Văn học miền Nam: Tổng quan 2
Phần 6
Văn học - Tôn giáo - Triết học
Tính cách tôn giáo và triết học
MỘT THẾ HỆ MẤT NIỀM TIN
Giữa thế hệ tiền chiến với lớp sau Genève sự khác nhau không
phải chỉ ở một mối ưu tư về chính trị. Dương Nghiễm Mậu không phải là một Trần
Tiêu ưu thời mẫn thế, Trần Thị NgH, không phải là một Anh Thơ ham nói chuyện đại
cuộc. Họ khác nhau từ trong tâm hồn cho tới lời ăn tiếng nói, từ quan niệm nhân
sinh tới cách hưởng lạc, cách yêu đương.
Tình yêu - Thật vậy, hãy thử để ý đến một nhân vật của Nhã
Ca, một cô bé trong Ngày đôi ta mới lớn. Lần đầu tiên bắt gặp sự rung động ái
tình của mình, cô ta kêu: “Chết cha, mình đang cảm động.” Các bậc tiền bối tha
hồ kinh ngạc: “Chết cha, cái gì lạ vậy?” Tự thuở hồng hoang tới giờ, có thiếu nữ
Việt Nam nào phản ứng như vậy trước tình yêu đâu? Những nàng thục nữ yêu kiều
như Nguyệt Nga, Thúy Kiều, Tố Tâm không la lối như vậy trước ái tình đã đành;
mà những cô Loan, cô Hiền, cô Hạnh của Nhất Linh, Khái Hưng, những cô gái trong
tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Thạch Lam v.v... cũng không thế;
những cô bé đi chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp, cô chị bồng em đi lễ xin
xăm trong thơ Hồ Dzếnh không có thế; cho đến gần đây nhất như cô Mùi của Nhất
Linh, chúng ta cũng khó tưởng tượng cô ta có thể bật ra tiếng đùa giễu cái tình
cảm “thiêng liêng” của chính mình như thế. Không, trước đây chưa ra đời cái mẫu
người con gái khinh mạn, coi đời nhẹ tênh ấy.
Lại “nhặt” thử một cô bé khác trong số vô vàn cô bé ngộ
nghĩnh của Nhã Ca: Soan. Giữa một Mùa hè rực rỡ cô ta bắt đầu biết yêu: cô ta
yêu một quân nhân đáng tuổi cha chú mình và cô sắp đặt một kế hoạch tỏ tình bằng
cách thủ sẵn một hòn đá chực... rình ném vào anh chàng quân nhân nọ!
Chúng ta không dám nói các cô gái trong thế hệ đàn chị hồi tiền
chiến thiếu say đắm thiếu liều lĩnh trong tình yêu, hay ngại ngần đắn đo hơn
trước tội lỗi. Từ lâu lắm trai gái đã chết vì tình rụp rụp; còn sa ngã thì cô
gái khuê các bên Tàu ngày xưa như Thôi Oanh Oanh mới hẹn hò lần đầu đã sa ngã
ngay dưới mắt con Hồng, Thúy Kiều cũng tại đêm hò hẹn đầu tiên mà trong âu yếm
của người tình đã có chiều lả lơi (nếu trời còn cho cô cậu tiếp tục gặp nhau một
vài đêm nữa, ai biết chuyện gì xảy ra). Cho nên hãy dè dặt trong sự phát biểu về
đạo lý. Chỉ xin để ý đến thái độ yêu đương, đến phong cách yêu đương mà thôi. Về
mặt này những cô Loan, cô Nhung, cô Mùi v.v... dù trong lòng họ có nồng nàn đến
đâu đi nữa nhưng lời ăn tiếng nói cái nhìn cái liếc của họ cũng vẫn ý nhị, tinh
tế, xa xôi, bóng gió. Họ không trực tiếp, đột ngột, bốp chát như những cô Soạn,
cô Thuyền sau này. Lớp trước lớp sau, phong cách khác nhau như chiếc áo dài kín
đáo dịu dàng khác chiếc quần jeans hồn nhiên sống sượng. Dưới lớp quần áo, nỗi
niềm rạo rực có thể giống nhau; nhưng lớp che phủ bên ngoài cái rạo rực có
khác, khác xa.
Vậy thì một bên sống sượng một bên tao nhã ý nhị, cái khác
nhau đã rõ. Có điều tưởng không thể dừng lại ở cái khác nhau về phong cách. Bởi
vì mỗi phong cách không phải là một sự ngẫu nhiên. Tại sao đang bóng gió xa xôi
tự dưng lại trở nên sấn sổ ngổ ngáo như thế? Phải có lý do nào đưa đến những
thay đổi ấy, đó mới là vấn đề.
Theo chỗ chúng tôi nhận thấy sở dĩ lớp sau này tiến tới tình
yêu không còn có cái vẻ e dè, trịnh trọng nữa là vì sau này họ thấy trên đời
không còn cái gì đáng e dè, trịnh trọng cả. Không còn cái gì là thiêng liêng nữa.
Mối tình đầu, cái đó ngày trước người ta quí biết chừng nào,
trân trọng biết chừng nào. Thế mà Thuyền coi như không. “Chết cha, mình đang cảm
động”, cô bé tự chế nhạo mình đó; cô ta chế nhạo ngay cái tình cảm mới chớm nở
của mình. Cô ta coi thường nó, chọc quê nó. Và rồi chúng ta sẽ thấy Thuyền
không phải là thuộc vào số các cô bé ngang ngược, ngỗ nghịch nhất của thế hệ
đâu.
Ngày xưa chuyện lứa đôi là quan trọng cực kỳ, duyên số được xếp
đặt tận trên trời: Có ông lão xe tơ đỏ; có chuyện xin xăm để hỏi ý kiến các đấng
Thiêng Liêng, yêu nhau có chuyện khấn vái Trời Đất, cắt tóc thề bồi v.v... Sau
này, khi chúng ta đã “văn minh” theo Tây phương, chúng ta không còn tin ở công
việc của ông già lẩm cẩm dưới trăng nữa, không hay lôi nhau đi thề thốt nữa
v.v..., tuy nhiên chúng ta vẫn rất mực trân trọng các mối tình, từ tình đầu đến
tình cuối. Hồi tiền chiến trong tiểu thuyết của những Khái Hưng, Lê Văn Trương,
Lan Khai... không thiếu gì những mối tình “lớn” diễn ra ngay cả dưới mái chùa,
trong rừng thẳm; trong thi ca của những Đông Hồ, Tương Phố, cho đến Xuân Diệu,
Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh... hễ động nói tới ái tình là giọng lâm ly thống thiết
không chịu được. Trong văn chương cũng như ngoài đời hễ phụ tình, bạc tình thì
bị chê bai khinh bỉ ngay.
Thoắt cái, sang thời kỳ 54-75 này, ái tình bị chọc quê. Nó gần
thành lố bịch. Một cô con gái nguyên lành gặp một người đàn ông đứng tuổi, đã
có vợ. Người đàn ông rủ rê, cô gái bằng lòng. Yêu thì yêu, tại sao không? Cô
gái suy tính: “Thử tưởng tượng một người đàn ông đứng tuổi, đứng đắn. Một người
đàn ông sắp sửa bốn mươi tuổi, có vợ, có địa vị và tiền bạc. Không lý tưởng
sao, tuyệt vời nữa.” Đây là cái hôn của người tình “lý tưởng”, cái hôn đầu tiên
trong đời cô gái nguyên lành: “Chúng tôi hôn nhau. Cái hôn đầu tiên chưa kịp
đoán trước hay chuẩn bị dù sao cũng đã làm tôi thất vọng chút ít. Tôi quệt nước
bọt trong tay áo và chàng có vẻ bồn chồn khi nhìn thấy cử chỉ đó. Tôi không biết,
lúc ấy tôi khinh chàng. Tôi nói: À, thì ra! Chàng tỏ vẻ không hiểu. Tuy nhiên
sau đó chàng vẫn hôn tôi hoài.” Xong chuyện hôn nhau, họ đi tới chuyện khác, xa
hơn. Vì cô gái còn nguyên nên đau đớn, đau mà không kêu rên gì cả, được chàng
khen ngợi. “Tôi bấu tay trên lưng chàng. Thật không còn thứ đau đớn nào hơn
(...) Chàng khen:
- Em can đảm lắm.
Tự nhiên tôi nói lớn, giọng hờn mát:
- Rồi sao nữa, trời đất!
- Nằm yên...”
Hôn xong, “yêu” xong, cuối cùng họ xa nhau. Trong khi cô gái
xếp quần áo vào va-li để ra đi, thì chàng - người yêu “lý tưởng, tuyệt vời” -
muốn có một kỷ niệm: chàng ngồi tằn mằn mớ đồ lót của nàng, bảo: “Cho anh một
cái.” Như thế, ái tình được chấm dứt.[1]
Đọc xong câu chuyện như thế, không khỏi có một cảm tưởng khiếp
hãi. Vì đạo đức suy đồi? Vì phong tục tồi bại chăng? Không đâu. Đừng lên mặt đạo
mạo mà chi. Vả lại câu chuyện đâu có gì đáng gọi là khiêu dâm? Không có chỗ nào
phô bày lộ liễu, không có cảnh mùi mẫn mê ly nào cả. Trái lại, giọng kể còn hờ
hững: có sao nói vậy, vắn tắt. Gần như ngây thơ. Và đó là chỗ đáng khiếp. Tác
giả nhìn vào những cái “thiêng liêng” nhất trong đời như thể nhìn người ta uống
tách nước, kể lại như kể chuyện đi phố lựa đôi giày. Như thể không có xúc cảm.
Người trong cuộc không có xúc cảm, cũng như người ngoài cuộc, người kể chuyện.
Thật vậy, nếu xúc cảm làm sao còn để ý đến chỗ nước bọt để quệt lên tay áo! Cổ
lai có ai bắt gặp trong văn chương một cặp tình nhân quệt nước bọt sau khi hôn
nhau? Thử tưởng tượng giữa các mối tình lớn của Paul và Virginie, của Kim và Kiều,
của Bảo Ngọc cùng Đại Ngọc, của Ngọc và Lan v.v... có mấy hạt nước bọt như thế
dính vào: Tai hại biết chừng nào!
Có cái nhìn thành kính ngưỡng vọng cuộc đời, mới thấy đời cao
đẹp, lung linh huyền ảo. Thế hệ này mở hai con mắt trắng dã, lạnh lùng, khô khấc
nhìn vào cuộc đời, khiến cho cuộc đời tự thấy trống trơn, trơ trẽn. Cuộc đời khốn
khổ, thẹn thùng, co rúm lại. Tội nghiệp.
Độ ấy người ta thường hay nói tới cái chết của Thượng Đế. Người
chết đi là phải. Chịu sao thấu? Một cái nhìn như cái nhìn của thế hệ bấy giờ có
thể giết chết rụi hết: hết mơ mộng, hết thi vị, hết mọi niềm tin tưởng. Thơ mộng
đến như Ái tình mà nó còn mất hết cả hào nhoáng, còn trơ nước bọt ra, thì còn
gì là Thượng Đế! Trong tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, cuộc nhân sinh luôn luôn
bị nhìn một cách sấn sổ như thế; trong bao nhiêu truyện ngắn truyện dài của ông
là những cảnh đời trình bày phũ phàng. Bằng lối nói xông xổng, không kiêng nể bất
cứ cái gì: cái tục tằn, cái thô bạo, cái xấc láo, cái hỗn xược mất dạy, ác độc,
điên khùng v.v... Cha con réo chửi nhau, đàn ông đàn bà làm tình với nhau lê mê
chẳng thèm đặt ra vấn đề yêu thương gì ráo trọi, kẻ ác người thiện lẫn lộn làng
nhàng như nhau, không phân biệt gì hết trơn... Một nhân vật của Dương Nghiễm Mậu
phàn nàn: “Có nhiều người tạo ra những ràng buộc với mình để sống, như ràng buộc
với Thượng Đế, với quê hương, với bổn phận, với tình yêu và máu mủ, nhưng tôi thì
mất đi gần hết những thứ ấy, dù có muốn tạo ra cũng không sao có được.”[2]
Trong một không khí tinh thần như vậy người ta dễ hiểu tại
sao một thiếu nữ bắt gặp những rung động tình cảm của mình lại tự cười cợt chế
nhạo. Rung động thành ra lố bịch. Tình cảm thành ra lỗi thời. Yêu ấy à? Buồn cười
chưa, gì mà ngố quá vậy?
Đời không còn gì là cao đẹp, là thiêng liêng nữa. Trong hoàn
cảnh ấy, người ta cười giễu đểu giả, khinh mạn, người ta ngỗ nghịch xấc lấc,
trông đáng ghét; nhưng nghĩ lại thì mất niềm tin là cảnh trạng đáng thương.
Lại vẫn nhân vật nọ của Dương Nghiễm Mậu than thở: “Cuộc sống
ngày nay mất đi những tham dự của sức mạnh siêu hình mà người trước tin cẩn để
sống. Nhưng có lẽ thái độ can đảm liều lĩnh ấy khiến cho chúng tôi đau đớn hơn.
Chúng tôi không thể đổ lỗi cho ai được khi chúng tôi tự cho mình là Thượng Đế.”[3]
Lý tưởng - Ái tình là cái dễ “tin” hơn cả mà không còn tin
vào nó thì biết tin vào đâu nữa: đạo lý, chính nghĩa, lý tưởng v.v... lần lượt
sụp đổ hết. Nhiều cấm kỵ của xã hội bị coi thường. Hàng rào lễ giáo thường khi
bị đạp ngã. Trước kia, trong một cuốn truyện của Nguyễn Khắc Mẫn thày giáo lỡ
đem lòng yêu một cô nữ sinh mà lấy làm ngại ngùng hết sức, đôi bên phải đắn đo
mãi mới dám tỏ bày. Bây giờ trong truyện của Nguyễn Thị Hoàng cô giáo lăn nhào
vào Vòng tay học trò với tất cả say mê; cô không giấu cái rạo rực thèm muốn khi
nhìn vào những phần da thịt hở hang của cậu học trò. Và cuốn truyện được chấp
nhận rộng rãi. Phản ứng đạo đức của xã hội cựa quậy rất uể oải, rất khẽ, như
không có gì.
Đất nước mịt mù khói lửa, và bấy giờ người ta nói thế nào,
nghĩ ngợi thế nào về chiến tranh? Nguyễn Bắc Sơn ngất ngưởng bảo địch quân:
“Kẻ thù ta ơi, những đứa xăm mình
Ăn muối đá và điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
Đi hành quân, rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem chiến cuộc như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi, vì ngươi bạc phước
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau”...
(‘Chiến tranh Việt Nam và tôi’)
“Những đứa xăm mình”, những “đứa” ấy không phải chỉ là hạng
chiến sĩ Tố Hữu thôi đâu nhé. Tiểu tư sản non choẹt như Hồng Nguyên, lãng mạn
như Hoàng Cầm, huênh hoang lớn lối như Vũ Hoàng Chương ngày nào từng kêu ầm lên
là sao vàng xòe năm cánh lên năm cửa ô v.v..., hết thảy đều là đứa xăm mình cả.
Vì đều tin chắc mẩm vào chính nghĩa của cuộc chém giết, đều hô hào cổ võ tàn
sát một cách trịnh trọng. Còn “ta”, kẻ vượt lên trên “chính nghĩa”, lên trên mọi
hăng say, tin tưởng, “ta” là nhân vật của thời đại, “ta” mới xuất thế đây thôi.
Và bạn bè của “ta”, cùng lớp “ta” đều “hiền khô” như thế cả.
“Giao thừa đâu mà vội
Hãy khoan đã chú mày
Cứ đóng xa vài dặm
mà ăn uống cho say
Ta cũng người như chú
cũng nhỏ bé trong đời
có núi sông trong bụng
mà bất lực hôm nay
..............................
Vì nói thật cùng chú
Trăm năm có là bao
Binh đao sao biết được
Sinh tử ở nơi nào.”
(‘Nghinh địch hành’ - Hà Thúc Sinh)
Ta đối với chú mà nói được lời như thế vì lòng ta đã tới độ
nguội lạnh, không còn gì khuấy động nổi một cơn điên say nữa. Đao to búa lớn:
vô ích. Danh từ cao đẹp: vô ích. Lý tưởng thiêng liêng: vô ích.
Tín ngưỡng - Tình yêu như thế, chính nghĩa như thế, còn tín
ngưỡng? Có lần lão học giả Giản Chi đăng cao, và gieo mấy vần tuyệt diệu:
“Sớm lên ngồi lạnh non cao
Thở ra mây trắng, hút vào gió xanh...
Chợt thương con nguyệt nửa vành
Phiêu du trắng mộng bên cành thông khô...
Vô biên bừng nở trời thơ:
Bông hoa ngày dựng ánh hồ sương treo...
Trần tâm nghe tắt eo xèo
Trong Vô Sở Trụ bốn chiều chợt không.”
(‘Chợt không’)
Giản Chi là người của thời kỳ trước với tất cả cái tao nhã của
thời trước. Giá ông bắt gặp thi hữu Nguyễn Đức Sơn thưởng thức cảnh núi chắc
ông không khỏi giật mình thảng thốt.
“Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô.”
(‘Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi’) [4]
Một già một trẻ, cả hai đều lên núi, cả hai đều mê núi dù kẻ
đến sớm người tới chiều, cả hai trong hồn đều phảng phất mùi thiền, trước cảnh
núi non cả hai đều xúc động vì chợt đối diện với “hư vô”, với cái “chợt không”.
Thế nhưng giữa Nguyễn Đức Sơn với Giản Chi, chỗ khác nhau mới
lạ lùng. Giản Chi ngồi chững chạc, còn Nguyễn Đức Sơn thì cứ đi “luồn” vô “luồn”
ra mãi, cho tới thấm mệt, tới rục rã cả chân. Ông lăng quăng làm chi kỳ cục vậy?
Thôi thì lăng quăng cũng được, nhưng ông kể lại trong thơ làm chi? chuyện ấy có
liên quan gì đến hư vô? Đem cái nắng tàn run rẩy, cái hoang sơ, cái hư vô xáo
trộn với những bước lăng quăng, ông không thấy mình đang làm một cái gì lạc điệu,
hỏng kiểu sao? -Thưa, đó chính là sở trường của Nguyễn Đức Sơn. Ông còn xáo trộn
lẫn lộn lắm cái kỳ cục hơn nữa, chẳng hạn nước tiểu với nước... thánh, cực lạc
với chuyện... đái!
“Anh sẽ đến bất ngờ ai biết trước
miệng khô rồi nẻo cực lạc xa xôi
ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người
em chưa đái mà hồn anh đã ướt”
(‘Vũng nước thánh’)
Giữa trời bể bao la, sao rơi sóng vỗ, ông vừa nằm vọc c... vừa
suy nghĩ mông lung về lẽ huyền vi của vũ trụ v.v... Những cái như thế không phải
họa hoằn mới xảy ra. Nó xuất hiện đều đều trong thơ ông. Nó thành ra một đặc điểm
của thơ ông, của tính khí, thái độ ông. Một thái độ thách thức, khiêu khích, chống
đối, báng bổ thánh thần, thái độ của người méo miệng trợn mắt làm trò giữa cảnh
cúng vái trang nghiêm, của người vất đồ dơ dáy lên những cái vẫn được xem là
cao cả thiêng liêng.
Nếu chỉ lăng quăng gàn dở ngoài đời thì có thể đó là chuyện
tính nết. Nguyễn Đức Sơn đưa nó vô trong thơ, cố tình ghép nó bên cạnh cái cao
siêu, vĩ đại, thì đây không còn là nết riêng nữa mà là một thái độ tinh thần.
Thái độ Tản Đà rất ngông, Nguyễn Đức Sơn cũng ngông; Tản Đà ngông trong thơ mộng,
Nguyễn Đức Sơn ngông mà ngỗ nghịch, phá phách.
Tôi biết: có thể kể ra đây nhiều thi sĩ tên tuổi thời kỳ
54-75, những thi sĩ lúc nào cũng kính Chúa kính Phật. Nhưng nêu ra làm gì cái
chuyện thời nào cũng có; vấn đề của chúng ta là chú ý đến chỗ đặc biệt của thời
này thôi. Cũng như thời tiền chiến trong tiểu thuyết có biết bao nhiêu là cặp vợ
chồng sống êm thấm, bao nhiêu là cô dâu sống yên lành trong nhà chồng; những kẻ
ấy không được nhắc đến nhiều như cô Loan của Nhất Linh. Bởi cô Loan mới tiêu biểu
cho hoàn cảnh người phụ nữ lúc bấy giờ. Thời cô Loan là thời chống đối giữa cái
mới với cái cũ, chống lại gia đình cũ, xã hội cũ. Thời sau này người ta chống
thần chống thánh, chống nhau với Thượng Đế, chống nhau với khuôn phép, nề nếp,
với... ái tình! Trời đất! Như vậy làm sao sống được? Chẳng những sống mà còn
đánh giặc nữa.
TÔN GIÁO VÀ VĂN HỌC
Quả thật mỉa mai. Làm sao tin được thời kỳ “lính cậu” đùa giễu
“lính chú”, lính “ta” tán dóc với lính “ngươi” ỡm ờ như thế lại là thời kỳ chiến
tranh ác liệt nhất lịch sử nước ta? làm sao tin được trong khi lính bảo “chiến
tranh này cũng chỉ một trò chơi”, lính cứ khơi khơi xem lý tưởng như lông hồng
thì hàng triệu thanh niên được động viên hy sinh cho lý tưởng tự do. Làm sao
tin được thời kỳ Thượng Đế chết, thời kỳ con người trâng tráo báng bổ thánh thần
lại là thời kỳ tôn giáo phát triển mạnh mẽ, sôi động nhất ở nước ta? Vậy mà những
chuyện ấy đều có cả, đều thực cả.
Hãy khoan nói tới những con số tân tín đồ của các tôn giáo lớn
vào các thập niên 50, 60, đến cái tỉ số gia tăng cao khác thường của tín đồ
cũng như của các giáo đường, chùa chiền trong khoảng thời gian này; hãy khoan
nói đến những biểu dương lực lượng tôn giáo cực kỳ lớn lao trong các cuộc tranh
đấu chống chính quyền, các cuộc đấu tranh giữa tôn giáo với tôn giáo trong thời
gian này v.v...; chỉ để ý một chút đến cái bóng dáng của tôn giáo trong sinh hoạt
văn học nghệ thuật lúc bấy giờ đã thấy nó đặc biệt đến chừng nào rồi.
Hồi tiền chiến chỉ có một Hàn Mặc Tử cầu nguyện Chúa mà đã
làm náo động cả làng thơ: ai cũng chú ý đến hiện tượng tôn giáo này. Sau 1954 ở
Miền Nam không phải chỉ có một con chiên hay những con chiên mà có nhiều kẻ
chăn chiên xông pha tích cực trong làng văn làng báo; đồng thời ở phía Phật
giáo cũng có bao nhiêu là tu sĩ, cao tăng múa bút trổ tài: nào những Nhất Hạnh,
Phạm Công Thiện, những Thạch Trung Giả, Phạm Thiên Thư, Tuệ Sỹ v.v..., ấy là
chưa kể những nhà văn nhà thơ những học giả không phải tu sĩ viết về Phật giáo
như: Trần Ngọc Ninh, Nghiêm Xuân Hồng, Quách Thoại, Lê Văn Siêu v.v... Bên
Thiên Chúa giáo thì các linh mục Thanh Lãng, Trần Thái Đỉnh, Kim Định v.v... đều
là những cây bút dồi dào, có ảnh hưởng rộng. Các đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo đều
có những viện đại học riêng (Thiên Chúa giáo và Phật giáo dĩ nhiên đã có trước
những viện qui mô hơn). Nguyễn Văn Hầu viết về triết lý đạo Hòa Hảo, Hồ Hữu Tường
viết về đạo Bửu Sơn Kỳ Hương v.v...
Chuyện nghe có vẻ khác thường nhưng không vô lý. Chính vì thiếu
niềm tin, vì khủng hoảng tin tưởng cho nên người ta mới khẩn cấp tìm đến các
tôn giáo, mới hấp tấp tra hỏi các triết thuyết. Ai nấy xô nhau đi tìm lời giải
đáp cho những vấn đề căn bản, những băn khoăn rốt ráo.
TRIẾT HỌC VÀ VĂN HỌC
Trong cơn hoang mang, kẻ tìm đến tôn giáo người cật vấn các
triết gia. Có lẽ ít có thời kỳ nào trong lịch sử nước ta người ta viết và đọc
triết học nhiều như thời kỳ này, người ta mê triết lý dữ dằn như thời kỳ này.
Trên kệ sách, thấy những nhan đề: Đi tìm một căn bản tư tưởng (của Nghiêm Xuân
Hồng), Chúng ta đi về đâu (của Đoàn Nhật Tấn) v.v... Nhân vật của Vũ Khắc Khoan
có lần đàm đạo với nhau: “Tôi thường nghe mỗi khi thời thế chuyển xoay là có
thuyết lạ ra đời. Xưa thì Tô Tần bàn kế Hợp tung, Mạnh Tử luận ‘Dân vi quý’. Gần
đây có ngươi Đăng Thục mưu việc duy nhất tư tưởng Đông Tây, Hồ Hữu Tường băn
khoăn muốn vượt Mác-xít.”[5] Thời
thế đang chuyển xoay mạnh, thuyết lạ nối nhau ra đời là phải cách lắm. Ngươi
Đăng Thục già rồi, đã có ngươi Đình Nhu, ngươi Văn Trung, ngươi Kim Định, ngươi
Thái Đỉnh v.v..., kẻ đặt thuyết riêng người mang thuyết mới từ Tây phương về
xun xoe truyền bá. Rối rít cả lên. Ôi thôi, đi đâu cũng gặp triết gia; lúc nào
cũng có cơ hội bàn triết học. Trong một thiên truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ một
cô con gái được cô bạn họa sĩ rủ dự bữa tiệc của giới văn nghệ. Cô gái ngơ ngác
nhận thấy: “Trong đám họa sĩ trẻ nổi lên những tiếng thì thầm nào là... ấn tượng,
màu nóng, màu nguội, thời kỳ lam, thời kỳ hồng v.v... và bọn nhà văn dùng những
chữ... thân phận, bản ngã, bản thể, hiện sinh v.v...” (‘Tiếng hát’, trong Chiều
mênh mông). Họa sĩ nói màu nóng màu nguội, thời lam thời hồng: được đi. Nhưng
văn sĩ nói những gì lạ hoắc vậy? Những cái quen thuộc xưa nay mất đâu cả rồi? về
đâu những mây gió, những lá vàng, những buổi chiều vàng, non xanh nước biếc
v.v...? Lần khác, Duyên Anh nói về các thi sĩ: “Viết hàng ngàn danh từ triết lý
như vô thức, tâm thức, hình nhi thượng, hình nhi hạ, bản thể, bản ngã, thủy triều,
cảm mạo, thương hàn, dịch hạch, phi lý... ra từng mẩu giấy nhỏ, bỏ vào cái lọ.
Hễ thi hứng dào dạt, mở nút lọ xóc lia lịa. Mỗi mẩu giấy văng ra là một câu
thơ. Hoặc năm bảy mẩu giấy văng ra một lượt cũng là một câu thơ.”[6] Câu
chuyện xóc lọ chữ thành thơ, hồi tiền chiến cũng có từng nghe nói, nói để chế
giễu các nhà thơ hũ nút. Nhưng trong cái lọ tiền chiến không bao giờ có những
chữ phi lý, bản thể, hình nhi thượng với hạ. Trái lại, trong cái lọ thời nay dẫu
ra sức khơi tìm cũng ít gặp các chữ chàng, nàng, người em sầu mộng, anh giang hồ,
anh dãi dầu, anh sương gió v.v..., ít lắm.
Thụy Vũ với Duyên Anh là những tác giả lớp sau, nhưng tâm trạng
băn khoăn không chỉ thuộc lớp sau. Chuyện Duyên Anh nói trong Áo tiểu thư là
chuyện đã có ngay từ những ngày ông mới ở Bắc di cư vào, hãy còn tạm trú tại
Nhà Hát Tây Sài Gòn cũ. Sự thực từ khi có những người ê chề với chủ thuyết
Mác-Lê, những người thất vọng phải rời bỏ kháng chiến, là đã có khổ tâm, băn
khoăn. Trong các tác phẩm đầu tiên của những tác giả thuộc lớp trước như Vũ Khắc
Khoan, Võ Phiến..., xuất bản vào những năm đầu tiên của thời kỳ này, có thể gặp
nhiều nhân vật nặng trĩu ưu tư như thế. Người trẻ tuổi họ Đỗ trong Thần tháp
Rùa là một: “tâm sự ủ ê lộ ra ở đôi mày hơi nhíu, miệng có cười, cũng héo hắt
không vui. Tính vốn ít nói, trong chốn giao du lại cố tình giữ trọn cái nghĩa
nước nhạt của người nước Lỗ, cho nên lắm khi cả ngày không lên tiếng một câu,
hàng tháng biếng bước chân ra khỏi cổng.” (...) “Nhưng trong câu chuyện, nếu có
ai đả động đến thời cuộc, so sánh lý thuyết nọ với lý thuyết kia, là lập tức sắm
nắm bước vào vùng thảo luận, nói hàng giờ không biết mỏi. Hoặc nêu thuyết nhà
Phật mà bác bỏ định đề Cơ-đốc. Hoặc đề cao tư tưởng của văn sĩ Pascal mà đánh đổ
lý luận vô thần. Hoặc chủ trương giai cấp đấu tranh mà công kích những mưu mô
tư bản. Hoặc lập luận tự do cá nhân để chống với độc tài đoàn thể. Có ai rụt rè
nói đến giá trị nội tại của nghệ thuật ắt Đỗ phải lớn tiếng thích nghĩa nhân
sinh. Nhưng nếu có người muốn hạ văn chương xuống ngang hàng một ‘đồ thực dụng’
thời Đỗ lại chép miệng thở dài nhắc đến quan niệm nghệ thuật của Kant.”[7]
Người trẻ tuổi họ Đỗ như thế nếu lọt vào bàn tiệc văn nghệ của
Thụy Vũ sợ gì mà chẳng văng ra những “bản ngã”, “bản thể” với “hiện sinh”, và nếu
có tập tành thơ phú thì làm gì trong lọ chẳng có những mẩu giấy nhỏ viết “bản
thể”, “bản ngã”, “dịch hạch”, “phi lý”?
Từ đầu đến cuối thời kỳ này, lớp trước lớp sau đại khái như
nhau.
Thường thường trong giới văn nghệ những kẻ được quần chúng biết
rộng rãi nhất là các thi sĩ, các tiểu thuyết gia. Nhưng vào thời kỳ này những
tác giả viết triết luận lại được đọc nhiều, được tiếp đón ồn ào. Nguyễn Văn
Trung, Phạm Công Thiện, Trần Thái Đỉnh, Kim Định v.v... đều nổi tiếng nhanh
chóng, được giới trẻ hoan nghênh. Sách triết học thành ra sách “hốt bạc” của
các nhà xuất bản, tên tuổi các triết luận gia thành ra “mốt” ăn khách trên thị
trường. Theo kinh nghiệm riêng của chúng tôi khi chủ trương nhà Thời Mới thì
hai cuốn sách bán được nhanh nhất nhiều nhất là hai cuốn liên quan đến triết học,
tức cuốn Triết học hiện sinh của Trần Thái Đỉnh và cuốn Những trào lưu lớn của
tư tưởng hiện đại dịch của André Maurois. Trong các sách do nhà Huệ Minh của Hồ
Hữu Tường ấn hành cuốn được yêu chuộng rộng rãi nhất chắc chắn là cuốn Trầm tư
của một tên tội tử hình. Tử hình hay không tử hình, thấy “trầm tư” là khoái rồi.
Khi Trần Phong bắt đầu ra tạp chí Văn và chủ trương nhà xuất bản Giao Điểm, ông
kêu gọi liên tiếp trong nhiều tháng trời người hợp tác dịch các tác phẩm của
Jean Paul Sartre và Albert Camus.
Thơ, truyện, kịch v.v... lúc bấy giờ lắm khi lân la đến gần
triết học. Thơ Thanh Tâm Tuyền được nhắc nhở rộng rãi có lẽ một phần cũng là vì
những câu tối tăm trong ấy “có vẻ” ngụ một ý nghĩa triết lý, trông “hình như”
có thể suy diễn ra một ý nghĩa triết lý, vì đọc “nghe như” hàm ngụ nhiều tư tưởng.
Truyện và kịch của Nghiêm Xuân Hồng, Võ Phiến, Vũ Khắc Khoan (những cuốn Phù thế,
Ảo ảnh, Thành Cát Tư Hãn, Người viễn khách thứ mười v.v...) có khuynh hướng triết
lý. Nguyễn Mạnh Côn thì nói hẳn ra là ông “đi vào lập thuyết” với cuốn Mối tình
màu hoa đào.
Hồi trước cũng có Trần Trọng Kim viết Nho giáo, có Nguyễn
Đình Thi, Lê Chí Thiệp viết về triết học Tây phương, về siêu hình học v.v...,
và kẻ đọc nhiều hiểu rộng bao giờ cũng được dư luận kính trọng, tuy nhiên chưa
lúc nào có cái không khí ham mê triết như trong thời kỳ sau này. Ham mê ồn ào
như giới trẻ mê tài tử điện ảnh, mê ca sĩ; như giới mộ điệu tôn sùng các cầu thủ
bóng bầu dục, các võ sĩ quyền Anh v.v... Dĩ nhiên số lượng người biết đọc sách
ít hơn số người xem hát, xem đấu bóng đánh võ, ít hơn nhiều lắm lắm; nhưng những
“phong trào” sách Kim Định, sách Phạm Công Thiện có thể làm chúng ta liên tưởng
từ chuyện nọ đến chuyện kia.
Thật ra, chúng ta không phải là một lớp quái nhân dị hợm. Chẳng
qua thế hệ này sinh nhằm một thời hoảng loạn: không riêng ở miền Nam Việt Nam
mà hầu như đâu đâu cũng dấy lên một niềm khao khát triết lý, ngoại trừ trong thế
giới cộng sản. Nhiều lần trong lịch sử, loài người đã trải qua những cơn khủng
hoảng, hoặc chuyển biến sâu xa, và đó cũng là những thời kỳ huy hoàng của triết
học. Như thời đại Thích Ca với 62 triết thuyết và 6 đại môn phái của tư tưởng cổ
điển Ấn-độ; như thời Chiến quốc ở Trung Hoa, thời của những Lão Tử, Khổng Tử,
Bách gia chư tử; lại như thời kỳ chiến tranh Péloponèse ở miền bán đảo Hi-lạp với
bao nhiêu là triết gia Platon, Socrate v.v...; như thời kỳ sau Cách mạng Pháp
và các cuộc chiến tranh ở Âu châu, với những Kant, Hegel, Marx... Rồi đến thời
kỳ này, sau hai cuộc thế chiến, và dưới sự đe dọa của một thảm họa chiến tranh
nguyên tử, lại tưng bừng những triết thuyết của Sartre, Camus, Heidegger,
Jaspers v.v...
Xưa kia loài người sống từng vùng cách biệt nhau, chuyện Hi-lạp
không ảnh hưởng đến Trung Hoa, tình hình Trung Hoa không ảnh hưởng sang Ấn-độ.
Ngày nay, khủng hoảng là khủng hoảng chung: niềm hoang mang của Âu châu cũng là
hoang mang của Mỹ châu, Á châu, cơn buồn nôn phi lý ở bên này cũng làm xây xẩm
đến bên kia. Ngoại trừ ở sau bức màn sắt, nơi ai nấy vẫn cứ gối đầu lên một niềm
tin đơn giản; còn như chúng ta ở Miền Nam, có sự xao xuyến cũng là điều không
sao tránh khỏi.
_________________________
[1]Các
đoạn văn vừa trích là trong tập truyện Nhà có cửa khoá trái của Trần Thị NgH.
[2]Dương
Nghiễm Mậu, “Rượu, chưa đủ”, trong Tuyển truyện Sáng Tạo, Sống Mới tái bản, Hoa
Kỳ, trang 36, 41.
[3]Như
trên.
[4]Tạp
chí Văn, Sài Gòn số ra ngày 1-3-70.
[5]Vũ
Khắc Khoan, Thần tháp rùa, Ngàn Lau xuất bản tại Hoa Kỳ, 1983, trang 15, 16.
[6]Duyên
Anh, Áo tiểu thư, Nguyễn Ðình Vượng xuất bản, Sài Gòn 1971, trang 170.
[7]Vũ
Khắc Khoan, Thần tháp rùa, sđd, tr. 15, 16.
Phần 7
văn học & tính cách cực đoan
Tính cách cực đoan
CHẤN ĐỘNG TÌNH CẢM
Ngược xuôi tìm kiếm, xao xác hơn bao giờ hết vì triết học; mà
lại thất lạc, hoang mang, ngờ vực hơn bao giờ hết. Sinh hoạt tôn giáo dấy lên
tràn lan, sôi động, dữ dội hơn bao giờ hết; mà con người lại thiếu tin tưởng,
bơ vơ hơn bao giờ hết. Cái khủng hoảng tinh thần đã thế, đến như các chấn động
tình cảm trong thời kỳ này cũng lại thật nặng nề.
Trong Đêm nghe tiếng đại bác, có một lúc đang nói về những
thanh thiếu niên phải đi lính đánh giặc Nhã Ca chợt kêu lên: “Quyên tuổi trẻ.
Tuổi trẻ của máu me. Tuổi trẻ của bom đạn. Tuổi trẻ của tan nát.” Đến đây, bà
giật mình, tự hỏi: “Ô hay. Tôi có đang lãng mạn quá không nhỉ.”[1]
Có đấy. Nếu lãng mạn là không kiềm chế được tình cảm, là để
nó tuôn tràn ra dạt dào trên giấy, thì bà đã lãng mạn quá rồi chứ còn gì nữa.
Thế nhưng, sau đó, cuối sách bà lại tuôn ra luôn cả một mạch thế này: “Tiếng đại
bác. Tiếng đại bác. Tôi đang nghe. Tôi đang nghe đây. Gửi gì không. Có. Tôi có
gửi. Hãy gọi anh Phan về đêm nay cho mẹ tôi thấy. Hãy mang anh Nghĩa về đêm nay
cho chị Phương tôi thấy. Hãy mang tất cả về đêm nay cho tôi thấy. Cho ba tôi thấy.
Cho em Kim tôi thấy. Cho chị Hạnh thấy. Tiếng đại bác. Tiếng đại bác. Gửi gì
không. Có. Tôi có gửi. Cho tôi gửi ra những bông hồng. Những khăn tay, những bữa
ăn, những gói thuốc lá. Hãy nhắn với họ. Với Đông, với Hoàng, với Mân, với
Nghĩa. Với tất cả. Tôi gửi lời thăm. Thăm tất cả. Tiếng đại bác. Tiếng đại bác.
Còn gửi gì nữa không. Còn. Tôi còn gửi. Ngủ đi ba. Ngủ đi mẹ. Ngủ đi chị. Ngủ
đi em. Ngủ đi tiếng đại bác. Đại bác. Ngủ đi. Ngủ đi. Tôi còn gửi. Để cho tôi gửi.
Gửi cả tương lai tổ quốc ta theo đó.”[2]
Thôi lần này thì bà “lãng mạn” quá cỡ mất. Nhưng lần này Nhã
Ca không kịp thắc mắc về chuyện mình có lãng mạn hay không, bởi vì bà đứng trước
một cảnh thương tâm quá đỗi lớn lao, bà bị xúc động quá mạnh: một gia đình đầm ấm
tràn ngập yêu thương bỗng đón nhận một lúc hai cái tang, cả con trai lẫn con rể
cùng chết trận. Một buổi tối cả nhà đang quây quần tíu tít với nhau thình lình
một quân nhân gõ cửa bước vào, lúng túng với cái tin dữ mang theo, thế là sét nổ
long trời lở đất xuống giữa bữa ăn của họ: bà mẹ ngã ra bất tỉnh, cô hôn thê chết
lặng, rồi lát sau một thiếu phụ nữa lại lăn vào nhà tình nhân chết giấc...
Trong hoàn cảnh ấy, tác giả - vốn cũng là đàn bà - biết làm gì khác hơn: bà bất
giác la toáng lên inh ỏi.
Phản ứng của Nhã Ca cũng là phản ứng của rất nhiều nhà văn
khác trong thời kỳ này, cả nam lẫn nữ. Bà làm ta nghĩ đến một người con gái nết
na có lúc chợt thiếp mắt, ngáy khe khẽ, giật mình thức giấc, bẻn lẻn, hỏi xung
quanh: “Vừa rồi tôi có ngáy không nhỉ?” Một hôm kẻ cướp xông vào nhà, cả gia
đình trải qua một phen thất điên bát đảo, tối đến ai nấy lăn quay ra ngủ, ngáy
vang như sấm. Cô gái cũng ngáy bằng thích, và không buồn hỏi han ai nữa, hết cả
thẹn thùng. Bấy giờ cả Miền Nam ai nấy đều “lãng mạn” cả. Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố
dồn dập tuôn trào. Này là Phan Nhật Nam: “Lòng nóng như lửa, trí não nổ như
dông, chân tay muốn chặt ném cho chó gặm, người như nướng trên giàn hỏa (...)
Tôi không cần biết, chỉ xin nói một điều: Y chết lảng, chết thối, chết vô ích,
vô tích sự, chết bẩn và chết ngu... Tôi không thể nén lòng được, tôi muốn thằng
này phải chết năm lần, bảy lượt, chết tan xác, chết nhục nhã, chết ghê tởm
(...) Gã trẻ tuổi ngu ngốc, đần độn không được quyền chết trên quê hương bi
tráng này. Tao nguyền rủa mày trong suốt ngày dài điêu linh tàn khốc của đời sống
Việt Nam.”[3] Vẫn
Phan Nhật Nam: “Trong cơn say, nỗi buồn chín đỏ nằm riêng một góc linh hồn
không tan biến.”[4] (...)
“Một khoảng đời đã đổi, tôi thành kẻ lạ rồi... Một tên hung bạo, trí não căm hờn
và thù hận. Tôi chết một phần người trong tôi.”[5]
Không phải chỉ có cái chết mới dữ dội. Hạnh phúc lúc bấy giờ
cũng trở nên ác liệt: “Tôi gặp cả vùng chân trời nằm gọn trong mắt chàng.”[6] “Và
cứ thế chúng tôi chơi với nhau. Cho nhau những ngày tháng thênh thang hạnh
phúc, đổ đầy đời nhau những tư tưởng nước chóng bốc hơi thành mây bay trên trời
(...) Chúng tôi mở cho nhau những thế giới và chân trời mơ ước...”[7] Du
Li viết như thế trong truyện Một tâm hồn sa mạc.
“Tâm hồn sa mạc”, “tâm hồn sỏi đá”, con người thì ví với
“loài dã thú”, “loài rong rêu”, “loài cỏ hoang”, có khi với “loài rau hoang dại”
(Nguyễn Thị Thụy Vũ, Bách Khoa, số ra ngày 13-7-74), con người thường ôm “nỗi
chết không rời”, “dựa lưng nỗi chết” v.v... Sáo ngữ của thời đại nghe thảm não,
khốc liệt. Câu văn của thời đại nhiều khi nghe dồn dập, hổn hển, chát chúa, như
tiếng rít lên, tiếng la hét, tiếng gào, tiếng chửi rủa. Cái vui, cái buồn, cái
đau đớn, cái khoái trá, cái gì cũng được đưa tới chỗ cực đoan.
Cách nói năng của thời này không giống chút nào với cách nói
mực thước, khoan hòa trong văn chương cổ điển; thái độ người thời này không giống
thái độ truyền thống:
“Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối gành bắt ngang
Sè sè nấm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.”
Mồ hoang trong buổi chiều tà cũng không hẳn là cảnh buồn.
Không có gì chịu buồn thực sự buồn, buồn đến nơi đến chốn. Cái gì cũng dìu dịu,
thoang thoảng: sè sè, rầu rầu, nửa này nửa nọ... Những tiếng tĩnh từ kép làm
cho nhẹ bớt ý nghĩa, nhẹ bớt cảm giác. Mà tĩnh từ kép lại là cái sở trường của
ngôn ngữ dân tộc.
Từ xưa đã thế, mãi cho tới gần đây ta vẫn thế. Vẫn chuyên trị
về cái dìu dịu, êm êm, mơ mơ màng màng:
“Em ơi nhẹ cuốn bức rèm tơ
Tìm thử chân mây khói tỏa mờ”...
(Thanh Tịnh)
“Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê”...
(Hàn Mặc Tử)
Thơ thẩn, lang thang, mây khói, rèm tơ, cuốn nhẹ, tỏa mờ
v.v... Thơ như vậy, văn cũng vậy: Thế rồi một buổi chiều là một kiểu nhan đề, Nắng
thu, Bướm trắng, Gió đầu mùa, Nắng mới, Hồn bướm mơ tiên v.v..., những nhan đề
nữa. Làm sao dưới những nhan đề lành như thế mà lại có được chuyện hung dữ!
Không có đâu. Dưới mái chùa nọ quả có xảy ra câu chuyện ngang trái đau lòng chẳng
hạn, nhưng cái đau lòng ấy không hề làm cho người ta điên cuồng lồng lộn lên,
chỉ thấy một nỗi buồn... man mác! “Lan liếc mắt ngắm phong cảnh quanh mình,
lòng hoài nghi man mác đến cả cỏ, cây, mây, nước. Cúi nhìn dòng nước bạc lấp
lánh dưới chân đồi quanh co uốn khúc, rì rì lướt giữa dọc cát vàng; trong cảnh
êm đềm ấy, biết đâu không ẩn núp những loài rắn độc hại người.” Cuối Hồn bướm
mơ tiên là:
“Gió chiều hiu hiu...
Lá rụng!”
Và rồi cuối thời kỳ thơ mộng êm đềm ấy còn lại một người, một
nhà văn nghiêm chỉnh, đàng hoàng, tao nhã. Nhà văn ấy - Nhất Linh - thong thả
giảng giải về cách viết văn, cách viết thật sáng sủa, thật giản dị, thật tỉ mỉ
chi tiết và hơi vui vẻ một chút. Lắm người chịu là đúng đắn hay ho rất mực,
nhưng không mấy ai nghe theo. Ai nấy mãi lo văng tục, gào thét, mãi hục hặc với
những cái hoặc cộc lốc, cụt lủn: Yêu, Loạn, Tiền, Con sâu..., hoặc ghê rợn: Mùa
hè đỏ lửa, Giải khăn sô cho Huế, Đêm nghe tiếng đại bác v.v...
Từ thời Nhất Linh sang thời này, sự thể đổi khác hẳn. Thời
sau này là thời của những xúc cảm mạnh. Thời của những cực đoan, của cái quá lố.
Lấy con mắt bình thản của người tiền chiến mà nhìn thái độ lớp sau có thể thấy
nó như lố lăng, như lập dị. Trong cái tâm trạng cuồng nộ của thời này mà đọc lại
nghệ phẩm tiền chiến, thấy nó “trà dư tửu hậu” thế nào.
Trở lại câu Nhất Linh nói với Nguyễn Vỹ: “Thế hệ trẻ ngày
nay, họ không hiểu được tụi mình.” Quả có vậy. Già dễ dãi bình dân như Nguyễn Vỹ
hay già tinh tế trí thức như Nhất Linh, họ đều có chỗ giống nhau và họ đều khác
hẳn lớp trẻ. Khác như những tờ tạp chí Phổ Thông, Văn Hóa Ngày Nay đặt bên cạnh
những tờ Thế Kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ, Thái Độ, Sáng Tạo, Hiện Đại v.v... Một bên
ung dung giản dị, cười cợt, hoặc tủm tỉm hoặc hô hố tuệch toạc: Vậy đó là già.
Một bên nhăn nhíu suy tư, kêu gào, quằn quại: thế lại là trẻ. Thời cuộc làm ra
thế, khủng hoảng tin tưởng khiến nên thế, những chấn động tình cảm quá mạnh gây
ra thế.
_________________________
[1]Nhã
Ca, Ðêm nghe tiếng đại bác, Sống Mới tái bản tại Hoa Kỳ, trang 69.
[2]Như
trên.
[3]Phan
Nhật Nam, Dấu binh lửa, Tinh hoa miền Nam tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 351, 352.
[4]Sđd,
tr. 119
[5]Sđd,
tr. 122.
[6]Tạp
chí Bách Khoa số ra ngày 5-9-74.
[7]Như
trên.
Phần 8
văn học & vai trò của miền nam
Vai trò của miền Nam
Gác những đảo điên với tao loạn, khủng hoảng với chấn động
sang một bên, thời kỳ 1954-75 vẫn có cái đặc biệt của nó: vai trò của miền Nam
trong văn chương.
Trước kia Đông Hồ ở mãi tận đất Hà Tiên xa xôi mà ông viết
văn theo giọng Bắc; sau này khi người Bắc đã vào tràn khắp các nẻo đường Sài
Gòn thì Lê Xuyên ngồi tại đô thành lại viết rặt giọng Nam.
Cái đó không phải một sự tình cờ bị nhặt lên bất thần. Lê
Xuyên không phải là trường hợp duy nhất, không phải là kẻ đầu tiên hay kẻ cuối
cùng. Trước ông và sau ông, các văn thi sĩ gốc miền Nam khác đều làm thế, trong
thời kỳ này. Bình Nguyên Lộc đã viết giọng Nam tuy có pha cốt cách Bắc. Đến Sơn
Nam cái hơi Nam rõ rệt hơn. Rồi đến Lê Xuyên nó càng đi xa thêm nữa. Trong các
cây bút khảo luận, Thu Giang hãy còn dè dặt, đến Vương Hồng Sển thôi thì rặt
Nam tính.
Như thế chiều hướng ấy nó tự xác nhận liên tục và mỗi lúc mỗi
thêm mạnh mẽ. Cá tính miền Nam hiển hiện rõ trong nền văn học chúng ta thời kỳ
1954-75, hiển hiện có ý thức. Thực vậy, Đông Hồ đã viết được giọng Bắc thì những
Sơn Nam, Lê Xuyên lớn lên trong thời thịnh mãn của văn học tiền chiến, thấm nhuần
thơ văn Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính v.v... không vì lẽ gì lại
không còn viết được giọng Bắc nữa. Cho nên sự hồi đầu của họ về Nam là một chủ
tâm.
Nhưng trước khi định nghĩa cá tính miền Nam thì câu chuyện về
sự hồi đầu ấy nghe có vẻ mơ hồ. Cái gọi là giọng Nam giọng Bắc, là cốt cách Nam
Bắc v.v... ấy có gì cụ thể chăng?
Có lần bàn đến những đề tài về cá tính miền Nam, Sơn Nam “khẳng
định” (chữ của Sơn Nam): “Không có ‘người Việt miền Nam’ mà chỉ có người Việt
Nam.” (Người Việt có dân tộc tính không, An Tiêm xuất bản, 1969). Khẳng định
như thế nghe có giọng đoàn kết, thống nhất, sát cánh lắm. Nói khác đi, e có vẻ
kỳ thị địa phương chăng? Dù sao, tôi nghĩ: thì vẫn là người Việt Nam cả, nhưng
người Việt Nam từ Sài Gòn xuống Cà Mau so với người Việt Nam ở Hà Nội, ở Huế, ở
Bình Định có những nét đặc biệt, ngộ lắm. Sự nghiệp văn chương của Sơn Nam
chính được gầy dựng nên do cái ngộ ấy. Bởi ông là người Nam, ông không để ý đó
thôi. Ông đã phát huy cá tính miền Nam một cách tài tình mà không hay. Tài tình
mà vô tình.
Cá tính văn học miền Nam là điều không thể phủ nhận, và nó rất
hấp dẫn. Sự phát huy bản sắc miền Nam là một đóng góp thật quan trọng vào nền
văn học Việt Nam. Đâu có phải chuyện gì xấu xa đâu mà vội khỏa lấp!
Về sắc thái đặc biệt, điều nhận thấy trước nhất là những từ
ngữ địa phương, những cách nói riêng của địa phương. Từ ngữ riêng của miền Nam
thật nhiều, càng ngày càng lộ ra nhiều. Trước 1954, dĩ nhiên nó vẫn phong phú,
nhưng nó không hay xuất hiện trên sách báo, thậm chí trong tự điển là nơi lẽ ra
phải tập trung đầy đủ tiếng nói của dân tộc cũng không có được bao nhiêu tiếng
địa phương miền Nam. Lúc bấy giờ địa vị của tiếng nói miền Nam hãy còn khiêm tốn,
ngay những học giả người miền Nam vẫn còn ngần ngại chưa muốn đưa những cà
tăng, cà ràng, chiếc nóp, lục cụ, ghe ngo, tắc ráng, với những chuyện len trâu,
xà nẹo, ăn ong v.v... vào sách. Sau này, mỗi lúc các ông Bình Nguyên Lộc, Lê
Xuyên mỗi trình ra, tuôn ra vô số; chừng ấy mới biết là chúng ta còn có cả một
kho vô tận chữ nghĩa mấy trăm năm qua chưa xài đến! Chuyện đó thì “mắc mớ” gì tới
tui? Tui thì “kể số” gì? Tui có ăn nhậu gì “trỏng” đâu “nà”? Ôi nghe lạ mà vui
biết bao nhiêu.
Vả lại dù khi không xài một tiếng mới mẻ nào, cách nói của
người dân quê trong Nam nghe cũng khác lạ, ngộ nghĩnh. Ngộ nghĩnh như kiểu thằng
Nhi nói với ba má nó về con trâu vừa mới chết. “Thằng Nhi về đó, coi dị hợm hơn
mọi ngày, mang trên vai một đống gì cao nghệu. Chú Tư xanh mặt. Nó thảy đống ấy
xuống đất:
- Đ.m. chết hết một con. Đem cặp sừng bộ da của nó về nè! Nặng
gần chết. Đ.m. không lẽ bỏ luôn.”[1]
Nhân vật có lối nói của nhân vật, các tác giả có lối viết của
các tác giả. Lối viết của các tác giả trong Nam sau này là lối viết độc đáo, nó
làm trẻ lại ngôn ngữ văn chương của dân tộc. Thật vậy, ở Trung và Bắc Việt Nam,
trải qua nhiều thế hệ văn gia, câu văn dần dần được trau luyện đẹp đẽ. Trau luyện
kỹ quá. Hoặc nó trong sáng giản dị như của Khái Hưng, Nhất Linh, hoặc nó cầu kỳ
điệu bộ như của Nguyễn Tuân, hoặc nó phóng khoáng huê dạng như của Hoàng Hải Thủy,
Vũ Bằng v.v..., nó vẫn mang cái dấu chung, là được đắn đo trau chuốt.
Tôi không có ý bảo rằng các nhà văn trong Nam viết cẩu thả.
Không ai có thể bảo người ở vùng nào viết nhanh vùng nào viết chậm, ở nơi nào
viết kỹ lưỡng nơi nào lại viết sơ sài v.v..., những chuyện nhảm nhí như thế nhất
định không thể được đặt ra bao giờ. Điều chúng ta đang nói đây là cái cảm tưởng
khi đọc văn chứ không phải cung cách khi viết văn. Đọc những nhà văn trong Nam
như Lê Xuyên, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, như Vương Hồng Sển v.v..., chúng ta có
cảm tưởng văn ấy tự nhiên, thân mật mà nhanh nhẹn thoăn thoắt, mà dễ dàng lưu
loát quá cỡ. Như thể không xếp đặt gì, cứ tuồng tuột ngon ơ, văn ấy cứ tuôn ra
không vấp váp khục khặc bao giờ cả, nó trôi chảy, tài tình quá xá. Ngày nay,
trên các báo chí hải ngoại một số nhà văn miền Nam trong đó có Hồ Trường An
cũng cho ta cái cảm tưởng ấy. Trong hoàn cảnh lưu vong sầu thảm, ai nấy rầu rĩ,
thì văn ông vẫn cứ tươi mơn mởn, vẫn cứ nuột nà.
Người miền Trung vào làm ăn trong Nam thoạt nghe bà con trong
Nam nói chuyện với nhau vẫn có cảm tưởng ấy: ôi chao, trong này người ta nói
sao mà cứ trơn lu, cứ như dầu rót roong roỏng vô chai, như xoa con toán liền
tay không dứt, như xua những viên bi tròn chạy rong róc trên một mặt mâm! Lối
nói như thế khiến liên tưởng đến câu ca vọng cổ dài dằng dặc mà thoăn thoắt mà
ngọt lịm.
Người miền Nam không phải chỉ tự nhiên thân mật ở câu văn lời
nói, mà còn ở cách bố trí câu chuyện, cách dàn bày vấn đề. Đọc những thiên khảo
luận của Bình Nguyên Lộc về nguồn gốc dân tộc, của Sơn Nam về cá tính miền Nam,
văn minh miệt vườn, của Vương Hồng Sển về các thú ăn chơi, đọc truyện Phi Lạc của
Hồ Hữu Tường v.v..., tưởng như gặp những người thật vui tính, những người xuề
xòa, cởi mở, đàm đạo phóng khoáng tự do, lắm lúc có phần lộn xộn, không xếp đặt,
không câu nệ.
Trên đây nói về cá tính miền Nam có nói đến tiếng “hấp dẫn”.
Thực vậy, tôi đã có dịp mừng rỡ thấy rằng cái hấp dẫn ấy không phải là cảm tưởng
chủ quan của riêng mình. Cách đây năm năm (tháng 11-1980) một nhà văn tên tuổi
từ ngày lưu vong chọn sống ở Texas có thư kể cho tôi một thú vui bất ngờ: Một
hôm ông thấy ở chợ có bán mấy bộ sách Tàu dịch lại, mua về đọc chơi. Tình cờ gặp
bộ Tây du do Tô Chẩn dịch theo giọng văn trong Nam. “Lý thú không biết nói sao
cho anh thấy rõ được (...) có dịp nào rảnh anh thử lấy cuốn Tây du bản dịch Tô
Chẩn mà đằm mình trong cái tiếng Việt của nông thôn miền Nam, thích lắm.”
Tất nhiên, tôi hoàn toàn đồng ý: Thích lắm. Lý thú không nói
sao cho xiết.
Thời Tô Chẩn dịch truyện Tàu, và trước nữa, trong thời nông
dân miền Nam nói truyện nói vè, nói thơ Sáu Trọng, thơ Sáu Nhỏ, thơ Thầy Thông
Chánh, kiểu “nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra”, thời của văn chương truyền khẩu, tiếng
Việt miền Nam lý thú như thế. Sau đó, khi sách báo miền Bắc từ thủ đô văn nghệ
tiền chiến là Hà Nội tràn vào, ảnh hưởng của nền văn nghệ rực rỡ ấy át hẳn cá
tính của miền Nam.
Hồ Trường An nhớ lại hồi nhỏ cùng với chị (là Nguyễn Thị Thụy
Vũ) đọc Hồ Biểu Chánh và Tây du do Tô Chẩn dịch, cũng mê mệt (như Mặc Đỗ). Lúc
hai chị em lớn tuổi hơn chỉ gặp Phi Vân, Trúc Giang viết tiểu thuyết bằng giọng
Nam. “Thuở đó, quá ít nhà văn gốc miền Nam chịu viết văn Nam.” Nhưng rồi sau
1954, tình hình lại đổi khác. “Khi vào trung học, chúng tôi xa dần văn chương
miền Nam viết theo văn Nam. Mãi đến khi Đò dọc của Bình Nguyên Lộc được xuất bản,
tôi mới có dịp trở lại tiếng miền phù sa sông Cửu. Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam,
Vân Trang, Hồ Hữu Tường đã làm sống lại ở tôi cái ngôn ngữ hồn nhiên, bộc trực,
giàu thổ âm kia. Nhưng đến Lê Xuyên thì ngôn ngữ miền Nam được diễn tả quá sung
mãn qua Vợ thầy Hương, Chú Tư Cầu, Kinh Cầu Muống, Xinh.”[2]
Sau tiếng nói địa phương và cách nói địa phương, thử chú ý đến
đề tài. Đề tài sáng tác cũng như đề tài biên khảo trong thời kỳ này cũng hướng
về miền Nam nhiều hơn rõ rệt.
Có thể nói tất cả sáng tác của Bình Nguyên Lộc, Ngọc Linh,
Sơn Nam, Vũ Bình, Nguyễn Thị Thụy Vũ đều chú trọng vào nếp sống, vào xã hội,
phong tục miền Nam. Và đó là cả một lãnh vực tân kỳ phong phú. Chúng ta có miền
Nam từ ba trăm năm, nhưng người Việt miền Bắc miền Trung mấy ai biết về đời sống
trong Nam trước ‘Rừng mắm’ của Bình Nguyên Lộc, Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam?
Những sáng tác như thế mở ra trước con mắt của đồng bào khắp nước một thế giới
vừa thân yêu vừa mới lạ biết chừng nào.
Biên khảo cũng vậy. Nguyễn Văn Hầu, Vương Hồng Sển, Đông Hồ...
viết về lịch sử, đất đai, phong tục, văn học, nhân vật miền Nam. Họ viết và lôi
cuốn cả những tác giả miền Bắc miền Trung cùng viết theo, như Phạm Việt Tuyền về
văn học Đàng Trong, như Nguyễn Văn Xuân về lưu dân vào Nam, Vũ Bằng về những
món ăn miền Nam v.v...
Thế rồi, hãy để ý thêm một điều nữa: Nhiều tác giả từ Bắc vào
thoạt tiên viết về những điều xảy ra ngoài Bắc về những nhân vật Bắc, nhưng dần
dần trải qua thời gian khung cảnh Bắc mờ nhạt dần, và người và cảnh miền Nam -
nhất là Sài Gòn - tràn lần vào tác phẩm họ. Thoạt đầu các trẻ mồ côi của Nhật
Tiến sống trong những cô nhi viện ngoài Hà Nội, về sau các trẻ mù của Lê Tất Điều
ở trại mù Sài Gòn; cứ thế miền Nam len vào tiểu thuyết của Văn Quang, Thanh
Nam, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, dàn ra khắp cùng.
Đã viết về miền Nam, các tác giả Bắc và Trung lần hồi lại còn
viết được giọng Nam: “Tôi có quen rất nhiều học trò của Thanh Tâm Tuyền, xuất
thân ở các trường trung học tỉnh Bình Dương, trong đó có Võ Kỳ Điền, bạn tôi. Họ
đều bảo ông Tuyền rất khoái lối văn diễn tả bằng giọng điệu miền Nam. Điều đó,
tôi không lấy làm lạ là ở hai truyện ngắn ‘Tư’ và ‘Dọc đường’, ông viết bằng lối
văn miền Nam rất tới. Nhưng khi tôi đọc truyện ngắn ‘Thăm chị buổi chiều’ của
Võ Phiến hoặc cuốn truyện dài Mã lộ của Viên Linh, tôi kinh ngạc đến rụng rời.
Trời ơi, cả hai viết đối thoại miền Nam khác nào những người đã từng sinh đẻ ở
xóm lao động miền Nam, biết nhậu rượu đế với trứng ung, biết ca vọng cổ, đã tiếp
xúc với nông dân, thợ thuyền, đã đàm đạo với các ông già ống vố bà già trầu...”[3]
Có một thời người Nam viết giọng Bắc, lại đến một thời khác
người Bắc viết giọng Nam. Phải chịu là ngộ chứ.
Một nhà thơ thuộc dân tộc thiểu số Avar bên Nga có lối ví von
ngộ nghĩnh: văn học như một cây đàn, mỗi nhà văn như thể một sợi dây đem đến
cho đàn một cung bậc riêng. Gớm, đàn nào mà nhiều dây lắm thế. Dù sao ta có thể
liên tưởng đến cây đàn pandur hai dây ở miền núi của ông. Nhớ lại ở ta hồi tiền
chiến khung cảnh cùng giọng văn trong hầu hết các tác phẩm nổi tiếng là cảnh Bắc
giọng Bắc, rồi nhận ra sắc thái miền Nam trong nền văn học 1954-75 chúng ta
nghĩ tới sợi dây thứ hai vừa mới căng trên cây đàn nọ. Phải thú thực là tôi yêu
cái cung điệu của sợi dây thứ hai ấy quá thể. Nói theo giọng trong Nam: tôi
khoái nó, khoái chí tử.
Tại sao có sự “đứng lên” của miền Nam trong văn học 1954-75?
Trước hết nó là chuyện dĩ nhiên: Ở đây chúng ta chọn nói
riêng về nền văn học từ 17 độ vĩ tuyến trở vào, nền văn học của miền Nam. Trong
văn giới số tác giả gốc Nam mỗi lúc mỗi đông, độc giả cũng là độc giả Nam,
khung cảnh sáng tác, địa bàn hoạt động, bối cảnh xã hội là miền Nam, chiều hướng
Nam hóa của văn học là thuận lẽ.
Ngoài ra, có lẽ cũng nên nghĩ đến một yếu tố khác: sự kích
thích của di dân từ Bắc vào. Nếu không có cuộc di cư sau hiệp định Genève nhất
định là số tác giả Nam cũng sẽ phát triển, đặc thái miền Nam cũng sẽ dần dần được
phát huy; tuy nhiên có cuộc di cư ấy thì cái đà phát triển phát huy chắc chắn
có nhanh hơn.
Để tự nhiên, người miền Nam nhìn đất miền Nam, nhìn cuộc sống
miền Nam, có lẽ chỉ thấy nó vậy vậy thôi. Nhưng từ Trung từ Bắc vào nhìn thấy lạ
ngay. Món ăn trong Nam trước giờ không ai thấy lạ, Vũ Bằng vào viết ngay một cuốn
Món lạ miền Nam. Dưa hấu trong Nam xưa nay vẫn nhiều không ai để ý, Nguyễn Bính
vào la lên: “Dưa hấu chất cao ngang nóc chợ!” Dường như hồi xưa Xuân Diệu cũng
có lần trầm trồ về cái giọng nói của người miền Nam. Và Hồ Dzếnh nữa, trầm trồ
về cách nói miền Nam...
Sau này Nguyễn Hoạt viết Trăng nước Đồng Nai, Chu Tử viết cuốn
Yêu, cuốn Loạn, Triều Đẩu viết Trên vỉa hè Sài Gòn v.v..., mỗi người mỗi cách,
mỗi người chú ý đến một phương diện khác nhau, ai nấy đều có chỗ đề cập đến những
nét độc đáo của người và đất Nam phần. Như thế sao khỏi kích thích những tác giả
người Nam. Nhất là những tác giả như Bình Nguyên Lộc, như Sơn Nam, vốn tha thiết
với quê hương mình rất mực. Một vị “chuyên trị” miền Đông một vị “chuyên trị”
miền Tây, một vị chiếm lĩnh Tiền giang một vị Hậu giang, họ đi sâu vào cuộc sống,
vào lịch sử địa phương, phát huy cái hay cái lạ, làm cho miền Nam càng ngày
càng bày ra những quyến rũ không ngờ. Những Đò dọc, ‘Rừng mắm’, ‘Ba con cáo’,
Hương rừng Cà Mau, Thổ ngơi Đồng Nai, Tìm hiểu đất Hậu Giang v.v... của họ đã
hay, sở dĩ càng hay là vì sự thưởng thức đầy cảm tình khích lệ của đồng nghiệp
Trung và Bắc.
“Cà phê nóng lên hơi nghi ngút
Lò than hồng lách tách nổ ran,
Nghe người kể chuyện xóm làng,
Cõi lòng ấm dịu, bàng hoàng, bâng khuâng.”
“Chuyện xóm làng” ông lão kể với một kẻ “đồng tâm” đã thú:
“Bàn bên cạnh, một ông bới tóc,
Liếc sang nhìn đang khóc trộm thầm,
Đoán mình là kẻ đồng tâm,
Lân la nói chuyện. Mưa dầm cứ rơi.”
(Bình Nguyên Lộc - Khai từ Thơ Ba Mén)
“Chuyện xóm làng” mà mình có dịp đem kể lại trước một cử tọa
đông đảo khách phương xa cũng có cái hay riêng của nó: những cặp mắt ngạc
nhiên, thán phục, sự đón chờ tò mò, khao khát, những tràng pháo tay tán thưởng
rào rào... Phải thêm hồ hởi chứ.
_________________________
[1]Sơn
Nam, 'Mùa len trâu', Hương rừng Cà Mau.
[2]Hồ
Trường An, "Trên dãi tân bồi', tạp chí Văn Học Nghệ Thuật, Hoa Kỳ, số 7,
tháng 11-85.
[3]Như
trên.
Phần 9
văn học & tính cách tự do
Tính cách tự do
Vừa rồi, trong khi nói về tâm trạng của thời kỳ 1954-75, rất
nhiều lần chúng tôi nhắc đến thời tiền chiến, đối chiếu với tâm trạng tiền chiến.
Thực ra cái thái độ tinh thần phản ánh trong nền văn học Miền Nam thời 54-75
không phải chỉ khác với thái độ thời tiền chiến hay thời kháng chiến 45-54.
Nghĩa là không phải chỉ có sự khác nhau giữa lớp trước lớp sau, sự khác nhau
qua thời gian. Cùng một thời với nhau, Nam Bắc cũng khác nhau nhiều lắm. Cái
khác Nam Bắc nói đây không phải là cái khác do địa phương mà là do chế độ chính
trị, xã hội gây nên. Dưới chế độ Miền Bắc, mặc dù trải qua bao nhiêu tai ương
thảm khốc trong mấy chục năm trời, cũng không làm gì có chuyện băn khoăn dao động
tinh thần, có suy tìm triết lý, tôn giáo, không làm gì có những tiếng kêu bi lụy
thống thiết. Ít ra không thể có những bộc lộ trong văn chương theo chiều hướng ấy.
Trong tác phẩm văn chương Miền Bắc chỉ có những con người lúc nào cũng tin chết
vào đảng, vào chủ nghĩa Mác Lê, vào lãnh tụ v.v..., những con người đơn sơ, chắc
nịch.
Ngoài hai điểm trên, Miền Nam và Miền Bắc còn có một chỗ khác
nhau sâu xa nữa. Là ở Miền Nam hiển nhiên có thái độ tự do, cởi mở, khoáng đạt
hơn ngoài Bắc nhiều.
Đọc truyện của Miền Bắc thấy toàn những nhân vật lúc nào cũng
nhảy choi choi lên đòi đánh thằng Mỹ, đòi hi sinh, đòi phục vụ, đòi giúp đỡ bà
con xóm giềng v.v..., nam phụ lão ấu người nào người ấy đều tốt cả, như mới được
túm cổ từ trong sách luân lý giáo khoa, trong tài liệu học tập của nhà nước lôi
ra, hễ cấp nhỏ thì tốt vừa, cấp lớn thì tốt hơn, cấp càng lớn càng tốt, và đồng
chí bí thư thì bao giờ cũng là kẻ tốt nhất, kẻ toàn thiện: vừa tử tế, vừa khôn
ngoan, vừa hết lòng vừa can đảm, đủ mọi bề. Sự tình như thế làm cho cả nhân vật
lẫn tác giả đều có vẻ gì ngô nghê. Và độc giả ở bên ngoài chế độ, độc giả Miền
Nam chẳng hạn, đọc những tác phẩm như thế họ có cảm tưởng đọc những loại truyện
kể cho nhi đồng với mục đích giáo dục. Rồi đến khi tiếp xúc với bộ đội, với cán
bộ cộng sản, với đảng viên cộng sản từ Bắc vào, mục kích những nhác nhớn, gian
lận, tham nhũng trong cơ quan, trộm cắp trong xí nghiệp v.v..., họ hoang mang.
Cộng sản nào trong sách? Cộng sản nào ở ngoài đời, quanh đây? Ủa, sao mà nhiều
thứ cộng sản vậy? Cộng sản nhan nhản ngoài đời hồi gần đây, thứ cộng sản này
thì sờ mó được, thì sống động, thực; còn loại cộng sản nói trong sách đã có bao
giờ nhập thế hiện xuống một nơi nào ở trần gian chưa? Nơi nào? Trung Quốc
chăng? Nga xô chăng? Ở đâu cũng đầy tham nhũng, lười lĩnh, gian lận, vô trách
nhiệm, năng suất xuống thấp hết cỡ... Cái cộng sản trong sách là “hiện thực”,
hiện thực khoa học, hiện thực xã hội chủ nghĩa; vậy thì thứ cộng sản ngoài đời,
sờ sờ trước mắt, thứ cộng sản sờ mó được ở khắp Miền Nam sau 1975 đây là giả tưởng?
là siêu thực? Ôi ly kỳ.
Nhất định là ở Miền Bắc không thiếu những tác giả có tài, có
thể tạo nên nhân vật sống động, nhưng họ đâu có phép làm như vậy? Nhân vật sống
động thì phải giống thực tại, mà giống thực tại thì xa chủ trương lãnh đạo rồi,
nguy hiểm cho họ biết bao. Họ đành... hiện thực xã hội chủ nghĩa vậy.
Để kết thúc cuốn Viết và đọc tiểu thuyết, Nhất Linh kể một
câu chuyện: Cuốn Đồi thông hai mộ là một cuốn truyện hết sức tầm thường, theo
ông nếu cuốn ấy xuất bản trong Nam thì có lẽ không ai thèm đọc. Thế nhưng ở Miền
Bắc người ta giấu giếm chuyền cho nhau xem; không những thế có người còn thức
luôn mấy đêm chép tay để đọc và đưa cho các bạn bè tin cẩn đọc, cứ thế một ngày
một lan rộng. Vì sao mà người Miền Bắc lại khác thường, lại ham sách dở đến thế?
Nhất Linh nghĩ: “Vì họ đã chán ngấy những tiểu thuyết hết ca tụng cái nọ đến ca
tụng cái kia, đều đều một giọng.”[1] Cuốn
Viết và đọc tiểu thuyết đã được đăng dần trên tạp chí Văn Hóa Ngày Nay từ trước
năm 1960. Mười lăm năm sau, điều tác giả nói về độc giả Miền Bắc lại diễn ra
ngay dưới mắt đồng bào ta ở trong Nam: sau 1975, cán bộ, bộ đội, đồng bào từ Bắc
vào Sài Gòn lại tìm đọc vồ vập các loại thơ văn, tìm nghe say mê các loại ca nhạc
ra đời trong Nam trước 1975, đọc xong nghe xong lén lút mang ra Bắc chuyền cho
nhau thưởng thức, báo hại nhà nước kêu lên inh ỏi là có CIA đánh phá lung tung
trên mặt trận văn hóa, phải huy động lực lượng phản công đi, phản công lại nhiều
đợt mà không dứt điểm nổi. Văn thơ ấy ca nhạc ấy lén lút mang từ Miền Nam về,
thứ hay có mà tất nhiên thứ dở cũng nhiều. Thì ra Miền Bắc vẫn cứ còn kỳ cục.
Sau ba mươi năm được lãnh đạo một cách khoa học, sáng suốt, sau ba mươi năm thấm
nhuần chủ nghĩa tiến bộ nhất, họ vẫn cứ còn giữ cái ham mê kỳ cục nọ. Bảo rằng
đây chỉ là vấn đề tò mò: thấy của lạ thì ham, người Bắc muốn tìm biết những món
trong Nam, cũng như người Nam muốn...
- Ðâu có! Chuyện ngược lại không hề xảy ra. Văn phẩm ngoài Bắc
đem vào phổ biến đầy dẫy ở Sài Gòn, đâu có xảy ra cảnh tranh đọc vồ vập? Đành
phải kết luận như Nhất Linh bằng cái lý do chán ngấy “chủ nghĩa” văn nghệ ca tụng
vậy.
Ngoan ngoãn hè hụi viết mãi những tác phẩm như thế năm này
qua năm khác, riết rồi cũng đến một lúc các tác giả Miền Bắc đánh bạo lên tiếng
xin đổi kiểu. Và dĩ nhiên họ bị mắng mỏ ngay. Lời qua tiếng lại giữa những
Hoàng Ngọc Hiển, Tô Hoài, Kiều Vân, Hà Xuân Trường v.v... trên các tạp chí văn
nghệ và chính trị ở Hà Nội trong mấy năm 1979, 1980, 1981... rốt cuộc rồi chẳng
đi tới đâu. Một bên muốn “miêu tả sự vật như nó vốn tồn tại và đang tồn tại”, một
bên nhất định bắt “miêu tả sự vật như nó phải tồn tại”, nhất định bắt duy trì
thứ chủ nghĩa “hiện thực phải đạo”, duy trì nền “văn nghệ phải đạo”: “Sự lấn át
của bình diện cái phải tồn tại đối với bình diện cái đang tồn tại trong sự phản
ánh nghệ thuật là một đặc trưng của cái cao cả (le sublime) như là một phạm trù
mỹ học.” Gớm, trịnh trọng quá. Sự thực đi vào thế giới những nghệ phẩm như thế,
ở đâu cũng thấy lổn nhổn toàn những cái “cao cả”, cái lớn cái bé cái lỡ cỡ, cái
gì cũng toàn “cao cả” do đám thợ hót sản xuất bừa bãi rụp rụp như thế, cảm tưởng
cuối cùng không phải là một cảm tưởng cao cả, mà là một cảm tưởng trước cảnh...
lố lăng (le grotesque), cũng một phạm trù mỹ học nữa!
Nhưng nói mỹ học làm gì cho to chuyện, trịnh trọng, đao to
búa lớn; tham luận, trao đổi, phê bình, góp ý làm gì cho mất công, cho hao tâm
tổn trí. Vấn đề vốn giản dị: Một mặt quần chúng chán nghe ca tụng, nghệ sĩ chán
ca tụng; nhưng mặt khác giới lãnh đạo giới cầm quyền không chán được ca tụng
thì ca tụng chủ nghĩa cứ tiếp tục đúng. Làm sao khác được.
Chính sách độc tài bủa giăng những ràng buộc làm trở ngại
sáng tác, làm cho giới biên khảo xuyên tạc sự thật, lâm vào cái cảnh phải dối
trá với độc giả. Làm người sống thẳng thắn theo lương tâm dưới một chế độ như
thế đã khó, huống hồ là làm một văn nghệ sĩ. Trong lãnh vực văn học nghệ thuật,
đã rõ “không gì quí bằng tự do”.
Còn tại Miền Nam, quốc gia ở trong tình trạng chiến tranh
liên miên, Miền Nam có kiểm duyệt, giới cầm bút nhiều lần kích bác chống đối kiểm
duyệt, sự chống đối có lúc khá ồn ào vào những năm cuối cùng của chế độ. Tuy vậy,
Miền Nam có tự do là điều không thể chối cãi. Một thứ tự do tương đối, có hạn
chế, nhưng là tự do rộng rãi hơn hẳn ở những phần đất hay ở những thời nước nhà
thuộc quyền cộng sản.
Thật vậy, vừa rồi chúng tôi có nói đến sự chống đối kiểm duyệt
ồn ào trước 1975, nhưng ngay vào độ ấy văn sĩ vẫn được dõng dạc nói lên những
điều họ cảm nghĩ mà không ngại xúc phạm đến người cầm quyền. Tập san Nhà Văn số
xuân Ất Mão (tháng 2 năm 1975) đăng lời tuyên bố của Thanh Lãng trả lời một cuộc
phỏng vấn: “Tết năm nay, đối với Trung tâm Văn Bút Việt Nam là một cái Tết tha
hương, vì cũng như nhân dân Miền Nam, nhà văn Việt Nam đang sống trong một nhà
tù lớn, một chốn ly thân, trong thân phận vong thân.” (trang 115). Trong cái
“nhà tù lớn” ấy báo Nhà Văn được in, và phổ biến rộng rãi, nhà văn Việt Nam
Thanh Lãng vẫn yên lành tiếp tục viết văn, tiếp tục chống nhà cầm quyền bằng
tuyên bố này nọ và bằng những hình thức hoạt động khác.
Ngay trong trường hợp bị “trù ẻo” thực sự như báo Đối Diện của
linh mục Nguyễn Ngọc Lan chẳng hạn thì rốt cuộc cả tờ báo lẫn chủ báo cũng vẫn
cứ nguyên lành, đến cuối cùng, dù có vất vả. Hồ Hữu Tường mang cái án tử hình,
khi còn ngồi tù ngoài Côn Đảo đã có truyện đăng trên nhật báo ở Sài Gòn. Đối lập
như Nhất Linh vẫn ra báo in sách, cho đến chán thì nghỉ. Đại khái thì sự ngăn cản
vẫn... lành.
TINH THẦN HÀI HƯỚC
Thế cho nên ở Miền Nam trong thời kỳ này bùng lên một không
khí nghịch ngợm, thịnh phát một nền văn chương trào phúng phong phú hiếm thấy,
có lẽ trong văn học Việt Nam chưa bao giờ có một thời kỳ “vui vẻ” như thế này:
số lượng các tác giả hài hước, hoặc viết bằng văn xuôi hoặc viết bằng văn vần
thật nhiều (Thần Đăng, Tú Kếu, Hà Thượng Nhân, Sức Mấy, Đạo Cấy, Kiều Phong,
Thương Sinh, Chu Tử...); tạp chí, nhật báo thường thường dành nhiều trang cho
các loại khôi hài; lại có hẳn những tờ báo chuyên chọc cười suốt từ đầu đến cuối
(Con Ong, Muỗi Sài Gòn...).
Tiếng cười của thời này không phải ngẫu nhiên mà nở trong văn
chương. Nó bắt nguồn từ ngoài đời. Ngoài cuộc sống, tự dưng bấy giờ thiên hạ
cũng xài một thứ ngôn ngữ có nhiều tiếng dí dỏm: sức mấy, đi một đường lả lướt,
rước đèn đều đều với em v.v... Nhạc sĩ hát “sức mấy mà buồn”, “bỏ đi tám”...
Ngoài xã hội rộn ràng nghí ngố đùa giỡn, cho nên tiếng cười lọt vào thơ văn.
Tiếng cười đùa nổ với tiếng súng lớn nhỏ. Tiếng súng càng
giòn tiếng cười càng rộ. Thật vậy, rõ ràng là càng về sau cười đùa càng tợn:
đùa nàng Kiều-lá-đổ trong Quốc hội, giễu ông Tổng Ngọc trong chính phủ, ghẹo Quế
tướng công trong quân đội, cụ VIP K.K. lôi Tổng thống độc diễn ra xử đi xử lại
tơi bời, ai nấy lôi thơ gãi háng của Phó Tổng thống ra cười cợt mãi không
thôi... Thật không còn kiêng nể gì nữa. Cười mệt nghỉ, cười chết bỏ.
Bảo súng càng giòn cười càng rộ, như thế có ý liên hệ chiến
tranh với khôi hài, cái chết với tiếng cười. E khó tìm ra một tương quan giữa
hai cái ấy. Tuy nhiên chiến tranh có làm cho cuộc sống đảo điên, cho xã hội hỗn
loạn phần nào, cho kỷ cương buông thả, cho luật pháp lỏng lẻo hơn, cho nếp sống
phóng túng tự do hơn, luông tuồng bừa bãi hơn. Cười nói ngả nghiêng trong khung
cảnh ấy vẫn hợp hơn là trong bầu không khí trang nghiêm, gần như đạo hạnh, của
Đệ nhất Cộng hòa. Có thế chăng?
Dù sao, mối liên hệ giữa tự do với tiếng cười thì hiển nhiên.
Ở Miền Bắc không có văn chương hài hước. Thật ra, ở Hà Nội có lần phọt lên một
tràng cười lớn: tức lúc Nhân Văn, Giai Phẩm ra đời. Thế rồi tịt. Chịu khó dai dẳng
chỉ còn có ông cụ Tú Mỡ. Bao nhiêu cán bộ văn nghệ được đào tạo để làm thơ trào
phúng đều chẳng ai thành công. Tạp chí Văn Học, xuất bản ở Hà Nội, số tháng
9-1965 bảo: “Có người ngại rằng thơ trào phúng sẽ sút kém khi nhà thơ Tú Mỡ
trăm tuổi.” Cái ngại của người nào đó có giá trị tiên tri. Tú Mỡ luyện nụ cười
từ thời Pháp thuộc, đưa ra trình bày dưới chế độ cộng sản, tuy đã mòn mỏi xệu xạo
nhưng vẫn còn dùng được để đánh thằng Tây thằng Mỹ. Tú Mỡ đi rồi, quả sút kém
to.
Hiện tượng mất tiếng cười ở Miền Bắc là cả một mối lo của nhà
cầm quyền. Họ đôn đốc thúc dục cán bộ viết trào phúng, họ tổ chức những “đội
ngũ” trào phúng, chỉ vẽ dạy bảo rất chăm: kết quả không được mấy. Trong đại hội
văn nghệ lần thứ III hồi 1962 Nguyễn Tuân kêu gọi khẩn cấp: “Đừng khó ‘đăm
đăm’... phải cười lên. Cười tủm tỉm hoặc cười nửa miệng, hoặc là cười phá lên,
cười rộ lên, cái đó xin cứ theo tùy thích của mỗi người.” Yêu cầu mời mọc đến
thế, vẫn không được hưởng ứng.
Và, cũng lại như trường hợp xảy ra ở trong Nam: văn chương
ngoài Bắc phản ánh sinh hoạt ngoài đời. Văn “khó đăm đăm” là bởi người lo ngay
ngáy. Trên báo Nhân Văn số 5, Trần Lê Văn phác họa một chân dung cán bộ: “Người
anh khô đét lại, thẳng đờ như một cái áo quan, mắt chỉ biết trợn chứ không biết
nhìn, mặt tái đi vì luôn luôn giận dữ với các loại khuyết điểm trên đời, hai
hàm răng xít lại, dầu có cạy cũng chẳng ra một nụ cười”... “Đồng chí ấy nói đùa
anh cũng vâng vâng dạ dạ vì lâu ngày anh quên cả nói đùa.” Trời đất, người
“anh” như thế thì dù nhà nước, dù đảng có cù cũng đành chịu chứ trào phúng trào
phiếc gì được!
Điều mỉa mai là đoản văn vừa trích từ báo Nhân Văn lại là một
đoạn trào phúng có giá trị, ít ra có thể làm “anh” giận điên người. Thành thử,
thực ra ở Miền Bắc vẫn có cười đấy, nhưng chỉ cười ở bên ngoài nền văn học
chính thống mà thôi: cười trên báo “lậu” chống đối, cười trong những câu ca dao
truyện tiếu lâm lưu truyền khắp dân gian. Nguyễn Tuân hướng về phía trước mời
cười thì chỉ thấy toàn những mẫu người “khô đét, thẳng đờ, mắt trợn, mặt tái,
răng xít lại”; nhưng sau lưng ông thì lúc nào cũng khúc khích tiếng cười trộm
lén của quần chúng nghịch ngợm, tinh ma. Họ cười ¾ y như quần chúng từng cười
xưa nay dưới mọi chế độ ¾ kẻ áp bức mình: các lãnh tụ, các ủy viên đảng từ tỉnh
lên trung ương, các bộ trưởng, dân biểu, và chắc chắn cả những tay chân được hưởng
nhiều ân sủng (như Nguyễn Tuân?). Ở Miền Bắc nhà cầm quyền cũng đôn đốc văn nghệ
sĩ dùng tiếng cười như một vũ khí để đánh vào kẻ thù: hoặc thằng Pháp, thằng Mỹ,
thằng địa chủ, hoặc những cán bộ thấp cổ bé miệng, những công nhân, nông dân
kém ngoan ngoãn không hết mình hết sức cho đảng, cho nhà nước; nhưng tiếng cười
theo lệnh chỉ huy phát ra hiếm hoi, rời rạc, đơn điệu, nhạt nhẽo. Trái lại, ở
Miền Nam tự do hễ đã cười là cười các ông to bà lớn (dân biểu, nghị sĩ, tổng
trưởng v.v...) còn công chức cán bộ cấp nhỏ đều được miễn. Cười như thế tiếng
cười nghe ngạo nghễ, sảng khoái. Lắm khi, có thô lỗ. Thô lỗ vẫn là xấu, nhưng
dù sao cũng không tệ như cái cười cầu tài. Nghệ thuật kỵ cái hèn.
CÁI KỲ DỊ
Tự do làm nở nụ cười; và cũng chỉ ở Miền Nam mới có cái tự do
làm nảy sinh ra kỳ hoa dị thảo. Cái tầm thường thì có thể được chấp nhận dễ
dàng, còn cái kỳ dị thường gặp phản ứng mạnh, phải chờ sự phán xét của thời
gian. Nhưng dù chưa khẳng định được giá trị của nó vẫn phải nhận rằng thi ca của
những Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn, triết học của Kim Định, các thị kiến về tôn
giáo, chính trị, văn hóa v.v... của Hồ Hữu Tường v.v... là những đóng góp độc
đáo, phong phú. Những tài năng phóng khoáng, bất chấp khuôn khổ, không cần biết
đến quan niệm chính thống ấy, sau khi Miền Nam sụp đổ thì hoặc phải bỏ nước mà
đi (Kim Định) hoặc bị đày đọa thủ tiêu (Hồ Hữu Tường) hoặc bị đánh đập tơi bời
(Bùi Giáng). Đến cái thân họ còn không giữ nổi, nói gì đến nghệ thuật cùng tư
tưởng.
_________________________
[1]Nhất
Linh, Viết và đọc tiểu thuyết, Ðời Nay xuất bản, Sài Gòn 1969, trang 100.
Phần 10
đối chiếu thành tích
Thành tích
Bảo rằng thời kỳ văn học 54-75 phản ảnh một một khủng hoảng
tin tưởng sâu xa; bảo rằng thời ấy chất chứa những xúc cảm mạnh bộc lộ trong lối
viết cực đoan quá lố; lại bảo rằng so với Miền Bắc thì ở Miền Nam trong thời kỳ
này có tinh thần cởi mở khoáng đạt hơn, thường hay cười cợt chỉ trích, lắm kẻ
ngông nghênh, có khi kỳ dị, nói thế là nói về một số đặc điểm tâm tình của con
người Việt Nam trong thời kỳ này. Bây giờ thử tìm hiểu về những đặc điểm nơi
thành tích của nền văn học thời này.
Thành tích văn học Miền Nam từ 54 đến 75, so với thời trước
đó, hoặc với nền văn học cùng thời ở Miền Bắc, có chỗ hơn lại cũng có chỗ kém,
và ở những chỗ không có vấn đề hơn kém thì nó vẫn có những nét khác biệt đáng
chú ý.
Đối chiếu với Miền Bắc
Giữa Miền Nam với Miền Bắc cùng trong thời kỳ này mỗi bên
quan niệm công việc khác nhau và làm việc khác nhau. Ở Miền Nam hoạt động văn
hóa là việc của những cá nhân tự do, ở Miền Bắc nhà nước huy động mọi khả năng
trong nước để thực hiện các chương trình văn hóa do mình vạch ra. Ở Miền Nam,
Lê Văn Siêu đơn thân độc mã tiến hành soạn thảo bộ văn học sử Việt Nam và gặp
những khó khăn nan giải (cố nhiên); ở Miền Bắc, để soạn bộ Thơ văn Lý Trần (3
cuốn) chẳng hạn, cả tổ Hán Nôm được chỉ định lo sưu tầm tài liệu và phiên dịch;
chừng mười năm sau, hai nhóm soạn giả gồm mười hai người bắt tay làm việc dưới
sự hướng dẫn thường xuyên của hai học giả Đặng Thai Mai và Cao Xuân Huy; trong
khi tám học giả khác lo góp ý, theo dõi, góp tài liệu, soát lại bản thảo v.v...
Ở Miền Nam một mình Nguyễn Hiến Lê dịch bộ Chiến Tranh và Hòa
Bình của L. Tolstoi; ở Miền Bắc dịch phẩm ấy được một ban phiên dịch bốn người
thực hiện, trong đó có kẻ thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, có người biết tiếng
Hoa, tiếng Nga. Tập hợp một số người đông đảo để biên khảo dịch thuật tại Miền
Nam thì tổn phí sẽ cao quá, sách đã khó bán mà phần tác quyền chia cho mỗi người
sẽ chẳng được là bao. Trong khi ấy ở Miền Bắc mỗi một soạn giả mỗi tháng chỉ tốn
của nhà nước mấy chục ký gạo, muốn bao nhiêu người có bấy nhiêu, và ai nấy làm
việc tha hồ nhẩn nha trong tinh thần thi đua, không bị những bận tâm về lợi tức,
về giá sách quấy rầy.
Trong những điều kiện như thế, các bộ môn biên khảo và dịch
thuật ở Miền Bắc có một số lợi thế. Tuy vậy các sự hạn chế kiểm soát gắt gao về
quan điểm, về lập trường, không khỏi trở ngại công việc của người cầm bút có
lương tâm, ảnh hưởng nặng nề đến giá trị tác phẩm.
Còn về mặt sáng tác, cái giá mà các văn nghệ sĩ Miền Bắc phải
trả cho khoản cấp dưỡng của nhà nước thật quá cao. Sáng tác càng cần một không
khí tự do, chắc chắn cần hơn biên khảo và hiển nhiên là cần hơn dịch thuật. Vì
vậy mặc dù được giải tỏa khỏi các lo lắng về sinh kế để dành trọn thì giờ cho
trước tác, mặc dù được huấn luyện đi huấn luyện lại, được đưa vào thực tế để
quan sát, tham dự các mặt sinh hoạt của xã hội, được thúc đẩy ráo riết, giới
sáng tác Miền Bắc cũng không đạt được thành tích khả quan.
Hiện tôi không có điều kiện để đọc đầy đủ sách Miền Bắc, vậy
xin trích dẫn những nhận định của cố học giả Nguyễn Hiến Lê. Ông Nguyễn là một
nhà văn độc lập không có thiên kiến chính trị, không từng cộng tác với một
chính quyền nào hoặc Nam hoặc Bắc, ông đã ở lại Việt Nam sau 1975 cho đến ngày
qua đời, ông lại là nhà văn từng quan tâm nghiên cứu và phê bình văn học, tác
giả các cuốn Đại cương văn học sử Trung Quốc, Văn học Trung Quốc hiện đại,
Hương sắc trong vườn văn, Luyện văn, Mười câu chuyện văn chương, các thiên tiểu
luận Văn thể hùng vĩ, Quan niệm sáng tác của Edgar Poe, Bốn lối kết trong tiểu
thuyết v.v...; ngoài ra ông còn dự tính biên soạn một bộ lịch sử văn học Việt
Nam giữa hai cuộc thế chiến. Trong những năm sau 1975 ông đã bỏ ra nhiều thì giờ
để đọc sách Miền Bắc, và ghi nhận xét của mình vào cuốn Đời viết văn của tôi
(Văn Nghệ xuất bản tại Hoa Kỳ, 1986).
Ông viết như sau:
“Phần lớn thì giờ của tôi dùng để đọc sách báo Bắc Việt, tìm
hiểu văn học ngoài đó, và xét chung, tôi thấy về sáng tác, Bắc không phong phú
bằng Nam; về khảo cứu sử và cổ văn học của mình thì Bắc hơn Nam, nhưng trừ vài
ba tác phẩm thực có giá trị như Chống Nguyên Mông của Hà Văn Tấn..., còn lại đều
bình thường thôi; về dịch, Bắc cũng ít hơn Nam.” (sđd, trang 228)
Đối chiếu với tiền chiến
Nếu thử đối chiếu với thời kỳ văn học tiền chiến, từ thuở
phôi thai của văn học quốc ngữ cho đến 1945, thì phải nhận rằng thời kỳ 54-75
không theo kịp sức phát triển nhanh chóng lạ thường của thời kỳ trước. Thực ra
rồi sẽ khó lòng có thời kỳ văn học nào theo kịp thời tiền chiến về phương diện
này. Từ lời văn mộc mạc của Trương Vĩnh Ký kể những câu chuyện đời xưa “lựa
nhón” tới câu thơ trau luyện của Vũ Hoàng Chương, từ lời lẽ vụng về trên báo
Nông Cổ Mín Đàm tới câu văn cao kỳ tinh diệu của Nguyễn Tuân trong Tùy bút,
trong Chùa đàn, sự cách biệt thật là thăm thẳm. Chỉ trong vòng mười lăm năm mà
từ những thiên truyện thô sơ của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn đến tiểu thuyết của
Khái Hưng, Nhất Linh, từ bổn Tuồng Lôi Xích phải dịch giới thiệu để biết thế
nào là kịch cho đến những vở Kim tiền của Vi Huyền Đắc, Ghen của Đoàn Phú Tứ
v.v..., bộ môn nào cũng nhảy những bước nhảy vọt ngoạn mục. Riêng trong thi ca
thì đã xảy ra cả một cuộc cách mạng. Những tài năng về văn thơ trưởng thành
trong vòng thời gian ngắn ngủi ấy rồi tiếp tục chễm chệ trên các địa vị lãnh đạo
Miền Bắc cho đến ngày nay, chưa có người kế vị: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận,
Xuân Diệu, Nguyễn Tuân v.v...
Mà không riêng gì trong phạm vi văn chương học thuật, ở các
ngành nghệ thuật khác như hội họa, âm nhạc cũng thế. Từ chỗ khởi đầu, một nền hội
họa mới, một nền tân nhạc được dựng lên, rồi phát triển thật nhanh đến chỗ cực
thịnh với những tên tuổi còn sáng chói đến bây giờ.
Thời tiền chiến ấy là thời Pháp thuộc, nhưng dĩ nhiên hiện tượng
văn nghệ hưng thịnh kia không dính líu gì với chế độ chính trị. Đưa những lý do
chính trị để cắt nghĩa sự thịnh phát nọ là ngớ ngẩn; mà phủ nhận nó, chủ trương
che giấu, dè bĩu, chê bai nó vì lý do chính trị thì rõ là lố bịch. Tây thuộc địa
không có công gì trong cuộc phát huy văn nghệ rực rỡ ấy, mà cách mạng vô sản
cũng chẳng có gì để áy náy, ngượng ngùng, ganh tị trước thành quả của nó. Đây
là một hiện tượng văn hóa, phát sinh do những nguyên nhân văn hóa: Cuộc tiếp
xúc với Tây phương thay đổi xã hội chúng ta, thay đổi sâu xa nếp sống của chúng
ta, ảnh hưởng đến quan niệm nhân sinh, đến lối cảm xúc suy tưởng của chúng ta,
kích động mạnh vào tâm hồn chúng ta; mặt khác cuộc tiếp xúc với Tây phương mở
ra trước mắt chúng ta một chân trời mới, kích thích óc sáng tạo nghệ thuật của
chúng ta. Và chúng ta đã vùng lên đuổi theo trong vòng ba mươi năm tất cả chặng
đường dài mà Tây phương đã đi trong ba thế kỷ. Những trường hợp như thế không
phải mỗi lúc mỗi xảy ra.
Thời kỳ 1954-75 không đi hia bảy dặm, nó có những đặc điểm
khác. Sự phát triển văn nghệ theo chiều rộng trên đất nước chẳng hạn.
Hồi tiền chiến, trong bộ Nhà văn hiện đại Vũ Ngọc Phan nói đến
78 vị, trong đó số người cầm bút quê quán từ 17 độ vĩ tuyến vào Nam chỉ được một
phần mười. Một phần mười cho nửa nước, ít quá. Trong cái số ít ấy phần lớn là
các vị học giả (như Trương Vĩnh Ký, Phan Khôi, Thiếu Sơn) và các nhà thơ (Đông
Hồ, Quách Tấn v.v...). Chỉ có đôi ba vị sáng tác bằng tản văn là Hồ Biểu Chánh
mà ông Vũ cho là viết truyện bình dân, và Thanh Tịnh với Nguyễn Vỹ vừa làm thơ
vừa viết truyện, cả hai phía khá lu mờ. Sau 1954, số người ở Nam phần viết truyện
cho quần chúng đông đảo như bà Tùng Long, Ngọc Linh... tăng nhiều, mà số tiểu
thuyết gia viết cho hạng độc giả cao hơn cũng lắm: Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Thụy
Vũ, Hồ Hữu Tường, Trần Thị NgH...
Ở Trung phần, nơi trước kia hầu như chỉ có thi nhân thì sau
1954 đã xuất hiện rất nhiều người viết truyện: Linh Bảo, Võ Phiến, Vũ Hạnh, Võ
Hồng, Túy Hồng, Minh Đức Hoài Trinh, Nhã Ca, Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Mộng Giác,
Nguyễn Thị Hoàng v.v... (Còn thi sĩ, dĩ nhiên lúc nào cũng nhiều.)
Nếu sự phát triển của văn chương ¾ nhất là ở nước ta ¾ từ trước
đến giờ vẫn bắt đầu bằng vận văn trước rồi mới đến tản văn sau, thì chúng ta thấy
trong thời kỳ 1954-75 phần đất phía Nam của đất nước đã tiến thêm một chặng
quan trọng trên đường mở mang về văn hóa.
Trên đây vừa nói thời kỳ này không đi hia bảy dặm, như thế
không có nghĩa là nó không đi, không tiến. Không! chẳng những nó có đi, thực ra
trên một vài địa hạt nó còn chạy, còn nhảy, nhảy vọt. Trên địa hạt tiểu thuyết
chẳng hạn.
Kiểm điểm tình hình tiểu thuyết, năm 1973 Cao Huy Khanh nêu
lên vài sự kiện nổi bật: trong hơn 30 năm của thời tiền chiến (1913-1945) Vũ Ngọc
Phan chỉ đưa ra được khoảng trên 30 tiểu thuyết gia, thế mà trong vòng không đầy
20 năm từ 1954 đến 1973 đã có xấp xỉ 200 tiểu thuyết gia, trong số đó trên dưới
60 người có giá trị hẳn hoi. Mặt khác theo lời ông Cao thì “tiểu thuyết chúng
ta [1] có
quá nhiều sắc thái, nhiều tính chất, nhiều đặc điểm khác biệt.”[2]
Tiểu thuyết gia tăng lên gấp bội, bộ môn tiểu thuyết lại
phong phú hơn về màu sắc dáng vẻ, thế thì sự tiến bộ thật hiển nhiên, rành
rành. Đã vậy, thời kỳ 54-73 chỉ sử dụng tài năng của nửa nước, trong khoảng hai
phần ba thời gian của thời tiền chiến mà thôi. Và cái nửa nước nói đây hồi tiền
chiến chưa có tiểu thuyết gia! Từ một vị thế bất lợi như thế mà tiến xa đến chừng
ấy, thời kỳ 54-73 quả đã gây nên thành tích đáng ngạc nhiên đấy chứ.
Thế rồi giữa thời tiền chiến với thời kỳ này còn có chỗ nữa
tưởng cũng nên chú ý. Số là viết về các nhà văn tiền chiến Vũ Ngọc Phan chia ra
một lớp trước và một lớp sau; lớp trước gồm hầu hết là những nhà biên khảo (như
Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh v.v...) với những thi sĩ (Đông Hồ, Tản Đà...), còn lớp
sau lại gần như chẳng có nhà biên khảo nào, chỉ có năm vị cùng chuyên về ngành
lịch sử, viết loại lịch sử truyện ký, trong số đó đã có vài ba vị còn lẫn lộn
truyện ký với tiểu thuyết. Lực lượng đông đảo nhất của lớp sau gồm các tiểu
thuyết gia, mà tiểu thuyết vào lớp trước chẳng qua còn phôi thai.
Sang thời kỳ 1954-75, chúng ta nhận thấy các bộ môn văn học
phát triển khá đồng đều (ngoại trừ ngành phê bình văn học): số lượng tiểu thuyết
gia không nhiều quá đáng mà số khảo luận gia thì tăng thêm rõ rệt. Bộ môn biên
khảo lúc này không những chỉ thu hút thêm nhiều tài năng mà lại còn mở rộng phạm
vi nghiên cứu. Như đã thấy, hồi tiền chiến lớp sau chỉ có dăm vị tìm tòi về sử,
còn sau 1954 ngoài sử học còn có bao nhiêu khảo luận về triết lý, văn học, thẩm
mỹ học, dân tộc học, ngữ học, địa chất học, về âm nhạc, hội họa v.v...
Sự phát triển của bộ môn biên khảo trong thời kỳ 1954-75 một
phần có lẽ do nơi sự phát triển của ngành đại học Việt Nam sau khi nước nhà thu
hồi độc lập: với một số lượng giáo sư và sinh viên mỗi lúc mỗi đông đảo, nhu cầu
tìm hiểu, trao đổi kiến thức chuyên môn tất nhiên phải lớn hơn trước. Phần
khác, sự thiên lệch quá đáng trong buổi đầu và tình trạng quân bình về sau này
giữa các bộ môn có lẽ cũng phản ảnh những bước tiến triển tự nhiên của nền văn
học quốc ngữ: Văn học Việt Nam là một nền văn học cố cựu, nhưng sau cuộc tiếp
xúc với văn hóa Tây phương nó lại bắt đầu một cuộc đổi mới, một cuộc phục hưng.
Có những môn loại tàn đi, lại có những môn loại mới xuất hiện. Bước đầu không
tránh khỏi những chênh lệch, ngập ngừng. Về phương diện này, sau 1954, chúng ta
thấy sự phát triển đạt đến một tình trạng ổn định hơn trước.
Đối chiếu với Miền Nam trước 1954
Cuối cùng, đem đối chiếu tình hình văn học ngay ở Miền Nam
trước và sau 1954, lại thấy cả một thay đổi lớn lao.
Thay đổi ấy trước hết là một sự lớn mạnh. Trước 1954 số văn
nghệ sĩ tên tuổi ra mặt hoạt động ở Sài Gòn khá ít oi. Họ có mặt không hẳn là
ít, nhưng hoạt động thì không đáng kể. Cũng như các chính khách có uy tín, họ
ngần ngại, chờ đợi. Sau hiệp định Genève một mặt lớp văn nghệ sĩ “trùm chăn”
tung ra hoạt động, một mặt hàng loạt văn nghệ sĩ từ Miền Bắc di cư vào, tất cả
họp thành một số lượng đông đảo, làm cho văn đàn náo nhiệt hẳn lên.
Nhưng cái thay đổi quan trọng không phải thuộc về số lượng:
Chiều hướng tinh thần đồng thời cũng xoay chuyển hẳn. Trước 1954 sáng tác
“trong thành” phản ảnh một tâm lý vọng về chiến khu, về phía Việt Minh. Sau
1954 cả một phong trào chống cộng bừng lên, lan tràn khắp mặt sách báo. Trước
1954 văn học “trong thành” phản ảnh một thái độ hoàn toàn thiếu tự tín: Không
tin ở cái nơi mình chọn sống, không tin ở chế độ của mình, không tin rằng mình
có một lẽ phải; sau 1954, văn học dõng dạc nói lên cái tâm trạng của một Miền
Nam đầy tin tưởng ở lý tưởng tự do của mình.
Dĩ nhiên về mặt thành tích thời kỳ sau 1954 cũng vượt bỏ rất
xa thời kỳ trước đó.
_________________________
[1]Tức
của thời kỳ 1954-73.
[2]Cao
Huy Khanh, “Vấn đề khuynh hướng trong tiểu thuyết miền Nam từ 1954 đến 1973”, tạp
chí Thời Tập số ra ngày 14-4-74 (tr. 44).
Phần 11
bối cảnh – tình hình trước 1954
Tình hình trước 1954
Đời sống vật chất
Từ ngày bùng nổ cuộc toàn quốc kháng chiến chống Pháp cho đến
khi nước Việt Nam bị chia đôi theo hiệp định Genève, ở vùng quốc gia đời sống vật
chất khá đầy đủ, sinh hoạt ở các đô thị lắm lúc trông có vẻ phồn thịnh, người dồn
về đông đảo, làm ăn náo nhiệt, vui vẻ, hồ hởi nữa; nhưng đời sống tinh thần thì
thực ra thường khi thảm não.
Theo Đoàn Thêm thì giai đoạn tươi sáng nhất là khoảng thời
gian cuối năm 1949 đầu 1950, lúc cựu hoàng Bảo Đại về nước. “Trong khi các giới
trí thức và chính trị xôn xao cựa cậy, thì dân chúng tấp nập hồi cư về các
thành thị. Từ tháng 7, mỗi ngày có tới vài ngàn người. Số này lên tới 35.000
riêng ngày 30-10, ở Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây. Phải chăng vì giao
thông dễ dàng từ khi quân đội Pháp lan tràn kiểm soát vùng duyên hải đông dân
Bùi Chu và Phát Diệm (16-10-49). Công chức kéo về rất nhiều nên tới đầu 1950,
các công sở Việt Nam đã tái thu dụng được quá nửa số nhân viên các ngạch thời
Pháp thuộc.
Chính giới Pháp và Việt đều hoan hỉ, và coi trào lưu hồi cư
đó như một thắng lợi của giải pháp Bảo Đại: dân bỏ già Hồ về với cựu hoàng; diện
tích và dân số vùng chiếm đóng, riêng ở trung châu Bắc Việt tăng lên gấp ba.
Cũng tăng rất nhiều, số ruộng cày cấy; và số gạo xuất cảng: từ
59.000 tấn (1945) lại lên 379.000 tấn (1950). Nhân công dồi dào, an ninh khá
hơn, các ngành sản xuất đều tiến, lụa, cao-su, than đá, vải sợi, xi-măng, đường,
thủy tinh v.v... Trị giá nhập cảng từ 16 tỷ quan (1946) vọt tới 73 tỷ (1949).
Hàng hóa tràn ngập các cửa tiệm và sạp chợ. Mức lương bổng công tư đều khá cao,
giá sinh hoạt tương đối rẻ. Một thư ký nhà nước hay tiệm buôn lớn, có vợ và ba
con, kiếm hàng tháng chừng 2500-3000đ, trong khi giá gạo số 1 tại Sài Gòn là
200đ mỗi tạ, thịt bò 8đ50 một kí, thuốc lá đen 2đ50-3đ một bao...”[1]
Trước 1954 đất nước chưa phân chia cho nên những điều Đoàn
Thêm nói là nói chung cho cả nước, cho tình hình vùng quốc gia từ Bắc chí Nam.
Riêng tại miền Nam lúc bấy giờ cuộc sống còn hơn ở Bắc: dễ dàng hơn, “vui” hơn.
Vì vậy ngay trước 1954 đã có nhiều đồng bào Bắc đi vào Sài Gòn sinh sống, trong
số đó có những văn nghệ sĩ hoặc vừa rời bỏ kháng chiến trở về hoặc vẫn ở trong
thành từ trước: Phạm Duy, Hồ Dzếnh, Phạm Đình Chương, Thanh Nam, Trần Lê Nguyễn
v.v... Trần Lê Nguyễn vào Nam trước Thanh Nam và viết thư rủ rê bạn. Thanh Nam
kể: “Khoảng đầu năm 1953, Trần Lê Nguyễn ở Sài Gòn viết thư rủ rê tôi vào Nam
(làm ăn). Sài Gòn với Trần Lê Nguyễn lúc đó đúng là một thiên đường. Thư nào
anh cũng ca ngợi cảnh Sài Gòn, người Sài Gòn và nhất là những nơi chốn ăn chơi
đặc biệt Tây phương của Sài Gòn như các sòng bạc Kim Chung, Đại Thế Giới...” [2].
Thanh Nam muốn soát lại cho cẩn thận bèn viết thư hỏi Vĩnh Lộc. “Lộc cũng trả lời
đại khái như Nguyễn, rằng Sài Gòn rất dễ sống, dễ kiếm tiền nếu chịu khó và vấn
đề ăn ở cũng giản dị hơn ở Hà Nội nhiều.”[3]
Đời sống tinh thần
Như vậy, dù có là thiên đường dù không, Sài Gòn trước 54 vẫn
sung túc, và Hà Nội vẫn dễ sống. Nói chung, về mặt kinh tế, sinh hoạt ở vùng quốc
gia khá tốt đẹp. Tuy nhiên dù được hưởng một đời sống đầy đủ người dân thành thị
vẫn không bằng lòng, họ bất bình đối với sự thối nát của nhà cầm quyền; còn ở
thôn quê thì dân chúng lại phải chịu nhiều tai họa, cuộc sống luôn luôn bất an.
Ông Đoàn Thêm mô tả: “Dân chúng ở các thành thị tuy được tương đối yên ổn, cũng
không vì thế mà có ý ủng hộ chính quyền. Trái lại, ở mọi giới, trong các gia
đình, giữa tiệc cưới, đám ma, hay buổi họp bạn, câu chuyện chỉ chạy quanh thời
sự. Mà thời sự là: Thủ tướng này sắp đổ, vì De Lattre không ưa; Thủ hiến kia mắc
việc bê bối đương cầu cứu đức Từ; chạy tỉnh trưởng hay xin giấy nhập cảng phải
tặng bao nhiêu tiền; lại còn đầu cơ, tích trữ, chuyển ngân lậu, trốn quân dịch,
tuyển lính ma, biển thủ, hối lộ v.v... Tĩnh từ hay được dùng nhất, là thối nát.
Đồng bào thôn quê không biết những chuyện đó, nhưng lại ta
thán về bao nhiêu tai ương dồn dập: càn quét, đốt phá, hãm hiếp, giam giữ, tra
tấn; Tây tha Ta bắt, bắt đi làm xâu hay đắp ụ, xẻ đường, khuân xác chết; gần
ngày gặt hái, vẫn phải chạy lánh bom đạn; có chút tiền hay con gái lớn thì đành
đem gửi trên tỉnh lỵ; sợ lắm, sợ quá, sợ tất cả mọi người, ông xã ủy, ông đồn,
ông lê-dương, ông quận, ông du kích, ông cán bộ... vì ai cũng có thể đánh trói
hay bắn giết, theo ngoài kia thì khó sống, theo trong này cũng dễ chết toi.[4]
Dân chúng ở thôn quê sống dưới sự uy hiếp, sống trong bất trắc
thì sợ hãi chính quyền; dân chúng thành thị sống no đủ nơi “thiên đường” thì
khinh bỉ chính quyền. Một hạng người khác sống tại tầng cao nhất của cái “thiên
đường” nọ thì lại càng tệ hại hơn: họ vừa khinh bỉ chính quyền vừa tự khinh bỉ
mình, họ loay hoay, họ khổ sở, họ trùm chăn tức là rúc đầu trốn lánh không chịu
ló mặt, họ sống bên này mà xấu hổ về bên này, họ xa lánh bên kia mà cứ mơ tưởng
ca ngợi bên kia, họ xỉa xói chính quyền như thù nghịch, họ tự dày vò mình như
những kẻ tội lỗi... Họ sống một đời sống tinh thần hết sức bất an.
Hoàn cảnh của người trí thức chọn sống ở vùng quốc gia lúc bấy
giờ quả có chỗ lúng túng, khó xử. Sống ở đây tức là sống dưới sự che chở của
người Pháp; mà người Pháp thì cứ đeo lấy dã tâm đế quốc, nhất định không chịu
trả độc lập cho Việt Nam. Ngày nào Pháp còn cai trị người Việt Nam không thể sống
bên cạnh Pháp trong an tâm, ấy là chưa nói đến sự che chở của Pháp, sự cộng tác
của ta. Chống lại Pháp? Chống bằng chiến tranh thì chính là chuyện Việt Minh
đang làm, nhưng họ làm thế để rồi thiết lập một chế độ độc tài nên không thể
theo họ được. Chống lại Pháp bằng cách... tạm hợp tác, để rồi thương lượng, điều
đình, thì chính là chuyện bác sĩ Nguyễn Văn Thinh đã làm và Bảo Đại đang làm,
nhưng kết quả rất khó tin. Nguyễn Văn Thinh đã thất vọng đến tự tử; Bảo Đại nhì
nhằng trong năm năm, mỗi ngày mỗi mất thêm uy tín trong dân chúng.
Bảo Đại thoạt tiên tập trung được sự tin cậy của nhiều người.
Sau khi Nguyễn Văn Thinh thất bại, người ta cố tìm một nhân vật, và xoay hướng
về Bảo Đại. Trước khi nhận lời về nước, ông đã gặp Bollaert ở vịnh Hạ Long ngày
6 tháng 12 năm 1947, được Bollaert tuyên bố thừa nhận Việt Nam độc lập trong
Liên hiệp Pháp ngày 5-6-1948; rồi ông lại đi Pháp và đã thuyết phục được Pháp
ký thỏa ước Elysée ngày 8-3-49. Với thành tích ấy trong tay, ông đặt chân về nước
lần đầu tiên ngày 28-4-49 tại Đà Lạt.
Năm 1949 tình hình vùng quốc gia tốt đẹp, đồng bào bỏ kháng
chiến về đông đảo, Bảo Đại tỏ ra thành công. Nhưng rồi cơ sự bắt đầu tồi tệ dần;
thỏa ước Elysée trên giấy tờ đã trí trá lăng nhăng mà sự thi hành lại càng rắc
rối. Trên giấy tờ bảo rằng Việt Nam độc lập, nhưng lại trói buộc ta vào tổ chức
tứ quốc (Pháp, Việt, Miên, Lào), bắt ta theo chính sách do Thượng Hội đồng
(Haut Conseil) và Nghị viện Liên hiệp Pháp (Assemblée de l'Union Francaise) hoạch
định, bắt đồng bạc ta thuộc khu vực đồng quan Pháp, bắt toàn thể lực lượng quân
sự ta trong thời chiến phải đặt dưới quyền sử dụng của tư lệnh hành quân Pháp
v.v... Đã thế, trong thực tế người Pháp lại không chịu nghiêm chỉnh thi hành thỏa
ước: họ không chuyển giao công sở, không chuyển giao quyền hành, khiến người
dân không thấy đâu là sự khác nhau giữa một nước Việt Nam đã được “thừa nhận độc
lập” với nước Việt Nam bị trị trước kia!
Một thỏa ước như thế chỉ có thể là bước khởi đầu trên đường
tranh thủ chủ quyền, Bảo Đại cố tiến thêm những bước khác, nhưng không đạt kết
quả. Về nước năm năm ông không tiến xa hơn thỏa ước Elysée. Dần dần người ta thất
vọng về ông. Sự thất vọng bắt đầu từ năm 1951, theo Đoàn Thêm[5].
Ông Đoàn ghi nhận sự việc, nhưng đối với Bảo Đại ông vẫn dè dặt
không muốn buông lời phê bình nghiêm khắc. Còn linh mục Cao Văn Luận thì ngay
cuộc gặp mặt đầu tiên đã đâm chán con người có “dáng mệt nhọc” này, linh mục chỉ
nói chuyện vài phút rồi cáo từ. Ở một chỗ khác trong cuốn hồi ký Bên dòng lịch
sử, ông nhận xét Bảo Đại “ham săn bắn chơi thuyền hơn là ham việc nước”[6].
Ấy là không kể những ham mê khác, gây lắm tai tiếng.
Đất nước như thế, lãnh tụ như thế: kẻ thức giả có mặt trong
vùng quốc gia phần nhiều “trùm chăn”. Chỉ trong vòng vài phút gặp linh mục Cao
Văn Luận, Bảo Đại đã than phiền về chuyện thiếu sự hợp tác của những người quốc
gia chân chính. Và linh mục Cao cũng có nói đến tình trạng của hạng này: “Ít
lâu sau, một số nhà trí thức bất hợp tác với Pháp, vừa từ vùng Việt Minh trốn về
đến gặp tôi như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Dương Đôn
v.v... Họ là những người không có một lập trường hay một thái độ nào rõ rệt, dứt
khoát.
Họ còn được gọi, đôi khi tự gọi, là những nhà trí thức hay
chính trị trùm chăn. Họ không chịu hợp tác với Việt Minh, có lẽ vì họ thuộc
thành phần trí thức tiểu tư sản, không chấp nhận được chủ nghĩa cộng sản, và những
thủ đoạn đàn áp tôn giáo, trí thức, địa chủ của Việt Minh. Nhưng họ cũng không
muốn hợp tác với người Pháp. Nếu hỏi họ muốn làm gì, định làm gì, thì họ không
thể nào trả lời được, ngoài câu chờ xem.”[7]
Vừa rồi, tôi đã trích dẫn quá nhiều. Sự thực, trong khoảng thời
gian trước 1954 tôi không có mặt ở vùng quốc gia, không nghe thấy gì, không biết
gì đích xác về việc và người ở đây, cho nên nghĩ rằng tốt hơn nên trông cậy ở
các chứng nhân. Và sau đây lại xin tiếp tục trích dẫn nữa, để mong hiểu thêm về
tâm trạng của người trong vùng quốc gia lúc bấy giờ. Ông Đoàn Thêm tỏ ra rất
chú ý đến tâm lý giới trí thức, trong cuốn Những ngày chưa quên ông nói về vấn
đề này nhiều lần. Có lúc ông cho rằng trùm chăn có hai hạng: “Hạng thứ nhất thực
ra chẳng có ý thức chính trị nào cả. Vì sinh kế, họ phải sống lụy, lụy chế độ
ngoài kia, hoặc lụy chế độ trong này. Ở đâu họ cũng chịu đựng, nên chẳng ưa ai,
hễ thấy sơ hở là kêu ca. Bởi họ không lý tưởng, họ có mặc cảm bị coi là thấp
kém, là sợ Việt Minh hay sợ Pháp, tuy sự thực thì sợ cả hai, nên đối với họ
cũng như đối với người khác, họ phải lên tiếng này nọ, để tỏ ra mình bất khuất:
có thế thôi.? Hạng thứ hai, thì tương đối cao hơn một bậc. Họ có quan tâm đến
hiện tình xứ sở. Họ muốn Pháp nhả bớt nhiều quyền mà chúng còn bo bo nắm giữ,
nên chê trách Pháp là ngoan cố và lạc hậu. Nhưng họ sợ phá hoại, vì họ có tài sản
hoặc ít ra cũng mong có một ngày kia, và nghĩ rằng phá hoại chỉ có lợi cho cuộc
tranh đấu giai cấp hơn là cho sự tranh thủ độc lập. Nên khi ở ngoài kia, họ vẫn
thì thầm chỉ trích sự lợi dụng kháng chiến để đảo lộn xã hội. Họ đòi Pháp từ bỏ
chính sách thuộc địa, nhìn nhận tự do và tự chủ của Việt Nam, và nếu được thế
thì nhường cho Pháp một ít mối lợi cũng không sao.”[8]
Lại có lúc ông mượn lời “người trong chính giới” chia chính
khách trùm chăn làm ba hạng. “Những vị đó tuy không mai danh vì cũng có tên tuổi,
nhưng ẩn tích tại nhà chờ thời, và cho tới nay, đã một mực từ chối khi được mời
ra giúp việc công. Lý do thường được viện dẫn, là chưa có hoàn cảnh thuận tiện
và chưa thấy chính nghĩa trong vùng chiếm đóng. Nhưng nhiều người trong chính
giới đã mỉa mai: có ông ngại bị chê là Việt gian tuy thực tình vẫn thân Pháp;
có ông bất lực, giá có được giao việc cũng chẳng làm nổi, bởi thế cứ thoái thác
hoài, nhảy ra e lộ chân tướng; lại có ông quá yêu sự sống, chỉ lo đối phương ám
hại nên lẩn trốn mà còn lên vẻ cao sĩ.”[9]
Tình hình văn nghệ
Hoặc sợ hãi “quốc gia” mà oán trách hoặc chê bai “quốc gia”
mà xa lánh, tẩy chay, trùm chăn, như thế chưa lấy gì làm tệ. Tệ nhất là thái độ
của giới văn nghệ lúc bấy giờ: họ công khai bỉ báng “quốc gia”, ngưỡng vọng
“ngoài kia”. Thân họ gửi “trong thành”, lòng họ hướng về “ngoài khu”. Họ rất
hăng hái trong sự đề cao ca ngợi phía bên kia. Họ nâng công việc ấy thành phong
trào, thành cái “mốt” văn nghệ. Ở đây lại xin trích dẫn dông dài. Xin nhường lời
cho kẻ có thẩm quyền, nhà văn Thanh Nam, có mặt ở cả Hà Nội lẫn Sài Gòn trước
1954: “Trước kia ở Hà Nội, tôi cũng đã có nghe tiếng Trúc Khanh và có đọc ở đâu
đó một vài bài thơ của anh. Tuy không được nổi tiếng như Vũ Anh Khanh với ‘Tha
la xóm đạo’ nhưng Trúc Khanh cũng có những vần thơ ‘bốc lửa đấu tranh’ như đa số
thơ văn đề cao kháng chiến tại Sài Gòn những năm cuối thập niên 40, đại khái
tôi còn nhớ hai câu trong bài ‘Người qua sông Dịch’ của anh đăng trên một tờ
báo xuất bản ở Sài Gòn:
‘Thu xưa khói lửa tơi bời
Từng đoàn xanh tóc cả cười ra đi...’
Thời đó, những bài thơ như vậy đã thành một cái ‘mốt văn nghệ’,
ngay cả trên tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy tục bản của nhà xuất bản Tân Dân ở Hà Nội
cũng đăng đều đều những loại thơ văn ca ngợi các ‘chiến sĩ ngoài kia’ như vậy.
Ngoài những bài thơ của Hoàng Cầm được chuyển lén lút vào thành như bài ‘Bên
kia sông Đuống’, ‘Đêm liên hoan’... tất cả những người viết văn, làm thơ tại
Sài Gòn, Hà Nội bấy giờ đều hướng đề tài vào hình ảnh cuộc kháng chiến chống
Pháp. Ở Hà Nội thì còn dè dặt, xa xôi, chỉ nói bóng gió tới những người trai
‘ra đi vì nước’, những ‘cô gái một lòng chờ đợi người hùng chiến thắng trở về’
nhưng trong Sài Gòn thì khác hẳn, hầu hết báo chí, sách truyện, thi ca đều nói
thẳng đến những chiến sĩ cầm súng chống Pháp trong ‘bưng’. Tôi còn nhớ có những
loại sách mỏng khoảng 30, 40 trang như loại Sách Hồng, Truyền Bá thời tiền chiến
tên là loại sách Bạn Trẻ của nhà xuất bản Nam Việt, mỗi tuần ra một cuốn; trình
bày rất đẹp mang những cái tên rất khêu gợi, hấp dẫn như: Em không về nữa, chị
ơi, Xin đắp mặt tôi mảnh lụa hồng, Cái chết của anh tiểu đội trưởng, Mây trôi về
Bắc v.v... Bên cạnh những loại truyện mỏng dành cho học sinh đó là những tiểu
thuyết dài cũng mang những cái tựa thật kích thích như Người yêu nước, Trái lựu
đạn không kịp nổ, Hờn chinh chiến của một số nhà văn mà sau này hầu hết đã bỏ
ra khu như Vũ Anh Khanh, Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang... Tuyên truyền lộ liễu nhất
là tập truyện Nửa bồ xương khô của Vũ Anh Khanh, cuốn tiểu thuyết kêu gọi học
sinh bỏ thành ra bưng chiến đấu này lại bán chạy ngoài sức tưởng tượng, cả ở
trong Nam lẫn ngoài Bắc đến nỗi sau khi bị tịch thu, cuốn truyện còn được bán
giá chợ đen trong giới học sinh mê kháng chiến (...) (Cựu thủ tướng Nguyễn Văn
Lộc hồi đó cũng là một trong số những nhà văn viết chuyện kháng chiến trong
thành rất hăng say với bút hiệu Sơn Khanh.)”[10]
Lý thuyết gia Mác-xít trong thành bấy giờ là các ông Thiên
Giang, Thê Húc, Tam Ích.
Ngoài cái xu hướng mà Thanh Nam vừa nói có một xu hướng phi
chính trị. Ông Nguyễn Hiến Lê lúc ấy vừa viết vừa dịch và nhà Phạm Văn Tươi xuất
bản những cuốn sách thuộc loại “Học làm người”. Ở đây không có bóng dáng thời
cuộc. Chuyện chính trị bị lờ hẳn đi. Chỉ có những phương pháp học hành, làm ăn
sao cho có kết quả, chỉ có chuyện tổ chức công việc, rèn luyện tính tình v.v...
Lại còn có một xu hướng khác, gồm những nhân vật từng biết cộng
sản, không tán thành nhưng cũng không quyết liệt chống lại cộng sản. Đó là các
ông Trần Văn Ân, Nguyễn Đức Quỳnh với tờ Đời Mới, Hồ Hữu Tường với tờ Phương
Đông; kẻ chủ trương một chủ nghĩa “nhân bản mới” người chủ trương trung lập chế.
Nhưng ảnh hưởng rộng rãi nhất vẫn là của loại văn nghệ kháng chiến trong thành.[11]
Tóm lại vùng quốc gia miền Nam trước 1954 sống đời vật chất đầy
đủ, nhưng tình trạng xã hội, chính trị, văn hóa thật là bại hoại. Xã hội bất
công, nạn tham nhũng lan tràn, cờ bạc đĩ điếm công khai tổ chức dưới sự bảo trợ
của chính phủ; nhân tài xa lánh chính quyền, quốc gia lệ thuộc ngoại nhân, lãnh
đạo bê bối làm dân chúng thất vọng; trong hoàn cảnh chán nản lòng người hướng về
“ngoài kia”.
Trong sự tưởng tượng của người “trong thành” thì “ngoài kia”
là một cái gì mơ hồ, bởi mơ hồ nên đẹp đẽ. “Ngoài kia” không ai biết thực sự mặt
mũi nó ra làm sao, mà cũng chẳng ai cần biết. Thỉnh thoảng người “trong thành”
có được những kẻ mới dinh tê từ “ngoài kia” về mô tả bộ mặt thật của “ngoài
kia”, kể xấu về “ngoài kia” thì họ lại không muốn nghe: họ muốn bảo vệ giấc mơ
của mình, không để nó bị xâm phạm, thương tổn. Vì “ngoài kia” là giấc mơ của
người “trong thành”, là một chỗ tưởng tượng cho người “trong thành” ký thác bao
nhiêu nỗi ước mơ của mình, cho người “trong thành” lẫn trốn các bực dọc, tủi hổ,
uất hận, bất bình. “Trong thành” bị Tây ức chế thì “ngoài kia” là “độc lập”;
“trong thành” tham nhũng mục nát thì tất nhiên “ngoài kia” phải trong sạch;
“trong thành” giàu nghèo chênh lệch, thì “ngoài kia” bắt buộc phải có công bình
xã hội, phải là thiên đường của người nghèo v.v...
Trong giai đoạn chót của thời kỳ 1945-1954, “trong thành” có
mặc cảm thất bại, thua trận, xấu xa, bẩn thỉu, trụy lạc...
Bấy giờ cuộc đình chiến 1954 và những biến cố khác liên tiếp
xảy đến đổi hẳn tình thế, đem lại niềm tự tin và hy vọng tưng bừng cho Miền
Nam.
_________________________
[1]Đoàn
Thêm, Những ngày chưa quên, Nam Chi Tùng Thư xuất bản, Sài Gòn, 1967, trang
153, 154.
[2]Thanh
Nam, ‘Hai mươi năm viết văn làm báo ở Sài Gòn’, tạp chí Văn, Hoa Kỳ, số 1,
trang 35,36.
[3]Như
trên.
[4]Đoàn
Thêm, sđd, trang 176.
[5]Như
trên, trang 177.
[6]Cao
Văn Luận, Bên giòng lịch sử, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, trang 202.
[7]Như
trên, trang 163-164.
[8]Đoàn
Thêm, sđd, trang 126-127.
[9]Đoàn
Thêm, sđd, trang 151.
[10]Thanh
Nam, bài đã dẫn, trang 71, 72.
[11]Ngoài
ý kiến của Thanh Nam, xin ghi nhận thêm ý kiến của Nguyễn Hiến Lê là nhân vật
đã hoạt động văn nghệ ở Sài Gòn từ trước 1954: “Trong thời kháng Pháp, văn học ở
thành (vùng bị chiếm) từ Bắc tới Nam không có gì cả. Hầu hết các nhà văn tên tuổi
thời tiền chiến đều theo kháng chiến, tôi không biết họ sáng tác được những gì,
có lẽ chỉ một số bút ký, và một số bài thơ ái quốc, hô hào diệt địch, nhiệt tâm
tuy nhiều, nhưng nghệ thuật có phần kém tiền chiến.
Ở miền Nam Lý Văn Sâm viết được vài tiểu thuyết rồi ra bưng.
Nhóm đệ tứ Triều Sơn, Thê Húc, Tam Ích, Thiên Giang viết được ít bài phê bình
có tư tưởng xã hội, sau in thành vài tập mỏng. Triều Sơn viết khá hơn ai cả,
nhưng chết sớm. Hồ Hữu Tường năm 1945 (?) còn ở Hà Nội cho ra một tập mỏng về
văn hóa Việt Nam. Khi vào Nam, ông xuất bản tờ Phương Đông chủ trương trung lập,
vài cuốn trào phúng Nga, Trung Cộng.” (Đời viết văn của tôi, Văn Nghệ, Hoa Kỳ,
1986, trang 152).
Phần 12
bối cảnh – tình hình từ 1954
Khi hưng thịnh
CUỘC NGƯNG CHIẾN
Trước hết cuộc ngưng chiến đem lại một cảm tưởng hòa bình. Hiệp
định Genève rồi đi tới đâu? Sau hai năm rồi có hay không có tổng tuyển cử? Đối
với quần chúng, những chuyện đó thật mù mờ. Nào ai biết! Dù sao ngay lúc ấy mọi
người cũng thở phào nhẹ nhõm. Ít ra tiếng súng ngưng nổ, người ngưng chết; ít
ra không còn có những cuộc lùng bắt lính, không có bố ráp, thủ tiêu v.v...; ít
ra người ta có thể nghĩ đến công việc làm ăn, cày cấy, dựng lại nhà cửa, những
ngôi nhà hoặc bỏ hoang lâu ngày, hoặc từng bị phá đi đốt lại nhiều lần ở miền
quê v.v...
Đối với phía cộng sản, nhất là đối với giới cầm quyền bên
phía cộng sản, thì cuộc ngưng chiến này chẳng qua là một dịp nghỉ tay. Nghỉ tay
để chuẩn bị cuộc đụng độ mới. Cuộc đụng độ ấy, họ đã bố trí kỹ, ngay từ khi ký
kết ở Genève, ngay cả trước khi ký kết. Họ bố trí những “cơ sở” bí mật nằm vùng
tại Miền Nam, họ cho bộ đội cưới vợ thật gấp để tạo những liên hệ tình cảm mật
thiết tại Miền Nam hầu làm đầu mối cho những hoạt động lẩn lút, những hoạt động
phá hoại khủng bố do cán bộ của họ từ ngoài Bắc chui vào sau này v.v... Tuy
nhiên đối với dân chúng Miền Nam, với giới trí thức, văn nghệ sĩ, với cả giới
chính trị Miền Nam, những tính toán, mưu mô âm thầm ấy không có ai ngờ tới. Tạm
thời ai nấy nhẹ nhõm, yên trí bắt đầu một thời kỳ xây dựng.
ĐỘC LẬP, THỐNG NHẤT
Thời kỳ hòa bình lại trùng hợp với thời độc lập. Điều mà Bảo
Đại không đạt được suốt bảy năm nhì nhằng với Pháp (kể từ cuộc gặp gỡ Bollaert ở
vịnh Hạ Long) bỗng nhiên Pháp buông tay thả ra: Ngày 4 tháng 6 năm 1954, Pháp
ký hiệp ước Độc Lập (Traité d'Indépendance) với thủ tướng Bửu Lộc, thừa nhận Việt
Nam độc lập với chủ quyền toàn bị theo công pháp quốc tế, Pháp bằng lòng chuyển
giao hết những công sở và thẩm quyền còn tạm giữ. Sau đó phái đoàn Nguyễn Văn
Thoại do chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ định tiếp tục điều đình để ký với Pháp một
loạt hiệp định vào ngày 29 tháng 12 năm 1956 về thể thức thi hành hiệp ước
4-6-54. Thế là chủ quyền quốc gia được thu hồi trọn vẹn. Ngày trao trả dinh
toàn quyền cũ, tức phủ cao ủy cũ, tức dinh Độc Lập sau này; ngày hạ lá cờ tam
tài của Pháp xuống, thượng quốc kỳ Việt Nam lên trước dinh Độc Lập; ngày quân đội
Pháp xuống tàu rút về nước v.v... là những biến cố gây xúc động lớn lao trong
lòng một dân tộc vừa chịu trăm năm áp bức.
Tại sao Pháp đổi thái độ vào lúc ấy? Tại sao đang cứng bao
nhiêu năm, tự dưng Pháp lại mềm? Có phải vì những thất bại quân sự bấy giờ làm
cho Pháp nhận thấy mình không còn hy vọng trở lại Việt Nam nên chẳng thà buông
trả nửa nước Việt Nam sớm vài năm cho được yên thân? Dù sao, đó là chuyện của
Pháp. Còn đối với dân Miền Nam, chỉ biết lúc bấy giờ hòa bình và độc lập cùng đến
một lúc: còn gì quý hơn.
Đã thế, Miền Nam lại được thống nhất trong một thời gian ngắn
sau đó. Trước, Pháp và Bảo Đại duy trì những lực lượng vũ trang riêng cho Cao
Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên v.v..., mỗi lực lượng kiểm soát một phần đất đai, áp dụng
những luật lệ địa phương riêng biệt, thật là phiền phức, trông chẳng ra làm sao
cả. Sau khi cầm quyền và gặp những rắc rối với Bình Xuyên, chính phủ Ngô Đình
Diệm hoặc kêu gọi các lực lượng vũ trang tự nguyện hợp tác, hoặc tấn công các lực
lượng chống đối, lần lượt thực hiện được sự thống nhất Miền Nam.
Về thể chế, trước đây chữ “Quốc gia Việt Nam” dùng trong thời
Bảo Đại không chỉ thị một nước có chế độ chính trị rõ rệt, có chủ quyền đầy đủ.
Chữ nghĩa có tính cách hàm hồ. Sau cuộc bầu cử năm 1955, Miền Nam có một quốc hội
dân cử, sau tháng 10-1956 có hiến pháp, có thể chế cộng hòa. Quốc gia có chủ
quyền, chủ quyền ấy thuộc về toàn dân. Đâu ra đấy.
VAI TRÒ MỘT LÃNH TỤ
Mặt khác, chính sự kiện nhân vật Ngô Đình Diệm về nước chấp
chánh thay thế vai trò của Bảo Đại lúc bấy giờ cũng gây niềm hứng khởi, tạo được
sự tin tưởng trong quần chúng. Điều đó chính ông Ngô lúc ấy cũng không ngờ đến:
Ngày về nước, ông ngồi trong một chiếc xe hơi đen kín mít, kẻ đứng ngoài không
nhìn thấy người bên trong, chạy vèo một cái từ phi trường về dinh thủ tướng,
khiến dân chúng đón đợi hai bên đường ngơ ngác hỏi nhau: “Phải ‘ông ấy’ không
nhỉ.”
Lúc ông Ngô về Sài Gòn, cũng như lần ông ra Huế, có vài nhân
vật chứng kiến, chú ý, và ghi nhận phản ứng nồng nhiệt của dân chúng: tướng
Lansdale và linh mục Cao Văn Luận. Linh mục Cao chỉ kể vắn tắt: “Tôi có ghé qua
cuộc mít-tinh tại Phú Văn Lâu, và tôi nhận thấy cảm tình của dân chúng miền
Trung đối với ông Diệm thật là chân thành và nồng nhiệt.”[1] Nhưng
tướng Lansdale quan sát kỹ hơn, nhận xét tinh hơn và đã không dằn lòng được trước
những điều trông thấy. Ông bảo hôm đó thoạt tiên ông đi phi trường vì tò mò,
nhưng lái xe ra đường Công Lý ông “ngạc nhiên vì thấy nhiều đám đông đứng nghẹt
hai bên đường”. Ông Lansdale nghĩ “dân chúng của một thủ đô trong thời chiến
tranh này đã quá nhàm chán chẳng thèm liếc mắt ngó những nhân vật tai to mặt lớn
đi trên xe hơi lộng lẫy...”, ông cũng lại biết rằng: “không có mấy cố gắng để vận
động dân chúng ra đường chào đón mà chỉ có lời loan báo giản dị rằng ông Diệm sẽ
về vào sáng hôm đó.” Thế mà quang cảnh trước mắt ông thật khác thường: “Có những
gia đình mọi người chụm lại bên nhau, con nít trèo lên lưng hoặc vai và vịn lấy
tay cha mẹ, hoặc dồn vào một chỗ trên hè phố. Nhiều xe bán nước mía đi bán rong
hai bên. Mọi người phấn khởi và vui thích trong không khí của một ngày lễ.”[2] Dân
chúng ngưỡng mộ như thế mà ông Ngô ngồi trong xe kín chạy tuột một hơi, chẳng
mui trần, chẳng có vẫy tay, chẳng cười với dân hai bên đường phát nào cả! Tướng
Lansdale tiếc hùi hụi. Ông nóng lòng muốn bàn ngay với thủ tướng Ngô về kế hoạch
vận dụng cảm tình của quần chúng vào công cuộc xây dựng xứ sở. Ông tướng nổi
hăng, viết ngay hôm ấy, viết suốt đêm đến sáng cho xong một bản kế hoạch. Nhưng
lúc gặp ông đại sứ Hoa Kỳ thì ông này thấy không tiện gửi đến chính phủ Việt
Nam một bản ý kiến như vậy. Chính phủ không khuyên chính phủ được thì cá nhân
góp ý với cá nhân vậy: tướng Lansdale trong cơn hứng chí cao độ liền lôi một
thông dịch viên tiếng Pháp đi thẳng đến gặp thủ tướng Ngô.
Biểu tình đông đảo, công kênh nhau chờ đón nhẫn nại bên đường,
và ngay cả việc hiến kế của ông tướng Mỹ đều chưa phải là chuyện cảm động nhất:
Trong cuốn Nhật ký Đỗ Thọ, người quân nhân này kể rằng năm 1955, ông đang học
năm cuối cùng bậc trung học ở trường Khải Định, Huế; sau khi thủ tướng Ngô về
nước, cậu học sinh Đỗ Thọ vượt sông Bến Hải về Hà Tĩnh để đưa gia đình vào Nam.
Ông bảo: “Tôi viết lại chi tiết nhỏ nhặt về đời tôi, gia đình là muốn nói lên sự
tin tưởng ở thủ tướng Ngô Đình Diệm (1954), động cơ đã thúc đẩy tôi nên tìm mảnh
đất Miền Nam làm nghiệp sống.” (Ấn bản do Đồng Nai, Sài Gòn, phát hành ngày
27-10-70, trang 70, 71.)
Giữ lòng tin tưởng kính mến ấy cho đến tận lúc ông Ngô qua đời
như Đỗ Thọ có lẽ chỉ được một số người, nhưng cái thái độ lúc ban đầu của Đỗ Thọ
thì có thể cũng là thái độ của số đông.
Và không phải chỉ có quần chúng có mối cảm tình và lòng tin ấy
đối với chính phủ Ngô Đình Diệm. Giới trí thức giới nghệ sĩ vốn thận trọng và
thường xa cách chính quyền, thế mà vào những năm đầu sau hiệp định Genève họ
cũng mất cái dè dặt cố hữu. Doãn Quốc Sỹ nói chuyện với Nguyễn Ngu Í về cái lúc
ông mới từ Bắc di cư vào, viết kịch Một mùa xuân tin tưởng đăng trên báo Lửa Việt
của sinh viên hồi 1955: “Thời ở chẳng yên, mà lại là thời cảm động nhất, tin tưởng
ở Cách mạng; lúc bấy giờ, gặp các ông bộ trưởng, đổng lý văn phòng, là anh anh
tôi tôi thân mật với nhau, không chút ngượng ngùng.”[3]
Chính cái “thân mật”, “không chút ngượng ngùng” thuở ấy đã
đưa một nhóm học trò trung học lên đài danh vọng, đã biến mấy cậu bé mới từ Bắc
di cư vào thành những nhà văn nổi tiếng một thời: Lê Tất Điều, Trần Dạ Từ
v.v... Họ bắt đầu cuộc đời cầm bút bằng cách xúm xít nhau làm báo Văn Nghệ Học
Sinh của Lê Bá Thảng, tức tờ báo của Bộ Thông tin. Ba mươi năm sau Lê Đình Điểu
(tức Lê Ngọc Hà thuở ấy) nhắc lại chuyện cũ trên tờ Tin Việt ở California (số
21 ra ngày 25-6-84) với tất cả bùi ngùi cảm động.
Rõ ràng chính quyền lúc bấy giờ là một chính quyền được mến
yêu, và lãnh tụ là một nhân vật được tin tưởng. Một thi sĩ đại danh như Vũ
Hoàng Chương lúc này cũng không cần dè dặt nữa. Ông Vũ, nhân dịp Miền Nam bỏ
phiếu trong cuộc trưng cầu dân ý về việc truất phế Bảo Đại, trao quyền cho Ngô
Đình Diệm, đã không ngần ngại viết những lời say sưa trong Hoa đăng:
“Lá phiếu trưng cầu một hiển linh,
Phá tan bạo ngược với vô hình.”
hay
“Hợp ý toàn dân kết ý trời.”
Lại chắc chắn cũng vì tin tưởng ở một triển vọng ổn định lâu
dài của tình thế, vì yên tâm ở một chính quyền đứng đắn, lúc bấy giờ có rất nhiều
trí thức du học ở Âu châu kéo về nước. Không còn chuyện trùm chăn, chuyện lẩn
tránh chính quyền nữa. Họ tích cực tham gia xây dựng quê hương trên những lãnh
vực chuyên môn khác nhau. Riêng về văn hóa, những vị hồi hương vào độ ấy như
Nguyễn Văn Trung, Trịnh Viết Thành, Nguyễn Khắc Hoạch, Trần Bích Lan v.v... đã
có những đóng góp đáng kể.
CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
Thế rồi ngay sau khi cầm quyền, trong lúc còn phải tiếp tục
những cuộc hành quân bình định (ở Rừng Sát, Cái Vồn, Ba Lòng v.v...), ông Ngô
đã tức thì khởi công tiến hành những kế hoạch xây dựng về giáo dục, kinh tế, xã
hội...
Trong thời chiến tranh, các chánh phủ quốc gia trước thu rút
lại trong các thành phố lớn, bỏ nông thôn cho cộng sản hoành hành. Sau 1954,
chính phủ Miền Nam tiến rộng ra, dựng cơ sở hành chánh đến khắp các thôn ấp, cả
những thôn ấp thượng du. Một nhu cầu đặt ra ngay trước mắt: giáo dục. Hành
chánh đặt đến đâu, trường học phải lập ngay đến đấy cho con em đồng bào có chỗ
học. Trong vòng một năm đầu không xã nào không có trường tiểu học; vài năm sau
gần như không có quận nào không có trường trung học, có quận cả công lẫn tư đôi
ba trường. Rồi đại học cũng phát triển mạnh, phát triển cả ra ngoài thủ đô: Đà
Lạt, Cần Thơ, Huế, ngay bên cạnh sông Bến Hải.
Trong khi ấy thì đập Đồng Cam ở Phú Yên được xây ngay từ năm
ngưng chiến đầu tiên. Rồi các vùng định cư, các khu dinh điền, các khu trù mật...
được thành lập dồn dập, đập thủy điện Đa Nhim khởi công, trung tâm nguyên tử lực
Đà Lạt hoàn thành; rồi đường hỏa xa được sửa sang, xe hỏa chạy thông suốt, một
cuộc đua xe đạp Bến Hải? Cà Mau tuyên dương cảnh thái bình khắp nước; rồi nhà
máy xi-măng dựng lên ở Hà Tiên, xa lộ, làng đại học ở Thủ Đức; rồi chính sách cải
cách điền địa đem ruộng đất chia cho dân nghèo, chính sách lành mạnh hóa xã hội:
đóng cửa sòng bạc, nhà chứa, dẹp tiệm hút v.v... Không nghi ngờ gì nữa, ai cũng
thấy Miền Nam phát triển mạnh. Bây giờ hơn mười năm sau mùa xuân 1975, chỉ cần
một cái nhìn qua tình hình đời sống Miền Nam và một chút hồi tưởng về những thực
hiện trong đôi ba năm sau cuộc ngưng chiến 1954 có thể làm ta thấy rõ không khí
xây dựng hồi đó rộn rịp chừng nào và thành quả tốt đẹp hơn chừng nào.
Vùng liên khu V cũ (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên) vốn thuộc về cộng sản trong suốt thời kháng chiến và mức sống rất thấp.
Sau hiệp định Genève ba năm, đến 1957 ở thôn quê trong các xóm làng đã mọc lên
nhiều nhà ngói, trong nhiều vườn nhà có giếng xi-măng, tại các quận lỵ có nhà hộ
sinh, có nhà máy xay gạo, trai làng sắm xe đạp và lắm nơi sắm cả xe gắn máy, về
sự di chuyển công cộng thì đi xa có xe hơi, đi gần trong phạm vi quận xã có xe
Lam ba bánh, nông dân bắt đầu mua máy cày v.v... Người ta cảm thấy rõ rệt mình
đang tiến sang một giai đoạn mới của cuộc sống, tươi sáng hơn trước.
CUỘC DI CƯ
Tuy nhiên trong các yếu tố của tình hình Miền Nam sau 1954,
quan trọng hơn cả chắc chắn là cuộc di cư.
Trong những ngày rối ren của 1954-55 mà tổ chức cuộc tiếp đón
rồi định cư hàng triệu đồng bào từ Bắc kéo vào ào ạt, chính phủ Ngô Đình Diệm
đã phải một phen vất vả không ít. Nhưng cuộc di cư ấy, một khi giải quyết xong,
là cả một thắng lợi lớn cho chế độ mới.
Trước hết là một thắng lợi chính trị trên bình diện quốc tế.
Hàng triệu người bỏ chạy trong ngày khải hoàn của quân đội Hồ Chí Minh tại Miền
Bắc, đó là cả một sỉ nhục cho họ Hồ trước dư luận, đó là màn giới thiệu ngoạn mục
cho chính phủ Ngô Đình Diệm vừa ra đời. Dư luận quốc tế thoạt tiên có thể không
biết đến cái chính phủ và những nhân vật lu mờ ở Sài Gòn, trong khi tiếng đồn về
những Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ v.v... còn vang dội khắp nơi.
Nhưng cuộc di cư hàng triệu người vào Nam phải được chú ý, phải gây được lắm
suy nghĩ cho khách bàng quan, ngoại cuộc.
Đối với dư luận trong nước, đối với đồng bào miền Nam cuộc di
cư ấy cũng có tác dụng chấn động. Ban đầu là sững sờ, ngờ vực, là những va chạm
do tập quán địa phương của đôi bên, do thành kiến chính trị. Miền Nam, nơi từng
có cái “mốt” văn nghệ vọng bưng biền, Miền Nam không thể không lấy làm khó chịu
trước hình thức “cải chính” phũ phàng như thế về chế độ của họ Hồ, không thể
tin ngay được vào những lý do chống cộng của cuộc di cư. Nhưng ít ra lòng ngưỡng
vọng về bưng phải dao động, những lời ca ngợi kháng chiến bị đánh bạt đi, và im
bặt ngay. Nhất định không thể có phép lạ tuyên truyền nào của chính quyền gây
được một tác động tâm lý tương đương với tác động của một cuộc di cư lớn lao
như thế.
Khối di dân với thái độ chính trị thuận lợi ấy là chỗ dựa chắc
chắn cho một chính phủ quyết tâm chống cộng. Suốt chín năm cầm quyền, vào những
giờ phút khó khăn, tổng thống Ngô vẫn được sự ủng hộ của di dân.
Trong cuốn Loạn mà Chu Tử bảo là viết theo chuyện thực (ở phần
“Để thay đoạn kết”), ông đã cho thấy thái độ và sự hoạt động của một nhóm trí
thức di cư như thế nào trong những ngày Bình Xuyên đánh phá chính phủ. Những
người di cư như Hiệp, như Huyền, họ vào Nam có lý tưởng, có nhiệt tâm, họ ý thức
giá trị của mình, họ hãnh diện về vai trò của mình trong giai đoạn lịch sử này.
Vì thế, mặc dù là ít so với dân số miền Nam, nhờ ý chí quả quyết, nhiều khi họ
giữ vai chủ động. Hiệp, một thanh niên di cư đang nghèo, đang đi tìm việc, đến
trước ngôi biệt thự đồ sộ của một ông đốc phủ sứ, chợt trông thấy tấm bảng cảnh
cáo chó dữ. Chàng hơi ngại, nhưng tự nhủ ngay: “Một người di cư không có quyền
ngán điều gì.” (trang 5). Thế là chàng mạnh dạn... Người ta có thể thấy trong
đó một chút gì phường tuồng, quá đà, có thể ngờ rằng cái quá đà ấy rồi sẽ đưa tới
thất vọng, chán nản sau này; dù sao đó là thái độ tiêu biểu lúc bấy giờ, của buổi
đầu đầy tin tưởng, đầy quyết tâm.
Mặt khác cuộc di cư đã đưa vào Miền Nam một số nhân tài trong
giai đoạn cần kíp. Rất nhiều nhân vật từ Miền Bắc vào sau này giữ địa vị trọng
yếu trong các lãnh vực kinh tế, chính trị, quân sự ở Miền Nam. Riêng trong phạm
vi văn học nghệ thuật, vai trò của khối văn nghệ sĩ di cư thật quan trọng. Ngay
buổi đầu, sự hoạt động hăng hái của họ tạo không khí phấn khởi tưng bừng. Rồi
trong cái số di dân đổ vào được đưa vội vàng đến tạm trú tại các trường học,
các lều trại sơ sài, trong số đó có những sinh viên về sau thành ra các nhà văn
Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế..., có những cậu bé mới vào trung học về sau thành
ra những văn thi sĩ Lê Tất Điều, Duyên Anh, Trần Dạ Từ, Tú Kếu, Hà Thúc Sinh...
Cuộc di cư còn có ảnh hưởng vào văn hóa miền Nam một cách sâu
xa hơn, tuy âm thầm lặng lẽ hơn. Thật vậy, từ sau cuộc di cư 1954, ngày một
ngày hai không ai để ý đến, nhưng cuộc sống ở miền Nam đổi khác: cái quai nón của
người con gái đổi khác, chiếc áo đàn bà mặc trên người đổi khác, món quà người
ta ăn hàng ngày không giống xưa, cái bìa báo bìa sách biến dạng đi v.v... Giọng
nói miền Nam cũng biến đổi nữa, không sao? Sau này có cô ca sĩ nào mà không hát
giọng Bắc; vả lại không cần phải chờ đến lúc thành ca sĩ mới đổi giọng: mọi nữ
sinh, kể cả những cô nữ sinh trung học tận dưới Rạch Giá, Cà Mau hễ cất giọng
lên là cũng hát giọng Bắc luôn. Và xa tít trong đồng quê, dọc bờ biển hoặc ven
rừng núi, xung quanh những vùng định cư Cái Sắn, Phước Tĩnh, Gia Kiệm... chẳng
hạn, phong tục tập quán miền Bắc cũng dần dần tỏa ra, len lách thấm dần vào xã
hội miền Nam. Rồi kỹ thuật canh tác, kỹ thuật ngư nghiệp cổ truyền v.v... của
miền Bắc cũng lan rộng ảnh hưởng của nó.
Vũ Bằng nói về sự thay đổi của cách ăn mặc, của cảnh hội hè
trong Nam trước và sau cuộc di cư: “Cùng với những cái áo dài may kiểu mới thay
thế cho những cái áo bà ba cũn cỡn, anh em ta ở đây, ngày tết, đã tỏ ra trang
trọng hơn trước trong việc trang trí nhà cửa và ăn uống cũng như sửa soạn”[4].
“Cách đây[5] mười
lăm năm (...) Sài thành không biết có xuân sang và ăn cái giao thừa không bằng
vui cái đêm lễ Giáng sinh. Nhưng bây giờ đã khác: xa xa có tiếng giày dép người
ta đi lễ giao thừa.”[6] Khác
lắm: Trước không những mặc áo bà ba cũn cỡn mà nữ sinh đi học còn đội nón cối,
trông rất ít chất thơ mộng. Trước quà bình dân trong chợ, bên đường, là những
bánh cống, bánh lọt, bún nước lèo..., còn tiệc tùng yến ẩm thì toàn kéo nhau đi
tiệm Tàu ăn món Tàu; sau này bún ốc, bún thang, giò chả, chả cá, gỏi cá, rồi nhất
là phở Bắc vùng lên, hớn hở kết thân với đủ mọi giới đồng bào bất phân giàu
nghèo Nam Bắc... Còn nhớ đâu đó thi sĩ Đông Hồ từng có lần luận về sự phát triển
của phở ở miền Nam, và ông khen sau này có khi tô phở còn vui vẻ sẵn lòng chấp
nhận một mớ giá sống cho hợp khẩu vị bà con địa phương, ông xem cái “đóng góp” ấy
của miền Nam như là một sáng kiến để làm cho món ăn được mát dạ, giải nhiệt,
thích hợp với khí hậu trong này.
Người Bắc di cư, cái khối người bỏ “cụ Hồ” theo “cụ Ngô” thoạt
tiên rất dễ ghét đối với người miền Nam, dần dần họ đổi kiểu nón đội trên đầu họ
thay kiểu guốc mang dưới chân dân Sài Gòn, họ làm vang tiếng giày dép trong đêm
giao thừa Sài Gòn, họ thêm thắt lung tung vào bữa ăn sáng bữa nhậu khuya của
người Sài Gòn. Họ góp phần quan trọng vào việc chuyển hướng chính trị trong quần
chúng miền Nam. Rồi chúng ta sẽ thấy vai trò của họ trong văn học nghệ thuật thời
kỳ này không kém quan trọng chút nào.
KHỐI NÔNG DÂN MIỀN TRUNG
Nói đến sự chuyển hướng chính trị do cuộc di cư từ Miền Bắc
vào, lại không thể không nói đến vai trò chính trị của khối nông dân miền Trung
được tiếp thu vào khu vực quốc gia sau hiệp định Genève 7-54.
Trước, Pháp và những chính phủ hợp tác với Pháp chỉ kiểm soát
được các đô thị. Sau Genève, cộng sản tập kết ra Bắc, toàn thể lãnh thổ phía
nam sông Bến Hải thuộc về chính phủ quốc gia, không phân biệt nông thôn hay
thành thị. Sự gia nhập của khối nông dân miền Trung vào phía quốc gia, về một
khía cạnh, cũng có giá trị tương tự như cuộc di cư từ Bắc vào Nam. Bởi vì khối
nông dân này cũng hiểu biết về chế độ cộng sản như di dân. Cũng như di dân Miền
Bắc, họ từ phía cộng sản chuyển về phía quốc gia. Cuộc chuyển vị tại chỗ không
khác với cuộc chuyển di của người Bắc bao nhiêu, xét về ảnh hưởng chính trị.
Chúng tôi phải nói riêng khối nông dân miền Trung mà không
nói bao trùm tất cả nông dân, bởi vì hoàn cảnh nông thôn ở Nam phần và nam
Trung phần vẫn khác. Chính quyền Hồ Chí Minh sở dĩ bị chối bỏ oán ghét là từ
khi thi hành chính sách độc tài giai cấp, công khai xuất lộ chế độ đảng trị; điều
ấy chỉ xảy ra từ liên khu V ra Bắc mà thôi. Chỉ từ liên khu V trở ra (tức từ
Phú Yên ra Bắc) mới có thuế nông nghiệp, có đấu tố địa chủ phú nông, có áp chế
trung nông, tiểu tư sản v.v... Cho đến 1954, đối với đồng bào trong Nam, cộng sản
ít nhiều còn giữ được bộ mặt của Việt Minh: đoàn kết toàn dân kháng chiến. Vì
thế những điều di dân từ Bắc vào nói về cộng sản thường được lỗ tai tri kỷ của
đồng bào miền Trung đón nhận một cách thông cảm, mà lại không lọt được vào tai
đồng bào Nam phần. Có phải vì vậy mà có những nhà văn từ Bắc vào, như Doãn Quốc
Sỹ, thấy rằng đa số độc giả của mình ở miền Trung, và sau này, lúc sách không
ra được miền Trung nữa, thì đành tính việc ngưng xuất bản (trong cuộc phỏng vấn
của Nguyễn Ngu Í, đã dẫn ở một phần trước).
Cuộc di cư năm 1954 của đồng bào Bắc vào Nam vẫn được xem như
một cuộc bỏ phiếu bằng chân để từ chối chế độ cộng sản; sau 1954 ở nam vĩ tuyến
17 đến lượt nông dân miền Trung: họ bỏ phiếu nhiều lần nữa. Những lần sau này
là bỏ phiếu táo tợn, thê thảm, vì bỏ phiếu đẫm máu, dưới lửa đạn cộng quân, tại
Bình Long, Phú Bổn, Quảng Trị, trên Đại lộ Kinh hoàng... Cứ mỗi lần cộng sản tới
nơi nào là bà con nông dân miền Trung liều chết bỏ chạy, không cách gì ngăn cản
nổi.
Khi cộng quân tiến chiếm Quảng Trị, trong tổng số ba trăm
nghìn dân toàn tỉnh chỉ có năm chục nghìn bị kẹt lại.[7] Nhà
văn Dương Nghiễm Mậu đến thăm trại tạm cư Hòa Khánh trong dịp này chợt trông thấy
ở một ngả ba đường có tấm bảng lớn sơn xanh kẽ chữ trắng: “Quận Gio Linh”. Ơ
hay! Quận Gio Linh ở Hòa Khánh, sát thị xã Đà Nẵng? Thì ra đây là khu trại tạm
trú của đồng bào tản cư từ Gio Linh vào. Toàn quận chừng ba chục nghìn dân thì
đi thoát đến hăm tám nghìn.[8] Tấm
bảng nọ không phải không có ý nghĩa: “Ở đây là người Gio Linh, ngoài kia chỉ
còn đất trống trơ. Đây mới đích thực là Gio Linh sống.” Đất Gio Linh sát kề
Trung Lương, bên cạnh vĩ tuyến 17. Càng gần cộng sản dân càng trốn chạy cộng sản
mạnh.
Nghiêm Xuân Hồng cho rằng sau hiệp định Genève, do sự bộc lộ
chân tướng vô sản chuyên chính của Việt Cộng và do sự rút lui của Pháp khỏi Việt
Nam, chuyện chống ngoại xâm mất đối tượng và hiểm họa độc tài phát hiện rõ rệt,
cho nên trên chính trường Việt Nam chỉ còn hai đối thủ để chống chọi nhau trong
một cuộc thử lửa quyết định: tức phe quốc gia và phe cộng sản.[9] Ông
Nghiêm đặc biệt chú ý đến cuộc di cư 1954, ông phân tích thành phần di dân và
nêu rõ cái ý thức giai cấp đấu tranh chống vô sản của di dân vốn đa số gồm trí
thức tiểu tư sản, trung tiểu nông.
Ở đây, chúng ta đang tiếp tay ông Nghiêm, góp vào khối di dân
thêm một khối lượng đông đảo nữa. Cái tâm sự giống nhau giữa dân di cư Bắc Việt
và đồng bào ở nông thôn miền Trung cũng phản ảnh vào văn nghệ: trong những năm
đầu tiếng nói cất lên từ miền Trung của Võ Phiến, Đỗ Tấn... rất hợp với tiếng
nói cất lên từ khối di dân của Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ v.v... Rồi những
Đoàn Nhật Tấn, Lôi Tam v.v... của miền Trung cũng vẫn có những bận tâm chính trị
tương tự, trong khi đa số các tác giả miền Nam tỏ ra hờ hững với “cuộc thử lửa
quyết định”.
CÁC BIẾN LOẠN PHÍA CỘNG SẢN
Cũng lại trong giai đoạn này, giai đoạn 1954-63, đã xảy ra những
biến cố ở ngoài lãnh thổ Miền Nam Việt Nam nhưng ảnh hưởng rất sâu đậm vào tinh
thần của Miền Nam, nhất là vào tinh thần giới trí thức, giới văn nghệ. Tôi muốn
nói đến những biến cố bên kia những bức màn sắt, màn tre.
Gần gũi nhất là những cuộc nổi loạn ở Miền Bắc: vụ cán bộ Miền
Nam tập kết kéo nhau đến phá bót cảnh sát Bờ Hồ, học sinh tập kết làm loạn ở
Ngã Tư Sở ngay tại thủ đô Hà Nội, vụ đồng bào Quỳnh Lưu, Nghệ An nổi dậy đánh
nhau với chính quyền, vụ chính quyền công khai nhận lỗi trong chính sách cải
cách ruộng đất, Trường Chinh và Hồ Viết Thắng bị cất chức, những nạn nhân oan ức
của đấu tố được trả tự do trở về tìm cán bộ trả thù gây ra náo loạn trong xã hội
v.v... Những chuyện như thế làm kinh ngạc thành phần dân chúng thân cộng trong
Nam, và làm cho chính đồng bào Bắc Việt di cư cũng lấy làm bất ngờ. Hồi năm
1958, viết chương đầu cho cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (do Mặt trận Bảo vệ
Tự do Văn hóa xuất bản ở Sài Gòn năm 1959), ông Hoàng Văn Chí bảo: “Những người
thông thường, có đôi chút kinh nghiệm đau xót với cộng sản, kể cả những đồng
bào Bắc Việt di cư cũng không ngờ rằng trong một thời gian không đầy hai năm
tình hình ở nơi quê cha đất tổ có sự thay đổi quá nhanh chóng như vậy. Họ nhớ
ngày nào quân đội của ‘Cụ’ kéo vào chiếm đóng Hà Nội, nhân dân thủ đô còn đón
rước tưng bừng. Nào cờ quạt, nào biểu ngữ, nào cổng chào, nào kéo nhau đi xem
văn công, xem triển lãm. Họ không ngờ rằng chỉ một năm sau khi họ bỏ nhà bỏ cửa
ra đi, bộ đội oai hùng đó lại bị chính ngay nông dân vác gậy phang vỡ đầu.”
Đối với giới trí thức của Miền Nam thì vụ chống đối của trí
thức Miền Bắc cùng các biến loạn trong thế giới cộng sản càng làm cho họ suy
nghĩ.
20 tháng 2 năm 1956 tại đại hội lần thứ 20 của cộng đảng Nga,
bỗng nhiên Khrushev nặng lời tố cáo Staline, đập đổ một thần tượng sừng sững
lâu đời, làm cho giới chính trị cộng và thân cộng đâm ra hoang mang, chới với,
mất phương hướng;
26 tháng 5 năm 1956 Trung Cộng phát động chính sách Trăm Hoa
Đua Nở;
28 tháng 6 năn 1956 vụ Poznan bùng nổ ở Ba-lan;
28 tháng 10 năm 1956 nhân dân Hung-gia-lợi lại nổi dậy ở
Budapest, làm náo động dư luận thế giới;
Sang năm 1957 nghệ sĩ và trí thức Trung Cộng thừa cơ hội Trăm
Hoa Đua Nở xúm nhau công kích đảng và chính quyền. Nhà nước ra tay trấn áp, La
Long Cơ bị “phê bình” dữ dội. Trăm hoa hết dám đua nở.
Ở Miền Bắc trong thời gian ấy cũng bùng nổ một cuộc “khởi
nghĩa” của trí thức và văn nghệ sĩ.
Tháng 3 năm 1956 nhà xuất bản Minh Đức cho ra tập Giai Phẩm
Mùa Xuân, bắt đầu nêu lên các khuyết điểm của đảng. Tháng 8-56, lại ra Giai Phẩm
Mùa Thu. Ngày 15-9-56 báo Nhân Văn ra số 1. Rồi bao nhiêu là báo khác: Đất Mới
(của sinh viên), Trăm Hoa (của Nguyễn Bính), nhật báo Thời Mới v.v... cũng ùa
theo công kích nhà nước và giới lãnh đạo. Thậm chí dần dần tờ Văn, tạp chí của
hội Văn nghệ, cũng quay ra chống đảng...
Đảng và nhà nước độ ấy phải một phen vất vả mới dẹp được...
loạn. Ngày 15 tháng 12-1956 Hồ Chí Minh ký sắc lệnh qui định chặt chẽ giới hạn
“tự do” của báo chí, phạt đến khổ sai chung thân tịch thu gia sản những kẻ phạm
cấm. 304 văn nghệ sĩ bị bắt đi chỉnh huấn. Một số bị giam vào nhà pha Hỏa Lò
(Thụy An, Nguyễn Hữu Đang). Nhiều người bị cất chức, bị đưa đi “học tập lao động”,
bị đày đi những nơi ma thiêng nước độc, mất tăm mất tích.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi đất nước bị chia cắt bày ra thế
lưỡng phân đối địch minh bạch, một thời gian ngắn sau khi hàng triệu người chối
bỏ cộng sản ra đi vào Nam, một thời gian ngắn sau khi cuộc tranh đấu cho độc lập
chấm dứt và cuộc tranh đấu cho tự do bắt đầu thì “phía bên kia” chợt bày ra
liên tiếp nhiều dấu hiệu suy nhược, như thế làm sao bên này không “hồ hởi”?!
Nói đến tâm trạng của trí thức Miền Nam lúc bấy giờ lại nhớ đến trường hợp Nguyễn
Mạnh Côn với cuốn Đem tâm tình viết lịch sử. Cuốn sách đã viết xong từ lâu, xếp
chữ xong từ lâu, nhưng tác giả cứ để đấy, chần chờ. Đến năm 1958, sau những biến
động vừa kể bên phía cộng sản, ông liền quyết định cho ấn hành, lòng đầy hứng
khởi.
Lúc suy đồi
CUỘC TẤN CÔNG QUÂN SỰ CỦA CỘNG SẢN
Sự trạng tốt đẹp cho đến năm 1959, Miền Nam đã bẻ gãy các mưu
toan lũng đoạn tình hình do cộng sản chủ trương, đến nỗi Lê Duẩn sau hai năm hoạt
động ở Miền Nam đã trở về Hà Nội báo cáo sự thất bại và đề nghị một kế hoạch mới:
tấn công bằng quân sự. Về phía bên này, cũng vào năm 1959 đại sứ Hoa Kỳ
Elbridge Durbrow và tướng Williams báo cáo về Hoa-thịnh-đốn tình hình lạc quan ở
Việt Nam và đề nghị cho rút cố vấn Mỹ về nước trong vòng hai năm tới.
Nhưng đến đây, từ năm 1959, thì các rắc rối bắt đầu. Chủ
trương dùng vũ lực của cộng sản được Miền Bắc đưa ra thực hiện. Tháng 5-1959
đoàn vận tải mở đường mòn Hồ Chí Minh. Bảy mươi nghìn cán bộ tập kết được tăng
phái vào Miền Nam. Tháng 12-1959, Mặt trận Giải phóng Miền Nam ra đời. Trong
năm 1959 có 250 viên chức của Miền Nam bị cộng sản sát hại. Năm 1960, số viên
chức bị ám sát lên đến 1400 người. Rồi dần dần xảy ra những trận đụng độ cấp đại
đội, cấp tiểu đoàn v.v...
Trước chính sách công khai dùng vũ lực để thôn tính Miền Nam
của cộng sản, ông Kennedy vừa nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ vài tháng, thay vì
rút cố vấn, đã gửi ngay 15 nghìn quân Mỹ sang giúp Việt Nam. Bắc Việt lại tăng
cường xâm nhập để đối phó. Cứ thế đôi bên cùng leo thang.
Muốn tránh sự hiện diện đông đảo của quân đội Mỹ trên lãnh thổ
ta và muốn tìm một chiến lược thích hợp để đối phó với chiến tranh du kích của
cộng sản, chính phủ Ngô Đình Diệm chú ý đến các kinh nghiệm chống cộng ở
Mã-lai. Một số chuyên viên người Anh được mời sang, chính sách ấp chiến lược được
đề ra để tách lìa cán bộ cộng sản khỏi dân chúng. Các biện pháp này tỏ ra hữu
hiệu; vào năm 1962, hoạt động cộng sản đã suy yếu nhiều. Nhưng ngay sau đó,
tình hình chính trị của Miền Nam lại đổ ra tồi tệ, khiến các thắng lợi quân sự
hóa ra vô ích.
SỰ RỐI LOẠN Ở MIỀN NAM
Sau khi cầm quyền ba, bốn năm, tổng thống Ngô bị một nguồn dư
luận càng ngày càng rộng rãi chỉ trích là độc tài. Bất mãn nhóm lên từ các đảng
phái quốc gia, từ các chính khách đối lập. Năm 1959, một phi công ném bom dinh
Độc Lập. Đầu năm 1960 một nhóm 18 nhân vật? nhóm Caravelle? gửi đến tổng thống
một bản nhận định chính sách và khuyến cáo sửa chữa các khuyết điểm. Ngày 11
tháng 11 năm 1960 một số sĩ quan cấp tá? Vương Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi...? tổ
chức một cuộc đảo chánh hụt. Nhưng tình thế đặc biệt trở nên trầm trọng từ ngày
xảy ra vụ Phật giáo. Tháng 5-1963 Phật tử Huế biểu tình chống chính phủ vì vấn
đề treo giáo kỳ. Câu chuyện dần dần đưa đến những cuộc chống đối rộng lớn khắp
nước, rồi những cuộc tự thiêu, đến chuyện bao vây chùa, bắt sư sãi v.v... Diễn
tiến sự việc ảnh hưởng mạnh đến dư luận Hoa Kỳ, tổng thống nước này đã ủng hộ một
nhóm tướng lãnh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm vào ngày 1 tháng 11 năm 1963. Biến
cố ấy kết thúc nền đệ nhất cộng hòa, chấm dứt giai đoạn đầu của thời kỳ sau
Genève ở Miền Nam. Giai đoạn mà chính phủ ta có chính sách rõ ràng, liên tục,
mà ta giữ được chủ động trước tình thế cho đến trước năm cuối cùng.
Sau này thì ôi thôi, toàn những thay đổi bấp bênh; ta bị sự
việc dập dồn tràn ngập, chỉ những lo tả xông hữu đột để đối phó với tình hình,
chẳng còn đâu là chính sách, là chủ động nữa.
_________________________
[1]Cao
Văn Luận, Bên giòng lịch sử, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ.
[2]E.G.
Lansdale, Tôi làm quân sư cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, bản dịch của L.T., Đại
Nam tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 33, 34.
[3]Nguyễn
Ngu Í, Sống và viết với..., Ngèi Xanh, Sài Gòn, 1966, trang 139, 140.
[4]Vũ
Bằng, Thương nhớ mười hai, Sống Mới tái bản ở Hoa Kỳ, trang 283.
[5]Câu
này viết ra có lẽ vào khoảng 1970-71.
[6]Vũ
Bằng, sđd, trang 267, 268.
[7]Dương
Nghiễm Mậu, ‘Quảng Trị đất đợi về’, trong tập bút ký Những ngày dài trên quê
hương, Sài Gòn, 1972.
[8]Sđd.
[9]Nghiêm
Xuân Hồng, Lịch trình diễn tiến của phong trào quốc gia Việt Nam, nguyệt san
Ngày Về tái bản tại Hoa Kỳ, trang 85, 245, 246.
Phần 13
văn học
Hoạt động tưng bừng
Tình hình văn học trong giai đoạn đầu ở Miền Nam phản ảnh cái
phấn khởi, tin tưởng, tích cực, nghiêm chỉnh của tình hình chung lúc bấy giờ.
Chính quyền trong những năm đầu được sự ủng hộ của đa số dân
chúng, của các đảng phái. Nhờ sự ủng hộ ấy thủ tướng Ngô chân ướt chân ráo mới
về nước đã thắng lực lượng Bình Xuyên, Ba Cụt v.v..., đã thắng Bảo Đại. Giữa
chính quyền và trí thức nghệ sĩ, cái quan hệ trong buổi đầu cũng rất đề huề. Ta
đã thấy Doãn Quốc Sỹ từng nhắc lại với Nguyễn Ngu Í những tiếp xúc “anh anh tôi
tôi”, thân mật, không ngượng ngùng, với các nhân vật chính quyền độ ấy.
Chính phủ Ngô Đình Diệm thực ra không có hẳn một chính sách
văn hóa, không chủ tâm “lái” văn nghệ vào một con đường nào, không có tham vọng
lãnh đạo văn hóa. Nhưng chính phủ có khuyến khích, giúp đỡ phương tiện cho văn
nghệ. Đối với giới họa, có các cuộc triển lãm hội họa mỗi mùa xuân. Đối với văn
giới có Giải thưởng Văn chương Toàn quốc hàng năm. Đối với ngành nhiếp ảnh nghệ
thuật, có các cuộc triển lãm nhiếp ảnh quốc tế cũng tổ chức hàng năm. Phải nhận
rằng những cuộc triển lãm như thế đã phát huy liên tiếp trong các năm đầu thập
niên 60 nhiều họa sĩ chân tài. Để đẩy mạnh sinh hoạt sân khấu kịch trường, ông
Vũ Đức Diên được giúp đỡ mở quán Anh Vũ. Nhiều nghệ sĩ di cư từ Bắc vào đã được
giúp đỡ phương tiện để xuất bản sách báo: Đó là trường hợp các nhóm Tự Do, Sáng
Tạo v.v... Nhiều hiệp hội văn hóa như Văn Bút Việt Nam, như Mặt trận Bảo vệ Tự
do Văn hóa v.v... được tiếp sức khi cần trong những nhu cầu điều hành, sinh hoạt.
Về phía văn nghệ sĩ trong hoàn cảnh bấy giờ, sự hoạt động
tưng bừng hẳn lên. Những nhân vật tiền chiến bấy lâu im tiếng bây giờ lại xuất
hiện. Họ cảm thấy đến lúc có thể yên tâm mà tung chăn không ngượng ngùng trước
dư luận, đến lúc có điều kiện ổn định cho những dự định qui mô, những công
trình dài hơi.
Vũ Hoàng Chương hăng say ngây ngất:
“Gió nối vần mây giục đấu tranh
Tâm tư lồng lộng kết nên thành
Thành ngăn sóng Đỏ, mây sừng sững
Nước Tổ về ngôi đẹp sử xanh”
(Hoa đăng)
Nhất Linh từ ngày về nước vẫn im lặng, “nghỉ ngơi”, vui với
cây cỏ núi rừng như một đạo sĩ ngoài vòng trần tục, ông Nhất Linh ấy bây giờ
quyết định “hạ sơn”. Ông chiêu tập anh tài, lại làm báo lại viết sách, viết trường
giang tiểu thuyết phỏng ước dài mấy nghìn trang, ông thành lập hội Văn Bút Việt
Nam, ông phục sinh và mở rộng Tự Lực văn đoàn v.v... Học giả Đào Đăng Vỹ đơn
thân độc mã khởi công soạn bách khoa từ điển, cho in dần dần. Các ông Lê Văn
Siêu, Hoàng Trọng Miên, mỗi người bắt đầu theo cách riêng một bộ lịch sử văn học
Việt Nam, từ khởi thủy...
Các bậc tài danh trong hàng huynh trưởng tưởng đã buông tay bỗng
dưng trở lại hoạt động hăng hái, còn các khuôn mặt mới thì chen nhau xuất hiện.
Nhiều tạp chí văn nghệ ra đời, mỗi tờ qui tụ một số cây bút mới: Sáng Tạo, Bách
Khoa, Hiện Đại, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ, Nhân Loại v.v... Có khi một tờ nhật
báo cũng thành chỗ hội ngộ của nhiều cây bút giá trị: tờ Tự Do chẳng hạn. Cũng
có trường hợp một số tài năng chọn cách ra mắt bằng một nhà xuất bản: nhà Quan
Điểm tung ra những Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan, Tạ Văn Nho, Mặc Đỗ v.v... Để
nói lên cái náo nức tưng bừng lúc bấy giờ chắc chắn nên chọn Mai Thảo. Nhà văn
này vốn thường khoa tay quá trán, nói không tiếc lời, hồi ấy đã chọn đúng lúc để
vung lên những hò hét nhiệt liệt nhất, ồn ào nhất: “đem ngọn lửa văn hóa vượt
vĩ tuyến sáng lên ở đây hôm nay.”[1] “Năm
1954 còn ghi lại, chói lọi, cái đẹp ấy của mùa mới, cái đẹp ấy của lên đường.
Ta từng đi chật đất. Ta từng có, lớp lớp. Ta từng đến, hàng hàng. Những khởi đầu
của từng hoạt động văn học, từng phát động nghệ thuật nói chung của ta tuyệt
đúng, tuyệt đẹp.”[2]
Cảnh tượng trăm hoa đua nở tưng bừng ấy không phải chỉ là một
hiện tượng văn học. Ở các bộ môn nghệ thuật khác đại khái đều thế cả. Trong
ngành nhạc, Phạm Duy từ kháng chiến bỏ về đã lâu, vào Nam cũng đã lâu, mà không
có hoạt động gì đáng kể. Sau 1954, ông hoàn thành liên tiếp hai bản trường ca
Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Trong ngành họa, ban đầu là những hoạt động
của Tạ Tỵ, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn..., nhưng tiếp liền sau đó xuất hiện
một loạt nhiều họa sĩ trẻ chân tài. Điện ảnh hãy còn là mới mẻ, nhưng ngay
trong những năm đầu tiên đã đưa ra mấy cuốn phim giá trị, trong đó phim Chúng
tôi muốn sống mười năm sau rồi đoạt một giải thưởng ở Hán Thành.
Trong khung cảnh thái bình, nước nhà vừa có chủ quyền, có chế
độ dân chủ, trong một xã hội được lành mạnh hóa dần dần, dưới một chính phủ
đang được tín nhiệm, trong không khí vui vẻ xây dựng một miền đất tự do để ngăn
ngừa hiểm họa độc tài, văn học nghệ thuật đã phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ.
Giai đoạn đầu (1954-1963) không đạt đến nửa thời gian của thời kỳ văn học
1954-75, thế nhưng trong tổng số các tác giả nổi tiếng của toàn thời kỳ này thì
giai đoạn đầu chiếm bảy, tám phần mười. Và tôi nghĩ rằng những tác giả có ảnh
hưởng sâu rộng trong quần chúng, những tác giả mà tiếng nói có sức vang vọng
trong dư luận, chi phối được ít nhiều nhân tâm thế đạo, loại tác giả ấy phần lớn
thuộc về giai đoạn này hơn là giai đoạn sau.
Hai chặng – hai thế hệ
Thực ra trong một giai đoạn thứ nhất văn học Miền Nam cũng
không có sự thuần nhất. Một cái nhìn thoáng qua các tác phẩm xuất hiện vào đầu
giai đoạn và các tác phẩm ở cuối giai đoạn cho ta thấy một chuyển biến rõ rệt.
Đem tâm tình viết lịch sử của Nguyễn Mạnh Côn không giống với Chị em Hải của
Nguyễn Đình Toàn, với Kẻ tình nguyện của Lê Tất Điều. Vì vậy đã có những ý kiến
muốn chia giai đoạn này ra làm hai: trong khoảng chín năm ấy chúng ta thấy xuất
hiện hai đợt văn sĩ, hai thế hệ nhà văn.
Trên tạp chí Bách Khoa số Xuân Ất Mão (phát hành ngày 24-1
năm 1975) Nguyễn Mộng Giác có bài đề cập đến các thế hệ văn thi sĩ ở Miền Nam.
Mới đây, trên một số báo Đồng Nai vào trung tuần tháng 7-1984 tại California,
ông lại có dịp trở về vấn đề ấy: “Sau hiệp định Genève, trào lưu văn học chống
cộng phát triển mạnh mẽ ở Miền Nam Việt Nam, những ban chủ biên nòng cốt của
các nhóm, các tạp chí hầu hết là phái nam. Nếu kể tên những cây bút quan trọng
của giai đoạn này như Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn
Mạnh Côn, Vũ Khắc Khoan... chúng ta ít có nhà văn nữ nào hiện diện. Từ 1960 về
sau, một lớp nhà văn trẻ xuất hiện trên các tạp chí Văn Nghệ, Thế Kỷ Hai Mươi,
Khai Phóng, Nghệ Thuật, Khởi Hành, Văn Học, Văn, Bách Khoa, và đa số đều là nhà
văn nam: Dương Nghiễm Mậu, Lê Tất Điều, Thế Uyên, Nhật Tiến, Duyên Anh, Ngô Thế
Vinh, Dương Kiền... vẫn là nam giới đóng vai chủ động.”[3]
“Nhà văn hai lớp” là chuyện đã rõ. Nhưng còn cái năm 1960?
Nguyễn Mộng Giác chỉ nêu qua mà không giải thích. Bảo rằng lớp Dương Nghiễm Mậu,
Lê Tất Điều... xuất hiện vào năm 1960, dựa vào đâu? Lấy “biến cố” gì làm cái mốc?
Trong sinh hoạt văn nghệ họa hoằn mới xảy ra một biến cố. Lúc bấy giờ ở Miền
Nam lớp trước lớp sau đề huề, bốn phương phẳng lặng.
Trên thực tế, nhiều người trong lớp sau đã xuất hiện từ trước
1960 khá lâu và cũng đã nổi tiếng rồi: Dương Nghiễm Mậu đã viết trên Sáng Tạo bộ
cũ, một tạp chí xuất bản vào các năm 1956, 57, Nhật Tiến đã cộng tác ngay từ những
số đầu của tờ Văn Hóa Ngày Nay mà số 1 ra đời vào tháng 6-1958. Vả lại Nhật Tiến,
Nguyễn Đình Toàn đều đã viết từ hồi ở Hà Nội, trước 1954. Nói thế không phải là
bảo nên lui thời điểm ranh giới giữa hai thế hệ lại những năm 1954, 56 hay 57.
Lúc đó chẳng qua các nhà văn trẻ nọ bắt đầu có mặt, nhưng chưa có ảnh hưởng
đáng kể, chưa “đóng vai chủ động”.
Từ ngày có mặt trên báo cho đến khi trở thành một tác giả chủ
động trên văn đàn, khá lâu. Hãy kể đến khi có sách được xuất bản thôi: được xuất
bản tức là đã được ước lượng có một số độc giả phải chăng, tức đã có tiếng tăm
tương đối rộng rãi. Nhã Ca viết báo và nổi tiếng trước 1960 mà mãi đến 1965 mới
có thi phẩm đầu tiên ra mắt (Nhã Ca mới), 1968 mới có cuốn truyện đầu tiên xuất
bản. Lê Tất Điều cũng phải chờ đến 1961 mới cho ra đời được cuốn Khởi hành,
Nguyễn Đình Toàn xuất bản Chị em Hải năm 1961, Duy Lam cuốn Chồng con tôi năm
1960, nhưng Nhật Tiến thì đã tung ra Những người áo trắng từ 1959.
Đã không có cái mốc nào rõ rệt, thôi thì hãy chấp nhận thời
điểm 1960 của Nguyễn Mộng Giác không cần chờ giải thích. Trong lớp nhà văn này
tất nhiên có kẻ sớm người muộn, nhưng đại khái vào khoảng thời gian này họ tung
hoành trên văn đàn, bắt đầu có địa vị vững vàng.
Chia giai đoạn 1954-63 ra làm hai chặng, với hai lớp nhà văn,
như thế tức là mặc nhiên lờ đi một số khác. Bởi vì ai cũng biết ngoài hai lớp
nhà văn xuất hiện sau 1954 và vào khoảng 1960, ở Miền Nam vẫn có mặt nhiều nhà
văn khác. Họ thuộc hai lớp trước: một lớp tiền chiến (Vũ Bằng, Nhất Linh, Đông
Hồ, Quách Tấn v.v...), một lớp nữa nổi tiếng trong thời kháng chiến (Thanh Nam,
Thiên Giang, Thẩm Thệ Hà, Tô Kiều Ngân...). Hai lớp này sau 1954 có vị bớt viết
đi (Đông Hồ, Tam Lang, Vi Huyền Đắc, Kiêm Minh v.v...); nhưng lại có những vị
hoạt động tích cực, viết thật nhiều (Vũ Hoàng Chương, Nhất Linh, Vũ Bằng, Đinh
Hùng...). Tại sao lờ họ đi? Chắc chắn đó không phải là một thiên vị, lệch lạc,
hay một sự thiếu sót. Không nói đến chỉ vì các lớp ấy không còn “đóng vai chủ động”
nữa. Họ còn hoạt động, còn đóng góp nhiều cho văn học, thành tích quan trọng của
họ phải được ghi nhận; tuy nhiên giai đoạn nọ giai đoạn kia sau 1954 không còn
thuộc về họ nữa, trong những giai đoạn ấy họ không còn là những nhà văn tiêu biểu
nữa. Thế thôi.
Chặng 1954-1960
Trở lại chặng 1954-60. Thoạt tiên, sau cuộc biến thiên lớn
lao về chính trị và quân sự, cuộc di cư đông đảo, văn nghệ sĩ từ Bắc vào, từ
vùng kháng chiến quay về hãy còn tản mác, còn lo ổn định cuộc sống mới, còn bỡ
ngỡ trước cục diện mới, họ chưa kịp có thì giờ qui tụ, tổ chức một diễn đàn, một
tạp chí văn học nghệ thuật. Nhưng giới làm báo thì ứng phó nhanh hơn. Ngay buổi
đầu đã có những tờ nhật báo giá trị do lớp người mới xuất bản: tờ Ngôn Luận, tờ
Tự Do.
Trên Ngôn Luận, Hoàng Hải Thủy viết những thiên tiểu thuyết
phóng sự bằng giọng dí dỏm thật có duyên. Đinh Hùng hàng ngày làm thơ hài hước
đều đều, dưới bút hiệu Thần Đăng, rồi viết truyện dã sử dưới tên Hoài Điệp Thứ
Lang. Viên Linh thỉnh thoảng đăng một bài thơ... Nhưng Tự Do của Phạm Việt Tuyền
mới là nơi qui tụ được nhiều cây bút tên tuổi: Tam Lang, Hà Thượng Nhân, Mai
Nguyệt (Tchya Đái Đức Tuấn), Hiếu Chân, Vũ Bình, Như Phong, Bùi Xuân Uyên
v.v... Đây là những tờ báo được tổ chức tử tế, bài vở có trình độ cao, hình thức
trình bày mỹ thuật, nhất là tờ Tự Do với những bức hí họa tài tình của họa sĩ
Phạm Tăng.
Những tờ báo ấy khuấy động một không khí mới: vì đó là báo của
các cây bút di cư, chống cộng mạnh mẽ. Mặc dù thái độ chính trị mới mẻ, nó
chinh phục quần chúng nhanh chóng nhờ giá trị bài vở.
Mùa Lúa Mới
Trong lúc ở Sài Gòn văn nghệ sĩ hãy còn đăng bài trên nhật
báo thì ở Huế đã có một tạp chí cho những cây bút sau 54: tờ Mùa Lúa Mới, xuất
bản năm 1955, với Đỗ Tấn, Võ Phiến... Thực ra đây cũng gần như trường hợp tờ
Văn Nghệ Học Sinh đối với Lê Tất Điều, Trần Dạ Từ: Mùa Lúa Mới là tờ tạp chí do
nha Thông tin Trung phần xuất bản.
Lúc bấy giờ, những ngày tháng đầu tiên sau hiệp định Genève,
không hề có sự cách biệt giữa văn nghệ sĩ và chính quyền; chỉ có sự xa cách, sự
thiếu thông cảm, giữa “người cũ” và “người mới”. “Cũ” là nhân viên công chức
trong thành, vẫn làm việc trong các cơ quan từ thời Pháp thuộc và thời Bảo Đại,
“cũ” cũng là những văn nghệ sĩ trước sau chưa hề biết đến chiến khu, bưng biền,
kháng chiến, cộng sản. “Mới” là những “anh em bên kia mới về”, kẻ có quen biết
bên chính quyền thì làm việc với chính quyền, người có khả năng văn nghệ thì hoạt
động bên văn nghệ, đàng nào cũng thế: cộng tác với nhau để vạch trần bộ mặt thật
của Việt Minh, để cảnh tỉnh dư luận bên này về hiểm họa cộng sản, để “mở mắt”
những người “cũ”, người trong thành v.v... Đó là một thời “văn chính bất phân”;
ở Huế cũng như ở Sài Gòn, ở nha Thông tin cũng như ở bộ Thông tin bấy giờ đều
có một số văn nghệ sĩ.
Tờ Mùa Lúa Mới, ngày nay không tìm thấy ở các thư viện Hoa Kỳ
mà chắc cũng chẳng được mấy ai lưu giữ. Bởi vậy xin mang những điều còn sót
trong kỷ niệm riêng ra thuật lại để ghi lại chút ít hình ảnh một thời.
Mùa Lúa Mới do Thu Tâm (tức Võ Thu Tịnh, giám đốc nha Thông
tin Trung Việt lúc ấy) làm chủ nhiệm, Đỗ Tấn làm thư ký tòa soạn. Tờ báo ra khổ
nhỏ (độ chừng 13cm x 18cm?), dày không đến trăm trang mỗi số, in ngay tại nha
Thông tin bằng một cái máy cổ lỗ. Tôi không tin rằng báo được phát hành rộng
rãi, chu đáo. Ấy vậy mà sau này dần dần tôi biết được những sự việc liên quan đến
tờ Mùa Lúa Mới làm mình kinh ngạc.
Chẳng hạn tháng 2 năm 1982 một người ở Pháp? một nhân vật
trong ngành ngoại giao Việt Nam trước 1975 đã sống ở nước ngoài từ lâu lắm, hiện
dạy tại một đại học Pháp, và cũng là một tiểu luận gia từng có nhiều nhận định
phê bình về văn học Việt Nam? người ấy trong một lá thư, nhân nhắc về Đỗ Tấn,
đã nhớ và ghi luôn mấy đoạn thơ của Đỗ đăng trên Mùa Lúa Mới độ nào “để cùng hồi
tưởng một quá khứ”:
“Ông có người con gái
Chết rồi trong một chuyến dân công
Mười bảy xuân xanh không mẹ không chồng
Thân bỏ rừng già quạnh quẽ
Nghe người ta kể
Chiến trường Tây Bắc gian lao
Vượt suối trèo đèo
Nàng thế vai cha gánh gạo
Những chiều trông về xuôi
Mây vần ảo não
Thương ai tóc bạc sương cài
Nhớ đường làng cỏ trắng sao mai
Ướt chân người lính chiến...”
và:
“Đảng đã bảo anh gian lao chịu đựng
Thì thương nhớ nhau mà chi
Đảng muốn anh quên
Thì nhớ thương nhau cho lắm có làm gì
Lấy nhau vừa đúng mười hôm chẵn
Và chỉ mười hôm, e thế thôi
Độ rày sim nở
Tím sim là tím làn môi
Là tím cuộc đời trong giá
Là tím tình ta đã lỡ rồi
Ai người gây nên màu tím
Tím sim trên núi trên đồi
Tím sim cho lòng lạnh lắm
Buồn vương hiu hắt mái gồi
Anh có về không hỡi anh
Chim không đậu nữa trên cành
Bình hoa đổ nát
Bên ngoài tiếng gió reo nhanh...”
Vị giáo sư ấy nhớ những truyện ngắn của tôi, những bài thơ của
Đỗ Tấn, gọi là “nhớ lõm bõm”. Nhưng để có thể “nhớ lõm bõm” từng đoạn thơ dài
như thế sau hăm bảy năm trời và sau bao nhiêu luân lạc, tôi nghĩ rằng cái xúc động
ban đầu của ông lúc đọc nó hẳn phải là sâu xa. Ông đọc nó trong dịp nào? ông bắt
gặp Mùa Lúa Mới ở đâu?
Lại chẳng hạn lần khác, Thanh Nam bảo tôi: “Và điều chắc chắn
là hầu hết những nhân vật trong nhóm Sáng Tạo đều xuất hiện sau anh, bởi tôi đọc
anh và Đỗ Tấn trước rồi mới đọc những người đó.”[4]
Đọc tôi và Đỗ Tấn ở đâu? Chỉ có thể trên Mùa Lúa Mới vì các
sách của chúng tôi đều xuất bản sau khi Sáng Tạo ra đời. Thanh Nam và nhóm Sáng
Tạo cùng ở Sài Gòn, thế mà Mùa Lúa Mới đã tìm đến tận Thanh Nam để tự trình diện
trước Sáng Tạo, thật không ngờ.
Lại nữa, giáo sư Nguyễn Xuân Vinh ở Hoa Kỳ ngày nay vẫn còn
yêu thích Đỗ Tấn (như đã thấy ở một phần trước), điều đó có lẽ cũng là do tờ
Mùa Lúa Mới.
Như vậy dù chỉ là một tạp chí địa phương, với phương tiện
khiêm tốn, hình thức khiêm tốn, tờ Mùa Lúa Mới đã có tác động rộng rãi, vượt ra
ngoài phạm vi miền Trung, mà đến tận thủ đô. Tác động của nó trong giới thanh
niên và trí thức lúc bấy giờ phải khá mạnh mẽ mới để lại một ấn tượng dài lâu đến
thế.
Nhân nói về Mùa Lúa Mới, lại nhớ đến các cuốn sách đầu tiên của
chúng tôi (những cuốn Chữ tình và Người tù của Võ Phiến, Chiều cuối năm của Đỗ
Tấn) do nhà Bình Minh xuất bản hồi 1956. Sự thực, chúng tôi in sách bằng chiếc
máy in nhỏ, cực kỳ thô sơ, tại Qui Nhơn. Đó là chiếc máy vốn của một nhà in cộng
sản liên khu V để lại, chôn vùi dưới đất, được phát giác và khai quật lên sau
Genève, đã rỉ sét hư hại bộn bề. Phương tiện như thế, kỹ thuật như thế, trình
bày lại tệ hại, cho nên khi sách tung ra từ một tỉnh lẻ miền Trung được giới
văn nghệ ở thủ đô chú ý, tán thưởng, chúng tôi đâm ngơ ngác, phản ứng một cách
bối rối vụng về. Thái độ thân hữu niềm nở nhất tôi nhớ thoạt tiên không đến từ
những bậc huynh trưởng mà là từ những cây bút trẻ, cùng lứa, phần đông là mới từ
Bắc vào.
Trường hợp tờ Mùa Lúa Mới và sách Bình Minh, tôi nghĩ có lẽ
được cắt nghĩa bằng câu chuyện về nông thôn miền Trung đã nói trước đây. Ở liên
khu V chính sách cộng sản thi hành gần giống như ở bắc vĩ tuyến 17, nhận thức của
đồng bào ở đây rất gần với của đồng bào ngoài đó. Bởi vậy mà đôi bên hợp nhau:
sách báo của các tác giả di cư được đón tiếp nồng nhiệt ở miền Trung và sách của
người miền Trung được di dân tán thưởng. Nhất là lúc bấy giờ ở Sài Gòn giới văn
nghệ di cư chỉ mới có nhật báo mà chưa có tạp chí văn nghệ, chưa kịp có diễn
đàn cho những sáng tác nghệ thuật.
Sáng Tạo
Tháng 10 năm 1956 tạp chí Sáng Tạo ra đời. Tờ báo đáp ứng một
sự thiếu vắng, nó được hoan nghênh ngay.
Trước “vận hội mới” quần chúng độc giả chờ đợi một xuất hiện
mới trên lãnh vực văn nghệ. Loại thơ văn trên báo Đời Mới của Trần Văn Ân chẳng
hạn không còn sức thu hút nữa, những sáng tác ra mắt trên nhật báo không thể thỏa
mãn, tờ Mùa Lúa Mới vẫn chỉ là của một địa phương. Tờ Sáng Tạo chính đã đến
đúng lúc. Và nó đã nhằm đúng vào tâm trạng quần chúng: chờ cái mới.
Thoạt ra mắt, Sáng Tạo đã phát động ngay “một nền nghệ thuật
mới”, “nghệ thuật hôm nay”. Phát động thật ồn ào. Mười bốn năm sau, Mai Thảo
nói về lúc khởi đầu ấy vẫn còn nói bằng giọng say sưa: “Chất nổ ném vào. Cờ phất.
Xuống núi, xuống đường. Ra biển, ra khơi. Và cuộc cách mạng tất yếu và biện chứng
của văn chương đã bắt đầu.”[5]?
Cách mạng chống lại cái gì? phá bỏ cái gì vậy?? Những cái không thuộc về hôm
nay: “Trong một thực trạng dày đặc những chất liệu của sáng tạo và phá vỡ như vậy,
văn học nghệ thuật mặc nhiên không thể còn là tả chân Nguyễn Công Hoan, lãng mạn
lối Thanh Châu, những khái niệm Xuân Thu, những luận đề Tự Lực.”[6] Cuộc
cách mạng này “tựu trung vẫn chỉ là lịch sử tiến trình biện chứng của những
trào lưu cạn dòng phải nhượng bộ rứt thoát cho những ngọn triều lớn dậy thay thế.”[7]
Nhưng đến khi cần biết về “ngọn triều lớn” thì không thể biết
gì rõ ràng. “Văn nghệ hôm nay” chủ trương ra sao? đưa ra lý thuyết gì? vạch ra
những đường lối gì? bác bỏ văn nghệ hôm qua ở chỗ nào?? Nhóm Sáng Tạo không có
giải đáp: “... thế nào cũng được. Điều đáng ghi nhận là lên đường ấy đã có.”[8] Vâng,
thì lên đường đã được ghi nhận xong; nhưng lên đường đi về hướng nào đây? Về
thi ca, Mai Thảo bảo rất đại khái: “Và thơ bây giờ là thơ tự do.”[9];
về các bộ môn khác, không thấy có ý kiến gì. Thơ tự do không phải là cái mới mẻ
nữa. Nó không phải là sáng kiến của văn nghệ hôm nay, của cách mạng. Sau này,
có lần Mai Thảo thú nhận: “Tôi không nhìn Sáng Tạo như nơi phát xuất và hình
thành một dòng văn học nghệ thuật. Lớn chuyện quá. Một tinh thần nào, một cách
thế thì có.”[10]
Nhìn như một tinh thần, thì đó là một tinh thần đổi mới đầy tự
tín, đầy hứng khởi. Tinh thần ấy có sức lôi cuốn, động viên; một tinh thần đáng
tán thưởng. Nhưng nhìn như một cách thế, thì cách thế Sáng Tạo có những chỗ khó
bảo là “tuyệt đẹp”. Chẳng hạn trong lối “khai tử” nền văn nghệ tiền chiến có một
cách thế kiêu căng; chẳng hạn trong lối diễn đạt của những vị trong nhóm chủ
trương có một cách thế kiêu kỳ: hoặc hoa hòe hoa sói, kiểu cách ưỡn ẹo, hoặc tối
tăm rối rắm.
Tuy nhiên Sáng Tạo đã có những đóng góp đáng kể. Mặc dù chỉ
xuất hiện trong một thời gian ngắn 31 tháng, nó đã phát huy được một số văn tài
đông đảo. Nhiều người trong số đó về sau, sau khi tờ tạp chí đình bản, tiến lên
giữ vai trò quan trọng trong những hoạt động văn nghệ riêng biệt của mình.
Thanh Tâm Tuyền dần dần viết truyện nhiều hơn làm thơ, viết truyện rất thành
công và có ảnh hưởng rộng trong văn giới lớp sau; Doãn Quốc Sỹ chủ trương một
nhà xuất bản, giới thiệu thêm một số cây bút mới nữa (trong đó có Phan Nhật
Nam); Nguyên Sa rồi đứng ra chủ trương các tạp chí Gió Mới, Hiện Đại, và có một
uy thế riêng; Tô Thùy Yên, Sao Trên Rừng (sau đổi ra là Nguyễn Đức Sơn) rồi trở
thành những thi sĩ có bản sắc đặc biệt; Dương Nghiễm Mậu sáng tác mỗi lúc mỗi
phong phú mỗi độc đáo, chủ trương nào nhà xuất bản nào tạp chí Văn Nghệ (cùng với
Lý Hoàng Phong), là một cây bút xuất sắc hoạt động mạnh mẽ cho đến ngày cuối
cùng của Miền Nam v.v...
Văn Hóa Ngày Nay
Cuộc “cách mạng” của Sáng Tạo như vậy động chạm đến sự có mặt
đầy uy tín của một dĩ vãng: Nhất Linh. Sau đó hai năm, Nhất Linh “xuống núi, xuống
đường”. Chủ trương của ông: Thứ văn nghệ ông làm không thuộc về quá khứ, nó thuộc
về mãi mãi. Ông không xem những thứ đã ra đời trên văn đàn Việt Nam trong lúc
ông nghỉ tay là có giá trị gì. Những cái đó hỏng cả. Cho nên bây giờ ông lại ra
tay làm văn nghệ lần nữa. Mở đầu bài phi lộ của tờ Văn Hóa Ngày Nay ra ngày
17-6-1958 là một nhận định: “Văn nghệ Việt Nam hơn mười năm nay vẫn ở trong một
tình trạng ngưng đọng, chưa tìm được lối đi (...) Chúng tôi vẫn băn khoăn tự hỏi
vì sao bấy lâu người ta có thái độ chán nản đối với văn nghệ đến thế? (...) Sở
dĩ ngày nay văn nghệ chưa rung cảm được độc giả vì văn nghệ chưa nói được lòng
người.”
“Hơn mười năm” trước 1958 tức là suốt thời gian từ lúc Tự Lực
văn đoàn ngưng hoạt động đến lúc Văn Hóa Ngày Nay ra đời, tức là bao gồm cả thời
gian Sáng Tạo làm cách mạng văn nghệ hôm nay. Cách mạng bị phủ nhận.
Trên Văn Hóa Ngày Nay, Nhất Linh từ từ trình bày rành mạch
quan niệm văn hóa và văn nghệ của mình, duyệt lại kinh nghiệm sáng tác của
mình, phân tích cái hay cái dở, và đưa ra những phương châm đường lối sáng tác
trong bộ môn tiểu thuyết. Ông cho rằng những cái lập dị của hôm nay sẽ bị đào
thải cả, phù du cả: “Các nhà văn trong phái ‘lập dị’ bây giờ, tôi thấy họ quá
chú trọng về hình thức kỳ quặc để cốt độc giả chú ý và tưởng họ thâm thúy.
Nhưng độc giả họ tinh khôn lắm, không dễ bị ai đánh lừa và lối văn lập dị hiện
nay chẳng bao lâu cũng sẽ biến mất.”[11]
Nhất Linh không phất cờ, không ném “chất nổ”, không tung đao
to búa lớn. Ông có một phong cách cố tình giản dị và một nụ cười tủm tỉm. Ông lại
còn sức làm việc bền bỉ nữa: trên mỗi số báo đều có sáng tác và khảo luận của
chính ông, có cả nét vẽ của ông nữa. Ông qui tụ một số cây bút vừa mới vừa cũ
cũng không ít. Lớp đã có thành tích từ trước gồm những Nguyễn Thị Vinh, Trương
Bảo Sơn, Linh Bảo v.v...; lớp trẻ có Nhật Tiến, Duy Lam, Tuyết Hương v.v...
Văn hóa ngày nay với văn nghệ hôm nay không ưa nhau. Cả đôi
bên cùng được quần chúng tiếp đón nồng hậu trong buổi đầu. (Những số Văn Hóa
Ngày Nay đầu tiên của Nhất Linh bán chạy bất ngờ, vượt quá dự liệu của những
người chủ trương.) Nhưng dần dần rồi độc giả thưa dần. Và ngày nay cũng không sống
lâu hơn hôm nay.
Sau khi Văn Hóa Ngày Nay đình bản, một số các cây bút chủ yếu
trong nhóm tiếp tục con đường đã vạch. Hoạt động nhất là Nguyễn Thị Vinh và Nhật
Tiến; hai người viết những cuốn truyện đầy lòng nhân ái với lời văn trong sáng
giản dị. Riêng Nguyễn Thị Vinh còn chủ trương các tờ Tân Phong, Đông Phương,
cũng noi theo tôn chỉ của Văn Hóa Ngày Nay nhưng rồi cũng không giữ nổi tờ báo
được lâu. Duy Lam thì không viết được nhiều mấy, có lẽ vì quá bận rộn quân vụ.
Giữa Sáng Tạo với Văn Hóa Ngày Nay, một bên sôi nổi cực đoan
mà không định hướng rõ rệt, một bên ôn hòa bảo thủ với đường lối minh bạch,
trong một thời gian xuất hiện ngắn, mỗi bên đều có lúc huy hoàng, đều chứng tỏ
được khả năng của mình. Nhưng về sau này, với một khoảng cách đủ rộng rãi,
chúng ta nhìn lại và phải nhận rằng cái tính cách của hai mươi năm văn học Miền
Nam có nhiều chỗ gần gũi với Sáng Tạo hơn là với Văn Hóa Ngày Nay. Một số lớn
cây bút trong thế hệ văn học này rất có thể bị chê là quái dị, là kỳ quặc, là
khó hiểu, hợm hĩnh, là lập dị, là thiếu một thái độ phải chăng, một bút pháp
trong sáng. Những cây bút ấy không nhất thiết là từ nhóm Sáng Tạo ra, hay chịu ảnh
hưởng của Sáng Tạo. Đây không phải là chuyện ảnh hưởng: không phải bên nào có sức
ảnh hưởng lớn bên nào sức ảnh hưởng nhỏ. Đây là cả sự khác biệt giữa hai tâm
tình. Sự khác biệt được cảm nhận không cần biện bạch.
Giữa văn nghệ mới và văn nghệ cũ, giữa tiền chiến và hậu chiến
chưa bao giờ thực sự có một cuộc bút chiến. Cái phải cái trái chưa từng được biện
bạch đến nơi đến chốn. Trong dư luận bậc trưởng thượng lúc nào cũng được quí trọng
tôn kính; tuy nhiên, trong văn giới, các đàn anh dần dần bị xa lảng. Kính mà
xa. Chủ trương của họ dù sai dù đúng không tìm được sự hưởng ứng rộng rãi.
Tôi nhớ có một hôm, vào khoảng đầu thập niên 60, một văn hữu
họp Bút Việt xong ghé về tòa soạn Bách Khoa gặp anh em. Người bạn nọ chợt nhớ
ra là ban chiều có được nhà văn D.N.M. tặng cuốn truyện mới xuất bản, anh mang
vào bàn hội nghị, nhân ngồi bên cạnh Nhất Linh, đưa cho ông xem qua. Sau khi lật
mấy trang, ông bận theo dõi các ý kiến phát biểu, xếp sách lại, lơ đãng đặt ra
một bên lẫn với giấy tờ riêng của ông. Lúc tan hội nghị ra về, người bạn quên lấy
lại cuốn sách. Nghe xong câu chuyện mấy anh em có mặt ở tòa soạn sực nghĩ: Lâu
nay tất cả chúng tôi không có ai mỗi lần ra sách mới mà nghĩ đến việc gửi tặng
Nhất Linh một bản. Những anh em cầm bút trẻ khác trong vòng quen biết đại khái
cũng thế cả. Ông còn đó, còn hoạt động,? thế mà ai nấy gần như quên hẳn ông.
Trong hai mươi năm sau Genève ở Miền Nam riêng tôi không nghe
ai thốt ra lời gì tỏ ra không quí trọng đức độ và tài năng của ông, không tôn
kính cái tư cách cái nhiệt tình của ông. Ngược lại Nhất Linh cũng tỏ ra rất sốt
sắng với các tài năng mới: sau 1954, bao nhiêu lần ông bày tỏ thiện chí muốn
tìm tòi khuyến khích, nâng đỡ các cây bút trẻ. Thiện chí lắm khi rất cảm động.
Đọc truyện Tuyết Hương, một thiếu nữ mới bắt đầu viết, thấy hay, ông nhắn mời.
Cô Tuyết Hương đang bệnh không đến ông được, ông liền đến tận nhà Tuyết Hương
tìm gặp để trò chuyện. Đọc bài Nhật Tiến, bấy giờ hãy còn là một mầm non, thấy
hay, ông nhắn mời tác giả và tính ngay đến việc xuất bản sách của Nhật Tiến
không chờ đợi yêu cầu. Ra báo Văn Hóa Ngày Nay, ông liền dành một chỗ cho những
tài năng mới. Trong tuổi già, ông viết chúc thư văn hóa đề cử những người trẻ
vào Tự Lực văn đoàn v.v... Ấy vậy mà giữa ông với giới cầm bút sau 1954 cứ xa
nhau dần. Báo ông, sách ông xuất bản, người ta mua đọc, nhưng đọc lặng lẽ.
Trong quần chúng không nghe có dư luận, trên văn đàn không thấy có phê bình.
Đó cũng là cái tình cảnh chung của các nhà văn tiền chiến. Nhất
Linh mà còn đến thế, những người khác tránh sao cho khỏi. Bấy giờ ở Miền Nam có
hơn hai mươi nhà văn nhà thơ danh tiếng thời trước, những vị như Đỗ Đức Thu, Vi
Huyền Đắc, Đông Hồ, Trần Tuấn Khải, Vũ Bằng, Lê Văn Trương, Vũ Hoàng Chương,
Đinh Hùng, Quách Tấn, Tam Lang, Nguyễn Đức Quỳnh, Lê Văn Siêu, Bàng Bá Lân
v.v... tất cả đều hưởng một thái độ mến trọng xa cách từ thế hệ mới. Gặp họ,
anh em kính; họ giàu sang anh em mừng; họ túng thiếu hoạn nạn, anh em xót
thương, có khi giúp đỡ; nhưng họ viết gì, anh em ít khi quan tâm. Chẳng qua đọc
hững hờ cho biết vậy thôi. Coi như những ve vẩy của một thời đã qua. Như hoạt động
tiêu khiển của những cụ già vui thú điền viên. Có vị nhờ đông bạn đông bè nên
thường được nhắc nhở? như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng? những nhắc nhở trong tình
bạn không gây ảnh hưởng gì trong tình hình văn nghệ.
Không những các văn nghệ sĩ tiền chiến mà ngay cả lớp văn nghệ
sĩ trong thời kháng chiến chống Pháp cũng gần như thế. Lớp này tất nhiên không
già nua gì, không cách biệt vì tuổi tác chút nào, nhiều vị còn trẻ hơn lớp nhà
văn sau 54. Giữa Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo với Thanh Nam chẳng hạn. Thanh Nam
trẻ tuổi hơn Mai Thảo và Nguyễn Mạnh Côn, cả văn lẫn thơ đều hay, thế mà chỉ vì
trót nổi tiếng trước 54 đành bị thiệt: Năm 1955 Mai Thảo ra Đêm giã từ Hà Nội
tác phẩm đầu tay, năm 1958 Nguyễn Mạnh Côn (dưới bút hiệu Nguyễn Kiên Trung) ra
cuốn Đem tâm tình viết lịch sử, cũng một tác phẩm đầu tay nữa, cả hai được dư
luận chú ý, trở thành tên tuổi ngay; giữa khoảng thời gian ấy năm 1957 Thanh
Nam cho xuất bản hai tác phẩm (Hồng Ngọc, Người nữ danh ca) mà sách không được
chú ý.
Lẽ dĩ nhiên Thanh Nam không chịu thiệt thòi một mình: những
Tô Kiều Ngân, Sơn Khanh, Thiên Giang, Thẩm Thệ Hà, Kiêm Minh v.v... đại khái đều
thế. Thế hệ trước 54, dù ở Hà Nội hay ở Sài Gòn, phần lớn không còn giữ được vị
thế cũ. (Phần lớn, không phải tất cả.) Thời thế đổi khác, độc giả chờ đợi những
tiếng nói khác.
Bách Khoa
Giữa khoảng thời gian ra đời của Sáng Tạo (1956) và Văn Hóa
Ngày Nay (1958), tờ Bách Khoa xuất bản số đầu vào tháng 1-1957. Thoạt tiên là tờ
báo của hai nhân vật trong chính quyền: các ông Huỳnh Văn Lang và Hoàng Minh
Tuynh. Về sau các ông này rút lui ra khỏi chính quyền, rồi tờ Bách Khoa cũng dần
dần chuyển về ông Lê Ngộ Châu.
Các ông Huỳnh và Hoàng là những chuyên viên trong giới ngân
hàng, rồi ngay ông Lê cũng không phải là một văn gia. Ấy vậy mà Bách Khoa phải
kể là một trong những tờ báo thành công nhất ở Miền Nam trong ngót hai mươi
năm. Đó là chỗ lý thú trong tình hình sinh hoạt của thời kỳ văn học này.
Thật vậy, bao nhiêu tạp chí văn nghệ do chính các văn nghệ
sĩ, các nhóm văn nghệ, các cây bút hoặc trẻ trung đầy nhiệt huyết hoặc kỳ cựu đầy
kinh nghiệm đều vắn số, thất bại. Văn Nghệ, Thế Kỷ Hai Mươi, Gió Mới, Hiện Đại,
Sáng Tạo, Vui Sống, Vấn Đề, Nghệ Thuật, Khởi Hành, Thời Tập, Văn Hóa Ngày Nay,
Tân Phong, Đông Phương v.v... có sống được bao lâu đâu. Đã không thọ thì dù có
hay ho xuất sắc đến bao nhiêu cũng không kịp có một ảnh hưởng rộng lớn. Trái lại
vững vàng nhất là những tạp chí do các nhân vật ngoài văn giới chủ trương: tờ
Bách Khoa như đã nói trên, tờ Văn của Nguyễn Đình Vượng (tòa soạn do Trần Phong
Giao trông coi, về sau chuyển lại cho Mai Thảo). Ngoài ra, tờ Văn Học cũng lẽo
đẽo sống được mười hai mười ba năm, do Phan Kim Thịnh là một người không viết
được mấy.
Như thế phải chăng lúc bấy giờ trong hoạt động văn học chuyện
quản trị đã thành một yếu tố quan trọng hơn xưa? hơn cái thời Tản Đà làm báo Hữu
Thanh, Phạm Quỳnh làm báo Nam Phong, Nhất Linh làm báo Ngày Nay v.v...
Bảo tờ Bách Khoa thành công là không phải chỉ nghĩ đến cái tuổi
thọ của nó mà thôi. Tuổi thọ dắt theo một số ưu điểm khác. Người ta nhận thấy
Bách Khoa qui tụ được đông đảo cây bút thuộc nhiều thế hệ kế tiếp nhau; nó phản
ảnh các chuyển biến của văn học qua nhiều giai đoạn; nó lưu lại một khối lượng
bài vở lớn lao và giá trị, một kho tài liệu cho việc tìm hiểu cuộc sống của Miền
Nam trên nhiều phương diện: kinh tế, văn hóa, chính trị v.v... Trên Bách Khoa
không phải chỉ có thơ văn, mà có cả những khảo luận về văn học, sử học, ngữ học,
triết học, tôn giáo, hội họa, âm nhạc...; như thế không những trên Bách Khoa có
những tìm tòi về nguồn gốc dân tộc, về các vấn đề của văn học cổ điển nước nhà
chẳng hạn, mà còn liên tiếp có những giới thiệu các trào lưu tư tưởng Âu Tây mới
nhất lúc bấy giờ: tiểu-thuyết-mới, hiện tượng học, cơ cấu luận v.v...
Cũng như tờ Văn, Bách Khoa là một tạp chí dung hòa rộng rãi mọi
khuynh hướng.
Không có chủ trương “văn nghệ cách mạng” cũng không chủ
trương “vượt thời gian”, nó đăng bài của các lão thi sĩ tiền bối Đông Hồ, Quách
Tấn, Vũ Hoàng Chương, lẫn truyện của Thanh Tâm Tuyền, Trùng Dương... Về mặt
chính trị, sức dung hòa của nó khiến có lần Nguyên Sa nói đùa: Bách Khoa là một
vùng xôi đậu. Nó đón nhận cả Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Vũ Hạnh, lẫn Võ
Phiến, Vũ Bảo...
Tuy vậy kể là cây bút chủ yếu của Bách Khoa từ trước đến sau
vẫn là hai người: Võ Phiến và Nguyễn Hiến Lê (xem hồi ký Đời viết văn của tôi của
Nguyễn Hiến Lê). Võ Phiến khước từ cộng sản ngay từ đầu, có thái độ chính trị dứt
khoát, vừa sáng tác vừa khảo luận, và dần dần đưa thêm vào Bách Khoa một số
khuôn mặt trẻ; Nguyễn Hiến Lê thì không đề cập đến một lập trường chính trị
nào, chuyên về khảo luận. Các vị khác, có người có mặt vào giai đoạn đầu, về
sau thưa dần như: Nguyễn Ngu Í, Cô Liêu, Vũ Hạnh (Vũ Hạnh sau chủ trương tờ Tin
Văn cùng với Nguyễn Nguyên, Lữ Phương, dưới sự chỉ đạo của văn sĩ cộng sản Nguyễn
Văn Bỗng); có những người mới lần lượt đến vào giai đoạn sau: Lê Tất Điều, Trần
Thái Đỉnh, Nguyễn Thị Hoàng, Hoàng Ngọc Tuấn, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ,
Y Uyên, Vô Ưu, Nguyễn Mộng Giác v.v...
Nhân Loại, Vui Sống
Năm 1956 tờ Nhân Loại ra đời, qui tụ nhiều nhà văn người Nam:
Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Ngọc Linh, Lê Vĩnh Hòa, Sơn Nam v.v... Sơn Nam
đã có dăm ba thành tích ngoài bưng trước 1954, nhưng từ khi về thành ông xuất
hiện như một cây bút mới, chưa ai biết đến. Chẳng bao lâu, những truyện ngắn về
đời sống Hậu Giang của ông được chú ý. Khi được xuất bản trong Chuyện xưa tích
cũ (1957) và nhất là trong Hương rừng Cà Mau (1962), các tập truyện này đưa tác
giả lên một địa vị vững vàng.
Vì lý do chính trị, có những người trong nhóm Nhân Loại về
sau bỏ trốn theo cộng sản, rồi tờ báo cũng đóng cửa luôn. Như đã nói, chính
sách của Việt Minh từ liên khu VI vào Nam không giống như từ liên khu V trở ra,
vì vậy thái độ chính trị của đồng bào ta ở hai nơi không giống nhau. Rất nhiều
bà con Nam phần ủng hộ cán bộ cộng sản cho đến 30-4-1975 để rồi sau đó thấy
mình bị gạt, lồng lên chửi rủa trước tai họa đã rồi. Cái khuynh hướng chính trị
của Nhân Loại không thích hợp với không khí ở Sài Gòn vào độ ấy. Duy Sơn Nam,
cũng như Bình Nguyên Lộc, suốt hai mươi năm trước 75 vẫn giữ sự dè dặt, không đề
cập đến chuyện chính trị.
Sơn Nam thì sau khi Nhân Loại chết (1958) lần lượt cộng tác với
nhiều tờ báo khác, thường khi nhật báo. Bình Nguyên Lộc cũng lấy việc làm nhật
báo làm sinh kế, trừ một thời gian ông đứng ra chủ trương tờ Vui Sống (1959), một
tạp chí văn nghệ, không thọ được mấy.
Cả hai vị không có chủ tâm kỳ thị, đối với bạn bè Trung Bắc rất
hòa nhã, thỉnh thoảng vẫn có bài đăng ở các tạp chí do người Bắc chủ trương.
Tuy nhiên phải nhận rằng thường thường các vị ấy vẫn làm việc với các báo của
người Nam. Cũng như đề tài trước tác thường rút ra từ khung cảnh xã hội Nam phần,
nhằm giới thiệu, tìm hiểu, nêu cao các đặc điểm của miền Nam. Dĩ nhiên, đó
không phải do đầu óc hẹp hòi, mà là do thói quen giao du, do tình thân thuộc,
do cái sở trường trong kiến thức của mình v.v...
Đại Học
Cũng lại trong năm 1958, ở Huế tờ Đại Học ra đời. Đó là tờ
báo của viện đại học Huế, nhưng ảnh hưởng của nó mạnh và rộng ra ngoài phạm vi
đại học. Nó không như những tập san nghiên cứu khác: tờ Văn Hóa Á Châu, Văn Hóa
Nguyệt San, tờ Quê Hương v.v... Tôi không có ý so sánh về giá trị, chỉ muốn nói
đến sức ảnh hưởng. Trên Đại Học, một giáo sư trẻ tuổi mới từ Âu châu về là Nguyễn
Văn Trung bắt đầu viết những bài tiểu luận triết học rất được giới thanh niên,
sinh viên và văn nghệ sĩ chú ý theo dõi.
Quốc gia, cộng sản, tư bản, Mác-xít, Khổng-Phật Đông phương,
tự do dân chủ Tây phương..., thanh niên đã ngột ngạt về những thứ ấy, họ mong đợi
một cái gì mới, một lối thoát nào đó... Một mong đợi mơ hồ mà khẩn cấp. Khao
khát triết lý, một khao khát thời đại. Ông Nguyễn đáp ứng đúng vào chỗ trông chờ
ấy. Ông được hoan nghênh. Các “nhận định” của ông, giới trẻ đọc, phổ biến, bàn
tán, suy luận... Và rồi đã xảy ra câu chuyện thi sĩ xóc lọ chữ của Duyên Anh,
văn sĩ xổ toàn những buồn nôn với phi lý trong bữa tiệc của Thụy Vũ.
Vả lại Nguyễn Văn Trung không chỉ viết về triết học, nhiều lần
ông quan tâm đến các vấn đề văn học. (Nhà xuất bản Nam Sơn in ba tập Lược khảo
văn học, và nhà xuất bản Tự Do sau này có in của ông cuốn Xây dựng tác phẩm tiểu
thuyết), cho nên càng dễ hiểu cái cảm tình của giới văn nghệ đối với ông lúc bấy
giờ.
Ngoài Nguyễn Văn Trung, trong nhóm Đại Học bấy giờ còn một
cây bút rất được giới trẻ mến chuộng, là Nguyễn Nam Châu, tác giả các cuốn Sứ mệnh
văn nghệ, Những nhà văn hóa mới v.v...
Trong cuốn thứ nhất, ông điểm qua tư tưởng từ Thích Ca,
Epictète, Epicure... cho đến Các Mác, J.P. Sartre, tố giác một khuynh hướng văn
hóa muốn từ chối các giá trị siêu linh, khiến thế giới lâm vào hỗn loạn, nêu
cao sứ mệnh cao cả của hoạt động văn nghệ. Trong cuốn Những nhà văn hóa mới,
ông giới thiệu một số tác giả tiêu biểu cho cái “luồng tư tưởng đang thành hình
trong thế giới hiện thời”: C.V. Gheorghiu, De Sica, Arthur Koestler, G.
Guareschi, V. Doudintsev, M. Djilas, E. Mounier, Gabriel Marcel, Charles Péguy,
St. Exupéry, Francoise Sagan...
Thanh niên, sinh viên đọc Nguyễn Văn Trung và Nguyễn Nam Châu
nhiều đến nỗi những danh từ như sứ mệnh, thân phận con người, tha hóa, ngụy tín
v.v... lan tràn khắp nơi, và câu văn của St. Exupéry: “Yêu không phải là nhìn
nhau nhưng là cùng nhìn về một hướng” được ai nấy nhắc nhở khi giỡn khi thật rất
rộng rãi.
Sau này, trong “Ngày Võ Phiến” tổ chức tại California vào hôm
14-9-1985 thi sĩ Nguyên Sa có một nhận định khái quát về văn học Miền Nam trước
tháng 5-1975. Theo ông “văn chương Miền Nam gồm bốn khối lớn: nhóm Sáng Tạo của
Mai Thảo, nhóm Đất Nước của Nguyễn Văn Trung, nhóm Bách Khoa của Võ Phiến, và
nhóm thứ tư gồm những nhà văn nhà thơ độc lập đi từ Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng,
đến Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Du Tử Lê.”[12]
Quả là “khối” Nguyễn Văn Trung có một tầm ảnh hưởng lớn. Cái ảnh
hưởng ấy bắt đầu từ trước tờ Đất Nước (số 1 xuất bản vào tháng 11, 1967), ngay
từ thời tờ Đại Học, mặc dù Nguyễn Văn Trung không phải là chủ nhiệm tờ báo này
(chủ nhiệm là Cao Văn Luận). Tờ Đại Học tiếp tục xuất bản cho tới năm 1964,
nhưng nó đã mất sức thu hút từ khi Nguyễn Văn Trung rời Huế vào Sài Gòn nhiều
năm trước.
Quan Điểm
Các tác giả trong nhóm Quan Điểm không bắt đầu đến với quần
chúng độc giả qua ngả báo chí. Rất ít khi họ xuất hiện trên mặt báo. Thế nhưng
sau 1954 các vị ấy có sách xuất bản sớm, và những sách ấy đã làm họ nổi tiếng
ngay: Đi tìm một căn bản tư tưởng (1956?) của Nghiêm Xuân Hồng, Thần tháp Rùa
(1957) của Vũ Khắc Khoan, Bốn Mươi (1957?) của Mặc Đỗ...
Nhóm Quan Điểm viết về đời sống của giới tiểu tư sản, nhất là
tiểu tư sản trí thức, và chủ trương một chế độ chính trị do giai cấp tiểu tư sản
lãnh đạo, tin tưởng ở sự thắng lợi của chủ trương ấy trong giai đoạn bấy giờ tại
Việt Nam. Lời văn trong sáng tác phẩm của họ thường khi trau chuốt, gọt dũa, cầu
kỳ. Nhân vật của họ sống kiêu kỳ, sành sõi, nói năng cao xa, ăn uống chọn lọc,
uống những thứ rượu ngon rượu quí, tửu lượng cao cách uống đẹp, lắm lúc có những
nhân vật chỉ xem nhau thưởng thức một ly rượu mà đánh giá người...
Những cái ấy có sức quyến rũ của nó. Người đọc vẫn mơ tưởng một
cảnh đời cao hơn đời sống của mình: cô nữ sinh trường làng trường huyện mơ ước
cuộc đời nữ sinh Đồng Khánh, Gia Long, mơ ước “cổng trường vôi tím”; các anh chị
thanh niên học sinh tỉnh lẻ say mê theo dõi câu chuyện về sinh viên thủ đô Sài
Gòn; các cô cậu học sinh, sinh viên Sài Gòn lấy làm thích thú đời sống lớp trí
thức du học Tây phương về, sành ăn sành mặc, vốn hiểu biết được cập nhật, theo
sát trào lưu tư tưởng mới nhất ở Âu Mỹ...
Mặt khác, sách Quan Điểm không trình bày như những sách báo ở
Sài Gòn trước 1954 mà Thanh Nam đã nói. Cũng không trình bày theo kiểu loại
sách phổ biến rộng, như sách của cơ sở xuất bản Tự Do. Nó đẹp cầu kỳ, trang
nhã. (Sau này, các nhà Lá Bối, An Tiêm, nhất là nhà Cảo Thơm nổi tiếng in sách
đẹp; các nhà Thời Mới, Sáng Tạo, đều có nét độc đáo; nhưng đây là chuyện về
sau; còn bìa báo Sáng Tạo, bìa sách Tự Do, Quan Điểm thuộc giai đoạn đầu.) Nói
chuyện sách đẹp sách xấu không phải là nói về vấn đề mua bán làm ăn, vấn đề
sách bán nhiều bán ít. Thực ra tôi nghĩ hình thức ấy với nội dung ấy của một số
sách báo sau 1954 cho người ta cái cảm tưởng về một lớp người tài hoa tinh tế
trong đời sống, đến từ một truyền thống văn hóa lâu dài, một trình độ nghệ thuật
cao. Đến sau những tác phẩm chân phương xuềnh xoàng về hình thức của lớp Vũ Anh
Khanh, Sơn Khanh v.v..., nó hấp dẫn lôi cuốn thành phần thanh niên học thức ở
thành thị, phần nào có phải vì đó chăng? Thứ văn phẩm này thắng thứ kia như thể
áo dài thắng áo bà ba, như thể phở thắng bún nước lèo v.v... vậy chăng?
Không thể nói ở những dân tộc trẻ văn nghệ không bằng ở những
dân tộc già, không thể nói ở chỗ cùng cư cô tịch không có bậc kỳ tài sánh kịp
các công tử nơi kinh kỳ; tuy nhiên cũng khó phủ nhận sức cám dỗ của một phong
cách chải chuốt, đài các. Đó là một yếu tố mới trong cái sinh hoạt văn nghệ ở
Miền Nam.
Chặng 1960 – 1963
Những công việc bỏ dở
Từ 1960 nhiều công cuộc bắt đầu sau 1954 đã bị bỏ dở. Trong lớp
tiền chiến có những kẻ bỏ cuộc. Việt Nam Bách khoa Từ điển của Đào Đăng Vỹ
không đi quá vần C[13],
những bộ văn học sử của Lê Văn Siêu, Hoàng Trọng Miên không tiến đến đời Trần;
nhóm Nhân Loại đóng cửa báo; Mai Thảo dẹp Sáng Tạo; Nhất Linh thôi làm Văn Hóa
Ngày Nay; Nguyễn Mạnh Côn thôi Chỉ Đạo, Nguyễn Hoạt không thấy sáng tác nữa;
Đinh Hùng, Hà Thượng Nhân không cười đều trên nhật báo nữa... Trong văn giới lớp
trước đã xảy ra một cái gì trục trặc.
Một lớp mới
Tuy vậy sinh hoạt văn học nghệ thuật không vì thế mà đình trệ.
Bên hội họa chính từ 1959 đến 1963 đã xuất hiện những Trịnh Cung, Cù Nguyễn,
Đinh Cường, Nghiêu Đề, Nguyễn Phương v.v... Trong ngành văn bấy giờ là giai đoạn
dồi dào nhất của Lê Tất Điều, Nhật Tiến, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn
v.v... Lê Tất Điều xuất bản Khởi hành năm 1961, sau đó liên tiếp nhiều cuốn
khác. Nguyễn Đình Toàn cho in Chị em Hải năm 1961, Mật đắng (thơ) năm 1962.
Dương Nghiễm Mậu ra sách muộn nhưng viết báo rất khỏe: trong năm 1963 ông cho
xuất bản Cũng đành và Gia tài người mẹ. Còn Nhật Tiến, lúc này là lúc ông cho
in liên tiếp Thềm hoang, Ánh sáng công viên, Chuyện bé Phượng v.v...
Về phía các nữ tác giả, ngoài những Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo,
Nhã Ca, một lớp mới bắt đầu: Túy Hồng đăng truyện ngắn trên tạp chí Văn Hữu, rồi
Bách Khoa, nổi tiếng nhanh chóng và cho xuất bản tập truyện đầu tiên (Thở dài)
năm 1963. Nguyễn Thị Thụy Vũ từ Vĩnh Long thỉnh thoảng gửi một truyện ngắn đăng
trên Bách Khoa (dưới bút hiệu Băng Lĩnh) khá lâu nhưng chưa được chú ý. Sang
giai đoạn sau 1963, cho xuất bản cuốn Mèo đêm dưới bút hiệu mới, bà liền được
hoan nghênh. Trùng Dương và Nguyễn Thị Hoàng lúc bấy giờ cũng xuất hiện trên
Bách Khoa, kẻ viết truyện ngắn (Trùng Dương) người truyện dài (Nguyễn Thị Hoàng
với Vòng tay học trò). Minh Đức Hoài Trinh trước vẫn có thơ đăng lai rai đây
đó, bây giờ dần dần có truyện ngắn, truyện dài, bút ký, rồi có sách do nhà Sáng
Tạo xuất bản.
Đến đây, giới nữ thành một... lực lượng. Chờ thêm ít năm bà
Nguyễn Thị Vinh tập hợp cái lực lượng đẹp đẽ ấy vào một cuốn sách: Mười hoa trổ
sắc. (Bấy giờ là một giai đoạn khác, có những hoa trổ ra sắc táo bạo.)
Trước 1963 chưa phải là thời kỳ của những liên hệ nam nữ táo
bạo. Bất quá chỉ đến như Vòng tay học trò là cùng. Thiên hạ còn đang bị cuốn
theo các cuộc đấu tranh, biểu tình, đầu óc căng thẳng vì những xáo trộn chính
trị, tôn giáo. Ở Huế, tạp chí Lập Trường chuyên hẳn về chính trị. Ở Sài Gòn từ
1962, tờ Văn Học, tuy là “văn học” nhưng không ngần ngại có thái độ chính trị
rõ rệt. Dương Kiền là cây bút nổi bật nhất trên tạp chí này.
Tiểu-thuyết-mới
Năm 1962 cơ sở Tự Do xuất bản cuốn Xây dựng tác phẩm tiểu
thuyết của Nguyễn Văn Trung, năm sau nhà Thời Mới in cuốn Tiểu thuyết hiện đại
của Võ Phiến, nói về phong trào tiểu-thuyết-mới ở Pháp. Trường phái văn học mới
này gây nhiều tò mò xao động nơi giới cầm bút ở Sài Gòn, nhưng rốt cuộc cũng
không có ảnh hưởng sâu xa. Trong tiểu thuyết Dương Nghiễm Mậu có một số kỹ thuật
mới được sử dụng? hoặc dùng độc thoại nội tâm, hoặc “tôi” lần lượt đồng hóa vào
nhiều nhân vật (Con sâu) v.v...? nhưng đây có phải là bằng chứng Dương Nghiễm Mậu
quả thực bắt chước tiểu thuyết Pháp (ông không phải là nhà văn có nhiều gần gũi
với văn học Âu Mỹ)?
Dù sao phải nhận rằng giới văn nghệ Sài Gòn tỏ ra nhạy cảm đối
với các tìm kiếm ở Âu châu và không tiếc công phu suy cứu: mãi sang giai đoạn
sau 1963, trên tạp chí Văn của Trần Phong Giao (ông Nguyễn Đình Vượng làm chủ
nhiệm nhưng người đích thực trông coi đường lối là Trần Phong Giao) vẫn còn những
bài khảo luận, những dịch phẩm liên quan đến phong trào tiểu-thuyết-mới. Và
chính vào lúc này mới xuất hiện những cây bút thực sự đi vào đường hướng tiểu-thuyết-mới:
Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Quốc Trụ, Huỳnh Phan Anh. Ông Huỳnh viết khảo luận, ông
Nguyễn có một số sáng tác ngắn, ông Hoàng Ngọc Biên thì ngoài vài thiên truyện
ngắn đăng trên tạp chí Trình Bày, đã có một tác phẩm do nhà Cảo Thơm xuất bản
(năm 1970), tức cuốn Đêm ngủ ở tỉnh.
Đặc điểm mỗi thế hệ
Vừa rồi chúng tôi có nói đến sự bỏ cuộc của một số người vào
cuối chặng đầu, đến tình trạng dở dang của một số dự định khởi công từ chặng đầu.
Nhưng sự phân biệt giữa hai chặng 54-59 và 60-63 không phải ở đó, ở lúc hăng
say khi chán nản. Sự khác nhau nằm trong nội dung sáng tác của hai thế hệ,
trong đường hướng, tinh thần của hai thế hệ tác giả.
Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến
v.v... mở đầu thời kỳ văn học sau Genève bằng những tác phẩm nặng về chính trị,
về vấn đề cộng sản và chống cộng sản. Sang chặng kế tiếp, trong thơ văn của những
Nguyễn Đình Toàn, Nhật Tiến, Lê Tất Điều, Nguyễn Thị Hoàng v.v... gần như tuyệt
nhiên không hề gặp bóng dáng những ưu tư ấy. Đến đây chúng ta trở về những đề
tài muôn thuở: tình yêu trai gái, cảnh khổ của giới nghèo, những éo le của kiếp
người v.v... Sáu năm sau Genève người ta bắt đầu quên Genève. Quên cái lý do
chia cắt đất nước làm hai miền, cái lý do của sự đối địch ruột thịt. Thế hệ mới
lại trở về cuộc sống bình thường.
Chữ “quên”thực ra không thích hợp. Nghe có vẻ như chê bai,
như trách móc. Trong khi ấy lớp tác giả sau 1960 không làm điều gì đáng trách.
Họ chỉ có thể viết về những đề tài chủ yếu của đời họ, về những điều xúc động
rung cảm họ. Những cái ấy không giống như những điều đã rung động tâm hồn lớp
tác giả trước. Hồi tháng 4-1966 tôi có dịp suy nghĩ về chuyện này; bây giờ xin
được ghi lại những chỗ còn thích hợp.
“Lớp trước[14] là
lớp mà tuổi đôi mươi gặp nhằm hồi kháng chiến. Đa số có lẽ chưa có tác phẩm xuất
sắc trong kháng chiến, nhưng trong kháng chiến họ đã sống những năm hào hùng nhất
cũng như những năm bi đát nhất của đời họ, họ đã trải qua những tình cảm thiết
tha sôi nổi nhất của đời họ. Hồi đó họ chưa viết, hoặc chưa có thì giờ (thì giờ
để lo đánh giặc, để tham gia chính trị), hoặc chưa có hoàn cảnh để viết, nhưng
cái tâm tình sẽ nuôi dưỡng các tác phẩm của họ sau này chính là đã thành hình từ
hồi đó. Một khi cuộc kháng chiến ngưng lại, họ về phía bên này, ào ra viết và mở
đầu, gây nên nền văn nghệ hậu chiến ở đây. Đây là hạng tuổi của Nguyễn Mạnh
Côn, Doãn Quốc Sỹ...
Lớp trẻ là cái lớp đạt tới tuổi trách nhiệm sau hiệp định
Genève. Hồi đình chiến họ mới mười lăm mười bảy, bây giờ họ ở giữa tuổi đôi
mươi và ba mươi, như Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nhật Tiến, Viên Linh,
Thế Uyên (...)
(...) Lớp người lớn lên trong kháng chiến thì tất cả cuộc sống
là chính trị. Dù họ là binh sĩ hay là cán bộ, họ làm nghề dạy học hay tính thuế
nông nghiệp, dù họ tham gia kháng chiến trong ngành hoạt động nào, ngày ngày
cũng phải suy cứu về chủ thuyết chính trị. Ở bên phía đó, lập trường là cực kỳ
quan trọng. Mỗi hành vi, mỗi lời nói, mỗi chữ viết phải cân nhắc thận trọng. Cuộc
kháng chiến, nhất là chế độ chính trị bên phía kháng chiến, đòi hỏi phải được
hưởng ứng với tất cả tâm hồn. Hiến cho kháng chiến một thân xác để có thể gục
ngã ở chiến trường, chưa đủ. Thân xác ấy phải được thường xuyên kích động bởi một
niềm say mê.
Bởi hưởng ứng với tất cả nhiệt tình, cho nên đến một ngày nào
đó nếu họ phản đối thì cuộc phản đối cũng diễn ra trong quằn quại, đau đớn. Rời
bỏ chiến khu, bưng biền, để về thành, rời miền Bắc để di cư vào Nam, đó không
phải là cuộc xê dịch trong không gian, đó là từ bỏ cả một quan niệm sống, một nề
nếp suy nghĩ cảm xúc, là phủ nhận hết những hoạt động hăng say, hết mọi hi vọng
của thời hoa niên của mình. Sự chọn lựa về thành, vào Nam, là cái gì rất hệ trọng
trong đời sống tinh thần của lớp người vừa nói, biến cố ấy sẽ để lại dấu tích
không thể phai nhòa trong đời họ. Ignazio Silone sau khi từ bỏ đảng cộng sản Ý
đã có lần viết: ‘Trong bao nhiêu năm ròng rã, ý tưởng đó thấm thía vào tâm hồn
tôi. Đến ngày nay, tôi vẫn còn nghiền ngẫm để cố hiểu hơn. Tôi không chắc rằng
tôi đã đáo cùng kỳ lý, song sự thật là thế này: ngày mà tôi từ giã đảng cộng sản,
tôi rất buồn rầu. Ngày đó là một ngày tang tóc cho quãng đời niên thiếu hoài
phí của tôi. Thoát ly một kinh nghiệm sâu sắc như tổ chức bí mật của cộng sản
đâu phải là một việc dễ dàng. Trong tính tình, suốt đời vẫn còn vấn vương di
tích. Thực ra, người ta có thể nhận ngay được một người đã theo cộng sản. Họ là
một người riêng biệt, như là các nhà tu hành qui tục, hay những viên cựu sĩ
quan nhà nghề.’ Kháng chiến chưa phải là cộng sản, nhưng những người, những văn
nghệ sĩ đã sống bên kháng chiến đều nhận thấy rõ ý thức hệ nào đang chỉ đạo cuộc
sống của mình. Và tâm trạng Ignazio Silone bỏ đảng với tâm trạng của người trí
thức Việt Nam rời bỏ hàng ngũ kháng chiến có nhiều chỗ giống nhau.
Về phía bên này rồi, những kẻ ly khai vẫn không ngớt bị ám ảnh:
họ ngoái nhìn lại cái dĩ vãng đầy sôi nổi của mình, họ tìm tòi suy cứu về lý
thuyết, về sự thực trong chế độ bên này và bên kia, để đi tới kết luận rằng
mình hữu lý, mình đã hành động hợp lẽ. Rốt cuộc, càng ngày họ càng có nhiều lý
lẽ để thâm thù, để chống lại bên kia. Chỉ có những kẻ không chọn lựa mới thờ ơ;
còn họ, sự chọn lựa đau đớn làm cho họ bám chặt lấy lẽ phải của mình. Vẫn I.
Silone đã nói đùa với Togliatti: ‘Cuộc tranh đấu cuối cùng sẽ là cuộc tranh đấu
giữa đảng viên cộng sản và những người cộng sản cũ.’ Trước 1954, bên này đánh
nhau với bên cộng sản bằng bom đạn tơi bời mà không có một thành tích văn nghệ
chống cộng. Trái lại, phải chờ tiếng súng ngưng lại, khi ta có lớp người từ
phía bên cộng sản về, khi ấy mới có phong trào chống cộng trong văn nghệ. Và
phong trào ấy chắc chắn là đặc điểm nổi bật nhất của thế hệ văn nghệ hãy gọi là
trung niên[15],
thế hệ trưởng thành trong kháng chiến mà khai bút sau ngày đình chiến.
(...) Những anh em trẻ[16],
có người ở bên phía kháng chiến theo gia đình về, có người lớn lên trong các đô
thị ở phía bên này; nhưng dù sao cái việc hiện thời họ có mặt ở bên này vĩ tuyến
17 không phải là việc do tự họ chọn lựa. Họ không chọn lựa chế độ, họ không phải
băn khoăn nhiều về chỗ ấy; bởi vậy vấn đề chủ yếu đối với họ không phải là vấn
đề đã ám ảnh gần trọn sự nghiệp trước tác của Nguyễn Mạnh Côn chẳng hạn. Vả lại,
dù trước đây họ có sống bên phía cộng sản chăng, thì họ cũng nhìn xã hội bên ấy
với đôi mắt trẻ thơ, họ đâu có đi sâu vào những thủ đoạn tàn ác, những âm mưu
đen tối bần tiện chỉ có ‘người lớn’ biết với nhau! Họ không thể nối tiếng tiếp
lời lớp trước kề họ; nếu nói theo, họ sẽ nói yếu đuối hơn.”[17]
Như thế, một cái nhìn tổng quát vào giai đoạn 1954-63 cho thấy
thoạt tiên là một niềm tin tưởng lạc quan bồng bột, là thời chủ động của một lớp
trung niên đã từng lăn lóc trong kháng chiến, họ xông ra với hoài bão chính trị,
với chủ trương dấn thân; về sau một lớp trẻ tuổi tài hoa và đông đảo, xuất hiện
trên cả các ngành văn lẫn họa, họ không còn mấy bận tâm về chính trị, chỉ mải
miết đi vào nghệ thuật: thoạt tiên là một loạt nam nhân với những ưu tư về thời
thế, về sau dần dà thấp thoáng một số nữ sĩ với những mối tình mỗi lúc một thêm
táo bạo... Người ta có cảm tưởng không khí ban đầu quả tưng bừng hào hứng nhưng
hơi căng thẳng; về sau trở nên yên hòa thoải mái, nhưng lại có phần trễ nãi
buông thả.
_________________________
[1]Sáng
Tạo, Sài Gòn, số 1, tháng 10-1956.
[2]Vấn
Đề, Sài Gòn, số tháng 5-1968.
[3]Nguyễn
Mộng Giác, ‘Điểm qua các cây bút nữ trong văn học hiện đại’.
[4]Thư
đề ngày 29-9-1982.
[5]Mai
Thảo, ‘Đứng về phía những cái mới’, Tuyển truyện Sáng Tạo, Sống Mới tái bản tại
Hoa Kỳ, các trang 8, 11, 13.
[6]Sđd.
[7]Sđd.
[8]Sđd,
trang 12.
[9]Sđd,
trang 11.
[10]Nguyễn
Nam Anh, ‘Mai Thảo, nhà văn ở phút nói thật’, tạp chí Văn, Sài Gòn, số 192, ra
ngày 15-12-1971.
[11]Nhất
Linh, Viết và đọc tiểu thuyết, Đời Nay xuất bản, 1969, trang 78.
[12]Tạp
chí Đời, California, số 37, tháng 10-1985, trang 10.
[13]Cho
đến năm 1961 đã xuất bản 3 tập, độ 250 trang mỗi tập, vừa tới Ch (chưa xong vần
C).
[14]Nguyên
văn: “lớp trung niên”.
[15]Xin
hiểu là thế hệ 54-59.
[16]Tức
lớp tác giả từ 1960 về sau.
[17]Xem
‘Từng lớp cách nhau’ của Võ Phiến, trong Tạp luận, Trí Đăng xuất bản, Sài Gòn
1973, trang 227-233.
Phần 14
bối cảnh
Sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, Việt Nam tiếp tục tồn tại hơn
mười năm trong những điều kiện khó khăn: tình hình chính trị lắm lúc rất bất ổn:
kinh tế suy sụp, vật giá tăng cao; bất công xã hội thêm trầm trọng; chiến tranh
mỗi ngày mỗi ác liệt, gây thiệt hại lớn lao, gây xao xuyến hoang mang trong dân
chúng; quân đội Hoa Kỳ tham chiến đông đảo, làm đảo lộn nếp sống địa phương,
làm tổn thương tự ái dân tộc v.v...
Chính trị bất ổn
Trước ngày chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Phật giáo đã thành
một lực lượng mạnh mẽ. Sau ngày 1-11-63, phong trào Phật giáo càng có thế lớn,
trở nên một áp lực trên chính quyền. Công giáo cũng cố gắng phát huy thế lực. Sự
chia rẽ có lúc thật sâu xa.
Chia rẽ chính trị, chia rẽ tôn giáo, sự hoạt động của cán bộ
cộng sản xâm nhập trong cơ quan nhà nước, trong hàng ngũ sinh viên, trong các tổ
chức quần chúng v.v... làm cho Miền Nam sống những ngày hết sức hỗn loạn. Các
tướng tá đảo chánh, phản đảo chánh, chỉnh lý v.v... liên tiếp. Trong vòng hai
năm, xảy ra mười ba cuộc chính biến. Hết Dương Văn Minh làm “cách mạng” đến
Nguyễn Khánh chỉnh lý. Rồi Nguyễn Chánh Thi, Lâm Văn Phát, rồi Phạm Ngọc Thảo,
Nguyễn Cao Kỳ v.v..., cứ cách dăm ba tuần, đôi ba tháng lại nghe rục rịch có
chuyện khuynh đảo nhau: sư đoàn này kéo về Sài Gòn, đại đội nọ chiếm đài phát
thanh. Các chính khách bấy lâu bất bình với chế độ Ngô Đình Diệm, hoặc vẫn ở
trong nước hoặc từ nước ngoài về, lần lượt thay nhau lập chính phủ: Phan Khắc Sửu,
Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Nguyễn Tôn Hoàn v.v... Chính phủ nào cũng “không
đáp ứng được nguyện vọng người dân”, cũng bị công kích trên báo chí, đả đảo
ngoài đường phố.
Tình trạng ấy làm cho ở các đô thị lớn ai nấy luôn luôn thấp
thỏm, bất an, gian thương thừa nước đục hoành hành, đến nỗi phải dựng pháp trường
cát ở chợ Bến Thành để đối phó; ở thôn quê thì cộng sản thừa cơ hội xông lên; ấp
chiến lược bị xóa bỏ, cán bộ cơ sở bị sát hại bỏ chạy lên quận lên tỉnh trốn
tránh...
Mãi đến tháng 2-1965, khi Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia được thành
lập, tháng 4-65 khi hiến pháp mới ra đời khai sinh nền đệ nhị cộng hòa, tình
hình mới êm thấm dần. Nguyễn Văn Thiệu ít ra đã ổn định được tình thế.
Mặc dù vậy, mặc dù đảo chánh chỉnh lý có ngừng, những chuyện
Phật giáo xuống đường, bày bàn thờ ra đường, sinh viên bãi khóa, không ngủ, đốt
xe, phụ nữ đòi quyền sống v.v..., những chuyện như thế cứ tiếp tục đều đều cho
đến ngày cộng sản vào kéo cờ trước dinh Độc Lập.
Chiến tranh gia trọng
Trước tình trạng rối loạn của Miền Nam, tất nhiên Hà Nội
không thể cầm lòng được: họ gia tăng xâm nhập, gia tăng đánh phá, bất chấp sự
đe dọa hăm he của Hoa Kỳ. Họ biết tâm lý của quần chúng Mỹ, của quần chúng các
nước dân chủ Tây phương. Họ đã từng thắng Pháp tại Pháp, rồi họ cũng có thể thắng
Mỹ ngay tại Mỹ, cứ kéo dài chiến cuộc làm cho dân Pháp dân Mỹ chán ngán, phản
chiến nổi lên, chính giới lục đục, quốc hội bị áp lực của dư luận cắt ngân
sách, đòi rút quân, thế là xong. Về phía cộng sản, trong nước họ không có dư luận,
quốc hội của họ không quan tâm đến ý dân, giới lãnh đạo của họ được hoàn toàn tự
do quyết định. Vì thế họ không ngại leo thang chiến cuộc, bất cứ leo tới đâu.
Tháng 8-64, sau vụ tàu Maddox bị tấn công, Mỹ oanh tạc Miền Bắc,
trực tiếp nhảy vào vòng chiến. Sau đó Miền Bắc đánh vào các trại cố vấn, các cư
xá sĩ quan Mỹ; tháng 3-65, thủy quân lục chiến Mỹ bắt đầu đổ bộ lên Đà Nẵng; sự
tham dự tiến thêm một bước nữa. Miền Bắc lại đưa sư đoàn 325, đưa quân đội
chính qui vào Nam; Mỹ gia tăng quân số, gia tăng oanh tạc: năm 1966 lính Mỹ ở
Miền Nam lên đến 400.000, phi cơ Mỹ thả bom cả các kho dầu tại Hải Phòng, Hà Nội...
Sang năm 1967, quân số Mỹ tại Miền Nam lên đến hơn 670 nghìn. Đầu năm 1968 Miền
Bắc mở cuộc tấn công nhân dịp tết, hi sinh ngót nửa quân số, đánh khắp các tỉnh
lỵ và thành phố lớn để gây tiếng vang đến tận Mỹ. Sau vụ tết Mậu Thân, lại một
vụ Mùa Hè Đỏ Lửa, quân Miền Bắc vượt giới tuyến tràn vào, đổ từ mật khu bên
Miên sang Bình Long, An Lộc...
Mặc dù cho đến trước mùa xuân 1975, trước khi bị Hoa Kỳ bỏ
rơi, Miền Nam đã bẻ gãy được mọi cuộc tấn công của Miền Bắc với sự tổn thất thấp
hơn tổn thất của đối phương rất nhiều, mặc dù vậy trải qua những chiến trận bạo
tàn, Miền Nam — nhất là ở miền quê — thật đã điêu linh. Cảnh tàn phá, chết chóc
phơi bày khắp nơi.
Kinh tế suy sụp
Dù được Mỹ viện trợ, Miền Nam cũng lâm cảnh túng thiếu: không
thể nào không túng thiếu khi bị kẹt vào một cuộc chiến tranh dằng dai và qui mô
như thế.
Năm 1970, trong số công chi của chính phủ 197 tỷ bạc thì đã
có 164 tỷ dành cho quốc phòng. Năm 1972 trong số công chi 360 tỷ, thì 270 tỷ
cho quốc phòng.
Ngoài ra, còn bao nhiêu là ruộng đất bỏ hoang ở những vùng mất
an ninh, bao nhiêu là miệng ăn phải nuôi, là gia đình phải săn sóc, cấp chỗ tạm
trú, vì bỏ xóm làng ra đi lánh cư trốn cộng sản v.v... Vào Mùa Hè Đỏ Lửa, Dương
Nghiễm Mậu gặp đại tá Hòa, tỉnh trưởng Quảng Trị, đang loanh quanh giữa các lều
trại tị nạn Hòa Khánh gần Đà Nẵng. Ông đại tá buồn rầu kể với nhà văn: dân số
Quảng Trị hơn ba trăm ngàn, bị kẹt lại chừng năm chục ngàn. Hai trăm năm chục
ngàn trôi giạt đâu đó từ Thừa Thiên trở vào, phần lớn tự phó thác vào sự trợ cấp
của chính phủ.[1]
Ở nông thôn, tiếp tục chính sách cải cách điền địa của đệ nhất
cộng hòa, năm 1970 chính phủ Nguyễn Văn Thiệu lại ban hành sắc luật số 3 về
chương trình Người Cày Có Ruộng. Muộn quá rồi: Nông thôn bấy giờ đã trống rỗng
không phải vì bất công mà là vì tình hình an ninh sa sút, chẳng còn được mấy
nông dân để ta “tranh thủ” nữa. Duy nơi nào có an ninh thì đời sống nông dân
khác hẳn ra, nhờ sử dụng các nông cụ cơ giới sản xuất ngay tại trong nước: ở một
tỉnh An Giang đã dùng 25.000 máy cày, có thứ lớn đến 80 mã lực. Máy bơm nước
vào ruộng thì phổ biến khắp nơi.
Ở thành thị, vì nhà nước chi nhiều thu ít nên phần thì in ra
nhiều bạc phần phát hành thêm công khố phiếu mãi, khiến đồng bạc mất giá rất
nhanh (trung bình mỗi năm 30%): Quân nhân và công chức, những thành phần chủ yếu
của bộ máy nhà nước, bị khốn đốn vì đồng lương cố định. Chính quyền cố gắng giải
quyết tình thế: tháng 3-1971, bộ Kinh tế thi hành 7 biện pháp cấp thời, tháng
11-1971 lại tung ra 9 biện pháp nữa. Những biện pháp “cách mạng kinh tế” mùa
xuân và mùa thu năm 1971 nhằm tăng thu cho ngân sách và tăng lương bổng cho
quân nhân công chức. Hậu quả trái với ước định: sau đó vật giá càng tăng vụt
lên, đời sống càng khó khăn.
Vào những năm cuối cùng của chế độ, người ta kể nhiều mẩu
chuyện bi đát. Có những thầy giáo ngoài giờ dạy ở trường về lại phải làm các
nghề phụ: đi kèm trẻ, lái xe ôm, đạp xe ba gác, phụ thợ hồ; có những đám vợ con
của lính nheo nhóc thảm thương trong khi chồng đi trận v.v...
Tuy vậy không phải không có những ngành hoạt động kinh tế
phát triển khả quan: ngư nghiệp, chăn nuôi chẳng hạn. Về ngư nghiệp, tổng số
tàu đánh cá tăng từ 53.000 tấn trong năm 1963 lên 81.000 tấn vào năm 1970, nhiều
kho cá đông lạnh được xây dựng ở các ngư cảng Sài Gòn, Hà Tiên, Bình Thuận
v.v...; kỹ nghệ làm cá tôm đông lạnh để xuất cảng được phát triển nhanh. Về
chăn nuôi, vào những năm sau 1970, thực phẩm cho gia súc được nhập cảng nhiều để
khuyến khích nuôi gia súc, cho nên dân chúng các đô thị đã đủ thịt ăn, không phải
nhập cảng thịt đông lạnh như trước.
Chiến tranh làm ngưng mọi đầu tư kinh doanh. Dù sắc luật
004/72 của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã thêm nhiều dễ dãi cho các nhà tư bản
ngoại quốc để khuyến khích họ bỏ vốn vào Việt Nam, nhưng rất ít người hưởng ứng.
Thậm chí các nhà tư bản trong nước cũng chẳng mấy ai sốt sắng bỏ tiền ra kinh
doanh: họ ngại ngùng, chỉ lo tìm cách chuyển tiền ra ngoại quốc, hay ít ra cũng
giữ tiền lại trong ngân hàng để kiếm lời một cách chắc chắn.
Xã hội sa đọa
Mặt khác chiến tranh tạo ra tình trạng rối ren hỗn loạn ở nhiều
nơi, tình trạng thuận lợi cho sự hoành hành nhũng lạm của các cấp hành chánh,
quân sự: nào hối lộ, buôn lậu, nào lính ma lính kiểng, chợ đen chợ đỏ v.v...
Chính phủ mãi lo đối phó với những tấn công liên tiếp, những quấy phá liên miên
của cộng sản, không còn đâu đủ thì giờ, đủ người để giải quyết các tệ nạn kia.
Sự bất mãn của dân chúng mỗi lúc mỗi trầm trọng.
Sự hiện diện của người Mỹ
Một yếu tố quan trọng khác trong tình hình Miền Nam ở giai đoạn
này là sự hiện diện của người Mỹ.
Quân đội Mỹ chiến đấu trên nước ta lúc đã quá nửa triệu người;
ngoài ra lại còn những nhân viên ngoại giao, kinh tế, những nhà thầu xây cất,
làm đường sá cầu cống... Người Mỹ đem theo tiền Mỹ, lối sống Mỹ, văn hóa phẩm Mỹ
v.v... đó là đầu mối cho nhiều thay đổi sâu xa trong xã hội Miền Nam.
Hàng năm người Mỹ chi tiêu ở Việt Nam hàng trăm tỉ mỹ kim (chẳng
hạn năm 1966 là 74 tỉ, năm 1967 là 90 tỉ v.v...), gồm tiền ăn xài của quân
nhân, tiền chi phí lương bổng của các hãng thầu v.v... Một đồng mỹ kim đã có
lúc ăn đến 4,5 trăm bạc Việt Nam. Thành thử những người làm việc cho Mỹ, giao dịch
với Mỹ, kinh doanh liên quan với Mỹ được hưởng những khoản lương, khoản thu quá
lớn, so với các thành phần khác trong xã hội ta. Mức chênh lệch quá đáng ấy làm
rộng thêm sự cách biệt giai cấp, làm chua chát thêm lòng người, kích thích thêm
óc bài ngoại của đồng bào ta. Nếp sống của đám quân nhân Mỹ, xa nhà và dư dật,
lại làm phát triển những tổ chức ăn chơi: phong trà ca nhạc, đĩ điếm, gái nhảy...,
làm lan tràn nạn hút xách, cao-bồi v.v... Và dĩ nhiên người Mỹ phải xem sách Mỹ,
nghe nhạc Mỹ: sự phổ biến mạnh mẽ các sản phẩm văn hóa ấy khiến người Việt Nam
nghĩ đến một sức uy hiếp, lo ngại một hiện tượng vong bản.
Vai trò của Phật giáo
Trong giai đoạn sau 1963, một sự kiện nữa cũng không thể bỏ
qua: là vai trò của Phật giáo bỗng nổi bật hẳn lên trong đời sống của xã hội Miền
Nam.
Chế độ đệ nhất cộng hòa có thi hành giáo trị hay không giáo
trị, điều ấy hãy để sang một bên. Chỉ biết dưới chế độ ấy Công giáo là một thế
lực bên cạnh chính quyền và Công giáo phát triển mạnh: số người theo Công giáo
tăng nhanh; số người dựa vào Công giáo để xuất hiện, để thành công, cũng lắm;
các cơ sở văn hóa (trường học, báo chí...) của Công giáo phát triển rộng; nhiều
học giả văn nhân phát huy tư tưởng Công giáo và gây ảnh hưởng đáng kể...
Sự thể khác hẳn sau 1963. Lúc bấy giờ Phật giáo vượt lên
thành một thế lực quần chúng, một thế lực chính trị, và một thế lực văn hóa mạnh
mẽ. Thế lực Phật giáo có lúc được phát huy một cách ồn ào, dữ dội, phát huy
trong náo loạn kinh động. Chùa chiền mọc thêm khắp nơi; chính khách lui tới thiền
môn dập dìu; biểu tình, tuyệt thực... diễn ra đều đều. Một câu tục ngữ chua
chát độ ấy xếp các sư lên hàng thứ nhì và các tướng lãnh xuống mãi hàng thứ tư
trong bảng xếp hạng bốn nhân vật của thời thế.
Những khía cạnh tích cực của phong trào Phật giáo cũng nhiều: hiếm có thời nào ở ta sự tìm hiểu về cái hay cái đẹp của Phật giáo được tiến hành nhiệt thành như lúc này.
Chú thích:
[1] Dương
Nghiễm Mậu, ‘Quảng Trị, đất đợi về’, trong tập Những ngày dài trên quê hương, tủ
sách Văn Nghệ Dân Tộc xuất bản, Sài Gòn, 1972, trang 18.
7/1999
Võ Phiến
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét