Một số thành ngữ thông dụng có nguồn gốc
Thành ngữ là những cụm từ cố định, nó có giá trị tương đương
với từ. Khi đưa vào lời ăn tiếng nói hằng ngày hoặc đệm vào văn chương khi viết
lách ta thường sử dụng các thành ngữ ấy một cách nguyên xi hoặc sáng tạo chút
ít để tạo ra những giá trị tu từ nhất định, làm tăng vẻ hàm xúc, gợi hình ảnh
cho câu văn, gây ấn tượng cho người đọc người nghe, làm cho lời ăn tiếng nói trở
nên sâu sắc... Và như hầu hết mỗi con người chúng ta khi giao tiếp ít nhiều đều
sử dụng các thành ngữ dù vô tình hay hữu ý. Vì vậy việc hiểu nghĩa các thành ngữ
một cách đúng đắn để lời văn khi giao tiếp có hiệu quả nhất định cũng là một việc
không thể thiếu của chúng ta. Có thể nói kho tàng thành ngữ rất đồ sộ, nó rất
phong phú về ý nghĩa, rất đa dạng về cấu tạo và nó cũng xuất phát từ nhiều nguồn
gốc khác nhau. Trong bài viết ngắn này chúng tôi xin giới thiệu một số thành ngữ thông dụng có nguồn gốc xuất phát từ những bài thơ độc đáo.
Thanh mai trúc mã (thanh mai là trái mai xanh,
trúc mã là ngựa trúc) thành ngữ này dùng để chỉ sự đẹp đôi hoặc duyên nợ lứa
đôi và nó có nguồn gốc từ bài Trường Can hành (Xóm trường Can) của Lý Bạch.
Bài thơ có 30 câu, có thể nói là một thiên diễm tình (Khi tóc vừa buông trán/ Hái hoa trước cổng chơi/ Chàng cưỡi ngựa tre đến/ Quanh giường tung trái mai/ Trường Can cùng chung xóm /Cả hai đều thơ ngây/ Mười bốn, về làm vợ/ Thiếp còn
e lệ hoài/ Cúi đầu vào vách tối,/ Gọi mãi, chẳng buồn quay/ Mười lăm, mới hết
thẹn/ Thề cát bụi không rời/ Bền vững lòng son sắt/ Há lên Vọng phu đài/ Mười
sáu, chàng đi xa/ Cù Đường, Diễm Dự đôi/ Tháng năm không đến được/ Vượn buồn
kêu trên trời/ Trước cổng vết chân cũ/ Rêu xanh mọc um đầy/ Rêu nhiều không
quét hết/ Gió thổi, lá vàng rơi/ Tháng tám bươm bướm vàng/ Trên cỏ vườn bay đôi/ Cảnh ấy đau lòng thiếp/ Má hồng buồn phôi pha/ Khi chàng xuống Tam Ba/ Nhớ gởi
thư về nhà/ Thiếp sẽ mau đi đón/ Đến thẳng Trường Phong Sa). Nếu hiểu thành ngữ
này ở phạm vi 6 câu thơ đầu thì chỉ là sự quấn quýt, gần gũi vô tư của con trai
và con gái lúc còn thơ trẻ. Nếu ta liên hệ với 24 câu còn lại thì ta hiểu
đó là một mối tình nồng nàng, lâm ly, gắn bó đáng trân trọng.
Sư tử Hà Đông, một thành ngữ khá thông dụng dùng để chỉ
người đàn bà hay ghen tuông, hung hãn, đanh đá, ăn hiếp chồng, có lai lịch từ một
bài thơ của Tô Đông Pha như sau:
Long Khâu cư sĩ diệc khả liên
Đàm không thuyết hữu dạ bất miên
Hốt văn Hà Đông sư tử hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
(Thật đáng thương cho Long Khâu cư sĩ, miệng nói không nói có đêm ngủ không được, chợt nghe tiếng gầm rú của sư tử Hà Đông, gậy văng ra khỏi tay tâm thần hoảng loạn).
Đàm không thuyết hữu dạ bất miên
Hốt văn Hà Đông sư tử hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
(Thật đáng thương cho Long Khâu cư sĩ, miệng nói không nói có đêm ngủ không được, chợt nghe tiếng gầm rú của sư tử Hà Đông, gậy văng ra khỏi tay tâm thần hoảng loạn).
Long Khâu cư sĩ chính là Trần Tháo, có vợ là Liễu thị,
một hôm ông thết đãi tiệc có ca kỹ đàn hát cho khách nghe, vợ ông nổi cơm tam
bành lấy gậy đập vào tường, la hét om sòm làm khách bỏ về hết. Chính vì vậy mà
mà Tô Đông Pha mới là thơ trêu ghẹo ông. Trần Tháo là cư sĩ, sư tử hống là một ẩn
dụ mà kinh Phật dùng để chỉ tiếng thuyết pháp đầy uy nghiêm của Đức Phật để ám
chỉ sự la hét của Liễu thị. Thật là độc đáo!
Gương vỡ lại lành (phá cảnh trùng viên) một thành ngữ
nói lên cảnh vợ chồng đã tan rã mà lại được sum họp, đoàn viên. Thành ngữ này
xuất phát từ một bài thơ của Từ Đức Ngôn, một phò mã nước Trần.
Cảnh dữ nhân câu khứ
Cảnh quy nhân vị quy
Vô phục Hằng Nga ảnh
Không lưu minh nguyệt huy.
(người đi thì gương cũng đi, người về nhưng gương chưa về, bóng Hằng Nga đâu sao chẳng thấy, chỉ thấy ánh trăng mà thôi)
Cảnh quy nhân vị quy
Vô phục Hằng Nga ảnh
Không lưu minh nguyệt huy.
(người đi thì gương cũng đi, người về nhưng gương chưa về, bóng Hằng Nga đâu sao chẳng thấy, chỉ thấy ánh trăng mà thôi)
Vốn công chúa nước Trần tên là Lạc Xương, vợ của Từ Đức Ngôn,
khi nước nhà tan rã hai vợ chồng chạy nạn. Trước khi chia tay, công chúa đập tấm
gương soi làm hai mảnh, mỗi người giữ một mảnh, hẹn đến ngày thượng nguyên đem
ra chợ Trường An bán để làm dấu hiệu tìm nhau. Phò mã chạy thoát còn công chúa
thì bị Việt công bắt ép làm vợ. Tới đúng ngày rằm tháng giêng, Đức Ngôn đem
gương ra chợ bán để tìm vợ và chàng thấy cũng có một người bán gương như mình.
Đồng thời ghép thử hai mảnh gương vỡ thì vừa khít với nhau, chàng bèn làm bài
thơ trên nhờ người bán gương đem về cho vợ. Công chúa Lạc Xương đọc thơ khóc nức
nở. Việt công biết chuyện bèn trả vợ lại cho chàng. Vợ chồng đoàn tụ. Quả là
gương vỡ lại lành.
Vật đổi sao dời (vật hoán tinh di) một thành ngữ dùng
để chỉ sự thay đổi to lớn cảnh vật có nguồn gốc từ bài Đằng Vương cát nổi tiếng
của Vương Bột
Đằng Vương cao các lâm giang chử
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Họa đống triêu phi Nam phố vân
Chu liêm mộ quyển Tây sơn vũ
Nhàn vân đạm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh di kỷ độ thu
Các trung đế tử kim hà tại?
Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu.
(Gác Đằng Vương đứng cao ngất bên bờ sông, ngày nay không còn nghe tiếng tiếng ngọc vàng rung của những người ca vũ nữa, những cột lớn vẽ mây như mây Nam phố lúc buổi sáng, những bức rèm cuộn lên như những trận mưa chiều ở vùng núi Tây sơn. Bóng mây trên mặt đầm trôi đi mãi, vật đổi sao dời đã biết bao mùa thu rồi, các bậc vương tôn ngày xưa ở trong gác này giờ ở nơi đâu, ngoài hiên sông Trường giang cứ trôi đi).
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Họa đống triêu phi Nam phố vân
Chu liêm mộ quyển Tây sơn vũ
Nhàn vân đạm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh di kỷ độ thu
Các trung đế tử kim hà tại?
Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu.
(Gác Đằng Vương đứng cao ngất bên bờ sông, ngày nay không còn nghe tiếng tiếng ngọc vàng rung của những người ca vũ nữa, những cột lớn vẽ mây như mây Nam phố lúc buổi sáng, những bức rèm cuộn lên như những trận mưa chiều ở vùng núi Tây sơn. Bóng mây trên mặt đầm trôi đi mãi, vật đổi sao dời đã biết bao mùa thu rồi, các bậc vương tôn ngày xưa ở trong gác này giờ ở nơi đâu, ngoài hiên sông Trường giang cứ trôi đi).
Nếu suy ngẫm kỹ bài thơ này ta sẽ hiểu sâu sắc hơn thành ngữ
trên, một thành ngữ gợi nhiều góc độ tâm trạng hoài cổ, bâng khuâng, thương tiếc
một cái gì đẹp đẽ đã qua.
Người đầu sông kẻ cuối sông, thành ngữ này dùng để chỉ
sự cách trở xa xôi của hai người và có nguồn gốc từ một bài thơ tương truyền là
của Lý Sanh, một người con trai đời nhà Châu, yêu người con gái là Dương Y, sau
đó phải xa nhau.
Nhân đạo Tương Giang thâm
Nhân đạo Tương Giang thâm
Vị để tương tư bạn
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn
Quân tại Tương Giang đầu
Thiếp tại Tương Giang vỹ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủy
(Người bảo sông Tương sâu, nhưng chưa sâu bằng lòng thương nhớ, sông sâu còn có đáy, lòng thương nhớ thì không có bến bờ, chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương, nhớ nhau mà không thấy nhau, cùng uống nước sông Tương)
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn
Quân tại Tương Giang đầu
Thiếp tại Tương Giang vỹ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủy
(Người bảo sông Tương sâu, nhưng chưa sâu bằng lòng thương nhớ, sông sâu còn có đáy, lòng thương nhớ thì không có bến bờ, chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương, nhớ nhau mà không thấy nhau, cùng uống nước sông Tương)
Thành ngữ này chẳng những chỉ sự cách trở bởi không
gian mà còn nói lên được cái hoàn cảnh trớ trêu của hai kẻ yêu nhau mà phải
xa nhau vì một lý do nào đó, một nỗi ưu hoài vạn kiếp của thế thái nhân
sinh.
Một đi không trở lại (nhất khứ bất phục phản), thành
ngữ này nói lên sự mất mát vĩnh viễn, không thể tìm thấy lại được và nó có xuất
xứ từ bài Hoàng Hạc lâu bất hủ của Thôi Hiệu:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Người xưa đã cỡi hạc vàng bay đi mất, chỉ còn trơ lại Lầu Hoàng hạc tại mảnh đất này. Hạc vàng một đi không trở lại, ngàn năm mây trắng vẫn bay dằng dặc, hàng cây đất Hán Dương rực rỡ bên dòng sông tạnh, cỏ thơm bãi Anh Vũ vẫn tốt tươi. Lúc trời chiều đứng trông về làng cũ tự hỏi: Quê hương ở chốn nào? Khói sóng mịt mờ trên sông nước Khiến cho người nổi mối ưu sầu).
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Người xưa đã cỡi hạc vàng bay đi mất, chỉ còn trơ lại Lầu Hoàng hạc tại mảnh đất này. Hạc vàng một đi không trở lại, ngàn năm mây trắng vẫn bay dằng dặc, hàng cây đất Hán Dương rực rỡ bên dòng sông tạnh, cỏ thơm bãi Anh Vũ vẫn tốt tươi. Lúc trời chiều đứng trông về làng cũ tự hỏi: Quê hương ở chốn nào? Khói sóng mịt mờ trên sông nước Khiến cho người nổi mối ưu sầu).
Nếu hiểu được bài thơ trên thì ta thấy thành ngữ Một đi
không trở lại không đơn thuần chỉ là sự lên sự mất mát vĩnh viễn, không thể
tìm thấy lại được mà nó còn nói lên tâm trạng cảm hoài trước quy luật của trần
hoàn tạo vật là không có gì tồn tại mãi mãi.....
Nói chung thành ngữ là một dạng sản phẩm đặc biệt của ngôn ngữ
do con người tạo ra và tồn tại ở nhiều dạng thức khác nhau nhưng có một tác dụng
chung nhất đó là làm cho ngôn ngữ giao tiếp thêm sinh động, giàu hình ảnh, lời
nói trở nên đẹp đẽ, sâu sắc. Thành ngữ có nhiều nguồn gốc xuất xứ khác nhau như
từ một câu danh ngôn, từ một câu chuyện, một điển tích hay từ một bài thơ. Hiểu
được thành ngữ một cách chính xác và đầy đủ không phải là chuyện dễ, đặc biệt
là việc truy nguyên nguồn gốc của nó. Chính vì vậy khi giao tiếp cần phải sử dụng
đúng chỗ, đúng lúc, phù hợp với văn cảnh thì tính thuyết phục sẽ cao hơn. Như
chúng tôi đã trình bày ở trên có rất nhiều thành ngữ ngữ mà chính nó là một phần
tinh thần của những bài thơ, nếu ta sử dụng các thành ngữ này mà ta lại hiểu được
ý nghĩa của bài thơ mà được coi là xuất xứ của nó thì chẳng những làm phong
phú, chính xác thêm trong ngôn ngữ giao tiếp mà còn thấy thú vị hơn nhiều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét