PHẦN III
Chương 1
Công tước Vaxili không hề trù tính trước những kế hoạch của mình. Ông lại càng không nghĩ cách hại người để mưu lợi cho mình. Ông chỉ là một con người lịch duyệt ở đời, đã từng thành công trong giới xã giao và đã trót lấy việc thành công ấy làm một thói quen. Tuỳ theo từng hoàn cảnh và tuỳ theo những người ông tiếp xúc trong trí óc ông luôn luôn nảy ra những dự định, những điều suy tính mà chính ông cũng không có ý thức gì rõ rệt cho lắm, nhưng đó lại chính là tất cả hứng thú của dời ông. Trong đầu óc ông không phải chỉ có một kế hoạch hay một dự định, không phải chỉ có hai, mà có đến hàng chục, trong số đó có những kế hoạch đang bắt đầu có những kế hoạch đang hoàn thành, lại có những kế hoạch bị huỷ bỏ. Chẳng hạn ông không tự nhủ: “Tay này có thế lực đây, phải làm sao cho hắn tin ta, mến ta, để rồi nhờ hắn xin cho một khoản trợ cấp hoặc giả ông cũng không tự nhủ: “Bây giờ Piotr giàu rồi, ta phải dụ dỗ hắn lấy con gái ta và cho ta vay bốn vạn rúp mà ta đang cần”. Nhưng hễ gặp một người có thế lực, là lập tức bản năng của ông mách bảo ông rằng tay ấy có thể có ích, rồi công tước Vaxili sẽ làm quen, và thừa dịp đầu tiên, không hề chuẩn bị trước, chỉ do bản năng, ông sẽ nịnh hót, làm thân, nói những điều cần nói. Piotr bấy giờ đang ở Moskva, ngay trong tầm tay của công tước Vaxili, nên công tước liền lo cho chàng một chức phó thị tùng, - hồi đó cũng ngang với chức tư vấn quốc gia, và một mực mời chàng thanh niên lên Peterburg ghé lại nhà ông. Vởi cái dáng dường như lơ dễnh, nhưng đồng thời lại tin chắc rằng sự việc tất nhiên phải như vậy công tước Vaxili thu xếp mọi việc sao cho Piotr phải lấy con gái mình. Ví thử công tước có suy tính công việc từ trước, thì ông đã không sao có được cái vẻ tự nhiên như vậy trong khi giao thiệp và cái vẻ giản dị, thân mật như vậy trong khi đối xử với mọi người, cấp trên cũng như cấp dưới. Có một cái gì cứ luôn luôn thu hút ông ta lại gần những người có thế lực hơn và giàu có hơn ông, và ông bẩm sinh có cái tài nghệ hiếm có là biết chộp đúng cái mà mình cần và có thể lợi dụng người khác. Piotr đùng một cái đã nghiễm nhiên trở nên giàu có, và trở thành bá tước Bezukhov. Nếu trước đây ít lâu chàng hãy còn cô dộc và vô tư lự thì nay chàng lại cảm thấy mình được săn đón và bận rộn đến mức chỉ khi lên giường đi ngủ chàng mới thấy mình ngồi lại với riêng mình. Chàng phải ký giấy tờ, đi lại những công sở hành chính mà chàng chẳng hiểu là quan trọng như thế nào, hỏi han viên quản lý về việc này việc nọ, đạp xe đến điền trang ở ngoại thành Moskva và tiếp rất nhiều người, những người trước kia chẳng bao giờ thèm biết đến chàng, nhưng bây giờ nếu chàng không tiếp thì họ sẽ phiền lòng và tủi cực lắm. Tất cả những nhân vật thuộc đủ các hạng người ấy - những người thương nhân, họ hàng, quen thuộc - Tất cả đều có thái độ hòa nhã, dịu dàng như nhau đối với chàng bá tước trẻ tuổi vừa thừa hưởng gia tài, và hiền nhiên là tất cả những người đó đều tin là Piotr sẵn có những đức tính cao quý. Piotr luôn nghe họ nói: “Đã có lòng nhân từ hiếm có như ngài thì… Với tấm lòng vàng của ngài” hay “Thưa bá tước, ngài vốn có tấm lòng cao thượng như vậy…” hay “Giá ông ta cũng thông minh được như ngài thì…” v.v… Đến nỗi chàng bắt đầu thành thực tin rằng mình có một lòng tốt hiếm có và một trí tuệ phi thường, đã thế xưa nay trong thâm tâm chàng vẫn nghĩ mình là người rất tốt bụng và rất thông minh. Ngay cả những người trước kia độc ác và thù ghét chàng ra mặt thì nay cũng tỏ ra dịu dàng âu yếm. Trong ba nữ công tước, có cô chị cả lưng dài quá cỡ và tóc nhẵn như tóc búp bê, mới hồi nào còn giận dữ hằn học là thế mà nay, sau tang lễ bá tước cũng thân hành đến phòng Piotr. Mắt nhìn xuống và mặt luôn đỏ bừng lên, cô ta nói với Piotr rằng cô rất lấy làm tiếc về những sự hiểu lầm trước đây giữa hai người và bây giờ cô biết mình không có quyền cầu xin điều gì hết, có chăng cũng chỉ là xin phép Piotr, sau cái tang đau đớn này, cho cô ở thêm vài tuần trong ngôi nhà mà cô đã từng tha thiết yêu quý nơi cô ta đã từng hy sinh nhiều như vậy. Nói đến dây, công tước tiểu thư không cầm lòng được nữa, liền òa lên khóc. Cảm động vì thấy con người lạnh lùng như pho tượng kia mà lại có thể thay đổi đến thế, Piotr nắm lấy tay công tước tiểu thư mà xin lỗi, tuy cũng chẳng biết xin lỗi cái gì. Kể từ hôm ấy công tước tiểu thư bắt đầu đan cho Piotr một cái khăn quàng sọc và thay đổi hẳn thái độ đối với chàng. Một hôm công tước Vaxili đến nhờ Piotr ký giấy cấp một số tiền cho công tước tiểu thư và nói: - Anh giúp cô ấy một chút anh bạn ạ, dù sao thì cô ta cũng đã đau khổ nhiều vì người quá cố. Công tước Vaxili cho rằng dù sao cũng cần vứt mẩu xương thừa này - Một tờ ngân phiếu ba vạn rúp - Cho cô công tước tiểu thư khốn khổ kia, để cô ta dừng bao giờ bép xép về việc công tước Vaxili có dính líu đến vụ chiếc cặp da ghép nọ. Piotr ký tờ ngân phiếu, và từ dạo đó công tước tiểu thư lại càng hiền hậu hơn. Hai cô em cũng đối xử với Piotr dịu dàng hơn, nhất là cô em út, cái cô bé xinh xắn, có chiếc nốt ruồi, thường làm cho Piotr luống cuống vì những nụ cười và cái vẻ e thẹn của cô ta mỗi khi trông thấy chàng. Piotr vẫn nghĩ rằng ai cũng quí mến mình là lẽ dĩ nhiên và nếu có ai không quí mến mình thì đó thật là một điều vô lý, cho nên chàng không thể không tin ở lòng thành thực của những người xung quanh. Vả lại, chàng cũng chẳng có thì giờ tự hỏi xem họ có thành thực hay không nữa. Chàng luôn luôn bận bịu, luôn cảm thấy mình đang ở trong một trạng thái ngây ngất, nhẹ nhàng và vui vẻ. Chàng cảm thấy mình là trung tâm của một sự chuyển động rất quan trọng của mọi vật; chàng cảm thấy những người xung quanh luôn luôn mong đợi ở chàng một cái gì; rằng nếu chàng không làm việc gì đấy thì nhiều người sẽ buồn phiền và chàng sẽ phụ lòng mong đợi của họ, còn nếu chàng sẽ làm việc này việc kia, thì mọi việc sẽ êm đẹp - Cho nên họ đòi hỏi gì chàng cũng ưng thuận, nhưng sao mãi vẫn không thấy sự việc êm đẹp hơn. Trong thời gian đầu này, người bận tâm hơn cả về những công việc của Piotr cũng như về chính bản thân chàng chính là công tước Vaxili. Từ khi bá tước Bezukhov từ trần, ông chưa hề buông Piotr ra một phút. Công tước Vaxili có vẻ như một người tuy bận việc túi bụi, mệt nhọc, rã rời, nhưng vì ái ngại cho chàng quá, nên cuối cùng không nỡ bỏ mặc chàng thanh niên tội nghiệp kia cho số phận xoay vần và cho những kẻ bất lương lừa gạt, vì dù sao chàng cũng vẫn là con trai của bạn mình, và phải làm chủ một gia tài kếch xù như vậy. Trong mấy ngày còn ở Moskva sau khi bá tước Bezukhov chết, ông vẫn thường gọi Piotr lại gặp mình hay thân hành đến tìm Piotr, khuyên nhủ chàng làm những việc cần thiết, với một giọng nói mệt mỏi và quả quyết, có vẻ như cứ mỗi lần như vậy lại ngụ ý: “Anh cũng biết tôi bận trăm công nghìn việc và chẳng qua cũng vì thương tình mà tôi lo cho anh, vả chăng anh cũng thấy rõ ràng điều tôi bàn là cách duy nhất có thể làm được. - Này, Piotr ạ, đến mai ta đi chơi nhé, - Một hôm công tước Vaxili nói với Piotr như vậy, hai mắt nhắm lại, mấy ngón tay xoa xoa lên khuỷu tay Piotr, giọng nghe có vẻ như điều ông vừa nói đã được thỏa thuận từ đời nào giữa hai người, và không thể nào quyết định khác đi được. - Tôi rất mừng. Ở đây những việc quan trọng ta đã giải quyết xong xuôi cả rồi. Đáng lẽ tôi phải về từ lâu rồi kia. Đây, tôi vừa nhận được cái này của quan quốc vụ đại thần. Tôi có thỉnh cầu ông ta giúp anh, nên anh đã được sung vào ngoại giao đoàn và được bổ làm phó thị tùng. Bây giờ con đường ngoại giao đã mở ra trước mắt anh. Mặc dầu khi nói mấy lời này công tước vẫn dùng cái giọng mệt mỏi quả quyết rất có tác dụng của ông, Piotr là người bấy lâu vẫn suy nghĩ về tương lai của mình, cũng đã toan cãi lại. Nhưng công tước Vaxili liền ngắt lời bằng cái giọng rất trầm như tiếng rùng rục trong cổ chim bồ câu, cái giọng khiến cho người nghe không thể nào ngắt lời mà công tước chỉ dùng khi cần phải thuyết phục người ta cho kỳ được. - Nhưng anh bạn ạ, tôi làm việc này là làm cho tôi, cho lương tâm của tôi, chứ có gì đâu mà cảm ơn. Chưa bao giờ có ai đi than phiền rằng người ta quý mến mình quá; vả chăng anh vẫn tự do, ngày mai có muốn thôi chức cũng được kia mà. Rồi đến Peterburg tự anh sẽ thấy hết. Đáng lẽ anh phải đi cho xa những kỷ niệm khủng khiếp này từ lâu mới phải - Công tước Vaxili thở dài - Cứ thế nhé, Piotr nhé, xe của anh thì để cho tên hầu phòng của tôi đi cũng được. À phải! Tí nữa thì quên mất - công tước Vaxili lại nói thêm - Chắc anh biết rằng trước đây ông cụ thân sinh với tôi có giao dịch tiền nong, vì vậy tôi có thu mấy món ở đất Ryazan và sẽ giữ lại: nay anh không cần đến. Rồi ta sẽ thanh toán sau. - Cái mà công tước Vaxili gọi là “mấy món ở đất Ryazan” tức là mấy nghìn rúp địa tô mà ông ta giữ lại cho mình. Ở Peterburg, cũng giống như ở Maxkava, Piotr lại thấy cái không khí niềm nở của những con người vồ vập, thân thiện bao bọc quanh mình. Chàng không thể khước từ cái chức vụ, hay đúng hơn là cái tước vị (vì chàng chẳng làm gì cả) mà công tước Vaxili đã lo cho chàng, còn những người mới quen biết, những cuộc mời mọc, giao tiếp thì nhiều đến nỗi Piotr có cám giác rõ rệt hơn ở Moskva nữa, rằng xung quanh mình có một cái gì mơ hồ và vội vã, có một cái gì tốt lành đang sắp đến, nhưng mãi vẫn chưa thấy đâu cả. Trong số những bạn bè cũ chưa vợ của Piotr, nhiều người không còn ở Peterburg nữa. Quân cận vệ đã đi chiến dịch, Dolokhov đã bị giáng chức, Anatol thì nay đang tại ngũ ở thôn quê, công tước Andrey thì đang ở nước ngoài, cho nên Piotr không được vui chơi suốt dêm như ngày trước chàng vẫn thích, cũng không được thỉnh thoảng bộc lộ tâm sự với người bạn hơn tuổi mà chàng vẫn kính trọng. Tất cả thì giờ của chàng đều dành cho những bữa tiệc, những buổi khiêu vũ và chủ yếu là nhà công tước Vaxili cùng với bà vợ béo tốt của công tước và con gái của ông, nàng Elen xinh đẹp. Anna Pavlovna Serer, cũng như mọi người khác, cũng cho Piotr thấy rõ có sự thay đổi diễn ra trong cách nhìn của xã hội đối với chàng. Trước kia khi có mặt Anna Pavlovna, Piotr luôn cảm thấy những điều mình nói ra đều khiếm nhã, không lịch sự, không đúng chỗ; chàng thấy những lời mình tưởng là thông minh trong khi đang chuẩn bị sẵn trong trí óc, thì lại hóa ra ngớ ngẩn khi nói to lên, và trái lại, những lời lẽ đần độn nhất của Ippolit đều tỏ ra ý nhị và đáng yêu. Đến bây giờ thì dù chàng nói gì cũng thành ra thú vị cả. Dù Anna Pavlovna không nói ra như vậy đi nữa, thì chàng cũng thấy rằng phu nhân rất muốn nói điều đó ra, nhưng chẳng qua cũng vì tôn trọng tính khiêm tốn của chàng mà tránh nói đó thôi. Vào đầu mùa đông năm 1805 tiếp sang 1806, Piotr nhận được một tấm thiếp quen thuộc của Anna Pavlovna, dưới có chú ý thêm: “Đến nhà tôi ông sẽ gặp nàng Elen xinh đẹp, ngắm không bao giờ chán mắt”. Khi đọc đến câu này, Piotr lần đầu tiên bỗng cảm thấy giữa chàng và Elen đã hình thành một mối liên hệ nào đó được những người khác thừa nhận, và ý nghĩ này đồng thời khiến cho chàng kinh hãi, dường như chàng bắt đầu phải lĩnh một trách nhiệm mà mình không thể làm tròn, nhưng đồng thời cũng làm cho chàng thấy vui thích như một điều phỏng đoán ngộ nghĩnh. Buổi tiếp tân của Anna Pavlovna cũng giống như những buổi trước, chỉ có điều là món ăn mới lạ mà Anna Pavlovna đem thết tân khách hôm nay không phải là Montmorency nữa, mà là một nhà ngoại giao từ Berlin đến, mang theo những chi tiết mới nhất về việc vua Alekxandr ghé chân ở Potxdam và việc hai người bạn chí tôn đã thề sát cánh bên nhau bảo vệ chính nghĩa chống lại kẻ thù của nhân loại. Piotr được Anna Pavlovna ra đón tiếp với một vẻ buồn rầu, hẳn là vì nhớ đến sự tổn thất mà chàng thanh niên vừa phải chịu, vì cái chết của bá tước Bezukhov (mọi người đều một mực cho rằng mình có bổn phận phải giải quyết với Piotr là chàng rất đau buồn về cái chết của cha chàng, người mà chàng hầu như không biết), và cái vẻ buồn này cũng y hệt như cái vẻ buồn cao cả hiện lên mỗi khi nhắc đến đức hoàng thái hậu Maria Feodorovna. Điều này khiến Piotr cảm thấy hãnh diện. Với cái khéo léo thường có, Anna Pavlovna sắp xếp các nhóm nói chuyện trong phòng khách của mình. Một nhóm khá đông, gồm công tước Vaxili và mấy vị tướng, được nói chuyện với nhà ngoại giao. Một nhóm khác quây quần bên chiếc bàn trà nhỏ. Piotr muốn gia nhập nhóm thứ nhất, nhưng Anna Pavlovna, bấy giờ đang ở trong cái trạng thái khích động của một tướng lĩnh trên chiến trường, khi hàng nghìn sáng kiến mới mẻ và trác việt thi nhau xô đến, khiến người ta không kịp đem ra thi hành nữa; Trông thấy Piotr, bà liền lấy ngón tay chạm vào ống tay áo chàng. - Khoan, tối nay tôi đã nhắm trước cho ông rồi đấy! - Bà nhìn sang phía Elen và mỉm cười với nàng. - Cô Elen tốt bụng của tôi ơi, cô cần phải đoái thương đến bà dì tội nghiệp của tôi, là người vẫn rất hâm mộ cô. Xin cô đến với bà dì tôi mười phút cho có bạn. Và để cho cô đỡ buồn, đây có vị bá tước đáng mến sẽ vui lòng đến với cô. Mỹ nhân đi về phía bà dì, nhưng Piotr thì Anna Pavlovna vẫn giữ lại bên cạnh mình: phu nhân có vẻ như cần dặn dò chàng điều gì cần thiết một lần cuối cùng nữa. Anna Pavlovna chỉ người thiếu nữ trang trọng đang đi xa dần, bảo Piotr: - Cô ấy mới đẹp mê hồn phải không nào? - Mà cái dáng điệu mới thuyệt chứ? Một thiếu nữ ít tuổi như vậy thật là trang nhã, đi đứng thật là có nghệ thuật! Phải có một tấm lòng thật tốt mới có thể như vậy! Người nào sau này lấy được nàng thật là một người diễm phúc. Lấy nàng thì một người, chồng có kém lịch duyệt đến đâu cũng tự dưng có được một địa vị xuất sắc trong xã hội. Có phải không bá tước? Tôi chỉ muốn biết ý kiến của ông thôi, - rồi Anna Pavlovna để cho Piotr đi. Piotr thành thực gật đầu tán thành khi Anna Pavlovna hỏi chàng về cái nghệ thuật đi đứng của của Elen. Xưa nay nếu chàng có lúc nào nghĩ đến Elen thì cũng chính là nghĩ đến sắc đẹp của nàng và cái nghệ thuật đặc biệt giữ một phong thái trang trọng, ít nói, điềm tĩnh ở những nơi giao tiếp. Bà dì ngồi trong xó của mình tiếp hai người khách trẻ tuổi, nhưng hình như ba muốn che dấu lòng hâm mộ của mình đối với Anna Pavlovna nhiều hơn. Bà đưa mắt nhìn người cháu, dường như muốn hỏi xem mình phải nói năng như thế nào với hai người khách kia. Khi rời ba người, Anna Pavlovna lại lấy ngón tay chạm vào ống tay áo của Piotr mà nói: - Tôi hy lọng rằng ông sẽ không còn bảo là ở nhà tôi người ta phát chán nữa! - rồi phu nhân đưa mắt nhìn Elen. Elen mỉm cười dường như muốn nói rằng nàng không thể nào thừa nhận là trên đời này có ai nhìn thấy nàng mà lại không ngây ngất. Bà dì đằng hắng mấy tiếng, nuốt nước bọt rồi nói bằng tiếng Pháp rằng được gặp Elen bà rất lấy làm mừng; sau đó bà quay sang phía Piotr cũng với bộ mặt ấy và cũng nói những lời chào đón ấy. Giữa chừng câu chuyện vô vị và lủng củng với bà dì, Elen liếc nhìn Piotr mỉm cười với chàng, một nụ cười sáng sủa, xinh đẹp như nàng vẫn cười với mọi người. Piotr đã quá quen với nụ cười ấy, đối với chàng nó chẳng có ý nghĩa là bao, nên chàng không hề chú ý đến. Lúc đó bà dì đang nói về những chiếc hộp đựng thuốc lá mà tổ tiên cụ cố thân sinh của Piotr là bá tước Bezukhov đã sưu tập được, rồi đưa chiếc hộp của mình ra cho Piotr xem. Công tước tiểu thư Elen xin bà dì cho xem bức chân dung của chồng bà khắc vào nắp hộp. - Cái này chắc do Binex làm, - Piotr nói (Binex là tên một người làm chân dung thu nhỏ có tiếng). Chàng cúi mình trên bàn để cầm lấy chiếc hộp dựng thuốc lá, tai lắng nghe câu chuyện ở bàn bên kia. Chàng đứng dậy, định đi vòng đến lấy, nhưng bà dì đã đưa chiếc hộp vòng qua lưng Elen. Elen cúi mình về phía trước để cho rộng lối, và mỉm cười liếc nhìn ra sau. Cũng như trong mọi buổi dạ hội, Elen mặc một chiếc áo dài hở rất rộng ở phía trước ngực và phía lưng - theo thời trang hồi bấy giờ. Đôi vai của nàng mà trước nay Piotr vẫn có cảm giác là làm bằng cẩm thạch, bấy giờ ở gần sát mặt chàng đến nỗi đôi mắt cận thị của chàng bất giác trông thấy rõ cả làn da mơn mởn trên vai và cổ nàng, và gần kề môi chàng đến nỗi chàng chỉ cúi xuống một chút là sẽ chạm vào da nàng. Chàng cảm thấy hơi ấm của thân hình nàng, ngửi thấy mùi thơm của nước hoa và nghe thấy tiếng xát khẽ cúa chiếc coọc xê khi nàng cử động. - Cái mà chàng trông thấy không phải là cái vẻ đẹp như cẩm thạch của nàng, vốn gộp lại thành một bộ áo của nàng, chàng trông thấy và cảm thấy tất cả cái mỹ miều quyến rũ của tấm thân nàng dưới làn áo. Và khi đã thấy như vậy rồi thì chàng không thể nào thấy khác được nữa, cũng như một khi bị lầm và sau đó đã được biết rõ rồi thì ta không thể nào lại lầm như trước nữa. Cái nhìn của Elen như muốn nói: “Thế ra trước nay anh không thấy tôi đẹp sao? Anh không nhận thấy rằng tôi là một người đàn bà? Phải, tôi là một người đàn bà, có thể thuộc quyền sở hữu của một người đàn ông nào đấy, của anh cũng nên”. Và ngay phút ấy Piotr, chợt cảm thấy Elen không những có thể mà còn phải là vợ chàng, không thể nào khác thế được. Trong giây phút ấy chàng biết như vậy một cách chắc chắn không kém gì khi chàng sẽ đứng bên nàng trước bàn thờ hôn lễ. Bao giờ sẽ đến lúc ấy? Và lúc ấy sẽ ra sao? - Cái đó thì chàng không biết; chàng cũng không biết là như vậy có tốt hay không (thậm chí chàng còn cảm tưởng rằng như vậy không được tốt, chẳng hiểu tại sao), nhưng chàng biết rằng nhất định rồi sẽ đến lúc như vậy. Piotr cụp mắt xuống không nhìn nữa, rồi lại ngước mắt lên, muốn trông thấy nàng cũng xa lạ đối với chàng như mọi lần trước, nhưng không được. Chàng không sao thấy nàng xa lạ như vậy được nữa, cũng như một người nhìn vào sương mù thấy một ngọn cỏ mà cứ tưởng là một cái cây, rồi đến lúc nhận ra đây là một ngọn cỏ rồi, thì không thể nào thấy lại cái cây như trước nữa. Nàng đã có một quyền lực nào đối với chàng rồi. Và bây giờ giữa hai người đã không còn gì trở ngại ngoài ý muốn của bản thân chàng. Có tiếng của Anna Pavlovna nói: - Được lắm, tôi xin anh chị ngồi với nhau trong cái góc âm cúng của anh chị. Ngồi đây hẳn anh chị thích lắm! Và Piotr lo sợ ôn lại trong trí nhớ xem nãy giờ mình có làm điều gì đáng chê trách không, chàng đỏ mặt và bàng hoàng đưa mắt nhìn quanh. Chàng có cái cảm giác là mọi người đều biết cái việc vừa xảy ra với chàng một cách tường tận chẳng kém gì mình. Một lát sau, khi nghe Piotr lại gần nhóm đông khách khứa đang nói chuyện, Anna Pavlovna hỏi chàng. - Nghe nói ông đang cho sửa sang lại tòa nhà của ông ở Petersburg cho đẹp phải không? (Đúng thế, viên kìến trúc sư có bảo rằng việc đó rất cần cho chàng, nên tuy chẳng hiểu đề làm gì, Piotr cũng cho tu sửa lại tòa nhà đồ sộ của chàng ở Peterburg). - Tốt đấy, nhưng ông cứ ở lại nhà công tước Bazil đã nhé. Có được một người bạn tốt như công tước thật là quý hóa lắm. Anna Pavlovna vừa nói vừa nhìn công tước Vaxili tủm tỉm: - Về mặt ấy tôi cũng có biết ít nhiều đấy phải không nào, vả lại ông còn trẻ quá. Ông cần có người khuyên bảo. Tôi sử dụng quyền hạn của một bà già như thế này ông đừng giận nhé - Anna Pavlovna im lặng một lát như đàn bà vẫn thường im lặng sau khi nói về tuổi tác của mình, để chờ đợi người nghe nói lại một cái gì - Nếu ông cưới vợ thì lại khác. - Và bà ta lần lượt nhìn Piotr và Elen như muốn ghép họ lại thành một. Piotr không nhìn sang Elen, và Elen cũng không nhìn chàng. Nhưng Piotr vẫn thấy nàng gần mình một cách đáng sợ. Chàng nói lúng búng một câu gì không rõ và đỏ mặt. Về đến nhà, Piotr nằm giờ lâu không ngủ được, cứ suy nghĩ về điều vừa xảy ra với chàng. Việc gì xảy ra thế nhỉ? Chả có việc gì cả. Chỉ có điều là chàng đã hiểu ra rằng người đàn bà mà chàng đã biết từ hồi chàng là một cậu bé, người mà mỗi khi nghe ai ca ngợi sắc đẹp chàng chỉ lơ đễnh trả lời: “Vâng, đẹp”, thì nay chàng đã hiểu rằng người đàn bà đó có thể thuộc về mình. “Nhưng cô ta đần, chính mình cũng vẫn nói rằng cô ta đần - Piotr nghĩ thầm - Trong cái cảm giác mà cô ta gây ra trong lòng mình, có một cái gì xấu xa, có một cái gì không phải ấy. Nghe nói em ruột cô ta là Anatol phải lòng cô ta, mà cô ta cũng cảm Anatol. Nghe đâu đây là cả một câu chuyện lôi thôi, và chính vì thế cho nên người ta mới phải cho Anatol đi nơi khác. Anh cô ta là Ippolit… Cha cô ta là công tước Vaxili… không tốt” - Chàng nghĩ: và trong khi suy luận như vậy (vả chăng những điều suy luận này cũng chỉ dở chừng) chàng bất chợt thấy mình đang mỉm cười và nhận ra rằng ở phía sau những suy luận này lại ló ra một loạt những suy luận khác, rằng mình đang cùng một lúc vừa nghĩ đến những cái xấu xa, vô vị của Elen, vừa mơ tưởng đến khi nàng là vợ mình, chàng mơ tưởng nàng có thể sẽ yêu mình, nàng có thể biến thành một người khác hẳn, rằng tất cả những điều mà chàng nghĩ và nghe nói về nàng đều có thể sai sự thật. Thế rồi chàng lại thấy nàng, không phải cô gái của công tước Vaxili, mà chàng thấy cả tấm thân của nàng chỉ che đậy sơ sài dưới làn áo màu xám. “Nhưng mà lạ, thế tại sao trước đây ta không hề thoáng có ý nghĩ này?” Và chàng lại tự nhủ rằng không thể như thế được, rằng có một cái gì xấu xa, trái tự nhiên, có một cái gì hình như không lương thiện trong cuộc hôn nhân này. Chàng sực nhớ đến những lời nói trước đây của nàng, và những lời lẽ, những cái nhìn của những người thấy họ đứng bên nhau. Chàng nhớ lại những lời lẽ, những cái nhìn của Anna Pavlovna khi bà ta nói với chàng về chuyện tòa nhà, nhớ lại hàng nghìn câu nói bóng gió xa xôi của công tước Vaxili và của những người khác nữa, và chàng đâm hoảng, không biết mình đã nhỡ mắc chân vào chuyện này chưa, không biết vừa qua mình có làm gì để đến nỗi bị trói buộc vào cái bổn phận phải làm một việc xem ra không được tốt, một việc mà đáng lẽ mình không được làm. Nhưng đồng thời, trong khi chàng tự quả quyết nói với mình là không được làm như vậy thì từ một góc cạnh khác của tâm hồn chàng lại hiện lên hình ảnh nàng, với tất cả sắc đẹp lộng lẫy của một người đàn bà. Chương 2 Đến tháng mười một năm 1805, công tước Vaxili sẽ đi kinh lý bốn tỉnh. Ông đã lo cho mình được cử đi kinh lý như vậy để nhân thể về các điển trang của ông đang lâm vào tình trạng bê trễ, sa sút. Ông cũng định đến nơi trú quân của trung đoàn Anatol tòng ngũ rồi đem con trai cùng đi đến nhà công tước Nikolai Andreyevich Bolkonxki để hỏi con gái của ông già giàu có này cho con mình. - Nhưng trước khi ra đi, và lo liệu những công việc mới này, công tước Vaxili cần phải giải quyết cho xong Piotr đã. Quả gần đây chàng ta ngồi cả ngày ở nhà - Tức là ở nhà công tước Vaxili, là nơi chàng trú ngụ, - Và những khi có mặt Elen thì chàng ta có vẻ xúc động, ngờ nghệch đến buồn cười (đúng như một kẻ si tình) nhưng vẫn chưa ngỏ ý cầu hôn gì cả. Một buổi sáng nọ công tước Vaxili tự nhủ. “Những cái đó đều rất hay ho, nhưng cũng phải chấm dứt đi thì vừa” - Và công tước buồn rầu thở dài, vì nhận thấy Piotr tuy chịu ơn mình là thế (chà, thôi cũng xin Chúa phù hộ cho anh ta) nhưng trong vlệc này thì lại cư xử chẳng được tốt là mấy. “Tuổi trẻ… nhẹ dạ, thôi cũng xin Chúa phù hộ anh ta, - Công tước Vaxili ngẫm nghĩ, lòng vui thích vì thấy mình thật là tốt bụng - nhưng việc này cũng phải chấm dứt đi thì vừa. Ngày kia là ngày lễ thánh của con Elen, ta sẽ mời mấy người đến, và nếu chàng ta không hiểu mình phải làm gì, thì đó sẽ là việc của ta. Phải, đó là việc của ta. Ta là một người cha kia mà!”. Một tháng rưỡi sau tối tiếp tân của Anna Pavlovna và cả đêm trằn trọc thao thức sau buổi tối ấy, cái đêm mà chàng nghĩ ra rằng lấy Elen quả là một điều bất hạnh, rằng mình phải đi nơi khác để xa lánh nàng, Piotr tuy nghĩ như vậy vẫn không đi khỏi nhà công tước Vaxili và kinh hãi cảm thây rằng trước mặt mọi người, càng ngày mối quan hệ giữa mình và Elen càng thêm khăng khít, rằng mình không tài nào có lại được cái nhìn trước kia đối với nàng, rằng thậm chí mình cũng không thể rứt nàng ra được, rằng như thế này thì rồi sẽ hết sức khủng khiếp, nhưng thế nào mình cũng buộc phải gắn bó số phận mình với nàng. Đáng lẽ chàng còn có thể gỡ được, nhưng không có ngày nào nhà công tước Vaxili (trước đây vốn ít tiếp khách) lại không tồ chức một buổi tối tiếp tân mà Piotr nhất thiết phải dự, nếu chàng không muốn phá cuộc vui chung và phụ lòng mong đợi của mọi người. Trong những giờ phút hiếm hoi mà công tước Vaxili ở nhà, thì khi đi ngang qua Piotr, ông thường nắm lấy tay chàng kéo thấp xuống, lơ đãng giơ cái má nhăn nheo cạo nhẵn cho chàng hôn rồi nói “đến mai nhé” hoặc “tôi ở lại nhà vì anh đấy” v.v… Nhưng mặc dầu khi công tước Vaxili ở lại nhà vì Piotr (như ông vẫn nói) ông không nói với chàng lấy một lời nào, Piotr vẫn cảm thấy mình không đủ sức phụ lòng mong đợi của ông ta. Ngày nào chàng cũng vẫn tự nói với mình có mỗi một điều rốt cuộc cũng phải hiểu nàng và nhận thức cho thật rõ: nàng là người như thế nào? Trước kia ta nhầm, hay là bây giờ ta nhầm? Không, nàng không phải là người đần độn; không, nàng là một người con gái rất tốt! - Thỉnh thoảng chàng lại nói với mình như vậy: “Chưa bao giờ thấy nàng nhầm lẫn điều gì, chưa bao giờ thấy nàng nói một câu khờ khạo. Nàng ít nói, nhưng những điều mà nàng nói ra đều giản dị và rõ ràng. Như vậy nàng không phải là người ngu ngốc. Chưa lần nào thấy nàng lúng túng, bao giờ cũng vậy. Thế nghĩa là nàng không phải người xấu!”. Nhiều khi trước mặt nàng, Piotr tự dưng suy nghĩ, nghĩ đến đâu nói ra đến đấy, mà cứ mỗi lần như vậy, nàng đều đáp lại hoặc bằng một lời nhận xét vắn tắt nhưng đúng chỗ, để tỏ ra rằng điều đó không liên quan gì đến nàng, hoặc im lặng mỉm cười và đưa mắt nhìn Piotr, và nụ cười, ánh mắt của nàng, hơn bất cứ cái gì khác, cho Piotr thấy rằng nàng hơn hẳn mình. Nàng nghĩ rất đúng, khi cho rằng tất cả những suy luận đều là chuyện vớ vẩn nếu so với nụ cưòi này bao giờ nói với chàng. Elen cũng có một nụ cười tươi vui, tin cậy chỉ dành cho mỗi mình chàng, trong đó có một cái gì có ý nghĩa hơn là trong cái nụ cười chung với mọi người luôn luôn tô điểm khuôn mặt nàng. Piotr biết rằng ai cũng chờ đợi chàng vượt qua một giới hạn nào đó, và chàng biết rằng sớm hay muộn rồi chàng cũng sẽ bước qua giới hạn này; nhưng chỉ nghĩ đến cái bước kinh khủng này thôi chàng cũng bỗng dưng cảm thấy một nỗi lo sợ không sao hiểu nổi. Trong khoảng một tháng rưỡi này, chàng tự thấy mình càng ngày càng bị quấn vào cái vực thẳm đáng sợ này, và đã hàng ngìn lần Piotr tự nhủ: “Ô cái gì thế này? Phải cương quyết chứ! Chả nhẽ không có nghị lực sao?”. Chàng muốn quyết định cho dứt khoát, nhưng lại kinh hãi cảm thấy rằng trong trường hợp này mình không có cái nghị lực mà chàng tưởng mình đã từng có và trước kia quả thật chàng đã từng có. Piotr vốn thuộc hạng người chỉ có sức mạnh khi cảm thấy mình hoàn toàn trong sạch. Từ ngày có cái cảm giác thèm muốn xâm chiếm lấy chàng bên chiếc hộp thuốc lá ở nhà Anna Pavlovna, cái cảm giác vô thức rằng mình phạm tội đã làm tê liệt nghị lực của chàng. Ngày lễ thánh của Elen chỉ có một nhóm nhỏ gồm những người bà con và bạn bè thân thiết nhất, như công tước phu nhân nói, đến ăn tối ở nhà công tước Vaxili. Người ta cho tất cả những người bà con và bạn bè này cảm thấy rằng ngày hôm đó sẽ định đoạt số phận của người được ăn mừng lễ thánh. Khách khứa ngồi vào bàn tiệc. Công tước phu nhân Kuraghina, một người béo phục phịch ngày xưa đã có thời nhan sắc, ngồi ở ghế chủ nhân. Hai bên là các vị thượng khách được trọng vọng nhất - một vị tướng già và phu nhân, Anna Pavlovna Serer, ở cuối bàn thì có các tân khách ít tuổi hơn và ít được trọng vọng hơn, cùng với những người trong nhà. Piotr và Elen ngồi cạnh nhau. Công tước Vaxili không ăn bữa tối; ông dạo quanh bàn tiệc vui vẻ xích ghế lại ngồi gần lại khi vị khách này, khi vị khách khác. Với mỗi người ông đều nói một lời bâng quơ nhã nhặn, chỉ trừ Piotr và Elen. Hình như ông không để ý rằng có hai người ngồi đây nữa. Công tước Vaxili làm cho mọi người thấy phấn chấn. Những ngọn nến sáp ong cháy sáng rực, những đồ dùng bằng bạc và bằng phalê, những món trang sức của phụ nữ, vàng và bạc trên tua vai các bộ quân phục sáng óng ánh. Các gia nhân mặc áo kaftan đỏ lăng xăng đi lại quanh bàn tiệc rộn ràng, những tiếng lách cách của dao, dĩa, cốc và tiếng nói chuyện rôm rả của mấy nhóm khách. Ở một phía bàn nghe rõ tiếng của một ông quan hầu cận già quả quyết thề với một bà nam tước già rằng mình yêu bà ta đắm đuối và tiếng cười của bà nam tước đáp lại; ở phía bên kia người ta đang kể một chuyện không may của một bà Maria Viktorovna nào đấy. Phía giữa bàn, công tước Vaxili tập hợp một số người nghe chuyện mình. Một nụ cười bỡn cợt trên môi công tước kể cho mấy bà khách nghe chuyện phiên họp vừa rồi - Hôm thứ tư - của hội đồng nội các. Trong phiên họp này viên tổng đốc quân sự mới bổ ở Peterburg là Xergey Kuzmits Vyazmitinov đã tiếp nhận và đem đọc một tờ chiếu rất nổi tiếng hồi bấy giờ của hoàng đế Alekxandr Pavlovich từ quân đội gửi về. Trong tờ chiếu dụ nhà vua viết cho Xergey Kuzmits có nói rằng từ khắp bốn phương người đã nhận được những kiến nghị của nhân dân tỏ lòng trung thành tận tuỵ, và riêng bản kiến nghị của thành Petersburg đã làm cho Người vui lòng nhất; Người lấy làm tự hào về cái vinh dự được đứng dầu một dân tộc như thế và sẽ cố gắng xứng đáng với vinh dự đó. Tờ chiếu bắt đầu bằng mấy chữ Xergey Kuzmits! Khắp bốn phương vẳng lại tin đồn rằng…
Chương 1
Công tước Vaxili không hề trù tính trước những kế hoạch của mình. Ông lại càng không nghĩ cách hại người để mưu lợi cho mình. Ông chỉ là một con người lịch duyệt ở đời, đã từng thành công trong giới xã giao và đã trót lấy việc thành công ấy làm một thói quen. Tuỳ theo từng hoàn cảnh và tuỳ theo những người ông tiếp xúc trong trí óc ông luôn luôn nảy ra những dự định, những điều suy tính mà chính ông cũng không có ý thức gì rõ rệt cho lắm, nhưng đó lại chính là tất cả hứng thú của dời ông. Trong đầu óc ông không phải chỉ có một kế hoạch hay một dự định, không phải chỉ có hai, mà có đến hàng chục, trong số đó có những kế hoạch đang bắt đầu có những kế hoạch đang hoàn thành, lại có những kế hoạch bị huỷ bỏ. Chẳng hạn ông không tự nhủ: “Tay này có thế lực đây, phải làm sao cho hắn tin ta, mến ta, để rồi nhờ hắn xin cho một khoản trợ cấp hoặc giả ông cũng không tự nhủ: “Bây giờ Piotr giàu rồi, ta phải dụ dỗ hắn lấy con gái ta và cho ta vay bốn vạn rúp mà ta đang cần”. Nhưng hễ gặp một người có thế lực, là lập tức bản năng của ông mách bảo ông rằng tay ấy có thể có ích, rồi công tước Vaxili sẽ làm quen, và thừa dịp đầu tiên, không hề chuẩn bị trước, chỉ do bản năng, ông sẽ nịnh hót, làm thân, nói những điều cần nói. Piotr bấy giờ đang ở Moskva, ngay trong tầm tay của công tước Vaxili, nên công tước liền lo cho chàng một chức phó thị tùng, - hồi đó cũng ngang với chức tư vấn quốc gia, và một mực mời chàng thanh niên lên Peterburg ghé lại nhà ông. Vởi cái dáng dường như lơ dễnh, nhưng đồng thời lại tin chắc rằng sự việc tất nhiên phải như vậy công tước Vaxili thu xếp mọi việc sao cho Piotr phải lấy con gái mình. Ví thử công tước có suy tính công việc từ trước, thì ông đã không sao có được cái vẻ tự nhiên như vậy trong khi giao thiệp và cái vẻ giản dị, thân mật như vậy trong khi đối xử với mọi người, cấp trên cũng như cấp dưới. Có một cái gì cứ luôn luôn thu hút ông ta lại gần những người có thế lực hơn và giàu có hơn ông, và ông bẩm sinh có cái tài nghệ hiếm có là biết chộp đúng cái mà mình cần và có thể lợi dụng người khác. Piotr đùng một cái đã nghiễm nhiên trở nên giàu có, và trở thành bá tước Bezukhov. Nếu trước đây ít lâu chàng hãy còn cô dộc và vô tư lự thì nay chàng lại cảm thấy mình được săn đón và bận rộn đến mức chỉ khi lên giường đi ngủ chàng mới thấy mình ngồi lại với riêng mình. Chàng phải ký giấy tờ, đi lại những công sở hành chính mà chàng chẳng hiểu là quan trọng như thế nào, hỏi han viên quản lý về việc này việc nọ, đạp xe đến điền trang ở ngoại thành Moskva và tiếp rất nhiều người, những người trước kia chẳng bao giờ thèm biết đến chàng, nhưng bây giờ nếu chàng không tiếp thì họ sẽ phiền lòng và tủi cực lắm. Tất cả những nhân vật thuộc đủ các hạng người ấy - những người thương nhân, họ hàng, quen thuộc - Tất cả đều có thái độ hòa nhã, dịu dàng như nhau đối với chàng bá tước trẻ tuổi vừa thừa hưởng gia tài, và hiền nhiên là tất cả những người đó đều tin là Piotr sẵn có những đức tính cao quý. Piotr luôn nghe họ nói: “Đã có lòng nhân từ hiếm có như ngài thì… Với tấm lòng vàng của ngài” hay “Thưa bá tước, ngài vốn có tấm lòng cao thượng như vậy…” hay “Giá ông ta cũng thông minh được như ngài thì…” v.v… Đến nỗi chàng bắt đầu thành thực tin rằng mình có một lòng tốt hiếm có và một trí tuệ phi thường, đã thế xưa nay trong thâm tâm chàng vẫn nghĩ mình là người rất tốt bụng và rất thông minh. Ngay cả những người trước kia độc ác và thù ghét chàng ra mặt thì nay cũng tỏ ra dịu dàng âu yếm. Trong ba nữ công tước, có cô chị cả lưng dài quá cỡ và tóc nhẵn như tóc búp bê, mới hồi nào còn giận dữ hằn học là thế mà nay, sau tang lễ bá tước cũng thân hành đến phòng Piotr. Mắt nhìn xuống và mặt luôn đỏ bừng lên, cô ta nói với Piotr rằng cô rất lấy làm tiếc về những sự hiểu lầm trước đây giữa hai người và bây giờ cô biết mình không có quyền cầu xin điều gì hết, có chăng cũng chỉ là xin phép Piotr, sau cái tang đau đớn này, cho cô ở thêm vài tuần trong ngôi nhà mà cô đã từng tha thiết yêu quý nơi cô ta đã từng hy sinh nhiều như vậy. Nói đến dây, công tước tiểu thư không cầm lòng được nữa, liền òa lên khóc. Cảm động vì thấy con người lạnh lùng như pho tượng kia mà lại có thể thay đổi đến thế, Piotr nắm lấy tay công tước tiểu thư mà xin lỗi, tuy cũng chẳng biết xin lỗi cái gì. Kể từ hôm ấy công tước tiểu thư bắt đầu đan cho Piotr một cái khăn quàng sọc và thay đổi hẳn thái độ đối với chàng. Một hôm công tước Vaxili đến nhờ Piotr ký giấy cấp một số tiền cho công tước tiểu thư và nói: - Anh giúp cô ấy một chút anh bạn ạ, dù sao thì cô ta cũng đã đau khổ nhiều vì người quá cố. Công tước Vaxili cho rằng dù sao cũng cần vứt mẩu xương thừa này - Một tờ ngân phiếu ba vạn rúp - Cho cô công tước tiểu thư khốn khổ kia, để cô ta dừng bao giờ bép xép về việc công tước Vaxili có dính líu đến vụ chiếc cặp da ghép nọ. Piotr ký tờ ngân phiếu, và từ dạo đó công tước tiểu thư lại càng hiền hậu hơn. Hai cô em cũng đối xử với Piotr dịu dàng hơn, nhất là cô em út, cái cô bé xinh xắn, có chiếc nốt ruồi, thường làm cho Piotr luống cuống vì những nụ cười và cái vẻ e thẹn của cô ta mỗi khi trông thấy chàng. Piotr vẫn nghĩ rằng ai cũng quí mến mình là lẽ dĩ nhiên và nếu có ai không quí mến mình thì đó thật là một điều vô lý, cho nên chàng không thể không tin ở lòng thành thực của những người xung quanh. Vả lại, chàng cũng chẳng có thì giờ tự hỏi xem họ có thành thực hay không nữa. Chàng luôn luôn bận bịu, luôn cảm thấy mình đang ở trong một trạng thái ngây ngất, nhẹ nhàng và vui vẻ. Chàng cảm thấy mình là trung tâm của một sự chuyển động rất quan trọng của mọi vật; chàng cảm thấy những người xung quanh luôn luôn mong đợi ở chàng một cái gì; rằng nếu chàng không làm việc gì đấy thì nhiều người sẽ buồn phiền và chàng sẽ phụ lòng mong đợi của họ, còn nếu chàng sẽ làm việc này việc kia, thì mọi việc sẽ êm đẹp - Cho nên họ đòi hỏi gì chàng cũng ưng thuận, nhưng sao mãi vẫn không thấy sự việc êm đẹp hơn. Trong thời gian đầu này, người bận tâm hơn cả về những công việc của Piotr cũng như về chính bản thân chàng chính là công tước Vaxili. Từ khi bá tước Bezukhov từ trần, ông chưa hề buông Piotr ra một phút. Công tước Vaxili có vẻ như một người tuy bận việc túi bụi, mệt nhọc, rã rời, nhưng vì ái ngại cho chàng quá, nên cuối cùng không nỡ bỏ mặc chàng thanh niên tội nghiệp kia cho số phận xoay vần và cho những kẻ bất lương lừa gạt, vì dù sao chàng cũng vẫn là con trai của bạn mình, và phải làm chủ một gia tài kếch xù như vậy. Trong mấy ngày còn ở Moskva sau khi bá tước Bezukhov chết, ông vẫn thường gọi Piotr lại gặp mình hay thân hành đến tìm Piotr, khuyên nhủ chàng làm những việc cần thiết, với một giọng nói mệt mỏi và quả quyết, có vẻ như cứ mỗi lần như vậy lại ngụ ý: “Anh cũng biết tôi bận trăm công nghìn việc và chẳng qua cũng vì thương tình mà tôi lo cho anh, vả chăng anh cũng thấy rõ ràng điều tôi bàn là cách duy nhất có thể làm được. - Này, Piotr ạ, đến mai ta đi chơi nhé, - Một hôm công tước Vaxili nói với Piotr như vậy, hai mắt nhắm lại, mấy ngón tay xoa xoa lên khuỷu tay Piotr, giọng nghe có vẻ như điều ông vừa nói đã được thỏa thuận từ đời nào giữa hai người, và không thể nào quyết định khác đi được. - Tôi rất mừng. Ở đây những việc quan trọng ta đã giải quyết xong xuôi cả rồi. Đáng lẽ tôi phải về từ lâu rồi kia. Đây, tôi vừa nhận được cái này của quan quốc vụ đại thần. Tôi có thỉnh cầu ông ta giúp anh, nên anh đã được sung vào ngoại giao đoàn và được bổ làm phó thị tùng. Bây giờ con đường ngoại giao đã mở ra trước mắt anh. Mặc dầu khi nói mấy lời này công tước vẫn dùng cái giọng mệt mỏi quả quyết rất có tác dụng của ông, Piotr là người bấy lâu vẫn suy nghĩ về tương lai của mình, cũng đã toan cãi lại. Nhưng công tước Vaxili liền ngắt lời bằng cái giọng rất trầm như tiếng rùng rục trong cổ chim bồ câu, cái giọng khiến cho người nghe không thể nào ngắt lời mà công tước chỉ dùng khi cần phải thuyết phục người ta cho kỳ được. - Nhưng anh bạn ạ, tôi làm việc này là làm cho tôi, cho lương tâm của tôi, chứ có gì đâu mà cảm ơn. Chưa bao giờ có ai đi than phiền rằng người ta quý mến mình quá; vả chăng anh vẫn tự do, ngày mai có muốn thôi chức cũng được kia mà. Rồi đến Peterburg tự anh sẽ thấy hết. Đáng lẽ anh phải đi cho xa những kỷ niệm khủng khiếp này từ lâu mới phải - Công tước Vaxili thở dài - Cứ thế nhé, Piotr nhé, xe của anh thì để cho tên hầu phòng của tôi đi cũng được. À phải! Tí nữa thì quên mất - công tước Vaxili lại nói thêm - Chắc anh biết rằng trước đây ông cụ thân sinh với tôi có giao dịch tiền nong, vì vậy tôi có thu mấy món ở đất Ryazan và sẽ giữ lại: nay anh không cần đến. Rồi ta sẽ thanh toán sau. - Cái mà công tước Vaxili gọi là “mấy món ở đất Ryazan” tức là mấy nghìn rúp địa tô mà ông ta giữ lại cho mình. Ở Peterburg, cũng giống như ở Maxkava, Piotr lại thấy cái không khí niềm nở của những con người vồ vập, thân thiện bao bọc quanh mình. Chàng không thể khước từ cái chức vụ, hay đúng hơn là cái tước vị (vì chàng chẳng làm gì cả) mà công tước Vaxili đã lo cho chàng, còn những người mới quen biết, những cuộc mời mọc, giao tiếp thì nhiều đến nỗi Piotr có cám giác rõ rệt hơn ở Moskva nữa, rằng xung quanh mình có một cái gì mơ hồ và vội vã, có một cái gì tốt lành đang sắp đến, nhưng mãi vẫn chưa thấy đâu cả. Trong số những bạn bè cũ chưa vợ của Piotr, nhiều người không còn ở Peterburg nữa. Quân cận vệ đã đi chiến dịch, Dolokhov đã bị giáng chức, Anatol thì nay đang tại ngũ ở thôn quê, công tước Andrey thì đang ở nước ngoài, cho nên Piotr không được vui chơi suốt dêm như ngày trước chàng vẫn thích, cũng không được thỉnh thoảng bộc lộ tâm sự với người bạn hơn tuổi mà chàng vẫn kính trọng. Tất cả thì giờ của chàng đều dành cho những bữa tiệc, những buổi khiêu vũ và chủ yếu là nhà công tước Vaxili cùng với bà vợ béo tốt của công tước và con gái của ông, nàng Elen xinh đẹp. Anna Pavlovna Serer, cũng như mọi người khác, cũng cho Piotr thấy rõ có sự thay đổi diễn ra trong cách nhìn của xã hội đối với chàng. Trước kia khi có mặt Anna Pavlovna, Piotr luôn cảm thấy những điều mình nói ra đều khiếm nhã, không lịch sự, không đúng chỗ; chàng thấy những lời mình tưởng là thông minh trong khi đang chuẩn bị sẵn trong trí óc, thì lại hóa ra ngớ ngẩn khi nói to lên, và trái lại, những lời lẽ đần độn nhất của Ippolit đều tỏ ra ý nhị và đáng yêu. Đến bây giờ thì dù chàng nói gì cũng thành ra thú vị cả. Dù Anna Pavlovna không nói ra như vậy đi nữa, thì chàng cũng thấy rằng phu nhân rất muốn nói điều đó ra, nhưng chẳng qua cũng vì tôn trọng tính khiêm tốn của chàng mà tránh nói đó thôi. Vào đầu mùa đông năm 1805 tiếp sang 1806, Piotr nhận được một tấm thiếp quen thuộc của Anna Pavlovna, dưới có chú ý thêm: “Đến nhà tôi ông sẽ gặp nàng Elen xinh đẹp, ngắm không bao giờ chán mắt”. Khi đọc đến câu này, Piotr lần đầu tiên bỗng cảm thấy giữa chàng và Elen đã hình thành một mối liên hệ nào đó được những người khác thừa nhận, và ý nghĩ này đồng thời khiến cho chàng kinh hãi, dường như chàng bắt đầu phải lĩnh một trách nhiệm mà mình không thể làm tròn, nhưng đồng thời cũng làm cho chàng thấy vui thích như một điều phỏng đoán ngộ nghĩnh. Buổi tiếp tân của Anna Pavlovna cũng giống như những buổi trước, chỉ có điều là món ăn mới lạ mà Anna Pavlovna đem thết tân khách hôm nay không phải là Montmorency nữa, mà là một nhà ngoại giao từ Berlin đến, mang theo những chi tiết mới nhất về việc vua Alekxandr ghé chân ở Potxdam và việc hai người bạn chí tôn đã thề sát cánh bên nhau bảo vệ chính nghĩa chống lại kẻ thù của nhân loại. Piotr được Anna Pavlovna ra đón tiếp với một vẻ buồn rầu, hẳn là vì nhớ đến sự tổn thất mà chàng thanh niên vừa phải chịu, vì cái chết của bá tước Bezukhov (mọi người đều một mực cho rằng mình có bổn phận phải giải quyết với Piotr là chàng rất đau buồn về cái chết của cha chàng, người mà chàng hầu như không biết), và cái vẻ buồn này cũng y hệt như cái vẻ buồn cao cả hiện lên mỗi khi nhắc đến đức hoàng thái hậu Maria Feodorovna. Điều này khiến Piotr cảm thấy hãnh diện. Với cái khéo léo thường có, Anna Pavlovna sắp xếp các nhóm nói chuyện trong phòng khách của mình. Một nhóm khá đông, gồm công tước Vaxili và mấy vị tướng, được nói chuyện với nhà ngoại giao. Một nhóm khác quây quần bên chiếc bàn trà nhỏ. Piotr muốn gia nhập nhóm thứ nhất, nhưng Anna Pavlovna, bấy giờ đang ở trong cái trạng thái khích động của một tướng lĩnh trên chiến trường, khi hàng nghìn sáng kiến mới mẻ và trác việt thi nhau xô đến, khiến người ta không kịp đem ra thi hành nữa; Trông thấy Piotr, bà liền lấy ngón tay chạm vào ống tay áo chàng. - Khoan, tối nay tôi đã nhắm trước cho ông rồi đấy! - Bà nhìn sang phía Elen và mỉm cười với nàng. - Cô Elen tốt bụng của tôi ơi, cô cần phải đoái thương đến bà dì tội nghiệp của tôi, là người vẫn rất hâm mộ cô. Xin cô đến với bà dì tôi mười phút cho có bạn. Và để cho cô đỡ buồn, đây có vị bá tước đáng mến sẽ vui lòng đến với cô. Mỹ nhân đi về phía bà dì, nhưng Piotr thì Anna Pavlovna vẫn giữ lại bên cạnh mình: phu nhân có vẻ như cần dặn dò chàng điều gì cần thiết một lần cuối cùng nữa. Anna Pavlovna chỉ người thiếu nữ trang trọng đang đi xa dần, bảo Piotr: - Cô ấy mới đẹp mê hồn phải không nào? - Mà cái dáng điệu mới thuyệt chứ? Một thiếu nữ ít tuổi như vậy thật là trang nhã, đi đứng thật là có nghệ thuật! Phải có một tấm lòng thật tốt mới có thể như vậy! Người nào sau này lấy được nàng thật là một người diễm phúc. Lấy nàng thì một người, chồng có kém lịch duyệt đến đâu cũng tự dưng có được một địa vị xuất sắc trong xã hội. Có phải không bá tước? Tôi chỉ muốn biết ý kiến của ông thôi, - rồi Anna Pavlovna để cho Piotr đi. Piotr thành thực gật đầu tán thành khi Anna Pavlovna hỏi chàng về cái nghệ thuật đi đứng của của Elen. Xưa nay nếu chàng có lúc nào nghĩ đến Elen thì cũng chính là nghĩ đến sắc đẹp của nàng và cái nghệ thuật đặc biệt giữ một phong thái trang trọng, ít nói, điềm tĩnh ở những nơi giao tiếp. Bà dì ngồi trong xó của mình tiếp hai người khách trẻ tuổi, nhưng hình như ba muốn che dấu lòng hâm mộ của mình đối với Anna Pavlovna nhiều hơn. Bà đưa mắt nhìn người cháu, dường như muốn hỏi xem mình phải nói năng như thế nào với hai người khách kia. Khi rời ba người, Anna Pavlovna lại lấy ngón tay chạm vào ống tay áo của Piotr mà nói: - Tôi hy lọng rằng ông sẽ không còn bảo là ở nhà tôi người ta phát chán nữa! - rồi phu nhân đưa mắt nhìn Elen. Elen mỉm cười dường như muốn nói rằng nàng không thể nào thừa nhận là trên đời này có ai nhìn thấy nàng mà lại không ngây ngất. Bà dì đằng hắng mấy tiếng, nuốt nước bọt rồi nói bằng tiếng Pháp rằng được gặp Elen bà rất lấy làm mừng; sau đó bà quay sang phía Piotr cũng với bộ mặt ấy và cũng nói những lời chào đón ấy. Giữa chừng câu chuyện vô vị và lủng củng với bà dì, Elen liếc nhìn Piotr mỉm cười với chàng, một nụ cười sáng sủa, xinh đẹp như nàng vẫn cười với mọi người. Piotr đã quá quen với nụ cười ấy, đối với chàng nó chẳng có ý nghĩa là bao, nên chàng không hề chú ý đến. Lúc đó bà dì đang nói về những chiếc hộp đựng thuốc lá mà tổ tiên cụ cố thân sinh của Piotr là bá tước Bezukhov đã sưu tập được, rồi đưa chiếc hộp của mình ra cho Piotr xem. Công tước tiểu thư Elen xin bà dì cho xem bức chân dung của chồng bà khắc vào nắp hộp. - Cái này chắc do Binex làm, - Piotr nói (Binex là tên một người làm chân dung thu nhỏ có tiếng). Chàng cúi mình trên bàn để cầm lấy chiếc hộp dựng thuốc lá, tai lắng nghe câu chuyện ở bàn bên kia. Chàng đứng dậy, định đi vòng đến lấy, nhưng bà dì đã đưa chiếc hộp vòng qua lưng Elen. Elen cúi mình về phía trước để cho rộng lối, và mỉm cười liếc nhìn ra sau. Cũng như trong mọi buổi dạ hội, Elen mặc một chiếc áo dài hở rất rộng ở phía trước ngực và phía lưng - theo thời trang hồi bấy giờ. Đôi vai của nàng mà trước nay Piotr vẫn có cảm giác là làm bằng cẩm thạch, bấy giờ ở gần sát mặt chàng đến nỗi đôi mắt cận thị của chàng bất giác trông thấy rõ cả làn da mơn mởn trên vai và cổ nàng, và gần kề môi chàng đến nỗi chàng chỉ cúi xuống một chút là sẽ chạm vào da nàng. Chàng cảm thấy hơi ấm của thân hình nàng, ngửi thấy mùi thơm của nước hoa và nghe thấy tiếng xát khẽ cúa chiếc coọc xê khi nàng cử động. - Cái mà chàng trông thấy không phải là cái vẻ đẹp như cẩm thạch của nàng, vốn gộp lại thành một bộ áo của nàng, chàng trông thấy và cảm thấy tất cả cái mỹ miều quyến rũ của tấm thân nàng dưới làn áo. Và khi đã thấy như vậy rồi thì chàng không thể nào thấy khác được nữa, cũng như một khi bị lầm và sau đó đã được biết rõ rồi thì ta không thể nào lại lầm như trước nữa. Cái nhìn của Elen như muốn nói: “Thế ra trước nay anh không thấy tôi đẹp sao? Anh không nhận thấy rằng tôi là một người đàn bà? Phải, tôi là một người đàn bà, có thể thuộc quyền sở hữu của một người đàn ông nào đấy, của anh cũng nên”. Và ngay phút ấy Piotr, chợt cảm thấy Elen không những có thể mà còn phải là vợ chàng, không thể nào khác thế được. Trong giây phút ấy chàng biết như vậy một cách chắc chắn không kém gì khi chàng sẽ đứng bên nàng trước bàn thờ hôn lễ. Bao giờ sẽ đến lúc ấy? Và lúc ấy sẽ ra sao? - Cái đó thì chàng không biết; chàng cũng không biết là như vậy có tốt hay không (thậm chí chàng còn cảm tưởng rằng như vậy không được tốt, chẳng hiểu tại sao), nhưng chàng biết rằng nhất định rồi sẽ đến lúc như vậy. Piotr cụp mắt xuống không nhìn nữa, rồi lại ngước mắt lên, muốn trông thấy nàng cũng xa lạ đối với chàng như mọi lần trước, nhưng không được. Chàng không sao thấy nàng xa lạ như vậy được nữa, cũng như một người nhìn vào sương mù thấy một ngọn cỏ mà cứ tưởng là một cái cây, rồi đến lúc nhận ra đây là một ngọn cỏ rồi, thì không thể nào thấy lại cái cây như trước nữa. Nàng đã có một quyền lực nào đối với chàng rồi. Và bây giờ giữa hai người đã không còn gì trở ngại ngoài ý muốn của bản thân chàng. Có tiếng của Anna Pavlovna nói: - Được lắm, tôi xin anh chị ngồi với nhau trong cái góc âm cúng của anh chị. Ngồi đây hẳn anh chị thích lắm! Và Piotr lo sợ ôn lại trong trí nhớ xem nãy giờ mình có làm điều gì đáng chê trách không, chàng đỏ mặt và bàng hoàng đưa mắt nhìn quanh. Chàng có cái cảm giác là mọi người đều biết cái việc vừa xảy ra với chàng một cách tường tận chẳng kém gì mình. Một lát sau, khi nghe Piotr lại gần nhóm đông khách khứa đang nói chuyện, Anna Pavlovna hỏi chàng. - Nghe nói ông đang cho sửa sang lại tòa nhà của ông ở Petersburg cho đẹp phải không? (Đúng thế, viên kìến trúc sư có bảo rằng việc đó rất cần cho chàng, nên tuy chẳng hiểu đề làm gì, Piotr cũng cho tu sửa lại tòa nhà đồ sộ của chàng ở Peterburg). - Tốt đấy, nhưng ông cứ ở lại nhà công tước Bazil đã nhé. Có được một người bạn tốt như công tước thật là quý hóa lắm. Anna Pavlovna vừa nói vừa nhìn công tước Vaxili tủm tỉm: - Về mặt ấy tôi cũng có biết ít nhiều đấy phải không nào, vả lại ông còn trẻ quá. Ông cần có người khuyên bảo. Tôi sử dụng quyền hạn của một bà già như thế này ông đừng giận nhé - Anna Pavlovna im lặng một lát như đàn bà vẫn thường im lặng sau khi nói về tuổi tác của mình, để chờ đợi người nghe nói lại một cái gì - Nếu ông cưới vợ thì lại khác. - Và bà ta lần lượt nhìn Piotr và Elen như muốn ghép họ lại thành một. Piotr không nhìn sang Elen, và Elen cũng không nhìn chàng. Nhưng Piotr vẫn thấy nàng gần mình một cách đáng sợ. Chàng nói lúng búng một câu gì không rõ và đỏ mặt. Về đến nhà, Piotr nằm giờ lâu không ngủ được, cứ suy nghĩ về điều vừa xảy ra với chàng. Việc gì xảy ra thế nhỉ? Chả có việc gì cả. Chỉ có điều là chàng đã hiểu ra rằng người đàn bà mà chàng đã biết từ hồi chàng là một cậu bé, người mà mỗi khi nghe ai ca ngợi sắc đẹp chàng chỉ lơ đễnh trả lời: “Vâng, đẹp”, thì nay chàng đã hiểu rằng người đàn bà đó có thể thuộc về mình. “Nhưng cô ta đần, chính mình cũng vẫn nói rằng cô ta đần - Piotr nghĩ thầm - Trong cái cảm giác mà cô ta gây ra trong lòng mình, có một cái gì xấu xa, có một cái gì không phải ấy. Nghe nói em ruột cô ta là Anatol phải lòng cô ta, mà cô ta cũng cảm Anatol. Nghe đâu đây là cả một câu chuyện lôi thôi, và chính vì thế cho nên người ta mới phải cho Anatol đi nơi khác. Anh cô ta là Ippolit… Cha cô ta là công tước Vaxili… không tốt” - Chàng nghĩ: và trong khi suy luận như vậy (vả chăng những điều suy luận này cũng chỉ dở chừng) chàng bất chợt thấy mình đang mỉm cười và nhận ra rằng ở phía sau những suy luận này lại ló ra một loạt những suy luận khác, rằng mình đang cùng một lúc vừa nghĩ đến những cái xấu xa, vô vị của Elen, vừa mơ tưởng đến khi nàng là vợ mình, chàng mơ tưởng nàng có thể sẽ yêu mình, nàng có thể biến thành một người khác hẳn, rằng tất cả những điều mà chàng nghĩ và nghe nói về nàng đều có thể sai sự thật. Thế rồi chàng lại thấy nàng, không phải cô gái của công tước Vaxili, mà chàng thấy cả tấm thân của nàng chỉ che đậy sơ sài dưới làn áo màu xám. “Nhưng mà lạ, thế tại sao trước đây ta không hề thoáng có ý nghĩ này?” Và chàng lại tự nhủ rằng không thể như thế được, rằng có một cái gì xấu xa, trái tự nhiên, có một cái gì hình như không lương thiện trong cuộc hôn nhân này. Chàng sực nhớ đến những lời nói trước đây của nàng, và những lời lẽ, những cái nhìn của những người thấy họ đứng bên nhau. Chàng nhớ lại những lời lẽ, những cái nhìn của Anna Pavlovna khi bà ta nói với chàng về chuyện tòa nhà, nhớ lại hàng nghìn câu nói bóng gió xa xôi của công tước Vaxili và của những người khác nữa, và chàng đâm hoảng, không biết mình đã nhỡ mắc chân vào chuyện này chưa, không biết vừa qua mình có làm gì để đến nỗi bị trói buộc vào cái bổn phận phải làm một việc xem ra không được tốt, một việc mà đáng lẽ mình không được làm. Nhưng đồng thời, trong khi chàng tự quả quyết nói với mình là không được làm như vậy thì từ một góc cạnh khác của tâm hồn chàng lại hiện lên hình ảnh nàng, với tất cả sắc đẹp lộng lẫy của một người đàn bà. Chương 2 Đến tháng mười một năm 1805, công tước Vaxili sẽ đi kinh lý bốn tỉnh. Ông đã lo cho mình được cử đi kinh lý như vậy để nhân thể về các điển trang của ông đang lâm vào tình trạng bê trễ, sa sút. Ông cũng định đến nơi trú quân của trung đoàn Anatol tòng ngũ rồi đem con trai cùng đi đến nhà công tước Nikolai Andreyevich Bolkonxki để hỏi con gái của ông già giàu có này cho con mình. - Nhưng trước khi ra đi, và lo liệu những công việc mới này, công tước Vaxili cần phải giải quyết cho xong Piotr đã. Quả gần đây chàng ta ngồi cả ngày ở nhà - Tức là ở nhà công tước Vaxili, là nơi chàng trú ngụ, - Và những khi có mặt Elen thì chàng ta có vẻ xúc động, ngờ nghệch đến buồn cười (đúng như một kẻ si tình) nhưng vẫn chưa ngỏ ý cầu hôn gì cả. Một buổi sáng nọ công tước Vaxili tự nhủ. “Những cái đó đều rất hay ho, nhưng cũng phải chấm dứt đi thì vừa” - Và công tước buồn rầu thở dài, vì nhận thấy Piotr tuy chịu ơn mình là thế (chà, thôi cũng xin Chúa phù hộ cho anh ta) nhưng trong vlệc này thì lại cư xử chẳng được tốt là mấy. “Tuổi trẻ… nhẹ dạ, thôi cũng xin Chúa phù hộ anh ta, - Công tước Vaxili ngẫm nghĩ, lòng vui thích vì thấy mình thật là tốt bụng - nhưng việc này cũng phải chấm dứt đi thì vừa. Ngày kia là ngày lễ thánh của con Elen, ta sẽ mời mấy người đến, và nếu chàng ta không hiểu mình phải làm gì, thì đó sẽ là việc của ta. Phải, đó là việc của ta. Ta là một người cha kia mà!”. Một tháng rưỡi sau tối tiếp tân của Anna Pavlovna và cả đêm trằn trọc thao thức sau buổi tối ấy, cái đêm mà chàng nghĩ ra rằng lấy Elen quả là một điều bất hạnh, rằng mình phải đi nơi khác để xa lánh nàng, Piotr tuy nghĩ như vậy vẫn không đi khỏi nhà công tước Vaxili và kinh hãi cảm thây rằng trước mặt mọi người, càng ngày mối quan hệ giữa mình và Elen càng thêm khăng khít, rằng mình không tài nào có lại được cái nhìn trước kia đối với nàng, rằng thậm chí mình cũng không thể rứt nàng ra được, rằng như thế này thì rồi sẽ hết sức khủng khiếp, nhưng thế nào mình cũng buộc phải gắn bó số phận mình với nàng. Đáng lẽ chàng còn có thể gỡ được, nhưng không có ngày nào nhà công tước Vaxili (trước đây vốn ít tiếp khách) lại không tồ chức một buổi tối tiếp tân mà Piotr nhất thiết phải dự, nếu chàng không muốn phá cuộc vui chung và phụ lòng mong đợi của mọi người. Trong những giờ phút hiếm hoi mà công tước Vaxili ở nhà, thì khi đi ngang qua Piotr, ông thường nắm lấy tay chàng kéo thấp xuống, lơ đãng giơ cái má nhăn nheo cạo nhẵn cho chàng hôn rồi nói “đến mai nhé” hoặc “tôi ở lại nhà vì anh đấy” v.v… Nhưng mặc dầu khi công tước Vaxili ở lại nhà vì Piotr (như ông vẫn nói) ông không nói với chàng lấy một lời nào, Piotr vẫn cảm thấy mình không đủ sức phụ lòng mong đợi của ông ta. Ngày nào chàng cũng vẫn tự nói với mình có mỗi một điều rốt cuộc cũng phải hiểu nàng và nhận thức cho thật rõ: nàng là người như thế nào? Trước kia ta nhầm, hay là bây giờ ta nhầm? Không, nàng không phải là người đần độn; không, nàng là một người con gái rất tốt! - Thỉnh thoảng chàng lại nói với mình như vậy: “Chưa bao giờ thấy nàng nhầm lẫn điều gì, chưa bao giờ thấy nàng nói một câu khờ khạo. Nàng ít nói, nhưng những điều mà nàng nói ra đều giản dị và rõ ràng. Như vậy nàng không phải là người ngu ngốc. Chưa lần nào thấy nàng lúng túng, bao giờ cũng vậy. Thế nghĩa là nàng không phải người xấu!”. Nhiều khi trước mặt nàng, Piotr tự dưng suy nghĩ, nghĩ đến đâu nói ra đến đấy, mà cứ mỗi lần như vậy, nàng đều đáp lại hoặc bằng một lời nhận xét vắn tắt nhưng đúng chỗ, để tỏ ra rằng điều đó không liên quan gì đến nàng, hoặc im lặng mỉm cười và đưa mắt nhìn Piotr, và nụ cười, ánh mắt của nàng, hơn bất cứ cái gì khác, cho Piotr thấy rằng nàng hơn hẳn mình. Nàng nghĩ rất đúng, khi cho rằng tất cả những suy luận đều là chuyện vớ vẩn nếu so với nụ cưòi này bao giờ nói với chàng. Elen cũng có một nụ cười tươi vui, tin cậy chỉ dành cho mỗi mình chàng, trong đó có một cái gì có ý nghĩa hơn là trong cái nụ cười chung với mọi người luôn luôn tô điểm khuôn mặt nàng. Piotr biết rằng ai cũng chờ đợi chàng vượt qua một giới hạn nào đó, và chàng biết rằng sớm hay muộn rồi chàng cũng sẽ bước qua giới hạn này; nhưng chỉ nghĩ đến cái bước kinh khủng này thôi chàng cũng bỗng dưng cảm thấy một nỗi lo sợ không sao hiểu nổi. Trong khoảng một tháng rưỡi này, chàng tự thấy mình càng ngày càng bị quấn vào cái vực thẳm đáng sợ này, và đã hàng ngìn lần Piotr tự nhủ: “Ô cái gì thế này? Phải cương quyết chứ! Chả nhẽ không có nghị lực sao?”. Chàng muốn quyết định cho dứt khoát, nhưng lại kinh hãi cảm thấy rằng trong trường hợp này mình không có cái nghị lực mà chàng tưởng mình đã từng có và trước kia quả thật chàng đã từng có. Piotr vốn thuộc hạng người chỉ có sức mạnh khi cảm thấy mình hoàn toàn trong sạch. Từ ngày có cái cảm giác thèm muốn xâm chiếm lấy chàng bên chiếc hộp thuốc lá ở nhà Anna Pavlovna, cái cảm giác vô thức rằng mình phạm tội đã làm tê liệt nghị lực của chàng. Ngày lễ thánh của Elen chỉ có một nhóm nhỏ gồm những người bà con và bạn bè thân thiết nhất, như công tước phu nhân nói, đến ăn tối ở nhà công tước Vaxili. Người ta cho tất cả những người bà con và bạn bè này cảm thấy rằng ngày hôm đó sẽ định đoạt số phận của người được ăn mừng lễ thánh. Khách khứa ngồi vào bàn tiệc. Công tước phu nhân Kuraghina, một người béo phục phịch ngày xưa đã có thời nhan sắc, ngồi ở ghế chủ nhân. Hai bên là các vị thượng khách được trọng vọng nhất - một vị tướng già và phu nhân, Anna Pavlovna Serer, ở cuối bàn thì có các tân khách ít tuổi hơn và ít được trọng vọng hơn, cùng với những người trong nhà. Piotr và Elen ngồi cạnh nhau. Công tước Vaxili không ăn bữa tối; ông dạo quanh bàn tiệc vui vẻ xích ghế lại ngồi gần lại khi vị khách này, khi vị khách khác. Với mỗi người ông đều nói một lời bâng quơ nhã nhặn, chỉ trừ Piotr và Elen. Hình như ông không để ý rằng có hai người ngồi đây nữa. Công tước Vaxili làm cho mọi người thấy phấn chấn. Những ngọn nến sáp ong cháy sáng rực, những đồ dùng bằng bạc và bằng phalê, những món trang sức của phụ nữ, vàng và bạc trên tua vai các bộ quân phục sáng óng ánh. Các gia nhân mặc áo kaftan đỏ lăng xăng đi lại quanh bàn tiệc rộn ràng, những tiếng lách cách của dao, dĩa, cốc và tiếng nói chuyện rôm rả của mấy nhóm khách. Ở một phía bàn nghe rõ tiếng của một ông quan hầu cận già quả quyết thề với một bà nam tước già rằng mình yêu bà ta đắm đuối và tiếng cười của bà nam tước đáp lại; ở phía bên kia người ta đang kể một chuyện không may của một bà Maria Viktorovna nào đấy. Phía giữa bàn, công tước Vaxili tập hợp một số người nghe chuyện mình. Một nụ cười bỡn cợt trên môi công tước kể cho mấy bà khách nghe chuyện phiên họp vừa rồi - Hôm thứ tư - của hội đồng nội các. Trong phiên họp này viên tổng đốc quân sự mới bổ ở Peterburg là Xergey Kuzmits Vyazmitinov đã tiếp nhận và đem đọc một tờ chiếu rất nổi tiếng hồi bấy giờ của hoàng đế Alekxandr Pavlovich từ quân đội gửi về. Trong tờ chiếu dụ nhà vua viết cho Xergey Kuzmits có nói rằng từ khắp bốn phương người đã nhận được những kiến nghị của nhân dân tỏ lòng trung thành tận tuỵ, và riêng bản kiến nghị của thành Petersburg đã làm cho Người vui lòng nhất; Người lấy làm tự hào về cái vinh dự được đứng dầu một dân tộc như thế và sẽ cố gắng xứng đáng với vinh dự đó. Tờ chiếu bắt đầu bằng mấy chữ Xergey Kuzmits! Khắp bốn phương vẳng lại tin đồn rằng…
- Thế rồi ông ta đọc không quá mấy chữ Xergey Kuzmits phải
không? - một bà khách hỏi. - Phải, phải, không đọc quá lấy được một câu nào, -
công tước Vaxili cười xòa đáp - “Xergey Kuzmits… khắp bốn phương. Khắp bốn
phương Xergey Kuzmits… “, cái ông Vyazmitinov tội nghiệp ấy không tài nào đọc
tiếp được nữa. Mấy lần ông đã cố gắng bắt đầu đọc lại nhưng vừa mới đọc chữ
Xergey… thì nấc lên… Kh… - … mits… rồi thút thít mà mấy chữ khắp bốn phương cứ
nghẹn ngào đi thành tiếng khóc nức nở, thế là ông ta không sao đọc tiếp được. Lại
lấy khăn mùi soa, lại “Xergey Kuzmits khắp bốn phương” rồi lại khóc… thành thử
phải chuyển cho người khác đọc. - Kuzmits… khắp bốn phương… rồi khóc - có tiếng
ai vừa lặp lại vừa cười lớn. - Công tước không được ác đấy, - Ana Pavlovna từ
cuối bàn bên kia nói vọng sang, đưa ngón tay lên dọa - Ông Vyazmitinov của
chúng ta là người hiền lành mà tốt bụng lắm đấy. Mọi người đều cười rất to. Ở đầu
bàn đặt các ghế danh dự hình như ai nấy đều vui và đang sống qua những tâm trạng
hân hoan bồng bột rất khác nhau: Chỉ có Piotr và Elen là im lặng ngồi cạnh nhau
ở gần cuối bàn, trên gương mặt hai người đọng lại một nụ cười tươi roi rói
không có liên quan gì đến Xergey Kuzmits - Nụ cười e thẹn trước những cảm xúc của
mình. Dù những người khác có nói cười đùa bỡn thế nào chăng nữa, dù họ có ăn
các món xào và món kem, uống rượu sông Ranh hết sức ngon lành, dù họ có tránh
nhìn đôi trai gái, cố làm ra vẻ thản nhiên không chú ý tới hai người, không
hicu tại sao, qua những cái nhìn mà tân khách thỉnh thoảng lại ném về phía họ,
người ta vẫn cảm thấy rằng cả mẩu giai thoại về Xergey Kuzmits, cả tiếng cười,
cả các món ăn - tất cả đều là vờ vĩnh và tất cả sức chú ý của đám người ấy chỉ
dồn vào đôi trai gái này: Piotr và Elen. Công tước Vaxili nhại lại tiếng khóc
thút thít của Xergey Kuzmits và trong khi đó lại liếc nhìn con gái một cái; và
trong khi ông cười, vẻ mặt của ông lại nói: “Thế, thế, cứ thế là ồn cả đấy; hôm
nay mọi việc sẽ được quyết định”. Anna Pavlovna giơ ngón tay lên dọa ra điều
bênh vực ông Vyazmitinov tốt bụng của chúng ta, nhưng trong đôi mắt long lanh của
bà ta bấy giờ đang liếc nhanh về phía Piotr: công tước Vaxili đọc thấy một lời
mừng ông ta sắp có rể mới và mừng cho hạnh phúc của cô con gái. Trong khi lão
công tước phu nhăn vừa buồn rầu thở dài vừa chuốc rượu cho bà khách ngồi bên cạnh
và đưa mắt lườm con gái, thì tiếng thở dài của phu nhân như muốn nói: “Phải,
như chúng mình thì bây giờ chẳng còn biết làm gì hơn là uống rượu ngọt nữa bà bạn
ạ; bây giờ đã đến lúc bọn trẻ ấy nó hưởng hạnh phúc một cách ngang nhiên, tựa hồ
như khiêu khích thế đấy”. Và nhà ngoại giao nhìn khuôn mặt hớn, hở của đôi trai
gái, cũng tự nhủ: “Những điều mình kể nó ngu xuẩn biết chừng nào; cứ như là
mình thích thú những chuyện đó lắm ấy. Như thế kia mới là hạnh phúc!”. Ở giữa
những hứng thú nhỏ nhen, ti tiện, giả tạo liên kết đám người này lại với nhau,
nổi bật lên cái tình cảm đơn giản của đôi nam nữ trẻ đẹp và mạnh khỏe vươn lại
gần nhau. Và cái cảm xúc rất người này lấn át tất cả và trội hẳn lên trên những
mẩu chuyện vặt vãnh gượng gạo của đám khách. Những câu bông đùa đều nhạt nhẽo,
những tin tức thuật lại đều vô vị, vẻ hồ hởi thì chắc hẳn là giả tạo. Không phải
chỉ có khách khứa, mà ngay cả những người đầy tớ hầu bàn hình như cũng cảm thấy
điều đó và có lúc quên cả việc hầu hạ khi liếc nhìn vào nàng Elen xinh đẹp với
gương mặt rạng rỡ của nàng, và vào khuôn mặt béo tốt, đỏ gay, vừa sung sướng vừa
lo lắng của Piotr. Người ta tưởng chừng như cả ánh đèn nến nữa cũng chỉ quy tụ
vào hai khuôn mặt tràn đầy hạnh phúc này. Piotr cảm thấy mình là trung tâm của
mọi vật và tình cảm đó vừa làm cho chàng thấy vui sướng lại vừa làm cho chàng
ngượng nghịu. Chàng đang ở vào tâm trạng của một người mải vùi dầu vào công việc
gì. Chàng không thấy, không hiểu và không nghe gì rõ rệt cả. Chỉ thỉnh thoảng đột
nhiên mới có những ý nghĩ đứt quãng, những ấn tượng của thực tế loáng thoáng
trong tâm hồn chàng. “Thế là xong xuôi cả rồi đấy!” - Chàng nghĩ - Sự việc xảy
ra thế nào nhỉ? Nhanh quá! Bấy giờ ta biết rằng không phải chỉ riêng đối với
nàng, không phái chỉ riêng đối với ta, mà đối với tất cả mọi người việc đó tất
nhiên thế nào cũng thành. Tất cả bọn họ đều chờ mong việc đó, đều tin chắc sẽ
là như vậy, đến nỗi ta không thể, không thể nào phụ lòng họ được nữa. Nhưng cơ
sự sẽ diễn ra như thế nào? Ta không biết; chỉ biết là sẽ như thế, nhất định sẽ
như thế!” - Piotr vừa nghĩ vừa nhìn đôi vai lộng lẫy ngay sát mặt chàng. Có lúc
chàng bỗng thấy hổ thẹn như thế nào ấy. Chàng thấy ngượng vì một mình mà khiến
mọi người phải chú ý, vì trước mặt những người khác, mình là một anh chàng tốt
số, vì mặt mũi mình xấu xí thế này mà mình lại đâm ra thành một chàng Parix
[66] , làm chủ được nàng Elen kiều diễm. “Nhưng chắc là xưa nay vẫn thế thôi,
và cần phải như thế mới được. - chàng tự an ủi - Vả lại mình có làm gì để được
như thế đâu? Sự thể bắt đầu từ lúc nào nhỉ? Mình cùng đi từ Moskva về đây với
công tước Vaxili. Đến đây chưa hề có gì cả. Sau nữa việc mình ở lại nhà công tước
Vaxili có gì là lạ? Rồi mình đánh bài với nàng, và nhặt chiếc túi thêu nàng
đánh rơi, rồi ngồi xe đi dạo với nàng. Thế là cái đó bắt đầu từ lúc nào? Tất cả
cơ sự này có lúc nào?” Và thế là tối nay chàng đã ngồi bên nàng với tư cách một
người chồng chưa cưới, chàng nghe thấy, trông thấy, cảm thấy sự gần gũi của
nàng, hơi thở, cử động, nhan sắc của nàng. Có khi chàng lại bỗng dưng có cảm
giác là không phải vì nàng: chính vì chàng, vì chàng đẹp một cách phi thường,
cho nên người ta mới nhìn chàng như thế và bỗng thấy sung sướng vì đã khiến mọi
người thán phục, chàng ưỡn ngực, cất cao đầu lên và mừng rỡ hưởng lấy cái hạnh
phúc của minh. Bỗng có tiếng nói, một giọng nói của ai nghe quen quen, nhắc lại
lần nữa với chàng một câu gì đấy. Nhưng Piotr đang bận tâm đến nỗi không hiểu
người ta nói gì với mình. - Tôi muốn hỏi anh xem anh nhận được bức thư của
Bolkonxki hôm nào, - Công tước Vaxili nhắc lại lần thứ ba - Anh đãng trí quá
anh bạn ạ. Công tước Vaxili mỉm cười và Piotr nhận thấy mọi người đang nhìn
chàng và Elen mỉm cười, “Thôi được, nếu các người biết cả rồi thì thôi cũng được”
- Piotr nghĩ thầm - Vả chăng cũng đúng thế đấy và chàng mỉm cười, cái nụ cười
hiền lành, trẻ con của chàng, và Elen cũng mỉm cười theo. - Anh nhận được thư ấy
bao giờ thế? Ở Olmuytx gửi về à? - công tước Vaxili hỏi lại làm như thể ông ta
có biết việc này thì mới giải quyết được vấn đề. “Sao có thể nghĩ và nói tới những
chuyện vặt ấy nhỉ?” - Piotr nghĩ thầm. - Phải từ Olmuytx gửi về - Chàng thở dài
đáp. Ở bàn tiệc đứng dậy, Piotr dẫn cô bạn theo mọi người vào phòng khách. Các
tân khách bắt đầu ra về với mấy người không chào Elen. Dường như vì không muốn
phiền nàng trong khi nàng đang bận một việc quan trọng, một vài người khách chỉ
đến gặp nàng một phút rồi bỏ đi ngay, nhất định không cho nàng ra tiễn chân.
Nhà ngoại giao buồn rầu lặng lẽ ra khỏi phòng khách. Ông ta thấy hết cái vô
nghĩa của sự nghiệp ngoại giao của mình so với hạnh phúc của Piotr. Vị tướng
già gắt bà vợ của ông khi bà ta hỏi thăm xem cái chân của ông có đau không.
“Chà, cái con mụ ngốc này nữa” - vị tướng nghĩ - Như cô Elen Vaxilievna kia thì
đến năm mươi tuổi vẫn cứ đẹp như thường. - Hình như tôi có thể mừng phu nhân rồi
thì phải, - Anna Pavlovna nói thầm với công tước phu nhân và ôm bà ta hôn thật
mạnh - giá tôi không bị nhức đầu thì thế nào cũng xin ở lại. Công tước phu nhân
không đáp; bà ta đang mải ganh tị với hạnh phúc của con gái. Trong khi hai vợ
chồng công tước Vaxili tiễn khách ra về, Piotr ngồi một mình rất lâu với Elen
trong gian phòng khách nhỏ, trong khoảng một tháng rưỡi nay Piotr cũng đã có
nhiều lần ngồi một mình với Elen, nhưng chưa bao giờ nói chuyện yêu đương với
nàng. Bây giờ chàng cảm thấy cần phải nói chuyện ấy mới xong, nhưng chàng không
tài nào dám bước cái bước cuối cùng này. Chàng thấy xấu hổ quá; chàng có cảm
giác là nơi đây, bên cạnh Elen mình đang chiếm chỗ của một người nào khác. “Hạnh
phúc này không phải giành cho anh - có một tiếng nói đâu từ bên trong bảo chàng
như vậy - Hạnh phúc này là dành cho những người không có những điều có trong
anh”. Nhưng đằng nào thì cũng phải có một cái gì, và chàng bắt đầu nói. Chàng hỏi
nàng có hài lòng về buổi tối hôm nay không. Cũng như thường lệ, nàng trả lời giản
dị rằng ngày lễ thánh hôm nay là một trong những ngày lễ thánh làm cho nàng vui
thích nhất. Trong số những người bà con thân thuộc hãy còn một vài người ở lại.
Họ ngồi trong gian phòng khách lớn. Công tước Vaxili uể oải bước lại gần Piotr.
Piotr đứng dậy nói rằng bây giờ đã muộn. Công tước Vaxili nhìn Piotr một cách
nghiêm nghị và có ý dò hỏi, dường như điều mà chàng vừa nói ra nó kỳ lạ đến nỗi
khó lòng nghe ra được. Nhưng ngay sau đó vẻ nghiêm nghị biến mất, công tước
Vaxili cầm tay Piotr kéo chàng ngồi xuống và dịu dàng mỉm cười. - Thế nào đây
Elen? - Ông lập tức quay sang con gái nói với cái giọng lơ đễnh, âu yếm một
cách tự nhiên của những bậc cha mẹ đã quen âu yếm con từ thuở bé, nhưng công tước
Vaxili có cái giọng này chỉ là nhờ bắt chước các bậc cha mẹ khác mà thôi. Rồi
công tước lại quay về phía Piotr. - Xergey Kuzmits… khắp bốn phương - ông vừa
nói vừa cởi khuy cổ áo gi-lê. Piotr mỉm cười, nhưng cứ trông nụ cười của chàng
cũng có thể biết chàng hiểu rằng lúc này mẩu giai thoại về Xergey Kuzmits không
phải là kiểu mà công tước Vaxili chú ý; và công tước Vaxili cũng hiểu rằng
Piotr đã hiểu rõ điều đó. Công tước bỗng lẩm bẩm mấy tiếng rồi đứng dậy bỏ ra
ngoài. Thậm chí Piotr còn có cảm giác là công tước Vaxili luống cuống. Cái vẻ
luống cuống ở một con người thông thạo già đời trên đường giao tế như công tước
Vaxili khiến Piotr xúc động; chàng đưa mắt nhìn Elen - hình như nàng cũng luống
cuống, mắt nàng như muốn nói: “Đấy, tại anh cả đấy”. “Thế nào cũng phải bước
qua giới hạn, nhưng không sao bước được” - Piotr nghĩ, và chàng lại bắt đầu nói
những chuyện ở đâu đâu về Xergey Kuzmits, chàng hỏi xem câu chuyện ấy đầu đuôi
thế nào, vì lúc nãy chàng không nghe rõ. Elen mỉm cười đáp rằng mình cũng không
biết nốt. Khi công tước Vaxili đi vào phòng khách, công tước phu nhân đang nói
chuyện nhỏ nhẻ với một bà có tuồi về Piotr. - Cố nhiên đây là một đám rất khá,
nhưng bà ạ, hạnh phúc… ! - Các cuộc hôn nhân đều do trời định cả - Bà có tuổi
đáp. Công tước Vaxili làm ra vẻ như không nghe thấy câu chuyện của hai bà, tiếp
tục đi quá đến một góc cách đấy khá xa rồi ngồi xuống một chiếc đi văng. Công
tước nhắm mắt lại, tựa hồ như đang thiu thiu ngủ. Đầu công tước gật một cái, và
công tước bừng tỉnh. - Alin - Công tước bảo vợ, Bà vào xem hai đứa đó đang làm
gì trong ấy? Công tước phu nhân lại gần cửa phòng khách nhỏ, làm ra vẻ quan trọng
và thản nhiên đi ngang qua cánh cửa và liếc nhìn vào phòng. Piotr và Elen vẫn
ngồi như cũ và đang nói chuyện. - Vẫn cứ thế, - công tước phu nhân bảo chồng.
Công tước Vaxili cau mày, một bên mép trễ xuống, má công tước giật giật khiến
cho nét mặt ông ta lại có vẻ khó chịu, thô bỉ rất đặc biệt. Công tước xốc áo đứng
dậy và bước quả quyết đi qua hai ngườì đàn bà, về phía phòng khách nhỏ. Công tước
nhanh nhẹn, vui vẻ tiến đến gần Piotr. Gương mặt công tước có vẻ trang trọng
khác thường đến nỗi trông thấy ông, Piotr sợ hãi vội vàng đứng dậy. - Lạy Chúa!
- Công tước Vaxili nói - Nhà tôi đã nói cho tôi biết cả rồi! - Một tay công tước
ôm lấy Piotr, tay kia ôm lấy con gái. - Elen, con! Ba rất mừng, rất mừng. - Giọng
nói công tước run run - Tôi ngày trước rất quý ba anh… Con tôi cũng sẽ là một
người vợ hiền của anh… Cầu Chúa ban phúc cho hai con… Công tước ôm hôn con gái,
rồi lại ôm Piotr, chìa đôi môi cằn cỗi ra hôn chàng. Những giọt nước mắt thật
chảy ướt cả hai má công tước Vaxili. - Mình ơi, vào đây - Công tước gọi to.
Công tước phu nhân vào, và cũng khóc òa lên. Bà khách có tuổi cũng lấy khăn tay
chấm lên mắt. Họ ôm hôn Piotr, và chàng hôn tay nàng Elen xinh đẹp mấy lần. Một
lát sau họ lại lui ra đề cho hai người ở lại một mình với nhau. “Tất cả đều phải
như thế, và không thể nào khác đi được - Piotr nghĩ thầm, - Vì vậy không việc
gì phải hỏi xem việc này tốt hay không tốt. Tốt là vì nó đã rõ ràng và sự phân
vân trước đây vẫn giày vò mình nay đã mất”. Piotr im lặng cầm tay vị hôn thế của
mình và ngắm bộ ngực đẹp đẽ của nàng đang phập phồng nâng lên hạ xuống. Elen! -
chàng nói to, rồi ngừng lại. Chàng nghĩ bụng: “Trong những trường hợp như thế
này người ta thường nói một cái gì đặc biệt lắm đây”; nhưng chàng không tài nào
nhớ được cụ thể người ta thường nói gì trong những trường hợp này. Chàng nhìn
thẳng vào mặt nàng. Nàng dịch lại gần chàng hơn nữa. Mặt nàng đỏ ửng. - Ồ anh cất
cái đôi… đôi gì ấy đi… - nàng chỉ vào cặp kính. Piotr cất kính, và đôi mắt
chàng, ngoài cái vẻ lạ lùng thường thấy ở mặt những người vừa cất kính, còn có
một vẻ gì hoảng sợ và băn khoăn, giương lên nhìn có ý dò hỏi. Chàng muốn cúi xuống
hôn bàn tay nàng; nhưng nàng đã nhanh nhẹn và thô bạo đưa mặt ra phía trước đón
lấy môi chàng và gắn môi mình vào. Gương mặt của nàng biến sắc, có vẻ thảng thốt
một cách khó chịu khiến chàng kinh ngạc. “Bây giờ muộn rồi, mọi việc đều xong
xuôi cả rồi; vả chăng ta cũng yêu nàng” - Piotr nghĩ. - Tôi yêu cô! - Chàng
nói, vừa sực nhớ ra cái câu cần phải nói trong những trường hợp như thế này,
nhưng mấy tiếng ấy chàng nói nghe nó nhạt nhẽo đến nỗi chàng phải tự thấy xấu hổ.
Chú thích: Chương 3 Tháng chạp năm 1805 lão công tước Nikolai Andreyevich nhận
được một bức thư của công tước Vaxili báo tin rằng mình sẽ cùng con trai ghé
thăm ông. “Tôi đang đi kinh lý, và dĩ nhiên là không ngại dường xa trăm dặm đến
thăm ngài: người ân nhân tôi rất mực tôn kính, - Công tước Vaxili viết, - Cháu
Anatol cùng đi với tôi, rồi sau đó sẽ đến doanh trại; và tôi hy vọng rằng ngài
sẽ cho phép cháu nó được bày tỏ lòng tôn kính sâu sắc đối với ngài, lòng tôn
kính mà nó đã học được ở tôi”. Nghe tin này, công tước phu nhân Liza buột miệng
nói: - Đấy thế là chẳng cần đem Maria đi đâu các chú rể tự dấn thân đến nhà ta
đấy thôi. Công tước Nikolai Andreyevich cau mày im lặng. Hai tuần sau hôm nhận
được bức thư, một buổi tối có người nhà của công tước Vaxili đến trước, và hôm
sau đến lượt công tước Vaxili cùng đến với con trai. Lão công tước Bolkonxki
xưa nay vốn không bao giờ trọng nể cái nhân cách của công tước Vaxili, nhất là
gần đây dưới hai triều Pavel và Alekxandr công tước đã được thăng trật và ngày
càng tiến bước trên con đường quyền cao chức trọng, thì lão công tước Bolkonxki
lại càng kém trọng nể ông ta. Nay, theo những lời ám chỉ trong bức thư và câu
nói của công tước phu nhân nhỏ nhắn, lão công tước đã hiểu mục đích cuộc thăm hỏi
này, và tâm hồn ông từ chỗ ít trọng nể đã chuyển sang thái độ khinh thị đầy ác
cảm. Ông cứ thở phì phì mỗi khi nói đến công tước Vaxili. Hôm công tước Vaxili
đến, ông có vẻ bực mình và cáu gắt lạ thường. Không biết ông cáu gắt như vậy là
vì sắp có công tước Vaxili đến, hay là vì ông đang cáu gắt, chỉ biết là ông
đang cáu gắt thôi, và Tikhôn từ sáng đã khuyên ông kiến trúc sư đừng vào gặp
lão công tước để báo cáo công việc nữa. - Đấy ông có nghe thấy công tước đi
không? - Tikhôn nói, nhắc viên kiến trúc sư lưu ý đến tiếng chân bước của công
tước trong phòng làm việc. - Ngài đang nện gót chân xuống sàn đấy; Chúng tôi biết
ngay là có chuyện. Song cũng như thường lệ, đến tám giờ công tước lại mặc áo
khoác nhung cổ lông chồn và đội mũ lông chồn ra đi bách bộ ngoài vườn. Hôm qua
có mưa tuyết. Con đường nhỏ công tước Nikolai Andreyevich vẫn thường dùng để đi
ra vườn ủ cây đã được quét sạch, còn trông thấy vết chổi trên tuyết xốp ở bên
đường. Lão công tước im lặng đi qua các lồng kính ủ cây, qua khoảng sân, qua
các dãy nhà phụ đang xây dở, vẻ mặt lầm bầm. - Xe trượt tuyết có qua chỗ này được
không? - Công tước hỏi người quản lý già oai vệ, mặt mũi và dáng điệu hao hao
giống ông chủ, bấy giờ đang đưa chân công tước về nhà. - Bẩm công tước, tuyết
sâu lắm. Con đã cho quét sạch tuyết trên đường. Công tước gật đầu và bước lại gần
thêm. “Lạy Chúa, - viên quản lý nghĩ thầm - Cơn giông tố đã qua rồi”. - Bẩm
công tước, trước khi quét khó đi xe lắm ạ - Viên quản lý nói thêm, - Bẩm công
tước nghe nói có quan thượng thư đến thăm ngài phải không ạ? Công tước quay lại
phía viên quản lý và cau mày nhìn hắn: - Cái gì? Quan thượng thư à? Thượng thư
nào? Ai bảo quét? - Công tước nói với cái giọng đanh và sắc của ông. - Công tước
tiểu thư con gái ta đi thì không quét, mà thượng thư đến thì lại quét! - Nhà
tao không có thượng thư! - Bẩm công tước con tưởng… - Mày tưởng! - Công tước
quát lên, rồi nói tiếp, mỗi lúc một thêm dồn dập và kém mạch lạc. - Mày tưởng
à!… Đồ kẻ cướp! Đồ ăn mày! Rồi tao sẽ dạy cho mày tưởng. - Nói đoạn ông giơ gậy
lên, định giáng lên đầu Alpatyts, và nếu viên quản lý không bất giác né sang một
bên thì ông đã đánh thật rồi. - Mày tưởng à? Đồ kẻ cắp! - Công tước quát thêm mấy
tiếng vội vã. Bấy giờ Alpatyts cũng sợ cuống lên vì mình đã dám hỗn xược tránh
đòn nên đã nhích lại gần công tước, nhẫn nhục cúi mái đầu hói xuống cho công tước
đánh; nhưng tuy vậy, hay có lẽ chính vì vậy, công tước vẫn tiếp tục quát: - Đồ
kẻ cắp? Cào tuyết lấp đường lại như cũ ngay! - Công tước không giơ gậy lên nữa,
chạy vào nhà. Trước bữa ăn trưa, công tước tiểu thư và cô Burien biết rằng công
tước đang gắt nên khi công tước vào thì đứng dón chứ không dám ngồi; cô Burien
có một vẻ mặt rạng rỡ như muốn nói: “Tôi không biết gì đâu ạ, tôi vẫn như mọi
khi thôi”; công tước tiểu thư Maria thì nhợt nhạt, sợ hãi, mắt nhìn xuống. Điều
khổ tâm nhất đối với công tước tiểu thư Maria là nàng biết rằng trong những trường
hợp như thế này nên làm như cô Buria, nhưng nàng không thể nào làm nổi. Nàng
nghĩ: “Nếu mình làm như không nhận thấy gì, thì cha sẽ nghĩ rằng mình không cảm
thông vớì cha; Nếu mình làm như thế mình cũng bực và cáu bẳn thì cha sẽ nói (mà
quả cũng đã có lần nói) rằng mình có bộ mặt đưa đám” v.v… Công tước đưa mắt
nhìn gương mặt sợ hãi của con gái và khịt mũi: - Đồ rởm… đồ ngốc! - công tước
nói! “Còn con kia thì không thấy đâu cả! Chắc nó cũng nghe nói rồi đấy” - Công
tước nghĩ thầm về công tước phu nhân Liza bấy giờ không có mặt trong phòng ăn.
- Thế công tước phu nhân đâu? - Lão công tước hỏi - Trốn à? - Dạ phu nhân hơi
khó ở ạ, - cô Burien mỉm cười vui vẻ đáp. - Phu nhân không ra được ạ. Đang có
mang như phu nhân thì thường khó ở như thế đấy ạ. - Hừm! Hừm! Khịt! Khịt! -
công tước nói, rồi ngồi xuống trước bàn ăn. Ông có cảm giác là cái đĩa ăn không
được sạch; ông chỉ một cái vết trên đĩa và quẳng cái đĩa đi. Tikhôn chộp lấy và
chuyển cho người dọn bát đĩa. Công tước phu nhân Liza không khó ở; nhưng nàng sợ
lão công tước quá chừng, đến nỗi nghe lão công tước đang bực mình, nàng không
dám ra nữa. Nàng bảo cô Burien: - Tôi sợ là sợ cho đứa con trong bụng, có khi
vì sợ quá mà sinh nguy cũng nên. Nói chung thì công tước phu nhân từ ngày về
Lưxye Gorư luôn luôn thấy sợ hãi và có ác cảm đối với lão công tước, một mối ác
cảm mà nàng không ý thức được, và vì sợ quá cho nên nàng không thể cảm thấy. Về
phía công tước thì ông cũng thấy có ác cảm, nhưng cái ác cảm đó đã bị lòng
khinh miệt lấn át đi. Công tước phu nhân ở Lưxye Gorư được ít lâu thì đặc biệt
thấy mến cô Burien, nàng thường ngồi suốt ngày với cô ta, mời cô ta ngủ chung
buồng với mình, thường ngồi bàn bạc với cô ta về âm nhạc và phê phán ông ta. -
Bẩm công tước, ta sắp có khách đấy ạ! - Cô Burien nói, trong khi hai bàn tay hồng
hào của cô giở chiếc khăn ăn trắng tinh - Nghe nói có công tước đại nhân
Kuraghin với con trai của ngài thì phải! - Cô nói, có ý dò hỏi. - Hừm… Công tước
đại nhân ấy chỉ là một thằng nhãi… Ngày trước ta đưa hắn vào hoan lộ đấy - Lão
công tước bực bộỉ nói. - Còn thằng con trai thì đến để làm cái gì, ta không hiểu
được. Công tước phu nhân Lizaveta Karlovan và công tước tiểu thư Maria thì chắc
có biết còn ta thì chịu, không biết tại sao hắn lại mang cái thằng con trai ấy
đến đây làm gì. Ta không cần - Rồi công tước nhìn sang con gái, lúc bấy giờ
đang đỏ mặt lên. - Khó ở hay sao thế hả? Chắc là vì sợ quan thượng thư như cái
thằng Alpatys nói chứ gì. - Thưa cha, không ạ. Mặc dầu cô Burien đã chọn phải một
đề tài nói chuyện rất không đúng lúc cô ta vẫn không ngớt miệng nói về khu vườn
ủ cây, về vẻ đẹp của một bông hoa mới nở, và sau khi ăn món xúp, lão công tước
bắt đầu nguôi nguôi. Ăn trưa xong, công tước đến phòng con dâu. Công tước phu
nhân nhỏ nhắn đang ngồi bên chiếc bàn con nói chuyện suông với Masa, một cô hầu
gái. Thấy ông nhạc vào, nàng tái mặt đi. Công tước phu nhân nhỏ nhắn đã thay đổi
rất nhiều. Bây giờ trông nàng xấu nhiều hơn là xinh. Hai má hóp lại, môi cong
lên, mắt thì có quầng thâm ở mi dưới. Công tước hỏi nàng thấy trong mình ra
sao. - Vâng ạ, có cái gì nằng nặng ấy. Công tước phu nhân đáp. - Có cần gì
không? - Không ạ, cảm ơn cha ạ. - Thôi được, thôi được.
Lão công tước ra và đi đến phòng gia nhân Alpatyts đang đứng
đấy, đầu cúi gầm. - Đã cào tuyết lại rồi đấy chứ? - Bẩm công tước cào lại rồi ạ.
Xin công tước tha lỗi cho, chỉ vì ngu ngốc nên con trót dại… Công tước ngắt lời
viên quản lý và bật lên tiếng cười gượng gạo. - Thôi được, thôi được. Công tước
giơ tay cho Alpatys hôn và đi vào phòng làm việc. Đến tối công tước Vaxili đến.
Bọn xà ích và gia nhân ra đón ông ta ngoài đường chính và vừa hò hét vừa dẫn
các xe cộ của công tước về tòa nhà dọc theo con đường đã cố ý phủ tuyết lại rất
dày. Công tước Vaxili và Anatol được đưa về hai phòng cách riêng. Anatol cởi áo
ngoài ngồi chống nạnh trước bàn, mỉm cười đưa đôi mắt lo rất đẹp nhìn trừng trừng
và lơ đễnh về phía góc bàn. Chàng vốn coi cả cuộc đời mình như một cuộc vui
không dứt mà không hiểu sao có người nào đã tự nguyện đứng ra tổ chức cho chàng
hưởng. Bây giờ cũng thế, chàng xem cuộc đi thăm hỏi ông già bẳn tính với cô gái
giàu có và xấu xí này cũng là một cuộc vui như vậy. Chàng dự đoán rằng chuyến
này có thể sinh ra nhiều điều rất thú vị và ngộ nghĩnh. “Mà việc gì lại không lấy,
nếu cô ta nhiều của? Tiền của bao giờ cũng hay” - Antol nghĩ. Chàng cạo mặt, xức
nước hoa một cách cẩn thận và cầu kỳ - việc này đã thành một thói quen của
chàng - và với cải vẻ đắc thắng mà hiền lành bẩm sinh của chàng, Anatol cất cao
cái đầu đẹp dẽ bước vào phòng cha. Hai tên hầu của công tước Vaxili đang xắng xở
mặc áo cho chủ: Công tước linh lợi ngoái lại nhìn và vui vẻ gật đầu chào Anatol
khi chàng bước vào dường như muốn nói: “Thế, chính là ba đang cần con phải như
thế đấy!” - Ba ạ, con hỏi thật nhé, cô ấy xấu lắm à? - Anatol nói bằng tiếng
Pháp, dường như để tiếp tục câu chuyện đã nhiều lần bàn đến trong khi đi đường.
- Thôi đi toàn chuyện vơ vẩn! Cái chính là con phải cố tỏ ra lễ phép và biết điều
trước mặt lão công tước. - Nếu lão ấy gắt gỏng thì con đi thôi, - Anatol nói -
Con không chịu nổi những lão già như thế đâu. - Con phải nhớ rằng cả cuộc đời
con là lệ thuộc vào việc này đấy. Trong khi đó ở phòng gia nhân không những người
ta đã biết có quan thượng thư và con trai của ngài vừa đến, mà ngay đến dung mạo
của hai người cũng đã được miêu tà rất tỉ mỉ nữa. Nữ công tước Maria ngồi một
mình trong phòng riêng, cố trấn áp nỗi xúc động trong tâm hồn nhưng không sao nổi.
“Sao họ lại viết thư nhỉ, sao Liza lại nói với mình việc này làm gì? Vì không
thể như thế được kia mà? - nàng nhìn vào gương tự nhủ - Ta sẽ trang điểm thế
nào để ra phòng khách đây? Dù mình có thích người ấy đi nữa, thì bản thân mình
bây giờ cũng không thể tự nhiên trước mặt người ta được”. - Chỉ nghĩ đến cái
nhìn của cha thôi nàng cũng đã thấy khiếp sợ. Công tước phu nhân Liza và cô
Burien đã được cô hầu gái Masa cung cấp cho đủ mọi tài liệu cần thiết về hai
cha con công tước Vaxili, nào là cậu con hồng hào, tuấn tú, có đôi lông mày đen
rậm như thế nào, rồi nào là cha cậu ta chật vật lắm mới lê chân nổi lên thang
gác, còn cậu ta thì như một con đại bàng, cứ như ba bậc một chạy theo cha. Sau
khi biết được những điều này, công tước phu nhân nhỏ nhắn và cô Burien vào
phòng công tước tiểu thư Maria (trước mặt khi họ vào đã nghe tiếng nói chuyện
rôm rả của họ ngoài hành lang). - Họ đến rồi đấy Maria ạ, cô có biết không? -
công tước phu nhân nói, đung đưa cái bụng chửa và ngồi phịch xuống một chiếc ghế
bành. Nàng không còn mặc chiếc áo thụng ban sáng. Trên người nàng bây giờ mặc một
trong những chiếc áo dài nhất, đầu nàng chải chuốt rất cẩn thận, gương mặt nàng
có vẻ phấn chấn nhưng vẫn không giấu được những đường nét nặng nề, mệt mỏi.
Trong cách phục sức này mà nàng thường dùng khi xuất hiện trong các dạ hội ở
Peterburg, người ta càng thấy rõ nàng xấu đi nhiều lắm. Cô Burien cũng diện một
bộ áo khá cầu kỳ nhưng kín đáo, khiến cho khuôn mặt xinh tươi của cô càng thêm
duyên dáng dễ yêu. - Thế nào, công tước tiểu thư vẫn để thế mà ra sao? - cô
Burien nói - Họ sắp đến báo là ông ấy đã ra phòng khách rồi đấy, lúc đó phải xuống
thôi, tiểu thư không tô điểm đôi chút sao tiện? Công tước phu nhân Liza rời ghế
bành đứng dậy, rung chuông gọi cô hầu phòng và vui vẻ bắt đầu nghĩ cách trang
điểm cho công tước tiểu thư và bắt tay vào thực hiện việc đó. Tiểu thư Maria thấy
tủi cực cho lòng tự trọng của mình vì việc một người đến dạm hỏi nàng đã làm
cho nàng xúc động, vả lại càng tủi cực hơn nữa vì hai người bạn gái của nàng
không hề thoáng có ý nghĩ rằng có thể nào khác đi được. Nói với họ rằng nàng thấy
xấu hổ cho mình và cho họ nữa, thì chỉ càng tỏ rõ mình xúc động; còn từ chối
không chịu trang điểm theo ý họ thì chỉ làm cho họ đùa đai và nài ép mãi. Nàng
đỏ mặt, đôi mắt đẹp đẽ đờ ra trên mặt nàng hiện lên những vết đo đỏ, và với cái
vẻ nhẫn nhục rất khó coi thường thấy trên khuôn mặt nàng, công tước tiểu thư
Maria phó mặc cho cô Burien và Liza muốn làm gì mình thì làm, hai người hoàn
toàn thành thật cố gắng làm sao cho nàng đẹp lên. Nàng xấu đến nỗi trong hai
người không có ai có thể thoáng có ý nghĩ ganh đua với nàng, vì vậy họ hoàn
toàn thành tâm bắt tay sửa sang cho nàng, với cái ý nghĩ ngây thơ mà vững chắc
của giới phụ nữ, vốn tin rằng trang sức có thể làm cho mặt mũi người ta đẹp lên
được.
- Không, thật đấy Maria ạ, mặc áo này không được đâu, - Liza vừa nói vừa đứng né ra xa nghiêng đầu ngắm nghía: công tước tiểu thư, - cô bảo đem chiếc áo màu huyết dụ ra đây? - Phải đấy! Vì rất có thể là cả cuộc đời sẽ định đoạt lúc này đây! Chứ áo này thì màu tươi quá, không được đâu, thật đấy, không ổn đâu! - Cái không ổn không phải là chiếc áo, mà chính là khuôn mặt và cả thân hình của công tước tiểu thư Maria, nhưng cô Burien và công tước phu nhân Liza không nhận thấy điều đó, họ cứ tưởng rằng nếu thắt một dải thanh thiên trên mái tóc chải ngược lên và vắt tấm khăn choàng thanh thiên trên chiếc áo dài nâu là sẽ ổn ngay. Họ quên mất rằng cái gương mặt sợ hãi và cái dáng người của Maria thì không thể nào thay đổi được, thành thử dù họ có thay đổi cái khung ngoài và những đồ trang sức cho khuôn mặt này đến thế nào đi nữa, khuôn mặt ấy văn thiểu não và xấu xí như thường. Sau hai ba lần thay đi đổi lại mà công tước tiểu thư Maria nhẫn nhục chịu dựng, đến lúc họ đã chải ngược mái tóc của nàng lên phía trên (cách chải này làm cho mặt nàng thay đổi hẳn và trông không còn ra thế nào nữa). Rồi mặc cho nàng chiếc áo màu huyết dụ và khoác cho nàng chiếc khăn choàng màu thanh thiên, công tước phu nhân Liza đi vòng quanh nàng hai lần, đưa bàn tay nhỏ nhắn sửa lại một nếp áo ở chỗ này, vuốt một múi khăn ở chỗ kia, nghiêng đầu bên này, rồi lại nghiêng bên kia đề ngắm nghía. Không, thế này không được, - Liza chắp tay nói - Không được Maria ạ, mặc thế này không hợp với cô đâu! Cô mặc cái áo dài màu xám như mọi ngày trông xinh hơn nhiều. Thôi, tôi lạy Maria, mặc áo ấy cho tôi vui lòng đi! - Katya - nàng quay lại nói với người hầu gái - chị đem cho tiểu thư cái áo màu xam xám, rồi cô Burien thử xem tôi thu xếp nhé - Liza nói, miệng mỉm cười sung sướng như đang thưởng thức trước niềm vui nghệ thuật. Nhưng khi Katya đã mang chiếc áo dài lại, thì công tước tiểu thư Maria vẫn ngồi thừ người ra trước tấm gương nhìn vào mặt mình, và trong gương, nàng thấy nước mắt đang rưng rưng trên mi và môi nàng run run chỉ chực bật ra tiếng khóc. - Kìa, tiểu thư Mari - cô Burien nói - Cô lên một tý nữa thôi mà! Công tước phu nhân Liza lấy chiếc áo người hầu gái đang cầm vào và bước lại gần tiểu thư Maria. - Thôi bây giờ ta sẽ mặc cho thật giản dị, dễ thương - nàng nói. Tiếng nói của nàng, của cô Burien và của Katya bấy giờ đang cười khúc khích hòa lẫn với nhau thành một tiếng ríu rít vui vẻ nghe như tiếng chim hót. - Không, các chị để mặc tôi! - công tước tiểu thư nói. Và giọng nói của nàng nghe nghiêm trang và đau đớn đến nỗi tiếng ríu rít như chim lập tức im bặt. Họ nhìn đôi mắt to trong trẻo và đẹp một cách huỵền diệu của tiểu thư Maria, tràn đầy nước mắt và tâm hồn đang nhìn họ như van lơn cầu khẩn, và họ hiểu ra rằng bây giờ mà nài thêm thì chẳng ích gì mà lại tàn nhẫn nữa là khác. - Ít nhất cô cũng sửa cách chải đầu lại? - công tước phu nhân Liza nói đoạn quay sang phía cô Burien có ý trách móc - Tôi đã nói khuôn mặt như Mari không thể nào hợp với lối chải tóc này được, không hợp ít nào hết. Thôi chải lại đi Mari, tôi van cô! - Thôi mặc tôi, mặc tôi, những thứ đó đối với tôi hoàn toàn không có nghĩa lý gì hết! - công tước tiểu thư Maria đáp, khó nhọc lắm mới cầm được nước mắt. Cô Burien và công tước phu nhân nhỏ nhắn cũng phải thừa nhận rằng tiểu thư Maria phục sức như thế này rất xấu, xấu hơn ngày thường rất nhiều; nhưng đã muộn quá rồi. Nàng nhìn họ với vẻ mặt mà họ đã từng biết, vẻ mặt đăm chiêu và buồn bã vô hạn. Vẻ này không làm cho họ sợ Maria (nàng không hề làm cho ai sợ mình cả). Nhưng họ biết rằng khi trên gương mặt nàng hiện lên cái vẻ buồn rầu và tư lự ấy thì nàng rất trầm lặng và không ai có thể lay chuyển được ý nàng đã quyết. - Cô chải lại nhé? - Liza nói, nhưng không thấy công tước tiểu thư Maria đáp, Liza đành ra khỏi phòng. Tiểu thư Maria ngồi lại một mình. Nàng không chiều theo ý Liza, không những không chải lại mái tóc, mà thậm chí cũng không buồn nhìn vào gương nữa. Nàng uể oải buông thõng hai tay, mắt nhìn xuống đất. im lặng ngồi suy nghĩ. Nàng hình dung ra một người chồng: một người đàn ông, một con người cường tráng, ưu việt và có một cái gì hâp dẫn một cách khó hiểu, đột nhiên đến đưa nàng về thế giới riêng của mình, một thế giới hoàn toàn khác, một thế giới tràn đầy hạnh phúc. Nàng tưởng tượng thấy một đứa con của mình, giống như đứa cháu ngoại của u già mà nàng vừa trông thấy hôm qua, đang nằm trên lòng mình. Người chồng âu yếm đứng nhìn mẹ con nàng. Rồi nàng lại nghĩ: “Nhưng không, không thể như thế được, mình xấu quá”. - Xin mời tiểu thư xuống dùng trà. Công tước sắp ra ngay. - Tiếng người hầu gái từ sau cánh cửa nói vọng ra. Nàng sực tỉnh và thấy hoảng sợ vì những ý nghĩ vừa rồi. Và trước khi xuống, nàng đứng dậy, bước vào phòng đọc kinh, mắt ngước lên nhìn đăm đăm vào khuôn mặt của Chúa Cứu thế tối mờ mờ dưới ánh đèn chong leo lét, và vòng tay đứng trước bức tượng một lát. Trong tâm hồn công tước tiểu thư Maria thấy ngờ vực day dứt. Nàng có thể nào hưởng được niềm vui của tình yêu, của tình yêu trần tục với một người đàn ông không? Những lúc nghĩ đến hôn nhân, tiểu thư Maria cũng có mơ ước đến hạnh phúc gia đình; đến con cái, những ước mơ mạnh nhất và thầm kín nhất của nàng là tình yêu trần tục. Nàng cố che giấu cảm giác này trước những người khác và ngay cả trước mình nữa, nhưng càng che giấu bao nhiêu thì nó lại càng mãnh liệt bấy nhiêu. “Lạy Chúa - nàng nói - Con làm thế nào trấn áp được ý nghĩ ma quái này bây giờ. Làm thế nào từ bỏ vĩnh viễn được những ý nghĩ xấu xa để có thể yên tĩnh mà làm tròn ý Chúa?” Và nàng vừa mới hỏi như vậy thì tự trong lòng nàng Chúa đã đáp lại: “Đừng ước muốn điều gì cho bản thân mình cả, đừng tìm biết, đừng hoảng hốt, đừng ganh tị. Không thể biết được tương lai của con và số phận của mình rồi sẽ ra sao, nhưng hãy sống sao cho sẵn sàng đón lấy mọi sự. Nếu Thượng đế muốn thử thách mình trong những hốn phận của hôn nhân, hãy sẵn sàng làm trọn ý Người. Ý nghĩ này làm cho tâm hồn nàng yên tĩnh lại (đồng thời cả niềm hy vọng thực hiện được điều mơ ước trần tục bị cấm đoán), tiểu thư Maria thở dài, làm dấu thánh giá và xuống phòng khách. Nàng không nghĩ đến chiếc áo mình đang mặc, cũng không hề nghĩ đến mái tóc của mình, không hề nghĩ xem mình sẽ vào phòng khách như thế nào và sẽ nói những gì. Tất cả những thứ đó có ý nghĩ gì so với ý muốn của Thượng đế, Không có một sợi tóc nào trên dầu chúng sinh rơi xuống mà lại không do ý muốn của Người.
- Không, thật đấy Maria ạ, mặc áo này không được đâu, - Liza vừa nói vừa đứng né ra xa nghiêng đầu ngắm nghía: công tước tiểu thư, - cô bảo đem chiếc áo màu huyết dụ ra đây? - Phải đấy! Vì rất có thể là cả cuộc đời sẽ định đoạt lúc này đây! Chứ áo này thì màu tươi quá, không được đâu, thật đấy, không ổn đâu! - Cái không ổn không phải là chiếc áo, mà chính là khuôn mặt và cả thân hình của công tước tiểu thư Maria, nhưng cô Burien và công tước phu nhân Liza không nhận thấy điều đó, họ cứ tưởng rằng nếu thắt một dải thanh thiên trên mái tóc chải ngược lên và vắt tấm khăn choàng thanh thiên trên chiếc áo dài nâu là sẽ ổn ngay. Họ quên mất rằng cái gương mặt sợ hãi và cái dáng người của Maria thì không thể nào thay đổi được, thành thử dù họ có thay đổi cái khung ngoài và những đồ trang sức cho khuôn mặt này đến thế nào đi nữa, khuôn mặt ấy văn thiểu não và xấu xí như thường. Sau hai ba lần thay đi đổi lại mà công tước tiểu thư Maria nhẫn nhục chịu dựng, đến lúc họ đã chải ngược mái tóc của nàng lên phía trên (cách chải này làm cho mặt nàng thay đổi hẳn và trông không còn ra thế nào nữa). Rồi mặc cho nàng chiếc áo màu huyết dụ và khoác cho nàng chiếc khăn choàng màu thanh thiên, công tước phu nhân Liza đi vòng quanh nàng hai lần, đưa bàn tay nhỏ nhắn sửa lại một nếp áo ở chỗ này, vuốt một múi khăn ở chỗ kia, nghiêng đầu bên này, rồi lại nghiêng bên kia đề ngắm nghía. Không, thế này không được, - Liza chắp tay nói - Không được Maria ạ, mặc thế này không hợp với cô đâu! Cô mặc cái áo dài màu xám như mọi ngày trông xinh hơn nhiều. Thôi, tôi lạy Maria, mặc áo ấy cho tôi vui lòng đi! - Katya - nàng quay lại nói với người hầu gái - chị đem cho tiểu thư cái áo màu xam xám, rồi cô Burien thử xem tôi thu xếp nhé - Liza nói, miệng mỉm cười sung sướng như đang thưởng thức trước niềm vui nghệ thuật. Nhưng khi Katya đã mang chiếc áo dài lại, thì công tước tiểu thư Maria vẫn ngồi thừ người ra trước tấm gương nhìn vào mặt mình, và trong gương, nàng thấy nước mắt đang rưng rưng trên mi và môi nàng run run chỉ chực bật ra tiếng khóc. - Kìa, tiểu thư Mari - cô Burien nói - Cô lên một tý nữa thôi mà! Công tước phu nhân Liza lấy chiếc áo người hầu gái đang cầm vào và bước lại gần tiểu thư Maria. - Thôi bây giờ ta sẽ mặc cho thật giản dị, dễ thương - nàng nói. Tiếng nói của nàng, của cô Burien và của Katya bấy giờ đang cười khúc khích hòa lẫn với nhau thành một tiếng ríu rít vui vẻ nghe như tiếng chim hót. - Không, các chị để mặc tôi! - công tước tiểu thư nói. Và giọng nói của nàng nghe nghiêm trang và đau đớn đến nỗi tiếng ríu rít như chim lập tức im bặt. Họ nhìn đôi mắt to trong trẻo và đẹp một cách huỵền diệu của tiểu thư Maria, tràn đầy nước mắt và tâm hồn đang nhìn họ như van lơn cầu khẩn, và họ hiểu ra rằng bây giờ mà nài thêm thì chẳng ích gì mà lại tàn nhẫn nữa là khác. - Ít nhất cô cũng sửa cách chải đầu lại? - công tước phu nhân Liza nói đoạn quay sang phía cô Burien có ý trách móc - Tôi đã nói khuôn mặt như Mari không thể nào hợp với lối chải tóc này được, không hợp ít nào hết. Thôi chải lại đi Mari, tôi van cô! - Thôi mặc tôi, mặc tôi, những thứ đó đối với tôi hoàn toàn không có nghĩa lý gì hết! - công tước tiểu thư Maria đáp, khó nhọc lắm mới cầm được nước mắt. Cô Burien và công tước phu nhân nhỏ nhắn cũng phải thừa nhận rằng tiểu thư Maria phục sức như thế này rất xấu, xấu hơn ngày thường rất nhiều; nhưng đã muộn quá rồi. Nàng nhìn họ với vẻ mặt mà họ đã từng biết, vẻ mặt đăm chiêu và buồn bã vô hạn. Vẻ này không làm cho họ sợ Maria (nàng không hề làm cho ai sợ mình cả). Nhưng họ biết rằng khi trên gương mặt nàng hiện lên cái vẻ buồn rầu và tư lự ấy thì nàng rất trầm lặng và không ai có thể lay chuyển được ý nàng đã quyết. - Cô chải lại nhé? - Liza nói, nhưng không thấy công tước tiểu thư Maria đáp, Liza đành ra khỏi phòng. Tiểu thư Maria ngồi lại một mình. Nàng không chiều theo ý Liza, không những không chải lại mái tóc, mà thậm chí cũng không buồn nhìn vào gương nữa. Nàng uể oải buông thõng hai tay, mắt nhìn xuống đất. im lặng ngồi suy nghĩ. Nàng hình dung ra một người chồng: một người đàn ông, một con người cường tráng, ưu việt và có một cái gì hâp dẫn một cách khó hiểu, đột nhiên đến đưa nàng về thế giới riêng của mình, một thế giới hoàn toàn khác, một thế giới tràn đầy hạnh phúc. Nàng tưởng tượng thấy một đứa con của mình, giống như đứa cháu ngoại của u già mà nàng vừa trông thấy hôm qua, đang nằm trên lòng mình. Người chồng âu yếm đứng nhìn mẹ con nàng. Rồi nàng lại nghĩ: “Nhưng không, không thể như thế được, mình xấu quá”. - Xin mời tiểu thư xuống dùng trà. Công tước sắp ra ngay. - Tiếng người hầu gái từ sau cánh cửa nói vọng ra. Nàng sực tỉnh và thấy hoảng sợ vì những ý nghĩ vừa rồi. Và trước khi xuống, nàng đứng dậy, bước vào phòng đọc kinh, mắt ngước lên nhìn đăm đăm vào khuôn mặt của Chúa Cứu thế tối mờ mờ dưới ánh đèn chong leo lét, và vòng tay đứng trước bức tượng một lát. Trong tâm hồn công tước tiểu thư Maria thấy ngờ vực day dứt. Nàng có thể nào hưởng được niềm vui của tình yêu, của tình yêu trần tục với một người đàn ông không? Những lúc nghĩ đến hôn nhân, tiểu thư Maria cũng có mơ ước đến hạnh phúc gia đình; đến con cái, những ước mơ mạnh nhất và thầm kín nhất của nàng là tình yêu trần tục. Nàng cố che giấu cảm giác này trước những người khác và ngay cả trước mình nữa, nhưng càng che giấu bao nhiêu thì nó lại càng mãnh liệt bấy nhiêu. “Lạy Chúa - nàng nói - Con làm thế nào trấn áp được ý nghĩ ma quái này bây giờ. Làm thế nào từ bỏ vĩnh viễn được những ý nghĩ xấu xa để có thể yên tĩnh mà làm tròn ý Chúa?” Và nàng vừa mới hỏi như vậy thì tự trong lòng nàng Chúa đã đáp lại: “Đừng ước muốn điều gì cho bản thân mình cả, đừng tìm biết, đừng hoảng hốt, đừng ganh tị. Không thể biết được tương lai của con và số phận của mình rồi sẽ ra sao, nhưng hãy sống sao cho sẵn sàng đón lấy mọi sự. Nếu Thượng đế muốn thử thách mình trong những hốn phận của hôn nhân, hãy sẵn sàng làm trọn ý Người. Ý nghĩ này làm cho tâm hồn nàng yên tĩnh lại (đồng thời cả niềm hy vọng thực hiện được điều mơ ước trần tục bị cấm đoán), tiểu thư Maria thở dài, làm dấu thánh giá và xuống phòng khách. Nàng không nghĩ đến chiếc áo mình đang mặc, cũng không hề nghĩ đến mái tóc của mình, không hề nghĩ xem mình sẽ vào phòng khách như thế nào và sẽ nói những gì. Tất cả những thứ đó có ý nghĩ gì so với ý muốn của Thượng đế, Không có một sợi tóc nào trên dầu chúng sinh rơi xuống mà lại không do ý muốn của Người.
Chương 4 Khi công tước tiểu thư Maria vào phòng khách, hai
cha con công tước Vaxili đã ngồi nói chuyện với công tước phu nhân nhỏ nhắn và
cô Burien. Khi nàng nặng nề bước trên gót chân tiến vào phòng, hai người đàn
ông và cô Burien nhổm dậy; công tước phu nhân nhỏ nhắn giơ tay về phía nàng nói
với hai người khách. - Đây là Maria. Công tước tiểu thư Maria trông thấy hết,
và thấy khá tỷ mỉ. Nàng thấy gương mặt của công tước Vaxili bỗng nghiêm lại một
lát khi thấy nàng vào, rồi lập tức tươi cười trở lại, và gương mặt của công tước
phu nhân Liza đang tò mò theo dõi nét mặt của hai người khách, cố đoán biết cảm
tưởng của họ khi trông thấy tiểu thư Maria. Nàng cũng trông thấy cô Burien với
mẩu ruybăng và khuôn mặt xinh đẹp, đôi mắt lính hoạt hơn bao giờ hết đang chăm
chăm nhìn chàng; Nhưng tiểu thư Maria không thể trông thấy chàng, nàng chỉ thấy
một cái gì to lớn, rực rỡ và đẹp tuyệt vời đang tiến lại phía nàng khi nàng bước
vào. Trước tiên công tước Vaxili đến chào nàng. Nàng hôn lên mái đầu hói đang
cúi xuống sát tay nàng, và đáp lại lời công tước rằng trái với điều ông tưởng,
nàng còn nhớ rõ ông ta lắm. Rồi đến lượt Anatol đến gần nàng. Nàng vẫn không
trông thấy chàng. Nàng chi cảm thấy bàn tay mềm mại đang cầm chắc tay mình, và
nàng chỉ khẽ chạm môi vào vầng trán trắng trẻo dưới làn tóc hung rất đẹp xức dầu
thơm. Khi nàng đưa mắt nhìn chàng, vẻ đẹp trai của chàng làm nàng sứng sốt.
Anatol thọc ngón tay cái bên phải vào lô khuy để hở của chiếc quân phục, ngực ưỡn
ra phía trước, lưng thóp lại, đu đưa một bên chân và khẽ nghiêng đầu im lặng và
vui vẻ nhìn công tước tiểu thư, chắc hẳn là không mảy may nghĩ đến nàng. Anatol
không phải là người sáng ý, nhanh miệng và hoạt bát trong khi nói chuyện, nhưng
ngược lại có một khả năng rất quý báu trong khi giao thiệp là rất bình tĩnh và
không có gì có thể làm chàng mất tự tin. Nếu một người thiếu tự tin trong buổi
gặp gỡ đầu tiên lại im lặng và để lộ ra rằng mình thấy im lặng như vậy là khiếm
nhã nên có ý muốn tìm một cái gì để nói, thì sẽ gây một ấn tượng không hay;
nhưng Anatol thì cứ im lặng, đu đưa bàn chân, vui vẻ ngắm bộ tóc của công tước
tiểu thư. Có thể thấy rõ rằng chàng có thể yên lặng như vậy rất lâu mà vẫn thản
nhiên như không. Dáng điệu của chàng như muốn nói: “Nếu có ai thấy ngượng nghịu
vì sự im lặng này thì cứ nói đi, chứ tôi đây thì chả muốn nói”. Ngoài ra, trong
khi tiếp xúc với phụ nữ, Anatol lại có cái phong thái gợi được trí tò mò của phụ
nữ nhiều nhất, khiến họ cảm thấy sợ hãi và thậm chí yêu mình nữa là khác, - đó
là cái phong thái khinh thường biết rõ ưu thế của mình. Với dáng điệu của
chàng, Anatol như muốn nói với họ: “Tôi biết các cô lắm, tôi biết, nhưng việc
gì tôi phải nhọc lòng vì các cô? Chắc được như thế các cô mừng lắm đấy nhỉ!”.
Có lẽ chàng không nghĩ như vậy khi gặp phụ nữ (có thể biết chắc chàng không
nghĩ như thế thật, vì nói chung chàng rất ít suy nghĩ), nhưng dáng điệu phong
thái của chàng nó như thế đấy. Công tước tiểu thư cảm thấy điều đó, và dường
như để tỏ cho chàng thấy rằng mình cũng không hề dám nghĩ đến chuyện làm chàng
phải bận tâm, nàng quay sang nói chuyện với công tước Vaxili. Câu chuyện đi lan
man nhưng rất rôm rả nhờ giọng nói và cái môi phủ lông măng hé mở trên hàm răng
trắng của công tước phu nhân nhỏ nhắn. Nàng tiếp chuyện công tước Vaxili với
cái lối bông lơn mà những người vui tính và hay chuyện thường dùng. Lối tiếp
chuyện đó tức là giả thiết rằng mình với người nghe từ lâu đã có một số chuyện
đùa và những kỷ mệm vui vẻ, ngộ nghĩnh mà nhiều người không biết, trong khi kỳ
thực giữa công tước phu nhân Liza và công tước Vaxili sẵn lòng phụ họa theo giọng
đùa này. Liza, tuy hầu như không biết Anatol cung cứ đưa luôn cả chàng vào câu
chuyện, nhắc nhở lại những câu chuyện ngộ nghĩnh kỷ niệm chung và ngay cả công
tước tiểu thư Maria cũng thích thú thấy mình bị lôi cuốn vào những kỷ niệm vui
vẻ ấy. - Lần này ít nhất chúng tôi cũng được lĩnh giáo công tước một cách trọn
vẹn, - Công tước phu nhân Liza nói với công tước Vaxili, cố nhiên là bằng tiếng
Pháp - Chứ không phải như trong cái buổi dạ hội của chúng ta ở nhà Annet những
buổi đó ngài cứ bỏ trốn mãi. Công tước có nhớ chị Annet không? - Ồ nhưng xin
phu nhân dừng bắt tôi nghe chuyện chính trị như bà Annet đấy nhé! - Thế còn cái
bàn trà con con của chúng ta nữa, ngài còn nhớ không? - Nhớ chứ! - Tại sao ông
không bao giờ đến nhà chị Annet, - công tước phu nhân hỏi Anatol - À phải! Tôi
biết rồi, biết rồi, - nàng vừa nói vừa nháy mắt, - Ông Ippolit, anh ông có kể
cho tôi nghe chuyện ông. Ồ! nàng đưa ngón tay lên dọa Anatol, - Ngay những chuyện
ngỗ nghịch của ông ở Paris tôi cũng biết cơ! - Thế Ippolit không nói gì với con
à? - Công tước Vaxili nói (ông quay sang phía con trai và chộp lấy tay công tước
phu nhân Liza, làm như nàng toan bỏ chạy, còn ông ta thì chỉ vừa kịp giữ nàng lại)
- thế Ippolit không kể cho con nghe chuyện nó mất công theo đuổi công tước phu
nhân và bị phu nhân tống cổ ra ngoài à? - rồi công tước Vaxili quay sang phía
Maria nói - Ồ, phu nhân là viên ngọc của giới phụ nữ ấy, tiểu thư ạ! Về phía
mình, cô Burien nghe đến chữ Paris cũng không bỏ lỡ dịp tốt và lập tức chen vào
câu chuyện chung về các kỷ mệm chung. Cô ta tự cho phép mình hỏi xem Anatol rời
Paris đã lâu chưa và có thích thành phố này không. Anatol rất sẵn lòng trả lời
cô thiếu nữ người Pháp. Chàng nhìn cô, mỉm cười và bắt đầu nói chuyện với cô về
tổ quốc của cô. Khi trông thấy cô Burien xinh đẹp, Anatol đã tự nhủ rằng ở chốn
Lưxye Gorư này sẽ không đến nỗi chán. “Con bé kháu lắm - chàng nghĩ thầm khi
nhìn cô Burien - Cái cô tì nữ này trông kháu lắm. Hy vọng rằng khi lấy mình, cô
Maria kia sẽ đem cô bé này theo, con bé trông dễ thương quá!”. Trong phòng làm
việc, lão công tước đang thong thả mặc áo, cau mày đang suy nghĩ xem mình sẽ làm
gì. Cuộc thăm hỏi này làm cho ông rất bực. “Công tước Vaxili với thằng con lão
ta thì dính dáng gì đến mình mới được chứ? Công tước Vaxili là một lão huênh
hoang rỗng tuếch, thì chắc thằng con cũng chả hay hớm gì” - Lão công tước làu
nhàu một mình. Công tước bực tức là vì cuộc thăm hỏi này gợi lại trong tâm hồn
ông một vấn đề chưa được giải quyết và luôn luôn bị vùi dập đi; vấn đề này lão
công tước lâu nay vẫn tự lừa dối mình mãi. Vấn đề ấy là: liệu có lúc nào ông chịu
rời tiểu thư Maria ra và để cho nàng đi lấy chồng không? Lão công tước chưa bao
giờ dám tự đặt thẳng vấn đề này ra cho mình cả, vì ông biết trước rằng mình sẽ
giải quyết theo lẽ công bằng, mà lẽ công bằng thì lại mâu thuẫn với một cái gì
lớn hơn cả tình cảm nữa: đó là cả ý nghĩa của đời ông. Tuy lão công tước có vẻ
như ít quý con gái, nhưng đối với ông cuộc đời mà không có Maria thì không thể
sống nổi. “Mà nó đi lấy chồng để làm gì kia chứ? - Ông nghĩ. - Chắc chắn rồi
cũng chỉ khổ thôi. Kìa xem như con Liza lấy thằng Andrey đấy (thời buổi này
hình như khó mà kiếm được một thằng chồng hơn thế), thế mà nó đã hài lòng đâu.
Vả chăng, có ai lấy con Maria vì tình yêu? Nó vừa xấu lại vừa vụng. Có lấy là
cũng vì thế lực, vì của cải. Cũng khối người ở vậy suốt đời đấy thôi! Càng sướng
chứ sao?” Công tước Nikolai Andreyevich vừa mặc áo vừa suy nghĩ như vậy nhưng đồng
thời, cái vấn đề lâu nay lần lữa mãi lại đòi hỏi phải được giải quyết ngay.
Công tước Vaxili đưa con trai đến rõ ràng là có ý định dạm hỏi và chắc chỉ hôm
nay hay ngày mai thôi ông ta sẽ yêu cầu trả lời dứt khoát. Dòng họ, địa vị
trong xã hội cũng khá. “Thôi thì cũng được, ta không có ý ngăn cản, - lão công
tước tự nhủ, - Nhưng thằng ấy phái xứng đáng với con Maria mới được. Cái ấy thì
phải xem đã”. - Cái ấy thì còn phải xem đã, - công tước nói to lên, - Còn phải
xem đã. Và với dáng đi đường hoàng, nhanh nhẹn thường có, ông bước vào phòng
khách đưa mắt nhìn mọi người một lượt, nhận thấy cái áo mới thay của công tước
phu nhân Liza, cái dải lụa của cô Burien và mái tóc xấu xí của công tước Maria
và cả những nụ cười của cô Burien và Anatol, cả cái vẻ cô độc của con gái mình
trong lúc mọi người nói chuyện. Ông đưa mắt hằn học nhìn con, nghĩ thầm: “Trang
điểm như một con ngốc! Rõ không biết thẹn! Còn thằng kia thì chẳng thèm để mắt
đến nó nữa!”. Ông lại gần công tước Vaxili. - Nào, chào ông, chào ông; rất mừng
được gặp ông. - Bạn hiền không quản đường xa, - công tước Vaxili đáp, vẫn cái
giọng nhanh nhảu, tự tin và thân mật thường ngày. - Đây đứa con trai thứ hai của
tôi, mong công tước chiếu cố. - Khá lắm! Khá lắm! - Lão công tước nói - Nào lại
đây - rồi giơ má ra cho Anatol. Anatol hôn lên má ông già, nhìn ông ta một cách
tò mò và hoàn toàn điềm tĩnh, chờ xem ông ta có sắp giở cái tính gàn dở kỳ quái
như cha mình vẫn nói ra không. Công tước Nikolai Andreyevich vẫn như lệ thường
ngồi chỗ góc đi văng; kéo một chiếc ghế bành lại gần mình cho công tước Vaxili
ngồi, đưa tay chỉ vào ghế và bắt đầu hỏi về các công việc và tin tức chính trị.
Ông làm ra vẻ chăm chú nghe câu chuyện của công tước Vaxili, nhưng không ngừng
đưa mắt về phía công tước tiểu thư Maria. - Thế là có thư ở Potxđam gửi đến à -
Ông lặp lại câu nói sau cùng của công tước Vaxili rồi bỗng đứng dậy lại gần con
gái. - Con ăn mặc trang điểm như thế này là để tiếp khách đây phải không? -
công tước nói - xinh lắm, xinh lắm.Trước mặt khách thì con chải đầu theo kiểu mới,
còn cha thì trước mặt khách cha xin nói với con rằng từ rày con không được thay
đổi cách ăn mặc nếu không có lệnh của cha. - Thưa cha, tại con đấy ạ, - công tước
phu nhân đỏ mặt nói nhỏ. - Chị thì muốn làm gì xin cứ tuỳ ý, - công tước
Nikolai Andreyevich nghiêng mình trước mặt con dâu nói, - còn con Maria thì
không việc gì phải tìm cách làm cho nó xấu thêm, cứ để như thường cũng đủ xấu lắm
rồi. Rồi công tước lại trở về ngồi chỗ cũ, không để ý đến con gái bấy giờ đã
rưng rưng nước mắt. Công tước Vaxili nói: - Không đâu, chải tóc như vậy rất hợp
với tiểu thư. - Thế nào, cậu công tước trẻ tuổi đây tên là gì nhỉ, - công tước
Nikolai Andreyevich quay sang Anatol hỏi, - Cậu lại đây nói chuyện, nào ta làm
quen với nhau. “Trò hề bắt đầu rồi đây” - Anatol nghĩ, và mỉm cười đến ngồi bên
cạnh lão công tước. Ông già ghé sát lại nhìn chăm chăm vào Anatol nói: - Ấy
nghe nói cậu được ăn học ở ngoài thì phải. Không như cha cậu với tôi ngày trước,
học chữ với một ông thầy dòng. Thế nào, bây giờ cậu tòng ngũ trong quân kỵ binh
phải không? - Không ạ, tôi đã chuyển sang bộ binh rồi ạ - Anatol đáp, chật vật
lắm chàng mới nhịn được cười. - Thế à hay lắm. Thế là cậu muốn phụng sự hoàng đế
và quốc gia đấy phải không? Thời buổi chiến tranh này, trai tráng như cậu thì
phải tòng ngũ, rất nên tòng ngũ. Thế nào, ra mặt trận chứ? - Thưa công tước
không ạ, trung đoàn chúng tôi xuất phát rồi. Còn tôi thì được xếp vào… Con được
xếp vào cái gì thế ba nhỉ? - Anatol bật cười quay về phía cha hỏi. Công tước
Nikolai Andreyevich cười lớn: - Thế mới là tòng ngũ đấy, thật là ra trò. “Con
được xếp vào cái gì thế nhỉ!”. Ha, ha, ha! Và Anatol cũng cười phá lên, cười to
hơn cả lão công tước nữa. Bỗng nhiên công tước Nikolai Andreyevich cau mày. Ông
bảo Anatol: - Thôi đi đi! Anatol mỉm cười, trở lại ngồi cạnh ba người đàn bà.
Lão công tước quay sang công tước Vaxili hỏi: - Thế là ông cho chúng nó ăn học ở
nước ngoài đấy hả, công tước Vaxili? Hả? - Tôi cũng cố gắng hết sức đấy thôi;
tôi cũng xin nói rằng giáo dục ở ngoài hơn ở trong nước nhiều lắm. - Phải, bây
giờ cái gì cũng khác, cái gì cũng theo lối mới cả. Cậu con trai bảnh lắm, anh
chàng giỏi trai lắm. Thôi về phòng tôi đi. Ông cầm lấy cánh tay công tước
Vaxili và dẫn ông ta vào phòng làm việc. Công tước Vaxili ngồi một mình với lão
công tước liền trình bày rõ ý muốn và hy vọng của mình cho ông ta nghe. Lão
công tước gắt gỏng nói: - Ông nghĩ thế nào thế hả, ông cho rằng tôi muốn giữ
nó, không rời nó ra được à? Họ cứ tưởng tượng ra thế đấy chứ! Tôi ấy à? Mai
cũng được chứ lại… Chỉ xin nói với ông rằng tôi cần phải biết con rể của tôi
cho rõ hơn. Ông cũng biết cái thói của tôi rồi đấy: cái gì cũng phải cho minh bạch.
Ngày mai trước mặt ông tôi sẽ hỏi con tôi: nếu nó bằng lòng thì hãy để con ông ở
lại đây ít lâu. Để nó ở ít lâu để tôi xem xem - công tước khịt mũi một cái -
cho nó đi lấy chồng! Tôi cần cái gì, - công tước nói như quát lên với cái giọng
danh và sắc như khi chia tay với con trai. - Tôi xin nói thẳng với công tước -
công tước Vaxili với cái giọng của một người khôn ngoan mánh khóe khi biết rõ rằng
không cần phải mánh khóe trước một người sâu sắc như người đang tiếp chuyện
mình - Công tước là người có thể nhìn thấu vào bụng dạ người đời. Anatol chẳng
phải tài ba gì, nhưng nó là một đứa trung thực, hiền hậu, rất biết đạo làm con.
- Thôi được thôi được, rồi sẽ xem. Những người đàn bà sống cô đơn, lâu ngày
không tiếp xúc với nam giới, bao giờ cũng vậy: khi Anatol xuất hiện ba người đà
bà trẻ tuổi ở Lưxye Gorư đều cảm thấy rằng trước đây cuộc sống của họ chẳng phải
là một cuộc sống nữa. Trong cả ba người, năng lực tư duy, cảm xúc, quan sát đều
trong khoảnh khắc tăng lên gấp bội, và có thể tưởng chừng như cuộc sống của họ,
bấy lâu văn trôi qua trong bóng tối nay bỗng bừng lên một ánh sáng mới mẻ, dầy
ý nghĩa. Công tước tiểu thư Maria hoàn toàn không nghĩ đến và không nhớ đến bộ
tóc của mình. Khuôn mặt đẹp đẽ, cởi mở của con người có lẽ sắp trở thành chồng
nàng đã thu hút sự chú ý của nàng. Nàng thấy người ấy tốt, gan dạ, quả quyết,
can đảm và cao thượng. Nàng tin chắc như vậy. Hàng nghìn ước mơ về cuộc sống
gia đình tương lai dồn dập hiện lên trong tưởng tượng của nàng. Nàng xua đuổi
và cố che giấu nó đi. “Mình có lạnh nhạt với người ta quá chăng? - công tước tiểu
thư Maria nghĩ thầm. - Ta muốn kìm giữ mình lại, vì trong thâm tâm ta đã cảm thấy
mình quá gần gũi với chàng; nhưng làm sao chàng biết tất cả những điều ta nghĩ
về chàng, cho nên chàng có thể tưởng tượng ta có ác cảm với chàng”. Và tiểu thư
Maria cố sao cho thật hòa nhã với người khách mới, nhưng nàng vụng về không biết
cách làm thế nào cho phải cả. “Tội nghiệp cô bé! Cô ta xấu tệ” - Anatol nghĩ thầm.
Anatol đến đây cũng làm cho cô Burien cảm thấy phấn chấn lên rất nhiều, nhưng ý
nghĩ của cô ta đi theo một chiều hướng khác. Cô thiếu nữ xinh đẹp ấy không có địa
vị rõ ràng trong xã hội, không có bạn bè thân thuộc, và cả tổ quốc cũng không.
Dĩ nhiên cô ta không có ý hy sinh cả cuộc đời mình để hầu hạ công tước Nikolai
Andreyevich để đọc sách cho ông ta nghe và làm bạn với tiểu thư Maria. Cô
Burien đã từ lâu chờ đợi một chàng hoàng tử Nga nào đấy sẽ nhận rõ ngay được rằng
cô hơn hẳn các tiểu thư Nga vụng về xấu người mà ăn mặc cũng xấu, chàng sẽ yêu
ta và sẽ đem ta đi; và đây chàng hoàng tử Nga ấy nay đã đến. Cô Burien có một
câu chuyện ngày trước cô đã nghe bà dì cô kể lại, rồi cô đã tự mình thêm thắt
cho trọn đoạn cuối một câu chuyện mà cô rất thích nhắc nhở trong tưởng tượng.
Đó là chuyện một người con gái bị quyến rũ; sau khi nàng bị sa ngã, mẹ nàng,
người mẹ đáng thương của nàng, đến gặp nàng và trách móc nàng đã trao thân cho
một người đàn ông mặc dầu chưa cưới xin. Cô Burien nhiều khi cảm động đến rơi
nước mắt mỗi lần cô tưởng tượng mình kể lại cho chàng, người quyến rũ mình,
nghe câu chuyện này. Cho đến nay, chàng ấy, một hoàng tử Nga thật [67] , đã hiện
đến. Chàng sẽ đem cô đi, rồi sau đó người mẹ đáng thương sẽ hiện ra, và chàng sẽ
cưới cô làm vợ. Đó là câu chuyện tương lai đã hình thành trong trí óc của cô
Burien ngay khi cô đang nói chuyện với Anatol về thành phố Paris. Cô Burien sở
dĩ làm như vậy không phải vì tuân theo một sự tính toán nào (thậm chí cũng
không có phút nào cô nghĩ mình sẽ phải làm gì), nhưng tất cả những điều đó đã từ
lâu có sẵn trong trí cô ta và bây giờ chỉ có việc tụ lại xung quanh chàng
Anatol vừa xuất hiện. người mà cô mong mỏi và cố sức lấy lòng. Công tước phu
nhân nhỏ nhắn, như một con chiến mã già của binh đoàn khi nghe tiếng kèn đồng
vang lên, bỗng quên hết cảnh của mình và chuẩn bị sẵn sàng phi nước đại trên
con đường làm duyên làm dáng, không hề có thâm ý gì và cũng không hề có đấu
tranh, mà chỉ có một niềm vui ngây thơ và nhẹ dạ. Mặc dầu trong khi tiếp xúc với
phụ nữ, Anatol thường đóng vai một người được phụ nữ theo đuổi quá nhiều đâm ra
phát chán, chàng vẫn thấy thích thú và hãnh diện khi thấy ảnh hưởng của mình đối
với ba người đàn bà này. Hơn nữa đối với Burien xinh đẹp và lẳng lơ kia chàng
còn thấy mình có cái cảm giác bồng bột, thú vật thường đến với chàng rất nhanh
và thúc đẩy chàng làm những việc hết sức thô bạo và liều lĩnh. Sau khi dùng trà,
khách và chủ sang phòng đi văng. Họ yêu cầu nữ công tước ngồi vào dương cầm,
Anatol đứng tựa khuỷu tay vào đàn ở phía trước mặt nàng, bên cạnh cô Burien và
đôi mắt đùa cợt tươi vui của chàng nhìn vào công tước tiểu thư Maria. Tiểu thư
Maria cảm thấy cái nhìn ấy bao phủ lên mình, lòng xúc động với một cảm gỉác vừa
da diết vừa vui tươi. Bản sonata [68] thân yêu đưa nàng sang một thế giới sâu
xa mà vô cùng thơ mộng và cái nhìn mà nàng cảm thấy đang đặt lên mình lại càng
làm cho cái thế giới đó vô vị hơn. Còn cái nhìn của Anatol tuy hướng về phía
nàng nhưng kỳ thật không liên quan gì đến nàng, mà lại có liên quan tới những cử
động của đôi chân cô Burien mà chàng đang lấy chân mơn trớn ở phía dưới chiếc
đàn. Cô Burien cũng nhìn công tước, và trong đôi mắt xinh đẹp của cô, tiểu thư
Maria thấy ánh lên một niềm vui đầy hy vọng và lo âu mà nàng chưa hề thấy. “Chị
ấy yêu mình đến thế kia ư! - công tước tiểu thư Maria nghĩ. - Giờ này ta hạnh
phúc quá, và sống bên một người bạn và một người chồng như thế thì hạnh phúc biết
chừng nào! Chồng ta ư? - nàng nghĩ, không dám nhìn lên phía chàng nhưng vẫn cảm
thấy cái nhìn của chàng bao phủ lên mình. Chương 5 Sau bữa ăn tối, khi mọi người
bắt đầu trở về phòng riêng, Anatol hôn tay công tước tiểu thư Maria. Chính nàng
cũng không biết tại sao mình lại có đủ can đảm làm như vậy, nhưng nàng đã nhìn
thẳng vào khuôn mặt tuấn tú đang nhích lại gần đôi mắt cận thị của nàng. Sau
khi chàng công tước Anatol đến hôn tay cô Burien (như thế không đúng phép lịch
sự, nhưng việc gì chàng cũng làm một cách đầy tự tin và hết sức giản dị). Cô
Burien đỏ mặt và sợ hãi đưa mắt nhìn công tước tiểu thư. “Ameli thật là tế nhị!
- Công tước tiểu thư nghĩ thầm (Ameli là tên riêng của cô Burien) - Chả nhẽ chị
ấy nghĩ rằng mình có thể ghen với chị ấy và không biết quý trọng lòng trìu mến
trong sạch và trung thành của chị ấy đối với mình sao?” - Nàng lại gần cô
Burien và ôm hôn cô thật mạnh. Anatol đến gần công tước phu nhân Liza để hôn
tay nàng. - Không, không, không! Khi nào ba anh viết thư cho tôi biết là anh đã
Turkestan tỉnh tôi cho anh hôn tay. Không thể trước được. Rồi nàng mỉm cười giơ
cao mấy ngón tay nhỏ nhắn lên và ra khỏi phòng. Mọi người đều giải tán về phòng
riêng, và chỉ trừ Anatol vừa đặt mình xuống giường đã ngủ ngay, còn thì đêm ấy
ai cũng trằn trọc rất lâu không sao ngủ được. Có thể nào chồng mình lại chính
là người ấy? Người đàn ông lạ mặt, đẹp trai, tốt bụng ấy ư? Cái chính là chàng
tốt bụng - công tước tiểu thư Maria nghĩ thầm, và một cảm giác sợ hãi mà nàng hầu
như chưa bao giờ biết đến bỗng tràn ngập tâm hồn nàng. Nàng sợ không dám quay đầu
lại nhìn, nàng có cảm giác như có ai đứng sau tấm bình phong, trong góc tường tối
om. Và “ai” đây lại chính là quỉ Satan mà lại cũng chính là chàng - người đàn
ông có vầng trán trắng trẻo, đôi lông mày đen, và đôi môi đỏ. Nàng rung chuông
gọi người hầu phòng và bảo chị ta ngủ lại trong phòng mình. Cô Burien tối hôm ấy
đi đi lại lại hồi lâu trong vườn ủ cây, bâng quơ chờ đợi một người nào không
rõ, khi thì mỉm cười với một người vô hình, khi lại cảm động đến ứa nước mắt vì
những lời nói tưởng tượng của người mẹ đáng thương trách móc cô sao đành sa
ngã. Công tước phu nhân nhỏ nhắn gắt người hầu gái dọn giường không kỹ, nằm
nghiêng cũng không được, nắm sấp cũng chẳng xong. Nàng thấy năm thế nào cũng nặng
nề, khó chịu. Cái bụng của nàng làm vướng víu. Chính hôm nay nó làm nàng thấy
vướng víu hơn bất cứ lúc nào trước kia, vì sự có mặt của Anatol đã vụt đưa nàng
trở về thời xưa cũ, khi nàng chưa như thế này, và cái gì cũng đều nhẹ nhàng vui
vẻ. Nàng mặc áo dài thụng và đội mũ vải mềm ngồi ghế bành. Katya mắt ríu lại vì
buồn ngủ, bím tóc rối bời bời, đang rũ và lật lại một lần thứ ba chiếc đệm độn
lông chim nặng trĩu, mồm lẩm bẩm cái gì không rõ. - Tôi đã bảo chị là chỗ nào
cũng lổn nhổn, chỗ lồi, chỗ lõm, - Công tước phu nhân nhắc lại - Thật ra tôi
cũng muốn ngủ lắm chứ; có phải tại tôi muốn gây ra đâu… - và giọng nói của nàng
run run như giọng đứa trẻ sắp khóc như vậy, cho nên vẫn thản nhiên khi bắt gặp
cái nhìn giận dữ có ý dò hỏi trên khuôn mặt vừa ló ra khỏi chiếc áo sơ mi. - Họ
ngủ rồi à? - Công tước hỏi. Cũng như tất cả những người đầy tớ tốt, Tikhôn đoán
biết được hướng tư tưởng của chủ. Lão biết rằng công tước đang hỏi về cha con
công tước Vaxili. - Dạ bẩm công tước, hai vị đã tắt đèn đi ngủ rồi ạ. - Đến làm
gì, đến làm gì kia chứ… - Công tước nói nhanh; rồi sau khi xỏ chân vào giày vải
và khoác áo choàng, công tước bước về phía trước đi-văng ông vẫn thường nằm ngủ.
Tuy giữa Anatol và cô Burien chưa ai nói gì với ai, họ đã hoàn toàn hiểu nhau về
phần đầu của thiên tiểu thuyết, trước khi bà mẹ đáng thương xuất hiện; họ hiểu
rằng họ cần nói riêng với nhau rất nhiều, cho nên từ sáng sớm họ đã tìm cơ hội
gặp riêng nhau. Trong khi tiểu thư công tước Maria đến giờ thường lệ đang đi đến
phòng cha thì cô Burien cùng đi với Anatol xuống vườn ủ cây. Sáng hôm sau ấy,
khi tiểu thư Maria đến cửa phòng làm việc của cha, nàng run rẩy khác thường.
Nàng có cảm giác là mọi người không những đều biết là hôm nay số phận của nàng
sẽ định đoạt, mà còn biết những ý nghĩ của nàng về việc đó. Nàng thấy rõ điều
đó trên vẻ mặt của Tikhôn và của người hầu phòng công tước Vaxili đang bưng nước
nóng đi trong hành lang và cúi chào rất thấp khi gặp nàng. Sáng hôm nay, khi tiếp
con gái, lão công tước có một thái độ hết sức ân cần và dịu dàng. Cái thái độ
ân cần tiểu thư Maria biết rất rõ. Đó chính là cái thái độ thường thấy trên
gương mặt của công tước những lúc hai bàn tay khẳng khiu của ông nắm lại thành
quả đấm bực tức về chỗ tiểu thư Maria không hiểu được một bài tính số học và
lão công tước đứng dậy bước ra cách nàng một quãng, khẽ nhắc lại vài lân những
lời giảng giải, không thay đổi lấy một chữ. Công tước lập tức đi thẳng vào việc
và bắt đầu nói: gọi tiểu thư Maria bằng “cô”. Họ vừa có lời hỏi tôi về vấn đề
hôn nhân của cô đấy. - Công tước vừa nói vừa mỉm cười gượng gạo. - Tôi chắc cô
đã đoán biết rằng công tước Vaxili đến đây đem theo cả cậu môn sinh (không hiểu
tại sao công tước Nikolai Andreyevich lại gọi Anatol là môn sinh) không phải vì
đôi mắt đẹp của tôi. Hôm qua họ có lời dạm hỏi cô. Và vì cô cũng biết những
nguyên tắc của tôi, tôi xin nói lại để cô rõ. - Thưa cha, con không biết nên hiểu
ý cha như thế nào ạ, - công tước tiểu thư nói, mặt tái nhợt đi rồi lại đỏ ửng
lên. - Hiểu như thế nào à? - Công tước giận dữ quát lớn - Công tước Vaxili cho
rằng mày về làm dâu thì rất hợp ý ông ta, cho nên đến dạm hỏi mày cho thằng môn
sinh. Đấy hiểu như thế đấy, hiểu như thế nào à? Tao hỏi mày đấy. - Con không được
biết ý cha, - Công tước tiểu thư khẽ đáp. - Tao à? Tao à? Tao cái gì? Tao thì hẵng
cứ gạt ra một bên. Không phải tao đi lấy chồng. Còn cô? Đấy cái ấy mới cần biết
chứ. Công tước tiểu thư thấy rằng cha mình có ý không tán đồng việc này nhưng
cũng trong giây phút ấy nàng lại có ý rằng số phận của đời nàng định đoạt ra
sao chính là ở lúc này. Nàng cúi mặt xuống để tránh cái nhìn vẫn khiến nàng cảm
thấy không sao có sức suy nghĩ, mà chỉ có thể phục tòng, theo thói quen, và
nói: - Con chỉ mong muốn có một điều, là làm theo ý cha, nhưng nếu cần phải bày
tỏ ý muốn riêng của con… Nàng không kịp nói hết, công tước đã ngắt lời: - Hay lắm?
- Ông quát. - Nó mang mày về cùng với số của hồi môn và nhân thể mang luôn cả
con Burien. Con ấy sẽ là vợ nó, còn mày… Công tước ngừng lại. Ông đã nhận thấy
cái ấn tượng mà mấy lời này gây ra trong lòng con gái. Nàng cúi đầu, nghẹn ngào
chỉ chực khóc. - Nào, thôi cha đùa đấy, cha đùa đấy. - Công tước nói. - Công tước
tiểu thư phải nhớ lấy một điều: ta vẫn giữ nguyên tắc là người con gái có toàn
quyền lựa chọn. Ta cho con tự do đấy. Chỉ cần con nhớ lấy một điều: quyết định
của con định đoạt cả hạnh phúc của đời con đấy. Còn ta thì không việc gì phải
nói đến. - Nhưng thưa cha, con không biết… - Chả có gì phải nói nữa! Họ bảo nó
lấy thì nó lấy thôi, chẳng phải nó chỉ lấy có mình mày, nó thì lấy ai cũng được,
còn mày thì tuỳ ý lựa chọn… Về phòng mà suy nghĩ đi rồi một giờ nữa đến đây mà
trả lời. Trước mặt nó mày chỉ việc nói: có hay không. Tao biết thế nào về buồng
mày cũng cầu nguyện. Thôi được, cầu thì cứ cầu. Nhưng tốt hơn là nên suy nghĩ
đi. Thôi đi đi. “Có hay không, có hay không, có hay không!” - Công tước còn
quát với theo khi tiểu thư Maria đã ra khỏi phòng, bước lảo đảo như đi trong
sương mù. Số phận nàng đã được định đoạt, mà định đoạt một cách may mắn. Những
điều cha nàng nói về cô Burien, lời ám chỉ đó khủng khiếp quá. Chắc là không
đúng đâu, nhưng nó vẫn khủng khiếp quá, nàng không thể không nghĩ đến chuyện đó
được. Nàng cứ thẳng phía trước mặt mà đi qua khu vườn ủ cây, chẳng trông thấy
gì, mà cũng chẳng nghe thấy gì hết. Bỗng tiếng nói thì thầm quen thuộc của cô
Burien làm nàng sực tỉnh. Nàng nhìn lên và cách mình hai bước, nàng thấy Anatol
đang ôm cô gái người Pháp và nói thầm với cô ta một câu gì không rõ. Anatol chợt
trông thấy nàng và trên khuôn mặt tuấn tú của chàng hiện lên một vẻ rất dễ sợ.
Trong giây phút bàng hoàng, chàng chưa kịp buông cô Burien ra còn cô ta thì lúc
ấy vẫn chưa trông thấy tiểu thư Maria. “Ai đấy? Tại sao? Khoan đã nào!” - Vẻ mặt
của Anatol như muốn nói. Công tước tiểu thư Maria im lặng nhìn hai người. Nàng
không hiểu nổi. Cuối cùng cô Burien kêu lên một tiếng và bỏ chạy, Anatol mỉm cười
vui vẻ nghiêng mình chào công tước tiểu thư Maria tưởng chừng như chàng đang mời
tiểu thư Maria cùng cười để chế nhạo cái việc kỳ quái vừa xảy ra, rồi Anatol
nhún vai một cái, và đi vào khung cửa dẫn về phòng mình. Một giờ sau, Tikhôn đến
gọi công tước tiểu thư Maria đến gặp lão công tước và nói thêm rằng có cả công
tước Vaxili Xergeyevich ở đấy nữa. Khi Tikhôn đến, công tước tiểu thư Maria
đang ngồi trên chiếc đi-văng ở trong phòng riêng ôm cô Burien đang khóc sụt sùi
công tước tiểu thư Maria vuốt nhẹ mái tóc của cô. Đôi mắt huyền diệu của nữ
công tước, nay đã điềm đạm và sáng trong như cũ đang trìu mến và xót thương
nhìn xuống gương mặt xinh xắn của cô Burien. - Không thể được, tiểu thư ạ, tôi
vĩnh viễn không còn được tiểu thư yêu thương nữa - cô Burien nói. - Tại sao thế?
Tôi càng yêu thương chị hơn bao giờ hết - công tước tiểu thư Maria nói - và tôi
sẽ cố làm hết những việc thuộc quyền hạn của tôi để cho chị được hạnh phúc. -
Nhưng tiểu thư khinh tôi: tiểu thư là người trong trắng như vậy tiểu thư không
bao giờ hiểu được phút lầm lạc của một tình yêu say đắm. Ôi, chỉ ái ngại cho
ngưòi mẹ đáng thương của tôi… Công tước tiểu thư Maria buồn rầu mỉm cười đáp: -
Tôi hiểu hết, chị cứ bình tâm lại, chị ạ. Tôi sang phòng cha một chút. - Nói đoạn,
tiểu thư đi ra. Khi nàng bước vào phòng cha, công tước Vaxili, chân ghếch cao
lên, tay cầm hộp thuốc lá, đang mỉm cưòi hiền lành, có vẻ xúc động đến cực điểm,
nhưng lại dường như tự lấy làm tiết và có ý chế giễu cái tính dễ xúc động đó.
Ông hấp tấp đưa một dúm thuốc lá bột lên mũi hít, đoạn đứng dậy và giơ tay ra nắm
lấy hai tay nàng, nói: - Ồ, tiểu thư ơi. - Công tước thở dài nói tiếp - Số phận
của con tôi đang nằm trong tay tiểu thư đấy. Xin tiểu thư quyết định cho, nếu tiểu
thư là người hiền hậu, dịu dàng là xưa nay tôi vẫn yêu quý tiểu thư như con gái
tôi vậy. Công tước Vaxili bước lùi lại. Một giọt nước mắt thật long lanh trên mắt
ông. - Kh… kh… - công tước Nikolai Andreyevich khịt mũi rồi nói -Công tước thay
mặt cho cậu môn sinh… À cậu con trai đến dạm hỏi con. Con có bằng lòng làm vợ
công tước Anatol Kuraghin hay không? Con hãy nói: có hay không - Công tước quát
lên, - rồi sau đó cha tự giành cho mình quyền nói ý kiến của cha. - Đoạn ông
quay sang phía công tước Vaxili nói thêm để đáp lại cái vẻ van lơn của ông ta -
Phải ý kiến của tôi, và chỉ là ý kiến của tôi thôi. Thế nào, có hay không? -
Thưa cha, ước nguyện của con là không bao giờ rời bỏ cha, không bao giờ tách
lìa đời con ra khỏi cha. Con không lấy chồng, - Nàng đáp, giọng quyết liệt, đôi
mắt đẹp dẽ của nàng nhìn thẳng vào công tước Vaxili và cha nàng. - Vớ vẩn nào!
Chuyện vớ vẩn! Vớ vẩn! - Công tước Nikolai Andreyevich cau mày kêu lên, rồi cầm
tay tiểu thư Maria kéo vào lòng nhưng không hôn mà chỉ khẽ đưa trán chạm nhẹ
vào trán nàng, và bóp chặt tay nàng đến nỗi nàng nhăn mặt khẽ kêu lên một tiếng.
Công tước Vaxili đứng dậy. - Tiểu thư thân mến ạ, tôi xin nói với tiểu thư rằng
đây sẽ là một phút mà tôi sẽ không bao giờ quên. Không bao giờ; nhưng chả nhẽ
tiểu thư lại không cho chúng tôi được chút hy vọng là sẽ có ngày làm siêu được
tấm lòng trung hậu, bao dung của tiểu thư sao? Xin tiểu thư nói cho rằng có lẽ…
Tương lai rộng lắm… Xin tiểu thư nói cho hai chữ, có lẽ… - Thưa công tước, điều
mà tôi đã thưa là tất cả những gì tôi cảm nghĩ trong lòng. Tôi xin cảm tạ tấm
thịnh tình của ngài, nhưng không bao giờ tôi có thể trở thành người vợ của con
ngài. - Thôi, thế là xong rồi đấy ông bạn ạ. Rất mừng được gặp ông, rất mừng.
Thôi về phòng đi con, về đi. Rất mừng, rất mừng được gặp ông - lão công tước vừa
nhắc đi nhắc lại vừa ôm hôn công tước Vaxili. “Chí hướng của ta khác, - Công tước
tiểu thư Maria, tự nhủ, chí hướng của ta là hưởng một hạnh phúc khác, hạnh phúc
của tình thương và của sự hy sinh. Và dù có phải thế nào chăng nữa, ta cũng sẽ
cố đem lại hạnh phúc cho chị Ameli đáng thương ấy. Chị ấy yêu chàng tha thiết
quá. Chị ấy hối hận chân thành quá. Ta sẽ làm tất cả để thu xếp cho Ameli lấy
được chàng. Nếu chàng không giàu, ta sẽ cấp của hồi môn cho Ameli, ta sẽ xin
cha, ta sẽ xin anh Andrey. Khi nào chị ấy thành vợ chàng rồi, ta sẽ sung sướng
đến nhường nào! Chị ấy khổ quá, xa lạ, cô đơn, không nơi nương tựa! Trời ơi, chị
ấy chắc phải yêu chàng tha thiết lắm mới có thể mất tự chủ đến như vậy. Có lẽ ở
địa vị Ameli ta cũng thế thôi…”.
Chương 6 Gia đình Roxtov đã từ lâu không được tin tức gì về
Nikolai và mãi đến giữa mùa đông, bá tước mới nhận được một bức thư. Đọc mấy chữ
đề trên phong bì, bá tước nhận ra nét chữ của con trai. Cầm bức thư trong tay,
bá tước hốt hoảng và hấp tấp rón rén chạy vào phòng riêng, cố không để cho ai
trông thấy mình. Vào phòng, bá tước đóng kín cửa lại và bắt đầu giở thư ra đọc.
Anna Mikhailovna biết tin có bức thư (trong nhà có chuyện gì phu nhân cũng biết
hết), liền rón rén bước vào phòng bá tước và bắt gặp ông ta đang cầm bức thư
trong tay, vừa cười vừa khóc nấc lên. Tuy công việc của Anna Mikhailovna đã thu
xếp ổn thỏa, phu nhân vẫn ở lại nhà bá tước Roxtov như cũ. - Ông bạn ơi - phu
nhân nói, giọng buồn buồn, và sẵn sàng tỏ lòng thương cảm. Bá tước càng nấc to
hơn. - Cháu Nikolai, có thư, bị, bị thương, bà ạ, nó được thăng sĩ quan… đội ơn
Chúa… làm thế nào nói với nhà tôi bây giờ… Anna Mikhailovna ngồi xuống cạnh bá
tước, lấy khăn tay lau mấy giọt nước mắt trên má ông và trên bức thư, rồi lau nước
mắt của mình, đọc bức thư, an ủi bá tước và quyết định rằng trước bữa ăn trưa
và bữa dùng trà bà sẽ chuẩn bị tinh thần cho bá tước phu nhân, và sau bữa trà
thì sẽ kể hết cho phu nhân nghe, nếu Chúa trời phù hộ. Suốt buổi trưa bà Anna
Mikhailovna nói về những tin đồn từ mặt trận về Nikolai, bà hai lần hỏi xem cái
thư cuối cùng của Nikolai gửi nhận được từ hôm nào, tuy bà đã biết rõ từ trước
và nói rằng có thể hôm nay lại nhận được thư. Cứ mỗi lần nghe những lời nói xa
xôi bóng gió ấy, bá tước phu nhân lại bắt đầu lo lắng đưa mắt nhìn bá tước hay
nhìn Anna Mikhailovna nhưng bà này lại khéo lái câu chuyện sang vấn đề linh
tinh khác. Cả nhà chỉ có Nasata là tinh nhất, có cái khiếu rất nhạy có thể cảm
thấy ngay những sắc thái tinh vi trong giọng nói, trong cách nhìn và vé mặt của
người khác. Từ đầu bữa ăn, Nasata đã vểnh tai nghe ngóng và biết rằng có chuyện
gì về anh mình đây cho nên bà Anna Mikhailovna đang nói rào trước. Nasata biết
rằng mẹ mình rất dễ xúc động mỗi khi có chuyện gì liên quan đến tin tức của
Nikolai nên tuy vốn rất liều lĩnh, trong suốt bữa ăn, cô cũng không dám hỏi gì
nhưng sốt ruột quá nên chẳng ăn uống gì cả, cứ loay hoay trở mình trên ghế, bất
chấp những lời quở trách của cô gia sư. Sau bữa ăn, Nasata hối hả chạy theo bà
Anna Mikhailovna, và đến phòng đi-văng thì nhân đà nhảy lên ôm lấy cổ bà ta. -
Dì ơi, dì yêu của cháu ơi, dì nói đi, cái gì thế hở dì? - Có gì đâu cháu. -
Không, dì yêu dấu của cháu, con bồ câu của cháu, quả đào của cháu, cháu không
buông dì ra đâu. Cháu biết rằng dì đã biết chuyện ấy. Bà Anna Mikhailovna lắc đầu
nói: - Mà thật là một con bé rất tinh đấy, con ạ. - Có thư của anh Nikolai à?
Đúng rồi! - Natasa kêu lên; cô đã đọc thấy một câu trả lời khẳng định trên vẻ mặt
của bà Anna Mikhailovna. - Nhưng dì van cháu, phải cho cẩn thận; cháu cũng biết
rằng việc này có thể làm cho mẹ cháu xúc động mạnh lắm đấy. - Vâng, vâng, nhưng
dì kể đi. Không kể à? Được, thế thì cháu đi nói với mẹ cháu ngay bây giờ. Bà
Anna Mikhailovna liền vắn tắt thuật lại cho Natasa nghe nội dung bức thư, dặn
là đừng nói với ai cả. Natasa làm dấu thánh giá nói: - Nhất định, cháu xin thề
với dì như vậy, cháu không nói với ai đâu rồi lập tức chạy đi tìm Sonya. - Anh
Nikolai, bị thương, có thư - Natasa nói, giọng long trọng và mừng rỡ. Sonya biến
sắc đi, chỉ nói được mấy tiếng: - Nikolai! Natasa, thấy cái ấn tượng mà tin anh
mình bị thương gây nên trong Sonya, bấy giờ mới cảm thấy rõ cái khía cạnh đáng
buồn của tin tức này. Cô chồm lại ôm lấy Sonya mà khóc: - Chỉ bị thương một
chút, nhưng lại được thăng chức sĩ quan rồi, bây giờ anh ấy rất khỏe rồi, chính
tay anh ấy viết - Natasa, vừa khóc vừa nói. Bây giờ Petya [69] đang hùng dũng từng
bước lớn đi qua căn phòng, thấy vậy liền nói: - Đấy thấy chưa, đàn bà các chị
toàn là đồ hay khóc cả, em thì em mừng lắm, đúng thế, rất mừng rằng anh Nikolai
đã có thành tích như vậy. Các chị thì chỉ hay khóc thôi. Các chị chả hiểu gì cả.
Natasa mỉm cười qua làn nước mắt. - Cô chưa đọc bức thư à? - Sonya hỏi. - Chưa
đọc, nhưng dì ấy bảo là khỏi hẳn rồi, anh ấy bây giờ là sĩ quan… - Đội ơn Chúa,
- Sonya làm dấu thánh giá, nói - Nhưng cũng có thể dì ấy lừa cô đấy? Ta đến gặp
mẹ đi. Petya im lặng đi đi lại lại trong phòng. - Em được như anh Nikolai thì
em sẽ giết nhiều giặc Pháp hơn nữa, bọn chúng nó tồi hết sức. Em sẽ giết nhiều
đến nỗi chất thành một đống to tướng! - Petya nói. - Im đi Petya, mày ngốc lắm!
- Em không ngốc đâu, những người nào náo động một tí cũng khóc mới là người ngốc,
- Petya nói. Natasa im lặng một lát rồi nói: - Chị có nhớ rõ anh ấy không?
Sonya mỉm cười: - Mình có nhớ Nikolai không ấy à? - Không phải thế, chị Sonya,
chị có nhớ anh ấy rõ như thế này này, rõ đến nỗi cái gì cũng nhớ cả cơ, -
Natasa vừa nói vừa làm một cử chỉ, có vẻ như muốn cho những lời nói của mình có
thêm một ý nghĩa thật trang nghiêm. - Em cũng nhớ anh Nikolai, em nhớ lắm. Còn
Boris thì không, chẳng nhớ tí nào cả… - Sao? Cô không nhớ Boris à? - Sonya ngạc
nhiên hỏi. - Không phải là em không nhớ, em biết anh ấy thế nào, nhưng không nhớ
rõ như Nikolai đâu. Anh Nikolai thì em nhắm mắt lại là có thể nhớ rõ ra còn
Boris thì không (Natasa nhắm mắt lại), đúng, chẳng thấy gì cả! - Ồ! Natasa ạ! -
Sonya nói, hai mắt hân hoan và trang trọng nhìn bạn, dường như nàng cho rằng
Natasa không xứng đáng nghe những điều mình đang định nói, và dường như nàng
nói điều ấy với một người khác, một nguời mà không thể nào đùa bỡn với họ được.
- Một khi tôi đã yêu anh cô, thì dù có việc gì ảy đến với anh ấy, hay với tôi,
suốt đời tình yêu của tôi cũng sẽ không bao giờ phai nhạt. Natasa ngạc nhiên và
tò mò nhìn Sonya rồi lặng thinh. Cô ta cảm thấy điều Sonya vừa nói là đúng sự
thật, rằng quả có một thứ tình yêu đúng như Sonya nói, nhưng Natasa chưa hề cảm
thấy một cái gì tương tự như thế. Cô tin rằng cái đó có thể có, nhưng cô không
hiểu được, Natasa hỏi: - Chị viết thư cho anh ấy chưa? Sonya ngẫm nghĩ. Nên viết
thư cho Nikolai như thế nào, và có cần viết cho anh ấy không, đó là một vấn đề
đã day dứt nàng nhiều. Bây giờ, Nikolai đã là sĩ quan, và lại là một anh hùng bị
thương, mà nàng lại nhắc cho Nikolai nhớ đến mình, và dường như cũng nhắc đến lời
cam kết của chàng đối với mình, thì như vậy có nên không? Nàng đỏ mặt nói: -
Không biết; mình cho rằng anh ấy đã viết thì mình cũng sẽ viết. - Thế chị viết
cho anh ấy như vậy có thấy thẹn không? Sonya mỉm cưòi: - Không. - Còn em mà viết
thư cho Boris thì em thẹn lắm, không viết đâu! - Sao lại thẹn kia chứ? - Thì thế
thôi, em không viết. Ngượng lắm, thẹn lắm. Petya nãy giờ giận Natasa vì bị chị
gọi là ngốc, liền lên tiếng: - Em biết tại sao chị ấy lại thẹn rồi; chính là vì
chị ta mê cái anh chàng to béo đeo kính kia (Petya vẫn thường gọi người trùng
tên với mình, bá tước Bezukhov, là “anh chàng to béo đeo kính”, bây giờ chị ta
lại mê cái ông danh ca kia nữa (Petya muốn nói đến ông thầy người Ý dạy hát cho
Natasa, ấy vì thế cho nên chị ta mới thẹn). - Petya, mày ngốc lắm, - Natasa
nói. - Chả ngốc hơn chị đâu, chị ạ - cậu bé Petya lên chín nói, giọng đúng như
giọng một ông đội già vậy. Trong bữa ăn trưa bá tước phu nhân đã được chuẩn bị
tinh thần bằng những lời nói xa xôi của bà Anna Mikhailovna. Trở về phòng
riêng, phu nhân ngồi trên chiếc ghế bành, mắt đăm đăm nhìn bức chân dung thu nhỏ
con trai khảm vào một chiếc hộp thuốc lá, nước mắt rưng rưng trên mi, bà Anna
Mikhailovna tay cầm bức thư rón rén đến trước cửa phòng bá tước phu nhân và dừng
lại. Bà nói với bá tước đang đi theo sau: - Đừng vào, chốc nữa hẵng hay, - rồi
vào phòng đóng cửa lại. Bá tước áp tai vào ồ khóa, bắt đầu nghe ngóng. Lúc đầu
ông nghe thấy tiếng nói chuyện bình thản, rồi sau đó chỉ nghe tiếng bà Anna
Mikhailovna đang nói một hơi dài, rồi một tiếng kêu, sau đó im lặng một lát, rồi
tiếp đến cả hai người cùng nói một lúc, giọng vui mừng, rồi lại nghe có tiếng
bước chân, và bà Anna Mikhailovna ra mở cửa cho bá tước vào. Trên gương mặt bà
Anna Mikhailovna có cái vẻ kiêu hãnh của một nhà phẫu thuật sau khi đã hoàn
thành một cuộc mổ xẻ khó khăn, đưa công chúng vào thưởng thức nghệ thuật của
mình. - Xong rồi! - Bà Anna Mikhailovna chỉ bá tước phu nhân nói, giọng long trọng.
Bấy giờ phu nhân một tay cầm chiếc hộp thuốc lá có khắc bức chân dung, tay kia
cầm bức thư, đang lần lượt áp môi vào chiếc hộp, rồi cầm bức thư. Trông thấy bá
tước, phu nhân đưa hai tay về phía chồng ôm hôn mái đầu hói của ông, rồi ngẩng
nhìn bức chân dung và bức thư qua cái đầu hói ấy, rồi lại đẩy cái đầu hói ra một
chút để áp hai vật ấy vào môi. Vera, Natasa, Sonya vào phòng, và cuộc tuyên đọc
bức thư bắt đầu. Trong thư có tả lại vắn tắt cuộc hành quân và hai trận đánh mà
Nikolai đã tham dự, kể lại việc chàng được thăng sĩ quan, và có nói rằng chàng
xin hôn tay mẹ và ba, xin cha mẹ cầu phúc cho chàng, và hôn Vera, Natasa,
Petya. Ngoài ra, chàng còn gửi lời chào ông Sêling và Sôt và u già, và ngoài
ra, chàng xin mọi người thay chàng hôn em Sonya yêu quý, mà chàng vẫn yêu và nhớ
như xưa. Nghe đến đây, Sonya đỏ mặt đến ứa nước mắt ra. Và không đủ sức chịu đựng
những đôi mắt đổ dồn về phía nàng. Sonya chạy ra phòng ngoài, nhảy nhót, quay
tròn, rồi ngồi thụp xuống nền nhà, làm cho chiếc áo dài của nàng phồng lên như
quả bóng lớn, khuôn mặt tươi cười ửng đỏ. Bá tước phu nhân khóc. - Sao mẹ lại
khóc? - Vera nói - Cứ như anh ấy viết đây thì phải mừng, chứ sao lại khóc. Điều
đó hoàn toàn đúng, nhưng cả bá tước bá tước phu nhân và Natara nữa - mọi người
đều nhìn Vera có ý trách móc. “Nó giống tính ai thế không biết!” - bá tước phu
nhân thầm nghĩ. Bức thư của Nikolai được đọc lại hàng trăm lần, và hễ người nào
được coi là xứng đáng được nghe thư đều phải đến gặp bá tước phu nhân, phu nhân
không lúc nào rời bức thư. Các gia sư, các bà vú em, cậu Mitynka một số người
quen đều lần lượt đến và cứ mỗi lần như thế là bá tước phu nhân lại đọc bức thư
lên với một cái thú mới mẻ, và mỗi lần như vậy phu nhân lại phát hiện thêm được
những đức tính mới ở thằng Nikolai yêu quý của mình. Phu nhân thấy đây là một
điều kỳ lạ, phi thường, đáng mừng hết sức: đứa con trai của phu nhân, chính đứa
con bé bỏng hai mươi năm trước đây còn cựa quậy rất khẽ trong lòng bà, đứa con
đã làm cho bà có lần cãi nhau với ông bố hay qua nuông chiều, đứa con đã học
nói được chữ “grusa” [70] trước tiên, rồi đến chữ “ba ba”, đứa con ấy ngày nay
trên đất khách, trong một môi trường xa lạ, đã là một chiến sĩ dũng cảm, một
mình, không ai giúp dỡ, hướng dẫn, đứa con ấy đang làm nhiệm vụ của một đấng
trượng phu. Tất cả cái kinh nghiệm tích luỹ hàng bao nhiêu thế kỷ của loài người
dạy rằng đứa trẻ nằm trong nôi một mai phải trở thành người đàn ông, cái kinh
nghiệm đó đối với phu nhân hình như không có nữa.
Mỗi thời kỳ lớn lên của đứa con trai ấy phu nhân thấy là phi thường, tưởng chừng như xưa nay chưa từng có hàng triệu triệu người cũng lớn lên như vậy. Hai mươi năm trước đây, phu nhân thấy khó mà tin rằng cái sinh vật nhỏ bé đang sống đâu ở phía dưới trái tim mình, lại có thể có ngày khóc oa oa lên và bập vào vú mình, rồi lại có ngày bắt đầu nói: thì bây giờ cũng vậy phu nhân cũng khó tin rằng cái sinh vật ấy lại có thể là một người đàn ông cường tráng, can đảm, một đứa con và một người gương mẫu, như qua bức thư có thể đoán biết. Văn mới hay làm sao, nó viết thư thật dễ thương quá! - Phu nhân nói khi đọc đoạn miêu tả trong thư. - Tâm hồn thật là cao thượng! Không nói về mình lấy một lời… không có lấy một lời! Chỉ thấy nói đến một anh Denixov nào đấy, nhưng nhất định nó mới là người dũng cảm nhất. Không hề viết lấy một lời về những nỗi khổ cực của mình. Thật là một tấm lòng vàng! Đúng tính nó quá! Ai nó cũng nhớ, không hề quên một người nào. Xưa nay tôi vẫn bảo mà, ngay từ khi nó hãy còn bằng ngần này này, tôi vẫn bảo là… Hơn một tuần lễ họ chuẩn bị, viết nháp rồi chép sạch lại những bức thư của cả nhà gửi cho Nikolai: vợ chồng bá tước lo toan việc góp nhặt đồ đạc và tiền nong để sắm quân phục và đồ dùng cho chàng sĩ quan mới nhận chức. Bà Anna Mikhailovna là một người đàn bà rất đảm đang, bà đã tìm được người che chở cho bà và con trai bà trong quân đội ngay cả về phương diện thư từ nữa. Bà đã có dịp gửi thư cho đại công tước Konxtantin Pavlovich bấy giờ là tư lệnh vệ quân. Gia đình Roxtov đoán rằng cận vệ quân Nga ở ngoại quốc là một địa chỉ hoàn toàn minh xác, và nếu bức thư đến tay đại công tước tư lệnh vệ quân, thì không có lý do gì nó lại không đến được trung đoàn Pavlograd, vì đơn vị này tất nhiên phải đóng quân ở đâu gần đấy thôi; cho nên họ quyết định gửi thư và tiền cho Boris qua đường thư tín của đại công tước, và Boris sẽ chuyển lại cho Nikolai. Bá tước Roxtov, bá tước phu nhân, Petya, Vera, Natasa, Sonya đều có thư gửi cho Nikolai và sau cùng là lão bá tước cho con trai sáu nghìn rúp để sắm quân trang và các thứ đồ dùng. Chương 7 Ngày mười hai tháng mười một đạo quân đã chiến của Kutuzov bấy giờ đã hạ trại ở gần Olmuytx, chuẩn bị hôm sau sẽ nghênh tiếp hai vị hoàng đế - Nga và Áo - tới duyệt binh. Quân cận vệ vừa mới ở Nga điều động sang, hạ trại nghỉ đêm ở cách Olmuytx mười lăm dặm và đến hôm sau kéo thẳng tới dự cuộc điểm binh. Vào khoảng chín giờ sáng quân cận vệ tiến vào cánh đồng Olmuytx. Ngày hôm ấy Nikolai Roxtov nhận được một mảnh giấy của Boris báo tin trung đoàn Izmail sẽ nghỉ đêm cách Olmuytx mười lăm dặm, và Boris nhắn Nikolai đến để trao thư và tiền. Nikolai bấy giờ đang rất cần tiền, vì quân đội đi chiến dịch về đến đóng quân ở gần Olmuytx, những người bán hàng ăn và những người Do Thái ở Áo mang đủ các thứ hàng hấp dẫn đến bán, chật cả doanh trại. Binh sĩ trung đoàn Pavlograd mở tiệc liên tiếp mừng những cuộc khen thưởng vừa nhận được nhân chiến dịch vừa qua và rủ nhau đến Olmuytx để vào hàng bà Karolina, một người đàn bà Hung vừa đến mở quán rượu ở Olmuytx, toàn do phụ nữ hầu bàn. Roxtov vừa ăn mừng được thăng chức thiếu uý, chàng lại mua con ngựa Bezun của Denixov cho nên mắc nợ các bạn và các chủ quán rất nhiều. Nhận được giấy của Boris, Roxtov rủ một người bạn đến Olmuytx, ăn chiều ở đấy, uống một chai rượu vang và một mình đến doanh trại quân cận vệ tìm người bạn cũ. Roxtov chưa kịp sắm quân phục mới. Chàng mặc một chiếc áo đôn-man của cấp chuẩn uý đã sờn cũ có đeo huân chương chữ thập của binh sĩ, một chiếc quần đũng da, đeo một thanh gươm sĩ quan ở chiếc thắt lưng to bản; con ngựa chàng cười là ngựa giống sông Đông, mua của một người cô-dắc trong chiến dịch; cái mũ phiêu kỵ dúm đó đội hất ra phía sau và lệch sang một bên trông rất ngang tàng. Khi đến gần doanh trại của trung đoàn Izmail chàng nghĩ đến lúc Boris và tất cả các bạn đồng ngũ của anh ta trong quân cận vệ phải trố mắt mà nhìn cái dáng dấp khinh kỵ thiện chiến và dạn dày lửa đạn của chàng. Quân cận vệ đã trải qua chiến dịch như qua một cuộc du ngoạn, hãnh diện phô trương vẻ sạch sẽ và kỷ luật của mình. Hành quân thì ngắt quãng, bạc đà thì cho xe trở đi. Cứ mỗi lần trú quân, Bộ tư lệnh Áo lại thết các sĩ quan những bữa tiệc rất hậu. Các trung đoàn khi tiến vào các thành phố hoặc khi rút đi đều có kèn trống tưng bừng, và trong suốt chiến dịch (binh sĩ cận vệ rất hãnh diện về điều này) theo lệnh của đại công tước, các đội ngũ bao giờ cũng đi đều bước các sĩ quan đi bộ ở vị trí của mình bên cạnh đơn vị. Trong suốt thời gian hành quân, Boris đi với Berg, bấy giờ đã là đại đội trưởng. Trong thời gian chiến dịch, Berg được cử lên chỉ huy một đại đội, nhờ tác phong cẩn thận, chu đáo chàng đã được cấp trên tin cậy và đã thu xếp được các công việc kinh tế của mình một cách rất có lợi; Boris trong thời gian chiến dịch đã làm quen với nhiều người có thể có ích cho chàng, và nhờ một bức thư giới thiệu của Piotr mà chàng mang theo, Boris đã làm quen được với công tước Andrey Bolkonxki. Chàng hy vọng nhờ Andrey xin cho một chỗ làm trong bộ tham mưu của tướng Tổng tư lệnh. Berg và Boris, y phục chỉnh tề và sạch sẽ, đã được nghỉ ngơi lại sức sau cuộc hành quân ban ngày vừa qua, đang ngồi trước một chiếc bàn tròn đánh cờ với nhau trong một gian phòng sạch sẽ giành riêng cho hai người. Berg hai bàn tay đặt giữa hai đầu gối cầm một tẩu thuốc bôc khói. Boris, với dáng điệu cẩn thận đặc biệt của chàng, đang lấy hai bàn tay trắng trẻ và thon nhỏ xếp các quân cờ đã ăn được thành hình cái tháp, đợi nước cờ của Berg, mắt nhìn vào mặt của đối thủ; có thể thấy rõ rằng chàng đang nghĩ đến ván cờ, cũng như thường lệ, chàng bao giờ cũng chỉ nghĩ đến việc mình đang làm. - Thế nào, anh liệu đi cách nào để thoát ra khỏi các thế bí này đây? - Boris nói. - Để cố nghĩ xem, - Berg đáp, tay đưa lên chạm vào quân cờ, rồi lại buông xuống. Vừa lúc ấy cánh cửa mở toang. - Đây rồi! - Roxtov reo lên. - Lại có cả Berg nữa! Chà Boris, pơti - zănfăng, alêcusê đormir! [71] - Chàng nói lớn, lặp lại câu nói của bà vú em mà hai người đã từng cười với nhau hồi trước. - Trời ơi cậu thay đổi nhiều quá! - Boris đứng dậy đón Roxtov, nhưng khi đứng dậy cũng không quên dỡ mấy quân cờ rơi xuống đặt lại chỗ cũ, và toan ôm lấy bạn, nhưng Nikolai né người lùi lại. Tuổi trẻ thường có một tình cảm dặc hiệt là sợ những con đường quá mòn, họ không bắt chước ai cả, muốn biểu hiện tình cảm theo một lối mới, theo lối riêng của họ, miễn sao đừng giống cái lối bày tỏ của các bậc cha anh, vốn thường giả dối. Nikolai muốn làm một điều gì thật đặc biệt khi gặp bạn, chàng muốn véo bạn, xô bạn thế nào đấy, nhưng làm sao đừng có ôm hôn như mọi người thường khác làm. Boris thì ngược lại chàng điềm tĩnh và thân mật ôm lấy Roxtov và hôn bạn ba lần. Gần nửa năm nay họ không gặp nhau; vào cái tuổi mà những người thanh niên bước những bước đầu tiên trên đường đời, cả hai đều thấy ở bạn mình có những sự thay đổi thật lớn lao, những điểm hoàn toàn mới phản ánh cái môi trường trong đó họ đã bước những bước đầu tỉên. Cả hai đều thay đổi rất nhiều từ dạo gặp nhau lần cuối cùng, và cả hai đều muốn kể ngay cho nhau nghe những sự biến đổi đã diễn ra trong con người mình. - Chà các anh thật là những tay công tử! Sạch sẽ bảnh bao như đi dạo mát ấy, không phải như bọn lính chiến đấu chúng tôi - Roxtov nói với một giọng ồ ồ và những lời nói cục cằn của con nhà lính rất mới lạ đối với Boris, vừa nói vừa chỉ ống quần ngựa lấm bùn của mình. Cô chủ nhà người Đức nghe tiếng Roxtov nói oang oang liền thò đầu ra cửa nhìn. - Thế nào, xinh đấy chứ ạ? - Nikolai nháy mắt nói. - Cậu quát gì mà to thế? - Cậu làm họ phát hoảng lên đấy. - Boris nói. - Mình không ngờ cậu lại đến hôm nay. Mãi hôm nay mình mới trao bức thư cho một viên sĩ quan phụ tá của Kutuzov và Bolkonxki mà mình có quen, nhờ đưa lại cho cậu. Mình không ngờ anh ta lại trao cho cậu được sớm thế… thế nào, cậu ra sao? Đã xông pha lửa đạn rồi đấy à? - Boris hỏi. Roxtov không đáp, chỉ đưa tay vỗ vỗ chiếc huân chương chữ thập Thánh George đeo trên dải áo và chỉ vào cánh tay băng bó, nhìn Berg mỉm cười. - Cậu thấy đấy, - Roxtov nói. - À ra thế! - Boris mỉm cười nói. - còn chúng mình cũng được một chiến dịch thật ra trò. Chắc cậu cũng biết rằng đại công tước hoàng đế luôn luôn cùng đi với trung đoàn chúng mình, cho nên bọn mình tha hồ hưởng đủ các thứ tiện nghi và phúc lợi. Ở Ba Lan chúng mình được những bữa tiệc chiêu dãi, tiệc tùng, khiêu vũ thật ra trò, mình không thể kể cho cậu nghe hết được? Hoàng đế dối xử với tất cả các sĩ quan chúng mình rất tử tế. Và hai người bạn kể cho nhau nghe, người thì kể những trò ngô nghịch theo kiểu con nhà kỵ binh và cuộc đời chiến đấu của mình, người thì kể lại những cái thích thú và những món lợi lộc mà người ta được hưởng khi tòng ngũ dười quyền chỉ huy của những nhân vật cao cấp. - Chà, quân cận vệ? - Roxtov nói. - À này, cậu bảo kiếm rượu về uống đi. Boris cau mày: - Nếu cậu nhất định muốn uống thì cũng được, - rồi Boris lại giường lấy dưới mấy chiếc gối trắng tinh ra một cái ví tiền và sai người đi mua rượu. - Phải, để đưa tiền và thư cho cậu luôn, - chàng nói thêm. Roxtov cầm lấy bức thư rồi vứt món tiền lên đi văng, chống hai khuỷu tay lên bàn và bắt đầu đọc. Chàng xem qua vài dòng vừa đưa mắt bực bội nhìn Berg. Bắt gặp mắt Berg bấy giờ cũng đang nhìn sang, Roxtov lấy thư che mặt lại. Berg nhìn vào cái túi tiền nặng đè lún xuống đệm đi-văng nói: - Họ gửi cho cậu nhiều tiền ra phết nhỉ. Còn như chúng mình chỉ biết trông vào đồng lương đấy thôi, bá tước ạ. Mình cũng xin nói rằng về phần mình…
Mỗi thời kỳ lớn lên của đứa con trai ấy phu nhân thấy là phi thường, tưởng chừng như xưa nay chưa từng có hàng triệu triệu người cũng lớn lên như vậy. Hai mươi năm trước đây, phu nhân thấy khó mà tin rằng cái sinh vật nhỏ bé đang sống đâu ở phía dưới trái tim mình, lại có thể có ngày khóc oa oa lên và bập vào vú mình, rồi lại có ngày bắt đầu nói: thì bây giờ cũng vậy phu nhân cũng khó tin rằng cái sinh vật ấy lại có thể là một người đàn ông cường tráng, can đảm, một đứa con và một người gương mẫu, như qua bức thư có thể đoán biết. Văn mới hay làm sao, nó viết thư thật dễ thương quá! - Phu nhân nói khi đọc đoạn miêu tả trong thư. - Tâm hồn thật là cao thượng! Không nói về mình lấy một lời… không có lấy một lời! Chỉ thấy nói đến một anh Denixov nào đấy, nhưng nhất định nó mới là người dũng cảm nhất. Không hề viết lấy một lời về những nỗi khổ cực của mình. Thật là một tấm lòng vàng! Đúng tính nó quá! Ai nó cũng nhớ, không hề quên một người nào. Xưa nay tôi vẫn bảo mà, ngay từ khi nó hãy còn bằng ngần này này, tôi vẫn bảo là… Hơn một tuần lễ họ chuẩn bị, viết nháp rồi chép sạch lại những bức thư của cả nhà gửi cho Nikolai: vợ chồng bá tước lo toan việc góp nhặt đồ đạc và tiền nong để sắm quân phục và đồ dùng cho chàng sĩ quan mới nhận chức. Bà Anna Mikhailovna là một người đàn bà rất đảm đang, bà đã tìm được người che chở cho bà và con trai bà trong quân đội ngay cả về phương diện thư từ nữa. Bà đã có dịp gửi thư cho đại công tước Konxtantin Pavlovich bấy giờ là tư lệnh vệ quân. Gia đình Roxtov đoán rằng cận vệ quân Nga ở ngoại quốc là một địa chỉ hoàn toàn minh xác, và nếu bức thư đến tay đại công tước tư lệnh vệ quân, thì không có lý do gì nó lại không đến được trung đoàn Pavlograd, vì đơn vị này tất nhiên phải đóng quân ở đâu gần đấy thôi; cho nên họ quyết định gửi thư và tiền cho Boris qua đường thư tín của đại công tước, và Boris sẽ chuyển lại cho Nikolai. Bá tước Roxtov, bá tước phu nhân, Petya, Vera, Natasa, Sonya đều có thư gửi cho Nikolai và sau cùng là lão bá tước cho con trai sáu nghìn rúp để sắm quân trang và các thứ đồ dùng. Chương 7 Ngày mười hai tháng mười một đạo quân đã chiến của Kutuzov bấy giờ đã hạ trại ở gần Olmuytx, chuẩn bị hôm sau sẽ nghênh tiếp hai vị hoàng đế - Nga và Áo - tới duyệt binh. Quân cận vệ vừa mới ở Nga điều động sang, hạ trại nghỉ đêm ở cách Olmuytx mười lăm dặm và đến hôm sau kéo thẳng tới dự cuộc điểm binh. Vào khoảng chín giờ sáng quân cận vệ tiến vào cánh đồng Olmuytx. Ngày hôm ấy Nikolai Roxtov nhận được một mảnh giấy của Boris báo tin trung đoàn Izmail sẽ nghỉ đêm cách Olmuytx mười lăm dặm, và Boris nhắn Nikolai đến để trao thư và tiền. Nikolai bấy giờ đang rất cần tiền, vì quân đội đi chiến dịch về đến đóng quân ở gần Olmuytx, những người bán hàng ăn và những người Do Thái ở Áo mang đủ các thứ hàng hấp dẫn đến bán, chật cả doanh trại. Binh sĩ trung đoàn Pavlograd mở tiệc liên tiếp mừng những cuộc khen thưởng vừa nhận được nhân chiến dịch vừa qua và rủ nhau đến Olmuytx để vào hàng bà Karolina, một người đàn bà Hung vừa đến mở quán rượu ở Olmuytx, toàn do phụ nữ hầu bàn. Roxtov vừa ăn mừng được thăng chức thiếu uý, chàng lại mua con ngựa Bezun của Denixov cho nên mắc nợ các bạn và các chủ quán rất nhiều. Nhận được giấy của Boris, Roxtov rủ một người bạn đến Olmuytx, ăn chiều ở đấy, uống một chai rượu vang và một mình đến doanh trại quân cận vệ tìm người bạn cũ. Roxtov chưa kịp sắm quân phục mới. Chàng mặc một chiếc áo đôn-man của cấp chuẩn uý đã sờn cũ có đeo huân chương chữ thập của binh sĩ, một chiếc quần đũng da, đeo một thanh gươm sĩ quan ở chiếc thắt lưng to bản; con ngựa chàng cười là ngựa giống sông Đông, mua của một người cô-dắc trong chiến dịch; cái mũ phiêu kỵ dúm đó đội hất ra phía sau và lệch sang một bên trông rất ngang tàng. Khi đến gần doanh trại của trung đoàn Izmail chàng nghĩ đến lúc Boris và tất cả các bạn đồng ngũ của anh ta trong quân cận vệ phải trố mắt mà nhìn cái dáng dấp khinh kỵ thiện chiến và dạn dày lửa đạn của chàng. Quân cận vệ đã trải qua chiến dịch như qua một cuộc du ngoạn, hãnh diện phô trương vẻ sạch sẽ và kỷ luật của mình. Hành quân thì ngắt quãng, bạc đà thì cho xe trở đi. Cứ mỗi lần trú quân, Bộ tư lệnh Áo lại thết các sĩ quan những bữa tiệc rất hậu. Các trung đoàn khi tiến vào các thành phố hoặc khi rút đi đều có kèn trống tưng bừng, và trong suốt chiến dịch (binh sĩ cận vệ rất hãnh diện về điều này) theo lệnh của đại công tước, các đội ngũ bao giờ cũng đi đều bước các sĩ quan đi bộ ở vị trí của mình bên cạnh đơn vị. Trong suốt thời gian hành quân, Boris đi với Berg, bấy giờ đã là đại đội trưởng. Trong thời gian chiến dịch, Berg được cử lên chỉ huy một đại đội, nhờ tác phong cẩn thận, chu đáo chàng đã được cấp trên tin cậy và đã thu xếp được các công việc kinh tế của mình một cách rất có lợi; Boris trong thời gian chiến dịch đã làm quen với nhiều người có thể có ích cho chàng, và nhờ một bức thư giới thiệu của Piotr mà chàng mang theo, Boris đã làm quen được với công tước Andrey Bolkonxki. Chàng hy vọng nhờ Andrey xin cho một chỗ làm trong bộ tham mưu của tướng Tổng tư lệnh. Berg và Boris, y phục chỉnh tề và sạch sẽ, đã được nghỉ ngơi lại sức sau cuộc hành quân ban ngày vừa qua, đang ngồi trước một chiếc bàn tròn đánh cờ với nhau trong một gian phòng sạch sẽ giành riêng cho hai người. Berg hai bàn tay đặt giữa hai đầu gối cầm một tẩu thuốc bôc khói. Boris, với dáng điệu cẩn thận đặc biệt của chàng, đang lấy hai bàn tay trắng trẻ và thon nhỏ xếp các quân cờ đã ăn được thành hình cái tháp, đợi nước cờ của Berg, mắt nhìn vào mặt của đối thủ; có thể thấy rõ rằng chàng đang nghĩ đến ván cờ, cũng như thường lệ, chàng bao giờ cũng chỉ nghĩ đến việc mình đang làm. - Thế nào, anh liệu đi cách nào để thoát ra khỏi các thế bí này đây? - Boris nói. - Để cố nghĩ xem, - Berg đáp, tay đưa lên chạm vào quân cờ, rồi lại buông xuống. Vừa lúc ấy cánh cửa mở toang. - Đây rồi! - Roxtov reo lên. - Lại có cả Berg nữa! Chà Boris, pơti - zănfăng, alêcusê đormir! [71] - Chàng nói lớn, lặp lại câu nói của bà vú em mà hai người đã từng cười với nhau hồi trước. - Trời ơi cậu thay đổi nhiều quá! - Boris đứng dậy đón Roxtov, nhưng khi đứng dậy cũng không quên dỡ mấy quân cờ rơi xuống đặt lại chỗ cũ, và toan ôm lấy bạn, nhưng Nikolai né người lùi lại. Tuổi trẻ thường có một tình cảm dặc hiệt là sợ những con đường quá mòn, họ không bắt chước ai cả, muốn biểu hiện tình cảm theo một lối mới, theo lối riêng của họ, miễn sao đừng giống cái lối bày tỏ của các bậc cha anh, vốn thường giả dối. Nikolai muốn làm một điều gì thật đặc biệt khi gặp bạn, chàng muốn véo bạn, xô bạn thế nào đấy, nhưng làm sao đừng có ôm hôn như mọi người thường khác làm. Boris thì ngược lại chàng điềm tĩnh và thân mật ôm lấy Roxtov và hôn bạn ba lần. Gần nửa năm nay họ không gặp nhau; vào cái tuổi mà những người thanh niên bước những bước đầu tiên trên đường đời, cả hai đều thấy ở bạn mình có những sự thay đổi thật lớn lao, những điểm hoàn toàn mới phản ánh cái môi trường trong đó họ đã bước những bước đầu tỉên. Cả hai đều thay đổi rất nhiều từ dạo gặp nhau lần cuối cùng, và cả hai đều muốn kể ngay cho nhau nghe những sự biến đổi đã diễn ra trong con người mình. - Chà các anh thật là những tay công tử! Sạch sẽ bảnh bao như đi dạo mát ấy, không phải như bọn lính chiến đấu chúng tôi - Roxtov nói với một giọng ồ ồ và những lời nói cục cằn của con nhà lính rất mới lạ đối với Boris, vừa nói vừa chỉ ống quần ngựa lấm bùn của mình. Cô chủ nhà người Đức nghe tiếng Roxtov nói oang oang liền thò đầu ra cửa nhìn. - Thế nào, xinh đấy chứ ạ? - Nikolai nháy mắt nói. - Cậu quát gì mà to thế? - Cậu làm họ phát hoảng lên đấy. - Boris nói. - Mình không ngờ cậu lại đến hôm nay. Mãi hôm nay mình mới trao bức thư cho một viên sĩ quan phụ tá của Kutuzov và Bolkonxki mà mình có quen, nhờ đưa lại cho cậu. Mình không ngờ anh ta lại trao cho cậu được sớm thế… thế nào, cậu ra sao? Đã xông pha lửa đạn rồi đấy à? - Boris hỏi. Roxtov không đáp, chỉ đưa tay vỗ vỗ chiếc huân chương chữ thập Thánh George đeo trên dải áo và chỉ vào cánh tay băng bó, nhìn Berg mỉm cười. - Cậu thấy đấy, - Roxtov nói. - À ra thế! - Boris mỉm cười nói. - còn chúng mình cũng được một chiến dịch thật ra trò. Chắc cậu cũng biết rằng đại công tước hoàng đế luôn luôn cùng đi với trung đoàn chúng mình, cho nên bọn mình tha hồ hưởng đủ các thứ tiện nghi và phúc lợi. Ở Ba Lan chúng mình được những bữa tiệc chiêu dãi, tiệc tùng, khiêu vũ thật ra trò, mình không thể kể cho cậu nghe hết được? Hoàng đế dối xử với tất cả các sĩ quan chúng mình rất tử tế. Và hai người bạn kể cho nhau nghe, người thì kể những trò ngô nghịch theo kiểu con nhà kỵ binh và cuộc đời chiến đấu của mình, người thì kể lại những cái thích thú và những món lợi lộc mà người ta được hưởng khi tòng ngũ dười quyền chỉ huy của những nhân vật cao cấp. - Chà, quân cận vệ? - Roxtov nói. - À này, cậu bảo kiếm rượu về uống đi. Boris cau mày: - Nếu cậu nhất định muốn uống thì cũng được, - rồi Boris lại giường lấy dưới mấy chiếc gối trắng tinh ra một cái ví tiền và sai người đi mua rượu. - Phải, để đưa tiền và thư cho cậu luôn, - chàng nói thêm. Roxtov cầm lấy bức thư rồi vứt món tiền lên đi văng, chống hai khuỷu tay lên bàn và bắt đầu đọc. Chàng xem qua vài dòng vừa đưa mắt bực bội nhìn Berg. Bắt gặp mắt Berg bấy giờ cũng đang nhìn sang, Roxtov lấy thư che mặt lại. Berg nhìn vào cái túi tiền nặng đè lún xuống đệm đi-văng nói: - Họ gửi cho cậu nhiều tiền ra phết nhỉ. Còn như chúng mình chỉ biết trông vào đồng lương đấy thôi, bá tước ạ. Mình cũng xin nói rằng về phần mình…
Roxtov nói: - Này, Berg, anh bạn ạ, khi anh được thư nhà và gặp
được người quen, đang muốn hỏi đủ các thứ chuyện, mà tôi lại tình cờ ngồi đấy
thì tôi sẽ bỏ đi chỗ khác ngay để khỏi làm phiền các anh. Thế thì anh cũng vậy,
xin anh đi chỗ khác cho một chút đi đâu cũng được đi về nhà ma cũng được! -
Roxtov quát, rồi lập tức nắm lấy vai Berg và dịu dàng nhìn vào mặt anh ta, có vẻ
như muốn làm cho những lời lẽ cục cằn của mình bớt thô bạo. Chàng nói thêm -
Anh ạ anh đừng giận nhé; anh bạn ạ, anh bạn rất quý ạ, đây là tôi thật bụng nói
thẳng với anh như với một người quen biết đã lâu. - À! Không sao đâu bá tước ạ,
tôi hiểu lắm, - Berg đứng dậy, nói bằng giọng cổ. - Anh vào nhà đi, gia đình chủ,
mời anh vào đấy. - Boris nói thêm. Berg mặc lên người một chiếc áo sạch bong,
không dây lấy một hạt bụi, ra đứng trước tấm gương vén hai mớ tóc mai lên phía
thái dương giống như vua Alekxandr Pavlovich và thấy Roxtov nhìn chiếc áo có vẻ
chú ý, Berg nở nụ cười nhã nhặn bước ra khỏi phòng. Roxtov đọc thư, miệng lẩm bẩm:
- Bậy quá, mình thật là đồ súc vật! - Sao? - Chà, mình thật là con lợn chứ
không phải mình viết thư lần nào ở nhà lo quá thế này. Chà, mình thật là đồ con
lợn! - Roxtov nhắc lại, mặt bỗng ửng đỏ. - Kìa, bảo Gavrlo đi kiếm rượu đi chứ!
Ta nốc một chầu! Trong các bức thư ở nhà gửi đến cho Roxtov có kèm thêm cả một
bức thư này là do bá tước phu nhân theo, lời khuyên của bà Anna Mikhailovna nhờ
người quen xin hộ, và gửi cho Nikolai, bảo chàng đưa tới công tước Bagration để
ông ta che chở cho. - Thật là vớ vẩn! Mình cần quái gì - Roxtov nói đoạn vứt bức
thư xuống dưới bàn. - Sao lại vứt đi thế? - Boris hỏi. - Thư giới thiệu giới
thiếc gì ấy mà, mình việc quái gì phải cần đến nó? Boris nhặt bức thư lên dọc mấy
chữ đề bì rồi nói: - Sao lại việc quái gì? Bức thư này cậu cần lắm đấy? - Mình
chẳng cần gì cả: mình chả đi làm phụ tá cho ai hết! - Tại sao thế? - Boris hỏi.
- Cái nghề đi làm đầy tớ cho người ta ấy mà! Boris lắc đầu nói: - Cậu vẫn cứ mơ
mộng như xưa. - Còn cậu thì vẫn là một nhà ngoại giao như trước. Nhưng thôi,
không nói đến chuyện ấy. Nào, cậu ra sao? - Roxtov hỏi. - Cậu thấy rồi đấy
thôi. Cho đến nay thì công việc đều ổn thỏa cả nhưng thú thực là mình rất mong
được làm sĩ quan phụ tá, chứ đừng ra trận. - Tại sao thế? - Tại vì một khi đã
chọn con đường quân sự thì phải cố gắng làm sao gây dựng được sự nghiệp cho rạng
rỡ. - Phải, chính thế đấy! - Roxtov nói, nhưng hình như tâm trí đang nghĩ đến
chuyện khác. Chàng nhìn chăm chăm vào mặt bạn có ý dò hỏi, hình như đang tìm
cách giải quyết một vấn đề gì tìm mãi không ra. Lão Gavrilo mang rượu ra. Boris
nói: - Bây giờ thì cho đi gọi Alfonx Karlyts đến nhé? Cậu ta sẽ uống rượu với cậu,
còn mình thì chịu thôi. - Được được! Sao, cậu thấy cái thằng Đức ranh ấy thế
nào? Roxtov mỉm cười khinh bỉ nói: - Cậu ấy rất tốt, rất tốt, một con người
trung thực và rất dễ chịu. Roxtov lại nhìn chăm chăm vào mặt Boris một lần nữa
và thở dài. Berg trở lại, và bên chai rượu, câu chuyện giữa ba người sĩ quan trở
nên rất rôm rả. Hai người sĩ quan cận vệ kể lại cho Roxtov nghe chuyện chiến dịch
của mình, chuyện những cuộc chiêu đãi ở Nga, ở Ba Lan và nước ngoài. Họ kể những
lời lẽ và hành động của thủ trưởng họ là đại công tước, những mẩu chuyện giai
thoại về tính hiền hậu mà nóng nẩy của ông ta. Cũng như thường lệ, Berg im lặng
khi câu chuyện không dính đến bản thân anh ta, nhưng những mẩu giai thoại về
tính nóng nẩy của đại công tước, anh ta khoái trá kể rằng ở Galixi anh ta đã có
dịp nói chuyện với đại công tước khi ngài đi kiểm tra các trung đoàn và nổi trận
lôi đình vì các đơn vị chuyển quân không đúng. Với một nụ cười hòa nhã trên
môi, Berg kể rằng đại công tước lúc đó giận lắm; ngài thúc ngựa lại gần anh ta
và quát: “Arnaut [72] (là tiếng văng tục ưa thích của hoàng đế khi nổi giận) và
đòi gặp đại đội trưởng ngay”. Bá tước có tin được không hả, tôi chẳng sợ một tí
nào, vì tôi biết mình phải. Chẳng phải tôi khoe khoang đâu bá tước ạ, nhưng tôi
cũng có thể nói rằng tôi thuộc lòng các mệnh lệnh của trung đoàn, còn điều lệ
thì tôi thuộc chẳng kém gì kinh Lạy cha chúng tôi ở trên trời, vì thế cho nên
trong đại đội tôi không bao giờ có điều gì cẩu thả đâu bá tước ạ. Ấy thế là
lương tâm tôi rất thanh thản. Tôi liền ra mắt đại công tước (Berg nhổm dậy và
đưa tay lên ngang mày như khi đang ở trước mặt đại công tước. Quả thật khó lòng
mà có được tư thế lễ phép và tự mãn hơn). Thế là ngài liền “xạc” tôi như người
ta thường nói: nào “arnaut”, nào là “đồ quỉ sứ”, nào là “đáng đày đi Xibir cả”
chẳng thiếu thứ gì - Berg nói, miệng mỉm cười thâm thuý - Tôi biết mình phải,
nên tôi cứ làm thinh, thế có phải không bá tước? “Thế nào, anh câm rồi hả?”
ngài quát. Tôi vẫn lắng thinh. Anh nghĩ thế nào, hả bá tước? Hôm sau trong bản
nhật lệnh chẳng nhắc đến một câu nào; đấy, như thế mới gọi là tỉnh trí chứ! Thế
đấy bá tước ạ. - Berg kết luận, hút một hơi thuốc và phì khói ra thành vòng
tròn. - Vâng, rất may. - Roxtov mỉm cười nói. Nhưng Boris nhận thấy Roxtov đang
sắp chế giễu Berg liền khéo léo lái câu chuyện sang hướng khác. Chàng bảo
Roxtov thuật lại chuyện anh ta bị thương ra sao và ở chỗ nào, Roxtov thích lắm,
liền bắt đầu kể, càng kể lại càng hăng. Anh ta thuật lại chuyện mình tham dự trận
Songraben hoàn toàn giống như những người có tham gia một trận chiến đấu tường
thuật lại, nghĩa là mình muốn cho trận đó diễn ra như thế nào thì thuật lại như
thế, mình nghe người khác kể lại như thế nào thì kể lại như thế, kể thế nào cho
thật hay thì kể, chứ tuyệt nhiên không theo đúng sự thật. Roxtov là một chàng
thanh niên thành thực, chàng không đời nào đi nói dối một cách có chủ tâm. Khi
bắt đầu kể, chàng có ý định là sẽ thuật lại đúng sự thật, nhưng dần dà chàng bỗng
dưng chuyển sang kể khác hẳn từ lúc nào chàng cũng không biết. Những người nghe
chàng kể cũng như bản thân chàng, đã nhiều lần nghe những câu chuyện thuật lại
các trận xung kích và đã có một khái niệm nhất định về vấn đề thế nào là một trận
xung kích và hễ khi nghe kể, thì nhất định họ chờ đợi nghe một câu chuyện đúng
y như thế. Cho nên giả sử Roxtov thuật lại sự thật cho họ nghe, họ sẽ không tin
chàng hay tệ hơn nữa, lại nghĩ rằng chính vì chàng kém cỏi thế nào cho nên mới
không gặp những chuyện mà những người kể chuyện khác vẫn thường gặp trong những
cuộc xung kích của kỵ binh. Không lẽ chàng lại kể một cách giản đơn rằng đơn vị
chàng phóng nước kiệu, chàng bị ngã ngựa, bị sái tay và ba chân bốn cẳng chạy
vào rừng để trốn quân Pháp, muốn kể đúng y như sự thật, thì phải cố kiềm giữ
mình lại để chỉ kể những điều có xảy ra thật mà thôi. Kể đúng sự thật rất khó,
thanh niên ít người làm được. Boris và Berg đợi nghe chàng kể rằng máu chàng
sôi sục lên, chàng say sưa quên mình lao vào đội ngũ hình vuông của địch như một
trận cuồng phong; chàng len vào giữa quân địch chém bên trái, phạt bên phải:
gươm chàng đã nếm mùi thịt người và chàng mệt lả ra, vân vân, vân vân. Cho nên
chàng kể lại cho họ nghe đúng như vậy. Giữa những câu chuyện, trong khi Roxtov
đang nói: “Cậu không thể tưởng tượng cái cảm giác điên cuồng kỳ lạ mà người ta
cảm thấy khi xung phong” thì công tước Andrey Bolkonxki bước vào phòng. Công tước
Andrey vốn thích có những quan hệ bề trên với những người thanh niên, và lấy
làm thích thú khi họ cầu xin mình che chở cho. Boris hôm trước đã khéo léo lấy
lòng được công tước Andrey, cho nên chàng có thiện cảm với Boris và muốn chiều
ý anh ta. Được Kutuzov phái đi đưa công văn cho hoàng đế, chàng ghé chỗ Boris
hy vọng sẽ được gặp anh ta một mình. Khi bước vào phòng và trông thấy anh chàng
phiêu kỵ đang kể lại chuyện đánh nhau (loại người này công tước Andrey không
sao chịu nổi), chàng dịu dàng mỉm cười với Boris, cau mày, nheo nheo đôi mắt
nhìn Berg và hơi nghiêng mình chào, rồi uể oải và lười biếng ngồi xuống đi
văng. Chàng lấy làm khó chịu và tình cờ gặp phải cái anh phiêu kỵ ba hoa này,
Roxtov hiểu ý đỏ mặt. Nhưng chàng cũng chẳng cần: đó chỉ là một người lạ. Tuy vậy
khi nhìn sang Boris, chàng thấy anh ta hình như đang xấu hổ vì ông bạn phiêu kỵ
đã chiến này. Mặc dầu công tước Andrey vừa rồi có một giọng nói giễu cợt khó chịu,
mặc dầu nói chung Roxtov theo cái nhìn của bộ đội chiến đấu rất coi thường bọn
sĩ quan tham mưu - chàng đoán chắc người mới vào cũng thuộc hạng này - chàng vẫn
thấy ngượng; chàng đỏ mặt và im bặt. Boris hỏi trong bộ tham mưu có tin gì mới
không, và nếu hỏi như thế này không đến nỗi quá thất thố, thì công tước có nghe
nói gì về những dự định của quân ta không. - Có lẽ cũng định sẽ tiến quân thì
phải, - Bolkonxki đáp. Hình như trước mặt người lạ, chàng không muốn nói gì nhiều
hơn. Berg thừa dịp liền hỏi với một giọng rất lễ độ xem có phải đúng như người
ta nói là sẽ phát lương thảo cho đại đội trưởng bộ đội đã chiến nhiều gấp đôi
lên không? Công tước Andrey mỉm cười đáp rằng mình không thể có ý kiến gì về những
công việc quốc gia quan trọng như vậy được, và Berg liền vui vẻ cười xòa. Công
tước Andrey lại quay sang Boris. - Về việc của anh, ta sẽ nói chuyện - rồi đưa
mắt nhìn Roxtov một cái, chàng nói tiếp với Boris - sau buổi duyệt binh, anh đến
tôi nhé. Chúng ta sẽ liệu xem có thể làm được những gì. Rồi nhìn quanh phòng, chàng
quay về phía Roxtov và không thèm để ý đến cái vẻ ngượng nghịu trẻ con không
sao trấn áp nổi của chàng kỵ binh bây giờ đã chuyển thành tức giận, chàng nói:
- Hình như ông đang kể lại trận Songraben thì phải, ông có dự trận ấy? - Tôi có
dự, - Roxtov nói, giọng bực tức, dường như để trêu gan viên sĩ quan phụ tá.
Bolkonxki chú ý đến thái độ của chàng kỵ binh và thấy vẻ giận dữ của chàng ta
cũng hay hay. Chàng hơi nhếch mép, mỉm cười khinh khỉnh. - Phải! Bây giờ người
ta kể nhiều chuyện về trận này lắm. - Phải, nhiều chuyện lắm! - Roxtov nói lớn,
hai mắt bỗng quắc lên giận dữ, hết nhìn Boris, lại nhìn sang Bolkonxki. - Phải,
người ta kể nhiều chuyện lắm, nhưng chuyện của chúng tôi kể là chuyện của những
người đã từng ở dưới làn đạn của quân địch, chuyện của chúng tôi có căn cứ hẳn
hoi, chứ không phải như chuyện của những anh chàng ở bộ tham mưu chuyên ngồi
không mà vẫn được khen thưởng. - Chắc ông liệt tôi vào hàng ấy chứ gì? - công
tước Andrey mỉm cười một nụ cười đặc biệt nhã nhặn, bình tĩnh nói. Trong lòng
Roxtov bấy giờ có một cảm xúc kỳ lạ, chàng thấy tức giận nhưng đồng thời lại thấy
kính nể thái độ bình tĩnh lạ lùng của con người kia. Chàng nói: - Đây là tôi
không nói đến ông, tôi không quen biết ông và xin thú thật rằng tôi cũng chẳng
có ý muốn quen biết ông. Tôi nói là nói chung về các sĩ quan tham mưu. Công tước
Andrey ngắt lời Roxtov. Chàng nói, giọng dõng dạc mà bình tĩnh: - Còn tôi thì
tôi xin thưa với ông như sau. Ông muốn lăng mạ tôi, và tôi sẵn sàng đồng ý với
công việc đó rất để làm, nếu ông không cỏ đủ tự trọng; nhưng xin ông đồng ý cho
rằng việc đó hiện nay thật không đúng chỗ và đúng lúc tý nào. Nay mai tất cả
chúng ta sẽ dự một cuộc đọ sức rất lớn, quan trọng hơn nhiều, và hơn nữa, anh
Drubeskoy đây có nói rằng anh ấy là bạn cũ của ông, anh ấy tuyệt nhiên không có
lỗi gì nếu bộ mặt của tôi chẳng may có cái bất hạnh là không được vừa mắt ông.
Vả chăng - chàng vừa nói, vừa đứng dậy - Ông cũng biết tên họ tôi và biết khi cần
thiết phải tìm ở chỗ nào: nhưng xin ông dừng quên - chàng nói thêm - rằng tôi
không hề có ý tự cho mình, hay cho ông là người bị xúc phạm, và tôi xin lấy tư
cách một người nhiều tuổi hơn ông mà khuyên ông đừng làm cho việc này có thêm hậu
quả gì. Thế thì đến thứ sáu sau buổi kiểm duyệt anh đến tôi anh Drubeskoy nhé;
xin chào - công tước Andrey kết luận, và sau khi cúi chào cả hai người, chàng
ra ngoài. Mãi khi công tước Andrey đã đi khỏi phòng Roxtov mới nghĩ ra là trong
trường hợp này cần phải trả lời như thế nào. Chàng lại càng tức mình là đã
không nghĩ ra cho kịp thời. Roxtov lập tức sai đưa ngựa lại, và chào ông Boris
một câu rất xẵng rồi ra về. Ngày mai chàng có nên đi đến đại bản doanh và thách
cái thằng cha sĩ quan phụ tá làm bộ kia đấu súng không, hay cứ để yên như thế!
Câu hỏi này cứ giày vò chàng suốt dọc đường về. Có khi chàng tức giận nghĩ đến
lúc sẽ được hưởng cái thú trông thấy con người mảnh khảnh và kiêu căng ấy run sợ
trước mũi súng của mình, có khi chàng lại ngạc nhiên cảm thấy rằng trong số tất
cả những người mà chàng biết, không có ai chàng muốn kết bạn bằng cái viên sĩ
quan phụ tá mà chàng căm ghét ấy. Chương 8 Sau buổi gặp gỡ giữa Boris và Roxtov
một hôm, có cuộc điểm duyệt các đội quân Áo và Nga, kể cả những đội quân từ Nga
mới điều sang chưa xuất trận lần nào, cả những đội vừa đi chiến dịch với
Kutuzov trở về. Hoàng đế nước Nga cùng với hoàng thái tử và hoàng đế nước Áo
cùng với đại công tước [73] sẽ đến điểm duyệt đội quân đồng minh gồm tám vạn
người. Từ sáng sớm, những đội quân quần áo chỉnh tề, súng chuốt gươm lau bóng
nhoáng đã đứng thành đội ngũ trên cánh đồng ở trước một pháo đài. Có lúc hàng
nghìn cặp chân và hàng nghìn lưỡi lê chuyển đi, quân kỳ bay phấp phới, và đến
khi nghe lệnh của các sĩ quan thì dừng lại, đi chếch sang một bên, đứng vào vị
trí ở những khoảng trống, giữa những khối lính cũng là bộ binh nhưng mặc quân
phục khác; có lúc lại có tiếng vó ngựa nhịp nhàng và tiếng vũ khí lách cách của
một đội kỵ binh ăn mặc sang trọng trong những bộ trang phục đỏ, xanh lam, xanh
lá cây, có tốp quân nhạc mặc áo thêu kim tuyến đi trước, cưỡi những con ngựa ô,
ngựa hồng, ngựa xám; có lúc lại là một đội pháo binh với những tiễng lăn vang
vang như tiếng đồng của những cỗ pháo lau chùi bóng nhoáng lắc lư trên bánh xe
và với mùi khen khét của những chiếc bùi nhùi trong lửa, đi thành dãy dài len
vào giữa bộ binh và kỵ binh, vào đứng ở vị trí đã định. Không phải chỉ có các vị
tướng mặc đại quân phục ngày lễ, đeo hết huân chương lên ngực, với những thân
hình to béo hay mảnh dẻ nai chặt như đóng nêm, những cái cổ thắt khăn lụa đỏ ửng
lên vì cổ áo cao lên quá chật; không phải chỉ có viên vĩ quan đầu xức sáp thơm
và nai nịt hết sức gọn ghẽ, mà ngay cả mỗi người lính, mặt cạo nhẵn và rửa ráy
cẩn thận trông rất tươi tắn, súng ống lau chùi bóng lộn, ngay cả mỗi con ngựa
được tắm chải cẩn thận đến nỗi bộ lông óng lên như satanh và bờm chải chuốt kỹ
lưỡng sợi này phủ lên sợi kia đều răm rắp tất cả đều cảm thấy có một việc gì
nghiêm trang, trọng đại sắp diễn ra. Từ vị tướng đến người lính thường đều cảm
thấy mình nhỏ bé, không thấm vào đâu, họ đều có những ý thức rằng mình chỉ là hạt
cát trong cái bể người này, và đồng thời cũng cảm thấy cái sức mạnh của mình,
có ý thức rằng mình là một bộ phận của cái toàn thể vô cùng to lớn này. Từ sáng
sớm đã bắt đầu những cuộc chuẩn bị rộn rịp, dồn dập và căng thẳng, và đến chín
giờ tất cả đều đã sửa soạn xong xuôi. Trên cánh đồng rộng mênh mông các đội ngũ
đã đứng chỉnh tề. Tất cả các đạo quân xếp thành ba hàng. Phía trước là kỵ binh,
phía sau là pháo binh, sau nữa là bộ binh. Giữa mỗi hàng quân dường như có một
con dưòng dài thắng tắp Ba bộ phận của đoàn quân này tách biệt nhau rất rõ: đạo
quân đã chiến của Kutuzov (trong đó trung đoàn Pavlograd đứng phía trước, sườn
bên phải), các trung đoàn đã quân và cận vệ quân từ Nga mới sang, và quân đội
Áo. Nhưng tất cả đều đứng thành một hàng, cùng chung một bộ chỉ huy và cùng
theo một trật tự chung. Như một ngọn gió thổi qua rặng cây, có tiếng thì thào hồi
hộp chuyển qua các cánh quân: “Đến rồi! Đến rồi!” có những tiếng nói hoảng hốt,
và trên khắp đoàn quân tràn quan làn sóng của những sự chuẩn bị cuối cùng. Ở
phía trước Olmuytx hiện ra một nhóm người đang tiến lại gần. Và ngay lúc đó, mặc
dầu ngày hôm đó trời rất lặng, một luồng gió nhẹ thổi qua đoàn quân và khẽ lay
động những ngọn cờ đuôi nheo trên giáo kỵ binh, và những ngọn quân kỳ rung lên
chạm vào đốc cán. Tưởng chừng như đó là một cử động của chính đoàn quân rung
lên vì vui mừng khi thấy hai vị hoàng đế đến. Một tiếng hô “Nghiêm!” vang lên.
Kế đến có nhiều tiếng hô đáp lại từ bốn phía như tiếng gà thi nhau gáy sáng. Rồi
tất cả trơ lại im lặng. Trong bầu không khí im phăng phắc chỉ nghe tiếng vó ngựa
lóc cóc. Đó là đoàn tuỳ tùng của hai vị hoàng đế. Hai nhà vua lại gần sườn đoàn
quân và tiếng kèn đồng của trung đoàn kỵ binh thứ nhất vang lên trong điệu
nghênh giá. Nghe tiếng kèn, người ta tưởng chừng như không phải những người
lính kèn cử điệu nhạc này, mà chính bản thân đoàn quân, thấy có hai vị vua đến,
vui mừng quá tự nhiên thốt ra âm thanh đó. Qua tiếng kèn chợt nghe rõ tiếng nói
trẻ trung, ôn tồn của hoàng đế Alekxandr. Người cất tiếng chào mừng, và trung
đoàn thứ nhất liền hô to: “Vạn tuế!” tiếng hô vang dậy, kéo dài và vui mừng đến
nỗi ngay cả những người hô cũng kinh hoảng vì số lượng và sức mạnh của cái khối
to lớn mà mình là một thành phần. Roxtov đứng ở những hàng đầu của bộ đội
Kutuzov là đơn vị được hoàng đế đến gần trước tiên, cũng có cái cảm xúc như mọi
người đứng trong hàng ngũ này - cái cảm giác tự quên mình tự hào về sức mạnh của
mình, cái tình cảm bồng bột say mê con người đã gây nên những cảm xúc vui mừng
mãnh liệt đó.
Chàng cảm thấy người đó chỉ cần nói một tiếng thôi cũng đủ
cho tất cả cái khối to lớn này và cả chàng nữa, một hạt cát bé nhỏ gắn liền vào
khối đó, vui lòng lao mình vào lửa đạn, vào tội ác, vào cái chết hay lao mình
vào một hành động anh dũng phi thường, cho nên chàng không thể không rung động,
không lịm người đi khi thấy lời nói đó đang đến dần. - Ura! Ura! Ura! - tiếng
hoan hô vang dậy bốn phương trời, và các trung đoàn lần lượt cử điệu kèn chào
nghênh tiếp vị hoàng đế, rồi lại “Ura!”, rồi lại tiếng kèn chào nghênh giá và
tiếp đến lại những tiếng “Ura” ngày càng mạnh thêm mãi, hòa lẫn vào nhau làm
thành một tiếng ầm ầm nhức tai choáng óc. Trong khi hoàng đế chưa đến gần, mỗi
trung đoàn đều im lìm, bất động như một cái xác không hồn, nhưng hoàng đế vừa đến
ngang tầm thì mỗi trung đoàn đều sinh động hẳn lên và tung hô vang dậy, hòa với
tiếng tung hô của tất cả các đơn vị mà nhà vua đã đi qua. Trong tiếng hô kinh
thiên động địa của hàng vạn giọng người, giữa đám quân lính im lìm như đã hòa
đá trong các đội ngũ vuông vức của họ, mấy trăm kỵ sĩ trong đoàn tuỳ giá diễn
qua, dáng lơ đễnh nhưng hàng ngũ rất cân đối và nhất là phong thái rất ung
dung, và phía trước đoàn kỵ binh mã là hai vị hoàng đế. Bao nhiêu tâm trí của
toàn thể khối quân sĩ đều dồn hết vào hai người đó, với một lòng hâm mộ nhiệt
tình mà họ cố kìm bớt lại. Hoàng đế Alekxandr, trẻ và đẹp, trong bộ quân phục kỵ
binh cận vệ, mũ ba góc đội hơi lệch về một bên tai, khuôn mặt tuấn tú hòa nhã
và giọng nói không to, nhưng sang sảng của Người thu hút tất cả sự chú ý của mọi
người. Roxtov đứng gần đội kèn trống, và từ xa đôi mắt tinh anh của chàng đã nhận
ra nhà vua và theo dõi hướng tiến của ngài lại gần. Khi nhà vua chỉ còn cách
vài mươi bước, Roxtov trông rõ mồn một khuôn mặt đẹp đẽ, trẻ trung và vui sướng
của hoàng đế, chàng thấy lòng tràn ngập một tình cảm trìu mến và hân hoan mà
xưa nay chàng chưa hề biết. Tất cả - Mỗi đường nét, mỗi cử động của nhà vua
chàng đều thấy có sức quyến rũ diệu kỳ. Khi đến trước mặt trung đoàn Pavlograd,
nhà vua dừng ngựa lại quay sang nói một câu gì bằng tiếng Pháp với hoàng đế Áo
và mỉm cười. Trông thấy nụ cười ấy, Roxtov cũng bất giác mỉm cười theo, và lại
càng thấy lòng dào dạt một tình yêu mãnh liệt đối với vị hoàng đế của mình.
Chàng muốn có cách nào đó thổ lộ tình yêu ấy ra. Chàng biết rằng việc đó không
thể được, và chàng thấy muốn khóc. Nhà vua gọi viên chỉ huy trung đoàn lại nói
với ông ta mấy câu. “Trời ơi! Giả sử hoàng thượng nói với mình, thì không biết
mình sẽ ra sao đây! - Roxtov nghĩ thầm - Mình sẽ sung sướng đến chết mất”. Nhà
vua quay ra nói với các sĩ quan: - Thưa các vị (mỗi một lời của nhà vua, Roxtov
nghe mà tưởng chừng như một tiếng nói trên trời truyền xuống) - Tôi xin chân
thành cảm tạ tất cả các vị! Giá Roxtov có thể chết ngay bây giờ vì hoàng đế của
chàng, thì chàng sẽ sung sướng đến ngần nào! - Các vị đã lập công đáng được thưởng
cờ Thánh George và các vị sẽ tỏ ra xứng đáng với những lá cờ đó. “Ước gì được
chết, được chết vì Người!” - Roxtov nghĩ: Hoàng đế còn nói thêm một câu gì đấy
mà Roxtov không nghe rõ, và quân lính hô vang đến vỡ cả lồng ngực: “Ura”.
Roxtov cũng khom người trên yên ngựa lấy hết sức bình sinh ra hô thật to, cố hô
sao cho đau cả họng, miễn sao có thể biểu lộ hết được lòng hâm mộ của mình đối
với hoàng đế. Nhà vua dừng một lát trước mặt đội phiêu kỵ, có vẻ như ngập ngừng
phân vân.”Làm sao hoàng thượng mà lại có thể phân vân?” - Roxtov nghĩ thầm, rồi
chàng lại thấy vẻ như phân vân ấy có một cái gì thật uy nghi và đáng yêu, cũng
như tất cả những gì mà hoàng đế làm. Hoàng đế phân vân chỉ trong khoảnh khắc.
Người dùng mũi ủng nhọn theo thời trang bấy giờ chạm vào sườn con ngựa hồng lai
Anh của ngài cưỡi, bàn tay đi găng trắng của nhà vua thu bộ dây cương lại và
cho ngựa đi, theo sau là đoàn sĩ quan phụ tá lố nhố như một mặt nước gợn sóng.
Nhà vua tiếp tục đi điểm binh, thỉnh thoảng dừng lại trước mấy trung đoàn khác
và cuối cùng Roxtov chỉ còn trông thấy chùm lông trắng dính trên mũ Người, vượt
lên trên đám người hầu cận đi theo hai vị hoàng đế. Trong số nhân vật trong
đoàn tuỳ tùng, Roxtov thấy có cả Bolkonxki uể oải và lười biếng ngồi thõng thượt
trên mình ngựa. Roxtov nhớ lại cuộc cãi cọ với Bolkonxki ngày hôm qua và trong
trí chàng lại hiện ra vấn đề nên hay không nên thách anh ta đấu súng. Nhưng bây
giờ Roxtov lại nghĩ: “Dĩ nhiên là không nên. Vả chăng, trong giờ phút như thế
này vấn đề đó sao đáng cho ta nghĩ ngợi hay bàn đến. Trong một giờ phút đầy
tình yêu, đầy lòng hân hoan và quên mình như thế này, những vụ cãi cọ xích mích
của chúng ta nào có nghĩa lý gì. Bây giờ ta yêu tất cả mọi người, bây giờ thì
ta tha thứ hết”. - Roxtov nghĩ. Khi nhà vua đã đi gần khắp các trung đoàn, các
đội quân bắt đầu diễu binh trước mặt ngài, và Roxtov cưỡi con ngựa Bezun mới
mua của Denixov đi ở cuối kỵ đội, nghĩa là một mình một hàng và có thể được nhà
vua trông thấy rõ. Trước khi đi ngang hoàng thượng, Roxtov vốn là một tay cưỡi
ngựa rất giỏi, hai lần thúc cựa giày vào hông ngựa, khiến con Bezun chuyển sang
cái bước kiệu hùng dũng mà nó thường có mỗi khi hăng tiết. Miệng sùi bọt mép, đầu
cúi xuống sát ngực, đuôi vểnh lên cao, con tuấn mã dường như bay trên không
trung, không chạm xuống đất; vó nó lần lượt rất cao, nhịp nhàng và uyển chuyển;
con Bezun cũng cảm thấy mắt hoàng đế đang nhìn vào nó cho nên diễu qua một cách
cực kỳ hùng dũng. Còn chính Roxtov thì hai chân nghiêng ra sau, bụng thóp lại.
Chàng cảm thấy mình gắn liền vào với ngựa thành một khối, gương mặt cau có
nhưng hể hả, cưỡi ngựa qua mặt hoàng đế “hệt một con quỷ” như Denixov thường
nói. - Lính Pavlograd khá lắm! - hoàng đế nói. “Trời! Sung sướng biết bao, nếu
Người ra lệnh cho ta lao vào lửa đạn ngay bây giờ” - Roxtov nghĩ. Khi cuộc điểm
binh đã kết thúc, các sĩ quan mới đến và các sĩ quan của Kuturov bắt đầu tụm
năm tụm ba kháo chuyện về những cuộc khen thưởng, về người Áo, về mặt trận, về
Buônapáctê và về chuyện hắn ta bây giờ sẽ điêu đứng đến thế nào, nhất là khi
binh đoàn Exxen đã sắp đến và nước Phổ đứng về phía ta. Nhưng trong tất cả các
nhóm tụm lại kháo chuyện người ta nói nhiều nhất là đến hoàng đế Alekxandr. Họ
truyền miệng nhau từng lời từng chữ, từng cử chỉ một của ngài và hết sức ca ngợi,
thán phục ngài. Mọi người chỉ mong có một việc: làm sao sớm được xuất quân đi
đánh giặc dưới quyền chỉ huy của hoàng đế. Ngài mà thân chinh chỉ huy lấy quân
đội thì không thể không chiến thắng bất kỳ kẻ địch nào, - đó là ý nghĩ của
Roxtov và phần lớn các sĩ quan sau cuộc điểm binh. Sau cuộc điểm binh, mọi người
tin tưởng vào thắng lợi còn chắc chắn hơn là sau khi đã chiến thắng hai trận.
Sau buổi duyệt binh một hôm, Boris mặc bộ quân phục đẹp nhất của mình vào, và
sau khi nhận những lời chúc thành công của Berg bèn lên ngựa đi Olmuytx tìm gặp
Bolkonxki và tìm cách thu xếp cho mình một địa vị thật tốt, đặc biệt là làm sĩ
quan phụ tá cho một nhân vật quan trọng, địa vị mà chàng cho là béo bở nhất
trong quân đội. “Như chàng Roxtov kia, được cha gửi cho hàng vạn rúp, một lần,
thì gì mà chả có thể nói phét là mình không muốn luồn cúi ai, không muốn làm đầy
tớ ai! Còn như mình, chẳng có tài sản vì ngoài cái óc cả thì phải gây dựng lấy
một cơ đồ phải cố sao dừng bỏ qua những người tốt, phải nắm lấy mà lợi dụng” Ở
Olmuytx hôm đó chàng không tìm thấy công tước Andrey. Nhưng quang cảnh thành
Olmuytx nơi đóng đại bản doanh, nơi ngụ cư của ngoại giao đoàn và của vị hoàng
đế cùng với tất cả các quan chức hầu cận, các triều thần, lại càng khiến cho
chàng thêm thiết tha mong mỏi được ở trong thế cái thế giới cao sang này. Chàng
không quen biết ai, và mặc dầu chàng mặc bộ quân phục sĩ quan cận vệ rất sang,
tất cả những con người quyền cao chức trọng kia đang diễu qua các phố trong những
cỗ xe ngựa sang trọng, lộng lẫy với những tua mũ lông, những dải lụa và những
huân chương, những triều thần và tướng tá ấy có vẻ đứng cao hơn hẳn chàng, một
anh sĩ quan cận vệ quèn, cao hơn nhiều quá, đến nỗi không những họ không muốn,
mà còn không thể nào thừa nhận rằng có chàng tồn tại trên đời này nữa. Ở trụ sở
của quan Tổng tư lệnh Kutuzov là nơi chàng đến tìm gặp Bolkonxki, tất cả các sĩ
quan phụ tá, và ngay cả mấy anh cần vụ nữa, cũng nhìn chàng với cái vẻ như muốn
cho chàng hiểu rằng những hạng sĩ quan như chàng tò mò đến đây rất nhiều và làm
phiền người ta quá đỗi rồi. Tuy vậy, hay đúng hơn là vì vậy, ngày hôm sau, ngày
mười lăm, sau bữa ăn trưa chàng lại đến Olmuytx và đi vào ngôi nhà dành cho
Kutuzov để hỏi Bolkonxki. Công tước Andrey lần này có nhà và người ta đưa Boris
vào một gian phòng lớn. Hồi trước, hình như đây là phòng khiêu vũ, nhưng bây giờ
trong phòng có đặt năm chiếc giường và nhiều thứ đồ gỗ hỗn tạp: một chiếc bàn,
mấy cái ghế, và một chiếc dương cầm. Một sĩ quan phụ tá mặc áo choàng ngủ bằng
vóc Ba Tư đang ngồi viết ở chiếc bàn đặt gần cửa. Một sĩ quan khác là Nexvitxki
mặt đỏ, béo dẫy, đang nằm trên giường gối đầu lên hai bàn tay, và đang cười cợt
với một sĩ quan khác vừa đến ngồi cạnh giường. Người thứ ba đang chơi một bài Valse
thành Viên trên chiếc dương cầm, người thứ tư thì nằm thưỡn người trên chiếc
đàn và nhầm hát theo. Bolkonxki không có ở đây. Khi thấy Boris vào, những người
đang ở trong phòng không có ai thay đổi tư thế. Boris lên tiếng hỏi viên sĩ
quan đang ngồi viết. Hắn quay lại, vẻ bực bội, và trả lời rằng hôm nay
Bolkonxki phải trực nhật, và nếu muốn gặp thì đi vào cánh cửa bên trái, đến
phòng tiếp tân. Boris cảm ơn và đi sang phòng tiếp tân. Trong phòng có độ mười
vị sĩ quan. Khi Boris vào, công tước Andrey, mắt nheo nheo lại có vẻ khinh khỉnh
(cái vẻ đặc biệt của một người đã mệt mỏi nhưng văn giữ lễ độ, cho người ta thấy
rõ rằng giá thử đây không phải là nhiệm vụ của tôi, thì tôi đã không thèm nói
chuyện với ngài lấy một phút), lắng nghe một vị tướng Nga già đeo đầy huân
chương đang đứng nghiêm rướn thẳng người gần như kiễng chân lên, khuôn mặt đỏ
tía lộ vẻ cung kính theo kiểu nhà binh, báo cáo với công tước Andrey một việc
gì đấy. - Được lắm, xin ngài đợi một lát, - Chàng nói với vị tướng bằng tiếng
Nga với cái giọng Pháp mà chàng thường có khi muốn tỏ ý khinh thị, và khi trông
thấy Boris, chàng không quay lại với vị tướng nữa (bấy giờ ông ta đang chạy
theo van xin chàng nghe ông nói nốt). Công tước Andrey mỉm cười vui vẻ quay
sang Boris gật đầu chào. Lúc đó Boris hiểu rõ một điều mà chàng đã cảm thấy từ
trước, - là trong quân đội, ngoài cái tôn ti và kỷ luật có ghi trong điều lệ mà
trong trung đoàn ai cũng biết và chính chàng cũng biết, còn có một thứ tôn ti
khác quan trọng hơn, đó là cái tôn ti đã buộc một vị tướng mặt đỏ tía kia phải
kính cẩn chờ đợi, một khi đại uý công tước Andrey thích cho rằng nói chuyện với
thiếu uý Drubeskoy bây giờ tiện hơn. Hơn bao giờ hết, Boris quyết chí từ nay sẽ
không tuân theo cái tôn ti có ghi trong điều lệ quân đội nữa, mà sẽ tuân theo
cái tôn ti không thấy ghi kia. Bây giờ chàng đã thấy rõ rằng chỉ vỉ mỗi một việc
là chàng được giới thiệu với công tước Andrey thôi, thế mà chàng đã lập tức đứng
cao hơn một vị tướng, một người mà trong những trường hợp khác, khi đứng ở
trong hàng ngũ, có thể dễ dàng biến một viên thiếu uý cận vệ như chàng thành
con số không. Công tước Andrey lại nắm lấy tay chàng. - Rất tiếc là hôm nay anh
không gặp tôi. Suốt ngày tôi phải đi giải quyết công việc với người Đức. Tôi với
Vairother đi thẩm tra lại cách bố trí quân. Một khi mà ngùời Đức họ đã quyết
làm cho cẩn thận thì thật không cùng. Boris mỉm cười, làm như mình hiểu những
việc mà công tước Andrey nhắc đến, xem như đó là những việc mà mọi người đã biết.
- Nhưng thật ra, chàng nghe nói đến Vairother lần này là lần đầu và cái danh từ
“bố trí quân” kia cũng vậy. - Thế nào, bạn anh, anh vẫn thích làm sĩ quan phụ
tá đấy à? Từ hôm nọ tôi cứ nghĩ đến viẹc của anh mãi đấy. - Vâng, tôi có ý định
- Boris nói, không hiểu tại sao bất giác đỏ mặt, - xin quan tổng tư lệnh; ngài
đã tiếp được một bức thư của công tước Kuraghin nói về tôi, tôi muốn xin cũng
chỉ vì, - Boris nói thêm như để xin lỗi, - chỉ vì tôi sợ rằng quân cận vệ sẽ
không tham gia chiến sự. - Được! Được! Chúng ta sẽ bàn tất cả những từ đó, -
công tước Andrey nói, - Anh hãy để cho tôi vào báo cáo về vị tướng kia một
chút, rồi ra với anh ngay. Trong khi công tước Andrey vào báo cáo về vị tướng
có bộ mặt đỏ tía thì ông này, hình như không đồng ý lắm với những quan niệm của
Boris về những cái lợi của thứ tôn ti không ghi vào quy chế, đưa mắt trừng trừng
nhìn anh thiếu uý hỗn xược đã làm cho ông không nói hết được câu chuyện với
công tước Andrey đến nỗi Boris thấy ngượng. Chàng quay mặt đi và nóng lòng chờ
công tước Andrey ở phòng quan tổng tư lệnh trở ra. Khi hai người cùng nhau đi
vào gian phòng lớn có chiếc dương cầm, công tước Andrey bảo Boris: - Anh bạn à,
tôi đã nghĩ về việc của anh rồi. Anh không nên đến gặp quan tổng tư lệnh làm
gì, ông ta sẽ nói với anh một mớ lời rất nhã nhặn, sẽ bảo anh đến dự bữa trưa với
ông ta (“Được như vậy thì cũng đã khá lắm nếu xét theo thứ tôn ti kia” - Boris
nghĩ thầm), nhưng chỉ có thế thôi ngoài ra chẳng thêm được gì hết; sĩ quan phụ
tá tuỳ tùng ở đây sắp đông đến một tiểu đoàn rồi. Nhưng chúng ta sẽ làm như thế
này: tôi có một người bạn rất thân làm phó tướng. Đó là công tước Dolgorukov, một
người rất tốt, anh có thể rất biết việc này, nhưng thực ra hiện nay Kutuzov
cùng với bộ tham mưu của ông cũng như tất cả chúng tôi hầu như chẳng có nghĩa
lý gì nữa: hiện nay tất cả đều tập trung vào tay hoàng thượng; cho nên chúng ta
sẽ đến Dolgorukov. Tôi cũng đang cần gặp ông ấy tôi đã nói chuyện với ông ấy về
việc anh rồi, rồi ta sẽ xem ông ấy có thể xếp cho anh một chỗ gần ông hay ở một
nơi nào gần mặt trời không. Công tước Andrey bao giờ cũng hồ hởi đặc biệt khi
có dịp dìu dắt một người thanh niên xây dựng địa vị trong xã hội. Lấy cớ là để
nâng đỡ người khác - một sự nâng đỡ mà vì kiêu hãnh chàng không đời nào nhận
cho mình - công tước Andrey tìm đến gần những nơi quyền quý vốn có sức hấp dẫn
chàng. Chàng rất sẵn lòng giúp đỡ Boris và cùng đi với anh ta đến nhà công tước
Dolgorukov. Trời đã khá khuya khi hai người bước vào cung điện Olmuytx, nơi trú
ngụ của hoàng đế và các nhân vật thân cận với ngài. Ngày hôm ấy có buổi hội đồng
quân sự, trong đó có tất cả các thành viên của Viện ngự tiền quân sự tham nghị
và hai vị hoàng đế cùng tham dự. Trong buổi hội đồng này, ngược lại với ý kiến
của hai ông già là Kutuzov và công tước Svartxenberg, họ đã quyết định ngày tấn
công ngay và đưa đoàn quân mở trạn đánh Buônapáctê. Hội đồng mới kết thúc khi
công tước Andrey cùng với Boris vào cung điện tìm công tước Dolgorukov. Tất cả
các nhân vật trong đại bản doanh đều đang say sưa với buổi hội đồng quân sự hôm
nay đã đưa lại thắng lợi cho phái trẻ. Tiếng nói của những người chủ trương trì
hoãnn, khuyên chưa nên tấn công để chờ đợi một cái gì ở đâu đâu, đều bị át đi một
cách nhất trí và các luận cứ của họ bị những bằng chứng không thể nào chối cãi
về những cái lợi của cuộc tấn công bác bỏ một cách chắc chắn đến nỗi những điều
đã được bàn ở hội đồng: trận đánh sắp tới và thắng lợi hiển nhiên của trận đánh
này, đều hình như không phải là chuyện tương lai nữa, mà là chuyện đã xảy ra rồi.
Tất cả các thuận lợi đều ở phía ta. Những lực lượng rất lớn, nhất định là vượt
hẳn các lực lượng của Napoléon, đã được điều động tập trung một chỗ: quân lính
đều phấn khới vì sợ có mặt của hai vị hoàng đế và nức lòng tham chiến; Địa điểm
chiến lược, nơi sẽ diễn ra trận đánh, đã được vị tướng Áo Vairother chỉ huy
quân đội am hiểu tường tận đến từng chi tiết (dường như có một sự tình cờ may mắn
đã xui quân đội Áo hồi năm ngoái tập trận ngay trên những khoảng đất mà quân ta
sắp đánh nhau với quân Pháp); miền này đã được nghiên cứu rất tỷ mỷ và ghi lại
kỹ lưỡng trên các bản đồ, còn Buônapáctê thì hình như đã suy yếu nên không thấy
hành động gì cả. Dolgorukov, một trong những người hăng hái nhất phe tấn công,
vừa mới ở phiên họp ra, mệt mỏi rã rời, nhưng phấn chấn và kiêu hãnh vì thắng lợi
vừa đạt được trong hội đồng. Công tước Andrey giới thiệu người sĩ quan được
mình che chở với ông ta, nhưng Dolgorukov chỉ bắt tay Boris rất chặt và lễ độ,
mà không nói gì với anh ta cả. Hẳn ông ta không đủ sức kìm hãm được ý muốn nói
ra những ý nghĩ đang khiến ông bận tâm nhất lúc này, cho nên công tước
Dolgorukov quay sang phía Andrey và nói bằng tiếng Pháp: - Chà anh bạn ạ, chúng
tôi vừa tham dự một trận đánh thật ra trò! Chỉ mong sao kết quả của nó cũng đưa
lại thắng lợi như thế. - Nhưng bạn ạ, - Ông nói tiếp, giọng phấn chấn và dứt
quãng - Tôi phải thừa nhận rằng trước đây mình có lỗi với người Áo, và nhất là
đối với Vairother. Họ thật là chính xác, chí lý, am hiểu địa phương thật là tường
tận, lại nhìn thấy trước được tất cả các hoàn cảnh, tất cả các chi tiết dù là
nhỏ nhặt nhất! Không anh bạn ạ, không thể nào tưởng tượng được một hoàn cảnh
nào thuận lợi hơn hoàn cảnh của chúng ta hiện nay. Sự chính xác của người Áo mà
phối hợp với sự dũng cảm của người Nga thì anh bảo còn gì hơn nữa? - Thế là dứt
khoát quyết định tấn công rồi à? - Bolkonxki nói. - Này anh có biết không, tôi
thấy hình như Buônapáctê bây giờ đã bối rối lắm rồi. Anh ạ, hôm nay vừa nhận được
một bức thư hắn gửi hoàng thượng đấy - Dolgorukov mỉm cười một nụ cười bao hàm
nhiểu ý nghĩa. - Thế à! Viết những gì thế? - Bolkonxki hỏi. - Hắn còn có thể viết
những gì? Chỉ lảm nhảm thế này thế nọ và vân vân, vân vân, chẳng qua chỉ để trì
hoãnn. Tôi xin nói với anh rằng nay hắn ở trong tay ta rồi chắc chắn như thế!
Nhưng ngộ nghĩnh hơn cả là chuyện này, - công tước Dolgorukov bỗng phá lên cười
khà khà, - Là chẳng ai biết nên phúc đáp Buônapáctê như thế nào cho phải? “Gửi
ngài Tổng tài” thì không ổn, dĩ nhiên là không thể “gửi Hoàng để được, cho nên
tôi cho rằng có lẽ nên đề là “Gửi tướng Buônapáctê”. - Nhưng từ chỗ không thừa
nhận người ta là hoàng đế đến chỗ gọi người ta là tướng Buônapáctê cũng có sự
khác nhau đấy? - Bolkonxki nói. - Chính thế, - Dolgorukov cười và ngắt ngay lời
chàng, - Anh biết Bilibin đấy, anh ta là một người rất thông minh, anh ta đề
nghị viết: “Gửi tên tiếm ngôi và kẻ thù của nhân loại”. Nói đoạn Dolgorukov vui
vẻ cười lớn. - Chỉ có thế thôi à? - Bolkonxki nói. - Nhưng rồi Bilibin cũng tìm
được một cách xưng hô đứng đắn. Thật là một người vừa thông minh vừa hóm hỉnh…
- Như thế nào? - Gửi người đứng đầu chính phủ Pháp au Chef du gouvernement
français, - Dolgorukov nói, giọng nghiêm trang và thỏa mãn. - Gọi như vậy rất ổn
có phải không nào? - Ổn đấy, nhưng chắc Napoléon sẽ tức lắm. - Bolkonxki nói. -
Còn phải nói! Em trai tôi có biết hắn ta: nó đã mấy lần ăn tiệc với hắn, với đương
kim hoàng đế ấy, ở Paris và có nói với tôi rằng nó chưa thấy một nhà ngoại giao
nào tinh vi khôn khéo hơn. Chắc anh cũng biết đấy, sự khéo léo của người Pháp
phối hợp với tài đóng kịch của người Ý mà! Anh biết mẩu giai thoại giữa hắn ta
với bá tước Markov chứ? Chỉ có mỗi một mình bá tước Markov là biết xử trí với hắn
thôi. Anh biết chuyện chiếc khăn tay chứ. Tuyệt! Và ông Dolgorukov kể mau chuyện
ấy, khi thì quay sang Boris khi thì quay sang công tước Andrey, kể lại chuyện
Buônapáctê. - Thật tuyệt! - Công tước Bolkonxki nói - Nhưng công tước ạ, tôi đến
đây là để xin cho anh thanh niên này một việc… anh thấy đấy… - Nhưng công tước
Andrey chưa kịp nói hết thì một sĩ quan phụ tá đã gọi công tước Dolgorukov đến
gặp hoàng thượng. Ông vội vã đứng dậy, bắt tay công tước Andrey và Boris nói: -
Chà, phiền quá. Anh ạ, tôi rất vui sướng được làm tất cả những gì thuộc về quyền
tôi để giúp anh như giúp người thanh niên dễ mến này. - Ông ta bắt tay Boris một
lần nữa, vẻ hiền hậu thành thật và vồn vã nhưng hời hợt. - Nhưng anh cũng thấy
đấy… thôi để khi khác! Boris cảm thấy xúc động cứ nghĩ rằng giây phút này mình
đang được gần gũi những kẻ nắm quyền hành tối cao. Chàng có ý thức rằng ở đây
mình đang tiếp xúc với những sợi dây cót chi phối tất cả những chuyển động lớn
lao của những khối người đông đúc, trong đó chàng chỉ là một bộ phận nhỏ nhặt
vô nghĩa và ngoan ngoãnn ở trung đoàn của mình. Công tước Andrey và Boris theo
công tước Dolgorukov đi ra hành lang. Ông ta đi vừa đến cửa phòng hoàng thượng
thì cũng từ của ấy bước ra một người thấp bé mặc thường phục, vẻ thông minh,
hàm dưới nhô ra phía trước vẽ thành một nét gẫy gọn, không làm cho vẻ mặt xấu
đi, mà lại khiến cho nó thêm vẻ linh hoạt và tháo vát. Người đó gật đầu chào
Dolgorukov như một người quen thân và nhìn chăm chăm vào công tước Andrey một
cách lãnh đạm trong khi đi thẳng về phía chàng, hình như có ý chờ đợi chàng cúi
chào hay nhường lối cho mình đi. Công tước Andrey chẳng chào mà cũng chẳng nhường
lối; gương mặt kia lộ vẻ bực tức hắn quay mặt đi và bước ra phía hành lang. -
Ai đấy? - Boris hỏi. Đó là một trong những người lỗi lạc nhất và cũng là một
người mà tôi có ác cảm nhất. Đó là quan thượng thư bộ ngoại giao, công tước
Adam Tsartorixki. Khi hai người ra khỏi cung điện, công tước Andrey không nén
được tiếng thở dài. Chàng nói: - Chính những ngươi ấy đấy, chính những con người
ấy quyết định vận mệnh của các dân tộc. Hôm sau các đơn vị xuất quân, và mãi
cho đến trận Austerlix, Boris không có thì giờ đến gặp Bolkonxki cũng như công
tước Dolgorukov, và còn phải ở lại trung đoàn Izmail một thời gian nữa. Chương
9 Tảng sáng ngày mười sáu tháng mười một, đại đội kỵ binh của Denixov là đơn vị
trong đó có Nikolai Roxtov và thuộc quân đoàn Bagration, rời trại để bắt đầu
tham chiến. Ấy là người ta nói thế thôi, chứ vừa đi chưa được một phần tư dặm
sau các đội quân khác, thì nó đã được lệnh dừng lại trên dường cái. Roxtov thấy
quân cô-dắc kéo qua trước mặt, rồi đại đội một và đại đội hai phiêu kỵ, rồi những
tiểu đoàn bộ binh kèm theo vài khẩu đội pháo và sau cùng là hai tướng Bagration
và Dolgorukov có sĩ quan phụ tá của họ đi theo. Lần này nữa, Roxtov lại thấy sợ,
lại phải cố gắng ghê gớm để khắc phục nỗi khiếp sợ; lần này nữa chàng lại mơ ước
hành động như một người phiêu kỵ chân chính; nhưng tất cả đều thành ra chuyện
hão, vì đại đội của chàng phải giữ lại làm quân dự bị vì vậy suốt cả ngày chàng
cứ chán nản ủ ê. Lúc chín giờ ở phía trước nghe một loạt súng ngắn dữ dội, rồi
những tiếng “Ura” vọng lại, vài thương binh được đưa về hậu tuyến; sau cùng thấy
một đội bách nhân côdắc (đơn vị chính quy của cô-dắc gồm một trăm người) kéo
qua, dẫn theo cả một đội kỵ binh Pháp. Hẳn là trận đánh đã kết thúc, trận đánh
có lẽ không quan trọng mấy nhưng mà may mắn. Những người dự trận về báo tin đại
thắng, chiếm được Visao, bắt được cả một đại đội Pháp. Sau cái đêm giá lạnh,
ngày đã trở nên quang đãng, ngập ánh mặt trời và ánh nắng tươi vui chói lọi của
ngày thu thật hợp với tin mừng ấy. Không những các câu chuyện của những người dự
trận về mà cả vẻ mặt hân hoan của quân lính, của sĩ quan, của tướng lĩnh, của
các sĩ quan phụ tá mà Roxtov thấy đang qua lại tấp nập cũng đều xác nhận tin mừng
ấy. Nikolai đang bực mình vì đã trải qua những phút lo sợ trước trận đánh một
cách vô ích và phải ngồi không, trong một ngày đẹp như hôm nay, cảm thấy tim
mình càng thắt lại. - Này Roxtov lại đây uống rượu tiêu sầu đi! - Có tiếng
Denixov quát tướng lên gọi chàng. Bây giờ anh ta đang ngồi bên vệ đường trước một
be rượu và mấy món nhắm. Các sĩ quan của đại đội vây quanh cái căng tin của
Denixov vừa điểm tâm vừa tán chuyện. - Kìa, lại thêm một tên nữa bị dẫn về. - một
người trong bọn vừa nói vừa chỉ một người lính long kỵ Pháp đi bộ, có hai người
cô-dắc kèm hai bên. Ngựa của anh ta, một con ngựa giống Pháp cao, đẹp, thì một
trong hai người cô-dắc cầm cương dắt đi. Denixov gọi với người cô-dắc. - Này
bán con ngựa cho tôi đi! - Thưa đại nhân xin tuỳ ngài…
Bọn sĩ quan đứng dậy vây quanh lấy hai người cô-dắc và anh tù
binh. Anh này là một thanh niên vùng Alzax mặt tái xám vì xúc động, nghe bọn sĩ
quan nói tiếng Pháp, anh ta quay về phía họ và khi thì nói với người này, khi
thì nói với người nọ, anh ta liến thoắng kể lể cho họ nghe bằng một giọng Đức
khá nặng rằng lẽ ra anh ta không bị bắt làm tù binh; Anh ta bị bắt không phải lỗi
tại anh ta mà là tại ông cai: ông ta cứ bắt anh ta đi lấy vải chùm mông ngựa bỏ
quên ở ngoài phố, mặc dầu anh ta đã bảo là quân Nga đã vào thành. Nói một câu,
anh ta lại vuốt con ngựa và nhắc lại luôn miệng: “Nhưng xin đừng hành hạ con ngựa
bé bóng của tôi đấy!”. Hình như anh chàng hiểu rõ mình đang ở hoàn cảnh nào:
Khi thì xin lỗi vì đã chót bị bắt, khi thì tưởng chừng như đang đứng trước mặt
các cấp chỉ huy của mình, anh ta tự khoe tính tích cực và cần mẫn của mình
trong công vụ. Nhờ người tù binh này, hậu quân của ta biết rõ ràng sốt dẻo cái
không khí thật sự trong quân đội Pháp là điều rất xa lạ đối với họ. Hai người
cô-dắc bán con ngựa hai đồng tiền vàng; Roxtov lúc này là người giàu nhất trong
dám sĩ quan liền bỏ tiền ra mua lấy. Khi Roxtov nhận ngựa rồi, anh chàng người
Alzax lại nói một cách chất phác: - Nhưng xin đừng hành hạ con ngựa bé bóng của
tôi! Roxtov mỉm cười, bảo người lính long kỵ cứ yên tâm và cho anh ta ít tiền.
Một người cô-dắc nắm cánh tay anh tù binh đẩy đi, vừa đẩy vừa giục: Alê, a-lê.
Bỗng có tiếng reo: “Hoàng thượng! Hoàng thượng!” Mọi người đổ xô ra, cuống quít
cả lên. Roxtov quay lại thấy mấy người cưỡi ngựa đi đến, những cái ngù lông trắng
phất phơ trên chóp mũ. Chỉ một chốc là ai nấy đã hàng ngũ chỉnh tề, sẵn sàng
nghênh giá. Roxtov cũng về chỗ; chàng leo lên lưng ngựa, lòng bàng hoàng không
biết mình đang làm gì. Nỗi tiếc rẻ không được ra trận, nỗi chán chường về cảnh
sống đơn điệu ngày nào cũng như ngày nào giữa những bộ mặt quá quen thuóc, tất
cả bỗng chốc tiêu tan hết. Chàng không hề nghĩ đến mình nữa: biết rằng nhà vua
có mặt ở ngay cạnh, chàng đã thấy sướng điên lên rồi. Chỉ riêng việc nhà vua có
mặt ở đây đã đủ đền bù cho chàng cả một ngày mất toi. Chàng sung sướng như một
người yêu được một buổi hẹn hò hằng mong đợi Chàng văn đứng nghiêm trong hàng
ngũ không hề dám trái kỷ luật mà nhìn ngang, nhìn ngửa, nhưng chẳng cần phải
quay mặt lại chàng cũng cảm thấy với một lòng hân hoan vô hạn không tài nào tả
xiết rằng “Người” đang đi đến gần. Và không những tiếng vó ngựa mỗi lúc một to,
mà mọi vật ở quanh chàng cũng mỗi lúc một tươi sáng lên, một long trọng hơn lên
làm cho chàng biết là dạo ngự sắp tới. Vầng thái dương tỏa ra cái ánh sáng dịu
dàng mà rực rỡ ấy mỗi lúc một gần; và phút chốc những tia hào quang đã bao trùm
lấy Roxtov; phút chốc đã nghe giọng nói của Người, - giọng nói ấm áp, điềm
tĩnh, uy nghi mà đồng thời giản dị. Trực giác của Roxtov đoán quả quyết không
sai: giữa cảnh im lặng như tờ, tiếng nói của hoàng thượng nghe lanh lảnh: -
Quân phiêu kỵ Pavlograd phải không? - Tâu hoàng thượng, đây là đạo quân dự bị!
Cái giọng trả lời này nghe nó trần tục quá so với cái giọng siêu phàm đã nói mấy
tiếng “Quân phiêu kỵ Pavlograd “. Đi qua mặt Roxtov, hoàng đế Alekxandr dừng lại.
Vẻ mặt ngài lại càng đẹp hơn hôm duyệt binh ba ngày về trước. Bao nhiêu hân
hoan, bao nhiêu thanh xuân rực rỡ trên khuôn mặt ngài, vẻ mười bốn tuổi, tuy vậy
cũng không làm cho gương mặt của người bớt vẻ uy nghi dường bệ của các bậc
hoàng đế. Điểm qua đại đội, đôi mắt người tình cờ gặp đôi mắt Roxtov và dừng lại
một lát. Ngài có hiểu chăng những gì đang diễn ra trong tâm hồn của chàng?
(Roxtov có cảm giác là Người đã hiểu hết nỗi lòng mình). Dù sao đôi mắt xanh của
ngài, mà ánh sáng tỏa ra dịu dàng, cũng nhìn chàng trong vài giây. Rồi bỗng
ngài giương đôi lông mày, lấy chân trái thúc ngựa phi nước đại. Mặc dầu các triều
thần đã hết sức can ngăn, vị hoàng đế trẻ tuổi cũng không thể cưỡng được ý muốn
thân chinh ra trận, và vào khoảng giờ ngọ, người bỏ quân đoàn thứ ba mà Người vẫn
đi theo, để phi ngựa ra với đại tiên phong. Nhưng Người chưa kịp đến chỗ quân
phiêu kỵ dừng lại thì các sĩ quan phụ tá đã đến báo tin mừng tháng trận. Trong
trận này chẳng qua chỉ bắt được một đại đội kỵ binh Pháp, nhưng nó lại được người
ta giới thiệu như một trận thắng rực rỡ; cho nên hoàng đế và toàn thể quân đội đều
tưởng là quân Pháp đã bị đánh bại và bắt buộc phải rút lui, nhất là trong khi
khói súng hãy còn bao phủ chiến trường. Mấy phút sau khi hoàng đế đi qua, sư
đoàn của trung đoàn Pavlograd được lệnh tiến quân. Và chính khi vào thành
Visao, Roxtov lại được thấy lại hoàng thượng. Trên quảng trường của cái thành
phố nhỏ ấy là nơi vừa nói có trận bắn nhau khá dữ, mấy người chiến sĩ còn nằm lại,
chết hay bị thương, chưa kịp đưa đi. Hoàng đế cưỡi một con ngựa cái khác con ngựa
hôm duyệt binh, nhưng cũng là ngựa hồng lai Anh. Đi theo người là một đoàn hộ
giá rất đông. Nghiêng mình sang một bên, cầm cái kính tay bằng vàng với một cử
chỉ đẹp mắt. Người nhìn một người lính nằm sấp đầu đẫm máu, không có mũ. Người
thương binh nom khủng khiếp quá, đến nôi Roxtov rất phật ý khi thấy nó ở ngay cạnh
vị hoàng đế. Roxtov thấy đôi vai hơi gù của Người bất giác thúc vào sườn ngựa
nhưng con ngựa cái đã được tập rất thuần thục chỉ thản nhiên quay đầu lại nhìn,
không dịch đi một bước. Cuối cùng một sĩ quan phụ tá xuống ngựa, xốc người lính
lên và dặt vào một cái cáng vừa đem đến; anh ta rên lên một tiếng. Hoàng đế có
vẻ đau xót hơn cả người sắp chết, kêu lên: - Nhẹ tay, nhẹ tay chứ; không thể nhẹ
tay hơn nữa sao? Roxtov thấy Người rưng rưng nước mắt và nghe tiếng Người nói bằng
tiếng Pháp với Tsartorixki khi thúc ngựa đi: - Khủng khiếp! Hậu quân đã đóng ở
trước Visao dối diện với quân địch, suốt ngày hôm ấy hễ cứ bắn nhau một tí là
quân địch lại rút lui. Hoàng đế ngỏ lời cảm tạ ba quân, người hứa sẽ thăng thưởng,
quân sĩ được phát gấp đôi phần rượu mạnh. Tối đến, lửa trại nổ tí tách và giọng
hát của binh sĩ càng vui hơn đêm trước. Đêm ấy Denixov ăn mừng nhân dịp được
thăng thiếu tá. Cuối bữa tiệc nhỏ, Roxtov đã khá say, đề nghị nâng cốc chúc sức
khỏe của hoàng đế. Chàng phân trần: - Xin các vị hiểu cho. Tôi không đề nghị
chúc “sức khỏe của hoàng thượng” như trong những yến hội chính thức, mà chúc sức
khỏe của vua Alekxandr, của con người nhân từ, hấp dẫn, vĩ đại ấy. Vậy xin chúc
sức khỏe của Người, mừng thắng trận quân Pháp! - Thưa các vị thắng lợi đã chắc
chắn cả mười phần. Nếu trước đây chúng ta đã đánh mạnh, nện cho quân Pháp một vố
nên thân như ở Songraben thì ngày nay khi hoàng đế thân chinh cầm quân, chúng
ta còn sẽ đánh hăng như thế nào! Tất cả chúng sẽ vui sướng mà chết vì Người, có
phải không các vị? Có lẽ tôi diễn đạt không được hay, tôi uống có hơi nhiều;
nhưng đó là tình cảm của tôi và cũng là của các vị nữa. Chúc sức khỏe Alekxandr
đệ nhất! Ura! Tất cả sĩ quan đồng thanh hô theo: Ura! và ông đại uý Kirxten già
cũng gửi vào tiếng hô lòng cuồng nhiệt ngây ngô không kém gì Roxtov, chàng
thanh niên hai mươi tuổi. Khi các sĩ quan đã uống cạn và đập vỡ hết cốc Kirxten
lại rót một loạt cốc khác. Mặc chiếc áo sơ mi để hở bộ ngực trắng hếu, râu mép
dài hoa râm, ông ta khoa tay vung cốc rượu của mình, đi về phía các đống lửa của
binh lính rồi dừng lại trong vùng ánh sáng của một đống lửa trại với một tư thế
cực kỳ trang trọng và cất cái giọng kỵ binh già trầm trầm và rắn rỏi quát lớn:
- Nào các chú, chúc sức khỏe Đức Hoàng thượng, chúc trận thắng quân địch. Ura!
Lính phiêu kỵ vây kín lấy ông ta và cùng hoan hô ầm ĩ. Đêm đã khuya; khi mọi
người đã ra về, Denixov vỗ vai Roxtov anh bạn cưng chiều, và nói: - Thế ra, đi
chiến dịch không tìm được ai để phải lòng, cậu phải mê Sa hoàng phỏng? Denixov
dừng đùa thế; đó là tình cảm thật tốt đẹp, thật cao cả, thật… - Phải, phải;
mình cũng đồng tình, mình cũng tán thành… - Không, anh không hiểu đâu! Rồi
Roxtov đứng dậy đi lang thang qua các trại quân, mơ tưởng đến hạnh phúc được chết,
không phải chết để cứu mạng cho hoàng đế là điều mà chàng không dám mơ màng, mà
chỉ được chết trước mặt hoàng đế thôi. Quả thật chàng ta si mê vị hoàng đế của
mình và say sưa với vinh quang của quân đội Nga, với hy vọng ở một trận thắng
nay mai. Vả lại, chẳng phải mình chàng cảm thấy thế trong những ngày đáng ghi
nhớ trước trận Austerlix; chín phần mười quân sĩ cũng say mê hoàng đế của họ và
say sưa với vinh quang của quân đội Nga tuy chưa phải đến mức cuồng si như vậy.
Lev Tolstoy
Dịch giả: Cao Xuân Hạo, Nhữ Thành,
Hoàng Thiếu Sơn, Thường Xuyên.
Nguồn: vnthuquan
Dịch giả: Cao Xuân Hạo, Nhữ Thành,
Hoàng Thiếu Sơn, Thường Xuyên.
Nguồn: vnthuquan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét