Phần XII
Chương 1
Ở Petersburg, trong các giới cao cấp diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt hơn bao giờ hết giữa các đảng phái của Rumiantev, của các quan lại Pháp, của Maria Feodorovna [248], của thái tử của mấy người khác nữa. Cũng như xưa nay vẫn thế, cuộc tranh chấp này diễn ra trong tiếng vo ve của bầy ong đực trong triều đình. Nhưng cuộc sống Petersburg yên tĩnh, xa hoa, chỉ bận tâm lo đến những ảo ảnh, những phản ánh của cuộc đời, vẫn tiếp tục theo nếp cũ cho nên phải cố gắng lắm mới có thể nhận thức được nguy cơ và tình cảnh khó khăn của nhân dân Nga hồi bấy giờ. Vẫn những buổi lâm triều ấy, những cuộc vũ hội ấy, đoàn kịch Pháp ấy, cũng vẫn những cuộc tranh chấp ấy, chạy chọt, kèn cựa như trước ở cung đình và trong quan trường. Chỉ có trong các giới cao cấp nhất người ta mới cố gắng nhớ tới sự khó khăn của tình thế lúc bấy giờ. Người ta thì thầm rỉ tai nhau chuyện hai hoàng hậu chống đối nhau trong những hoàn cảnh khó khăn như vậy. Hoàng hậu Maria Feodorovna, luôn cố gắng đến các cơ quan từ thiện và giáo dục dưới quyền chủ trì của người, đã thu xếp dời tất cả cơ quan này về Kazan, và bấy giờ đồ đạc của các cơ quan đó đều đã được đóng gói sẵn sàng. Còn hoàng hậu Elizaveta Alekxeyevna [249] thì khi có người hỏi người có truyền bảo gì không, hoàng hậu đã trả lời với lòng ái quốc đặc biệt Nga của mình rằng người không thể truyền bảo gì về cơ quan của nhà nước được vì đó là việc của hoàng thượng; còn về phần riêng, thì người đã có lòng phán rằng người sẽ là người cuối cùng rời khỏi Petersburg. Ở nhà Anna Pavlovna, tối hôm mười sáu tháng tám, đúng vào ngày diễn ra trận Borodino, có tổ chức một buổi tiếp tân. Tiết mục then chốt của tối tiếp tân này là tuyên đọc bức thư của đức cha giám mục gửi kèm theo bức tượng thánh Xergey gửi lên hoàng đế. Bấy giờ bức thư này được xem là mẫu mực của thể văn hùng biện ái quốc của giới tăng lữ. Người đọc bức thư sẽ là công tước Vaxili, người nổi tiếng về nghệ thuật đọc (chính ông ta vẫn thường đọc trong cung hoàng hậu). Theo quan niệm thời bấy giờ thì nghệ thuật đọc là ở chỗ đọc cho to, giọng ngân nga luôn chuyển từ tiếng the thé sang tiếng thì thầm êm dịu, hoàn toàn không đếm xỉa gì đến ý nghĩa của câu văn, cho nên từ này được đọc the thé lên, từ kia được đọc thì thầm, đều hoàn toàn là chuyện tình cờ. Việc đọc này, cũng như tất cả các buổi tiếp tân của Anna Pavlovna, đều có một ý nghĩa chính trị. Đến dự tối tiếp tân sẽ có một số nhân vật quan trọng cần phải làm cho họ xấu hổ vì họ thường hay lui tới kịch viện Pháp, và cần phải thức tỉnh tình yêu nước trong lòng họ. Các tân khách đều đã khá đông, nhưng Anna Pavlovna thấy trong phòng khách chưa đủ mặt những người cần có mặt nên chưa cho họ đọc, mà chỉ cầm trịch cho tân khách nói chuyện chung chung. Tin sốt dẻo nhất trong ngày hôm ấy là tin bá tước phu nhân Bezukhova ốm. Cách đây mấy hôm, bá tước phu nhân bỗng lâm bệnh, bỏ mấy buổi dịp trong đó lẽ ra phu nhân phải là vật trang hoàng, và nghe nói phu nhân không tiếp ai cả, không mời các bác sĩ nổi tiếng ở Petersburg xưa nay vẫn chữa cho phu nhân, mà lại phó mình cho một ông thầy thuốc người Ý nào đó chữa theo một phương pháp gì đấy rất mới, rất lạ. Mọi người đều biết rõ rằng vị bá tước phu nhân kiều diễm ấy lâm bệnh là vì lâm vào tình cảnh éo le một lúc lấy hai chồng, và cách chữa bệnh của ông thầy thuốc người Ý chính là làm thế nào khắc phục được cái tinh cảnh éo le ấy, nhưng trước mặt Anna Pavlovna không những không ai dám nghĩ đến điều đó, mà thậm chí người ta còn làm như không ai hay biết tí gì về việc đó. - Tội nghiệp, nghe nói bá tước phu nhân ốm nặng lắm. Ông thầy thuốc bảo đó là bệnh viêm ức. - Viêm ức à? Ồ! Đó là một thứ bệnh rất đáng sợ. - Nghe nói hai kẻ tình địch đã hòa giải nhờ cái bệnh viêm ức này. Người ta nhắc đi nhắc lại hai chữ “viêm ức” một cách khoái trá. - Nghe nói vị bá tước già tội nghiệp lắm thì phải. Ông ta đã khóc như một đưa trẻ khi bác sĩ nói với ông ta rằng trường hợp này nguy hiểm . - Ồ, phu nhân có mệnh hệ nào thì thật là một tổn thất kinh khủng. Phu nhân là một người đàn bà kiều diễm mê hồn. - Các vị đang nói đến bá tước phu nhân đáng thương của chúng ta đấy ư? - Anna Pavlovna lại gần nói. - Tôi đã cho người đi hỏi tin tức. Nghe nói phu nhân đã đỡ được chút ít. - Ồ chắc chắn nàng là người đàn bà đáng thương nhất đời - Anna Pavlovna nói đoạn mỉm cười như để chế giễu thái độ bồng bột của mình, - Phu nhân với tôi hai người thuộc hai phái khác nhau, nhưng điều đó không hề ngăn trở tôi quý trọng phu nhân đúng như phu nhân xứng đáng được quý trọng. Phu nhân thật là bất hạnh! - Anna Pavlovna nói thêm. Cho rằng Anna Pavlovna nói câu này là đã hé mở bức màn bí mật phủ trên bệnh tình của bá tước phu nhân, một chàng thanh niên thận trọng đã dám tỏ ý ngạc nhiên không hiểu tại sao người ta lại không cho mời những người vị danh y mà lại dùng một anh lang băm có thể cho phu nhân uống những liều thuốc nguy hiểm. Những tin tức mà ông thu lượm được có thể chính xác hơn của tôi. - Anna Pavlovna bỗng dùng một giọng chua chát đáp lại chàng thanh niên thiếu lịch lãm - Nhưng tôi được biết qua một nghồn tin chắc chắn rằng ông thầy thuôc đó là một người rất uyên bác và tài giỏi. Đó là vị thầy thuốc thân cận của hoàng hậu Tây ban nha. Và sau khi đã giáng lên chàng thanh niên kia một đòn chí mạng như vậy, Anna Pavlovna quay về phía Bilibin bấy giờ đang đứng ở một nhóm khác nói chuyện về người Áo, da trán co lại, hẳn là đang chuẩn bị cho nó dãn ra để buông một câl dí dỏm. - Tôi cho là rất thú vị! - Bilibin nói về sự kiện ngoại giao gửi về Viên kèm theo mấy lá cờ áo do Vitghenstain, vị anh hùng thành Petropol chiếm được. (ở Petersburg thường gọi Vitghenstain như vậy) - Sao, thế nào? - Anna Pavlovna hỏi Bilibin, có ý để mọi người im lặng nghe cái câu dí dỏm Bilibin sắp nói ra (câu này bà ta đã biết trước), và Bilibin nhắc lại nguyên văn câu sau đây trong bức thông điệp ngoại giao mà chính ông ta đã viết ra: - Hoàng đế gửi lại mấy lá cờ áo, - Bilibin nói, - Đây là những lá cờ của nước bạn đã thất lạc mà ngài đã tìm thấy ngoài lề đường! - Bilibin vừa nói vừa cho lớp da trên trán dãn ra. - Thú tuyệt, thú tuyệt! - công tước Vaxili nói. - Có lẽ đó là con đường Varsava chăng? - công tước Ippolit bỗng nói rất to và rất bất ngờ. Mọi người đều quay lại nhìn Ippolit không hiểu chàng muốn ngụ ý gì. Công tước Ippolit cũng vui vẻ và ngạc nhiên đưa mắt nhìn quanh. Cũng như mọi người, chính chàng cũng không hiểu câu mình vừa nói ngụ ý gì. Trong sự nghiệp ngoại giao của chàng, Ippolit đã có lần nhận thấy rằng những câu nói ra một cách đột ngột như vậy nhiều khi lại đâm ra rất dí dỏm, cho nên hễ có dịp là chàng cứ nói bất cứ một câu gì. Chưa biết chừng thế mà hóa ra hay cũng nên, chàng nghĩ, - và dù không hay đi nữa, thì rồi họ cũng tìm ra được cách hiểu. Quả nhiên, trong đám tân khách vừa bắt đầu có một phút im lặng nặng nề, thì nhân vật thiếu lòng ái quốc mà Anna Pavlovna đang chờ đợi và muốn cảm hóa đã bước vào phòng. Anna Pavlovna mỉm cười đưa ngón tay lên dọa Ippolit, rồi cùng công tước Vaxili ra bàn; đem lại cho ông ta hai cây nến và bản chép tay bức thư giám mục, đoạn yêu cầu ông ta bắt đầu. Trong phòng lặng hẳn đi. - Tâu bệ hạ chính nhân chí thánh - công tước Vaxili cất giọng nghiêm trang đọc lớn, đoạn đưa mắt nhìn qua cử tọa một lượt như muốn hỏi xem có ai phản đối gì không. Nhưng chẳng có ai nói gì cả Moskva, thủ đô đầu tiên của chúng ta, thành Jexusalem mới, đang tiếp đón đấng Cơ đốc của nó - ông ta nhấn mạnh hai chữ của nó - như người mẹ hiền đón những người con hiếu thảo vào lòng và qua bóng đen vừa xuất hiện vẫn nhìn thấy trước ánh vinh quang rực rỡ của triều đại Người, thành Moskva hân hoan cất tiếng ca “Hoxanna, cầu Thượng đế ban phước cho người sắp đến!” [250] - Công tước Vaxili đọc câu cuối cùng này với một giọng như sắp khóc. Bilibin chăm chú quan sát mấy cái móng tay của mình, và có nhiều người có vẻ bối rối như tự không biết mình phạm lỗi gì? Anna Pavlovna thì thầm nhắc trước câu sắp đến, như một bà già xuýt xoa khấn khứa bài kinh nhận mình thánh: “Cứ mặc cho tên Goliath hỗn xược và trơ tráo” [251] . Công tước Vaxili đọc tiếp: - Cứ mặc cho tên Goliath hỗn xược và trơ tráo kia từ biên cương nước Pháp, đem đến tận biên thuỳ nước Nga những nỗi thê lương khủng khiếp và đầy tử khí, cái đức tính khiêm tốn, cái ná của David Nga sẽ bất thần đánh mạnh vào cái đầu kiêu hãnh khát máu của nó. Bức tượng thánh này của đức thánh Xerghi, vị chiến sĩ nhiệt thành xưa kia đã từng bảo vệ hạnh phúc của tổ quốc ta, thần xin dâng lên Sa hoàng bệ hạ. Thần lấy làm ân hận rằng tuổi già sức yếu không cho phép mình có được diễm phúc đến chiêm ngưỡng dung mạo tối anh minh của bệ hạ. Thần xin gửi lên đấng cao xanh những lời cầu nguyện nhiệt thành, cầu đấng Vạn năng phù hộ cho dòng dõi những người chính trực và thực hiện những ước nguyện của bệ hạ được. - Hùng tráng quá! Văn hay quá! - chung quanh có tiếng trầm trồ khen ngợi người đọc và người viết thư. Được bài văn này cổ vũ, các tân khách của Anna Pavlovna còn bàn tán hồi lâu về tình cảnh của tổ quốc và đưa ra nhiều ức thuyết khác nhau về kết quả trận đánh sắp diễn ra nay mai. - Rồi các vị sẽ xem2 - Anna Pavlovna nói, - Ngày mai, ngày sinh nhật của hoàng thượng, ta sẽ nhận được những tin mới. Linh tính tôi báo trước là tin rất lành. Chương 2 Linh tính của Anna Pavlovna quả nhiên đã ứng nghiệm. Ngày hôm sau, trong khi đang làm lễ ca ngợi trong cung nhân ngày sinh nhật của hoàng đế, công tước Bolkonxki được gọi ra ngoài nhà thờ và nhận được một bức thư của công tước Kutuzov. Đó là bức thông báo của Kutuzov viết ở Tatarinovo hôm diễn ra trận đánh. Kutuzov viết rằng quân đội Nga không hề rút lui một bước, rằng quân Pháp tổn thất nặng nề hơn quân ta rất nhiều, nhưng trong khi viết vội thông báo về triều đình ngay tại chiến trường ông chưa kịp thu thập những tài liệu sau cùng. Như vậy, nghĩa là quân ta đã thắng. Thế là trong nhà thờ lập tức làm lễ tạ ơn đấng sáng tạo ra muôn loài đã phù hộ cho quân ta thắng trận. Linh cảm của Anna Pavlovna đã được xác nhận và suốt buổi sáng hôm ấy trong thành phố tràn ngập một tâm trạng vui mừng hân hoan như ngày hội. Mọi người đều cho rằng đây là một trận toàn thắng, và có mấy người đã nói đến việc bắt Napoléon làm tù binh, phế truất y và chọn một quốc trưởng mới cho nước Pháp. Xa nơi trận mạc và ở giữa hoàn cảnh sinh hoạt của cung đình, các biến cố thật khó lòng được phản ảnh trọn vẹn. Các biến cố chung vô tình được tập hợp lại chung quanh một sự việc cá biết nào đó. Chẳng hạn bây giờ các triều thần vui mừng vì quân ta thắng trận đã đành, nhưng họ cũng vui mừng không kém vì tin thắng trận này đến đúng vào ngày sinh nhật của hoàng thượng. Cứ như là một trò chơi bất ngờ thành công vậy. Trong bản thông báo của Kutuzov cũng nói đến những tổn thất của quân ta, và trong số các tướng sĩ tử trận thấy có Tutskov, Bagration, Kutaixov. Trong giới xã giao của Petersburg khía cạnh đáng buồn của nước này tự nhiên lại tập hợp chung quanh một sự việc, - cái chết của Kutaixov. Ai cũng biết ông ta, hoàng thượng yêu mến ông ta, ông ta trẻ tuổi và hấp dẫn. Ngày hôm ấy hễ gặp nhau là người ta nói: - Thật là một sự tình cờ lạ lùng. Đúng giữa khi đọc kinh Ca ngợi. Kutaixov chết đi thật là một tổn thất nặng nề! Ồ, đáng tiếc thật. - Đấy tôi đã bảo mà, Kutuzov có phải tầm thường đâu - Bây giờ công tước Vaxili lại nói với giọng kiêu hãnh của một nhà tiên tri, - Xưa nay tôi vẫn nói chỉ có ông ta mới đánh bại được Napoléon thôi mà. Nhưng hôm sau không nhận được tin tức gì của quân đội gửi về và giọng bàn tán lại có chiều lo lắng. Các triều thần khổ sở về chỗ hoàng thượng rất phiền muộn chẳng biết thật hư ra sao. - Tình cảnh của hoàng thượng thật là bi đát! - Các triều thần bảo nhau như vậy, và họ không còn ca tụng Kutuzov như hôm qua nữa, mà lại lên án ông ta đã làm cho hoàng thượng lo âu. Ngày hôm ấy công tước Vaxili cũng không tán dương Kutuzov, người được ông ta bênh vực mà chỉ im lặng mỗi khi có ai nói đến vị tổng tư lệnh. Hơn nữa, tối hôm ấy dường như mọi việc đều dồn dập làm cho dân Petersburg lo sợ lại có tin bá tước phu nhân Elena Bezukhov vừa qua đời một cách đột ngột vì cái chứng bệnh kỳ lạ mà người ta thích nhắc đến tên. Trong các buổi lễ tiếp tân lớn mọi người đều chính thức nói rằng bá tước phu nhân Bezukhov chết vì một cơn bệnh viêm ức kinh khủng, nhưng những lúc họp mặt thân mật người ta lại nói chi tiết rằng ông bác sĩ thân cận của hoàng hậu Tây Ban Nha đã kê đơn cho Elen uống một thứ thuốc nào đấy với những liều lượng nhỏ đều gây nên những tác dụng nhất định; nhưng Elen, xót xa vì bị ông bá tước già nghi kỵ và vì đã viết thư cho chồng (cái thằng cha Piotr phóng đãng khốn nạn ấy) mà không được trả lời, nên đã uống thuốc với một liều lượng rất lớn và đã chết trong những cơn đau quằn quại trước khi người ta kịp chạy chữa. Họ kể lại rằng công tước Vaxili và vị bá tước già cũng định bắt viên thầy thuốc người Ý, nhưng ông này đưa ra những bức thư nhỏ gì đấy của người quá cố bất hạnh, làm hai người lập tức phải thả ông ta. Cuộc trò chuyện tập trung vào ba sự kiện đáng buồn: nỗi băn khoăn của hoàng thượng, Kutaixov tử trận và và cái chết của Elen. Những cuộc thăm viếng chia buồn nhận cái chết của Elen, công tước Vaxili nhắc đến Kutuzov, người mà mấy hôm trước ông vừa tán dương (trong khi buồn rầu tang tóc như thế này ông ta có quên những lời nói trước kia thì cũng chẳng có gì đáng trách), có nói rằng lão già đui chột và truỵ lạc ấy tất nhiên phải hành động như vậy, không thể chờ mong gì hơn được nữa. - Tôi chỉ lạ không hiểu sao người ta lại có thể trao vận mệnh nước Nga cho một con người như vậy. Trong khi tin này chưa phải là tin chính thức thì người ta còn có thể hồ nghi được. Nhưng hôm sau lại nhận được một bản thông báo của bá tước Raxtovsin như sau: “Sĩ quan phụ tá của công tước Kutuzov đã đem lại cho tôi một bức thư yêu cầu tôi cung cấp những sĩ quan cảnh binh để giúp vào việc chuyển quân ra con đường Ryazan. Công tước nói rằng công tước đành lòng phải bỏ Moskva. Tâu bệ hạ! Hành động của Kutuzov định đoạt vận mệnh của thủ đô và toàn thể đế quốc của bệ hạ. Nước Nga sẽ rung chuyển khi biết tin bỏ ngỏ Moskva, nơi tập trung sự vĩ đại của nước Nga, nơi chôn cất tro tàn của hài cốt các tiên đế. Tôi sẽ đi theo quân đội. Tôi đã cho chuyển tất cả những cái gì cần phải chuyển ra khỏi thành. Nay tôi chỉ còn biết khóc thương số phận của tổ quốc nữa mà thôi”. Nhận được bản thông báo này, hoàng đế liền phái công tước Bolkonxki đem trao cho Kutuzov tờ dụ sau đây: “Công tước Mikhail Ilarionovich! Từ ngày hai mươi chín tháng tám ta không nhận được tin gì mới của công tước. Trong khi đó ngày mồng một tháng chín, ta lại nhận được của quan tư lệnh thành Moskva, chuyển qua đường Yaroxlav, cái tin đáng buồn là công tước đã quyết định cùng quân đội rời khỏi Moskva. Chắc công tước có thể tưởng tượng được tin này đã tác động đến ta như thế nào và sự im lặng của công tước lại càng khiến ta kinh ngạc bội phần. Ta phái phó tướng của ta là công tước Bolkonxki mang thư này đến gặp công tước, để biết rõ tình hình quân đội và những nguyện nhân đã khiến công tước quyết định một việc đáng buồn như vậy” Chương 3 Chín ngày sau khi Moskva bị bỏ ngỏ có một tín sứ của Kutuzov đến Petersburg đưa tin chính thức về việc này. Tin sứ này là một người Pháp tên Misô, người không biết tiếng Nga nhưng tuy người là ngoại quốc mà lòng dạ lại là Nga như chính ông ta vẫn nói. Nhà vua lập tức cho ông ta bệ kiến trong phòng riêng ở cung điện Kemmenny Oxtrov, Misô chưa bao giờ trông thấy Moskva trước chiến dịch này và lại không biết tiếng Nga. Nhưng vẫn rất cảm động khi ra mắt vị hoàng đế chí nhân của chúng ta (như ông ta vẫn viết) để đưa tin Moskva bị cháy, lửa bừng sáng rực cả đường đi của ông ta. Tuy nhiên nguyên do khiến ông Misô buồn chắc phải khác hẳn những nguyên do khiến người Nga đau khổ, gương mặt ông khi ông bước vào văn phòng hoàng đế cũng rầu rĩ đến nỗi nhà vua hỏi ngay: - Đại tá mang lại cho ta những tin buồn chăng? - Rất buồn, tâu hoàng thượng, - Misô đáp trong một tiếng thở dài, mắt nhìn xuống đất, - Moskva đã bị bỏ ngỏ! - Chẳng lẽ người ta đã bỏ ngỏ cố đô của ta mà không chiến đấu sao? - Nhà vua bỗng đỏ mặt lên nói nhanh. Misô kính cẩn truyền đạt lại những điều Kutuzov đã dặn: không thể nào chiến đấu ở vùng Moskva, cho nên có thể chọn một trong hai đường, - hoặc mất cả quân đội lẫn Moskva, hoặc chỉ mất Moskva, vì vậy nguyên soái đành phải chọn lấy cách sau cùng. Hoàng thượng im lặng nghe, không nhìn Misô. - Quân địch đã tiến vào thành phố chưa? - ngài nói. - Tâu bệ hạ, vào giờ này thành phố đã cháy ra tro. Khi tôi ra đi cả thành phố đang cháy rực lên! - Misô nói giọng quả quyết nhưng khi nhìn hoàng đế, ông phát hoảng vì đã nói như vậy. Hoàng đế bắt đầu thở dồn dập, môi dưới của ngài run lên và đôi mắt xanh đẹp của ngài trong khoảnh khắc đã rớm lệ. Nhưng chỉ một phút sau, hoàng đế đã cau mày lại như muốn tự trách mình đã yếu đuối như vậy. Và hoàng đế ngẩng đầu lên cất giọng rắn rỏi nói với Misô. - Đại tá ạ, qua tất cả những việc đang xảy ra, ta đã thấy rõ rằng Thượng đế đòi hỏi chúng ta hy sinh lớn lao. Ta sẵn sàng phục tùng tất cả những ý muốn của Thượng đế, nhưng ông Misô, ông hãy nói cho ta rõ tinh thần quân đội khi ông ra đi như thế nào, khi họ thấy cố đô của ta bị bỏ ngỏ không hề bắn một viên đạn như vậy? Ông có thấy họ có nản lòng không? Thấy vị hoàng đế chí nhân huệ của mình đã bình tâm lại Misô cũng yên tâm, nhưng câu hỏi trực tiếp và trọng yếu cuả hoàng thượng cũng đòi hỏi một câu trả lời trực tiếp mà ông ta chưa kịp chuẩn bị. - Tâu hoàng thượng, hoàng thượng có cho phép tôi được nói thắng thắn như một quân nhân trung thực không? - Misô nói để có thêm thì giờ. - Đại tá ạ bao giờ ta cũng đòi hỏi như vậy, Hoàng thượng nói. - Đại tá đừng giấu giếm gì hết, ta nhất thiết muốn biết rõ tình hình thật hiện nay ra sao? - Tâu hoàng thượng! - Misô nói, miệng chỉ khẽ nhếch một chút thành một nụ cười tế nhị: bấy giờ ông ta đã kịp chuẩn bị câu trả lời dưới hình thức một trò chơi chữ, nhẹ nhàng và kín cẩn, - Tâu hoàng thượng khi tôi ra đi thì toàn thể quân đội, kể từ các vị chỉ huy cho đến người lính thường không trừ ai, đều cũng chung một mối lo sợ khủng khiếp! - Sao lại thế? - Hoàng thượng cau mày ngắt lời Misô, giọng nói nghiêm khắc. - Chả lẽ dân Nga của ta nản lòng trước cơn hoạn nạn. Không đời nào! Misô chỉ chờ có thế để thực hiện trò chơi chữ của mình.
Chương 1
Ở Petersburg, trong các giới cao cấp diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt hơn bao giờ hết giữa các đảng phái của Rumiantev, của các quan lại Pháp, của Maria Feodorovna [248], của thái tử của mấy người khác nữa. Cũng như xưa nay vẫn thế, cuộc tranh chấp này diễn ra trong tiếng vo ve của bầy ong đực trong triều đình. Nhưng cuộc sống Petersburg yên tĩnh, xa hoa, chỉ bận tâm lo đến những ảo ảnh, những phản ánh của cuộc đời, vẫn tiếp tục theo nếp cũ cho nên phải cố gắng lắm mới có thể nhận thức được nguy cơ và tình cảnh khó khăn của nhân dân Nga hồi bấy giờ. Vẫn những buổi lâm triều ấy, những cuộc vũ hội ấy, đoàn kịch Pháp ấy, cũng vẫn những cuộc tranh chấp ấy, chạy chọt, kèn cựa như trước ở cung đình và trong quan trường. Chỉ có trong các giới cao cấp nhất người ta mới cố gắng nhớ tới sự khó khăn của tình thế lúc bấy giờ. Người ta thì thầm rỉ tai nhau chuyện hai hoàng hậu chống đối nhau trong những hoàn cảnh khó khăn như vậy. Hoàng hậu Maria Feodorovna, luôn cố gắng đến các cơ quan từ thiện và giáo dục dưới quyền chủ trì của người, đã thu xếp dời tất cả cơ quan này về Kazan, và bấy giờ đồ đạc của các cơ quan đó đều đã được đóng gói sẵn sàng. Còn hoàng hậu Elizaveta Alekxeyevna [249] thì khi có người hỏi người có truyền bảo gì không, hoàng hậu đã trả lời với lòng ái quốc đặc biệt Nga của mình rằng người không thể truyền bảo gì về cơ quan của nhà nước được vì đó là việc của hoàng thượng; còn về phần riêng, thì người đã có lòng phán rằng người sẽ là người cuối cùng rời khỏi Petersburg. Ở nhà Anna Pavlovna, tối hôm mười sáu tháng tám, đúng vào ngày diễn ra trận Borodino, có tổ chức một buổi tiếp tân. Tiết mục then chốt của tối tiếp tân này là tuyên đọc bức thư của đức cha giám mục gửi kèm theo bức tượng thánh Xergey gửi lên hoàng đế. Bấy giờ bức thư này được xem là mẫu mực của thể văn hùng biện ái quốc của giới tăng lữ. Người đọc bức thư sẽ là công tước Vaxili, người nổi tiếng về nghệ thuật đọc (chính ông ta vẫn thường đọc trong cung hoàng hậu). Theo quan niệm thời bấy giờ thì nghệ thuật đọc là ở chỗ đọc cho to, giọng ngân nga luôn chuyển từ tiếng the thé sang tiếng thì thầm êm dịu, hoàn toàn không đếm xỉa gì đến ý nghĩa của câu văn, cho nên từ này được đọc the thé lên, từ kia được đọc thì thầm, đều hoàn toàn là chuyện tình cờ. Việc đọc này, cũng như tất cả các buổi tiếp tân của Anna Pavlovna, đều có một ý nghĩa chính trị. Đến dự tối tiếp tân sẽ có một số nhân vật quan trọng cần phải làm cho họ xấu hổ vì họ thường hay lui tới kịch viện Pháp, và cần phải thức tỉnh tình yêu nước trong lòng họ. Các tân khách đều đã khá đông, nhưng Anna Pavlovna thấy trong phòng khách chưa đủ mặt những người cần có mặt nên chưa cho họ đọc, mà chỉ cầm trịch cho tân khách nói chuyện chung chung. Tin sốt dẻo nhất trong ngày hôm ấy là tin bá tước phu nhân Bezukhova ốm. Cách đây mấy hôm, bá tước phu nhân bỗng lâm bệnh, bỏ mấy buổi dịp trong đó lẽ ra phu nhân phải là vật trang hoàng, và nghe nói phu nhân không tiếp ai cả, không mời các bác sĩ nổi tiếng ở Petersburg xưa nay vẫn chữa cho phu nhân, mà lại phó mình cho một ông thầy thuốc người Ý nào đó chữa theo một phương pháp gì đấy rất mới, rất lạ. Mọi người đều biết rõ rằng vị bá tước phu nhân kiều diễm ấy lâm bệnh là vì lâm vào tình cảnh éo le một lúc lấy hai chồng, và cách chữa bệnh của ông thầy thuốc người Ý chính là làm thế nào khắc phục được cái tinh cảnh éo le ấy, nhưng trước mặt Anna Pavlovna không những không ai dám nghĩ đến điều đó, mà thậm chí người ta còn làm như không ai hay biết tí gì về việc đó. - Tội nghiệp, nghe nói bá tước phu nhân ốm nặng lắm. Ông thầy thuốc bảo đó là bệnh viêm ức. - Viêm ức à? Ồ! Đó là một thứ bệnh rất đáng sợ. - Nghe nói hai kẻ tình địch đã hòa giải nhờ cái bệnh viêm ức này. Người ta nhắc đi nhắc lại hai chữ “viêm ức” một cách khoái trá. - Nghe nói vị bá tước già tội nghiệp lắm thì phải. Ông ta đã khóc như một đưa trẻ khi bác sĩ nói với ông ta rằng trường hợp này nguy hiểm . - Ồ, phu nhân có mệnh hệ nào thì thật là một tổn thất kinh khủng. Phu nhân là một người đàn bà kiều diễm mê hồn. - Các vị đang nói đến bá tước phu nhân đáng thương của chúng ta đấy ư? - Anna Pavlovna lại gần nói. - Tôi đã cho người đi hỏi tin tức. Nghe nói phu nhân đã đỡ được chút ít. - Ồ chắc chắn nàng là người đàn bà đáng thương nhất đời - Anna Pavlovna nói đoạn mỉm cười như để chế giễu thái độ bồng bột của mình, - Phu nhân với tôi hai người thuộc hai phái khác nhau, nhưng điều đó không hề ngăn trở tôi quý trọng phu nhân đúng như phu nhân xứng đáng được quý trọng. Phu nhân thật là bất hạnh! - Anna Pavlovna nói thêm. Cho rằng Anna Pavlovna nói câu này là đã hé mở bức màn bí mật phủ trên bệnh tình của bá tước phu nhân, một chàng thanh niên thận trọng đã dám tỏ ý ngạc nhiên không hiểu tại sao người ta lại không cho mời những người vị danh y mà lại dùng một anh lang băm có thể cho phu nhân uống những liều thuốc nguy hiểm. Những tin tức mà ông thu lượm được có thể chính xác hơn của tôi. - Anna Pavlovna bỗng dùng một giọng chua chát đáp lại chàng thanh niên thiếu lịch lãm - Nhưng tôi được biết qua một nghồn tin chắc chắn rằng ông thầy thuôc đó là một người rất uyên bác và tài giỏi. Đó là vị thầy thuốc thân cận của hoàng hậu Tây ban nha. Và sau khi đã giáng lên chàng thanh niên kia một đòn chí mạng như vậy, Anna Pavlovna quay về phía Bilibin bấy giờ đang đứng ở một nhóm khác nói chuyện về người Áo, da trán co lại, hẳn là đang chuẩn bị cho nó dãn ra để buông một câl dí dỏm. - Tôi cho là rất thú vị! - Bilibin nói về sự kiện ngoại giao gửi về Viên kèm theo mấy lá cờ áo do Vitghenstain, vị anh hùng thành Petropol chiếm được. (ở Petersburg thường gọi Vitghenstain như vậy) - Sao, thế nào? - Anna Pavlovna hỏi Bilibin, có ý để mọi người im lặng nghe cái câu dí dỏm Bilibin sắp nói ra (câu này bà ta đã biết trước), và Bilibin nhắc lại nguyên văn câu sau đây trong bức thông điệp ngoại giao mà chính ông ta đã viết ra: - Hoàng đế gửi lại mấy lá cờ áo, - Bilibin nói, - Đây là những lá cờ của nước bạn đã thất lạc mà ngài đã tìm thấy ngoài lề đường! - Bilibin vừa nói vừa cho lớp da trên trán dãn ra. - Thú tuyệt, thú tuyệt! - công tước Vaxili nói. - Có lẽ đó là con đường Varsava chăng? - công tước Ippolit bỗng nói rất to và rất bất ngờ. Mọi người đều quay lại nhìn Ippolit không hiểu chàng muốn ngụ ý gì. Công tước Ippolit cũng vui vẻ và ngạc nhiên đưa mắt nhìn quanh. Cũng như mọi người, chính chàng cũng không hiểu câu mình vừa nói ngụ ý gì. Trong sự nghiệp ngoại giao của chàng, Ippolit đã có lần nhận thấy rằng những câu nói ra một cách đột ngột như vậy nhiều khi lại đâm ra rất dí dỏm, cho nên hễ có dịp là chàng cứ nói bất cứ một câu gì. Chưa biết chừng thế mà hóa ra hay cũng nên, chàng nghĩ, - và dù không hay đi nữa, thì rồi họ cũng tìm ra được cách hiểu. Quả nhiên, trong đám tân khách vừa bắt đầu có một phút im lặng nặng nề, thì nhân vật thiếu lòng ái quốc mà Anna Pavlovna đang chờ đợi và muốn cảm hóa đã bước vào phòng. Anna Pavlovna mỉm cười đưa ngón tay lên dọa Ippolit, rồi cùng công tước Vaxili ra bàn; đem lại cho ông ta hai cây nến và bản chép tay bức thư giám mục, đoạn yêu cầu ông ta bắt đầu. Trong phòng lặng hẳn đi. - Tâu bệ hạ chính nhân chí thánh - công tước Vaxili cất giọng nghiêm trang đọc lớn, đoạn đưa mắt nhìn qua cử tọa một lượt như muốn hỏi xem có ai phản đối gì không. Nhưng chẳng có ai nói gì cả Moskva, thủ đô đầu tiên của chúng ta, thành Jexusalem mới, đang tiếp đón đấng Cơ đốc của nó - ông ta nhấn mạnh hai chữ của nó - như người mẹ hiền đón những người con hiếu thảo vào lòng và qua bóng đen vừa xuất hiện vẫn nhìn thấy trước ánh vinh quang rực rỡ của triều đại Người, thành Moskva hân hoan cất tiếng ca “Hoxanna, cầu Thượng đế ban phước cho người sắp đến!” [250] - Công tước Vaxili đọc câu cuối cùng này với một giọng như sắp khóc. Bilibin chăm chú quan sát mấy cái móng tay của mình, và có nhiều người có vẻ bối rối như tự không biết mình phạm lỗi gì? Anna Pavlovna thì thầm nhắc trước câu sắp đến, như một bà già xuýt xoa khấn khứa bài kinh nhận mình thánh: “Cứ mặc cho tên Goliath hỗn xược và trơ tráo” [251] . Công tước Vaxili đọc tiếp: - Cứ mặc cho tên Goliath hỗn xược và trơ tráo kia từ biên cương nước Pháp, đem đến tận biên thuỳ nước Nga những nỗi thê lương khủng khiếp và đầy tử khí, cái đức tính khiêm tốn, cái ná của David Nga sẽ bất thần đánh mạnh vào cái đầu kiêu hãnh khát máu của nó. Bức tượng thánh này của đức thánh Xerghi, vị chiến sĩ nhiệt thành xưa kia đã từng bảo vệ hạnh phúc của tổ quốc ta, thần xin dâng lên Sa hoàng bệ hạ. Thần lấy làm ân hận rằng tuổi già sức yếu không cho phép mình có được diễm phúc đến chiêm ngưỡng dung mạo tối anh minh của bệ hạ. Thần xin gửi lên đấng cao xanh những lời cầu nguyện nhiệt thành, cầu đấng Vạn năng phù hộ cho dòng dõi những người chính trực và thực hiện những ước nguyện của bệ hạ được. - Hùng tráng quá! Văn hay quá! - chung quanh có tiếng trầm trồ khen ngợi người đọc và người viết thư. Được bài văn này cổ vũ, các tân khách của Anna Pavlovna còn bàn tán hồi lâu về tình cảnh của tổ quốc và đưa ra nhiều ức thuyết khác nhau về kết quả trận đánh sắp diễn ra nay mai. - Rồi các vị sẽ xem2 - Anna Pavlovna nói, - Ngày mai, ngày sinh nhật của hoàng thượng, ta sẽ nhận được những tin mới. Linh tính tôi báo trước là tin rất lành. Chương 2 Linh tính của Anna Pavlovna quả nhiên đã ứng nghiệm. Ngày hôm sau, trong khi đang làm lễ ca ngợi trong cung nhân ngày sinh nhật của hoàng đế, công tước Bolkonxki được gọi ra ngoài nhà thờ và nhận được một bức thư của công tước Kutuzov. Đó là bức thông báo của Kutuzov viết ở Tatarinovo hôm diễn ra trận đánh. Kutuzov viết rằng quân đội Nga không hề rút lui một bước, rằng quân Pháp tổn thất nặng nề hơn quân ta rất nhiều, nhưng trong khi viết vội thông báo về triều đình ngay tại chiến trường ông chưa kịp thu thập những tài liệu sau cùng. Như vậy, nghĩa là quân ta đã thắng. Thế là trong nhà thờ lập tức làm lễ tạ ơn đấng sáng tạo ra muôn loài đã phù hộ cho quân ta thắng trận. Linh cảm của Anna Pavlovna đã được xác nhận và suốt buổi sáng hôm ấy trong thành phố tràn ngập một tâm trạng vui mừng hân hoan như ngày hội. Mọi người đều cho rằng đây là một trận toàn thắng, và có mấy người đã nói đến việc bắt Napoléon làm tù binh, phế truất y và chọn một quốc trưởng mới cho nước Pháp. Xa nơi trận mạc và ở giữa hoàn cảnh sinh hoạt của cung đình, các biến cố thật khó lòng được phản ảnh trọn vẹn. Các biến cố chung vô tình được tập hợp lại chung quanh một sự việc cá biết nào đó. Chẳng hạn bây giờ các triều thần vui mừng vì quân ta thắng trận đã đành, nhưng họ cũng vui mừng không kém vì tin thắng trận này đến đúng vào ngày sinh nhật của hoàng thượng. Cứ như là một trò chơi bất ngờ thành công vậy. Trong bản thông báo của Kutuzov cũng nói đến những tổn thất của quân ta, và trong số các tướng sĩ tử trận thấy có Tutskov, Bagration, Kutaixov. Trong giới xã giao của Petersburg khía cạnh đáng buồn của nước này tự nhiên lại tập hợp chung quanh một sự việc, - cái chết của Kutaixov. Ai cũng biết ông ta, hoàng thượng yêu mến ông ta, ông ta trẻ tuổi và hấp dẫn. Ngày hôm ấy hễ gặp nhau là người ta nói: - Thật là một sự tình cờ lạ lùng. Đúng giữa khi đọc kinh Ca ngợi. Kutaixov chết đi thật là một tổn thất nặng nề! Ồ, đáng tiếc thật. - Đấy tôi đã bảo mà, Kutuzov có phải tầm thường đâu - Bây giờ công tước Vaxili lại nói với giọng kiêu hãnh của một nhà tiên tri, - Xưa nay tôi vẫn nói chỉ có ông ta mới đánh bại được Napoléon thôi mà. Nhưng hôm sau không nhận được tin tức gì của quân đội gửi về và giọng bàn tán lại có chiều lo lắng. Các triều thần khổ sở về chỗ hoàng thượng rất phiền muộn chẳng biết thật hư ra sao. - Tình cảnh của hoàng thượng thật là bi đát! - Các triều thần bảo nhau như vậy, và họ không còn ca tụng Kutuzov như hôm qua nữa, mà lại lên án ông ta đã làm cho hoàng thượng lo âu. Ngày hôm ấy công tước Vaxili cũng không tán dương Kutuzov, người được ông ta bênh vực mà chỉ im lặng mỗi khi có ai nói đến vị tổng tư lệnh. Hơn nữa, tối hôm ấy dường như mọi việc đều dồn dập làm cho dân Petersburg lo sợ lại có tin bá tước phu nhân Elena Bezukhov vừa qua đời một cách đột ngột vì cái chứng bệnh kỳ lạ mà người ta thích nhắc đến tên. Trong các buổi lễ tiếp tân lớn mọi người đều chính thức nói rằng bá tước phu nhân Bezukhov chết vì một cơn bệnh viêm ức kinh khủng, nhưng những lúc họp mặt thân mật người ta lại nói chi tiết rằng ông bác sĩ thân cận của hoàng hậu Tây Ban Nha đã kê đơn cho Elen uống một thứ thuốc nào đấy với những liều lượng nhỏ đều gây nên những tác dụng nhất định; nhưng Elen, xót xa vì bị ông bá tước già nghi kỵ và vì đã viết thư cho chồng (cái thằng cha Piotr phóng đãng khốn nạn ấy) mà không được trả lời, nên đã uống thuốc với một liều lượng rất lớn và đã chết trong những cơn đau quằn quại trước khi người ta kịp chạy chữa. Họ kể lại rằng công tước Vaxili và vị bá tước già cũng định bắt viên thầy thuốc người Ý, nhưng ông này đưa ra những bức thư nhỏ gì đấy của người quá cố bất hạnh, làm hai người lập tức phải thả ông ta. Cuộc trò chuyện tập trung vào ba sự kiện đáng buồn: nỗi băn khoăn của hoàng thượng, Kutaixov tử trận và và cái chết của Elen. Những cuộc thăm viếng chia buồn nhận cái chết của Elen, công tước Vaxili nhắc đến Kutuzov, người mà mấy hôm trước ông vừa tán dương (trong khi buồn rầu tang tóc như thế này ông ta có quên những lời nói trước kia thì cũng chẳng có gì đáng trách), có nói rằng lão già đui chột và truỵ lạc ấy tất nhiên phải hành động như vậy, không thể chờ mong gì hơn được nữa. - Tôi chỉ lạ không hiểu sao người ta lại có thể trao vận mệnh nước Nga cho một con người như vậy. Trong khi tin này chưa phải là tin chính thức thì người ta còn có thể hồ nghi được. Nhưng hôm sau lại nhận được một bản thông báo của bá tước Raxtovsin như sau: “Sĩ quan phụ tá của công tước Kutuzov đã đem lại cho tôi một bức thư yêu cầu tôi cung cấp những sĩ quan cảnh binh để giúp vào việc chuyển quân ra con đường Ryazan. Công tước nói rằng công tước đành lòng phải bỏ Moskva. Tâu bệ hạ! Hành động của Kutuzov định đoạt vận mệnh của thủ đô và toàn thể đế quốc của bệ hạ. Nước Nga sẽ rung chuyển khi biết tin bỏ ngỏ Moskva, nơi tập trung sự vĩ đại của nước Nga, nơi chôn cất tro tàn của hài cốt các tiên đế. Tôi sẽ đi theo quân đội. Tôi đã cho chuyển tất cả những cái gì cần phải chuyển ra khỏi thành. Nay tôi chỉ còn biết khóc thương số phận của tổ quốc nữa mà thôi”. Nhận được bản thông báo này, hoàng đế liền phái công tước Bolkonxki đem trao cho Kutuzov tờ dụ sau đây: “Công tước Mikhail Ilarionovich! Từ ngày hai mươi chín tháng tám ta không nhận được tin gì mới của công tước. Trong khi đó ngày mồng một tháng chín, ta lại nhận được của quan tư lệnh thành Moskva, chuyển qua đường Yaroxlav, cái tin đáng buồn là công tước đã quyết định cùng quân đội rời khỏi Moskva. Chắc công tước có thể tưởng tượng được tin này đã tác động đến ta như thế nào và sự im lặng của công tước lại càng khiến ta kinh ngạc bội phần. Ta phái phó tướng của ta là công tước Bolkonxki mang thư này đến gặp công tước, để biết rõ tình hình quân đội và những nguyện nhân đã khiến công tước quyết định một việc đáng buồn như vậy” Chương 3 Chín ngày sau khi Moskva bị bỏ ngỏ có một tín sứ của Kutuzov đến Petersburg đưa tin chính thức về việc này. Tin sứ này là một người Pháp tên Misô, người không biết tiếng Nga nhưng tuy người là ngoại quốc mà lòng dạ lại là Nga như chính ông ta vẫn nói. Nhà vua lập tức cho ông ta bệ kiến trong phòng riêng ở cung điện Kemmenny Oxtrov, Misô chưa bao giờ trông thấy Moskva trước chiến dịch này và lại không biết tiếng Nga. Nhưng vẫn rất cảm động khi ra mắt vị hoàng đế chí nhân của chúng ta (như ông ta vẫn viết) để đưa tin Moskva bị cháy, lửa bừng sáng rực cả đường đi của ông ta. Tuy nhiên nguyên do khiến ông Misô buồn chắc phải khác hẳn những nguyên do khiến người Nga đau khổ, gương mặt ông khi ông bước vào văn phòng hoàng đế cũng rầu rĩ đến nỗi nhà vua hỏi ngay: - Đại tá mang lại cho ta những tin buồn chăng? - Rất buồn, tâu hoàng thượng, - Misô đáp trong một tiếng thở dài, mắt nhìn xuống đất, - Moskva đã bị bỏ ngỏ! - Chẳng lẽ người ta đã bỏ ngỏ cố đô của ta mà không chiến đấu sao? - Nhà vua bỗng đỏ mặt lên nói nhanh. Misô kính cẩn truyền đạt lại những điều Kutuzov đã dặn: không thể nào chiến đấu ở vùng Moskva, cho nên có thể chọn một trong hai đường, - hoặc mất cả quân đội lẫn Moskva, hoặc chỉ mất Moskva, vì vậy nguyên soái đành phải chọn lấy cách sau cùng. Hoàng thượng im lặng nghe, không nhìn Misô. - Quân địch đã tiến vào thành phố chưa? - ngài nói. - Tâu bệ hạ, vào giờ này thành phố đã cháy ra tro. Khi tôi ra đi cả thành phố đang cháy rực lên! - Misô nói giọng quả quyết nhưng khi nhìn hoàng đế, ông phát hoảng vì đã nói như vậy. Hoàng đế bắt đầu thở dồn dập, môi dưới của ngài run lên và đôi mắt xanh đẹp của ngài trong khoảnh khắc đã rớm lệ. Nhưng chỉ một phút sau, hoàng đế đã cau mày lại như muốn tự trách mình đã yếu đuối như vậy. Và hoàng đế ngẩng đầu lên cất giọng rắn rỏi nói với Misô. - Đại tá ạ, qua tất cả những việc đang xảy ra, ta đã thấy rõ rằng Thượng đế đòi hỏi chúng ta hy sinh lớn lao. Ta sẵn sàng phục tùng tất cả những ý muốn của Thượng đế, nhưng ông Misô, ông hãy nói cho ta rõ tinh thần quân đội khi ông ra đi như thế nào, khi họ thấy cố đô của ta bị bỏ ngỏ không hề bắn một viên đạn như vậy? Ông có thấy họ có nản lòng không? Thấy vị hoàng đế chí nhân huệ của mình đã bình tâm lại Misô cũng yên tâm, nhưng câu hỏi trực tiếp và trọng yếu cuả hoàng thượng cũng đòi hỏi một câu trả lời trực tiếp mà ông ta chưa kịp chuẩn bị. - Tâu hoàng thượng, hoàng thượng có cho phép tôi được nói thắng thắn như một quân nhân trung thực không? - Misô nói để có thêm thì giờ. - Đại tá ạ bao giờ ta cũng đòi hỏi như vậy, Hoàng thượng nói. - Đại tá đừng giấu giếm gì hết, ta nhất thiết muốn biết rõ tình hình thật hiện nay ra sao? - Tâu hoàng thượng! - Misô nói, miệng chỉ khẽ nhếch một chút thành một nụ cười tế nhị: bấy giờ ông ta đã kịp chuẩn bị câu trả lời dưới hình thức một trò chơi chữ, nhẹ nhàng và kín cẩn, - Tâu hoàng thượng khi tôi ra đi thì toàn thể quân đội, kể từ các vị chỉ huy cho đến người lính thường không trừ ai, đều cũng chung một mối lo sợ khủng khiếp! - Sao lại thế? - Hoàng thượng cau mày ngắt lời Misô, giọng nói nghiêm khắc. - Chả lẽ dân Nga của ta nản lòng trước cơn hoạn nạn. Không đời nào! Misô chỉ chờ có thế để thực hiện trò chơi chữ của mình.
- Tâu hoàng thượng, - Ông ta nó với một giọng bông lơn nhưng
vẫn kính cẩn, - Họ lại lo sợ bệ hạ nghe theo lòng nhân từ mà thuận tình hòa giải.
Họ đều nức lòng muốn chiến đấu, ông ta nói với tư cách một người đại diện toàn
quyền của nhân dân Nga, - và thiết tha mong được hy sinh tính mệnh để chứng
minh cho hoàng thượng rõ họ hết lòng vì hoàng thượng đến chừng nào… - À! Hoàng
thượng yên tâm, vừa nói vừa vỗ lên vai Misô, mắt long lanh một ánh sáng dịu
dàng trìu mến. - Đại tá làm cho ta yên tâm! - nhà vua cúi đầu im lặng một lát.
- Thôi, đại tá hãy quay về quân đội đi, - ngài nói, người đứng thẳng lên, quay
về phía Misô với một cử chỉ tuy nghiêm mà thân mật, - và hãy nói lại với những
người lính dũng cảm của chúng ta, nói lại với tất cả các thần dân tốt lành của
ta ở bất cứ nơi nào đại tá đi qua, ta sẽ thân hành đứng ra chỉ huy, lớp quý tộc
yêu quý của ta và đám nông dân tốt lành của ta, ta sẽ sử dụng đến hết tài lực
chối cùng của đế chế ta. Đế chế của ta còn nhiều tài lực hơn là những kẻ thù của
ta vẫn tưởng. - Nhà vua nói, mỗi lúc một thêm phấn chấn, - Nhưng vạn nhất, nếu
Thượng đế truyền phán rằng, - ngài ngước đôi mắt đẹp đẽ, dịu dàng và sáng long
lanh vì xúc động nhìn lên trời - rằng vương triều của ta sẽ không còn được trị
vì trên ngai vàng của các tiên đế nữa, thì sau khi đã tận dụng các phương tiện
mà ta có thể sử dụng được, ta sẽ để cho râu mọc dài đến đây (nhà vua giơ tay chỉ
ngang ngực) và ta sẽ đi ăn khoai với người dân cày bần cùng nhất của ta, còn
hơn là ký kết thừa nhận nỗi ô nhục của tổ quốc và dân tộc yêu quý mà ta biết
quý trọng những hy sinh của nó… - Nói xong mấy câu này với một giọng cảm động,
nhà vua bỗng quay mặt đi, như để cho Misô khỏi trông thấy những giọt nước mắt
đang trào lên mi, và bỏ đi về phía cuối phòng. Sau khi đứng yên ở đấy một lát,
ngài lại bước những bước dài trở về phía Misô và xiết cánh tay ông ta ở phía dưới
khuỷu một chút trong một cử chỉ hùng tráng. Khuôn mặt đẹp đẽ dịu dàng của nhà
vua ửng đỏ lên, và trong đôi mắt ngài sáng long lanh ánh lửa của chí cương quyết
và lòng căm phẫn. - Đại tá Misô ạ, ông đừng quên những điều mà tôi nói với ông
ngày hôm nay, ở nơi này, có lẽ rồi một ngày kia chúng ta sẽ nhớ lại và lấy làm
thú vị… Napoléon hay là ta, - nhà vua đưa tay để lên ngực nói - Hai người không
thể cùng trị vì được nữa. Ta đã có dịp hiểu rõ Napoléon, y sẽ không lừa ta được
nữa đâu…- và nhà vua cau mày im lặng. Nghe mấy lời này và trông thấy vẻ quả quyết
kiên cường trong ánh mắt của nhà vua, Misô - tuy người lú ngoại quốc nhưng lòng
dạ lại là Nga - trong giây phút long trọng này cảm thấy mình nức lòng phấn khởi
nước tất cả những điều vừa được nghe (về sau ông ta có nói như vậy), và đã biểu
đạt ra bằng những lời sau đây những tình cảm của mình cũng như của nhân dân Nga
mà ông ta tự xem là người đại diện toàn quyền. - Tâu hoàng thượng, - Misô nói,
- Trong lúc này hoàng thượng đang ký kết sự vinh quang của dân tộc và cứu vớt
cho toàn thể châu Âu! Nhà vua từ giã Misô bằng một cái gật đầu. Chương 4 Trong
khi nước Nga đã bị chiếm mất một nửa, dân cư Moskva đã đi lánh nạn về những tỉnh
xa, và các đoàn dân binh lần lượt đứng lên bảo vệ tổ quốc, thì chúng ta, những
người không sống vào thời kỳ bấy giờ, không khỏi hình dung rằng tất cả những
người Nga, từ bé đến lớn, đều chỉ một lòng muốn hy sinh thân mình, cứu nguy cho
tổ quốc hay khóc thương trước họa diệt vong của đất nước. Những truyện ký, những
bài văn miêu tả thời đấy giờ đều nhất thiết nói đến sự hy sinh quên mình, đến
tình yêu tổ quốc, đến sự tuyệt vọng, nỗi đau buồn và lòng dũng cảm của người
Nga, song thực tế không phải như vậy. Chẳng qua ta chỉ có cảm tưởng như vậy
thôi, bởi vì khi nhìn về quá khứ ta chỉ thấy cái lợi ích chung về lịch sử của
thời đại, ta không thấy được tất cả những quyền lợi cá nhân, có tính chất người,
của những người thời bấy giờ. Thế nhưng trong thực tế thì những quyền lợi cá
nhân ấy quan trọng hơn những lợi ích chung, đến nỗi thường lấn át và thậm chí
còn che lấp hẳn những lợi ích chung nữa là khác. Phần đông những người thời ấy
đều không hề chú ý đến quá trình diễn biến đại thể của sự việc, mà chỉ hành động
theo những quyền lợi và những suy tính thiết thân đối với cá nhân họ trong hiện
tại. Và chính những người đó là những con người hữu ích nhất của thời đại bấy
giờ. Còn những người cố hiểu quá trình diễn biến chung của tình hình và muốn
tham gia vào đấy một cách anh dũng và hy sinh cái gì họ cũng hiểu sai lệch đi,
và tất cả những việc đó để đem lại lợi ích cho tổ quốc đều chỉ là những trò nhảm
nhí vô bổ, như các trung đoàn dân binh của Piotr, của Mamonov, chỉ giỏi đi cướp
phá các làng mạc Nga, hay như những mớ vải xô để buộc vết thương của các tiểu
thư làm, chẳng bao giờ đến tay thương binh, v.v… ngay cả những người thích lý sự
và bày tỏ tình cảm của mình, trong khi bàn bạc về tình hình hiện nay tại các nước
Nga, bất giác cũng có những lời lẽ vờ vĩnh và dối trá, hoặc những lời phê phán
hằn học vô bổ dối với những người khác, gán cho họ những tội mà không ai có thể
là thủ phạm. Qua các biến cố lịch sử có thể thấy rõ hơn cả tại sao lại có lệnh
cấm quả cây trí thức [252] . Chỉ có một hoạt động bất tự giác mới có thể mang lại
kết quả, và con người đóng một vai trò nào đó trong một biến cố lịch sử không
bao giờ hiểu ý nghĩa của biến cố đó. Nếu con người đó cố tìm cách hiểu thì hoạt
động của hắn sẽ không đem lại kết quả gì hết. Về các biến cố đang diễn ra lúc bấy
giờ ở Nga thì con người càng tham gia tnrc tiếp vào đấy càng khó thấy rõ ý
nghĩa của nó. Ở Petersburg và ở các nơi tỉnh xa Moskva, các phu nhân và các ông
lớn mặc quân phục dân binh thương khóc nước Nga, thương khóc thủ đô và luôn
luôn nói đèn sự hy sinh quên mình v.v… nhưng trong quân đội bấy giờ vừa rút về
phía nam Moskva người ta hầu như không nói gì và không nghĩ gì đến Moskva cả,
và khi nhìn ánh lửa cháy nhà, không ai thề thốt trả thù quân Pháp, người ta chỉ
nghĩ đến số tiền lương sắp được lĩnh quý sau, đến địa điểm trú ngụ sắp tới, cô
bán hàng rong Matrioska v.v. Nikolai Roxtov, chẳng vì mục đích hy sinh quên
mình nào cả, mà chỉ vì tình cờ chiến tranh xảy ra trong khi chàng đang tại ngũ,
đã trực tiếp tham gia vào việc bảo vệ tổ quốc trong một thời gian dài, và vì vậy,
đã nhìn nhận những sự việc diễn ra ở đất Nga thời bấy giờ một cách bình tĩnh,
không tuyệt vọng, không có những suy diễn bi quan. Giá có ai hỏi chàng nghĩ gì
về tình hình hiện nay của nước Nga thì chàng sẽ nói rằng mình chẳng việc gì phải
nghĩ đến cả đã có Kutuzov và nhiều người khác làm việc đó; còn các trung đoàn,
chắc là sẽ còn đánh nhau lâu, và trong tình hình hiện nay rất có thể chỉ vài năm
nữa chàng sẽ được nhận chỉ huy một trung đoàn. Vì chàng nhìn nhận sự việc như vậy,
nên khi được tin phải đi Voronez làm công tác bổ sung số ngựa cho trung đoàn,
không những chàng không thấy buồn bực vì không được tham gia vào cuộc chiến đấu
quyết liệt, mà chàng lấy làm thích thú vô cùng, điều đó chàng cũng không giấu
giếm, và các bạn đồng ngũ của chàng hiểu rõ tâm trạng này. Trước trận Borodino
ít hôm, Nikolai nhận được tiền bạc, giấy tờ và sau khi phái một người lính kỵ
binh đi trước chàng lên xe trạm đi Voronez. Chỉ có người nào đã từng trải qua cảnh
ngộ đó, nghĩa là sống mấy tháng liền trong bầu không khí nhà binh, trong sinh
hoạt chiến đấu mới có thể hiểu được cái khoái cảm mà Nikolai thể nghiệm khi
chàng ra khỏi khu vực quân đội thường lui tới để lấy cỏ cho ngựa, kiếm lương thực
và lập bệnh xá, khị chàng trông thấy những làng mạc không có lính, không có xe
tải nhà binh, không có những dấu vết bẩn thỉu của một doanh trại đóng gần đâu đấy,
những làng mạc với những bác mu-gich, những cô gái quê, những tòa nhà của trang
chủ, những cánh đồng lác đác những súc vật đang ăn cỏ, những ngôi trạm với những
bác coi trạm đang ngủ gật, chàng thấy lòng phơi phới tưởng như lần đầu tiên được
trông thấy những thứ này. Và đặc biệt, điều làm cho chàng ngạc nhiên và vui mừng
mãi là được gặp những người đàn bà, trẻ trung, khỏe mạnh, và mỗi người như vậy
lại không bị hàng chục sĩ quan đi theo ve vãn, và đều lấy làm mừng và hãnh diện
khi thấy người sĩ quan qua đường đùa cợt với họ. Trong một tâm trạng cao hứng tột
độ Nikolai đến Voronez vào ban đêm, chàng tới khách sạn gọi tất cả những món ăn
mà trong quân đội đã lâu chàng phải nhịn, và hôm sau, râu cạo nhẵn thín, mình mặc
một bộ đại quân phục duyệt binh đã từ lâu không mặc tới chàng đến trình diện
các cấp chỉ huy sở tại. Viên thủ trưởng dân binh là một viên quan văn đã già;
ông ta có vẻ thích thú với các chức vị và cấp bậc của mình lắm. Ông ta tiếp
Nikolai một cách cáu kỉnh (vì cho đó là tác phong nhà binh) và hỏi chuyện chàng
một cách quan trọng, vừa hỏi vừa bàn luận về tình hình của chiến sự, khi thì tỏ
ra ý tán thành, khi thì tỏ ý phàn nàn, làm như mình có quyền phê phán những việc
đó. Nikolai đang vui cho nên những điều đó chàng chỉ thấy ngộ nghĩnh mà thôi.
Sau khi gặp viên thủ trưởng dân binh, chàng đến tìm viên tổng đốc. Viên tổng đốc
là một người nhỏ nhắn, linh lợi, rất niềm nở và xuề xòa. Ông ta thích cho
Nikolai biết những trại có thể đến tìm ngựa, giới thiệu cho chàng một anh lái
ngựa trong thành phố và một trang chủ ở cách thị xã hai mươi dặm, có những con
ngựa tốt nhất vùng, và hứa sẽ hết sức giúp đỡ chàng. - Ông là con trai bá tước
Ilya Andreyevich phải không? Ngày trước nhà tôi chơi thân với bà cụ thân sinh
ông lắm đấy. Thứ năm nào nhà tôi cũng tiếp khách; hôm nay là thứ năm, mời ông cứ
đến chơi tự nhiên nhé, - viên tổng đốc nói khi chàng cáo từ ra về. Ở nhà viên tổng
đốc ra, Nikolai thuê ngay một cỗ xe trạm vào cùng viên tào trưởng đến trại người
trang chủ cách thị xã hai mươi dặm. Trong thời gian mới đến Voronez, Nikolai thấy
việc gì cũng dễ dàng và vui vẻ, và khi người ta đang ở trong một tậm trạng như
vậy thì làm việc gì cũng hường có kết quả mỹ mãn. Người trang chủ mà Nikolai đến
gặp là một viên sĩ quan kỵ binh già sống độc thân, một tay chơi ngựa rất sành,
thích săn bắn. Ông ta có một hầm rượu hồ tiêu để lâu hàng trăm năm, có rượu
vang Hungary và những con ngựa rất hay. Hai bên chỉ trao đổi qua vài câu là
Nikolai đã bằng lòng mua ngay mười bảy con ngựa đực ưu tú (như chàng nói) với
giá sáu nghìn rúp, để cung cấp cho đơn vị. Sau khi ăn bữa chiều và uống khá nhiều
rượu Hung, Roxtov ôm hôn ông chủ nhà (hai người đã gọi nhau bằng “cậu”) rồi lên
đường về thị xã, trong lòng cao hứng đến tột độ, luôn mồm thúc giục người xà
ích cho ngựa phi thật nhanh để kịp về dự tối tiếp tân ở nhà quan tổng đốc. Sau
khi thay quần áo, xức nước hoa và gội đầu bằng nước lạnh, Nikolai đến nhà quan
tổng đốc. Chàng đến hơi muộn, nhưng đã sắp sẵn một câu “Thà muộn còn hơn không”
để tự bào chữa. Đây không phải là một vũ hội, và chẳng có ai nói rằng tối hôm
nay sẽ có khiêu vũ; nhưng mọi người đều biết rằng Katerina Petrovna sẽ chơi những
bài Valse và những điệu nhảy Scotland trên đàn dương cầm, và người ta sẽ khiêu
vũ, cho nên mọi người đều phục sức như khi đi dự hội. Cuộc sống ở tỉnh nhỏ vào
năm một ngàn tám trăm mười hai cũng giống như mọi năm khác, chỉ khác một điều
là không khí trong thị xã nhộn nhịp hơn vì có nhiều gia đình giàu có ở Moskva mới
về, và cũng như trong tất cả nước việc diễn ra ở nước Nga lúc bấy giờ, có thể
nhận thấy một cái gì vô tư lự, phóng túng đặc biệt, và ngoài ra, những câu chuyện
gẫu rất cần trong khi giao thiệp và trước kia vẫn nói về thời tiết và những người
quen chung, thì nay lại nói về Moskva, về quân đội và Napoléon. Đám tân khách tụ
tập ở nhà viên tổng đốc là những người thượng lưu vào bậc nhất ở Voronez. Số phụ
nữ rất nhiều, trong đó có mấy người quen cũ của Nikolai ở Moskva, nhưng trong
đám nam giới thì không ai có thể kình địch phần nào với chàng sĩ quan phiêu kỵ
đeo huân chương Georges, đồng thời lại là bá tước Roxtov, hồn nhiên và phong
nhã. Trong số tân khách nam giới có một người tù binh Ý - vốn là sĩ quan của
quân đội Pháp, và Nikolai cảm thấy sự có mặt của người tù binh này lại càng đề
cao phẩm giá một trang anh hùng Nga như chàng. Người đó dường như là một chiến
lợi phẩm. Nikolai thấy như vậy, và chàng có cảm tưởng mọi người cũng nhìn người
Ý ấy với quan niệm như vậy, cho nên đối với hắn chàng tỏ ra hòa nhã một cách
nghiêm trang và dè đặt. Khi Nikolai vừa bước vào, mình mặc quân phục phiêu kỵ,
sực nức mùi nước hoa và rượu vang, mấy lần nói lại và được nghe lại câu “Thà muộn
còn hơn không”, thì mọi người đều vây lấy chàng; bao nhiêu con mắt đều đổ dồn
vào chàng, và chàng cảm thấy ngay rằng mình đã trở về với địa vị của con người
được mọi người quý mến, địa vị chính đáng của chàng ở tỉnh nhỏ, địa vị mà xưa
nay chàng vẫn thích, nhưng bây giờ, sau một thời gian dài sống thiếu thốn, lại
càng khiến chàng say sưa ngây ngất. Không những ở các trạm xe, ở các quán trọ, ở
phòng khách của người chủ bán ngựa, các cô hầu gái đều lấy làm thích thú được
chàng để ý đến, mà ngay ở đây trong buổi tối dạ hội của viên tổng đốc, cũng có
vô số những phu nhân còn trẻ và những tiểu thư xinh đẹp (chàng có cảm tưởng như
vậy) đang nóng lòng chỉ mong sao Nikolai để ý đến họ. Các phu nhân và các tiểu
thư làm duyên làm dáng với chàng, và ngay từ đầu các ông già bà già đã nghĩ
ngay đến chuyện kiếm vợ cho cái anh chàng phiêu kỵ bảnh trai và tinh nghịch này
để cho anh ta trở nên chí thú. Trong số những người ấy có cả bà tổng đốc: bà ta
tiếp chàng như một người bà con gần, gọi chàng là “Nikolai”, là “cậu”. Katerina
Petrovna quả nhiên bắt đầu chơi những điệu Valse và những điệu vũ Scotland, và
cuộc khiêu vũ khai mạc Nikolai nhảy rất cừ, và lại càng làm cho đám tân khách tỉnh
nhỏ này say mê hơn nữa. Thậm chí chàng còn làm cho mọi người phải kinh ngạc vì
cái phong cách phóng túng đặc biệt của chàng trong khi khiêu vũ. Chính Nikolai
cũng hơi lấy làm lạ về cách khiêu vũ của mình tối hôm ấy. Trước kia ở Moskva
chàng không bao giờ nhảy quá phóng túng như thế và thậm chí còn cho rằng lối nhảy
quá phóng túng ấy là không đớng đắn, là phong cách kéml, nhưng ở đây chàng thấy
cần phải có một cái gì khác thường để cho họ ngạc nhiên, một cái gì mà chắc họ
phải tưởng là thông thường ở hai thủ đô, nhơng vì ở tỉnh nhỏ nên họ chưa biết.
Suốt buổi tối hôm ấy Nikolai để ý hơn cả đến một thiếu phụ tóc vàng, người đầy
đặn, mắt màu thanh thiên, trông rất dễ thương. Đó là vợ của một viên chức trong
tỉnh. Với cái lòng tin tưởng ngây thơ của những người trẻ tuổi đang cao hứng
cho rằng vợ mình sinh ra để mua vui cho mình, Roxtov cứ bám riết lấy người thiếu
phụ và nói năng với người chồng một cách thân mật như chỗ bạn bè hay thậm chí gần
như một người đồng lõa: chàng làm như thể chàng và ông chồng ấy… Tuy không nói
ra lời nào nhưng cả hai đều biết rằng họ (tức là Nikolai và vợ ông ta) rất hợp
ý nhau. Song ông chồng hình như không đồng tình với những ý nghĩ đó, và có vẻ hậm
hực khi nói chuyện với Roxtov. Nhưng thái độ của Nikolai ngây thơ, thật thà đến
nỗi ông chồng cũng bất giác nhiễm cái tâm trạng vui vẻ của chàng. Nhưng về cuối
buổi dạ hội, mặt người vợ càng ửng đỏ và càng hồ hởi, thì mặt người chồng lại
càng đạo mạo và buồn rầu, tưởng chừng như cả hai vợ chồng chỉ có chung một liều
lượng vui vẻ nhất định cho nên vợ càng vui lên thì chồng lại càng kém vui đi.
Chương 5 Nikolai, một nụ cười bất tuyệt luôn nở trên môi, ngồi trên ghế bành
nghiêng mình sát người thiếu phụ tóc vàng và nói với nàng những lời tán dương
như trong thần thoại. Hai chân bó sát trong ống quần đi ngựa luôn luôn đổi tư
thế với những động tác nhanh nhẹn thoải mái, khắp người sực nức mùi nước hoa,
Nikolai thích thú đưa mắt ngắm người bạn gái ngắm mình, ngắm hình dáng đẹp đẽ của
đôi chân mình bó sát trong đôi quần nẹp da. Chàng nói với thiếu phụ tóc vàng ở
chốn Voronez này chàng đang có ý muốn bắt cóc một thiếu phụ. - Người nào thế? -
Một mỹ nhân tuyệt thế, đẹp như một nữ thần. Mắt nàng (Nikolai nhìn vào thiếu phụ)
màu thanh thiên, môi nàng tựa san hô, nước da nàng trắng nõn - Chàng nhìn lên
vai nàng - dáng vóc của nàng chẳng khác Diana. Ông chồng lại gần chàng và hầm hầm
hỏi vợ đang nói chuyện gì. - À ông Nikita Ivanyts, - Nikolai vừa nói vừa lễ
phép đứng dậy. Và dường như muốn cho Nikolai Ivanyts cũng tham dự vào những
chuyện đùa của mình, chàng bắt đầu kể cho ông ta rõ mình có ý định bắt cóc một
cô gái tóc vàng. Người chồng mỉm cười khó chịu, người vợ mỉm cười rất vui vẻ.
Bà tổng đốc tốt bụng, vẻ như có ý quở trách, lại gần chàng. Bà Anna Ingatieva
muốn gặp cậu đấy, cậu Nikolai ạ, - Bà nói mấy chữ Anna Ingatieva với một giọng
đặc biệt khiến cho Nikolai hiểu ngay rằng bà Anna Ingatieva là một mệnh phụ rất
oai vệ - Ta đi đi Nikolai, cậu cho phép tôi gọi cậu như thế chứ? - Ồ thưa bác,
được chứ! Ai thế ạ? - Bà Anna Ingatieva Malvintxeva. Bà đã được nghe cô cháu
gái nói chuyện về cậu: cậu đã cứu cô ta. Cậu đoán ra rồi chứ? - Cháu cứu khối
người ra chứ có phải riêng ai! - Nikolai nói. - Cháu gái của phu nhân là công
tước tiểu thư Bolkonxkaya. Tiểu thư hiện đang ở đây với bà dì. A ha, đỏ mặt
kìa! Sao, hay là… - Hoàn toàn không phải thế. Cháu xin bác… - Thôi được, thôi
được. Chà cái cậu này! Tổng đốc phu nhân dẫn chàng đến trước một bà già cao lớn
đẫy đà mũ chịt đầu màu xanh nhạt, bấy giờ vừa đánh xong ván bài với nhân vật
quan trọng nhất thành phố. Đó là bà Malvintxeva, dì của công tước tiểu thư
Maria, một bà quả phụ giàu không có con, bao giờ cũng ở Voronez. Bà ta đang
chung tiền thua bạc khi Roxtov đến. Bà ta nheo nheo cặp mắt một cách nghiêm khắc
và oai vệ, nhìn chàng rồi tiếp tục càu nhàu với vị tướng vừa được bạc bà ta. -
Rất sung sướng được gặp cậu, - Bà chìa bàn tay ra nói. - Mời cậu đến chơi nhà
tôi. Sau khi nói dăm câu về công tước tiểu thư Maria và người cha quá cố của
nàng, mà hình như bà ta cũng chẳng ưa gì, và hỏi Nikolai xem có biết tin gì về
công tước Andrey mà hình như và ta cũng chẳng có cảm tình gì cho lắm, bà già
oai vệ nhắc lại lời mời Roxtov đến nhà chơi, đoạn cho chàng cáo lui. Nikolai hứa
sẽ đến, rồi lại đỏ mặt khi cúi đầu chào bà Malvintxeva. Khi nhắc đến công tước
tiểu thư Maria, Roxtov có cái cảm giác e thẹn, thậm chí sợ hãi nữa, mà chàng
không sao hiểu được. Sau khi cáo từ bà Malvintxeva, Roxtov định trở ra khiêu vũ
nhưng bà tổng đốc thấp bé đặt bàn tay múp míp của bà ta lên ống tay áo Nikolai
bảo rằng mình cần nói chuyện với chàng đoạn dẫn chàng vào phòng đi-văng. Những
người đang ngồi trong phòng lập tức đứng dậy ra ngoài để khỏi làm phiền tổng đốc
phu nhân. - Anh bạn ạ, - tổng đốc nói, khuôn mặt nhỏ và hiền nghiêm trang hẳn
lên - đây chính là một đám rất tốt cho anh đấy; anh có muốn bác làm mối cho
không? - Làm mối với ai ạ, thưa bác? - Nikolai hỏi. - Với công tước tiểu thư ấy.
Katerina Petrovna bảo là nên làm mối cô Lily, nhưng bác thì không ưng, - công
tước tiểu thư kia mới được. Anh có thích không? Bác chắc mẹ anh sẽ cảm ơn bác
thật nhiều đấy, tiểu thư thật là một người con gái đáng yêu tuyệt trần! Và thật
ra cũng không đến nỗi xấu. - Không xấu tí nào! - Nikolai nói như có ý giận, -
Bác ạ, cháu là một quân nhân, nên không bao giờ đỏi hỏi mà cũng chẳng từ khước
điều gì, - Roxtov nói mà chưa kịp nghĩ xem mình cần nói gì. - Thế thì nhớ đấy:
không phải chuyện đùa đâu nhé. - Đùa thế nào được ạ. - Phải, phải, - tổng đốc
phu nhân nói như thể nói một mình. À nhân thể nói với anh bạn điều này nhé. Anh
theo cô kia riết quá đấy, cô tóc vàng ấy Trông ông chồng đến thảm, thật đấy. - Ồ
không, ông ta với cháu rất quý nhau, - Nikolai thật thà nói, chàng không hề
thoáng có ý nghĩ rằng một cách tiêu khiển vui như thế mà lại có thể làm cho một
người nào phiền lòng. Nhưng ta nói nhảm những gì với bà tổng đốc thế nhỉ! -
Trong bữa ăn khuya Nikolai bỗng sực nhớ lại. - Thế nào bà ta cũng đi làm mối.
Thế còn Sonya? Và đến lúc từ biệt bà tổng đốc, khi bà ta nói với chàng: “Thôi
anh nhớ đấy nhé”, - thì chàng nói riêng với bà: - Thế này bác ạ, cháu phải nói
thật với bác là… - Sao, chuyện gì thế anh bạn; ta lại đây ngồi. Nikolai bỗng cảm
thấy muốn và cần phải nói rõ tất cả những ý nghĩ thầm kín của mình ra (những ý
nghĩ mà giá với mẹ với em hay với bạn chàng, chàng không cần nói) cho người đàn
bà gần như không quen biết này rõ. Về sau, một sự cởi mở vô cớ, khó hiểu, nhưng
đã có những hậu quả rất quan trọng đối với chàng, Nikolai (cũng như bất cứ ai
trong những trường hợp như vậy) có cảm tưởng đó chỉ là một hành động ngốc nghếch
bất thường, nhưng thật ra phút cởi mở đó, cùng với sự việc nhỏ nhặt khác, đã có
người hậu quả hết sức quan trọng đối với chàng và cả gia đình chàng. - Thế này
bác ạ. Đã từ lâu mẹ cháu muốn cưới cho cháu một cô vợ giàu, nhưng nghĩ đến chuyện
lấy vợ vì tiền, cháu thấy khó chịu quá. - Ồ phải rồi; bác hiểu lắm, - bà tổng đốc
nói. Nhưng công tước tiểu thư Bolkonxkaya thì lại là việc khác; trước hết, cháu
xin nói thật với bác rằng cháu cũng thích cô ấy lắm, cô ấy rất hợp ý cháu, với
lại lần cháu gặp cô ta trong những hoàn cảnh kỳ lạ như vậy, cháu thường có ý
nghĩ rằng đây là số mệnh. Bác thử nghĩ mà xem: mẹ cháu đã nghĩ về việc này từ
lâu, không hiểu vì sao. Và hồi ấy, khi em gái cháu còn là vị hôn thê của anh cô
ta, dĩ nhiên cháu không thể tình chuyện lấy cô ta được. Không biết số phận run
rủi thế nào mà cháu gặp cô ta đúng vào lúc việc hôn nhân của Natasa đã tan vỡ,
thế rồi tất cả những chuỵện kia. Phải, thế đấy bác ạ. Cháu chưa hề nói và sẽ
không nói gì về chuyện này. Cháu chỉ xin nói với bác thôi. Bà tổng đốc xiết khuỷu
tay chàng tỏ ý cảm ơn. Bác có biết Sofia em họ cháu không? Cháu yêu cô ấy, cháu
đã hứa lấy và sẽ lấy cô ấy. Cho nên, bác thấy không, không thể nào nói đến chuyện
này được, - Nikolai đỏ mặt lên, nói ấp úng. - Anh bạn ơi, anh bạn ơi! - Anh nói
gì lạ vậy? Sofia không có gì cả, mà chính anh đã nói rằng công việc nhà cửa của
ba anh rất khó khăn kia mà. Còn mẹ anh thì sao? Mẹ anh đến chết vì chuyện này mất,
thế là một. Sau nữa nếu Sofia là một người con gái có tình, thì đời cô ta sẽ ra
sao? Mẹ thì phiền muộn, cửa nhà thì khánh kiệt không, anh bạn ạ, anh với Sofia
phải hiểu điều đó chứ. Nikolai lặng thinh. Chàng thấy dễ chịu khi nghe lời biện
luận này. - Sao, bác ạ, việc đó cũng không thể được, chàng thở dài nói sau một
lát im lặng, - mà liệu công tước tiểu thư có thuận lấy cháu không? Vả lại hiện
nay tiểu thư đang có tang. Làm sao có thể nghĩ đến chuyện ấy được? - Chả nhẽ
anh tưởng tôi định bắt anh cưới ngay bây giờ hay sao? Làm gì cũng phải có khoảng
cách chứ? - bà tổng đốc nói. - Bác thật là một bà mối giỏi, bác ạ… - Nikolai vừa
nói vừa hôn tay mũm mĩm của bà. Chương 6 Đến Moskva sau lần gặp Roxtov, công tước
tiểu thư Maria gặp đứa cháu trai cùng với ông gia sư và bắt được bức thư của
công tước Andrey dặn nàng đến Voronez tìm dì Malvintxeva. Những nỗi lo âu về việc
di chuyển, về bệnh trạng của anh, những công việc xếp đặt cho cuộc sống ở nhà mới,
những nhân vật mới quen, việc dạy dỗ cho cháu - Tất cả những cái đó đã lấn át
cái cảm giác hầu như cám dỗ đã từng giày vò nàng trong thời gian cha nàng lâm bệnh,
sau khi cha nàng qua đời và nhất là sau cuộc gặp gỡ với Roxtov. Nàng buồn lắm.
Trong tâm hồn nàng, cái chết của cha nàng thêm vào hoàn cảnh điêu vong của nước
Nga gây nên một ấn tượng đau đớn, ấn tượng đó càng ngày càng da diết thêm. Lòng
nàng bồn chồn lo lắng: nghĩ đến những nguy cơ đang đe dọa anh nàng, người thân
duy nhất còn lại, nàng không giây phút nào khỏi bứt rứt. Nàng luôn lo việc dạy
dỗ đứa cháu trai, một công việc mà nàng vẫn cảm thấy mình không đủ sức làm;
nhưng trong thâm tâm nàng đã có sự thỏa thuận với bản thân khi nghĩ rằng mình
đã trấn áp được những mơ ước và hy vọng cá nhân đã chớm nở khi Roxtov xuất hiện.
Sau buổi tiếp tân ở nhà mình một hôm, bà tổng đốc đến nhà bà Malkintxeva và nói
chuyện với bà dì về những dự định của mình (và có nói thêm rằng tuy trong hoàn
cảnh hiện nay chưa thể nghĩ đến việc mối mai chính thức, nhưng vẫn có thể tìm
cách cho hai trẻ gặp nhau và tìm hiểu cho rõ), và sau khi được bà dì tán đồng,
bà tổng đốc chọn lúc có cả tiểu thư Maria ngồi đấy để khơi chuyện nói về
Roxtov, khen ngợi chàng và kể lại rằng chàng đã đỏ mặt khi nghe nhắc đến công
tước tiểu thư. Nghe bà ta nói, công tước tiểu thư Maria không thấy vui, mà lại
có một cảm giác đau xót. Sự thỏa thuận nội tâm của nàng không còn nữa, và trong
lòng nàng lại dấy lên những nỗi ước mong, những mối nghi ngờ, những lời trách
móc và những niềm hy vọng. Trong khoảng hai hôm kể từ khi nhận được tin này cho
tới khi Roxtov đến thăm, tiểu thư Maria không ngừng suy nghĩ không biết nên cư
xử với Roxtov ra sao. Khi thì nàng quyết định rằng lúc chàng đến gặp bà bác
mình sẽ không ra phòng khách, rằng trong khi có tang mà lại ra tiếp khách là một
điều thất nghi, khi thì nàng nghĩ rằng, dối với một người đã cứu mình mà lại
tránh mặt người ta là vô lễ; khi thì nàng lại nghĩ rằng dì nàng và bà tổng đốc
đang cố ý nhăm nhe gì cho nàng và Roxtov (những cái nhìn và những lời lẽ của họ
đôi khi hình như cũng xác nhận điều phỏng đoán này); khi thì nàng tự nhủ rằng
chỉ vì tâm địa nàng bất chính nên mới gán cho họ những ý định đó: Họ không thể
không nhớ rằng trong tình cảnh của nàng, khi nàng hãy còn mặc áo đại tang - thì
mai mối như vậy là xúc phạm đến nàng và hương hồn cha nàng. Những lúc giả thiết
rằng mình sẽ ra gặp chàng, công tước tiểu thư Maria tưởng tượng những lời chàng
sẽ nói với nàng và những lời nàng sẽ nói với chàng; và khi thì nàng thấy những
lời đó quá lạnh nhạt, khi thì lại thấy những lời đó có một ý nghĩ quá rõ rệt.
Điều mà nàng sợ nhất là nàng biết chắc rằng hễ trông thấy Roxtov là nàng sẽ luống
cuống và để lộ những cảm nghĩ thầm của mình. Nhưng hôm chủ nhật ấy, sau buổi
xem lễ, khi người nô bộc vào phòng khách báo là có bá tước Roxtov đến, công tước
tiểu thư không lộ vẻ gì luống cuống; má nàng chỉ hơi ửng hồng và mắt nàng bừng
lên một ánh sáng mới mẻ, xán lạn. - Dì đã gặp ông ấy chưa, thưa dì? - Công tước
tiểu thư Maria nói, và chính nàng cũng không biết làm sao bề ngoài mình lại có
thể bình thản và tự nhiên như vậy. Khi Roxtov bước vào phòng, công tước tiểu
thư cúi đầu một lát như để cho khách có đủ thì giờ chào hỏi mọi bà dì, và sau
đó, ngay khi Roxtov quay sang phía nàng, nàng ngẩng đầu lên và đưa đôi mắt
trong sáng nhìn vào mắt chàng. Với một động tác chững chạc và uyển chuyển, nàng
đứng dậy mỉm cười vui vẻ, đưa bàn tay mảnh dẻ và mềm mại ra cho chàng và trong
giọng nói của nàng lần đầu tiên đã vang lên một âm điệu thâm trầm của người đàn
bà. Cô Burien bấy giờ cũng đang ở trong phòng khách, kinh ngạc và ngỡ ngàng
nhìn nữ công tước Maria. Tuy vốn là người lơ trai lọc lõi, cô ta cũng không thể
nào khéo léo hơn nàng khi muốn làm xiêu lòng một người mới gặp
“Không biết vì màu đen của tang phục hợp với nước da tiểu thư
đến thế, hay vì tiểu thư dạo này đẹp ra mà mình không để ý. Và cái chính là
dáng điệu của tiểu thư thật là tế nhị và yểu điệu!”. -cô Burien nghĩ. Giả sử
công tước tiểu thư Maria có đủ sức để suy nghĩ trong giây lát này, thì nàng sẽ
còn ngạc nhiên về sự thay đổi đang diễn ra trong người nàng hơn cả cô Burien nữa.
Từ cái phút nàng trông thấy khuôn mặt đáng yêu mà nàng yêu dấu ấy, một thứ sinh
lực mới đã trào vào người nàng và buộc nàng phải nói, phải hành động vượt ra
ngoài ý muốn của nàng. Từ khi Roxtov bước vào, gương mặt nàng chợt thay đổi hẳn.
Khi thắp ngọn nến lên trong một chiếc đèn lồng, những nét chạm trổ tinh vi và
trang hoàng mỹ thuật trước kia tưởng chừng thô sơ, tối tăm và vô nghĩa bỗng hiện
lên lồng đèn với một vẻ đẹp lộng lẫy đến bất ngờ; gương mặt của công tước tiểu
thư Maria cũng biến đổi như vậy; lần đầu tiên cuộc sống nội tâm thuần khiết của
Maria từ trước đến nay bỗng lộ ra ngoài. Tất cả cái hoạt động tinh thần trước
đây làm cho nàng luôn bất mãn với bản thân, những nỗi thơng khổ, ý muốn vươn
lên cõi chí thiện, lòng thuận thảo, nhân ái. quên mình - tất cả những cái đó
sáng bừng lên trong đôi mắt long lanh, trong nụ cười tế nhị, trong mỗi đường
nét dịu dàng trên khuôn mặt nàng. Roxtov trông thấy tất cả những điều đó một
cách rõ ràng tưởng chừng như chàng đã biết rõ tất cả cuộc đời nàng. Chàng cảm
thấy con người đang đứng trước mặt mình là một con người khác hẳn, tốt hơn nhiều
so với tất cả những người chàng đã từng gặp trước đây và nhất là hơn cả bản
thân chàng. Câu chuyện giữa hai người hết sức đơn giản và bình thường. Họ nói đến
chiến tranh, và cũng bất giác phóng đại như mọi người khác nỗi buồn của mình
khi nghĩ đến biến cố này, họ nói đến cuộc gặp gỡ vừa rồi, và Nikolai cố lái câu
chuyện sang hướng khác; họ nói đến bà tổng đốc tốt bụng, đến những người thân của
Nikolai và công tước tiểu thư Maria. Công tước tiểu thư Maria không nhắc đến
anh. Dì nàng vừa nói đến công tước Andrey thì nàng đã lái câu chuyện sang hướng
khác. Có thể thấy rõ rằng về cơn hoạn nạn của nước Nga thì nàng còn có thể nói
một cách vờ vĩnh được, chứ anh nàng là một đối tượng quá thân thiết đối với
nàng, cho nên nàng không muốn và không thể nói đến chàng một cách hời hợt như vậy.
Nikolai nhận thấy thế, và nói chung hôm ấy, trái với thường lệ, chàng tự dưng
có được một năng lực quan sát sắc sảo cho phép chàng nhận thấy tất cả những sắc
thái tinh vi trong nhân cách của công tước tiểu thư Maria. Tất cả những sắc
thái ấy đều chỉ làm cho chàng tin chắc hơn nữa rằng nàng là một con người hoàn
toàn đặc sắc và phi thường. Cũng đúng như công tước tiểu thư Maria, Nikolai đỏ
mặt và luống cuống mỗi khi có ai nhắc đến nàng và ngay cả những khi nghĩ đến
nàng nữa, nhưng trước mặl nàng thì chàng cảm thấy mình hoàn toàn thoải mái và
nói năng khác hẳn những điều mà chàng đã chuẩn bị trước; chàng nói như những điều
chợt hiện lên trong trí chàng ngay lúc ấy và bao giờ cũng hiện lên đúng lúc.
Trong một lát im lặng, Nikolai, cũng như người ta vẫn thường làm khi đến chơi một
nhà có trẻ con, quay sang đứa con trai nhỏ của công tước Andrey cho đỡ lúng
túng, vuốt ve và hỏi nó có muốn làm lính phiêu kỵ không. Chàng bế đứa bé lên,
vui vẻ quay nó mấy vòng và đưa mắt nhìn công tước tiểu thư Maria. Đôi mắt nàng
cảm động, sung sướng rụt rè nhìn theo đứa cháu trai cưng của nàng trên tay người
đàn ông mà nàng yêu dấu. Nikolai nhận thấy cái nhìn này và dường như hiểu được
ý nghĩ của nó, chàng đỏ mặt lên vì thích thú và hôn đứa bé một cách vui vẻ hồn
hậu. Vì đang có tang, công tước tiểu thư Maria không đi đâu cả, và Nikolai cũng
thấy không nên lui tới nhà nàng; nhưng bà tổng đốc vẫn tlếp tục công việc mai mối,
bà truyền đạt lại cho Nikolai rõ những lời lẽ của tiểu thư Maria khen ngợi
chàng và ngược lại cũng nói với tiểu thư Maria những điều chàng nói về nàng, rồi
khẩn khoản khuyên Nikolai ngỏ ý với công tước tiểu thư Maria. Để chàng có dịp
ngỏ ý, bà dàn xếp một buổi gặp mặt ở nhà Đức Tổng giám mục trước buổi xem lễ.
Tuy Roxtov có nói với bà tổng đốc rằng chàng sẽ không ngỏ lời với công tước tiểu
thư Maria, nhưng chàng cũng hứa là sẽ đến. Nếu dạo ở Tilzit, Roxtov không cho
phép mình nghi ngờ tự hỏi những điều mà mọi người đều thừa nhận là tốt có tốt
thật không, thì bây giờ cũng vậy, sau một cuộc giằng co ngắn ngủi, nhưng thành
thực giữa ý muốn thu xếp cuộc đời dúng như lý trí mình đòi hỏi và sự phục tùng
hoàn cảnh, chàng đã chọn cách sau này và phó thác cho cái sức mạnh mà không sao
cưỡng lại nổi mà chàng cảm thấy đang lôi cuốn chàng đến một nơi nào không rõ.
Chàng biết rằng đã giao ước với Sonya mà lại còn bày tỏ tình cảm đối với tiểu
thư Maria là làm một việc mà chàng vẫn gọi là ti tiện. Và chàng cũng biết
(không những chàng biết, mà tự trong thâm tâm chàng cũng cảm thấy như vậy) rằng
trong khi phó mình cho uy lực của hoàn cảnh và của những người hướng dẫn chàng,
không những chàng không làm việc gì xấu xa, mà chàng lại còn làm một việc gì rất
quan trọng, quan trọng hơn hết thảy mọi việc mà chàng đã từng làm trong đời.
Sau buổi gặp mặt công tước tiểu thư Maria: tuy bề ngoài nếp sống của chàng vẫn
cứ như cũ, nhưng tất cả những thú vui trước kia của chàng đều mất hết thú vị.
Chàng hay nghĩ đến công tước tiểu thư Maria, nhưng chàng không bao giờ nghĩ đến
nàng như xưa nay chàng vẫn nghĩ đến tất cả các tiểu thư mà chàng đã gặp trong
xã hội thượng lưu, không từ một ai, cũng không như chàng đã say sưa nghĩ đến
Sonya trong một thời gian dài. Cũng như hầu hết những người thanh niên trung thực,
mỗi khi nghĩ đến một vài người con gái nào chàng lại thử hình dung đó sẽ là vợ.
Chàng và phác ra trong tưởng tượng tất cả những cảnh sống gia đình về sau: chiếc
áo nội tấm trắng, người vợ ngồi bên ấm xamavar, lũ con nhỏ, mama và papa, cảnh
sống mẹ con v.v… và những hình ảnh tương lai ấy làm cho chàng thích thú; nhưng
khi chàng nghĩ đến công tước tiểu thư Maria, người mà họ làm mối cho chàng,
chàng không lúc nào có thể hình dung được một nét gì trong cuộc sống vợ chồng
sau này. Dù chàng có cố hình dung chẳng nữa, thì cũng chỉ thấy được những hình ảnh
rời rạc và ngang trái, khiến chàng thấy sợ hãi nhiều hơn. Chương 7 Những tin tức
khủng khiếp về trận Borodino, về những tổn thất, thương vong của quân ta, và
cái tin khủng khiếp hơn nữa là Moskva đã thất thủ, được đưa đến Voronez vào
trung tuần tháng chín. Công tước tiểu thư Maria chỉ biết tin anh bị thương qua
các báo, ngoài ra chẳng được tin gì thêm nữa: nàng bèn sửa soạn lên đường đi
tìm công tước Andrey. Nikolai nghe người ta nói lại như vậy, vì mấy lâu nay
chàng không được gặp công tước tiểu thư. Được tin xảy ra trận Borodino và
Moskva bị bỏ ngỏ, chàng nóng lòng phục thù, nhưng bỗng thấy chán và bực mình về
cảnh sống ở Voronez, chàng cứ có một cảm giác ngượng nghịu và lúng túng thế nào
ấy. Tất cả những chuyện trò mà chàng nghe thấy đều có vẻ vờ lĩnh; chàng không
biết nên phán đoán như thế nào về tất cả những điều đó, và cảm thấy chỉ có ở
trung đoàn mọi việc mới trở lại rõ ràng minh bạch như cũ. Chàng vội vã lo việc
mua ngựa cho xong và thường hay cáu gắt người đầy tớ và người tào trưởng của
chàng một cách vô lý. Trước ngày Roxtov ra đi mấy hôm, ở nhà thờ có làm lê cầu
nguyện tạ ơn Chúa nhân dịp Nga thắng trận. Nikolai đến xem lễ. Chàng đứng ở
phía sau ông tổng đốc một quãng, tư thế đĩnh đạc như đang làm một công vụ gì,
tâm trí suy nghĩ lan man hết việc này đến việc nọ đến hết buổi lễ. Khi buổi lễ
kết thúc; bà tổng đốc gọi chàng lại. - Anh đã gặp công tước tiểu thư chưa? - bà
nói, đoạn hất đầu chỉ một người đàn bà mặc áo đen đưng sau lễ đàn. Nikolai lập
tức nhận ra tiểu thư Maria, không phải vì chàng đã thoáng trông thấy những đường
nét trông nghlêng của nàng dưới chiếc mũ, mà vì có một cảm giác trân trọng, sợ
hãi và ái ngại lập tức tràn ngập lòng chàng. Công tước tiểu thư Maria, hẳn đang
mái suy nghĩ miên man, làm dấu thánh giá vài lần cuối cùng trước khi ra khỏi
nhà thờ. Nikolai ngạc nhiên nhìn mặt nàng. Đó vẫn là khuôn mặt mà chàng đã tìm
dạo trước, khuôn mặt ấy vẫn biểu hiện những đường nét tinh vi của hoạt động nội
tâm, nhưng bây giờ nó hiện ra dưới một ánh sáng khác hẳn. Bây giờ trên khuôn mặt
ấy có vẻ u buồn, cầu khẩn và hy vọng khiến người ta phải động lòng. Cũng như
trước kia mỗi khi có nàng, Nikolai không đợi cho bà tổng đốc khuyên và cũng
không tự hỏi xem ở đây, trong nhà thờ: mà đến hỏi thăm nàng thì có nên không,
có đúng lễ nghi không, chàng đến bên nàng và nói rằng mình đã được nghe nàng có
tin buồn và chàng chân thành chia sẻ nỗi buồn của nàng. Nàng vừa nghe giọng nói
của chàng, thì một ánh sáng rực rỡ bỗng bừng lên gương mặt nàng, dọi sáng trong
cùng một lúc nỗi buồn và niềm vui của nàng. - Tôi chỉ xin nói với công tước tiểu
thư một điều, - Roxtov nói, là giả sử công tước Andrey Nikolaievich không còn nữa,
người ta đã công bố tin này trên các báo, vì công tước là một vị chỉ huy trung
đoàn. Công tước tiểu thư nhìn chàng, không hiểu câu nói của chàng nhưng vui sướng
vì vẻ ái ngại trên gương mặt chàng. - Vả lại tôi có biết nhiều trường hợp bị
thương vì mảnh đạn như vậy (trên các báo có nói là bị thương vì tạc đạn): thường
thường thì một là người bị đạn chết ngay, hai là ngược lại vết thương rất nhẹ,
- Nikolai nói, - Phải hy vọng điều tốt lành, và tôi tin chắc rằng. Công tước tiểu
thư Maria ngắt lời chàng. - Nhỡ ra có làm sao thì thật là khủng khiếp. - nàng mở
đầu, nhưng rồi xúc động quá không nói hết được. Nàng cúi đầu với một động tác
duyên dáng (như tất cả những gì nàng làm trước mặt chàng) và sau khi đưa mắt đầy
lòng biết ơn nhìn chàng, nàng đi theo bà dì. Tối hôm ấy Nikolai không đi chơi
đâu cả. Chàng ở nhà thanh toán cho xong những việc tiền nong với mấy người bán
ngựa. Khi công việc đã quá giờ đi chơi nhưng vẫn chưa đến giờ đi ngủ, nên
Nikolai một mình đi đi lại lại hồi lâu trong phòng, suy nghĩ về đời mình, một
việc rất ít khi thấy chàng làm. Hôm ở gần Smolensk, công tước tiểu thư đã gây
nên trong lòng chàng một ấn tượng dễ chịu. Chàng đã gặp nàng trong một hoàn cảnh
khác thường, và nàng lại chính là người mà mẹ chàng đã có thời chỉ cho chàng đặc
biệt chú ý đến nàng. Ở Voronez, hôm chàng đến thăm nàng, ấn tượng đó không những
dễ chịu mà còn mãnh mẽ nữa. Nikolai đã có một ấn tượng rất mạnh trước vẻ đẹp đặc
biệt, vẻ đẹp tinh thần mà lần này chàng mới nhận thấy ở nàng. Nhưng chàng vẫn sửa
soạn ra đi, và không hề có ý tiếc rằng rời Voronez chàng sẽ không có dịp gặp lại
công tước tiểu thư nữa. Nhưng lần gặp tiểu thư Maria trong nhà thờ hôm nay
(Nikolai cảm thấy như vậy) đã khắc vào lòng chàng sâu hơn là trước kia chàng vẫn
tưởng, và sâu hơn là chàng muốn, vì nó đã có phương hại đến sự yên tĩnh của tâm
hồn chàng. Khuôn mặt xanh xao, tế nhị, u buồn ấy cái nhìn trong sáng ấy, những
động tác nhỏ nhẹ, uyển chuyển ấy và nhất là nỗi buồn sâu sắc và dịu dàng lộ rõ
trên các nét mặt của nàng, đã khuấy động lòng chàng và đòi hỏi chàng phải chia
sẻ những tình cảm của nàng. Ở những người đàn ông thì Roxtov không sao chịu nổi
những dấu hiệu của một cuộc sống tinh thần cao cả (vì thế mà chàng không ưa
công tước Andrey) chàng khinh bỉ gọi đó là triết 1ý, là mơ mộng; nhưng ở công
tước tiểu thư Maria, chàng lại cảm thấy chính cái vẻ u buồn đó, một vẻ u buồn
biểu lộ tất cả cái thuần tuý của một thế giới tinh thần xa lạ dối với Nikolai,
có một sức hấp dẫn không sao cưỡng nổi. “Thật là một thiếu nữ tuyệt vời; đúng
là một vị thiên thần! - Nikolai tự nhủ. - Vì đâu ta không được tự do, vì sao ta
lại vội vã hứa hẹn với Sonya?”. Và chàng bất giác so sánh hai người: một đằng
thì nghèo nàn, một đằng thì lại phong phú về những thiên bẩm tinh thần mà
Nikolai không có và chính vì vậy mà chàng đánh giá rất cao. Chàng thử hình dung
sự việc sẽ ra sao nếu chàng không bị ràng buộc. Chàng sẽ ngỏ lời cầu hôn ra sao
và nàng sẽ trở thành vợ chàng như thế nào? Không, chàng không thể hình dung được
điều đó Chàng bỗng thấy sờ sợ và không tưởng tượng ra được một hình ảnh nào cho
rõ nét cả. Với Sonya thì từ lâu chàng đã dựng lên một bức tranh tương lai; và tất
cả đều đơn giản và rõ lang chính vì tất cả đều do chàng nghĩ ra, và chàng biết
rõ tất cả những gì có trong Sonya, nhưng với công tước tiểu thư Maria thì không
sao hình dung được cuộc sống sau này, vì chàng không hiểu nàng, mà chỉ yêu nàng
thôi. Những ước mong về Sonya có một cái vẻ gì vui vẻ, giống như một trò chơi.
Nhưng nghĩ đến công tước tiểu thư Maria thì bao giờ cũng thấy một cái khó khăn
và đáng sợ. “Nàng cầu nguyện chân thành quá. - Chàng nhớ lại. - Thật là nàng
đem hết cả tâm hồn trút vào lời cầu nguyện. Phải, đó chính là lời cầu nguyện có
sức chuyển núi dời sông, và ta tin chắc rằng lời cầu nguyện cho những điều mà
ta cần có? - chàng nhớ lại. - Ta cần có gì? Cần tự do, cần đoạn tuyệt với
Sonya. Bà ấy nói đúng, - chàng nhớ lại những lời lẽ của bà tổng đốc, - Ta mà lấy
Sonya thì chỉ khổ thôi, chỉ thêm rối ren, mẹ sẽ buồn phiền… công việc… một tình
trạng rối ren, rối ren ghê gớm! Vả chăng ta cũng không yêu Sonya. Phải, tình
yêu ấy không phải là tình yêu thật sự. Lạy Chúa! - Hãy đưa con ta khỏi cái tình
cảnh đáng sợ, không có lối thoát này - Chàng bỗng bắt đầu cầu nguyện. - Phải, lời
cầu nguyện có sức chuyển núi dời sông, nhưng phải tin, và phải cầu nguyện không
phải như hồi còn nhỏ ta với Natasa cầu nguyện cho tuyết biến thành đường rồi chạy
ra xem thử tuyết đã hóa thành đường chưa. Không, bây giờ ta không cầu nguyện vớ
vẩn - Chàng nói đoạn đặt tẩu thuốc vào một góc và chắp tay đến đứng trước bức
tượng thánh. Và lòng hồi hộp cảm động nhớ đến công tước tiểu thư Maria, chàng bắt
đầu cầu nguyện. Đã lâu chàng không có lần nào cầu nguyện như thế. Nước mắt rưng
rưng trên mi và nghẹn ngào trong cổ chàng khi Luvruska cầm mấy tờ giấy gì không
rõ bước vào phòng. - Đồ ngu! Người ta không gọi sao lại cứ dẫn xác vào! -
Nikolai vừa nói vừa vội vàng thay đổi tư thế. - Của quan tổng đốc, - Luvruska
nói, giọng ngái ngủ, - Liên lạc vừa đưa đến, có thư gửi cho ông. - Được cám ơn,
chú ra đi. Nikolai cầm lấy hai bức thư. Một bức là của mẹ chàng, bức kia là của
Sonya. Chàng nhận ra nét chữ của hai người, và bóc phong bì của Sonya ra trước.
Chàng mới đọc qua được mấy dòng thì mặt chàng bỗng tái đi và mắt chàng mở rộng
lộ vẻ sợ hãi và vui mừng. - Không, không có lẽ - Chàng nói to một mình. Không
sao ngồi yên được một chỗ, chàng cầm bức thư trong tay, vừa đi đi lại lại trong
phòng vừa đọc. Chàng đọc qua một lượt thật nhanh, rồi đọc lại, xong lại đọc lại
lần nữa, rồi so vai và dang tay ra, chàng dừng lại ở giữa phòng, mồm há hốc, mắt
đờ đẫn. Điều mà chàng vừa cầu nguyện với lòng tin vững chắc rằng Chúa sẽ ưng
chuẩn cho của chàng, nay đã được thực hiện; nhưng Nikolai lấy làm kinh ngạc dường
như đó là một điều gì phi thường, và không bao giờ chàng ngờ đến. Điều đó đã được
thực hiện một cách nhanh chóng đến nỗi chàng có cảm tưởng đó là một bằng chứng
chứng tỏ ra rằng việc vừa xảy ra không phải vì Chúa đã chuẩn y lời cầu nguyện của
chàng mà chỉ là do một sự ngẫu nhiên tầm thường. Cái nút đang ràng buộc chàng
và tưởng chừng như không thể nào gỡ ra được, cái nút ấy đã được bức thư đột ngột,
vô cớ (Nikolai tưởng như vậy) của Sonya tháo tung ra. Trong thư nàng viết rằng
vì những sự việc không mảy may xảy ra gần đây, vì gia đình Roxtov đã mất hết
tài sản ở Moskva, vì Borodino, phu nhân đã mấy lần bày tỏ ước nguyện mong
Nikolai lấy công tước tiểu thư Bolkonxkaya, và vì thời gian gần đây chàng có
nhiều lạnh nhạt và không gởi thư gì cho nàng, cho nên nàng đành phải gạt bỏ lời
hẹn ước cũ cho chàng và để chàng hoàn toàn tự do. “Em quá khổ tâm khi nghĩ rằng
mình có thể làm một nguyên nhân gây nên sự buồn phiền và xích mích trong gia
đình những ân nhân của em, - Nàng viết, - Và tình yêu của em chỉ có một mục
đích là hạnh phúc của những người mà em thương yêu; vì vậy em van anh, anh
Nikolai, và xin anh tin rằng dù sao chăng nữa cũng không ai có thể yêu anh tha
thiết như Sonya của anh”. Cả hai bức thư đều gửi từ Troisk - bức thư kia là của
bá tước phu nhân. Trong thư có kể lại những ngày cuối cùng ở Moskva lúc ra đi,
trận hỏa hoạn và việc cả gia sản bị tiêu vong. Trong thư, bá tước phu nhân cũng
viết rằng công tước Andrey cùng đi với gia đình trong số những người thương
binh. Tình trạng của chàng rất nguy kịch, nhưng hiện nay bác sĩ nói rằng đã có
nhiều hy vọng hơn trước. Sonya và Natasa hiện đang săn sóc chàng như hai người
hộ lý. Ngày hôm sau Nikolai cầm bức thư này đến nhà công tước tiểu thư Maria.
Nikolai cũng như tiểu thư Maria đều không nói gì về ý nghĩa của câu “Natasa săn
sóc công tước Andrey” nhưng nhờ bức thư này Nikolai đã gần gũi thêm công tước
tiểu thư và quan hệ của họ bấy giờ đã gần như quan hệ họ hàng. Ngày hôm sau,
Roxtov tiễn công tước tiểu thư Maria đi Yaroxlav và được ít hôm sau chàng cũng
trở về trung đoàn. Chương 8 Bức thư của Sonya gửi cho Nikolai, bức thư thực hiện
lời cầu nguyện của chàng, được viết ra trong khi nàng ở Troisk. Và đây là những
nguyên do đã khiến cho nàng viết bức thư này. Ý nghĩ lấy cho Nikolai một người
vợ giàu càng ngày càng ám ảnh bá tước phu nhân. Bà biết rằng Sonya là cái chướng
ngại chủ yếu ngăn trở việc này. Và cuộc sống của Sonya trong thời gian gần đây,
nhất là sau bức thư của Nikolai kể lại cuộc gặp gỡ với công tước tiểu thư Maria
ở Bogotsanrovo, mỗi ngày một thêm nặng nề khổ sở trong nhà bá tước phu nhân.
Phu nhân không bỏ lỡ một dịp nào để nói cạnh nói khóe Sonya một cách cay độc và
tàn nhẫn. Nhưng trước khi lên đường rời khỏi Moskva mấy hôm, mủi lòng và xúc động
vì tất cả những việc đã xảy ra, bá tước phu nhân gọi cho Sonya lại, và không
trách móc đòi hỏi như trước đây nữa, bà ứa nước mắt van lơn nàng hãy hy sinh
mình để đền đáp những ân huệ của gia đình đối với nàng, cầu xin nàng đoạn tuyệt
với Nikolai. - Chỉ khi nào cháu hứa với bác, thì bác mới yên tâm, - bá tước phu
nhân nói. Sonya khóc nức nở như trong một cơn điên loạn, và trả lời qua những
tiếng nấc rằng nàng sẽ làm tất cả, nàng sẵn sàng chịu tất cả, nhưng lại không hứa
cụ thể và trong thâm tâm nàng không sao đành lòng làm cái việc mà người ta đòi
hỏi nàng. Phải hy sinh mình cho hạnh phúc của cái gia đình đã nuôi nấng và dạy
dỗ nàng. Hy sinh mình cho người khác sung sướng đã thành một thói quen của
Sonya. Với địa vị của nàng trong gia đình, chỉ có bằng sự hy sinh nàng mới bộc
lộ được những đức tính của nàng, cho nên nàng đã quen và thích hy sinh. Nhưng
trước kia trong tất cả những hành động hy sinh như thế nàng vui sướng nhận thức
rằng hy sinh mình, nàng tự nâng cao phẩm giá của mình lên trong quan niệm của
những người khác và càng thêm xứng đáng với Nikolai, người mà nàng yêu hơn tất
cả mọi thứ ở trên đời; nhưng bây giờ sự hy sinh của nàng lại là phải từ bỏ cái
mà đối với nàng là phần thưởng duy nhất của sự hy sinh, là ý nghĩa duy nhất của
sự hy sinh, và là ý nghĩa duy nhất của cuộc sống. Và lần đầu trong đời, nàng thấy
oán giận những người đã làm ơn cho nàng để rồi lại làm cho nàng đau khổ nhiều
hơn. Nàng thấy ghen tị với Natasa, người chưa bao giờ trải qua một việc gì
tương tự, chưa bao giờ cần phải hy sinh, chỉ bắt những người khác hy sinh cho
mình, mà vẫn được mọi người yêu quý. Và lần đầu tiên Sonya cảm thấy tình yêu dịu
dàng trong sạch của nàng đối với Nikolai bỗng nhiên biến thành một tình cảm bồng
bột say đắm vượt hẳn lên trên mọi quy tắc, vượt lên trên đạo đức và tôn giáo;
và dưới sự chi phối của tình cảm này Sonya, mà cuộc sống lệ thuộc đã biến thành
một người kín đáo quen che giấu những cảm nghĩ thành thật của mình, bất giác trả
lời bá tước phu nhân với những lời lẽ mơ hồ, tránh nói chuyện với phu nhân, và
quyết định chờ đợi một cuộc gặp gỡ mặt với Nikolai, không phải để trả lại tự đo
cho chàng mà trái lại để vĩnh viễn gắn chặt đời mình vào đời chàng. Những nỗi
lo âu và kinh hãi của những ngày cuối cùng gia đình Roxtov còn ở Moskva đã lấn
át những ý nghĩ u ám đang đè nặng lên tâm hồn Sonya. Nàng vui mừng được tìm
cách thoát khỏi những ý nghĩ đó trong những công việc thực tế. Nhưng khi nàng
được biết công tước Andrey đang ở nhà, tuy nàng chân thành thương xót chàng và
Natasa, lòng Sonya đã tràn ngập một niềm vui sướng đậm màu mê tín: nàng thấy trời
không muốn cho nàng phải đoạn tuyệt với Nikolai. Nàng biết rằng Natasa chỉ yêu
một mình công tước Andrey và đến nay vẫn yêu chàng. Nàng biết rằng bây giờ, gặp
lại nhau trong hoàn cảnh hãi hùng như thế này, họ nhất định sẽ lại yêu nhau và
đến khi đó thì quan hệ thân thuộc sẽ khiến Nikolai không thể lấy công tước tiểu
thư Maria được. Cho nên tuy trong những ngày cuối cùng ở Moskva và những ngày đầu
tiên của cuộc hành trình đã xảy ra những việc hết sức ghê sợ, cái cảm giác, cái
ý thức là bàn tay Chúa đã can thiệp vào cuộc sống cá nhân của nàng đã khiến
Sonya vui mừng. Ở tu viện Troisk, gia đình Roxtov ghé lại nghỉ ngơi lần đầu
tiên trong cuộc hành trình của họ. Người ta cắt cho gia đình Roxtov ba gian lớn
của tu viện, trong đó một gian được dành riêng cho công tước Andrey. Hôm ấy
chàng thấy đỡ nhiều. Natasa ngồi bên cạnh chàng. Ở phòng bên, bá tước phu nhân
kính cẩn nói chuyện với cha bề trên vừa đến thăm gia đình Roxtov và những người
quen cũ trước kia vẫn cung tiến cho tu viện. Sonya cũng ngồi ở phòng ấy, lòng bứt
rứt vì đang tò mò muốn biết công tước Andrey và Natasa nói với nhau những gì,
nàng lắng nghe tiếng nói của họ qua cánh cửa. Bỗng cửa phòng công tước Andrey xịch
mở ra, Natasa bước ra vẻ mặt xúc động, từ trong phòng bước ra. Không để ý thấy
vị tu sĩ bấy giờ đang đứng dậy để đón nàng, tay giữ lấy cổ áo rộng bên phải,
nàng lại gần Sonya và cầm lấy tay bạn. - Natasa, con làm sao thế? Lại đây, - bá
tước phu nhân nói. Natasa đến cạnh vị tu sĩ để nhận phép lành, và cha bề trên
khuyên nàng nên cầu xin. Chúa và vị thánh của Người phù hộ chol. Ngay sau khi
cha bề trên ra về, Natasa cầm lấy tay Sonya và cùng đi với bạn sang gian phòng
trống bên cạnh. - Sonya, có đúng không? Anh ấy sẽ sống chứ? - nàng nói, - Sonya
ạ, em sung sướng quá và đau khổ quá! Sonya ạ, chị yêu dấu của em, - Mọi việc đều
như cũ. Miễn sao anh ấy sống được. Anh ấy không thể… bởi vì… vì, vì… - và
Natasa khóc òa lên. - Thế à? - Mình biết mà? Đội ơn Chúa, - Sonya nói. - Anh ấy
sẽ sống. Sonya xúc động chẳng kém gì bạn, xúc động vì nỗi sợ hãi và đau buồn của
bạn, và vì những ý nghĩ riêng của mình, những ý nghĩ mà nàng không hề nói cho
ai biết. Nàng nghẹn ngào hỏi Natasa và an ủi bạn “Miễn sao anh ấy sống được?” -
Sonya thầm nghĩ. Sau khi khóc và nói với nhau một lúc, hai người bạn gái lau nước
mắt rồi đến bên cửa phòng công tước Andrey, Natasa thận trọng mở cửa ghé mình
vào phòng. Sonya đứng cạnh nàng bên cánh cửa hé mở. Công tước Andrey nằm kê cao
đầu lên ba chiếc gối. Khuôn mặt xanh xao của chàng điềm tĩnh, hai mắt nhắm nghiền,
và có thể thấy ngực chàng khẽ nâng lên hạ xuống theo nhịp thở đều đặn. - Ồ!
Natasa! - Sonya bỗng gần như kêu lên, nắm chặt tay bạn và lùi lại - Cái gì thế?
Gì thế? - Natasa hỏi. - Đúng rồi, đúng thế thật đấy. - Sonya nói. Mặt tái xanh,
môi run lẩy bẩy. Natasa khẽ đóng cửa lại và cùng Sonya đi ra cửa sổ. Nàng vẫn
chưa hiểu người ta vừa nói gì với mình. - Natasa có nhớ không. - Sonya nói, vẻ
mặt sợ hãi và trịnh trọng - Natasa có nhớ dạo mình nhìn vào gương thay cho
Natasa không… Ở Otradnoye, hôm lễ Giáng sinh ấy mà… Nhớ không hôm mình có thấy…
- À, ừ! Có! - Natasa nói, mắt mở to; nàng mường tượng nhớ lại rằng dạo ấy Sonya
có nói gì về công tước Andrey, Sonya thấy chàng đang nằm… - Natasa nhớ không? -
Sonya nói tiếp - Hôm ấy mình nhìn thấy mình đã nói cho cả Natasa; cả Dunasia
nghe. Mình thấy anh ấy nằm trên gường - Sonya nói; cứ kể đến một chi tiết nào
nàng lại giơ cao một ngón tay lên như ra hiệu, - Anh ấy nhắm mắt, và đắp một
chiếc chăn màu hồng đúng như thế này, hai tay anh ấy chắp lại, trong khi Sonya
lần lượt tả lại những chi tiết mà nàng vừa trông thấy, nàng quả quyết tin rằng
dạo trước nàng đã từng trông thấy đúng như thế. Thực ra dạo ấy nàng chẳng trông
thấy gì cả, chẳng qua bạ nghĩ ra được cái gì nàng cứ thế mà kể, nhưng bây giờ
nàng thấy những điều mà dạo ấy nàng đã bịa đặt ra cũng đều có thật như bất kỳ kỷ
niệm nào khác. Dạo ấy nàng nói rằng chàng quay lại nhìn nàng, mỉm cười, rằng
chàng đắp một cái gì đo đỏ; những điều đó không những nàng nhớ lại; mà nàng còn
tin chắc rằng ngay từ dạo ấy mình đã nhìn thấy và nói rằng chàng đắp cái chăn
màu hồng, đúng màu hồng, và mất chàng nhắm nghiền. - Phải, phải, đúng là màu hồng,
- Natasa nói; bây giờ hình như nàng cũng nhớ rằng dạo ấy Sonya có nói là màu hồng,
và thấy rằng điều kỳ lạ và huyền bí trong lời tiên đoán chính là ở chỗ đấy. -
Nhưng như thế nghĩa là thế nào? - Natasa nói, vẻ trầm ngâm. - Ồ mình không biết,
thật là kỳ lạ, - Sonya nói, hai tay ôm đầu. Vài phút sau công tước Andrey bấm
chuông gọi, và Natasa vào với chàng; Sonya, lòng bồi hồi cảm động khác thường vẫn
đứng lại bên cửa sổ, nghĩ ngợi về những việc phi thường vừa xảy ra. Hôm ấy có dịp
thư tới quân đội, bá tước phu nhân liền viết thư cho con trai. - Sonya, - bá tước
phu nhân ngẩng đầu lên nói khi cô cháu gái đi ngang qua, - Sonya, con không viết
thư cho Nikolai à? - Bá tước phu nhân nói khẽ, giọng run run, và trong đôi mắt
mệt mỏi nhìn qua cặp kính Sonya đã đọc được tất cả những gì mà phu nhân muốn ám
chỉ qua những lời này. Trong khóe nhìn của phu nhân, có cả ý van lơn ý lo sợ bị
Sonya cự tuyệt, ý hổ thẹn vì phải cầu xin, và sự sẵn sàng chuyển sang lòng thù
ghét sâu cay nếu nàng từ chối. Sonya đến cạnh bá tước, quỳ xuống hôn tay và
nói: - Con sẽ viết mẹ ạ Tất cả những sự, việc xảy ra trong ngày hôm ấy đã làm
cho Sonya xúc động mủi lòng và thấy tâm hồn mình dịu lại, nhất là sự thực hiện
huyền bí của điều tiên đoán nọ. Bây giờ, khi nàng đã biết rằng quan hệ giữa
Natasa và công tước Andrey được nối lại như cũ thì Nikolai không thể nào lấy được
công tước tiểu thư Maria được nữa, Sonya vui mừng cảm thấy cái tâm trạng luôn
luôn sẵn sàng hy sinh đã trở lại với nàng; nàng vẫn ưa thích và đã quen sống
trong tâm trạng đó. Mắt rớm lệ, lòng vui sướng vì có ý thức rằng mình đang làm
một việc cao thượng, nàng viết thư cho Nikolai. Dở chừng nàng mấy lần phải dừng
lại vì những giọt lệ trào ra mờ cả đôi mắt đen dịu như nhung của nàng. Và đó
chính là bức thư cảm động đã khiến cho Nikolai kinh ngạc như vậy. Chương 9 Ở trạm
gác của Piotr được giải đến, viên sĩ quan và mấy người lính đã bắt giam Piotr,
đối xử với chàng một cách thù địch nhưng đồng thời cũng có ý kính nể chàng.
Trong thái độ của họ vẫn còn có thể cảm thấy rằng họ vừa hồ nghi không biết
chàng là ai (là một nhân vật rất trọng yếu chăng) vừa tức tối nhớ lại cuộc ẩu đả
vừa qua với chàng. Nhưng sáng hôm sau, khi đến giờ đổi gác, Piotr nhận thấy rằng,
đối với đội quân canh mới đến, - sĩ quan cũng như binh lính, chàng đã không còn
quan trọng như đối với những người đã bắt chàng. Và quả nhiên, trong con người
to béo mặc áo kaftan, nông dân này, đội lính canh ngày hôm ấy không hề thấy con
người linh hoạt đã đánh nhau chí tử với nhiều tên lính ăn cướp và với đội áp giải,
và đã từng nói cái câu trang trọng về việc cứu sống đứa bé, mà chỉ thấy đó là
người thứ mười bảy trong số những người Nga bị bắt giữ vị một lý do nào đó,
theo lệnh của cấp trên. Vả chăng nếu Piotr có một cái gì đặc biệt chăng nữa,
thì đó chỉ là cái vẻ đăm chiêu tư lự chẳng hề sợ sệt của chàng, hoặc giả là cái
tiếng Pháp điêu luyện của chàng mà người Pháp rất lấy làm lạ. Tuy vậy, ngay hôm
ấy, Piotr cũng được đưa sang giam cùng buồng với những người khả nghi khác, vì
gian phòng dành riêng để giam chàng nay có một viên sĩ quan Pháp cần đến. Tất cả
những người Nga cũng bị giam với Piotr đều là những người thuộc lớp cùng dân.
Và khi nhận ra rằng Piotr là một người thượng lưu, họ đều xa lánh chàng, huống
hồ chàng lại nói tiếng Pháp nữa. Piotr buồn rầu nghe những lời chế giễu của họ
nhằm vào chàng. Đến tối ngày hôm sau, Piotr được biết rằng tất cả những người bị
giam ở đây (và hình như trong số đó có cả chàng) đều sẽ bị đưa ra xử về tội đốt
nhà. Đến ngày thứ ba, Piotr cùng với những người bị giam khác bị dẫn sang một
ngôi nhà có một viên tướng Pháp để bộ ria mép bạc trắng, hai viên trung tá và mấy
người Pháp nữa có đeo băng hiệu ở ống tay áo quân phục. Họ hỏi Piotr, cũng như
những người khác, những câu mà người ta vẫn thường dùng để hỏi những bị cáo, những
câu hỏi mà người ra vẫn xác được coi như vượt lên trên những sự yếu đuối của
con người: Anh là ai? Trước đây anh ở đâu? Vì mục đích gì? v.v. Những câu hỏi
này gạt nội dung của sự việc ra một bên và loại trừ mọi khả năng phát hiện ra
cái nội dung đó, cũng như tất cả những câu hỏi dùng ở tòa án, mục đích của nó
là đưa ra trước người bị cáo một cái ống máng để cho những câu trả lời của họ
chảy theo hướng những người xét xử mong muốn, nghĩa là để dẫn đến việc buộc tội.
Hễ người bị cáo bắt đầu nói một điều gì không ăn nhập với mục đích buộc tội thì
người ta rút ống máng đi, và nước muốn chảy đi đâu thì chảy. Ngoài ra, Piotr
còn có cái cảm giác mà người bị cáo vẫn thường có khi đứng trước bất cứ tòa án
nào: cảm giác ngỡ ngàng không hiểu người ta hỏi những câu ấy để làm gì. Chàng cảm
thấy rằng chỉ vì muốn làm ra vẻ khoan dung hay lễ độ mà người dùng cái thủ tục ống
máng ấy. Chàng biết rằng mình đang nằm trong tay những người này, rằng chỉ có bạo
lực dẫn chàng đến đây, rằng chỉ có bạo lực cho họ cái quyền bắt chàng trả lời
những câu hỏi ấy, rằng mục đích duy nhất của cuộc họp mặt này là để buộc tội
chàng. Cho nên, một khi đã có quyền lực và có ý muốn buộc tội, lẽ ra không cần
dùng đến những câu hỏi cạm bẫy như vậy, mà cũng không xét xử làm gì. Có thể thấy
rõ rằng tất cả những câu hỏi ấy đều nhàm đưa đễn chỗ buộc tội. Khi họ hỏi chàng
đang làm gì khi bị bắt, Piotr trả lời với một giọng hơi bi đát, rằng chàng đang
bế một đứa bé mà chàng vừa cứu trong đống lửa ra để mang trả lại cho cha mẹ nó.
- Tại sao lại đánh nhau với tên lính ăn cướp? Piotr đáp rằng chàng bênh vực một
người đàn bà, rằng bênh vực một người đàn bà bị xúc phạm là nhiệm vụ của mọi
người, rằng… Họ ngăn chàng lại: những cái đó không dính dáng đến việc này. Vì
sao chàng lại đứng trong sân một ngôi nhà đang cháy, như một số người làm chứng
đã nói? Chàng đáp rằng chàng đang đi xem thử ở Moskva đang xảy ra những việc
gì. Họ lại ngắt lời chàng: Đây không ai hỏi chàng đi đâu, mà hỏi chàng đứng gần
đám cháy để làm gì. Chàng là ai? Họ lại hỏi câu hỏi đầu tiên, mà lúc nãy chàng
đã đáp rằng chàng sẽ không trả lời. Bây giờ chàng lại nhắc lại một lần nữa rằng
chàng không thể nói điều đó ra được. - Ghi lấy: như thế không tốt. Rất là không
tốt, - viên tướng có bộ ria bạc trắng và khuôn mặt đỏ gay nói với chàng một
cách nghiêm khắc. Đến ngày thứ tư, các đám cháy lan đều bức tường thành
Zubovxki. Piotr cùng với mười ba người khác bị giải đến Krymxki Brod, giam vào
một cái kho để xe của một nhà buôn. Trong khi đi qua các phố, Piotr ngạt thở vì
làn khói bấy giờ hình như đang bao trùm khắp thành Moskva. Bốn phía đều rừng rực
ánh lửa cháy nhà. Lúc bấy giờ Piotr chưa hiểu tầm quan trọng của việc Moskva bốc
cháy, chàng kinh hãi nhìn ánh lửa. Trong gian nhà kho ở Krymxki Brod, Piotr bị
giam bốn ngày nữa, và trong thời gian đó, qua những câu chuyện trò của bọn lính
Pháp nói với nhau chàng được biết rằng tất cả những người bị giam giữ ở đây phải
đợi quyết định nay mai của nguyên soái. Nghe những mẩu chuyện ấy Piotr không thể
biết rõ nguyên soái đây là nguyên soái nào. Đối với những người lính ấy, chức
nguyên soái hẳn là một cái khâu cao cấp và khá bí ẩn của quyền lực. Những ngày
đầu tiên này - kể cho đến mồng tám tháng chín, ngày các phạm nhân bị đưa đi hỏi
cung lần thứ hai, là những ngày khổ sở nhất đối với Piotr.
Lev Tolstoy
Dịch giả: Cao Xuân Hạo, Nhữ Thành,
Hoàng Thiếu Sơn, Thường Xuyên.
Nguồn: vnthuquan
Dịch giả: Cao Xuân Hạo, Nhữ Thành,
Hoàng Thiếu Sơn, Thường Xuyên.
Nguồn: vnthuquan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét