Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2025
Chia tay ý thức hệ
Phần 1
Trước cảnh đổ vỡ ý thức hệ, một số nhà lý luận Mác xít thức
thời nhất đã chịu lùi tới cỡ này. Cứ cho mọi điều đã nói là sai hết đi, thì
Mác-Lê vẫn còn để lại cho nhân loại một tài sản tư tưởng vô giá là phương pháp
luận Mác xít-Lêninnít. Tôi thấy nên nhận thức lại rằng: Cứ cho mọi điều Mác-Lê
đã nói là đúng hết đi (để khỏi cần kiểm tra) thì vẫn còn một sai lầm không thể
chối cãi là sai lầm về phương pháp luận!. (Trước khi trình bày những nội dung
tôi xin phép được lưu ý người đọc mấy điểm: - Việc phân tích Mác-Lênin của tôi
dù triệt để đến đâu cũng không nhằm mục đích đánh đổ Mác-Lênin, vì tôi hiểu
trên nhận thức toàn nhân loại thì Mác-Lê là cái đã đổ rồi. Vả lại lý luận mà
lúc nào cũng nhằm để phục vụ chính trị thì không còn tỉnh táo để thấy quy luật
khách quan, lý luận ấy có thể phục vụ một sự nghiệp chính trị nào đó rất đắc lực
nhưng dùng xong người ta vứt nó đi. Bởi vậy việc phân tích Mác-Lê hoặc phân
tích Khổng Mạnh hay các tôn giáo ở đây chỉ nhằm lấy cái điểm tựa để trình bày
những tư duy mới. Vì mục đích ấy, chưa cần tách bạn Mác với Ăng-ghen, Lênin,
Xtalin... hay những người khác, khi ta đã biết tất cả vẫn thuộc một dòng, và sự
chuyển hóa từ người nọ sang người kia, về cả những điều kế thừa và sai biệt, đều
là hệ quả tất yếu của cái gốc ban đầu. Mặt khác do tính không nhất quan trọng hệ
lý luận Mác xít nên khi khảo sát một nguyên lý cũng không cần, và không nên động
vào đó tất cả những biện giải về sau thiên kinh vạn quyển, xuôi ngược đủ màu,
có tính chất chữa cháy, có khi chống lại chính nguyên lý đó. Các nhà lý luận
Mác xít thường cứng nhắc, không cho ai cựa quậy ra ngoài khuôn mẫu, nhưng khi ở
thế bị phê phán thì lại viện dẫn từ trong chủ nghĩa của mình tính linh động mềm
đến mức có thể uốn được. Chúng ta sẵn sàng linh động nên chỉ xoay quanh cái gốc
nguyên lý thôi. Nếu cái nguyên lý cũng linh động nốt thì còn gì nữa mà lý luận.
Trước hết, chúng ta cần nhận biết thế nào là đúng, thế nào là sai. Còn cái sai
đúng ấy thuộc về ai, đó là công việc các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng và
chính trị chuyên nghiệp. Tuy về nội dung, không tán thành thứ triết học thực dụng
nhưng trong cách trình bày, trừ phần Vật chất và ý thức vẫn còn dài, nói chung
tôi giữ cách viết vắn tắt: HI và ĐP. Khi tìm quy luật khách quan, người khoa học
không được định hướng trước theo ý muốn của nhà chính trị. Nhưng khi nhận thức
khách quan ấy đã đi đến kết luận rồi, thì người khoa học cũng như mọi người
khác hoàn toàn có quyền ứng dụng kết luận Khoa học ấy vào thực tế đời sống,
trong đó có đời sống chính trị, mà không sợ mâu thuẫn với tính khoa học khách
quan. Có làm được cả hai điều ấy hay không là tùy thuộc khả năng phân thân của
người khoa học. Tôi đã cố gắng và tự tin vào khả năng phân thân ấy của mình,
còn kết quả đến đâu xin người đọc phân xét. Trước hết hãy đẩy nhận thức tới tận
cùng xem chân lý ra sao, chân lý không thể uốn. Sau đó ứng xử với thực tế thế
nào lại là chuyện mềm dẻo. Không sợ nhận thức rành mạch thì thái độ sẽ cực
đoan. Trái lại có hiểu thấu đáo mới tránh được cực đoan và tùy tiện. Mục đích
bài viết của tôi trước hết là trình bày nhận thức. Mong muốn dùng nhận thức ấy
để làm tốt xã hội trước mắt lại là chuyện sau. Nếu chỉ nhằm những mục tiêu thực
tế trước mắt ấy thì không ai dại dột đi theo con đường dài dòng từ vật chất và
ý thức trở đi làm gì cho mất thì giờ vô ích. Con đường kinh tế và chính trị
nhanh gọn hơn nhiều!) 1) HỏI: Nên đánh giá khái quát thế nào về phương pháp luận
Mác xít? ĐáP: So với những dòng triết học Duy tâm và Siêu hình trước đây thì
quan điểm Duy vật Biện chứng hiển nhiên là hướng triết học tiến bộ xét cả vế
tính khoa học, tính nhân bản và tính thực tiễn. Trong đó đâu là phần Mác kế thừa,
đâu là phần Mác sáng tạo, đâu là điểm thống nhất và sai biệt giữa Mác-Ăng
ghen... đều đã được nghiên cứu khá đầy đủ. Điều cần nói là: Ngay trong cái gốc
Duy vật và Biện chứng Mácxít rất tiến bộ ấy đã có nhữữg kẽ hở mang mầu sắc phân
tích cực đoan, duy tâm chủ quan, tách rờ, máy móc, mà quan niệm vật chất và ý
thức là một ví dụ điển hình. Càng đem vận dụng thì cái khuyết điểm ấy cứ lớn
mãi ra, từ chỗ tưởng như vô hại đến chỗ trở nên trầm trọng không cứu vãn được nữa.
Cái tiến bộ khi xưa nay không còn tiến bộ. Người đầu tiên chịu tác hại của khuyết
điểm ấy chính là Mác và Ăng - ghen, khi các ông phát triển tinh thần duy vật và
biện chứng của mình vào xã hội để hình thành nên phương pháp luận duy vật lịch
sử. Có thể nói Duy vật lịch sử đã phân lai duy vật biện chứng. Duy vật biện chứng
về cơ bản là tích cực, duy vật lịch sử về cơ bản là tiêu cực. Trên đà trượt ấy,
những người Mácxít về sau đã rơi tuột vào một cõi vừa duy tâm giáo điều vừa duy
vật thực dụng, lại mang thêm hội chứng thần kinh phân lập và phát xít. Càng về
sau triết học Mácxít càng chìm sâu vào con đường chính trị hóa, đại chúng hóa
và tôn giáo hóa. Tha hóa đến nỗi không còn là triết học. Về mặt chính trị thì
chủ nghĩa Mác đã chịu các quá trình Lênin hóa, Xtalin hóa, Mao hóa... và Việt
Nam hóa nữa. Một nhà Mác học than phiền với tôi rằng chỉ tại người ta không
trung thành với lý thuyết của Mác. Tôi nói: Ngay cả Mác cũng không thể trung
thành với một lý thuyết như thế. Lý thuyết ấy như một cô gái cực đẹp nhưng lẩn
thẩn, chắc chắn sẽ được người ta vồ lấy và tất yếu sau đó là sự phản bội. 2) HỏI:
Nghĩ gì về phạm trù vật chất và ý thức? ĐáP: Đây là vấn đề cơ bản của triết học
mà các triết gia vẫn dùng để phân biệt triết học duy vật với triết học duy tâm.
Các triết gia Mácxít cho mình là đúng khi khẳng định Vật chất là cái có trước,
ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định ý thức. Vật chất phản ánh vào ý thức,
sau đó ý thức tác động trở lại vào thế giới vật chất... v... v. Triết học ngày
nay còn phải thảo luận tiếp tục về vấn đề quan niệm này. Quan niệm ấy rõ ràng vẽ
ra hai thế giới. Càng phản ánh vào nhau, càng tác động vào nhau mãnh liệt bao
nhiêu, cái thế giới thứ nhất càng quyết định cái thế giới thứ hai bao nhiêu thì
điều ấy càng khẳng định đó là hai chứ không phải là một! Tin vào sự tồn tại vững
chắc của cái cặp vật chất và ý thức ấy các ông đã dùng cái này làm chỗ dựa để định
nghĩa cái kia một cách lẩn quẩn: ý thức của con người là cái tồn tại (tức vật
chất) được ý thức, còn cái vật chất (tức tồn tại) kia thì chính là cái thực tại
khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh.... Như vậy,
nói cho dễ hiểu thì ý thức là cái vật chất đã được phản ánh vào trong đầu óc
con người, còn vật chất thì là cái tồn tại bên ngoài mà ý thức đã phản ánh. Sự
phản ánh ấy ngày càng tiểm cẩn với sự thật. Tinh thần cơ bản của phản ánh luận
Mácxít là vậy. Cứ song song như một người thật và cái bóng của hắn ta trên tường.
Bóng là cái hình của hắn in vào tường, còn hắn là cái bản thể mà cái bóng kia
phản ánh. Han ta có trước, cái bóng có sau, hắn quyết định cái bóng của hắn v.v... (chỉ có điều khác là cái bóng ở đây là ý thức thì nó năng động, nó có thể
vươn ra khỏi tường và tu sửa lại hình dung của hắn ta). Phạm trù về cái cặp ý
thức và vật chất ấy bắt nguồn từ một ý niệm rất rành mạch nhưng rất sơ khai khi
ta phân biệt cái bên trong với cái bên ngoài, phân biệt cái ta với cái khác ta,
phân biệt con người có ý thức với cái thế giới vật chất vô ý thức, phân biệt chủ
thể nhận thức với đối tượng bị nhận thức, phân biệt vật chất với tính thần,
phân biệt quy luật khách quan với ý chí chủ quan. Trong trực cảm, tất cả những
ranh giới ấy tồn tại hiển nhiên đến mức chẳng cần bàn cãi, song thực ra tất cả
những ranh giới đó là vớ vẩn cả, khẽ nhích vấn đề sang một bình diện khác lập tức
những ranh giới ấy biến mất. Nếu đã hiểu thuộc tính quan trọng nhất của ý thức
là tính phản ánh và tính tác động thì phải biết rằng thuộc tính ấy là của vật
chất nói chung, biểu hiện ở tất cả mọi mức độ từ thấp lên cao. Cục sắt và thanh
nam châm, vật nọ phát tín hiệu và phản ánh vào vật kia và tác động trở lại vào
vật kia. Giữa phân tử ôxy và hydro cũng như vậy... chúng nhận thức lẫn nhau và
tác động lẫn nhau. Đã đành quan hệ ấy còn rất đơn giản nhưng từ cái đơn giản ấy
đến ý thức của con người đã có vô vàn mức độ tiến hóa trung gian nối liền lại.
Không thể tách ý thức của con người ra khỏi khả năng phản ánh và tác động của
thế giới vật chất nói chung. Không phải đến con người thì cái ý thức thiêng
liêng ấy mới đột nhiên xuất hiện. ý thức không phải là chuyện riêng của thế giới
con người (nếu mang nghĩa hẹp ấy thì nó chỉ tương ứng với quy mô xã hội thôi,
sao có thể đem đọ với quy mô vật chất được?) ý thức tinh thần chính là thuộc
tính chung của thế giới vật chất. Không thể có cái thứ vật chất không có tinh
thần, cũng không có cái thứ tinh thần ngoài vật chất: Tách thành vật chất và
tinh thần để rồi cho rằng cái này có trước, cái kia có sau tức là tách vật chất
ra khỏi chính thuộc tính của nó thì vô nghĩa biết chừng nào! Thử hỏi thanh nam
châm và cái thuộc tính hút sắt của nó thì cái nào có trước? Vật chất và tính phản
ánh của nó cũng vậy. Không thể có vật chất và ý thức, chỉ có thế giới vật chất
đang vận động, đang tự ý thức, tự phản ánh, tự tác động phần này vào phần kia
và tự biến đổi. Con người của ta lẫn ý thức của ta cũng hoàn toàn thuộc vào cái
thế giới ấy rồi. Không phải cái xác của ta thì thuộc thế giới vật chất, còn ý
thức của ta lại như cái gì đó đứng bên ngoài để chụp ảnh... Và như vậy thì cả
triết học duy tâm lẫn triết học duy vật đều đã bị thời đại của chúng ta vượt
qua rồi. Muốn cho nhận thức luận được sáng tỏ trước hết phải đưa vào đó khái niệm
lát cắt hay mặt cắt mà nội hàm của nó là cái ranh giới giả tạo mà con người bịa
ra để làm một phương tiện nhận thức thế giới. Đứa trẻ nhìn cái cái bánh trưng
chỉ thấy cái bề ngoài, nó cắt đôi cái bánh ra và từ đó trí tưởng tượng của nó về
cái bánh đầy đủ hơn trước, thấy cả ruột bánh bên trong, nhưng trong nhận thức của
nó cái mặt cắt nhân tạo kia phải được cắt đi. Cái bánh vẫn nguyên vẹn mà vẫn bộc
lộ được cái bên trong, đó là sự khác nhau giữa nhận thức và thực nghiệm. Mỗi kiểu
lát cắt cung cấp thêm cho ta những mẫu nhận thức khác nhau, nhưng rồi tất cả
các lát cắt đều cần được xóa đi khỏi nhận thức, nếu không nó là sai lệch đối tượng
ta muốn nhận thức. Ranh giới giữa vật chất và ý thức cũng là một lát cắt nhân tạo
và thông minh mà ta bịa ra, không hề có thật bao giờ. Ranh giới giữa ta và
ngoài ta, ranh giới giữa chủ thể tác động và đối tượng hay kết quả tác động...
cũng chỉ rất tạm thời, rất tương đối, suy cho cùng cũng đều giả tạo. Cái ta là
chủ thể nhận thức nhưng đồng thời cũng đang bị cái bên ngoài nhận thức. Đừng tưởng
mình là đại diện cho ý thức đang đem qui luật đi cải tạo thế giới vật chất mà
quên mình đang là cái sản phẩm rất vật chất đang là nạn nhân, nạn vật một cách
rất vô ý thức. Đừng tưởng mình là cái bên ngoài mà quên mình cũng đồng thời là
cái bên trong. Tất cả cứ đổi chỗ cho nhau liên tục không lúc nào dứt. Sắc đấy,
mà thoát lại thành Không và ngược lại. Có nghĩa đấy mà thoắt thành vô nghĩa.
Đương nhiên sự hoán đổi ấy không phải lung tung, mỗi biến đổi có điều kiện của
nó. Nói khác đi, vật chất, ý thức đều chỉ là sản phẩm trong ý niệm, mà ngay
trong ý niệm chúng cũng đổi chỗ cho nhau liên tục. Chia làm sao được. Về điều
này, theo hiểu biết của tôi thì Mác nhận thức sâu sắc hơn so với Ăngghen và
Lênin, song cũng chưa đủ để bứt phá, nên cứ quanh quẩn để cuối cùng vẫn bị cuốn
vào một quyết định luận Mác xít mang nhiều tính chất phân ly máy móc và cực
đoan. Tôi trộm nghĩ nếu Mác được ảnh hưởng nhiều hơn của lối tư duy tổng hợp
Đông phương (đừng lầm với chất phong kiến và cù nhầy của Đông phương) và quy luật
tiến hóa Sinh học thì tình hình có thể khá hơn. Song lịch sử làm gì có chữ nếu!
Chẳng hạn, nếu vậy... thì làm sao Mác có thể tưởng tượng ra một Đảng tiên phong
với một ý thức trong suốt như pha lê và kiên định như kim cương, để nhân loại
có thể trao hết vận mệnh của cái thế giới vật chất ngoắt ngoéo đầy sự tha hóa bẩn
thỉu này cho Đảng dìu dắt tới thiên đường Cộng Sản xa xôi kia? Nếu thực sự duy
vật và biện chứng hẳn các ông phải hiểu như thế là gửi trứng cho ác, là mỡ treo
miệng mèo, nửa đường nó không sài luôn thì làm gì? (Bất giác tôi nghĩ tới chuyện
Mã Giám Sinh hộ tống Kiều). Tưởng quá duy vật khách quan mà thành duy tâm chủ
quan! 3) HỏI: Tại sao nói Chủ nghĩa Duy vật Lịch sử mang tính chất Duy tâm và
Siêu hình? ĐáP: Nói cách khác: Chủ nghĩa Duy vật lịch sử Mácxít đã chống lại
tinh thần Duy vật Biện chứng. Cái nhìn của Chủ nghĩa Duy vật lịch sử Mácxít đối
với con người và xã hội luôn cắt rời, cực đoan và phiến diện. Ví dụ: + Con người
có thuộc tính cá nhân và thuộc tính xã hội thì về lý luận Mác-Lê để cho con người
xã hội nuốt chửng mất con người cá nhân để trong thực tế tạo tiền đề cho một
vài cá nhân nuốt chửng xã hội. + Đảng Cộng Sản cũng như Con người, có mặt phải
mặt trái, mặt thiện mặt ác thì Mác-Lê chỉ thấy mặt thiện. Trong khi đó xã hội
tư bản cũng có hai mặt thì Mác-Lê chỉ thấy mặt trái. + Nhà nước bao giờ cũng có
hai mặt công ích và tư lợi, nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy bản chất tư lợi xấu của
Nhà nước nên phấn đấu làm tiêu vong Nhà nước, kết quả là cái Nhà nước quá độ mà
các ông tạo ra lại quá nhiều tính tư lợi mà không ai làm tiêu vong nó được. (trừ
khi xã hội ấy nhất tề từ chối chủ nghĩa Mác-Lê như Liên Xô và Đông Âu). + Sở hữu
tư nhân hay sở hữu tập thể đều có hai mặt tích cực và tiêu cực, nhưng Mác-Lê chỉ
nhìn thấy mặt tiêu cực của tư hữu và chỉ nhìn thấy mặt tích cực của công hữu,
nên phá tư hữu, lập công hữu. Hệ quả là tạo điều kiện cho một số người chiếm của
công thành của tư và đang trở thành những nhà tư sản thực thụ. + Sự chiếm hữu
trong xã hội như cái sào huyệt mafia gồm hai buồng: chiếm hữu tư liệu sản xuất
và chiếm hữu quyền lực. Nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy một kẻ thù là chiếm hữu tư
liệu sản xuất, bèn nâng cái quyền lực lên để dùng nó diệt cái chiếm hữu tư liệu
sản xuất. Ai ngờ cái chiếm hữu quyền lực còn tai ác gấp vạn lần. + Vấn đề giá
trị thặng dư cũng vậy. Cũng có mặt phát triển kinh tế vào tạo nguy cơ mất công
bằng. Nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy mặt bóc lột của giá trị thặng dư mà không thấy
mặt tích cực và hợp lý của nó. Kết quả là bây giờ các Đảng viên vừa được khuyến
khích làm giầu (thực chất là bằng cách bóc lột giá trị thặng dư chứ gì nữa), lại
vừa phải nói khéo để khỏi làm tủi vong linh tác giả Tư bản luận. + Vấn đề đấu
tranh giai cấp cũng có 2 mặt, mặt làm đối trọng tích cực để làm xã hội phát triển
và mặt phá phách làm nhiễu xã hội. Nhưng Mác-Lê tâng bốc đấu tranh giai cấp
thành động lực duy nhất thúc đẩy tiến hóa để có sức mạnh mà giành chính quyền,
đến lúc mình cầm quyền rồi, quan hệ giai cấp vẫn còn đó thì xử lý với chuyện đấu
tranh giai cấp là động lực của tiến hóa ra sao để cái ghế của mình được yên?
Cái thuyết đấu tranh giai cấp và chống kinh tế thị trường của cụ Mác bấy giờ lại
làm ta kẹt quá, vậy thì có phải mềm đến mức có thể uốn được. Nếu bây giờ cụ Mác
đang bị uốn, và xem chừng khi cụ Mác chịu uốn không nổi nữa thì đến lượt cụ Hồ.
+ Chủ nghĩa Mác-Lê nói Trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp là động
lực tiến hóa. Nhưng xã hội có giai cấp chỉ là một giai đoạn trong lịch sử loài
người (chính Mác-Lê đã nói thế). Vậy xin hỏi: Trong toàn bộ lịch sử loài người
nói chung, kể cả khi có giai cấp và khi không có giai cấp thì động lực của tiến
hóa nói chung là gì? Bởi chưa quan tâm đúng mức đến cái toàn bộ đã quyết đoán
cái cục bộ nên tiến trình cách mạng Vô sản lên chủ nghĩa Cộng Sản cứ như một
ngoại lệ ngang phè phè trật khớp ra khỏi lịch sử. Ăngghen lại biện bạch điều đó
bằng tính cách mạng đoạn tuyệt một cách triệt để nhất (!) Nếu biết nhìn lịch sử
một cách thật biện chứng như một quá trình thống nhất ắt các ông phải thấy trí
tuệ mới là động lực (động lực mang tính khách quan, khác với động cơ mang tính
chủ quan), và không dựng ra một học thuyết đấu tranh giai cấp rum beng như thế.
+ Tính cực đoan phiến diện ấy khi thì gây ra bệnh quá tả như trên vừa nói, khi
thì gây bệnh hữu khuynh. Đấu tranh sinh tồn (trong đó đấu tranh giai cấp là một
biểu hiện) là quy luật phổ biến bao giờ bớt được. Vậy mà các ông định làm một
cuộc chiến đấu cuối cùng là nghĩa làm sao? Dựa vào lý tưởng hữu khuynh về đấu
tranh giai cấp ấy những người cầm quyền Cộng Sản đã kìm hãm tối đa sự đấu tranh
giai cấp của những giai cấp và tầng lớp lao động mới. + Công trình lớn nhất của
Mác là tập Tư bản, rất công phu, rất nhiều kiến thức nhưng điều mấu chốt thì lại
không giúp gì cho việc giải bài toán xã hội. Chẳng những thừa mà còn có hại cho
mục đích này bởi nó gây sự hiểu lầm, tưởng rằng tội lỗi sinh ra là ở chỗ có giá
trị thặng dư. Nhà triết học đập vào giá trị thặng dư thì khác nào người công
nhân trút căm thù vào máy móc. Tách bài toán phân chia sản phẩm ra khỏi bài
toán phân chia quyền lực và bài toàn phát triển sản xuất thì làm sao tìm ra đáp
số cho bài toán xã hội? Nhiều người vẫn nghĩ rằng việc đề cao yếu tố như trên
và việc tìm ra một lực lượng vật chất là giai cấp công nhân là bằng chứng về
tính duy vật của chủ nghĩa. Song, như đã phân tích trong phần vật chất và ý thức
nếu duy vật một cách phiến diện cắt rời, mang tính định hướng chủ quan và lãng
mạn thì lại chạy sang duy tâm. Nói duy vật, duy tâm là dùng hệ ngôn ngữ chúng
ta đã quen dùng. Theo ý riêng tôi trong hệ tư duy mới thì ranh giới duy vật duy
tâm không thể tồn tại như ta quan niệm, và khi ấy vấn đề sẽ được diễn đạt một
cách khác. Tóm lại toàn bộ nhãn quan duy vật lịch sử Mác xít là một nhãn quan
phi biện chứng, đầy tính duy tâm chủ quan. Những điều này tôi đã phân tích
trong một tài liệu có tính chất lý luận cơ bản: Đôi điều suy nghĩ của một công
dân (ĐĐSN...) (1). Nhiều luận lý Mác xít là những tam đoạn luận máy móc, xuất
phát từ một tiền đề chủ quan nên kết thúc phi lý. Ra đời trong giai đoạn chưa
chín của Văn minh Công nghiệp, phương pháp luận Mác xít đã mang nhiều dấu ấn của
bệnh Công nghiệp, công nghiệp hơn cả Công nghiệp, thể hiện ở xu hướng thích quy
mô lớn, thích đồng loạt, thích cơ chế một cách máy móc (thậm chí biện chứng một
cách máy móc, uyển chuyển một cách máy móc), thích kinh tế, cực đoan hóa tính vật
chất, cực đoan hóa sự phân tích và loại trừ. Nói công nghiệp hơn cả Công nghiệp
là vì Công nghiệp sản xuất đại trà trên cơ sở sản xuất chính xác từng đơn vị sản
phẩm. Còn Mác quan tâm đến tổng thể những quan hệ xã hội, quan tâm giải phóng
xã hội, mà vi phạm sự giải phóng cá nhân (nên coi nhẹ vấn đề Quyền Con người,
vì nghĩ rằng Xã hội là đã có Con người nằm trong đó rồi!) (2). Nói công nghiệp
hơn cả Công nghiệp là vì trong quy trình vận hành của Công nghiệp bao giờ cũng
phải có cơ chế ngược (feedback) để tự kiểm tra, tự khống chế, tự dừng, tự sửa
chữa..., nhưng Chuyên chính Vô sản là bộ máy chỉ vận hành theo tiêu chuẩn và
hoàn toàn không có những cơ chế ngược ấy nên lúc đầu thì ổn mà về sau quyền lực
cứ bành trướng vô hạn độ đến nổi người thiết kế ra nó cũng trở thành nạn nhân.
Những điều này cùng với những đặc điểm mang tính lãng mạn và phong kiến (sẽ
phân tích sau) chắc cũng đủ cho nhận định rằng Chủ nghĩa Xã hội Mácxít chỉ là đại
biểu cuối cùng của dòng các chủ nghĩa Xã hội không tưởng. Hệ lý luận Mác xít
càng phát triển càng tự mâu thuẫn, càng xa thực tế và càng lúng túng, bởi xây dựng
trên những tiền đề và phương pháp luận chủ quan, phiến diện. Nói đến sai lầm của
học thuyết này thì sai lầm đầu tiên và bao trùm hết thảy, chính là sai lầm về
phương pháp luận! Đảng Cộng Sản buộc phải thừa nhận những sai lầm khác nhưng lại
kiên quyết bảo vệ phương pháp luận (1). Xem cái cung cách mà cả một đội ngũ các
nhà chính trị và lý luận Mác xít bây giờ đang hì hục nai lưng ra vá víu, che chắn,
người ta không khỏi phì cười vì thấy hiện ra một đám anh hề, cố sức lau nhà cho
khô nhưng lại cứ để cái rô-bi-nê phía sau ồ ồ phun nước! 4) HỏI: Nhận định gì về
tính Tiền phong và những dự đoán Mác xít? ĐáP: Tính khoa học, tính Tiền phong
và khả năng Dự đoán là một bộ ba liên hoàn. Nếu có tính Khoa học thật sự, ắt có
tính Tiền phong và khả năng Dự đoán. Ngược lại nếu Dự đoán luôn luôn sai hay chủ
yếu là sai thì bản chất khó lòng là Tiền phong và Khoa học được. Một khi chủ
nghĩa Mác-Lê đã tự xác định mình là Chủ nghĩa Xã hội Khoa học thì việc tự xưng
là Đảng Tiền phong và tiến hành những Dự đoán như đinh đóng cột cũng là hợp với
tư duy lôgic và phép biện chứng tự nhiên. Nhưng ngược lại, nếu những dự đoán
như đinh đóng cột ấy đổ thì đương nhiên không ai dám nhận mình là Khoa học và
Tiền phong nữa, vì đó cũng là lôgic tự nhiên và là sự tự trọng tối thiểu. Người
Cộng Sản rất tài giỏi trong thực tế tranh đấu trong đó có sự ứng dụng khoa học
thật sự, do đó những dự đoán chiến thuật thường là đúng, nếu không thì sao thắng
được. Nhưng dự đoán chiến lược, lại là một vấn đề khác hẳn. Dự đoán Mác xít có
tính chiến lược bao trùm nhất, kết tinh của tư duy Cộng Sản toàn thế giới là
tuyên bố của 81 Đảng Cộng Sản về nội dung thời đại: Thời đaị ngày nay là thời đại
quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu
bằng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng 10 vĩ đại. Là sự sụp đổ của chủ nghĩa Đế
quốc và sự tan rã của hệ thống thuộc địa là sự xuất hiện ngày càng nhiều dân tộc
tiến lên con đường XHCN. Giai cấp công nhân Quốc tế, mà đại diện là những Đảng
Mácxít Lêninít chân chính (đang đứng ở vị trí trung tâm của Thời đại mới đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa Xã hội. Đảng Cộng Sản
Việt Nam còn đi xa hơn không phải dự đoán nữa mà đã nhìn thấy ba dòng thác:
dòng thác tan rã của chủ nghĩa Tư bản, dòng thác sinh sôi của chủ nghĩa Xã hội
và dòng thác của thế giới thứ ba. Đối chiếu với thực tế ngày nay liệu còn gì để
bình luận? Hãy chú ý rằng đây là trí tuệ tập trung của cả thế giới Cộng Sản,
trí tuệ ở vào lúc khá nhất của phong trào Cộng Sản (khá nhất vì trong đó tính
giai cấp kiêu ngạo cực đoan phi thực tế đã được điều chỉnh đi rất nhiều), khá đến
mức bị những người Cộng Sản khác lên án là xét lại mà còn sai đến mức lộn ngược
như thế thì hệ thống lý thuyết ấy ở dạng chân chính còn khủng khiếp biết chừng
nào? Vậy mà đến hôm nay, những trí thức gọi là tiên tiến nhất của thế giới tư
duy Cộng Sản vẫn chưa nhìn ra được cái sai từ nơi gốc rễ, vẫn cứ xưng là Khoa học,
là Tiền phong thì đủ biết khả năng ngu hóa của lý thuyết ấy đã đến độ tuyệt hảo
vậy. Có người không đồng ý với tôi, lại bảo Người ta chẳng dốt đâu, người ta biết
cả đấy! Nếu vậy thì còn kinh khủng hơn. Đẩy được trí tuệ ra khỏi đầu những người
vốn thông minh đã là điều tài tình, thì việc đẩy được lương tâm và danh dự ra
khỏi những trái tim vốn đầy tính lương thiện và lý tưởng quả là một siêu ma lực
đáng để loài người muôn đời nghiền ngẫm. Kẻ làm chính trị mà dùng được ngu lực
hay ma lực này thì lo gì không vô địch? Và người vô địch không bao giờ ngu dốt,
trái lại, tinh khôn tuyệt vời. Thông minh và ngu dốt luôn song song trong mỗi
con người, bởi lượng trí khôn mà Tạo hóa ban cho mỗi con người bình thường gần
là một hằng số như nhau (Trừ những người bất thường thì không kể. Chỉ số thông
minh IQ cũng chỉ là một mặt của trí khôn thôi). Dùng hết tinh khôn cho việc này
thì ngu dốt trong việc khác. Vô địch trong điều kiện này đại bại trong điều kiện
khác. Thoạt nhìn thì Chân lý mang tính cù nhầy. Nhưng nếu lấy sự Tiến hóa và Hạnh
phúc chung của cả Nhân quần làm chuẩn thì Chân lý có những tiêu chuẩn xác định
không thể lộn ngược. Trong cuộc chiến tranh Vệ quốc, Đảng Lao Động Việt Nam gồm
những người yêu nước nhất, dám hy sinh biết tổ chức và có sách lược nên có vai
trò tiền phong thật sự. Nhưng bước vào giai đoạn cách mạng tức cuộc đấu tranh
giai cấp nhằm mục đích tối hậu là xây dựng chủ nghĩa Cộng Sản thì tình hình dần
dần xoay ngược trở lại. Dựa trên một lý thuyết phi khoa học thì chủ trương và
hành động sẽ chống quy luật, sẽ bị thực tế phủ định. Bản chất lạc hậu, không tiền
phong, nhưng muốn giành vị trí tiền phong thì quy trình giành lấy tiền phong phải
diễn ra theo 4 bước tuần tự: Bước 1: Thấy cái tiền phong thật ngược với mình,
nên coi là phản động. Bước 2: Không chống được, đành buông lỏng, để cái tiền
phong thật tồn tại không chính thức. Bước 3: Thấy cái tiền phong thật hữu hiệu,
hợp lý nên phải làm theo. Bước 4: Tuyên bố cái tiền phong thật ấy là do mình khởi
xướng. Trong thực tiễn Cách mạng Việt Nam, từ việc to việc nhỏ đều có thể dẫn
ra vô số sự kiện đã diễn ra theo kiểu ấy, tức là lếch thếch chạy theo thực tiễn
để đoạt lấy tiền phong, từ chủ trương khoán sản, thị trường tư nhân, tự do luyến
ái, y phục thời trang, quan hệ với người nước ngoài, hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận
thù, nhân quyền, pháp trị, xã hội công dân, tự do lập hội, trí tuệ là động lực...,
rồi chẳng bao lâu nữa sẽ là những thứ mà ngày hôm nay đang coi là phản động,
như: từ bỏ Chuyên chính Vô sản, Dân chủ đa nguyên, tự do báo chí, tự do truyền
bá tư tưởng, thông tin Intermet, tự do xuất bản, hủy hệ thống trường Đảng, nhìn
nhận lại bản chất tư tưởng Mác-Lê, nhìn nhận lại vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh và
lăng Hồ chủ tịch, Đảng đối lập, Tổng thống chế, tự do vận động tranh cử... v..
v... (xin nhắc lại: nhiều vấn đề ấy đang bị coi là cấm kỵ, nhưng xin chưa thảo
luận ở đây). Ngay những bài viết của tôi cũng như của nhiều trí thức tiến bộ,
hôm nay còn bị thông báo nội bộ coi là phản động thì rồi đây chắc chắn sẽ được
coi là quan điểm của Đảng. Nếu rồi đây Đảng cũng nghĩ như thế thật thì rất đáng
mừng, vì điều quan trọng đối với xã hội không phải ở chỗ quan điểm ấy là của ai,
mà ở chỗ quan điểm tiến bộ ấy được thực hiện như thế nào, do thực tâm muốn đổi
mới vì đất nước hay vì buộc phải thích nghi để duy trì được quyền lợi của tập
đoàn. Và từ đó sẽ phát sinh những hệ quả rất khác nhau. Trong những phần sẽ
trình bày sau, có đề cập đến một số Dự đoán mang tính hiện thực và Tiền phong bởi
nó dựa trên tư duy Khoa học thực sự. Ghi
chú: (1) Hà Sĩ Phu, Nhà xuất bản TIN, Paris 1993. (2) Hoàng Văn Hào, Chu Thành:
Quyền con người, quyền Công dân. Khái lược lịch sử và lý luận (Sách: Quyền Con
người trong thế giới hiện đại. Tài liệu tham khảo nội bộ, Viện Thông tin khoa học
xã hội, Hà Nội 1995) Trích:... Về mặt lý luận, trong một thời gian dài lý luận
về Quyền Con người, Quyền Công dân trong chủ nghĩa xã hội đã không có quan điểm
kế thừa những giá trị Nhân quyền trong lịch sử... Điều đó thể hiện trong cương
lĩnh đường lối của các Đảng cầm quyền cũng như trong hiến pháp, pháp luật ở các
nước Xã hội chủ nghĩa.... khi các nước phương Tây dùng ngọn cờ Nhân quyền để tiến
công chủ nghĩa Xã hội, các nước Xã hội chủ nghĩa thường tỏ ra lúng túng, bị động,
chỉ đối phó khi bị công kích đánh đâu đỡ đấy... Trước đây, ở các nước Xã hội chủ
nghĩa, Quyền Con người ít được nói đến, mặc nhiên đồng nhất Quyền Con người với
Quyền Công dân! Trong các văn kiện pháp lý (hiến pháp, luật) chỉ tồn tại thuật
ngữ Quyền Công dân! Khi khởi xướng công cuộc cải cách đổi mới, những trí thức hợp
lý của nhân loại được tiếp thu!.
10) Hỏi: Quan hệ giữa Tranh đấu Nhân quyền và Văn hóa? Đáp: Mọi
hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim, không có gì ra ngoài ý nghĩa của
chữ quyền con người. Quyền con người ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu
không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ
của văn minh nhân loại. ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi
lý đều có thể tìm nơi Quyền Con Người một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng
là điểm tựa tinh thần. Mặt khác, từ ánh sáng chung nhất về Quyền Con Người, con
người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách
quan, khoa học và sáng suốt hơn. Đã có nhiều cách tiếp cận để phân loại Quyền
Con Người, nhưng cách tiếp cận sáng tỏ nhất cho nhận thức là tiếp cận từ quan
điểm Tiến hóa. Khi từ bầy đàn chuyển thành xã hội. Con người cũng chuyển từ cuộc
sống Sinh vật sang cuộc sống Con người, rồi từ chưa văn minh đến văn minh
hơn... Càng văn minh, nội dung tính Người càng mở rộng, thì Quyền Con Người
cũng do đó được nâng cao dần. Càng cao bao nhiêu thì càng có tính Văn hóabấy
nhiêu. Với cách tiếp cận Tiến hóa, cũng là cách tiếp cận mang tính Văn hóa, nội
dung Nhân quyền có thể xếp thành 3 bậc: a) Quyền làm Người trước hết là Quyền
được sống, hay quyền sinh tồn một cách tối thiểu như một sinh vật, và được Tự
Do về thân thể. Tạm gọi là Nhân quyền bậc 1. b) Tiếp sau đó là Quyền ấm no, nói
rộng ra là quyền được chia sẻ những tiện nghi vật chất với những người trong cộng
đồng trong đó con người sinh sống và làm việc. Quyền này tuy mang tính vật chất,
nhưng cũng là sản phẩm đặc hiệu của xã hội loài người. Quyền này tuy đã có tính
Văn hóa, nhưng còn thấp (Văn hóa theo nghĩa rộng, là tổng thể các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy, trong sự tương tác với tự
nhiên và xã hội). Tạm gọi là Nhân quyền bậc 2, phần nào tương đương với quyền
Kinh tế. c) Cao nhất là những quyền của Con người văn minh, là những quyền mang
giá trị tinh thần, gồm các sinh hoạt tư tưởng, khoa học, văn hóa, nghệ thuật...
liên quan đến các nhu cầu hưởng thụ cao, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu sáng tạo các
giá trị tinh thần, và nhu cầu làm chủ xã hội. Tạm gọi là Nhân quyền bậc 3 (hay
Quyền tự do dân chủ). Đây là những quyền có tính VĂN HóA cao. (Tất cả những
khái niệm vẫn được dùng trong Quyền Con người như quyền kinh tế-xã hội, quyền
chính trị, quyền dân sự, quyền văn hóa..., rồi quyền sống, quyền Tự Do, quyền
mưu cầu hạnh phúc... v. v... đều mang những nội dung không thể tách biệt rành mạch,
chỉ nên hiểu một cách linh động, qui ước thôi). 11) HỏI: Vị trí của phong trào
Cộng Sản trong tiến trình phát triển VĂN HóA và QUYềN CON người? Đáp: Ba bậc
thang nói trên của Quyền Con người không hoàn toàn tách rời nhau, song về cơ bản
nếu chưa có bậc thấp thì chưa thể có bậc cao hơn. Chưa có bậc thang nào thì phải
đấu tranh cho bậc thang đó. Loài người phát triển không đều, nên cả 3 cấp Văn
hóa, 3 cấp Nhân quyền, và do đó 3 cấp Tranh đấu luôn cùng có mặt trên thế giới.
Trong khi người này, ở đây, đang đòi quyền Tự Do tư tưởng, Tự Do ứng cử (nhân
quyền bậc 3) thì người kia, ở kia thì phải đòi quyền được làm việc và trả lương
công bằng (nhân quyền bậc 2), và có khi ở ngay nơi đó, có người chỉ mong đòi
cho được quyền Tự Do thân thể, an toàn sinh mạng (nhân quyền bậc 1). Trong bài
lý luận Đôi điều suy nghĩ... trước đây, tôi đã đưa ra khái niệm Quan hệ dọc và
Quan hệ ngang trong sự tiến hóa xã hội. Một Hình thái Kinh tế-Xã hội tốt hay xấu
cho thấy mối quan hệ dọc của xã hội ấy trong dòng tiến hóa, là tiến hóa hay
thoái hóa. Nhưng không phải mọi thành viên trong xã hội ấy đều được hưởng (hay
bị chịu đựng) mức độ cao hay thấp của xã hội. Tương quan công bằng hay không
công bằng giữa những người đang sống trong cùng một xã hội (hay giữa những dân
tộc, những quốc gia đương thời), tạo ra mối quan hệ ngang. Quan hệ dọc và ngang
độc lập với nhau nhưng tác động tương hỗ tới nhau. Thế kỷ 18-19, con tàu Văn
minh Công nghiệp bắt đầu tăng tốc, gây sốc mạnh trên khắp thế giới, khiến cho
khoảng cách Nhân quyền tách ra rất xa. Trong Quan hệ dọc, đây là sự tiến bộ rất
lớn của xã hội, nhưng trong Quan hệ ngang nó tạo sự mất công bằng ghê gớm. Một
loạt ông chủ thành tỷ phú trong khi vô số người khác bị bần cùng hoá. Hình
thành một giai cấp Vô sản đông đảo, chẳng những bị bần cùng hoá mà bị đe dọa cả
sự sống còn. Được trang bị lý luận Mác xít, họ cùng với những người lao khổ
khác trở thành lực lượng trung tâm của phong trào Cộng Sản. Từ một sức sống thấp
như vậy, cả về vật chất cũng như tinh thần họ đứng lên đòi Quyền Con người, thực
chất là đòi Quyền sinh tồn tối thiểu và Quyền được ấm no, tức là tranh đấu cho
bậc thang thứ nhất và thứ 2 của thang Nhân quyền ứng với tầm Văn hóa thấp, như
đã trình bày. (Có thể họ có ước mơ xây dựng một cuộc sống Cộng Sản rất cao sau
này, nhưng đấy lại là chuyện khác, chuyện ấy không thuộc phạm vi tranh đấu và
đòi. Ai ước mơ gì cứ việc ước mơ, nhưng không ai có thể đòi xã hội cái sản phẩm
mà chưa ở đâu có, lại càng không có quyền bắt người khác phải ước mơ như mình).
Nội dung phong trào Cộng Sản gồm 2 mặt: ° Nhu cầu có tính chất khách quan đối với
trào lưu Cộng Sản là một cuộc đòi Quyền Con người tối thiểu cho những người
cùng khổ, tức là để giải quyết mối quan hệ ngang về sự công bằng, trong đó có sự
công bằng giữa các dân tộc, việc này thì lịch sử giao phó thật, và phong trào Cộng
Sản đã có những đóng góp xuất sắc. ° Còn việc muốn tạo ra một xã hội mới khác hẳn,
văn minh hơn, giải quyết sự nghiệp tiến hóa trong quan hệ dọc, thì đây là một
hoang tưởng. Hoang tưởng này tuy có cung cấp thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh
trên kia, nhưng không được lịch sử giao phó nên lịch sử cũng không cung cấp những
tiền đề, do đó chẳng những không thành sự nghiệp gì mà trái lại còn gây ra những
điều kỳ quái, mà bây giờ lịch sử đang giao nhiệm vụ phải sửa chữa, xếp dọn lại
tất cả những ngổn ngang bê bối ấy. Tóm lại Cộng Sản là một trào lưu đấu tranh
cho Nhân quyền tối thiểu, ở tầm Văn hóa thấp. Muốn hiểu điều này, còn cần phải
phân biệt tính chính đáng hay tính bức thiết của một phong trào tranh đấu với tầm
văn hóa của phong trào ấy. Càng ở tầm văn hóa thấp bao nhiêu thì tính bức thiết
của một phong trào tranh đấu càng cao bấy nhiêu (và cũng có thể hiểu là càng
chính đáng bấy nhiêu) vì càng thiếu những điều kiện mang tính sinh vật bao
nhiêu thì càng khó sống (theo nghĩa sinh vật) bấy nhiêu. Tính chính nghĩa không
đồng nghĩa với tính Văn hóa. Mặt thứ hai, phải hiểu quan hệ giữa chiến thắng và
văn hóa. Về toàn cục thì kẻ chiến thắng sau cùng là Văn hóa, nhưng trong một trận
cọ xát trực tiếp thì thường xảy ra điều ngược lại: càng có tầm văn hóa thấp
càng dễ chiến thắng, cái bạo tàn dễ thắng cái văn minh. Quy luật này thấy rõ
ngay trong đời sống hàng ngày. Tính văn hóa thấp của những Quốc tế Cộng Sản được
in dấu ở tất cả mọi mặt của phong trào ấy. Chỉ cần dẫn ra mấy dấu vết đã in vào
bài Quốc tế ca cũng đã chứng minh: Về lời ca để hiệu triệu và tập hợp lực lượng:
Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian. Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn... Những đối
tượng này là ở bậc thang đáy của xã hội. Bức thiết phải dành hết tình cảm cho họ,
bức thiết phải đem lại ngay quyền sống cho họ, nhưng trào lưu tranh đấu mà họ
lãnh đạo thì chỉ có thể là một trào lưu ở tầm văn hóa thấp, tương xứng với họ,
là điều quá hiển nhiên. Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình là động cơ thật của
cuộc tranh đấu. Biện pháp giải quyết là phá sạch tan tành, quyết phen này sống
chết mà thôi để tước đoạt lại kẻ đã tước đoạt như Chủ nghĩa đã chỉ rõ. Cả đối
tượng mục tiêu lẫn biện pháp đều ở tầm văn hóa thấp. Bây giờ nhiều người trong
đội ngũ Vô sản ấy đã trở thành đại hữu sản do tước đoạt. Họ sẽ nghĩ sao nếu những
người dưới mức nghèo khổ đông đảo ở nước ta bây giờ cũng hô hào nhau lặp lại một
phong trào tước đoạt lại như thế? Hẳn họ phải lên án đó là cách làm vô văn hóa
chứ gì nữa. Nếu thấy cần làm lại những bài ca, thì đáng lẽ phải làm lại bài Quốc
tế ca này chứ không phải làm lại Quốc ca! Sản phẩn của phần Dân tộc nói chung
là lành mạnh, sản phẩm của phần cách mạng giai cấp mới là cái cần được làm lại!
Nhưng nói vậy thôi. Cái đáng phải làm lại nhất là làm lại toàn bộ Học thuyết,
mà tính khoa học của nó đã được ngộ nhận hoặc được châm chước, bởi người ta
nghĩ rằng đấu tranh đây là trận cuối cùng. Cốt sao lợi quyền về tay cái đã. Ta
đấu tranh rồi, ta tước đoạt được rồi thì trường đấu tranh từ đây khóa sổ, không
ai được lộn xộn gì nữa, từ đây là hợp lý rồi, không phải xét lại nữa? Liệu như
thế có phải là qua cầu rút ván chăng? Tầm Văn hóa như vậy là cao hay thấp? _ tưởng
lấy Búa và Liềm làm biểu tượng cho lực lượng tiên tiến nhất, tiêu biểu cho Thời
đại cũng là một cảm hứng ở tầm Văn hóa ấy. Nhưng có thể nào khác được, khi trào
lưu Tiến hóa ấy lấy động lực ở người cùng khổ, lấy điểm tựa ở sự bần cùng? một
cuộc tranh đấu có tầm Văn hóa cao, sự chọn lựa chỉ là giữa cái đã tốt với cái tốt
hơn, tức là đấu tranh trong hòa bình, không có tình huống một mất một còn. Cuộc
đấu tranh giai cấp một mất một còn luôn gắn liền với bạo lực và chiến tranh, nó
sẵn sàng mua chiến thắng bằng cách hủy diệt môi trường (như dẫu phải đốt sạch cả
dãy Trường sơn!), hủy diệt những công trình văn hóa (như chính sách tiêu thổ
kháng chiến), và hủy diệt con người ( đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng, Tổ
quốc hay là chết, và cả chục triệu người Việt đã thành vật hy sinh cho cuộc chiến...)
thì dẫu có anh hùng và chính nghĩa đến đâu cũng chỉ là những trào lưu có tính
văn hóa thấp. Khi nào vươn được tới tầm văn hóa cao hơn, người ta sẽ thấy những
chiến thắng ấy thật đáng ghê sợ. Lúc ấy hồi tưởng lại những bà mẹ đã tự hào vì
cống hiến cả chồng và 7-8 người con cho cách mạng, người ta sẽ rùng mình hơn là
kính phục. tầm Văn hóa cao, người tranh đấu không bao giờ chỉ quan tâm đến chiến
thắng của mình mà quên những giá trị chung của xã hội. tầm văn hóa cao thì sự
tranh giành quyền lãnh đạo sẽ xảy ra giữa những người đã ở tầm cao, có tài sản
và sự nghiệp để bảo hành. Trong thực tế, không ai dám chơi với những kẻ nếu mất,
nó chỉ mất cái xiềng; còn nếu được thì lại được cả thế giới (!). Vì trong trường
hợp ấy, con người không còn gì để đắn đo cân nhắc, nó chỉ có một con đường là
lao vào cuộc sinh tử (quyết phen này sống chết mà thôi!), và sẵn sàng phá sạch
tan tành tất cả những gì cản đường. (Ta nhận rõ tính kém văn hóa của những người
ấy nhưng không quy lỗi cho họ!). Họ sẽ tuyệt đối hóa mục tiêu Thiện một cách chủ
quan và sẵn sàng làm mọi việc c mà không hề phải cắn dứt lương tâm. Họ sẽ quyết
định những điều hệ trọng một cách đơn giản, họ sẽ coi rẻ sinh mạng của họ cũng
như sinh mạng của cả dân tộc! Một sức mạnh như thế rất khó cho việc chống lại,
nhưng lại rất dễ cho việc lợi dụng! Xta-lin, Mao trạch Đông... đã là những nhà
lợi dụng vĩ đại, và đã đào tạo biết bao nhiêu học trò! Nhân đây, tôi xin mở ngoặc
để nói đôi lời về những tác phẩm viết về chiến tranh. Người ta thấy Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh là không chấp nhận được. Bây giờ hãy ví dụ: gia đình
ta đang sống yên ổn thì bị cướp. Đương nhiên cả nhà phải đứng dậy đánh cướp, bỗng
dưng ta thành những kẻ phải giết người để tự vệ. Giả sử ta đã giết sạch được cả
mười tên cướp chết nhăn răng ra, thì khi phải nhìn lại cuộc chiến đấu ấy ta nên
kể lại một cách hứng khởi, vênh váo hay nên coi đó là một kỷ niệm buồn trong đời?
Tôi nghĩ chẳng những phải biết buồn mà suốt đời còn phải tự day dứt. Càng phải
day dứt hơn nếu đã hy sinh mất những người thân và những người ưu tú. Càng có
văn hóa càng thấy day dứt. Bởi mình còn tồi, còn kém nên có nhiều cuộc chiến
tranh bất đắc dĩ phải làm, nhưng không có cuộc chiến tranh nào lại đáng tự hào
cả. 12) HI: Đâu là tương lai của nền Văn hóa Vô sản? ĐP: Mỗi Thời đại có Văn
hóa đặc trưng của nó. Bằng biện pháp Cách mạng, với bạo lực quần chúng và tận dụng
thời cơ, người Cộng Sản có thể giành được quyền lực ngay tức khắc, nhưng có xây
dựng nổi nền Văn hóa đặc trưng của mình hay không, điều ấy mới xác định vị trí
của mình trong lịch sử là có thật hay không. Thành bại cuối cùng là ở Văn hóa.
Hãy nhìn lại xem việc xây dựng nền Văn hóa Vô sản thành bại ra sao? Chiến dịch
xây dựng Con người mới: Suốt từ những năm 60-70, khi ấy tôi dạy học nên được chứng
kiến một chiến dịch dai dẳng, và vất vả của chúng ta để cố xây dựng cho được
hình mẫu Con người mới Xã hội Chủ nghĩa. (Bác Hồ nói: Muốn xây dựng chủ nghĩa
Xã hội phải có những Con người Xã hội chủ nghĩa). Sách giáo khoa, tài liệu
tuyên giáo, truyện ngắn, truyện dài, sân khấu, điện ảnh, báo chí, phong trào
Đoàn Thanh niên Cộng Sản, Đội Thiếu nhi Bác Hồ... xây mãi mà không mẫu nào có
thể đứng được. Nếu không bám víu vào những phẩm chất truyền thống như lòng yêu
nước, lao động cần cù, chịu đựng gian khổ hy sinh, thương người hoạn nạn... thì
Con người mới không còn có da có thịt gì cả. Cái chất mới và xã hội chủ nghĩa,
chất giai cấp, chất Đảng, chất thời đại tô vẽ mãi vẫn cứ mờ nhạt, khô cứng, thậm
chí (nhiều nhà văn, nhà báo kể cho tôi nghe) khối lời nói anh hùng, nhân vật
anh hùng là do ta bịa ra. Nhưng ngần ấy thứ con người mới giả vẫn không địch nổi
cái đội ngũ hùng hậu của những con người mới thật, tệ hại, bằng xương bằng thịt
cứ tuôn ra từ cuộc đời thật, ngày càng đông về số lượng và chủng loại, càng điển
hình và độc đáo về phẩm chất. Học dốt, bị cô giáo cho điểm kém, bèn lừa lúc cô
một mình trong lớp, dùng dao dọa, bắt cô đứng lên bàn, tụt quần ra, thế
thôi!... Con muốn lấy tiền của bố, bèn cắt tiết bố hứng vào chậu hẳn hoi rồi
cho lợn ăn. Chồng băm thịt vợ cho vào chum nước rồi dùng dây may xo để nấu.
Công an bảo vệ trên cầu Chương dương Hà Nội cũng cướp của, giết người (mà có cấp
chính quyền còn định bao che)... v. v... Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh nổi
tiếng nhiều độc giả nhất vì chuyển tải được cái vốn người tốt việc tốt rất
phong phú ấy. Xe khách đang chạy, bỗng trước mặt hiện ra hai ông Công an mặc sắc
phục, cầm dùi cui đàng hoàng, đưa còi lên miệng. Người tài xế bảo phụ lái: Hôm
nay làm ăn không được, mày thí cho chúng nó 5 đồng thôi! rồi quay sang cười nói
với tôi: bây giờ đâu cũng thế cả, bác đừng cười! Anh phụ lái giở cái giấy phép
ra, khéo léo kẹp tờ 5 ngàn vào giữa, hơi thò ra một tý để ai có tình ý thì nhìn
thấy, rồi nhảy xuống để trình, xe lại chạy ngay chẳng cần kiểm tra. Giữa giờ, một
anh bạn đến thăm tôi. Tôi hỏi đùa: Đang giờ chính quyền mà đi được à? Anh bạn
tôi cũng cười: Mình không tài ăn cắp thì ăn cắp tý thời gian vậy. Ăn cắp thời
gian bây giờ là lương thiện nhất đấy ông ạ!. Tôi bảo: Sao bây giờ cậu ăn nói mất
lập trường thế? Anh lại bô bô: Mình là con người cũ nên cứ nói toẹt ra, chứ có
phải con người mới đâu mà vòng vo! Trong một cục diện xã hội như thế, con người
mới lý tưởng nào có thể sống được? Có thể nói 90 phần trăm tác phẩm văn học được
giải trong những năm gần đây là tác phẩm phản diện mang tính phê phán, và những
điển hình xây dựng thành công là những điển hình về mặt trái của Con người và
xã hội. Người ta bảo: hãy quên chuyện Con người mới đi! hãy tìm lại những con
người cũ tử tế. Nhiều bài báo viết: Bao giờ cho đến Ngày xưa? Rất nhiều cuộc Về
nguồn được tổ chức: Nào thi sáng tác văn thơ Về nguồn, đua xe đạp Về nguồn! Nào
thi học sinh giỏi theo nghi thức thời cổ Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ... Chưa biết
trong đục thế nào, và mỗi người Về nguồn với một ý đồ khác nhau, nhưng người ta
đua nhau Về nguồn, vì ai cũng thấy trước mắt mình nhiều cái mới nhăng nhít quá!
Có lời bình rằng: Trước đây bỏ nguồn để đi tìm Thiên đường Cộng Sản, nay lại hò
nhau Về nguồn, thật như đèn cù! Còn đang cố tìm một mẫu người Trung với Đảng,
Hiếu với dân thì đùng một cái, một ông cán bộ Cộng Sản khá cao cấp là Thân
Trung Hiếu, đầy đủ cả Trung cả Hiếu, làm tiêu luôn của Dân 48 tỷ đồng! Dân bảo:
Tay này chắc là Trung, nhưng mà bất Hiếu! Truyện Con người mới kể cả ngày không
hết. Không gì bê bối hơn một nền Văn hóa như thế. - Nói đến Văn hóa Vô sản,
không thể quên nước Cộng Sản lớn, quê hương của Con người mới Lôi Phong, của cuộc
Đại Cách mạng Văn hóa, với mười mấy triệu Hồng vệ binh vô học choai choai, dám
đốt hết sách vở và lôi cả những nhà Văn hóa ra đấu tố, quét sơn đỏ khắp người rồi
lôi đi diễu trên đường phố; với hàng đoàn xe tăng đi nghiến nát những em sinh
viên nhịn đói để đòi Dân Chủ; với công đào tạo ra những tên lính Pôn-pốt ở tuổi
chưa ráo máu đầu đã một mình dùng cuốc đập chết cả ngàn người trong tay!... Những
hiện tượng đại văn hóa ấy mà không phải do bản chất thì do ngẫu nhiên chăng?
Hay do Đế quốc Phong kiến để lại? Không phải ngẫu nhiên mà cái pháo đài Cộng Sản
nổi tiếng giáo điều với quan điểm Đế quốc Mỹ là con hổ giấy, gió Đông thổi bạt
gió Tây... lại cũng chính là nơi sản sinh ra quan điểm đổi mới thực dụng nổi tiếng
Mèo trắng mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột!. Có thể coi hai
thái độ cực tả và cực hữu ngược nhau ấy là quan hệ bù trừ, nhân quả. Nhưng nghĩ
lại thì thấy hai thái độ ấy cũng là một mà thôi, đều phản ánh cùng một bản chất
duy lợi của tầng lớp cầm quyền, cùng một xảo thuật tuyên truyền, và cùng một tầm
văn hóa. Khi trước giáo điều bao nhiêu thì nay lại thực dụng bấy nhiêu, ta với
Tàu cũng một mẹ sinh ra cả! Tóm lại, khi mẫu người Phong kiến đã hết thời thì
phải hướng con người theo những giá trị phổ quát của thế giới hôm nay: con người
của văn minh công nghiệp và tin học, của kinh tế thị trường, của dân chủ pháp
trị. Nếu cứ chập chờn, nghĩ đến một thứ con người mới xã hội chủ nghĩa giả định
nào đấy, thì hiệu quả là dứt con người ra khỏi văn minh nhân loại và nếu không
trở nên những bóng ma ảo tưởng, thì lại thành những kẻ lưu manh. Thiếu Văn hóa
từ gốc Một nền văn hóa có thể bị băng hoại dần dần do những sa sút của chính trị
và kinh tế. Nhưng nền Văn hóa Vô sản tự nó đã có những khiếm khuyết, ngay cả
lúc còn thịnh trị. ° Nền Đạo đức Vô sản thâu nạp đủ điều đạo đức của Nho giáo,
từ Trung, Hiếu, Đức, Tài, Lễ, Nghĩa, đến Cần Kiệm Liêm Chính, đến Chính tâm tu
thân, đến kế hoạch trăm năm trồng người, đến điều lo trước thiên hạ, hưởng sau
thiên hạ, đến Dân là gốc, coi cán bộ là nô bộc của dân, dĩ bất biến ứng vạn biến...
tất cả đều đã có trong sách vở Nho giáo. Duy có chữ QUÂN T là cái tử tế nhất của
Nho giáo thì ta tránh hẳn. Các nhà lý luận viện cớ rằng Quân tử là tầng lớp bóc
lột nên ta không học. Nếu những phạm trù NHÂN, THIN, Đ_C còn mang tính lý tưởng,
hoặc còn chung chung, trừu tượng, thì phạm trù QUÂN T đưa thiện ác vào tới con
người cụ thể, tới tình huống cụ thể, thái độ ứng xử cụ thể. Mỗi tình huống ấy
là một cuộc thử thách quyết liệt: anh nói anh thiện, anh đạo đức thì anh thể hiện
ra đi, quyết định lấy một thái độ ứng xử đi; hoặc là hành động một cách QUÂN T,
hoặc là hành động một cách TI U NHÂN! Những bài học về QUÂN T thiết thực lắm.
QUÂN T rất gần với TRƯNG PHU và THƯNG V. Người ta thua trận, người ta nằm trong
tay anh rồi, anh làm gì người ta cũng phải chịu, thì anh sẽ đối xử thế nào? Hoặc
là anh học người xưa, đem tất cả sổ sách thù hận đốt đi để coi nhau như anh em,
hay anh lục đống hồ sơ cũ ra, bới lông tìm vết để phân biệt đối xử? Anh có mọi
quyền lực trong tay, anh muốn nói gì, nói cả ngày cũng được, thì anh có nhường
một tờ báo, một diễn đàn cho những người khác trình bày tiếng nói của họ hay
không? Anh nắm hết mọi sức mạnh trong tay, muốn bày đặt cái gì cũng được, thì
anh có dành cho Nhân dân một Hội đồng để giúp anh thu thập tiếng nói của Dân,
hay anh lại tìm cách đưa Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy sang phụ trách luôn Hội
đồng Nhân dân cho nhất quán? Anh có quyền ký một chữ thì người khác có nhà ở, vậy
anh có thắng nổi cái lòng tham của con người, dám trọng nghĩa khinh tài mà từ
chối mấy lạng vàng đút lót để dành cái nhà ấy cho một thày giáo nghèo được
không? Bởi nó cụ thể như thế nên Đạo đức giả thì dễ nhưng Quân tử giả thì không
dễ chút nào, thiệt đến quyền lợi sát sườn ngay! Người Cộng Sản thích chơi trò Đạo
đức nhưng không dám chơi trò Quân tử. Chủ nghĩa phong kiến so với ngày nay thì
vô cùng tồi tệ, nhưng thời thịnh trị nó đã cung cấp cho loài người rất nhiều
Người Lớn, là nhờ có một tinh thần QUÂN T. Dùng Đạo đức, con người vẫn có thể lừa
cả mình, nhưng khi trong lòng đã cất lên tiếng QUÂN T thì con người phải đối diện
với chính lương tâm nó, không trốn vào đâu được. ° QUÂN T thì phải CHNH DANH!
Có người bảo Chính danh là thủ đoạn của bọn thống trị nhằm phân biệt ngôi thứ.
Không đúng! Công bằng hay không là ở chỗ định danh, định nội hàm của Danh, chứ
khi định Danh rồi thì phải theo Danh mà làm! Danh một đàng, Thực một nẻo đại loạn.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu: Trường ra trường, lớp ra lớp, thày ra thày,
trò ra trò! là rất đúng, là phải chính danh! Nhạc trưởng cũng phải ra Nhạc trưởng!
Anh muốn điều khiển dàn nhạc thì anh đứng ra giữa sân khấu mà bắt nhịp cho mọi
người trông thấy, chứ không thể chơi trò giật dây từ trong hậu trường, hay đứng
lấp ló ở chỗ cánh gà sân khấu, chờ xem nếu được hoan hô thì ra nhận hoa, mà bị
la ó thì chuồn thẳng, tìm mãi chẳng biết ai vừa chỉ huy! Anh muốn chỉ huy cũng
được (cứ cho là được đi), nhưng nếu chỉ hiến định sự chỉ huy, mà không luật hóa
sự chỉ huy ấy thì ai chẳng thích chỉ huy? Nếu có luật lãnh đạo (lãnh đạo kém,
gây thiệt hại lớn sẽ bị đi tù!) thì chắc Đảng sẽ tự xin rút Điều 4 trong Hiến
pháp. Có luật ấy thì khối lãnh tụ Cộng Sản đã đi tù lâu rồi, không tin cứ đưa
ông Lê Đức Thọ ra Tòa án của Nhân dân làm ví dụ thử xem. Dân mình có thói khôn
vặt: Nói thế mà không phải thế! Nói dzậy mà không phải dzậy, nên khi gặp chủ
nghĩa Mác-Lê thì tâm đắc vô cùng, cả hai đều thích nhân danh nhưng không thích
CHNH DANH. Trong cuốn Đề cương giới thiệu Dự thảo Cương lĩnh Xây dựng Chủ nghĩa
Xã hội trong thời kỳ quá độ (tức Cương lĩnh của Đại hội Đảng lần thứ 7) có câu:
Nguyên tắc thứ nhất nói về xây dựng Xã hội Chủ nghĩa, tuy không dùng chữ Chuyên
chính Vô sản, nhưng nội dung của nó vẫn quán triệt bản chất Chuyên chính Vô sản
(Sđd. trang 15). Có lẽ do quá quen với phương pháp luận Mác-xít, nên người viết
câu ấy không cảm thấy tính TI U NHÂN trong đó. Thử hỏi tại sao thế: Nếu thấy
Chuyên chính Vô sản là hay thì phải công khai bảo vệ luận điểm ấy, nếu thấy là
dở thì phải thực tâm từ bỏ, chứ ngoài mặt nói với dân không có Chuyên chính mà
nội bộ Đảng thì lại dặn nhau; Cứ Chuyên chính mà làm! Thì chẳng Quân tử tý nào?
Điều nói dối ấy đã làm dân mất lòng tin, đã đành, nhưng trong Đảng thì đấy
chính là sự dạy nhau nói dối, và Đảng viên sẽ dùng cách ấy để ứng xử với Đảng:
Nghị quyết nói thì cứ để Nghị quyết nói, mình có cách vận dụng của mình, Nghị
quyết dzậy mà không phải dzậy! Người Việt Nam muốn ra người Quân tử đã khó, người
Cộng Sản Việt Nam muốn ra người Quân tử lại càng khó hơn. Bởi thế tôi thật kính
trọng thái độ Quân tử của tướng Trần Độ khi ông viết cho Đảng những dòng sau
đây: Cần phải dứt khoát chọn một trong hai tư tưởng chỉ đạo: Hoặc thực hiện
Chuyên chính Vô sản, mà Đảng là đại diện và nhân danh. Hoặc thực hiện một Nhà
nước Dân chủ Pháp quyền, một Nhà nước của Dân, do Dân, vì Dân. Không thể cứ nói
nửa nọ nửa kia nhập nhằng. ° QUÂN Tử lại gắn với LIÊM Sỉ. Liêm sĩ là biết tự xấu
hổ, trước hết là với lương tâm mình. Bậc trượng phu không được lấy nể vì Nghĩa
lớn mà bước qua những điều Sỉ nhỏ. Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri
Phương, tuy không có tội, nhưng xấu hổ vì không làm tròn nhiệm vụ giữ thành nên
quyết tự vẫn. Càng là bậc đàn anh thiên hạ, lòng tự Sỉ càng phải lớn. Có khi đời
tha cho mình mà mình không tha cho mình được... ở ta, người Cộng Sản làm hỏng
việc thì tìm cách chuồn lên ghế cao hơn (mà lại chuồn được!). Chuyện ấy, địa
phương nào cũng có, Trung ương lại càng điển hình. Phải chăng vì bài ca lợi quyền
kia đã ngấm vào xương thịt? Để riễu cái thói đạo đức giả nhưng lại vô sĩ, bám
ghế đến cùng, người dân nhại lời các quan chức thế này: Ông không ham chức quyền,
ông chỉ ham phục vụ, ông quyết ở lại làm đầy tớ của dân! Đứa nào ngăn không cho
ông phục vụ ông đánh bỏ mẹ. (!) Nhiều lúc tôi tưởng tượng như cả dân tộc mình
đang ở trong trạng thái thôi miên. Tôi nghĩ đến một ví dụ khác, một người đủ tư
cách thay mặt cho Đảng. Tôi không có ý định chỉ trích cá nhân ông, một người có
thể là nhân hậu, nhưng trường hợp của ông lại rất điển hình. Trước đây ông nổi
tiếng là người Mác-xít gang thép, chẳng những trong việc đánh Đế quốc Mỹ và tay
sai, mà cả trong việc đánh đồng bào mình, những nhà công thương nghiệp tư bản
tư doanh, (họ mang tiếng là Tư sản, nhưng chưa giàu bằng các vị Tư sản đỏ của
chúng ta bây giờ). Hiện ông cũng đang rất gang thép trong việc kiên trì Mác-Lê
và định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Ấy thế mà đùng một cái, ông ngồi sánh vai với bọn
tay sai Nam Hàn (cái bọn mà tôi còn nhớ trước đây chúng giết bộ đội mình như
ngóe), ngồi để ký kết những chương trình mà chắc chắn là phản lại cái chủ
trương cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh của ông trước đây. Tôi tự giải
thích: Có thể sự quay ngoắt 180 độ này là một sự tỉnh ngộ, đổi mới chân thành,
muốn làm bạn với tất cả mọi người. Có thể thế lắm chứ! Nhưng, người sám hối có
những triệu chứng lâm sàng rất dễ nhận thấy. Biểu hiện buộc phải có là ngượng,
là thẹn, khiến cho những người khó tánh nhất cũng phải than thứ. Trong trường hợp
này, các triệu chứng lâm sàng đáng yêu kia hoàn toàn không có. Người sám hối chẳng
những thản nhiên cười nói, mà lại ở tư thế quát nạt, xử tội những người đang chứng
kiến sự sám hối của mình. Người ta không thể không tự hỏi: Nếu lòng nhân đạo có
thể giúp ông quên kẻ thù máu xương nhanh như thế thì thật sự đáng mừng, nhưng
sao đối với đồng chí, đồng đội đã chung lưng đấu cật với nhau thì ông lại thù
dai như vậy: Ông vẫn hô phải bắt ông Nguyễn Hộ, bắt ông Hoàng Minh Chính... vì
tội mắc mưu Tư bản, làm diễn biến hòa bình... (trong khi chính ông đang cùng diễn
biến hòa bình với bọn tư bản!). Tại sao có thể làm cả hai việc ngược nhau ấy
cùng một lúc một cách tự nhiên như không? Cứ nhìn cảnh ấy mà suy thì nếu gia
đình ông Nguyễn Hộ không bị Mỹ giết, mà theo Nam Hàn để giết Cộng Sản, rồi lại
theo Nam Hàn thành tỷ phú thì có phải bây giờ đã được hưởng tấm lòng xóa bỏ hận
thù và trở thành thượng khách của Đảng rồi không? (Ông Hộ quả là đã chọn nhầm
đường thật!). Ông Hoàng Minh Chính bị Đảng bỏ tù oan mười mấy năm chưa đủ sao?
Ông Nguyễn Trung Thành trực tiếp phụ trách việc này đã đề nghị minh oan cho ông
Chính rồi kia mà? Trước nỗi đau ấy thì lương tâm một kẻ dân thường cũng bị cắn
rứt chứ nói gì một người nhân danh Nhân dân? Tôi là người không có liên quan gì
với tất cả những nhân vật trong câu chuyện kể trên, nên điều tôi muốn nói không
phải là về thái độ của một cá nhân, mà là điều này: Tại sao tất cả những người
chung quanh, trước hết là những người hữu quan lại không ai lấy thế làm xấu hổ,
một thứ xấu hổ mà chỉ cần là một người có nhân cách bình thường thôi cũng không
chịu nổi! Mà đâu phải riêng việc đó, bao nhiêu điều quay quắt, lộn ngược lộn
xuôi rành rành trước mắt, mà lại có thể tươi tỉnh như không? Mà điều nghĩ được
cách giải thích, mà lại tiếp tục làm tuyên huấn cho mọi người không hề ngượng mồm?
Tôi không muốn lên án riêng ai, bởi thế tôi thấy chỉ có thể giải thích đây là một
trạng thái thôi miên tập thể. Bên tai mọi người hình như luôn nghe thấy lời ám
thị: Hãy coi chừng! Không ai được trái ý Mác-lê! Hãy coi chừng, không được trái
ý Mác-Lê!. Mác-Lê thế nào mấy ai biết? Có khi Mác-Lê giống mấy ông Công an, giống
bà trưởng phòng Tổ chức, giống khoản lương hưu, giống xấp đô la, giống những kỷ
niệm kinh hoàng một thời đói rách, giống ngôi biệt thự với chiếc xe con, giống
két bia lon với cô thư ký, hoặc có khi chỉ là một cái bóng ma rất thiêng trên
bàn thờ... Mác-Lê muôn màu muôn vẻ, nhưng đã thành một ám thị tập thể. Trong
khi quyển thôi miên ấy, con người phải quên nhân cách riêng, đặc biệt là cấm
không được hổ thẹn. Khi học môn giải phẩu cơ thể, chúng tôi nhớ mãi một dây thần
kinh chỉ huy việc khép đùi nên tên là dây thần kinh thẹn. Bây giờ, mỗi khi cùng
nhau tâm sự chuyện đời, chúng tôi lại nhìn nhau chua chát: Bọn mình bị liệt mất
dây thần kinh thẹn rồi. (Nhưng khi nghe những thằng bạn thao thao bất tuyệt
trên Ti-vi, chúng tôi vẫn thấy thẹn thay.). Cảm ơn Tạo hóa đã cho Con người biết
thẹn, nếu không ai giữ Văn hóa cho Người? Hiện tình Văn học Cách mạng: Tính
cách Dân tộc ấy, hoàn cảnh lịch sử ấy, bản chất ý thức hệ ấy đã quyện vào nhau
nhào nặn nên một tổng thể Văn hóa đặc sắc không bút nào tả nổi. Nền Văn học hiện
thực xã hội chủ nghĩa cố kéo dài hơi thở hào hùng thời kháng chiến một cách đuối
sức, tỏ ra bất lực và mất phương hướng trước một thực tế mà nó không nhận thức
nổi hay không dám nhận thức. Một số tác phẩm bắt đầu bứt ra, thì tránh được sự
giả tạo và đạt được sự phê phán sâu cay, nhưng càng sâu cay càng không có lối
ra. Giải thưởng Văn học nào cũng có chuyện. Làm sao có thể tổ chức nổi một cuộc
thi cho tử tế, khi mà bộ Từ vựng của xã hội đang đòi phải làm lại, làm lại những
từ ngữ cơ bản, viết lại những mệnh đề cơ bản, chẳng hạn: Cách mạng nghĩa là gì,
phản động nghĩa là gì, yêu Chủ nghĩa Xã hội có phải là yêu nước không?... v.
v... Người chấm thi bị xé về hai chiều, con người chính trị phải đạo không còn
chung sống nổi với con người văn học trong một thể xác như ở giai đoạn trước,
và mỗi con người ấy trả lời những câu hỏi trên một cách trái ngược nhau. Làm
sao có được tác phẩm tương xứng với thời đại khi nhà văn không thể nhìn thẳng
vào thời đại bằng con mắt của riêng mình? Vừa phải nhìn bằng con mắt của người
khác, lại vừa nơm nớp lo không biết trong cặp mắt kia, bên nào mắt thật bên nào
mắt giả. Mắt vẫn mở, mồm vẫn lắp bắp, tay vẫn hí hoáy viết đấy nhưng bị thôi
miên rồi. Trong xã hội quái đản ấy đã bật ra bút pháp Nguyễn Huy Thiệp: Cái khốn
nạn, lưu manh hết chỗ nói mà cứ bình thường như không, thương nó cũng dở, giết
nó không nỡ, không lần được cái đầu mối khốn nạn nó nằm ở đâu. Làm điều tồi bại
mà cứ như vô tình... Cái Thiện, cái Mỹ thì mong manh như mây khói. Phải chửi
Trí thức! Phải chửi Đạo đức! Phải tốc ngược lịch sử lên để nhìn rõ những chân
dung ngụy tạo! Cái nhạy cảm đạo đức tuyệt vời thiên phú của anh xui anh làm thế!
Nhưng anh phải nén tấm lòng xót xa ấy, xã hội không cho anh xót xa, đất nước
đang đi lên không được xuýt xoa. Vì thương con người mà không thể thương con
người (tôi thích lời bình luận ấy của Hoàng Ngọc Hiến), vì quá xúc động nên phải
viết lời vô cảm! Đọc những câu văn tục tĩu, vô cảm hoặc độc ác của anh, tôi cứ ứa
nước mắt. Chỉ riêng cái vỏ bút pháp của anh đã chứa hết cái ruột gan của xã hội
trong đó rồi. Cốt chuyện chỉ còn là cái cớ, lúc thực lúc hư. Xã hội quái đản ấy
cũng buộc phải đẻ ra thơ Bút Tre để phản ánh nó, khi văn học chính thống cứ ngồi
lù lù đó một cách vô tích sự. Tôi không nói ông Bút Tre ở Vĩnh Phú mà ông Ngô
Quang Nam vừa mới viết sách ca ngợi. Cái ngớ ngẩn một cách chân thành, và chân
thành một cách ngớ ngẩn, của người cán bộ văn hóa Vĩnh Phú kia chỉ là cái cớ để
dân gian tải cái ngớ ngẩn giả vờ của mình, để riễu cợt những giá trị mà công
khai họ cứ phải hoan hô. Thơ Bút Tre thật không ai thuộc làm gì, đọc rồi cũng
không nhớ được, còn Bút Tre dân gian thì mỗi lần nghe người ta đọc, tôi lại thấy
cái sức sống mới mẻ, say sưa như thế chính người ấy đang sáng tác. Câu thơ Bút
tre chính xác và thông minh, đa nghĩa, lại núp dưới cái vỏ ngô nghê đơn nghĩa,
để nhại chính cái thứ văn học công nông đại chúng tùy tiện giáo điều. Cười bò
ra, rồi chảy nước mắt... vì đau trong ruột. Tiếc rằng chưa tiện trích dẫn ở
đây. Còn những cây đa cây đề trong nền Văn học cách mạng thì cuộc đời văn học đều
bị chia đôi: Vị nghệ thuật nửa cuộc đời, Nửa đời sau lại vị người ngồi trên!
(Xuân Sách, chân dung Nhà văn) Cái còn lại của những tài năng văn học tiêu biểu
ấy là những tác phẩm thanh xuân đầu đời, của người nghệ sĩ tự do, những Điêu
tàn, Lửa thiêng..., còn nửa sau là cái nửa lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc
phù sa (Xuân Sách, chân dung Nhà văn) nên hỏng cả sự nghiệp lẫn nhân cách. Người
bị mất chung quy là Dân tộc. Những bài thơ di cảo Bánh vẽ, Trừ đi, Ai tôi của
nhà thơ Chế Lan Viên lỗi lạc (xem phụ lục 3) đủ để tự phủ định toàn bộ cái nửa
đời sau của cả một thế hệ văn nhân, nhưng những ngày cuối cùng của ông lại cho
thấy người nghệ sĩ đã mất nửa đời người ấy họ đâu có thể tự do về nguồn theo
lương tri của mình! Bởi họ không đủ điều kiện để thẳng thắn trả lời câu hỏi: Cuộc
đời hai nửa vì đâu? Nửa say Quỷ kế, nửa đau Nhân tình! (HSP, thư gửi Xuân Sách)
Dòng Văn học mới không thể không phản tỉnh, tự mình lật tẩy mình để tự vượt
qua, vượt qua mình, vượt qua một vùng Văn hóa thấp mà về với loài người nói
chung. Tóm lại không thể xây dựng nổi một nền Văn hóa Vô sản, vì không có một
giai cấp Vô sản tiêu biểu cho thời đại như Mác tưởng tượng. Những xã hội trước
đây đã lao theo con đường của Mác thì nay chẳng có con đường nào khác ngoài con
đường trở về với Dân tộc truyền thống và mau chóng gia nhập vào Thời đại, mà nội
dung hoàn toàn khác với nội dung Thời đại mà các Đảng Cộng Sản thế giới trước
đây ấn định. Tình hình xã hội trong giai đoạn chuyển đổi tất nhiên rất phức tạp.
Muốn có lối ra tốt đẹp nhất cho Dân tộc thì phải bắt đầu bằng cái nhìn Văn hóa
và phải giải quyết một cách Văn hóa. Nếu tiếp tục duy trì trạng thái Văn hóa cũ
đã kém sức sống thì tình trạng tranh tối tranh sáng sẽ là cơ hội để những thứ
Văn hóa không lành mạnh xâm nhập và chiếm lĩnh. Trong điều kiện ấy xã hội sẽ có
sự ổn định bề ngoài nhưng thoái hóa bên trong, xã hội có thể đạt những tiến bộ
nhất định về Kinh tế nhưng sẽ thoái hóa về Văn hóa nói chung. Văn hóa thấp kém
sẽ phá hoại tất cả.
1) Tự nhận ra mình và nhận ra thời đại: Lịch sử đang đặt Việt Nam trước một bước nhảy. Không phải nhảy vọt kiểu cách mạng, nhưng cần một bước nhảy khoa học, dũng cảm và khôn khéo. Cũng như người đi đường, có lúc phải nhảy, nếu không thì không vượt qua được chướng ngại và bùn nhơ. Nhưng muốn có bước nhảy chính xác cần biết rõ mình đang đứng ở đâu và phải hướng tới đâu, bị bịt mắt thì chỉ còn cách để cho người khác dắt đi đâu thì dắt chứ nhảy sao được. Những phần trên, tôi đã trình những cơ sở nhận thức để kết luận rằng: Thực chất, Việt Nam là một nước đang chọn nhầm phải con đường xã hội chủ nghĩa đầy tính phong kiến và ảo tưởng, đã chót tách khỏi thế giới thông thường từ khi mình còn là một nước phong kiến lạc hậu, nay đã đến lúc buộc phải từ bỏ con đường ấy để trở về hội nhập với nền văn minh nhân loại, giữa lúc kỷ nguyên Văn minh Tin học đã bắt đầu! Đã xuất phát chậm, lại bỏ phí mất nửa thế kỷ, nên việc đổi mới tất nhiên phải khẩn trương để khỏi bị tụt hậu quá xa. Từ nền kinh tế chỉ huy, kế hoạch hóa, phải chuyển về kinh tế thị trường. Từ xu hướng công hữu, tập thể hóa, phải chuyển về sở hữu đa dạng, trong đó tư hữu là chính. Từ nền Chuyên chính Vô sản, và thực chất là biến tướng của Đức trị Phong kiến Chuyên chế phải chuyển dần thành một nền Pháp trị Dân chủ Đa nguyên. Từ quan hệ quốc tế 2 phe thù địch (trong đó quan hệ nội bộ phe Xã hội chủ nghĩa thì theo nền nếp một đại gia đình đức trị, bao cấp và gia trưởng) chuyển sang một quan hệ toàn cầu, đa phương, biến động, Tự Do nhưng trong luật quốc tế văn minh, bình đẳng nhưng trong quy luật cạnh tranh sinh tồn khắc nghiệt, bác ái trong việc cùng nhau chia sẻ những thành quả của văn minh, nhưng đồng thời chia sẻ trách nhiệm gìn giữ môi trường sống, cùng nhau ngăn chận và khắc phục những tai họa và dã man. Từ một xã hội Thần dân với uy lực tỏa xuống của một ý thức hệ với những tư tưởng, nghị quyết, và phân loại công dân để đối xử... phải chuyển thành một xã hội Công dân bình đẳng, lấy luật pháp, dân quyền và nhân quyền làm nguyên tắc đối xử, và vận dụng quyền lực nhân dân từ dưới lên để khống chế và lành mạnh hóa quyền lực thống trị. Từ một quân đội, một bộ máy hành pháp của Chế độ, của Triều đình phải chuyển thành một quân đội, một bộ máy thực sự của quốc gia và luật pháp. Phù hợp với những thiết chế căn bản ấy, thì một nền giáo dục, văn nghệ nói riêng và nền văn hóa nói chung cũng sẽ phải thay đổi một cách căn bản. Tóm lại, lịch sử dân tộc đang đòi hỏi một cuộc Đổi mới sâu sắc và toàn diện, một sự tự lột xác, một sự quay ngược các tấm biển chỉ đường, như vậy dĩ nhiên không phải để đi tiếp một bước xa hơn trên quỹ đạo Bác Hồ đã chọn, mà để trở về thành một quốc gia lành mạnh và tiến bộ. Cái C, tức cái chủ nghĩa Xã hội, là mô hình do Đảng Cộng Sản chủ trương, cái MI là đòi hỏi của Dân tộc và của Thời đại. Hai cái C và MI đó mâu thuẫn nhau một cách toàn diện, trong đó cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa vai trò độc tôn của Đảng Cộng Sản với tính chất Dân chủ Đa nguyên của xã hội mới. Chẳng ai tin rằng một Đảng Cộng Sản đang nắm mọi quyền lực trong tay tự nhiên lại khởi xướng một cuộc Đổi mới như thế! Trái lại nếu Đảng ấy chống lại sự đổi mới này thì cũng là điều dễ hiểu, bởi chính Mác-Lê vẫn nhắc mọi người rằng không ai lại tự nguyện rời bỏ địa vị thống trị của mình. Dẫu chúng ta yêu mến nhau đến đâu cũng không được che dấu quy luật muôn đời ấy. Nếu thực sự để quyền lợi dân tộc lên trên, chúng ta hãy thẳng thắn đặt ngửa vấn đề ấy trên bàn, ai đuối lý hãy tự rút lui (nhưng chữ nếu này quá khó đối với người đang cầm quyền)! Quy luật muôn đời cũng như thực tiễn rành rành trước mắt đều thống nhất chứng minh một điều là: Trước yêu cầu bất khả kháng của quy luật, Đảng ta bị buộc phải đổi mới, song lại đối phó bằng vẫn trở về với những quy luật chung nhưng theo một phương án có lợi nhất cho mình và cự tuyệt mọi phương án khác! Đảng ta khởi xướng là khởi xướng cái phương án riêng ấy của mình, rồi ép Dân tộc phải lấy cái riêng ấy làm cái chung! Giữa cái riêng ấy và cái chung có rất nhiều điểm giống nhau, nhất là những biểu hiện bên ngoài, nhưng lại có nhiều điểm khác nhau rất căn bản. Vì thế trước cùng một thực tiễn Việt Nam mấy năm qua mà người thì vui vì đã có rất nhiều đổi mới, người thì thất vọng vì có những điều căn bản vẫn chẳng thay đổi gì! Nếu có một con đường công tư lưỡng lợi, trong đó cái chung cũng là cái riêng, cái riêng cũng là cái chung (như ta vẫn thường nghe) thì ai chẳng tán thành, còn mong gì hơn? Nhưng đơn giản vậy thì lịch sử sẽ chỉ còn là một trò đùa. Vấn đề phải đặt ra là: Nếu người lãnh đạo được Tự Do thực hiện phương án của mình thì đất nước và nhân dân sẽ phải trả giá ra sao? Sự trả giá của một dân tộc trước lịch sử chỉ có thể được nhận ra nếu có một tầm nhìn ít ra là vài thập kỷ. Nhưng khi những người thiển cận đã nhìn ra sự thật thì đoạn lịch sử ấy đã xong rồi. Khoảng thời gian chênh lệch này đủ để kẻ cơ hội làm xong một sự nghiệp, và cũng đủ để Dân tộc tan vỡ một sự nghiệp! Tình huống ấy làm bật ra tầm quan trọng của một cuộc đấu tranh không thể trì hoãn trong nội bộ dân tộc về nhận thức. Người và Dân tộc ắt muốn phơi bày tất cả những nhận thức xuôi ngược lên bàn để cùng nhau sàng lọc. Kẻ giả danh dân tộc ắt cấm không cho ai nói khác mình, chỉ có mình được độc quyền dẫn dắt nhận thức của xã hội. Trở ngại trong việc nhận thức THI ĐạI: Nội dung của Thời đại mới là vấn đề đã được đề cập nhiều lần, ngay cả trong bài viết này, nên về mặt lý luận chung thiết tưởng không cần nhắc lại. Thời đại mới là cái đang bày ra trước mắt, lại là cái của toàn thế giới, mà là thế giới Tin học, thì khó che dấu được. Ngoài những tài liệu lý luận cơ bản, người ta có thể đọc nhiều tài liệu tham khảo, chẳng hạn như ba cuốn sách đã dịch của nhà Tương lai học An-vin Tô-flơ (Làn sóng thứ 3, Cú sốc tương lai, Thăng trầm quyền lực). Nhưng việc nhận thức về Thời đại mới vẫn cứ gặp trở ngại, bởi có những ngụy biện. Về nội dung của Thời đại mới, tại thời điểm này có lẽ ngụy biện chủ yếu chỉ còn nằm trong vấn đề Dân chủ Đa nguyên. Lúc đầu các nhà lý luận Mác xít phản đối Đa nguyên một cách tuyệt đối: về nguyên tắc đã Đa nguyên là Dân chủ Tư sản, tức là phản động! Nhưng nói thế mãi xem chừng khó xuôi bèn chuyển sang mền dẻo hơn: Về nguyên tắc, Cộng Sản và Đa nguyên đa Đảng không loại trừ nhau. Liên Xô trước đây, Việt Nam trước đây đã từng Đa Đảng. Nhưng, (Đây mới là luận điểm quan trọng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, xin trích): Trong điều kiện Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai, không có sự cần thiết khách quan nào để tạo dựng nên các Đảng phái chính trị đối lập. Một chế độ Dân Chủ chân chính không phải được quyết định ở chỗ có một Đảng hay nhiều Đảng. Vấn đề là ở chỗ nền Dân Chủ đó hình thức hay có thực chất, Dân Chủ do một thiểu số hay cho đa số nhân dân. Nắm vững chân lý sơ đẳng này có ý nghĩa nguyên tắc để không bị tuyên truyền về Dân Chủ tư sản mê hoặc và lừa mị chúng ta. (Tổng Bí thư NGUYỄN VĂN LINH, Tạp chí Cộng Sản, số 2-1990, trang 7). Bất cứ người Việt Nam nào kể cả trí thức, nếu đã sống vài chục năm trong chế độ chúng ta, thì khi nghe những lập luận trên đây của Tổng bí thư ắt cảm thất tính khúc triết của Trí tuệ, tính đương nhiên của Chân lý và tính sang sảng đanh thép của Quyền uy. Nghĩa là không còn mảy may nào có thể cựa quậy, nhúc nhích gì nữa. Nhưng hãy thử động não một chút xem sao! Cứ thử làm người có tư duy một chút xem sao! (Không tư duy thì ta đâu còn tồn tại như một Con người?). Trước hết xin ghi nhận đây là kiểu lý luận rất đổi mới của Việt Nam. Nếu là trước đây thì một Tổng Bí thư nhất định không tha thứ cho bất cứ một thứ lý luận Đa nguyên nào, song ở đây ông đã tha thứ cho lý luận mà chỉ nói chuyện thực tế, tha thứ cho thế giới mà chỉ nói chuyện Việt Nam. Nhưng khi đã trở về với điều kiện Việt Nam thì ông không tha thứ cho ai nữa. Mọi thần dân đều phải nắm vững cái chân lý sơ đẳng và có ý nghĩa nguyên tắc mà ông nêu ra. Vì đã là sơ đẳng và nguyên tắc thì không còn khả năng nhân nhượng, nên những gì khác với nó ắt bị liệt vào dân chủ tư sản có âm mưu mê hoặc và lừa mị, chỉ còn cách bọn phản động có một sợi tóc! Với tội danh ấy thì được mời đi học tập là cái chắc. (Dân ta nổi tiếng là hiếu học mà lâu nay cứ thấy nói đến học tập là hoảng!) Chân lý sơ đẳng của Đảng là: một Đảng hay nhiều Đảng không quan trọng, quan trọng là Đảng ấy tốt hay không tốt! Tốt thì một Đảng cũng đủ! Đúng quá, và nên thêm: Nếu tốt thì một Đảng chẳng những cũng đủ mà lại còn nên cho Đảng ấy quyền trị vì thật độc quyền và thật vĩnh viễn vào, để khỏi có Đảng nào tranh vào đấy nữa. Vớ được cái tốt nhất thì dân tộc nào chẳng muốn giữ mãi cho mình! Chân lý ấy quả là sơ đẳng, nông dân sẽ hiểu ngay, trẻ con cũng hiểu ngay! Chỉ có cả loài người là phải trả giá máu xương hàng ngàn đời cho nó, để đến hôm nay tỉnh ngộ rằng: Nếu chỉ có một thì biết thế nào tốt với xấu, anh bảo xấu nhưng tôi bảo thế là nhất rồi, làm gì có cái tốt hơn được, anh chống cái tốt nhất ấy thì anh là phản động! Hơn thế, nếu chỉ có một thì dẫu cho ban đầu có tốt thực hơn trăm phần trăm, sau dứt khoát cũng trở nên xấu, dẫu cho ban đầu có dân chủ thực chất thì sau dứt khoát cũng trở nên dân chủ hình thức, quy luật này không có ngoại lệ. Vì người ta khám phá ra QUY N BNH có một thuộc tính rất lạ là cứ phải có nguy cơ bị mất thì nó mới có khả năng trở nên tử tế hoặc mới duy trì được sự tử tế. Chắc ông sẽ cãi: nhiều nước đa Đảng đấy nhưng có dân chủ đâu? Nếu vậy thì chúng ta chỉ còn biết nhắc lại cái điều sơ đẳng: đa là điều kiện cần, chứ không phải là điều kiện đủ! Bây giờ tới luận điểm cho rằng trong điều kiện Việt Nam không có sự cần thiết khách quan nào để tạo dựng nên các Đảng phái đối lập chính trị. đời, phàm nghe thấy lời phát ngôn cần hay không cần là cử tọa phải nhỏm dậy để nhìn mặt người nói ấy là ai. Chẳng hạn hai người buôn chung, lãi được 10 đồng, anh này cướp lấy 9 đồng và chia cho chị kia một 1 đồng. Trọng tài kinh tế hỏi: Có cần chia lại không? Cử tọa thử tưởng tượng xem nếu cái anh đã cướp 9 đồng kia lại la tướng lên rằng không cần thì khôi hài biết chừng nào? Câu hỏi ấy là dành cho phía bị thiệt, bị ăn hiếp, chứ không phải dành cho người đã giành được quyền lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối! Chị kia bị ăn hiếp, muốn đòi chia lại nhưng lấm lét không thốt ra lời, vì sợ rằng chia lại xong. Trọng tài đi rồi thằng kia nó sẽ nện cho nhừ xương và cướp lại, thì tiền vẫn mất, mà tật lại mang. Nếu Trọng tài đáng bậc quan phụ mẫu thì sẽ hiểu ngay tình thế lá có cách làm cho vấn đề được sáng tỏ. Nhưng nếu Trọng tài cũng thuộc loại quan cướp ngày thì ắt đứng về phía kẻ mạnh, nhân lúc chị kia im lặng, sẽ tuyên bố: Không thấy ai nói cần chia lại, vậy kể như hiện nay, cũng như trong tương lai, không có sự cần thiết khách quan nào phải chia lại nữa! Thế là rất Dân chủ, rất Pháp trị và rất Khách quan, có đủ cả còn kêu ca nỗi gì? Cứ xem như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, do Đảng Cộng Sản chế tạo để làm cảnh mà còn phải tự giải tán thì những Đảng phái chính trị đối lập (như Tổng bí thư có nhắc đến) chắc cũng nên biết tự giải tán trước khi thành lập mới là biết đều. Biết điều thì đừng có xuất hiện, không xuất hiện tức là không có nhu cầu, không có nhu cầu thì không được phép xuất hiện là đúng chứ gì nữa! Cái tam đoạn luận Cộng Sản nước mình còn khó cãi hơn cả tam đoạn luận A-ris-tốt! Một chi tiết nữa trong chuyện Nội dung Thời đại là cái định hướng Xã hội chủ nghĩa của Việt Nam và mấy nước Cộng Sản kiên trì. Ta còn nhớ trước đây, khi định nghĩa Thời đại mới là thời đại chuyển từ chủ nghĩa Tư bản sang chủ nghĩa Xã hội trên phạm vi toàn thế giới thì có nghĩa là những người Cộng Sản đã coi trái đất, tức ngôi nhà chung, là của riêng thế giới Cộng Sản, các nước Tư bản chỉ còn là những kẻ tạm trú, chỉ được gia hạn ở thêm một thời gian nào đó thôi, giai cấp Công nhân đào huyệt sẵn cho họ rồi (chính với tinh thần làm chủ ấy nên Phi-del Cas-tro đã nói: Mỹ không thích Cuba dọn đi nơi khác mà ở!.) Nay những nhà lãnh đạo của mấy nước Cộng Sản sót lại đã có đôi chút khiêm tốn, chỉ kiên trì cái định hướng xã hội chủ nghĩa trong lãnh thổ của mình, chứ chưa quyết định việc tràn ra trên phạm vi toàn thế giới!. Được tạm tha, chắc các nước trong khối G7 cũng như Cộng đồng châu Âu đã có thể tạm yên tâm, tiếp tục lo việc làm ăn để có tiền giúp chúng ta ra khỏi tình trạng nghèo khổ (200 đôla trên đầu người một năm) để ta còn xây dựng Chủ nghĩa Xã hội tiên tiến cho họ noi theo... (!) Thật là một sự phỉ báng không gì có thể so sánh. Những thế hệ con cháu chúng ta sau này chắc không thể tưởng tượng rằng ông cha chúng đã có thời dám dũng cảm dùng sự ngu dốt ma quái của mình để phỉ báng Trí tuệ loài người một cách thản nhiên đến thế! Khi mọi lý luận cũng như thực tế đã được phơi bày đến mức này, nếu quả thật cả Dân tộc 70 triệu này vẫn cứ nhất tề giữ vững cái định hướng Xã hội Chủ nghĩa ấu trĩ do các thế hệ thiệt thòi trước kia đã chọn (như lời Đảng ta khẳng định) thì hóa ra cả Dân tộc chỉ là một đàn vịt hay sao? Coi dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh là chủ nghĩa Xã hội thì chỉ chứng tỏ Đảng ta khinh cái Dân tộc này không còn ai biết gì, vì đó chỉ là câu nói đùa! Các vị đại biểu quốc hội nghĩ thế nào thì tôi không rõ, nhưng một người dân thường hôm nay cũng hiểu được cái chân lý của Thời đại là: nếu không cố giữ cái định hướng Xã hội chủ nghĩa thì Đảng ta biết làm cách nào để giữ yên vai trò độc tôn của mình? Người ta nhái lời thơ Cao Bá Quát nói với Tự Đức: Khề khà mưu kế đa nhân thức, Khệnh khạng tương lai bịp Tú tài! Thử hỏi ngày nay có nhà khoa học nghiêm túc nào dám đưa Xã hội chủ nghĩa vào Nội dung của thế kỷ 21 hay của kỷ nguyên Văn minh Tin học hay không? Vậy thì dù có mỹ miều đến đâu, cái gọi là Xã hội chủ nghĩa cũng chỉ là một con đường giả định rất lơ mơ. Tại sao dám huy động tất cả sinh lực của một dân tộc vào cái việc ép dân tộc đó dấn thân vào một con đường còn rất lơ mơ, đầy bất trắc? Con đường mà chính người dẫn đường cũng mới chỉ được đọc trong một cuốn tiểu thuyết giả tưởng! Con đường mà ngay những người đạo gốc đi trước cũng đã phải quay về, với những thân hình tiều tụy? Con đường mà mới đi một quãng đã thấy lố nhố những khuôn mặt cường hào mới! Con đường mà mới đi một quãng đã ngót 10 triệu con người đã tàn phế, tử vong, (người là vốn quý nhất?)!... Sự phi lý ấy quá hiển nhiên nên buộc người ta phải nghĩ rằng: người dẫn đường kia không hề ngu dốt, bởi đấy là một sự ngu dốt không thể có! Đã không ngu dốt thì chỉ có thể là ma quái, vì chắc chắn không thể là bình thường! Và cái phép lôgic tự nhiên buộc người ta phải nghĩ rằng: Cái định hướng làm cho mọi người mất công bàn cãi kia chỉ là định hướng giả. Con đường thì rất lơ mơ, không có trên bản đồ, nhưng phải có một cái gì đó không lơ mơ, một cái gì đó rất vật chất mà người dẫn đang có thật trong bàn tay đang nắm của anh ta, và anh ta cứ giữ dịt lấy không cho ai động đến! Chỉ có một thứ vật chất sờ sờ như vậy mới có thể làm cho ông trùm duy vật kia có được nguồn sức mạnh để tiếp tục cái công việc mà những người không biết cứ tưởng là duy tâm, phi lý! Và nếu cần thì anh ta vui vẻ nhận ngay cái khuyết điểm duy tâm, duy ý chí để khỏi ai nhắc đến cái ưu điểm rất duy vật của mình! Khi tôi bộc lộ suy nghĩ này với mấy người dân, họ phá lên cười: Khổ quá, các ông khoa học thiếu thực tế nên mới phải có luận cứ nọ, lôgic kia, lại chỉ tổ để người ta kết tội là làm yếu sự lãnh đạo. Chứ chúng tôi lăn lộn với thực tế, chúng tôi biết tỏng từ tám đời rồi! Nhưng chúng tôi thấy cái ông dẫn đường cầm doi kia tớp được cái đùi gà thì chúng tôi cũng phải lẳng lặng nhặt cho vợ con mình con tép riu, chứ ngu gì mà chịu chết đói? Chúng tôi không dám làm yếu ai cả, chúng tôi chỉ làm cho mình mạnh lên thôi! Nghe họ nói tới vừa phục lại vừa thương, cách ứng xử Việt Nam mình là vậy. Những trở ngại trong việc tự nhận ra mình: So với việc nhận thức Thời đại thì việc nhận ra mình gặp khó khăn hơn nhiều. Nhận ra chân dung quá khứ của mình đã khó, nhận ra chân dung của mình hôm nay lại càng khó hơn. (Thật là ngược đời). Vì mọi cố gắng ngụy tạo đều tập trung ở đây. Cuộc đấu tranh để tự nhận thức về mình diễn ra trên ba lĩnh vực: 1. Về quá khứ, cội nguồn: Lịch sử Việt Nam, Con người Việt Nam có ưu điểm gì, khuyết nhược điểm gì? Tính cách Con người Việt Nam ra sao? Nên đánh thức nó hay nên ru ngủ nó? 2. Về Cách mạng Việt Nam: Những biến cố lịch sử của Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Những trào lưu, bản chất, tính đúng sai, sự thành bại, hiệu quả và hệ quả của những trào lưu ấy, đặc biệt là trào lưu Cộng sản. 3. Về công cuộc đổi mới đất nước hiện nay: Yêu cầu khách quan có tính Thời đại đổi với cả Dân tộc là gì? Phương án đổi mới do Đảng khởi xướng thực chất là gì? Hiện trạng, hiện tình của xã hội Việt Nam hôm nay ra sao? Tiên lượng thế nào? Ba khâu tự nhận thức ấy là ba bước liên hoàn, gắn với nhau rất lôgic. Chẳng hạn: Nếu muốn khẳng định sự lãnh đạo đổi mới như hiện nay là đúng đắn, là làm vẻ vang cho dân tộc, (nên không ai được chống lại!) thì trước hết phải khẳng định nửa thế kỷ đi theo Mác-Lê để đấu tranh giai cấp và tiến lên chủ nghĩa Xã hội là đúng đắn, và phải ca ngợi dân tộc này là tuyệt vời, bởi có tuyệt vời mới biết chọn con đường đúng đắn ấy và chọn người dẫn đường tuyệt vời ấy. Và như thế thì đương nhiên không thể lôi những sai lầm Cải cách ruộng đất và Cải tạo tư sản, lôi những vụ án Nhân văn, vụ Hoàng Minh Chính, thảm trạng thuyền nhân vượt biên... ra mà khảo sát được! Và cái Dân tộc tuyệt vời này cứ tiếp tục như thế mà đi, đừng có nhìn trước nhìn sau, đừng nghe ai xúi dục mà cựa quậy làm gì cho rách việc! Trái lại nếu muốn căn cứ trên đặc điểm của Thời đại và những quy luật tiến hóa phổ quát, muốn so sánh Dân tộc ta với các Dân tộc khác về những thành quả đang được hưởng và cái giá phải trả cho những thành quả ấy, để tìm lời giải tối ưu cho Dân tộc mình thì khi ấy Dân tộc là trên hết, Mác-Lênin cũng không to, Đảng cũng không to... cứ cái gì tốt và hợp thời thì giữ, cái gì xấu và lỗi thời thì bỏ. (Trong bức thư ngỏ của mình một người Cộng sản viết: Đảng là cái gì mà không được chống? là trên tinh thần Dân tộc ấy). Cái gì cũng phải đem ra khảo sát, cái gì cản trở Dân tộc đi lên đều phải được phê phán, nợ nần oan khuất đều phải trang trải phân minh! Nếu lựa chọn con đường vì Dân tộc như vậy thì Đảng quy tội là chống Đảng, vậy Đảng là cái gì? Ông Nguyễn Trung Thành là người biết rõ hơn ai hết rằng những người bị Đảng cầm tù vì tội xét lại, chống Đảng là không có tội, nên đã yêu cầu minh oan cho họ. Tổng bí thư Đảng đã đúng đối lập với thái độ thức tỉnh ấy của lương tri, vậy Đảng là ai? Những bài lý luận của chúng tôi đã trình bày phương hướng của một hệ tư duy mới, một phương pháp luận mới. Trên cơ sở ấy đã thử nhìn lại một cách hệ thống dân tộc mình, xã hội mình trước đây và hiện nay. Qua những bài phê phán của Trung ương Đảng, của Ban Tư tưởng Văn hóa, cũng như của các nhà lý luận Mác-xít trong nước nói chung, tôi biết mình bị coi là đại biểu của khuynh hướng phủ định sạch trơn. Nhưng rất tiếc đấy chỉ là những quy kết chính trị, l Những lấp luận ngụy biện, không có những nội dung khoa học để thảo luận. II) VƯợT QUA NGụY BIệN: A) Nhìn chung tình trạng ngụy biện: Quyền và Tiền, hay Bạo lực và Đôla, là những sức mạnh vật chất của xã hội. Chẳng có cái c nào không biết bám vào hai cái đó để sống. Nhưng phải ở các nước nông nghiệp Châu, đặc biệt là trong ý thức hệ Mác-Lê thì hai sức mạnh ấy mới có thêm một đồng minh thứ ba, để kết lại thành thế chân vạc giữ cho thành trì bảo thủ bất cả xâm phạm. Đó là NGụY BIệN! Ngụy biện đã có tự nghìn xưa, nhưng chỉ Cộng sản châu mới nâng được nó lên thành quốc sách, để cùng với cây gậy và củ cà rốt thành Tam pháp bảo. Thử xem khắp kim cổ đông tây, ở đâu có một bộ máy ngụy biện hoàn chỉnh, ngang nhiên và đạo đức nhường ấy? Nền Ngụy biện Việt Nam được hun đúc từ ba yếu tố: - Yếu tố thứ nhất là những lý thuyết của nền Đức trị Phong kiến chuyên chế từ phương Bắc, mang nặng tính tín điều tôn giáo hơn là tính khoa học khách quan. - Yếu tố thứ hai là truyền thống láu vặt của một dân tộc nhược tiểu (so với nước láng giềng khổng lồ) vốn thông minh nhưng không có độc lập và Dân Chủ, nên không thể kết đọng thành những hệ tư tưởng chính thống độc lập. Nó là sự cố gắng chắp vá để dung hòa, hoặc ngược lại thì là sự chống chế, đối phó để tồn tại. Lý sự kiểu Trạng Quỳnh ấy có tác dụng để phá hơn là để xây. - Yếu tố thứ ba là lý thuyết Cách mạng Vô sản, vừa mang tính chất võ đoán của một triết học quyết định luận, vừa mang tính tùy tiện của thứ lý thuyết chính trị thực dụng. Toàn bộ cái gọi là Chủ nghĩa Xã hội khoa học chẳng qua là một Đại ngụy biện, nhằm biện minh cho một ảo ảnh. Học thuyết ấy đi vào xã hội và con người Việt Nam không qua vọng gác của Trí tuệ. Truyền thống Ngụy biện tiềm tàng ấy đặc biệt khởi sắc trong thời kỳ đổi mới để thích ứng với tính chất phức tạp, và lắt léo của giai đoạn này, nhất là từ sau Đại hội 13 của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Đại hội 7 của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đối với người cầm quyền, Ngụy biện thành vũ khí thứ ba lợi hại, để vừa tránh phải dùng nhiều đến cái gậy, vừa tiết kiệm được củ cà rốt. Ngụy biện này tận dụng triệt để những thành quả trong quá khứ của cuộc chiến tranh vệ quốc, tận dụng tâm lý sau chiến tranh muốn yên thân và khát khao cuộc sống vật chất, và tận dụng thói quen phục tùng vô điều kiện của dân. Tóm lại là tận dụng tình trạng dân trí thấp để không đổi mới mà vẫn đổi mới, để nói đổi mới của dân, do dân, vì dân mà thực ra là đổi mới của mình, do mình, vì mình, để miệng nói định hướng Xã hội chủ nghĩa mà tay làm định hướng Tư bản chủ nghĩa. Đối với Cán bộ cấp dưới và dân chúng, thì Ngụy biện là vũ khí để tự giải phóng mình khỏi sự kiềm hãm của cơ chế, để có thể cứ vi phạm mọi điều mà không ai bắt tội được. Họ tận dụng triệt để tính phi lý của ý thức hệ, tính mâu thuẫn và thoái hóa trong hệ thống điều hành, tính dân chủ giả, pháp trị giả, nói một đằng làm một nẻo, và nhất là tính nhị nguyên của phương án làm kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đối với Trí thức, Văn nghệ sĩ thì Ngụy biện có hai dạng: dạng Ngụy biện giúp cho Đảng và dạng Ngụy biện tự che cho mình. Những Ngụy biện cho Đảng chính là những luận điểm vẫn công bố trên sách báo chính thống và các phương tiện truyền thông đại chúng. Những Ngụy biện này ngày càng xẹp dần đi. Nhưng những Ngụy biện để che cho mình thì ngày càng phát triển, nhất là khi ngọn lửa đổi mới hồ hởi của Đại hội 6 đã bị cái gáo nước lạnh ổn định dội cho tắt ngẩm. Đó là cả một hệ thống những não trạng, tâm trạng, tâm tư, tâm lý... ngày càng sâu rộng, bộc lộ trong những lúc tâm sự, những chuyện nhàn đàm, những cách ứng xử... mà dưới đây tôi sẽ điểm qua. B: Điểm qua một số Ngụy biện: Như đã nói từ bài Dắt tay nhau...: nét đặc sắc của cuộc đấu tranh mới trong xã hội là cục diện đấu tranh giữa Ngụy biện và Chống ngụy biện nên Nội dung Chống Ngụy biện, nhất là những Ngụy biện chính gắn với lý luận, tôi đã đề cập trong những phần lý luận trước đây cũng như trên đây. Sau đây chỉ là phần bổ sung cho rõ thêm, chủ yếu về những ngụy biện bất thành văn nhưng trực tiếp chi phối thái độ ứng xử. Tôi tạm chia những Ngụy biện thành 4 cụm, kèm theo lời bản ngắn gọn. Đối với một số ngụy biện quá ngô nghê, xin chỉ kể ra mà không bàn để tránh làm mất thì giờ của người đọc. 1/ Bảo vệ định hướng XHCN: 1) Mác không sai, vì Mác vạch ra cái hướng, chứ Mác đã nói cái gì cụ thể đâu? Mình tự làm sai sao lại đổ cho Mác? Không nên chống một lý tưởng, con người phải có niềm tin chứ? - Toàn bộ những bài lý luận của tôi là câu trả lời rằng mọi sai lầm đều bắt đầu nguồn từ phương pháp luận và định hướng sai của Mác. Việc phải thờ một chủ nghĩa để làm điển tựa cho niềm tin là chỉ dấu hiệu về sự thiếu tự tin. Khi con người đủ trình độ để tin vào mình và nhân loại sinh động quanh mình thì mọi chủ nghĩa giáo điều linh thiêng tự nhiên sẽ mất tác dụng. 2) Sai lầm thì nhiều, nhưng sai là do những cá nhân sai chứ Đảng không sai! - Phải hiểu ngược lại mới đúng. Tuyệt đại bộ phận những người trước đây vào Đảng Cộng Sản là những người tốt. Vì con đường đi trái quy luật nên sinh bế tắc và làm thoái hóa con người. Cứ đem cá nhân ra trị tội thì trị người này người sau lại phạm tội nặng hơn, mất hết cán bộ cũng không giải quyết được tình hình. Việc sửa con đường, đổi cơ chế sẽ làm cho những cán bộ đáng lẽ phải đi tù lại có khả năng thành cán bộ tốt. Thế mới là nhân đạo. Tôi biết rất nhiều Đảng viên tốt, có suy nghĩ hợp với lương tâm, hợp lòng dân, hợp lẽ phải, nhưng vì phải gò vào kỷ luật Đảng mà không thể làm theo lương tâm. Thử làm cuộc điều tra sẽ thấy những người Cộng Sản lão thành đáng quý bỏ sinh hoạt Đảng rất nhiều, vì họ không muốn đứng chung hàng ngũ với bọn tham nhũng và cơ hội, đi ngược lại lý tưởng của mình. 3) Sao lại nhẫn tâm phủ định máu xương, phủ định quá khứ, phủ định sạch trơn? - Không người Việt Nam biết suy nghĩ nào lại phủ định sạch trơn. Tôi thấy nhiều sĩ quan của chính quyền Sài Gòn cũ cũng biết đánh giá vừa phải về cụ Hồ, tự hào về Cách mạng tháng 8 và kháng chiến chống Pháp. Nhưng cuộc chiến tranh chống Mỹ (để bao quát hơn, nên gọi là cuộc nội chiến Nam Bắc lần thứ hai, lần thứ nhất là Trịnh Nguyễn phân tranh), cũng như những cuộc thanh trừng mang tính giai cấp và ý thức hệ thì ngay những người Cộng Sản hiểu biết cũng ngày càng phê phán. Phải phê phán những đường lối sai lầm ấy chính là vì quý, vì tiếc máu xương, vì trân trọng sinh mạng con người. Phê phán để không phải hy sinh vô ích nữa. Xã hội phải chăm sóc những gia đình nạn nhân chiến cuộc là đúng, nhưng đánh giá chiến cuộc lại là chuyện khác. Không phải đã dùng nhiều máu xương cho một con đường thì con đường ấy nhất định phải đúng. Không thể vì trót đổ nhiều máu xương nên nay phải giữ! Vấn đề là con đường nào lợi nhất cho Dân tộc từ nay về sau, muốn vậy phải nhận thức chính xác xem mình vừa đi trên con đường gì, đang đi trên con đường gì? Xin hãy bình tĩnh để tham khảo ý kiến của ông Lê Xuân Tá, một cán bộ của y ban Khoa học nhà nước những năm 60: ... Khát vọng của Lê Duẩn là phải làm một cái gì hơn cả Điện Biên Phủ, để vượt trội cả Hồ Chí Minh lẫn Võ Nguyên Giáp. Khát vọng đó được Lê Đức Thọ đồng tình Lập trường CH CHIẾN có nguồn gốc sâu xa như vậy. ... Nếu không phát động được cuộc chiến tranh ở miền Nam thì cả Lê Duẩn lẫn Lê Đức Thọ đều chưa nắm được thế thượng phong trên vũ đài chính trị. Tháng 11 năm 1960 Lê Duẩn phát động phong đồng khởi, đặt cả nước và toàn ban lãnh đạo Đảng ở thế đã rồi. (xem phần phụ lục, bài Hồi ức về cuộc khủng bố chống chủ nghĩa xét lại ở Việt Nam). Na-pô-lê-ông ngày trước cũng quyết định một trận đại chiến với _ chỉ để dọn đường cho vợ đi chơi! Trả giá cho máu xương ấy, chắc chỉ vài tấm huân chương là đủ. Còn việc phủ định quá khứ thì không ai đoạn tuyệt với truyền thống của nhân loại phũ phàng hơn trào lưu Cộng Sản (xem Đôi điều suy nghĩ của một công dân, mục Nguyên tắc tích lũy, kế thừa và giao thoa) 4) Chủ nghĩa Tư bản có sinh thì cũng có diệt chứ, phải có cái thay thế chứ! 5) Quân đội là dứt khoát Đảng phải nắm, không thì mất nước ngay. 6) Châu khác châu Âu, không thể tự do cá nhân cực đoan được. 7) Dân mình không pháp trị được. Giải quyết được tình cảm rồi thì gì cũng xong. 8) Các vị Bôn sê vích Đệ tam sai, chứ không phải Mác sai! Đệ nhị đúng chứ! hoặc Đệ tứ đúng chứ! - Dòng Mác-xít này có thể phê phán dòng Mác-xít kia là không trung thành với Mác. Nhưng tư tưởng Mác-xít có những khiếm khuyết căn bản từ trong nguyên lý (nhất là tư tưởng Mác ở giai đoạn sau), nên việc phản bội nó là điều không tránh khỏi, càng trung thành với những nguyên lý ấy thì càng bị đào thải sớm. Tôi nghĩ Đệ Nhị đỡ cực đoan hơn, nên phần hợp lý của nó đã được đồng hóa vào trong đường lối của các Đảng của Bắc Âu, của Pháp... Tôi có hỏi một nhà Đệ tứ: Tại sao các vị Bôn sê vích lại chống các ông hơn cả kẻ thù? thì được trả lời: Vì chúng tôi chấp nhận Dân chủ Đa nguyên! Đó là chi tiết đáng chú ý. 9) Ông đừng nhẹ dạ, tưởng Tư bản là tốt. Đánh bằng quân sự không được thì nó Diễn biến Hòa Bình! - Diễn biến Hòa Bình theo nghĩa chân chính của từ ấy là sự vận động lành mạnh của xã hội, hợp với quy luật tiến hóa. Nó trái với sự bảo thủ, trì trệ, nhưng đồng thời cũng trái với bạo lực và chiến tranh, trái với những đột biến cách mạng long trời lở đất một mất một còn. Con người văn minh, có văn hóa bao giờ cũng ủng hộ luật chơi diễn biến hòa bình, vì không thể khác. Song đó mới là luật chơi, trong đó cả lực lượng tiến bộ lẫn lạc hậu, chính nghĩa và phi chính nghĩa đều phải chấp nhận, trong đó mỗi bên đương nhiên có mục tiêu và đấu pháp riêng. Loài người tiến bộ từng ủng hộ những mục tiêu tốt và lên án những mục tiêu xấu, chứ không thể chống diễn biến hòa bình. Trừ những tình huống đặc biệt cần đến đột biến và bạo lực ra, nói chung nhân loại tiến lên bằng diễn biến hòa bình. Ai cũng biết phong trào Cộng Sản sành sõi cả về hai mặt đấu tranh cách mạng bạo lực và diễn biến hòa bình). Vì thế khi Đảng ta nói chống diễn biến hòa bình thì những người hiểu biết đã không hiểu nổi, nhất là khi miệng ta nói chống diễn biến hòa bình nhưng tay ta lại tiến hành diễn biến hòa bình rất ráo riết! Một công cuộc đổi mới lành mạnh và có văn hóa không có gì khác hơn một công cuộc DIỄN BIẾN H'A BNH! Phải đẩy mạnh chứ sao lại chống? Phải đẩy mạnh chiều hướng diễn biến tốt để lấn át chiều hướng diễn biến xấu! 10) Đảng vẫn phải lãnh đạo thôi, nếu Đa nguyên, các phái hữu cực đoan trở về phục thù là rách việc lắm. - Thế là chúng ta, người chuyên diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ, nay lại vừa sợ diễn biến hòa bình vừa sợ bạo loạn lật đổ! 11) Các ông ấy không dốt đâu, cai quản cả một xã hội như thế này đâu phải chuyện chơi, thằng Pháp, thằng Mỹ cũng phải chịu thua cả! 12) Cứ giữ chủ nghĩa Cộng Sản như một cái đích để mà ước vọng thì có sao đâu mà phải bỏ? - Một cái đích rất đẹp nhưng không khả thi thì chỉ có tác dụng tốt nếu để nó trong phạm vi tôn giáo, trong chùa hoặc trong nhà thờ... Đưa nó vào đời sống chính trị, xã hội thì nó thành cái để người ta nhân danh mà quyến rũ hoặc hù dọa mọi người, thành bình phong cho cái c, gây nhiễu đối với hệ thống giá trị hiện thực, nên rất có hại. Mọi chủ nghĩa không tưởng đều rất có hại, chính Mác, Ăng-ghen thấy rất rõ điều này. 2/ Bảo vệ phương án đổi mới hiện nay: 13) Mọi thứ đã thay đổi rất nhiều rồi, anh cứ nghĩ Mác như Mác ngày xưa, Đảng như Đảng ngày xưa nên anh mới nhắm mắt phê phán! Chính anh lạc hậu, lại phê người ta lạc hậu! - Chúng tôi không lo xã hội không thay đổi mà lo vì nó quá thay đổi. Thay đổi là quan trọng, nhưng thay đổi theo hướng nào mới là điều quan trọng hơn. Hiện nay có ba xu hướng phê phán: Thứ nhất, coi Đảng như người Cộng Sản quá bảo thủ, cứ khư khư giữ giáo điều cũ, phải đấu tranh để Đảng đổi mới, tức là cập nhật hóa cho Mác-lênin không thì lạc hậu. Tình trạng lạc hậu này chỉ còn đúng với một số cán bộ, Đảng viên cấp dưới. Thứ hai, coi Đảng hiện nay vẫn là Cộng Sản nhưng bị tha hóa, làm sai chủ nghĩa, vi phạm đạo đức, vì vậy phải đấu tranh để trở về cái gốc của Mác, của Hồ Chí Minh. Tình trạng này đúng với nhiều cán bộ, Đảng viên cấp trung gian. Thứ ba, coi Đảng hiện nay chỉ còn mang cái vỏ Cộng Sản vì quá tinh khôn, biết Mác-Lê không còn thích hợp với thế giới Văn minh Tin học, nhưng cứ dùng nó như một phương tiện để giữ yên dân chúng, giữ yên địa vị lãnh đạo của mình và tạo điều kiện đưa phe cánh của mình chiếm lĩnh vị trí béo bở trong xã hội Tư bản tương lai. Phải đấu tranh để công khai hóa mọi điều, chấm dứt tình trạng nói một đường làm một nẻo, chấm dứt việc dùng Mác-Lê làm bình phong. Tình trạng thứ ba này đúng với nhiều cán bộ, Đảng viên cấp cao, đang quyết định toàn xã hội. Tình trạng này nguy hiểm hơn nhiều, bởi vậy về tư tưởng, sự trung thành thật sự với Mác-Lê ảo tưởng không đáng sợ bằng sự trung thành giả. Đừng mải phê phán sự mê tín coi chủ nghĩa là mục đích mà quên nguy cơ chính là sự quá ư tỉnh táo, đang dùng chủ nghĩa làm phương tiện, như không phải phương tiện cho Dân tộc mà là phương tiện cho riêng mình. 14) Sự nghiệp đổi mới đang thu được những thắng lợi chưa từng có, nếu có khó khăn thì đó chỉ là những khó khăn đương nhiên của sự phát triển, tạo sao bỗng dưng các anh lại đề cập một cuộc kháng chiến mới là nghĩa làm sao? Hay các anh muốn hủy những thành quả mà chúng tôi đang được hưởng? - Có lẽ đây là Ngụy biện có tính phổ cập hơn cả. Nếu cuộc đổi mới tốt đẹp như thế thật thì những người đề cập đến cuộc kháng chiến mới kia nếu không phải là những người mắc bệnh điên thì dứt khoát phải là phản động(!). Chỉ có động cơ bất mãn hoặc bị gián điệp nước ngoài mua chuộc thì mới sa sút phẩm chất cách mạng đến thế được! Một kẻ như vậy, đầu tiên phải kể đến ông Nguyễn Khắc Viện, tác giả bài Bước vào cuộc kháng chiến mới (xem phần phụ lục). Người trí thức Mác-xít đã bỏ nước Pháp theo cụ Hồ về nước kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa Cộng Sản ấy, hôm nay viết: Tư bản, tôi hoàn toàn đồng ý (!) Mở đường cho Tư bản trong nước phát triển, mở cửa cho Tư bản ngoài vào, đồng ý, Cái đầu tầu Tư bản sẽ kéo nước ta lên. Đối chiếu với lý tưởng và hành động của ông cũng như của Đảng trước đây thì đấy là sự đầu hàng rành rành rồi còn cãi gì nữa, nhưng Đảng đã làm thế thì ông đành phải theo (đây là sự theo Đảng lần thứ hai của ông). Chắc hẳn ông đã theo Đảng đầu hàng Tư bản một cách vui vẻ nếu được đầu hàng Tư bản văn minh. Nhưng đằng này lại là Tư bản man rợ nên ông theo không nổi! Cái Tư bản man rợ ấy sẽ bóc lột ai cúi đầu cho họ bóc lột, đàn áp giết hại ai cản trở việc làm ăn của họ, sẽ mua chuộc tham quan ô lại, lừa bịp kẻ ngu dại. Bởi vậy ông mới phải kêu gọi mọi người Hãy cùng nhau bước vào cuộc kháng chiến mới, nay phải dựng nên một Mặt trận dân tộc, nhân dân, quốc tế rộng hơn, tiến hành một cuộc kháng chiến mới lâu dài hơn, đa dạng hơn. Mới mong hạn chế được tham nhũng, bảo vệ được môi trường, giảm nhẹ bất công xã hội, phân hóa giầu nghèo, giữ gìn được thuần phong mỹ tục, phát huy tình người, tôn trọng quyền phụ nữ, trẻ em, các nhóm thiểu số... Xem như vậy thì ông Viện không thể bị qui thành điên hay bị bọn phản động mua chuộc được. Trái lại ông cho mọi người thấy cái mặt trái của những thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Bài viết ấy của ông Nguyễn Khắc Viện chỉ là một ví dụ, những điều ông nêu ra lúc ấy (tháng 6/93) chưa thấm vào đâu so với thực tiễn, nhất là thực tiễn năm 1994-1995. Chúng ta đã dùng một bộ máy tuyên truyền khổng lồ để làm cái việc tô đậm một nửa của sự thật. Một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì..., còn một nửa của sự thật thì chỉ là sự dối trá khôn ngoan (phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa chính là một trong những ngón võ khôn ngoan ấy). Muốn hiểu đúng sự thật không thể không tiếp tục phân tích cái nửa sự thật đã được phơi bày, đồng thời phải đem đến cho mọi người những thông tin về cái nửa sự thật còn bị bưng bít. Ta nói ta muốn cho Dân làm chủ nhưng ta chỉ cho dân được nhìn cái một nửa sự thật do ta định hướng thì Dân làm chủ cái gì? Và cái công việc thông tin khách quan này không bao giờ có thể thực hiện được nếu không có ít nhất một quyền Tự Do là Tự DO BO CH. 15) Có kinh tế thị trường rồi, quy luật tự nó sẽ đi, đừng nóng vội! 16) Các cụ còn sống bao lâu nữa mà lo, con cháu các cụ thành tư bản cả, đến thời họ sẽ làm khác. Cứ để cho thế hệ các Cụ được mồ yên mã đẹp cái đã! 17) Phải từ từ, nóng vội sửa ngay như Liên Xô, Nam Tư để đánh nhau thì khổ lắm! - Ba Ngụy biện này là sự ngộ nhận về quy luật, không hiểu yếu tố chủ quan và yếu tố thời gian trong quy luật. Trong quy luật xã hội thì con người là một yếu tố, lại là yếu tố động. Không chủ động tạo ra cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ lại chờ nó tự đến thì thật là ảo tưởng, hoặc chỉ là sự lẩn trốn trách nhiệm. Các cụ ngày xưa rất tin ở mệnh trời mà còn biết Tận nhân lực, trí thiên mệnh (có cố hết sức mình thì mới biết mệnh trời ở đâu)!. Quy luật là những định hướng lớn của cái chung, trong đó vẫn chứa những số phận rất khác nhau. Trong quy luật lớn vẫn dung nạp nhiều quy luật nhỏ. Ví dụ làm kinh tế thị trường là đúng quy luật, nhưng trong đó quy luật vẫn dành quyền lựa chọn cho con người muốn thành người giàu sang hay thành kẻ bần cùng! Cứ chờ quy luật thì có khi xã hội đi rất đúng quy luật, nhưng cá nhân mình thì thân tàn ma dại! Vì có khoảng trống đó nên người cầm quyền mới có khả năng vẫn đưa xã hội trở về đúng con đường của quy luật nhưng chiếm hết chỗ béo bổ nhất cho mình, anh nào ngu ngốc thì thiệt thân. Xin đừng quá lo cho quy luật không được thực hiện mà hãy biết sợ rằng quy luật sẽ được thực hiện, nhưng với sự lợi dụng. Lợi dụng quy luật cũng chính là một quy luật, một quy luật phổ biến nhất trong đấu tranh sinh tồn, chứ không có gì lạ. Nghĩ về quy luật, người ta thường chỉ quan tâm đến kết quả cuối cùng (cứu cánh), mà quên rằng linh hồn của một quy luật không nằm ở cứu cánh ấy mà nằm trong yếu tố thời gian, cũng tức là tốc độ của diễn biến. Cùng một kết quả nhưng đến sớm hay đến muộn có thể lộn ngược tình thế. Đổi mới lương thiện hay không lương thiện cũng chỉ lừa nhau ở chỗ tốc độ, ở thời gian thôi. Cứ lấy một ví dụ thô thiển cho dễ hiểu: Khi ta phát hiện một ổ buôn lậu đang chia nhau tiền, đang xóa tang chứng. Về nguyên tắc ai cũng tán thành việc khám xét, nhưng người này bảo phải ập vào khám xét ngay bây giờ, người khác lại bảo không nên nóng vội phải biết chờ đợi, chờ đến sáng mai! Sự chênh lệch vài giờ đồng hồ có khi cũng đủ để phân định ai là người chính trực, hay ai là kẻ lưu manh. Người anh hùng và kẻ cơ hội cuối cùng cũng sẽ nói những điều giống nhau, nhưng người này nói lẽ phải lúc đang bị cấm, kẻ kia nói lẽ phải khi thấy ông chủ đã bật đèn xanh! Thậm chí đến lúc ông chủ sẽ thuê người chửi mình, hưởng lương rất hậu nhưng phải chửi cho đúng kiểu. 18) Trước đây mình cứ đối lập Xã hội chủ nghĩa với Tư bản, nay mình thấy tất cả những cái cơ bản cũng vẫn giống nhau thì mình điều chỉnh lại cho hợp lý, có gì quan trọng đâu? Mỹ, Nhật thế cũng là Xã hội chủ nghĩa, mình có kiểu Xã hội chủ nghĩa của mình! - Ngụy biện này thoạt tiên có vẻ như thuyết hội tụ mà những người Cộng Sản lúc còn thịnh vượng thường lên án (nhưng nay lại bám lấy nó để hợp lý hóa sự tồn tại của mình). Ngay một số nhà lý luận rất đổi mới cũng tìm đến sự hội tụ ấy: Văn minh Tin học làm cho cả chủ nghĩa Tư bản lẫn chủ nghĩa Xã hội đều phải điều chỉnh, cuối cùng hai đối thủ vẫn qui tụ tại một điểm, chẳng có ai thắng ai. Nói vậy không đúng Chủ nghĩa Tư bản và Chủ nghĩa Xã hội không bao giờ là địch thủ của nhau cả. (Có thể sự đối địch giữa một phe do Liên Xô đứng đầu với một phe do Hoa Kỳ đứng đầu đã gây ra sự ngộ nhận này). Cách gọi tên không đúng khiến lâu ngày người ta lầm lẫn. Tuy cùng được gọi là chủ nghĩa nhưng đây không phải là hai khái niệm tương ứng trên cùng một bình diện. Chủ nghĩa xã hội là sự triển khai một ý thức hệ, như một công trình xây dựng theo một thiết kế có tác giả hẳn hoi, tức là một công trình nhân tạo được định hình trước khi xây dựng. Còn cái gọi là chủ nghĩa Tư bản thì cũng như chủ nghĩa Phong kiến... là những sản phẩm tự nhiên của xã hội loài người, không ai định hình nó trước, không có tác giả. Đó là dòng chảy theo quy luật, đến đó người ta nghĩ như thế và làm như thế, những nhà tư tưởng lúc ấy có thể suy nghĩ những vấn đề mà thực tiễn lúc ấy đặt ra, chứ không ai dám định hình một Thời đại chưa có, không ai dám ra một nghị quyết về nội dung của Thời đại rồi lùa thế giới vào cái khuôn ấy như các nhà Cách mạng Xã hội chủ nghĩa đã làm. Có thể Liên Xô và Mỹ đã thách thức nhau, Mỹ và Việt Nam đã thách thức nhau..., những người Cộng Sản đã thách thức quy luật. Nhưng quy luật và cái thế giới bình thường sống theo quy luật thì không thách thức ai bao giờ! Cái gọi là Chủ nghĩa Tư bản chỉ là sản phẩm tự nhiên của quy luật, nên nó cứ nới rộng theo quy luật, quy luật bắt phải thành cái gì thì nó thành cái đó, nó chỉ thắng quá khứ của nó thôi. Còn Chủ nghĩa Xã hội là một sản phẩm nhân tạo, chống quy luật nên bị quy luật đào thải. Nó thua rõ ràng, nhưng là thua quy luật, bị quy luật dạy cho những bài học, nay phải đơn phương trở về với quy luật, chứ không thể nói nó với quy luật hội tụ vào nhau được, chẳng có ai hội tụ với nó cả!. Nhưng mặt khác, ý nghĩa của Ngụy biện này là muốn xúy xóa những lý luận sai lầm mà nay người Mác-xít không muốn ai nhớ tới nữa. Giống như anh nông dân lúc đầu tưởng thửa ruộng của mình tốt hơn nên cố đắp bờ cho cao để ngăn cho rành mạch, đến khi thấy thửa ruộng bên cạnh tốt hơn bèn phá bờ đi, cười hề hề rằng tôi với bên ấy hai nhà cũng như một thôi mà! Cái Ngụy biện muốn đồng nhất dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh với định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cũng là cách xúy xóa như thế chứ gì nữa. 19) Mỹ nó chẳng để cho các cụ như thế mãi đâu, đừng lo!
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Bùi Minh Vũ: Tiếng thơ siêu thực chính ngọ
Bùi Minh Vũ: Tiếng thơ siêu thực chính ngọ Bùi Minh Vũ, cũng giống như rất nhiều người làm thơ hôm nay trăn trở, quyết liệt (nếu không muốn ...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét