại Hạ-uy-di, chúng ta có khung cửa sổ lớn nhất để loài người nhìn ra vũ trụ, ra cái Mênh Mông hãi hùng. Cái Mênh Mông còn có lời nhắn nhủ nào khác lời bé Tehani!

Giữa Mênh Mông Vô Thủy Vô Chung, mỗi đêm khuya mỗi mai sớm, bên một mép nước đại dương, tay bưng cốc cà-phê, ngồi mà rình xem cái chân diện mục của từng phút giây. Hồi hộp, run lên vì cái rạo rực ngấm ngầm trong mỗi phút giây. Chẳng phải là điều nên làm sao?

12 - 1990

Chú thích:

1 “Chẳng mấy chốc mọi chuyện qua đi và chúng ta sẽ chấm dứt cuộc chơi.

Cô Quì Còn Không?

Bình Nguyên Lộc có tập truyện bằng văn vần, gọi là Thơ Ba Mén. Truyện ấy hình như chưa bao giờ xuất bản. Thơ Ba Mén là thơ thế nào, tôi không biết. Chỉ tình cờ biết qua lời khai từ, trên vài chục câu. Và chỉ nhớ vài câu:

“Ghe ơi, vài bữa ghe về

Nhắn người dưới ruộng, cô Quì còn không?”

“Ghe ơi”, ghe ấy tức những chiếc ghe thương hồ đậu ở bến sông Ông Lãnh một buổi sáng mưa dầm. Trong thời chiến tranh, chốn nông thôn bất an, lắm kẻ bỏ quê lên tỉnh sinh sống. Trong số những kẻ ấy có người đã yên thân làm ăn ở Sài Gòn; nhưng thân có yên mà lòng chưa chịu yên. Những hôm mưa rơi nhẹ nhàng, tiết trời lành lạnh, người nọ ra bến sông, ngồi uống tách cà-phê nóng ở một quán nhỏ, nhìn lũ ghe thương hồ từ dưới quê chở nông phẩm lên bán mà nhớ về làng xóm cũ. Ghe đi vài bữa ghe về, mà mình thì biền biệt, nhớ cô Quì muốn chết. Một ông khách bới tóc (tức cũng người gốc quê) ngồi bàn bên cạnh liếc sang có trông thấy người nọ khóc trộm. Thảm quá.

Vì bấy nhiêu mà tôi không quên được thơ Ba Mén. Mà tôi bị thơ Ba Mén ám ảnh.

Áng chừng người nọ bỏ quê ra đi cũng không lâu mấy. Cô Quì vẫn còn gọi được là cô Quì thì xa cách có gì là lâu. Xa như chúng ta — một số đông đảo trong chúng ta, những kẻ rời bỏ xóm làng từ tuổi đôi mươi cho đến tận cuối đời — xa nhau đến thế thì nhớ về người cũ đâu còn nỡ gọi nhau là cô! Từ lục tuần thất tuần về sau, dẫu có còn đấy các cô Quì cũng thành ra cụ Quì cả thôi.

Đàng này, mới tách lìa nhau đấy đã mếu máo, đã rối rít: “Cô Quì còn không?” — Làm gì mà chả còn. Lo sao lo quá lắm vậy.

°

Giờ tạm gác qua chuyện tuổi tác, tuổi cô tuổi cụ.

Trước, hãy nói về những cô Quì muôn thuở. Muôn thuở và muôn phương luôn. Những cô Quì làm cuống quít người khác phái khắp cùng đó đây.

Sống giữa Sài Gòn, ngày ngày lội ngược lội xuôi các con phố đông nghìn nghịt, bộ người đàn ông nọ không gặp được cô nào vừa mắt, khả dĩ sánh với người dưới ruộng sao? Sức mê hoặc nằm ở chỗ dưới ruộng chăng? Chốn lâu đài phố xá là không đáng kể, phải gốc “dưới ruộng” mới hấp dẫn chăng? — Giả thiết ấy nghe rối trí quá. Trong kháng chiến, có những kẻ bỏ thành đi khu lại quay quắt nhớ về mấy bóng hồng ở một căn gác nhỏ ngay tại Hà Nội:

“Gác Dì Năm thuở ấy họp bình thơ

Người trong cuộc bây giờ đâu nhạn cá?”

Nguyễn Tuân đấy. Vũ Hoàng Chương đấy. Quê nhớ thành đấy.

Cô Quì không nhất thiết ở một nơi nào. Có thể tin rằng người bỏ Cà Mau đi làm ăn xa thì nhớ da nhớ diết cô Quì Cà Mau, kẻ di cư rời Phát Diệm Bùi Chu thì mơ tưởng bóng hình cô Quì Bùi Chu Phát Diệm... Ở đâu mà không có một cô Quì? Cô Quì ruộng, cô Quì thành, cô Quì da đen, cô Quì tóc vàng, cô Quì Trường Sơn, cô Quì Vàm Cỏ, cô Quì Hương Giang, cô Quì Trèm Trẹm, cô Quì thảnh thơi giữa đồng xanh bát ngát, cô Quì tơi tả dưới bom đạn mịt mù v.v... Cô nào cũng là cô độc nhất vô nhị trên đời, tuyệt không thể thay thế được. Tách rời một cái là tha hồ đau lòng mỏi miệng như con cuốc cuốc cái gia gia.

Ông Trời khôn ngoan, láu lỉnh, đã đặt để ra như thế. Nếu không thế sẽ không có cách nào ngăn cản nổi người giết sạch người. Nếu trên thế gian chỉ có một người đẹp thôi thì chúng sinh còn có cách giải quyết nào khác cách giết nhau? Cho nên người độc nhất phải là người vô số. Mầu nhiệm thay.

°

Thuở thơ ấu ta đã có mắt tinh vi, thấy được con dế trốn dưới cỏ, thấy ổ sáo con nằm sâu trong bộng cây, thấy từng cái kẹo trong túi áo của bà nội bà ngoại... Chớm tuổi đôi mươi thì ta có mắt thần.

Gậy tiên chỉ vào, hòn đất hóa cục vàng. Gậy tiên quí vậy nên cực hiếm, nên huyền hoặc. Mắt thần càng quí hơn, nhưng mỗi người mỗi có. Con bé hàng xóm vẫn gặp nhau hàng ngày, vẫn tranh nhau trái me trái ổi cãi cọ chí chóe; lớn lên, một ngày nào đó ta được trao cho mắt thần, trông lại con bé bỗng ngẩn ngơ: Cô Quì đây rồi.

Cô Quì xuất thế, mọi sự đổi thay. Ta vừa mở cánh cửa bước sang một cuộc đời khác. Ta trông ánh sáng cách khác, nghe tiếng gió thổi cách khác. Ta biết những cảm xúc mới lạ, những cảm xúc chưa từng. Nhìn lại từng bộ phận nhân thể của chính mình, ta ngỡ ngàng. Ta không còn nhận ra ta nữa: ta thay đổi từ vóc vạc, giọng nói, cho tới cái hơi thở. Ta như con rắn lột da, thành con rắn khác.

Ta đối với ta còn thế, huống hồ đối với người khác. Cho nên cô Quì là một khám phá: dẫu gần gũi cũng hóa ra mới lạ. Làm ta ngây ngất, mê tơi. Nhờ mắt thần, mỗi chàng trai đều có được một cô Quì tuyệt vời.

Nguyên một sự thay đổi ở ta đã thế, huống hồ laị có sự thay đổi cùng lúc về phía cô Quì. Thì ở cô cũng có chứ sao không? Đến tuổi ấy, cô mở mắt trông ta, bỗng ngạc nhiên, bỗng đắm đuối. Ta đã thành một cậu Quì rồi. Cô ấy với cậu ấy, chao ôi!

°

Trên thế gian vẫn có bày sẵn nhiều món quí. Tạm ghé nơi này trong chốc lát, chúng ta được thết đãi tử tế. Thượng Đế đâu có bỏn xẻn. Nhưng hoa quả thịt cá, có ăn mới thấy ngon; rượu, có uống mới thấy khoái; thuốc, có hút mới thú, mới đã. Cô với cậu thì chỉ có nhau, chỉ bên nhau, là hoan hỉ đã vô ngần. “Em đi chàng theo sau”. Thế là “em” đã vui sướng, đã mở hội trong lòng, đã cuống cả chân. Em đi, em có làm gì chàng đâu? chàng có làm gì em đâu? Em là gái nhà lành, gái khuê các, em là con nhà gia giáo, chàng con nhà lễ nghĩa. Không hề có chuyện lườm qua liếc lại, cười qua cợt lại; chỉ mới bén cái hơi là mê tơi rồi. Chỉ một cái hơi bên cạnh. Chỉ có em đây có anh đấy, chỉ là “có”, tức khắc sảng khoái cả tinh thần rồi. Rượu với thuốc phiện mà đến ngồi bên cạnh đã hả hê được à?

Đến đây đâu đã hết cái hay ho của cô với cậu. Trẻ với kẹo: chỉ có trẻ yêu kẹo, kẹo không yêu trẻ. Người với rượu: chỉ có người nghiện rượu, rượu không nghiện người. Xưa nay không ai bắt gặp có kẹo nào náo nức trong hũ trong lọ. Không ai bắt gặp rượu nào xôn xao rạo rực trong ve. Đàng này, cô với cậu thì... ối, không gian như chứa đầy những tín hiệu tìm nhau xao xác. “Không gian như có dây tơ”. Trai gái mỗi bước mỗi vướng chạm cái mạng tơ giăng tình cảm. Cứ ra khỏi cửa là háo hức tưởng chừng nơi góc phố này ngã ba kia, con hẻm kia vườn hoa nọ... đều có thể gặp một mối tình đang lấp ló đợi chờ. Nơi này một ánh mắt chỗ kia một nụ cười. Trong sương sớm, trong nắng vàng, đều có thể phục sẵn những tình cảm vu vơ mà nồng nàn. Những mối-tình-khả-dĩ rập rình đợi khắp đó đây.

°

Thế rồi mai kia, từ một nơi xa hơn bờ sông Ông Lãnh — vâng, có phần xa hơn — từ một nơi thái thậm an lạc, tuyệt đối an lạc — nơi cực lạc — ta thẫn thờ nhớ về một cốc cà-phê bất khả. Bất giác buột miệng kêu: “Nhắn người dưới thế, cô Quì còn không?” Rồi bật khóc nức nở. Bấy giờ Thượng Đế ngồi cạnh (tựa như ông già bới tóc trong quán thuở nào), Thượng Đế lòng lành liếc thấy, tha hồ ái ngại xót thương. Cô Quì còn không? — Thì vẫn còn. Cô Quì của thiên hạ vẫn còn hoài dưới thế. Vẫn mặt hoa da phấn. Phây phây khắp nơi. Tóc bay trong gió. Mắt long lanh. Mắt lúng la lúng liếng... Ôi cái nhớ của kẻ xa xôi, nhớ quay nhớ quắt, nhớ da nhớ diết. Vô phương giải cứu. Ông Trời già bên cạnh mỗi lúc mỗi bồn chồn xót thương. Vô phương.

Cái nhớ ấy, sánh với nó họa chăng chỉ có cái nhớ của cụ Quì hướng về cậu Quì. Cụ Quì (hoặc bới tóc hoặc không bới tóc), lù khù lọm khọm, âm thầm trong tuổi già ở trần gian, thỉnh thoảng ngẩn ngơ sực hỏi: “Cậu Quì ngày nọ... Đâu rồi cà?”

Một cái nhớ da diết, sánh với một cái nhớ quá đỗi hắt hiu.

10 – 1998

Tư Bề Người Dưng

Thơ Ba Mén của Bình Nguyên Lộc, một hôm nhớ lại vài câu khai từ, kẻ bép xép đã trót vui miệng phun ra mấy câu nhảm nhí. 1

Hôm nay bỗng dưng nhớ ra vài câu khai từ nữa; e không khỏi nhảm nhí thêm nữa.

“Nhìn ghe bỗng chạnh tình quê

Rưng rưng nước mắt: tư bề người dưng.”

Ba Mén thế đấy: ngồi quán uống chơi một cốc cà-phê, trông thấy mấy chiếc ghe thương hồ từ dưới quê mới lên, tự nhiên muốn khóc. Nhớ quê, nhớ quá. Dân là dân Biên Hòa mà lưu lạc tới tận Sài Gòn, xa lạ ôi xa lạ. Cầm lòng sao đặng? Khóc thôi! Khóc về cảnh ngộ tư bề người dưng.

Cảnh ngộ ông Ba Mén xui nhớ tới cảnh ngộ ông Xuân Hiến ngày nào. Năm 75, thi sĩ Xuân Hiến hớt hơ hớt hải bỏ Sài Gòn bôn tẩu. Bay một mạch tới chỗ thị trấn Tacoma ở tiểu bang Washington, thuộc miền tây bắc nước Hoa Kỳ, được cho tá túc tại một ngôi nhà lạ hoắc (cố nhiên). Vào nhà, ngó trong ngó ngoài, thò đầu ra nhìn phố xá. Nhìn xuôi nhìn ngược một hồi, ông kêu:

“Cúi nhìn con phố bơ vơ,

Đất xa lạ đất, trời ngơ ngác trời.”

Ông Ba Mén, ông Xuân Hiến, hai ông đều đáng thương cả. Giọng nói đều thấm thía chân tình cả. Thảm não quá chừng. Đời sau hẳn phải có thơ. Chẳng hạn thơ rằng:

“Nhất ông Ba Mén

Nhì ông Xuân Hiến

Tha thiết tình quê

Người người biết tiếng.”

Ông Ba Mén ông Xuân Hiến, hai ông cùng nói một điều. Là con người nhất sợ cái lạ. Không gì kinh hãi bằng bị nhích ra khỏi chỗ quen thuộc.

°

Ấy vậy mà con người bắt đầu cuộc đời bằng một đối đầu đột ngột với cái lạ.

Mỗi chúng ta thuở mới đến đây là nghìn lần mạo hiểm hơn ông Kha-luân-bố. Từ chỗ không đến chỗ có: tuyệt đối lạ. Ánh sáng mênh mang — món lạ đầu tiên — khiến hoảng hốt. Liền khóc lớn; khóc oa oa, khóc oe oe. Xung quanh, kẻ lạ cười ầm ĩ.

Lớn lên, càng trông càng nghe càng thấy xa lạ. Trời xa lạ, đất xa lạ. Là “dưng” cả. Mặt nước rộng dửng dưng, vòm trời dửng dưng bất động. Núi non xa cách dửng dưng; con kiến con dán gần, bận rộn không ngừng, cũng là kiến dán dưng thôi. Mây trôi dửng dưng, nước chảy dửng dưng... Ai lo phận nấy, đâu có phần đấy. Tư bề đều dưng.

Mỗi chúng ta bơ vơ sợ hãi, quơ quào lạng quạng, túm níu bám bậy bám bạ vào bất cứ món gì trong tầm tay để có một cái gần gũi, tin cậy, để tìm chút an tâm. Kẻ bấu vào bụi chuối sau hè, người gốc tre cuối vườn, kẻ cây đa đầu làng, người níu một chéo áo bà con, một góc mảnh vải gọi là cờ, một sắc da một màu tóc, một thói quen truyền kiếp, một tục lệ, một thành kiến, một sợi tơ một mạng nhện tư tưởng mong manh, một danh từ rỗng tuếch v.v... Lụp chụp bấu víu vội vàng, trượt tay, lại quýnh lên chộp bấu vào món khác. Giành giật nhau, xô đẩy nhau, kêu la chí chóe. Loay hoay mấy chốc, vừa đầy bảy, tám chục năm. Có thể trăm năm. Rồi trượt tay, “đi” luôn.

Đi đâu? Tất nhiên không phải đến một chỗ quen thuộc nào cả. Từ các chốn thiên đường, nát bàn, từ khắp các cõi ba nghìn thế giới, ai nấy tha hồ khóc, khóc rưng rưng, rồi khóc nức khóc nở, nhớ về bụi chuối sau hè, về cây đa đầu làng... Nhớ tha nhớ thiết.

°

Mỗi chúng ta trượt tay bám víu, lần lượt ra đi, gửi lại mớ xẩu vùi giấu đâu đó dưới mặt đất. Năm này qua năm khác qua, bên trên mặt đất vẫn tiếp tục:

“Tư bề rầm rập hội người

Tiếng chân xuôi ngược tiếng cười râm ran

Trời xanh gió nhẹ thênh thang...”

Thênh thang cách dửng dưng. Tất cả cùng tiếp diễn một cách dửng dưng.

Nghìn năm sau (năm bảy chục nghìn năm sau nữa cũng nên), có gã đào đất xem đời cổ sơ, gặp chiếc sọ vớ vẩn, bốc lên ngắm nghía: “Ơ hơ! cái này trông lành lặn đa”. Từ thế giới ba nghìn trông xuống, thấy khắp cùng. Ta thấy, và giật mình đánh thót, kêu la rối rít: “Kìa, của tôi đấy. Sọ tôi đấy mà...”

Thoắt cái, đã sà ngay xuống. Trông gần, ta sững sờ. Chiếc sọ với các lỗ hổng, trống hoác trống trơ. Ta nhìn sọ, sọ nhìn ta không một biểu thị. Đôi bên đã hoàn toàn xa lạ. Sọ là sọ “dưng” rồi. Tất nhiên toàn thể mớ xẩu đều thành xẩu dưng luôn, mất hẳn tinh “của tôi” không biết tự lúc nào.

12 – 1998

Chú thích:

1 ‘Cô Quì còn không?’ (V.P.)

Cửa Sổ

Dọn nhà là chuyện vất vả. Hôm dọn đến nhà mới, đêm hôm ấy tôi ngủ mê mệt. Sáng, thức giấc rất muộn: mở mắt ra thấy ánh sáng đã đầy phòng. Từ phía cửa sổ, ánh mặt trời ùa vào chói chang. Hóa ra mình không hề thức dậy; mình bị đập dậy tàn bạo.

Về sau, nhắc lại chuyện ấy, chúng tôi vẫn gọi cái sáng xông vào cửa sổ hôm đó, gọi buổi sáng đó là “Thằng cha Sấn Sổ”. Ngay từ sơ ngộ, sao mà đường đột, ngổ ngáo quá vậy? Cửa sổ phòng ngủ mở về hướng đông. Rồi sẽ còn lắm chuyện với Thằng cha Sấn Sổ. Người ta còn đang sõng sượt chình ình trên gường. Làm gì mà vội vàng xông xáo... Hừm!

Hóa ra không phải thế. Từ phía cửa sổ ấy không phải chỉ có một “thằng”. Ngay hôm tiếp theo, thức giấc thấy yên ắng, êm ru bà rù, tôi nghĩ là không có ai quấy rầy. Chắc thế. Lờ mờ, êm ru, vắng lặng thế này.

Tôi kéo mền lên đầu, định nằm thêm một lát. Không ngờ khi hướng mắt về phía cửa gặp ngay “nhân vật” về sau mang tên “Gã Mặt Mốc”. Màu trời phương đông, ngay ở chỗ đáng lẽ mặt trời xuất hiện, lúc ấy lại toàn một màu xám nguội, như tro. Khoảng mây xám ấy cứ thản nhiên hướng mặt vào khung cửa sổ. Thản nhiên. Bất cần. Hừm! Mặt Mốc!

Sau đó, lần lượt: Thằng Ủ Ê, cô E Ấp, lão Trầm Ngâm, rồi gã Hí Hửng, chàng Hân Hoan, rồi cậu Hả Hê v.v... Không hẹn hò mà hôm nào tôi cũng sẵn một tâm lý đón đợi.

Sáng hôm nọ, tỉnh giấc muộn. Linh tính khiến mình liếc mắt về hướng cửa sổ. Khung trời xanh nhạt, gợi một cái xanh mênh mông. Cây thông cao đứng không một lay lắc. Sự chờ đợi kéo dài, hờ hững. Một con quạ từ đâu bay đến. Quạ đáp xuống chỗ cuối một cành mềm, oặt qua oặt lại. Con quạ loay hoay, vung cánh, đạp chân lung tung, trật qua trật lại, mãi hồi lâu mới tạm yên. Nhưng nó vẫn chưa tìm được thế đậu ổn định. Chốc chốc quạt cánh, đạp chân, trầy trật...

Trời xanh cao rộng, ngọn thông yên lặng, con quạ loay hoay... Ơ kìa! Linh tính xui tôi bắt gặp đúng cái gì như thể là... hạnh phúc? Bắt đúng niềm sung sướng không ngờ. Đời hay ho quá cỡ.

Chợt tai nghe: “Á a! Á a!” vang lên mấy tiếng.

Tôi ngẩn ngơ, tần ngần. Á a? Á a? Cái gì á a? Trời xanh mênh mông tự dưng cao hứng quá đỗi mà phát lên thế chăng? Hay lại quạ, một con quạ vô duyên đâu đó quác mỏ... á a?

Dù sao, tôi bỏ qua mọi suy tưởng vẩn vơ, tôi tiếp tục vui sướng, vô cớ.

Vô cớ, đúng là vô cớ. Cớ? biết gán cho cái gì? Cho con quạ vụng về? Cho cành thông mềm oặt? Cho cái sáng hững hờ?... Bậy bạ cả.

Không nghe nói về kiểu huyệt mộ nào có cửa thông lên trần gian.

Cho đời nhìn xuống, cho người nhìn lên.

Liệu rồi sẽ có kẻ nghĩ ra một kiểu thích hợp cho những hồn ma nhấp nhổm nhớ trần gian?

- Không có? Chán!.

1/2004

Võ Phiến

Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXVăn học miền Nam: Tổng quan 3

Văn học miền Nam: Tổng quan 3 Phần 15 Văn học Từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau 1963 người ta có thể ghi nhận nhiều chuyển biến quan...