Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2018

“Đạo Trời” và tín ngưỡng dân gian qua ca dao

“Đạo Trời” và tín ngưỡng dân gian 
qua ca dao
Tóm tắt:
Trong tín ngưỡng dân gian có tín ngưỡng thờ Thiên, tức đạo Trời. Trời cũng được thờ cúng như các thánh thần khác. Thuận Thiên, tuân theo đạo Trời cũng như theo Đạo Phật, Đạo Giáo:
Thương nhau cho trọn đạo Trời
Dù mà không chiếu nằm tơi cũng đành
(Ca dao Thừa Thiên Huế) 
Nhưng tín ngưỡng này khác các tín ngưỡng khác. Con người quan hệ với Trời khác với Phật hay các thánh thần khác. Đây vừa là tín ngưỡng vừa là thế giới quan, vừa là thái độ sống của người nông dân Việt Nam.
Những điều này được phản ánh khá rõ trong ca dao. 
Trong ca dao chúng ta gặp rất nhiều những câu có chữ Trời. Thường nhất là những câu mà Trời dùng để chỉ toàn bộ cảnh vật thiên nhiên tồn tại quanh con người, trước hết là không gian và cảnh vật trên không:
 Ai vô xứ Huế mà coi
Sông Hương núi Ngự cảnh trời đẹp thay.
(CD TTH) [1]
Giơ tay anh hứng sương trời
Rửa sao cho sạch những lời thị phi.
(CD NTB)
Vì mây nên núi liền trời
Vì cơn gió thổi, hoa cười với trăng.
(KT CDXN)
Nhưng bên cạnh Trời như một hình ảnh thiên nhiên còn có hình ảnh Trời như một lực lượng siêu tự nhiên, một đấng quyền uy làm ra tất cả, quyết định tất cả: 
Trời làm bão lụt mênh mông
Sông khô hồ cạn, cá trên đồng còn chi.
(KT CDXN)
Trời mưa trời gió đùng đùng
Cha con ông Hùng đi gánh phân trâu.
(CD NTB)
Trời sinh có biển có nguồn
Có ta, có bạn, có buồn làm chi.
(CD NTB) 
Trời không chỉ làm ra núi sông, mưa gió, bão bùng, mà còn làm ra vạn vật, thậm chí cả cái sướng, cái khổ của con người:
Thân em như con quạ trời sinh
Đậu trên trái mít, thỏa tâm tình bạn chưa?
(CD TTH)
Hay
Trời sinh cái cực mần chi
Bán thì nỏ được, cho thì không ai xin.
(KT CDXN)
Tóm lại, Trời là một đấng toàn năng, tạo ra tất cả: 
Trời làm một lặng gió Đông
Chồng tôi đi lưới rổ không trở về
Trời làm ghê gớm, gớm ghê
Bạn thời chết đói, nhà nghề thời không
Trời làm cho vợ chửi chồng
Đi vay đi tạm luống công đêm ngày
May sao may khéo là may
Trời cho hết lặng ngày rày phong lưu
(KT CDXN)
Đấng toàn năng ấy người Việt gọi là Ông Giời hay Ông Trời: 
Ngó lên trên trời, trời cao lồng lộng
Ngó lên trên núi, núi rậm rừng xanh
Ông Trời kia khéo đoạt duyên anh nửa chừng
(CD TTH)
Đứa mô đã nói quên lời
Đi ra trộ sáo, ông Trời đánh ngay.
(CD TTH)
Trăm lạy ông Trời chớ điếc, đừng đui
Để hai con mắt coi người thế gian.
(CD NTB)
Gần một trăm năm trước, trong công trình Hát đối của nam nữ thanh niên, nhà bác học Nguyễn Văn Huyên (chữ dùng của GS. Hà Văn Tấn) đã có nhận xét: “Ông giời đối với người dân quê Việt Nam là nguồn gốc mọi sự sống và mọi lẽ công bằng. Đấy không phải là một vị thần trừu tượng và không thể hiểu. Người ta xem ông như một con người, vua của các vua. Ông có một triều đình, ông điều khiển tất cả cuộc sống trên trời và dưới đất. Ông trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt”. [2]
Ông Trời/ Ông Giời với người nông dân là hiện thân của sức mạnh siêu nhiên và do đó cũng trở thành một vị thần linh như bao nhiêu thần khác (thần sấm, thần sét, thần gió, thần mưa…), chỉ có điều ông Trời là “vua của các vua”, là vị thần cao nhất, là Ngọc Hoàng Thượng đế,“Ông có một triều đình” ở tận trên cao, ở một cõi khác: 
Hai ba ông Táo về Trời
Dựng nêu trước ngõ ăn chơi suốt tuần
(CD TTH)
Ra đi vừa gặp bạn hiền
Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời
(KTCDXN)
Thang đâu dám bắc tận trời
Lưới đâu dám bủa những nơi cá thần
(KTCDXN)
Người nông dân Việt xưa tin có một đấng thiêng liêng như vậy, một cõi thiêng liêng như vậy. Niềm tin ấy chính là một tín ngưỡng dân gian tồn tại trong tâm linh người Việt, thể hiện trong sinh hoạt văn hóa của người Việt.
Một trong những biểu hiện của tín ngưỡng ấy là tục thờ Tứ pháp ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong cuốn “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”, GS. Ngô Đức Thịnh viết: “Trời với tư cách là vị thần linh tối cao có thể “tùy ý” tạo ra mưa nắng, mưa thuận gió hòa hay sinh ra bão lụt, hạn hán… Nếu người dân cũng như vua quan trong triều đình làm những việc không đúng, không theo đạo trời đất thì sẽ bị trời trừng phạt gây ra bão lụt hạn hán. Cho nên trong tâm tưởng của con người thời đại đó, ai ai cũng phải tuân theo đạo trời đất, phải tôn vinh, thờ phụng trời đất, khi có hạn hán hay bão lụt phải cầu xin trời đất làm mưa hay cho tạnh. Từ đó hình thành nên các nghi lễ cầu mưa, trong đó tập trung nhất là tín ngưỡng tứ pháp”.[3]
Tứ pháp, tức Pháp Vân (mây), Pháp Vũ (mưa), Pháp Lôi (sấm), và Pháp Điện (chớp) là bốn hiện tượng trời tạo nên mưa, do vậy cũng có thể xem tín ngưỡng Tứ Pháp là tín ngưỡng thờ Trời, hay có thể gọi là Đạo Trời.
Trong ca dao người Việt có nhiều câu nhắc đến Đạo Trời:
Thương nhau cho trọn đạo trời
Dẫu mà không chiếu nằm tơi cũng đành
(CD TTH)
Lấy nhau cho trọn đạo trời
Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau xa
(CD TTH)
Theo nhau cho trọn đạo trời
Dẫu mà không chiếu, trải tơi mà nằm
(CD NTB) 
Vì là đạo nên “đạo trời” cũng có vị trí, giá trị trong tâm linh người Việt như đạo Phật hay những đạo khác. Điều này giải thích vì sao trong ca dao, Trời và Phật thường được đặt gần nhau, được xem như những đấng thiêng liêng như nhau, những đạo giống nhau:
Nhà anh ước Phật, nhờ Trời
Bố mẹ sinh đã được mười anh em
(CD NTB)
Chắp tay vái lạy Bụt Giời
Gió đông phẳng lặng, đạo Trời theo nhau [4]
(KT CDXN)
Tín ngưỡng đạo Trời cũng như những tín ngưỡng khác, một mặt gắn với nghi lễ thờ cúng (lễ thờ Tứ Pháp, bàn thờ Pháp Vân ở Chùa, bàn thờ Thiên ở mỗi nhà…), mặt khác nằm sâu trong tâm linh, thể hiện ở lòng tôn kính, biết ơn, cầu xin, van vái mỗi khi hoạn nạn hay ăn năn hối lỗi khi phạm điều gì sai, mắc tội.
Như chúng ta đều biết, tín ngưỡng và tôn giáo [5] là một trong những môi trường nảy sinh và nuôi dưỡng các giá trị văn hóa. Nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa (lễ hội, thờ cúng…), nhiều sáng tác dân gian, đặc biệt là văn học dân gian như Văn chầu, thần tích, thần phả, thần thoại, truyền thuyết, các bài thơ giáng bút… gắn liền với việc thờ cúng đạo Mẫu hay các vị thần khác. Ca dao không thuộc loại các giá trị này. Cho đến nay hình như vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào chỉ ra mối quan hệ của ca dao với các nghi lễ tín ngưỡng, chưa dẫn ra những câu ca dao nào trực tiếp bắt nguồn từ các hoạt động tín ngưỡng. Ca dao trước hết vẫn là những câu hát dân gian được hình thành trong lao động và sinh hoạt hằng ngày, nói lên kinh nghiệm sản xuất, nói lên cảm nghĩ và tình cảm của người nông dân, nhất là tình yêu nam nữ. Nhưng trong ca dao chúng ta cũng có thể tìm thấy dấu vết của các sự tích lịch sử, đời sống vật chất và tinh thần của xã hội trong những hoàn cảnh khác nhau, dấu vết của các phong tục, tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa dân gian.
Xét theo phương diện này, nếu tín ngưỡng là “niềm tin vào cái thiêng” [6] thì có thể thấy ca dao phản ánh khá rõ tín ngưỡng dân gian về Trời hay có thể gọi là đạo Trời.
Ông Trời trong ca dao là một đấng thiêng liêng. Người nông dân Việt Nam coi trời như thánh thần (“trời đánh, thánh vật”), tất cả đều phụ thuộc vào Trời, vào ý Trời (“xởi lởi trời cho, lo xo trời co lại”). 
Thề xưa lời đã nặng lời
Anh cố xa em đi nữa
Nếu chẳng phải ý trời thời cũng khó xa
(CD NTB)
Được thua là sự bởi trời
Chớ thấy sóng cả mà rời tay ra
(KT CDXN)
Người nông dân nhắc đến Trời với niềm tin thiêng liêng rằng cái gì Trời cũng biết:
Ai mà ở bạc có Trời
Lòng em khăng khẳng một lời như xưa
(CD TTH)
Trời xanh có phụ ai đâu
Trọng thầy trọng bạn sang giàu hiển nhiên
(KT CDXN)
Trời là thánh, là thần, mọi thứ có được đều nhờ ơn Trời, do Trời phù hộ, ban cho:
Nhờ Trời hạ kế sang đông
Lúa khoai no đủ, thong dong con người
(KT CDXN)
Nhờ Trời một trộ (trận) gió đông
Hoa gạo rụng xuống nằm cùng cỏ may
(KT CDXN)
Lời thề hớt mái tóc xanh
Theo nhau cho trọn tử sanh nhờ Trời
(CD NTB)
Trời thương ai người ấy được, Trời ghét ai thì người ấy phải chịu, đó là số trời, tất cả đều do Trời định:
Tơi mang không cổ, nón đội không vành
Ông Trời đã định, rách lành phải theo
(CD TTH)
Lương duyên Trời định đất kề
Lòng em khăng khắng một bề thương anh
(CD TTH)
Mưa sa đấu bệ dễ cày
Trai anh đây chưa vợ, Trời đày đi đêm
(CD TTH)
Với sức mạnh và quyền uy ấy, không ai có thể chống lại được ý Trời, một khi Trời đã quyết thì không gì cứu vãn được:
Của Trời, Trời lại lấy đi
Giương hai con mắt làm chi được Trời
(CD TTH)
Chỉ sợ Trời hại mà hư
Còn như người hại chỉ như phấn dồi
(CD TTH)
Người nông dân xưa đã tin như vậy. Đó là niềm tin vào một sức mạnh huyền bí, vô hình, tồn tại ở đâu đó, thường là ở tận trên cao (“Trời xanh có phụ ai đâu”) và con người không giải thích được, không can dự được, hoàn toàn phụ thuộc vào nó. Nhưng tin chưa phải đã là tín ngưỡng. Tín ngưỡng vừa là niềm tin vào cái thiêng vừa là thái độ, cách ứng xử với cái thiêng. Thái độ tiêu biểu của mọi tín ngưỡng là sự tôn kính và cầu xin. Dù là đến nhà thờ hay đến đền, chùa, miếu mạo, ai cũng tỏ lòng tôn kính đối với Chúa, với Đức Phật, với Thánh Thần và luôn van vái cầu xin một điều gì đó. Thái độ ấy cộng với niềm tin vào sự hiện hữu của đấng vô hình là bản chất của mọi tín ngưỡng và tôn giáo..
Chú thích:
[1] Những câu ca dao được dẫn trong bài này lấy trong các công trình sau đây:
1. Hát ví đồng bằng Hà Bắc, Mã Giang Lân, Nguyễn Đình Bưu sưu tầm, biên soạn (1976), Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản, Bắc Giang. (Viết tắt là HV ĐBHB)
2. Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, Triêu Dương, Phạm Hòa, Tảo Trang, Chu Hà (1972), Hội văn nghệ Hà Nội xuất bản. (Viết tắt là CD NNHN)
3. Kho tàng ca dao Xứ Nghệ, tập 1 và 2, Ninh Viết Giao chủ biên (1996), NXB Nghệ An, Vinh. (Viết tắt là KT CDXN)
4. Ca dao Thừa Thiên Huế, Triều Nguyên (2005), Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế xuất bản, Huế. (Viết tắt là CD TTH)
5. Ca dao Nam Trung Bộ, Thạch Phương, Ngô Quang Hiển (1994), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. (Viết tắt là CD NTB)
6. Ca dao dân ca Nam Bộ, Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984), NXB TPHCM. (Viết tắt là CD DCNB) 
[2] Nguyễn Văn Huyên, Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, 2 tập, NXB KHXH, Hà Nội, tập 1, tr.111
[3] Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Ngô Đức Thịnh chủ biên, NXB KHXH, HN, 2001, tr.361
[4] Trong Văn học dân gian, tập 1, Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1972, tr.197, GS. Đinh Gia Khánh cho rằng: “Hai tên gọi khác nhau là Bụt và Phật phản ánh hai còn đường du nhập của đạo Phật, một đằng thì trực tiếp từ Ấn Độ sang (Bụt là phiên âm thẳng từ Ấn Độ Buddha); một đằng thì thông qua Trung Quốc (Phật, Phù đồ là âm Hán Việt của các từ ngữ Trung Quốc). Bụt lại là từ ngữ dân gian, còn Phật thì là từ ngữ bác học”. Trong cuốn sách Những tiếng trống qua cửa nhà sấm, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2004, tác giả Huệ Thiên không đồng tình. Ông cho rằng cả Bụt lẫn Phật đều là những hình thức phiên âm của từ Sanskrit buddha. Từ này đã được người Trung Hoa phiên âm bằng nhiều cách, đọc theo âm Hán Việt hiện đại là Phật Đà, Phật Đồ, Phù Đồ. Phật là dạng tắt đã trở thành thông dụng của Phật Đà và Phật Đồ. Còn Bụt là âm xưa còn Phật là âm nay của cùng một chữ Hán, chứ không phải một đằng là âm dân gian, một đằng là âm bác học, càng không phải Bụt là âm do người Việt Nam phiên thẳng từ tiếng Ấn Độ (tr.195-196). 
[5] Chúng tôi quan niệm tín ngưỡng là hình thức thể hiện niềm tin của con người vào cái thiêng liêng, còn tôn giáo cũng là tín ngưỡng, nhưng có hình thức biểu hiện và tổ chức riêng, xuất hiện trong một điều kiện và giai đoạn lịch sử cụ thể.
[6] Ngô Đức Thịnh: Phác họa về tín ngưỡng của các dân tộc Việt Nam, trong sách “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”, NXB KHXH, HN, 2001, tr.17
Trong ca dao bên cạnh niềm tin có ông Trời như một đấng toàn năng thiêng liêng, chúng ta dễ dàng bắt gặp thái độ tôn kính và cầu xin của người nông dân đối với Trời, thể hiện rõ ràng ứng xử có tính chất tín ngưỡng của họ.
Hình ảnh ông Trời luôn luôn hiện ra trong tâm thức của người nông dân như đấng thiêng liêng, thành kính: 
Nửa ngày mưa bụi gió bay
Anh bưng thau nước chắp tay vái Trời
(CD TTH)
Lọt lòng nghe tiếng u oa
Ơn Trời, ơn Phật, mừng òa xiết bao
(KTCDXN)
Họ luôn luôn mong được ông Trời phù hộ trong mọi công việc hàng ngày, từ chuyện đồng áng cho đến những chuyện tình duyên riêng tư:
Trông Trời một trận mưa sa
Để cho ngoài ruộng trong nhà được vui
(KTCDXN)
Trông Trời cho chóng đến mai
Ra đường gặp bạn trao vài ba câu
(KTCDXN)
Và cũng như trong mọi tín ngường khác, đứng trước Ông Trời, thái độ tiêu biểu nhất của con người là van vái, cầu xin.
Xin cho con trẻ ăn ngoan, khỏe mạnh:
Lạy trời phù hộ ấu nhi
Ăn no chóng lớn, biết đi biết đùa
(KTCDXN)
Xin cho tình duyên không bị trắc trở, người mình yêu thương chung thủy, trước sau vẹn toàn:
Vái trời cho đặng vuông tròn
Trăm năm giữ vẹn lòng son cùng chàng
(CD NTB)
Xin cho tuổi già bình an, trường thọ:
Lạy trời cho miễn sống lâu
Ai kêu bằng chó bằng trâu cũng ừ
(CD TTH)
Nhưng xin nhiều nhất vẫn là xin cho chuyện làm ăn.
Trong hoàn cảnh một nước nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu là trồng lúa và đánh cá, toàn bộ hoạt động sản xuất đều phụ thuộc vào thời tiết, vào điều kiện tự nhiên: 
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm
Người nông dân chỉ biết cầu trời, mong sao công việc làm ăn thuận lợi, mùa màng tươi tốt, người đi làm xa trở về bình an: 
Lạy trời trăm lạy trời ơi
Trông cho trong ruộng ngoài khơi được mùa
(KTCDXN)
Lạy trời thổi ngọn gió Đông
Xuôi buồm thuận gió cho chồng tôi vô
(KTCDXN)
Tới đây lạ bến đậu nhờ
Vái trời lớn gió cho sóng trong bờ đừng chao
(CD NTB)
Thành kính, cầu xin là những dấu hiệu của tín ngưỡng nhưng cảm giác tội lỗi cũng rất điển hình cho cách ứng xử mang tính chất tôn giáo. Trong ca dao chúng ta bắt gặp khá nhiều câu diễn tả cảm giác của người dân quê thấy mình có tội với Trời khi làm điều gì đó không phải:
Hai ta nguyện ước sa lời
Đó bỏ đây không tôi mấy, đây bỏ đó tội trời ai mang
(CD NTB)
Đã thành gia thất thì thôi
Đèo bồng chi lắm, tội trời ai mang
(CD NTB)
Chữ “tội Trời” được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong ca dao:
Xương da ai cũng là người
Chàng mà đạp thiếp, tội Trời chàng mang
(KTCDXN)
Cha mẹ bú mớm nâng niu
Tội Trời đành chịu, không yêu bằng chồng
(CD NTB)
Cảm giác mắc tội ấy rõ ràng là một cảm giác tín ngưỡng, chỉ có điều tín ngưỡng ở đây không đi kèm với những lễ nghi như trong các tín ngưỡng khác. Người ta nói mình mắc tội với Trời nhưng không đi đến nơi có thờ Trời (không biết có nơi nào như vậy) [1] để dâng lễ và cầu xin tha tội. Có lẽ đây cũng là một đặc điểm của tín ngưỡng Trời, một tín ngưỡng dân gian nặng về tâm linh hơn là nghi thức.
Một điểm khác biệt nữa của tín ngường dân gian này là khi lạy Trời, qua ca dao chúng ta thấy người nông dân không chỉ van vái cầu xin Trời rủ lòng thương, ban ơn cứu vớt, ban phước lành như khi đến cửa Phật hay vào nhà thờ Thiên Chúa mà còn kêu cầu sự công minh, trừng phạt cái ác, cái xấu. 
Trăm lạy ông Trời chớ điếc, đừng đui
Để hai con mắt coi người thế gian
(CD NTB)
Những người nói láo nói không
Xin trời quăng xuống giữa sông Bồ Đề
(KTCDXN)
Ông Trời ở đây không chỉ là vị thần từ bi, bác ái, cứu độ chúng sinh mà còn là hiện thân của “mọi lẽ công bằng. Ông thường phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt” (Nguyễn Văn Huyên, Sđd.). “Trời quả báo, ăn cháo gãy răng”. Người dân quê tin hoặc chí ít cũng muốn tin là có điều đó:
Đứa mô đã nói quên lơi
Đi ra trộ sáo, ông Trời đánh ngay
(CD TTH)
Em mà ăn ở hai lòng
Trời tru đất diệt không mong thấy chàng
(CD NTB)
Trời xanh có phụ ai đâu
Trọng thầy trọng bạn sang giàu hiển nhiên
(KTCDXN)
Yêu cầu về công lý, niềm tin vào “mọi lẽ công bằng” này làm cho tín ngưỡng Trời không còn thuần túy là tín ngưỡng tâm linh, thuần túy tinh thần nữa. Ông Trời đã mang dáng dấp của “ Bao công” mang tính chất thế tục, tính chất xã hội, đúng như nhận xét của Nguyễn Văn Huyên: “Đấy không phải là một vị thần trừu tượng và không thể hiểu. Người ta xem ông như một con người…”
Điều này giải thích vì sao hình ảnh Trời/ Ông Trời trong ca dao hiện ra không phải lúc nào cũng thiêng liêng, thần thánh mà nhiều khi rất người, rất quen thuộc:
Ngó lên trời, trời buồn trời bực
Ngó về sông An Cựu, nắng đục mưa trong
(CD TTH)
Mẹ cha là biển là trời
Phận con đâu dám cãi lời mẹ cha
(CD NTB)
Vì Trời không chỉ là thánh là thần mà còn là người nên quan hệ của con người với Trời cũng có khác. Trời với người gần gũi, thân thiện:
Trời mưa thì mặc trời mưa
Tôi không tơi nón, trời đưa tôi về
(CD TTH)
Hôm nay anh gặp em đây
Trời khuyên, đất bảo, làng sang lấy chồng
(KTCDXN)
Ông Trời tham gia vào nhưng chuyện rất đời thường:
Ông tra mà đội nón cời
Muốn đi ve gái mà Trời không cho
(KTCDXN)
Bản thân Trời cũng như người, có kẻ ghét người thương:
Trời còn có kẻ không ưa
Huống chi phận thiếp, ở cho vừa lòng ai
(CD TTH)
Với quan niệm về Trời như vậy nên thái độ của người nông dân với Trời cũng trở nên bình đẳng, không còn sợ sệt nữa. Người ta không chỉ lạy trời, xin trời vái trời mà còn mạnh dạn hỏi trời, muốn tận mặt gặp Trời:
Phải chi lên đặng ông trời
Hỏi xem duyên nợ đổi dời về đâu
(CD NTB)
Ngồi buồn nói chuyện láo thiên
Một bầy kiến lửa lên khiêng ông Trời
(CD TTH)
Thậm chí đùa giỡn, sàm sỡ với Trời:
Trông Trời trời mưa cho to
Không mai thì mốt, tôi gả chị cho trời
(KTCDXN)
Từ chỗ kéo ông Trời từ trên cao xuống mặt đất, nhìn ông Trời không phải như thần thánh mà như người, từ một quan hệ bình đẳng như vậy, người ta tự cho phép mình có thể có thái độ bất kính với Trời:
Ông Trời chết nứt chết trương
Ông ghét tôi khổ, ông thương nhà giàu
(KTCDXN)
Bất phục tùng Trời
Một lòng chỉ quyết lấy anh
Ong bay bướm lượn xung quanh mặc trời
(KTCDXN) 
Hoặc có khi chống lại cả Trời:
Em mà nỡ phụ duyên anh
Núi cao anh xô đổ, trời xanh anh lật nhào
(KTCDXN)
Đến đây xuất hiện vấn đề: liệu một thái độ như vậy có phản ánh đúng tín ngưỡng Trời của người nông dân xưa không, có thực là một phần trong cách ứng xử của dân gian với ông Trời như một tín ngưỡng không hay đây chỉ là hình tượng nghệ thuật về ông Trời trong ca dao? Câu trả lời quả không đơn giản.
Một mặt, bản thân tín ngưỡng dân gian là hiện tượng phức tạp. Trong mỗi tín ngưỡng thường chứa đựng, pha trộn nhiều yếu tố, đó vừa là niềm tin, vừa là lối sống, vừa là cách cảm, vừa là cách nghĩ; đó vừa là một cách nhìn về tự nhiên, một thế giới quan, vừa là cách ứng xử mang nội dung đạo đức -  xã hội. Đặc biệt, tín ngưỡng dân gian gắn liền với tư duy cổ sơ, với lối nhân hóa tự nhiên, tất cả những gì siêu nhiên đều được quy về con người, đời sống con người. Ở đây cái trừu tượng, không hiểu thì biến thành cụ thể, dễ hiểu (Trời thành ông Trời), còn cái cụ thể, dễ hiểu thì biến thành huyền bí, xa vời. (Mưa thành Thần mưa (Pháp Vũ), Mây thành Thần Mây (Pháp Vân), bếp thành Ông đầu hỏa, Ông đầu rau...).
Thêm nữa cũng cần thấy rằng đối với người dân quê xưa, tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng Trời nói riêng không thuần túy là chiêm nghiệm tinh thần, nó còn là một phương tiện để sống, để tồn tại. Cái thiêng và cái thực dụng xen kẽ với nhau. Tất cả điều đó phần nào giải thích vì sao mặc dù sùng bái Ông Trời, người ta vẫn có thể coi Trời như bạn, có khi còn chế diễu, chống lại.
Mặt khác, như đã nói ở trên, ca dao không phải là giá trị văn hóa trực tiếp nảy sinh từ những nghi thức tín ngưỡng mà là khúc hát tình, gắn liền với đời sống lao động sản xuất và sinh hoạt của người dân quê. Trong những hình tượng, biểu tượng ca dao có thể pha trộn nhiều thứ: kinh nghiệm sản xuất, nhận thức về tự nhiên, tín ngưỡng, triết lý về xã hội – con người, tình cảm v..v..Hình tượng ca dao – cụ thể ở đây là hình tượng ông Trời – bởi vậy có thể không thuần khiết, đơn nghĩa. Thái độ của người nông dân với ông Trời có chỗ phản ánh tín ngưỡng của họ nhưng có chỗ không hẳn thuộc về tín ngưỡng mà thuộc về cái nhìn xã hội – đạo đức của người sáng tác, vào tưởng tượng sáng tạo của dân gian.
Trong cuốn “Văn hóa Việt Nam sử cương” xuất bản lần đầu năm 1938, ở phần “Tín ngưỡng và tế tự”, ông Đào Duy Anh viết: “Trước khi có Cơ đốc giáo du nhập, người nước ta đồng thời sùng bái cả Trời, Phật, các thần linh ở trong vũ trụ, các quỷ thần hay là linh hồn người chết” (nhấn mạnh của chúng tôi) [2]
“Sùng bái Trời” chính là tín ngưỡng Trời, “đạo Trời” đã để lại dấu vết trong nhiều sáng tác dân gian, trong đó có ca dao. Qua một khảo sát nhỏ 598 câu có chữ “Trời” trong ca dao miền Trung trên đây phần nào chúng ta cũng thấy điều đó [3]. Rất tiếc là hiện tượng này đến nay còn chưa được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu tín ngưỡng dân gian cũng như văn hóa dân gian ở nước ta. [4]
Chú thích:
[1] Trong ca dao có khi ông Trời được đồng nhất với Ngọc Hoàng, “Trai lỗi lời thề, lấy vôi mà tạc/ Gái lỗi lời thề, lấy đá mà ghi/ Nào ai ăn ở tiếng chi/ Dưới có vua Thập Điện, trên có Thiên Tri Ngọc Hoàng”
(CD TTH , Tr.642), tuy nhiên ở Việt Nam việc thờ cúng Ngọc Hoàng chủ yếu gắn với vị thần linh cao nhất trong tục thờ Tiên của Đạo giáo Trung Hoa nhập vào Việt Nam (Ngọc Hoàng Thượng Đế) chứ không phải gắn với Ông Trời trong tín ngưỡng dân gian. Ngay cả đối với Ngọc Hoàng nghi lễ và thờ cúng cũng rất mờ nhạt (Xem “Tín ngưỡng và văn hòa tín ngưỡng ở Việt Nam”, Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nxb. KHXH, HN, 2001, tr. 130
[2] Đào Duy Anh, Việt Nam Văn hóa sử cương, Nxb. Bốn Phương, 1951, tr.203
[3] Xem: Nguyễn Thị Kim Ngân, Thiên nhiên trong ca dao, NXB ĐHSP TPHCM, 2011
[4] Trong công trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” do Giáo sư Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nxb. KHXH ấn hành năm 2001 không thấy có phần nói về tín ngưỡng Trời, sự “sùng bái Trời”. 
Nguyễn Thị Kim Ngân
Theo http://hoakimngan.net/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 000000bbbbbbbb

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ  máy nhà nước. Thực thể này thường đ...