Chương 14
Raxkonikov nhổm dậy và ngồi lên đi-văng. Chàng mệt mỏi khoát
tay ra hiệu cho Razumikhin chấm dứt những lời lẽ không mạch lạc nhưng nhiệt
thành mà anh nói thao thao để an ủi mẹ và em chàng.
Chàng cầm tay mẹ và em, rồi lặng lẽ nhìn một hồi lâu hết người nầy đến người kia. Mẹ chàng phát hoảng lên vì cái nhìn của chàng. Từ đấy mắt chàng ánh lên một nỗi day dứt gần như đau khổ, lại có một cái gì sững sờ, thậm chí dưởng như điên dại nữa. Bà Punkheria Alekxandrovna khóc oà lên.
Mặt Avdotia Romanovna tái mét, tay nàng run lập cập trong tay anh nàng.
- Về đi với cậu ấy - chàng trỏ Razumikhin nói, giọng ngắc ngứ, - Mai, mai hẵng hay… Mẹ, em đến đây đã lâu chưa?
- Lúc tối, con ạ, - bà Punkheria Alekxandrovna đáp; tàu đến chậm quá. Nhưng Rodia ạ, mẹ không thể nào rời con lúc nầy được, đêm nay mẹ sẽ ở lại đây, cạnh…
- Đừng làm khổ tôi nữa! - chàng bực bội xua tay.
- Tôi sẽ ở lại với anh ấy! - Razumikhin thốt lên. - Tôi sẽ không rời anh ấy một phút, còn khách khứa của tôi đằng ấy thì mặc, tha hồ cho họ muốn làm gì thì làm! Đã có chú tôi chủ toạ.
Bà Punkheria Alekxandrovna một lần nữa lại xiết chặt tay Razumikhin nói:
- Biết lấy gì, tôi biết lấy gì cảm ơn anh cho xứng?
Nhưng Raxkonikov lại cắt ngang.
- Không chịu được! Tôi không chịu được nữa… - Chàng giận dữ nhắc đi nhắc lại. - Đừng làm khổ tôi nữa! Đủ rồi, thôi, đi đi… Không chịu được nữa!
- Thôi ta đi đi mẹ ạ, cứ ra ngoài một tý đã. Dunia hoảng hốt rỉ tai mẹ: chúng ta giết anh ấy mất, mẹ không thấy ư?
- Nhưng sau ba năm trời xa cách mẹ lại không thể nhìn anh con được một tý hay sao? - bà Punkheria Alekxandrovna khóc lóc.
- Khoan hẵng! - Raxkonikov lần nữa chặn họ lại, - các người cứ cắt ngang lời tôi, mà đầu óc tôi thì cứ rối tinh lên… Mẹ, em đã gặp Lugin chưa?
- Chưa, Rodia ạ, song anh ấy cũng đã được tin mẹ và em đã lên tới đây. Rodia nầy, - Punkheria Alekxandrovna hơi ngập ngừng nói tiếp, - mẹ và em cũng được tin là Piotr Petrovich đã có lòng tốt đến thăm con.
- Phải… hắn có cái lòng tốt ấy đấy… Dunia nầy, lúc nãy anh vừa tuyên bố với Lugin là anh sẽ vứt hắn xuống cầu thang và anh đã tống cổ hắn đi rồi…
- Rodia. Con nói gì thế? Có thật là con không nói đùa đấy chứ) - bà Punkheria Alekxandrovna hoảng sợ ấp úng, nhưng rồi bà ngừng bặt, đưa mắt nhìn Dunia.
Avdotia Romanovna chăm chú nhìn anh và chờ đợi chàng nói tiếp. Cả hai mẹ con đều đã được Naxtaxia báo cho biết cuộc xung đột vừa rồi (theo cách hiểu của chị ta, cả hai người đều đã hết sức khổ tâm vì băn khoăn và thấp thỏm chờ đợi).
- Dunia, - Raxkonikov khó nhọc nói tiếp, - anh không bằng lòng cuộc hôn nhân đó! Vì vậy, ngay ngày mai hễ gặp Lugin là cô phải cắt đứt ngay với hắn, và tuyệt không được nói năng gì đến thằng cha ấy nữa!
- Trời ơi? - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
- Anh, cẩn thận lởi nói một tý! - Avdotia Romanovna nóng nảy đáp, nhưng rồi nàng lại tự chủ được ngay và dịu dàng nói tiếp. - Bây giờ có lẽ anh mệt rồi, không nói chuyện được đâu…
- Cô tưởng tôi mê sảng chắc? Không… Cô lấy Lugin là vì tôi nhưng tôi không nhận sự hy sinh đó. Vì vậy, ngay ngày mai, cô viết cho hắn một lá thư… cự tuyệt. Sớm mai, cô đem thư cho tôi xem, thế là hết!
- Không đời nào! - người con gái bị xúc phạm thét lên. - Anh có quyền gì mà…
- Dunia, con cũng nóng nảy quá, thôi, để đến mai… con không thấy là… - bà cụ kinh hoảng vồ lấy Dunia.
- Ôi thà ta đi đi còn hơn!
- Anh ấy mê sảng đấy! - Razumikhin nói lè nhè, - không thì đời nào anh ấy dám làm như vậy! Mai rồi cái chứng điên dại ấy sẽ bay đi hết thôi!. Nhưng hôm nay quả anh ấy có đuổi cổ hắn ra thật, đúng thế đấy. Dĩ nhiên lão kia cũng cáu… Hắn đến đây thuyết lý phô trương ra một mớ kiến thức, rồi cúp đuôi chuồn thắng…
- Thế ra chuyện có thật ư? - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
- Mai, anh nhé - Dunia nói, giọng ái ngại. - Mẹ ơi ta đi thôi…, anh Rodia, em đi nhé!
- Em, em hiểu chưa? - Chàng thu hết tàn lực nói với theo, - anh không mê sảng đâu, cuộc hôn nhân ấy là một việc hèn hạ. Cứ cho rằng anh là một thằng hèn, nhưng còn em, ít nhất em cũng không được thế, một người là đủ lắm rồi… Dù anh có là một thằng hèn mạt chăng nữa, anh cũng sẽ không thể coi em là em được nếu, hoặc anh, hoặc Lugin… Thôi, đi đi…
- Cậu điên rồi! Đồ bạo chúa - Razumikhin gầm lên, nhưng Raxkonikov lặng thinh, có lẽ chàng không còn đủ sức để đáp lại nữa. Chàng nằm dài trên đi-văng, quay mặt vào tường, hoàn toàn kiệt sức. Avdotia Romanovna tò mò nhìn Razumikhin; đôi mắt đen nhánh sáng long lanh khiến Razumikhin phải rùng mình. Bà Punkheria Alekxandrovna đứng sững ra như người mất hồn.
- Tôi không tài nào rứt ra mà đi được! - Bà thều thào nói với Razumikhin, gần như tuyệt vọng. - Tôi sẽ ở lại đây chỗ nào cũng được… Nhờ anh đưa Dunia về hộ.
- Thế rồi bà làm hong hết việc cho mà xem? - Razumikhin cũng thầm thì, vẻ hốt hoảng. - ít nhất ta cũng cữ hẵng ra ngoài cầu thang cái đã. Chị Naxtaxia à, soi đèn tí nào!
Ra đến cầu thang. Razumiklin lại khe khẽ nói tiếp:
- Lúc nãy chí thiếu chút nữa anh ấy đánh cả tôi lẫn bác sĩ đấy. Bà và cô nghe ra chưa? Đánh cả bác sĩ! Hắn đã phải chịu nhịn ra về để anh ấy khỏi nổi khùng lên đấy. Rồi trong lúc tôi đang đứng dưới nhà để theo dõi thì anh ấy đã mặc quần áo lẻn đi lúc nào không biết. Bây giờ, nếu bà và cô cứ làm anh ấy tức lên thì anh sẽ lại lẻn đi, đêm hôm thế nầy chưa biết chừng anh lại tự làm hại đến thân nữa đấy!
- Trời? Anh nói sao?
- Với lại cô Avdotia Romanovna cũng không thể ngủ một mình trong cái buồng trọ của Piotr Petrovich thuê được. Cái thằng cha Piotr Petrovich tồi thật! Hắn không thể thuê cho bà và cô một căn buồng khá hơn tý sao! Thôi, tôi hơi say, nên lời lẽ có thô lỗ một chút, bà và cô đừng chấp…
- Nhưng tôi phải đến gặp bà chủ nhà ở đây mới được - bà Punkheria Alekxandrovna khẩn khoản, - tôi sẽ van xin bà ta nhường cho tôi và Dunia một góc để ở lại đêm nay. Tôi không thể bỏ nó một mình như thế được, không thể được!
Lúc bấy giờ họ đứng ở bậc thang trước cửa phòng bà chủ. Chị Naxtaxia đứng ở bậc thang dưới, soi đèn cho họ. Razumikhin thấy xao xuyến lạ thường. Nửa giờ trước đây, khi đưa Raxkonikov về nhà, tuy có nói năng ba hoa, anh vẫn thấy hoàn toàn thanh thản và hầu như tỉnh táo, mặc dầu tối hôm ấy anh đã nốc rất nhiều rượu. Giờ đây, anh cảm thấy mình như chìm trong một trạng thái cuồng hoan và hơi men lại bốc lên đầu anh dữ dội hơn bội phần. Anh đứng giữa hai mẹ con bà Punkheria Alekxandrovna, cầm tay hai người - viện đủ các lý lẽ khuyên nhủ họ một cách mạnh dạn khác thường và chắc là để thêm sức thuyết phục, cứ mỗi câu anh lại xiết chặt tay họ trong tay mình như trong hai gọng kìm và nhìn thẳng vào mặt Avdotia Romanovna không chút ngượng ngùng, như muốn nhai sống nuốt tươi nàng vậy. Đôi khi đau quá, họ cố rút tay ra khỏi nắm tay to tướng xương xẩu của anh, song anh không những không để ý, mà lại còn kéo mạnh họ lại gần anh hơn nữa. Ví thử lúc ấy họ bảo anh đâm đầu nháy xuống thang gác, chắc anh sẽ nhảy ngay tức khắc, không suy nghĩ không đắn đo. Tuy cũng thấy anh chàng trai trẻ nầy quả rất kỳ cục, và xiết chặt tay mình quá đau, nhưng bà Punkheria Alekxandrovna đang hoang mang về chuyện Rodia, và đối với bà lúc nầy Razumikhin quả là một vị cứu tinh, nên bà cứ làm ngơ trước những cử chỉ kỳ quặc nhỏ nhặt ấy. Avdotia Romanovna lúc bấy giờ cũng hoang mang không kém; tuy chẳng phải là người nhút nhát, nàng cũng không khỏi sửng sốt và hầu thư sợ hãi nữa khi bắt gặp đôi mắt sáng quắc và man dại của người bạn anh nàng, duy chỉ vì lòng tin tưởng không bờ bến đối với con người kỳ quặc đó mà câu chuyện của Naxtaxia đã gieo vào lòng nàng, nàng mới bỏ được ý định kéo mẹ chạy trốn. Hơn nữa, nàng cũng hiểu rõ là bây giờ hai mẹ con không dễ gì thoát khỏi anh ta được. Vả chăng khoảng mươi phút sau nỗi lo lắng của nàng cũng dịu đi được phần lớn.
Razumikhin có một đặc điểm là chỉ trong nháy mắt cung có thể bộc lộ hết bản chất mình ra được, dù trong tâm trạng nào cũng vậy, thành thử ai cũng có thể hiểu ngay mình đang giao thiệp với loại người nào.
- Không đến hỏi bà chủ nhà được đâu, làm thế thì không gì khờ bằng nữa! - Anh quát to lên, cố thuyết phục bà Punkheria Alekxandrovna - Bà có là mẹ chăng nữa, nhưng nếu bà ở lại thì anh ấy sẽ điên tiết lên, rồi sự thể ra sao thì có trời biết được? Bà và cô hãy nghe tôi đây. Tôi định thế nầy… Bây giờ thì để chị Naxtaxia ở lại với anh ấy, còn tôi: tôi sẽ đưa bà và cô về nhà, vỉ ở đấy bà và cô không thể đi một mình ngoài đường được đâu. Về mặt nầy ở Petersbung chúng tôi… Thôi thèm vào nói chuyện ấy! Sau đó tôi sẽ chạy ngay lại đây, và xin hứa chắc là chỉ mười lăm phút tôi sẽ trở lại báo cáo với hai người về tình trạng sức khỏe của anh ấy: có ngủ được hay không v.v. Sau đó thì… thế nầy nhé! Sau đó tôi sẽ vù ngay về nhà, bởi vì tôi còn lũ khách khứa đang say sưa bí tỉ ở đằng ấy. Tôi sẽ lôi Zoximov theo, cậu ta là bác sĩ đang chăm sóc anh ấy, lúc nầy cậu ta đang ở đằng nhà tôi, cậu nầy thì không say, không, không bao giờ say. Tôi sẽ lôi cậu ta đến đằng Rodia và sau đó sẽ lập tức đến đằng bà và cô, không chậm trễ nhé, nghĩa là trong một tiếng đồng hồ nữa bà sẽ nhận được tin tức của tôi đi chứ! Nếu anh ấy mệt nặng, tôi xin hứa là sẽ đưa bà đến đằng anh ấy, còn nếu khá thì xin mời bà đi nghỉ. Đêm nay tôi sẽ ở lại đây, trong căn buồng ngoài anh ấy sẽ không hay biết gì đâu, tôi sẽ bắt Zoximov vào ngủ trong buồng bà chủ để có thể kịp thời động dụng. Lúc nầy đối với anh ấy thì ai hơn, bà hay là bác si? Bác sĩ hơn chứ, bác sĩ có ích hơn nhiều. Vậy thì bà hãy cứ trở về. Còn như đến gặp bà chủ thì không thể được, tôi thì được, nhưng bà thì không bà ta sẽ không bằng lòng đâu bởi vì… bởi vì bà ta ngốc lắm. Rà ta ghen với cô Avdotia Romanovna, xin bà biết t cho như vậy và cả với bà nữa…nhưng chắc chắn là với cô Avdotia Romanovna. Bà ta là một người kỳ quặc hết sức. Mà tôi, tôi cũng là một thằng ngốc. Thôi, thèm vào nói chuyện ấy. Ta đi đi. Bà có tin tôi hay không, nào bà nói đi, bà có tin tôi hay không?
- Mẹ ơi, ta đi thôi - Avdotia Romanovna nói - chắc chắn anh ấy sẽ làm như lời anh ấy hứa. Anh ấy đã cứu sống anh Rodia một lần rồi đấy, và nếu quả có bác sĩ thuận ngủ lại đêm ở đây thì mẹ con mình còn trông mong gì hơn nữa?
- Đấy, đấy, cô cô thật là hiểu tôi vì có 18 một vị thiên thần! - Razumikhin reo lên, tràn đầy phấn khởi.
- Ta đi thôi. Chị Naxtaxia, chị lên ngay tức khắc, chong đèn ngồi với anh ấy, mười lăm phút nữa tôi sẽ trở về, tuy chưa thật tin hẳn, bà Punkheria Alekxandrovna cũng không phản đối nữa. Razumikhin nắm cánh tay hai người lôi xuống cầu thang. Dù sao, bà cụ cũng không khỏi thắc mắc: "Tuy có tháo vát và tận tình thật, song không biết liệu anh ta có thể giữ được lời hứa không? Anh ta đang say thế nầy…"
- À, tôi hiểu rồi, bà nghĩ là tôi trông có vẻ say chứ gì - Razumikhin thốt lên, cắt ngang dòng ý nghĩ của bà mà anh vừa phỏng đoán trong khi xoạc cẳng bước trên vỉa hè những bước dài đến nỗi hai người đàn bà chật vật lắm mới theo kịp (điều mà anh cùng không hề chú ý đến). - Thật là ngốc, tôi muốn nói là… tôi say như một thằng vô lại, nhưng vấn đề không phải ở đấy, không phải tôi say vì rượu đâu. Từ khi tôi trông thấy bà và cô là đầu óc tôi cứ quay cuồng lên. Nhưng thôi, thèm vào nói chuyện tôi nữa. Xin đừng để ý đến tôi làm gì: tôi chỉ nói láo. Tôi không xứng đáng với bà và cô, không xứng đáng đến cực độ ấy Ngay sau khi đưa bà và cô về, lập tức tôi sẽ đi ra ngoài kênh gần đây, kia thôi, tôi sẽ dội hai thùng nước lên đàu và tỉnh hẳn… Giá ít nhất bà và cô cũng biết cho rằng tôi yêu quý hai người đến nhường nào!… Đừng cười tôi, cũng đừng giận tôi nhá! Các bà cứ giận hết mọi người đi, nhưng đừng giận tôi. Tôi là bạn của anh ấy và do đó tất cũng là bạn của các bà. Tôi mong được như vậy, tôi đã linh cảm như vậy… Từ năm ngoái, đã có lúc… Nghĩa là tôi không linh cảm gì hết vì bà ta và cô đến với tôi như từ trên trời sa xuống. Có thể là suốt đêm nay tôi sẽ không ngủ… Lúc nãy, cậu Zoximov cứ sợ là anh ấy điên… Đấy cho nên bà đừng làm anh ấy giận lên…
- Anh nói gì thế! - Bà cụ kêu lên.
- Chính bác sĩ nói như vậy thật ư? - Avdotia Romanovna hoảng sợ hỏi.
- Hắn nói thế nhưng không phải thế đâu. Không, hoàn toàn không phải. Hắn cũng đấy cho anh ấy uống một liều thuốc, một thứ thuốc bột, tôi thấy mà, và vừa đúng lúc ấy bà và cô đến. Ồ giá để đến mai bà và cô hẵng lại có phải hay hơn không? Chúng ta đi như thế nầy là rất tốt. Một giờ nữa, Zoximov sẽ báo cáo tường tận với bà. Ít nhất hắn ta cũng không say như tôi! Mà tôi rồi cũng không say nữa đâu… Nhưng sao tôi lại có thể quá chén thế nhỉ? Chà chính là vì mấy cái thằng quỷ sứ, chúng lôi cuốn tôi vào cuộc tranh luận. Thế mà tôi đã tự dặn là không được tranh luận rồi chứ có phải… chúng chỉ toàn nói nhảm! Tí nữa thì tôi gây ẩu đả! Tôi đã để chú tôi ở lại làm chủ toạ… Bà và cô có biết không: chúng nó yêu cầu phải huỷ diệt cá tính, và coi đó là lý tưởng tuyệt đỉnh đấy! Phải làm sao cho mình không phải là bản thân mình, càng ít giống mình ngần nào càng tốt ngần ấy. Đấy, chúng nó muốn đi đến kết luận như vậy đấy! Đối với chúng, đó là đỉnh tột cùng của tiến bộ. Thà chúng nó tán láo nhưng tán cho độc đáo một chút, chứ đằng nầy…
- Anh nầy, - bà Punkheria Alekxandrovna rụt rè ngắt lời Razumikhin, song chỉ càng làm cho anh chàng cao hứng lên.
- Thế bà nghĩ sao? - Razumikhin cất cao giọng gào to hơn nữa, - bà tưởng tôi nỗi khùng lên vì chúng nó tán láo à? Không phải. Tôi lại thích cho chúng nó tán nữa đấy. Tán láo là cái đặc quyền duy nhất của con người so với các sinh vật khác. Chính có tán láo người ta mới đạt được đến chân lý. Chính vì tôi tán láo nên tôi mới là người; không bao giờ đạt đến được một chân lý nào mà lại không phải tán láo đến mười bốn lần, có thể đến một trăm bốn mươi lần nữa là khác, và như thế cũng là một thứ vinh dự, thế nhưng chúng ta lại không biết tán láo cho độc đáo, dùng trí tuệ của mình mà tán láo! Anh cứ tán láo với tôi đi, nhưng hãy tán láo theo kiểu riêng của anh: tôi sẽ ôm hôn anh ngay.
Tán láo, nhưng theo kiểu của mình, có lẽ còn tốt hơn là nói đúng nhưng lại nhai lại của kẻ khác; trong trường hợp đầu, anh chính là một con người, còn trong trường hợp sau thì chỉ là một con vật! Chân lý không mất đi đâu, nhưng cuộc sống có thể huỷ diệt được, đã có những trường hợp như thế. Bây giờ chúng đang làm gì đây? Tất cả, tất cả chúng ta, không trừ ai, dù là trong lĩnh vực khoa học, văn hoá, tư tưởng, phát mình hay trong lĩnh vực của lý tưởng, dục vọng, chủ nghĩa tự do, lý trí, kinh nghiệm, tất cả, trong tất cả mọi lĩnh vực, chúng ta đều chỉ lên đến lớp dự bị tiểu học thôi. Chúng ta ưa chuộng những tri thức mà người khác mớm cho ta sau khi đã nhai kỹ. Có đúng như vậy không? Tôi nói như vậy có đúng không?- Razumikhin quát tướng lên, vừa lay vừa xiết chặt tay hai mẹ con Dunia. - Có đúng không?
- Ôi! Trời ơi! Tôi chịu thôi, - bà Punkheria Alekxandrovna đáp.
- Đúng, đúng như vậy… tuy có nhiều điểm tôi chưa đồng ý hẳn. - Avdotia Romanovna nghiêm trang tiếp lời, rồi bất giác kêu lên một tiếng vì lần nầy Razumikhin bóp chặt tay nàng đau quá.
- Đúng. Cô nói là đúng. Vậy, nếu vậy thì cô… cô - Anh ta phấn khởi reo lên. - cô thật là một nguồn nhân hậu, thanh cao, thông tuệ và… hoàn mỹ. Xin cô hãy đưa tay ra cho, đưa đi! Cả bà nữa, lúc nầy tôi muốn quỳ xuống, hôn tay cô, ngay ở đây ngay bây giờ!
Và anh ta quỳ luôn xuống vỉa hè, may sao lúc ấy vắng người.
- Thôi đừng, tôi van anh, anh làm gì thế? - bà Punkheria Alekxandrovna hoảng hốt đến cực điểm vội kêu lên.
- Anh đứng dậy đi. Kìa, đứng len! - Dunia cười, tuy chính nàng cũng hốt hoảng.
- Không, không đời nào, nếu cô không chìa tay ra cho tôi! Đấy nhé, bây giờ thì được, ta đi thôi! Tôi chỉ là thằng thô lỗ. Tôi không xứng đáng với cô, tôi say, và tôi tự thấy hổ thẹn lắm, tôi không xứng đáng được yêu cô, song phàm kẻ nào chưa hẳn là súc vật cũng đều phải quỳ xuống trước mặt cô cả! Cho nên tôi đã quỳ xuống… Chỗ ở của cô đấy à, chỉ riêng điều nầy thôi cùng đủ để Rodia có quyền tống cổ Piotr Petrovich ra khỏi nhà rồi? Sao hắn lại dám đưa cô đến ở một nhà trọ như thế nầy được! Thật là bêu xấu! Cô có biết hạng người nào thì người ta để cho vào đây không? Thế mà cô là vợ chưa cưới của hắn chứ có phải không đâu! Cô chính là vợ chưa cưới của hắn, phải không nào? Vậy thì, tôi xin nói thẳng với cô rằng người chồng chưa cưới của có là một thằng chó đểu!
- Ông Razumikhin ạ, ông quên mất rằng… - bà Punkheria Alekxandrovna nói.
- Vâng, vâng, bà nói đúng, tôi quên mất, chết thật. - Razumikhin hối hận đáp - nhưng, nhưng bà đừng giận tôi vì những lời tôi vừa nói ra. Bởi vì tôi thành thật. Bà nói, chứ không phải vì… hừm. Nếu vì thế thì thật là tồi, tóm lại không phài vì tôi… Hừm, thôi được, tôi sẽ không nói gì nữa, tôi không dám nói Nhưng hôm qua, khi hắn mới bước vào buồng, chúng tôi đã biết ngay rằng con người ấy không phải cùng cánh với chúng ta, không phải vì chúng tôi thấy hắn vào với một cái đầu mới uốn ở hiệu ra, cũng không phải vì hắn hối hả phô trương mớ kiến thức của hắn ra đâu, nhưng chính vì hắn là một thằng mật thám, một tên đầu cơ, vì hắn chính là một tên Do Thái, một thằng bịp bợm: trông qua cũng biết ngay. Bà tưởng hắn thông minh ư? Không đâu hắn đần độn hết chỗ nói! Đấy, cô nghĩ xem, hắn mà có thể là chồng cô được ư? Ôi! Trời ôi! Các bà thứ nghĩ xem. - vừa bước chân lên cầu thang anh đã dừng phắt ngay lại, - bạn bè của tôi ở đằng nhà dù có say chăng nữa thì họ cũng là những người lương thiện và chúng tôi, kể cả tôi vì tôi cũng thế, dù chúng tôi có nói láo chăng đi nữa thì rồi một ngày kia nói láo mãi chúng tôi cũng sẽ đạt được đến chân lý, vì con đường chúng tôi đang đi là một con đường cao quý, còn Piotr Petrovich thì… con đường hắn đi không cao quý chút nào. Tuy tôi vừa chửi bới họ thậm tệ, song tôi kính trọng họ; ngay đối với Zamiotov, tôi không kính trọng gì nhưng tôi rất mến hắn vì hắn là một thằng nhóc con! Cả đối với cái thằng súc sinh Zoximov kia nữa cũng thế, bởi vì hắn ta thật thà và biết việc. Nhưng thôi đủ rồi, mọi việc đều đã sáng tỏ và đều được tha thứ… Tha thứ chứ? Có phải không ạ? Thôi, ta đi thôi! Tôi biết cái hành lang nầy rồi, đã có lần tôi đến đây. Kia, ở số 3 ấy, đã từng xảy ra một việc bậy bạ… Nào! Các bà ở buồng nầy? Số bao nhiêu. Số 8 à? Được, ban đêm các bà nhớ khoá chặt cửa lại, đừng để cho ai vào cả. Mười lăm phút nữa tôi sẽ đem tin tức lại cho các bà rồi sau đó nữa tiếng tôi sẽ trở lại với Zoximov, các bà cứ chờ. Thôi tạm biệt, tôi đi đây.
- Trời ơi, Dunia, anh con rồi sẽ ra sao? - bà Punkheria Alekxandrovna lo sợ nói với con gái.
- Mẹ cứ bình tĩnh mẹ ạ, - Dunia vừa bỏ mũ, cởi áo choàng vừa đáp lại. - Chính Chúa đã phái cái ông nầy đến với chúng ta đấy, tuy ông ta cũng hơi quá chén. Con xin bảo đảm là mẹ con ta có thể tin được vào ông ấy. Vả lại ông ta đã giúp anh con biết bao nhiêu là việc…
- Trời ơi, Dunia! Biết anh ta có trở lại nữa không? Mà sao mẹ lại nỡ tâm rời Rodia nhỉ! Thật mẹ không ngờ sẽ gặp anh con trong một tình trạng như thế, không, thật không ngờ. Vừa rồi anh con mới phũ phàng làm sao! Tưởng như nó không hài lòng khi gặp lại mẹ con ta…
Bà ứa nước mắt.
- Không, không phải thế đâu mẹ ạ, mẹ không trông rõ đấy thôi, mẹ chỉ khóc suốt. Anh Rodia đang bị khích động vì một căn bệnh trầm trọng, nguyên do chỉ có thế thôi.
- Ôi! Bệnh với tật! Rồi sẽ ra sao đây, rồi sẽ ra sao đây! Mà Dunia, nó ăn nói với con mới tệ chứ? - Bà mẹ nói, rụt rè nhìn vào mắt Dunia như muốn đọc hết ý nghĩ của nàng, lòng cùng đã khuây khuây vì thấy Dunia bênh vực Rodia, nghĩa là đã tha thứ cho anh - Mẹ tin chắc là đến mai anh con sẽ nghĩ lại, - bà nói thêm để cố tìm hiểu cho đến cùng tâm trạng con gái.
- Con thì con biết chắc rằng ngày mai anh Rodia lại cũng sẽ nói như vậy… về vấn đề nầy, - Avdotia Romanovna ngắt lời mẹ. Và dĩ nhiên, đến đây câu chuyện cũng chấm dứt, vì đây là một vấn đề tế nhị mà bà Punkheria Alekxandrovna đang rất ngại đề cập đến.
Dunia đến hôn mẹ. Bà cụ lặng thinh ôm chặt lấy nàng, đoạn bà ngồi xuống lo âu chờ đợi Razumikhin trở về.
Bà đưa mắt rụt rè nhìn theo con gái đang chắp tay đi đi lại lại trong buồng suy nghĩ liên miên, lòng cũng thấp thỏm đợi chờ như mẹ. Cái kiểu đi đi lại lại từ góc nầy sang góc kia như vậy đã thành một thói quen đối với Avdotia Romanovna mỗỉ khi nàng suy nghĩ, và những lúc như vậy bao giờ mẹ nàng cũng sợ phá rối dòng suy tưởng của nàng.
Razumikhin quả cũng lố bịch với cái tình cảm bồng bột đối với Avdotia Romanovna, một tình cảm đột ngột cháy bùng lên trong cơn tuý luý; song cứ ngắm người con gái, nhất là bây giờ khi nàng đang buồn bã và đăm chiêu chắp tay đi đi lại lại trong phòng thì chắc nhiều người sẽ hiểu được cái thái độ kỳ quặc của Razumikhin mà lượng thứ cho anh. Avdotia Romanovna đẹp lắm; thân nàng cao dong dỏng, cân đối lạ thường, mỗi cử chỉ của nàng đều thể hiện sức mạnh và lòng tự tin, mà không hề mày may làm giảm vẻ dịu dàng và kiều diễm.
Mặt Avdotia giống mặt anh nàng, nhưng đó là khuôn mặt của một giai nhân. Tóc nàng màu hung thẫm, sáng hơn của anh nàng một tí, đôi mắt nàng hầu như đen, sáng long lanh, kiêu kỳ, nhưng đôi lúc lại hiền dịu khác thường. Da mặt nàng trắng xanh, song không phải thứ nước da xanh bủng của người ốm yếu, gương mặt nàng sáng bừng lên một khí sắc khỏe mạnh và tươi trẻ. Miệng nàng hơi nhỏ, đôi môi tươi thắm, môi dưới và cằm nàng hơi nhô ra một chút. Đó là nét không đều duy nhất trên khuôn mặt xinh đẹp của nàng, song điều đó cũng tạo cho mặt nàng một vẻ đặc biệt cương nghị vì dường như kiêu ngạo nữa. Nét mặt nàng có phần nghiêm nghị, đăm chiêu hơn là vui vẻ, nhưng ngược lại nụ cười nở trên môi nàng mới ăn nhịp với khuôn mặt ấy làm sao. Tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên và vô tư lự mới hợp với nàng làm sao, mà cũng dễ hiểu tại sao Razumikhin, con người chân tình, cởi mở, thật thà, trung hậu và khoe như thần ấy, lại đang lúc say sưa, và cũng chưa hề được thấy ai đẹp như vậy, mới thoạt nhìn nàng đã mất tự chủ đến nhường ấy. Hơn nữa sự tình cờ dường như cố ý cho anh ta trông thấy Dunia đúng vào lúc lòng nàng đang tràn ngập yêu đương, đang say sưa với hạnh phúc được gặp người anh yêu quý. Rồi sau đó anh lại thấy cánh môi của nàng run lên vì phẫn uấ trước những nhưng yêu sách xấc xược, vô ân và tàn nhẫn của anh nàng, và anh không cầm lòng được nữa.
Vả chăng Razumikhin cũng nói đúng khi đứng trên cầu thang trong cơn say, anh đã thốt ra rằng bà chủ nhà kỳ quặc với Raxkonikov - Praxkopia Ivanovna sẽ phải phát ghen không những với Avdotia Romanovna mà có thể là ngay cả với bà Punkheria Alekxandrovna. Tuy đã bốn mươi ba tuổi bà Punkheria Alekxandrovna vẫn giữ được những nét kiều diễm của nhan sắc ngày xưa, trông bà lại còn trẻ hơn tuổi nhiều; những người đàn bà đã già mà vẫn giữ mãi được sự trong sáng của tâm hồn, những tình cảm tươi mát, tấm nhiệt tình chân thật và thanh cao, thường hay có vẻ đẹp đó. Cũng xin mở ngoặc nói thêm rằng giữ được tất cả những đức tính đó chính là phương tiện duy nhất để khỏi bị mất vẻ đẹp ngay khi đã về già. Tóc bà Punkheria Alekxandrovna đã lốm đốm bạc và thưa thớt dần, nhưng nếp nhăn chân chim đã hằn lên từ lâu ở khóe mắt, má đã bóp vào và khô héo đi vì lo âu và sầu muộn tuy nhiên nét mặt của bà vẫn xinh đẹp. Đó là chân dung của Dunia thêm hai mươỉ tuổi nữa, chỉ có khác là môi dưới của bà không nhô ra, nên không có cái vẻ đặc biệt của Dunia. Bà Punkheria Alekxandrovna là một người đàn bà dễ xúc động, song không phải đến mức quá đa cảm, tính rụt rè và hay nhường nhịn nhưng chỉ đến một chừng mực nào thôi: bà có thể dung thứ, chấp nhận rất nhiều, ngay cả những điều trái với định kiến của bà, nhưng bao giờ cũng có một giới hạn do lờng trung thực do những quan niệm sống và những quy tắc tối thiểu của bà vạch ra mà không hoàn cảnh nào có thể buộc bà vi phạm được.
Razumikhin ra đi vừa được hai mươi phút thì trên cánh của nghe có hai tiếng gõ khè nhưng dồn dập: anh ta đã trở về.
- Tôi không vào đâu, tôi không có thì giờ, - anh nói vội khi họ ra mở cửa. - Anh ấy đang yên giấc, ngủ rất ngon, rất say. Chỉ mong sao anh ấy cứ ngủ được mười tiếng như vậy. Naxtaxia đang ở bên cạnh anh ấy. Tôi đã dặn chị ta là không được đi đâu hết trước khi tôi trở về. Bây giờ thì tôi đi lôi Zoximov đến đây, cậu ta sẽ thân đến bẩm báo; sau đó thì xin bà và cô hãy đi nghỉ, tôi thấy bà và cô đã quá mệt rồi…
Đoạn anh ta men theo hành lang ra ngoài.
- Con người thật là tháo vát và… tận tình! - Bà Punkheria reo lên, lòng tràn ngập vui sướng.
- Anh ấy tốt quá. - Avdotia Romanovna hồ hởi đáp, rồi lại tiếp tục đi đi lại lại trong phòng.
Chưa được một tiếng đồng hồ đã có tiếng bước lộp cộp trong hành lang và kế đến có tiếng gõ cửa. Hai người đàn bà đang chờ đợi, bây giờ họ đã hoàn toàn tin vào lời hứa của Razumikhin, và quả nhiên anh đã lôi được Zoximov đến. Zoximov thuận bỏ ngay bữa tiệc trà để đến thăm Raxkonikov, nhưng còn đến đằng các bà thì anh ta có ý miễn cưỡng và nghi ngại, vì không tin lắm vào lời Razumikhin đang say tuý luý. Nhưng đến đây tính tự ái của anh lập tức được xoa dịu và còn được thoả thuê nữa là khác; anh đã hiểu ra rằng người ta quả đang chờ đợi mình như một đấng tiên tri. Anh ta ở lại đúng mười phút và đã hoàn toàn thuyết phục, làm yên lòng được bà Punkheria Alekxandrovna. Anh ta nói năng một cách sốt sắng khác thường, tuy nhiên cũng cố giữ cái vẻ dè dặt và nghiêm trang của một ông bác sĩ hai mươi bảy tuổi khi được mời đến thăm một căn bệnh quan trọng. Anh ta không nói một câu nào ra ngoài vấn đề cả và không mảy may tó ý muốn thắt mối quan hệ riêng tư và gần gũi nào hơn với hai người đàn bà. Thoạt mới vào, nhìn thấy sắc đẹp lộng lẫy của Avdotia Romanovna, lập tức anh ta cố làm ra vẻ không mảy may chú ý đến nàng và suốt trong thời gian ngồi trong buồng, anh chỉ thưa chuyện với một mình bà Punkheria Alekxandrovna thôi. Thái độ đó khiến anh ta thấy lòng thoả mãn vô cùng. Về phần bệnh nhân, Zoximov cho biết là hiện trạng rất khả quan. Theo sự chẩn đoán của anh ta thì căn bệnh của Raxkonikov, ngoài những điều kiện vật chất thiếu thốn mà chàng phải chịu đựng trong mấy tháng gần đây, còn là do một số yếu tố tinh thần nữa: "Có thể nói đó là hậu quả của những tác động vật chất và tinh thần phức tạp của những mối lo lắng, sợ hãi, ưu tư, của một vài ý tưởng nào đó, vẫn vẫn". Bất chợt thấy Avdotia Romanovna đang hết sức chăm chú lắng tai nghe mình, Zoximov bèn phát triển luận điểm của mình một cách khoái trá.
Khi bà Punkheria Alekxandrovna với một giọng lo âu và rụt rè hỏi anh ta xem "có những triệu chứng gì của bệnh điên không", anh nở một nụ cười điểm tĩnh và cởi mở mà đáp rằng người ta đã hiểu những lời của anh theo một nghĩa phóng đại, rằng quả nhiên có thể thấy ở bệnh nhân một ý nghĩ gì cố định một cái gì như là chứng thiên chấp - nhất là vì hiện nay Zoximov lại đang đặc biệt nghiên cứu cái ngành y học hết sức lý thú nầy, song cũng phải nhớ rằng hầu như mãi đến nay bệnh nhân vẫn mê sảng và… tất nhiên có những người thân thích như thế nầy Raxkonikov sẽ chóng khoẻ hơn, sẽ được khuây khoả và nói chung đó là một tác dụng rất tốt "miễn là làm sao tránh được cho anh ấy những sự kích động mới" - anh ta nói thêm với một giọng quan trọng. Đoạn Zoximov đứng dậy cáo từ vừa trịnh trọng vừa vui vẻ, và được tiễn chân bằng những lời chúc phước, những lời cảm ơn nồng nhiệt và những lời cầu nguyện tha thiết. Avdotia Romanovna lại còn chìa bàn tay xinh xắn ra cho anh, tuy anh không hề ngỏ ý muốn thế. Zoximov ra về, rất hài lòng về cuộc đi thăm của mình vả lại càng hài lòng hơn nữa với chính bàn thân mình.
- Ngày mai chúng ta sẽ nói chuyện; bây giờ thì các bà nhất định phải ngủ thôi - Razumikhin vừa đi ra với Zoximov vừa khẩn khoản - Sáng mai, tôi sẽ đến thật sớm để báo tin cho các bà rõ.
- Cái cô Avdotia Romanovna ấy trông mới đáng yêu làm sao. - Zoximov nhận xét một cách chân tình khi cả hai đã ra ngoài phố.
- Đáng yêu? Cậu nói đáng yêu à? - Razumikhin hét tướng lên và lập tức chồm vào nắm lấy cổ Zoximov - Nếu cậu còn dám nói một lần nữa… Hiểu chưa? Cậu hiểu chưa? - Razumikhin vừa gào lên vừa day day cổ áo Zoximov và ép anh ta vào tường. - Buông tớ ra nào, đồ say rượu! - Zoximov gỡ tay bạn ra, nói.
Và khi Razumikhin đã buông tay, Zoximov nhìn anh chòng chọc rồi bỗng rũ ra cười. Razumikhin đứng trước mặt bạn, hai tay buông thõng, vẻ mặt nghiêm nghị, như đang miên man trong những ý nghĩ đen tối.
- Tớ thật là một con lừa. - anh nói, mặt tối sầm lại như đám mây giông tố, nhưng cậu… cậu cũng thế.
- Ơ, ông bạn tôi ơi, không, không thể tí nào đâu nhé! Tôi không mơ tưởng những chuyện vớ vẩn đâu.
Họ lặng thinh bước đi và mãi khi gần đến nhà Raxkonikov, Razumikhin đang mải lo âu nghĩ ngợi, mới lên tiếng:
- Nầy, cậu là một tay khá, nhưng ngoài các tật xấu thậm tệ khác của cậu, cậu còn là một tay chúa tán gái, tớ biết, mà là một tay tán gái vào loại bẩn thỉu nữa. Cậu quả là một thằng nông nổi, nhu nhược, ưa hưởng lạc, cậu rửng mỡ lên rồi không biết tự kiềm chế gì nữa, đấy như thế tớ gọi là bẩn thỉu đấy, vì thói ấy sẽ đưa cậu ngay xuống bùn lầy. Cậu đã trở thành nhu nhược, ẻo lả đến nỗi tớ không thể nào hiểu nối tại sao đã thế mà cậu vẫn có thể là một thằng thầy thuốc giỏi, mà lại tận tâm nữa kia chứ? Cậu ngủ trên đệm bông (một bác sĩ) nhưng đêm cậu có thể choàng dậy đi thăm bệnh nhân… Độ ba năm sau chắc cậu sẽ không làm như vậy nữa… Thôi được, mẹ kiếp, vấn đề không phải ở đây nó ở chỗ nầy kia: cậu sẽ nghỉ đêm trong căn nhà của bà chủ, tớ nói khản cả họng bà ta mới nghe đấy; còn tớ, tớ sẽ ngủ trong bếp: cũng là một dịp để hai cô cậu làm thân với nhau hơn. Không phải như cậu nghĩ đâu! Không, ông bạn của tôi ơi, không phải như vậy tí nào đâu…
- Nhưng tớ có nghĩ gì đâu.
- Nầy, bà ta thì bẽn lẽn, thầm lặng, rụt rè, trinh bạch hết chỗ nói, tuy vậy, chỉ cần tớ thở dài một tiếng là bà ta chảy ra như sáp. Đúng thế đấy. Nhân danh tất cả các thứ ma quỷ trong trời đất, xỉn cậu hay giúp tớ thoát khỏi bà ta, tớ van cậu. Bà ta khả ái vô cùng… Tớ sẽ hậu tạ, tớ thề là tớ sẽ hậu tạ.
Zoximov lại phá lên cười to hơn.
- Chà, cậu hăng quá thế? Tớ biết làm gì bà ta bây giờ…
- Tớ dám quả quyết với cậu là không tốn công tốn sức lắm đâu, cậu cứ nói thật nhiều vào, bất cứ chuyện gì, chỉ cần cậu ngồi cạnh bà ta và nói chuyện là được. Hơn nữa cậu là bác sĩ, trước hết cứ kể cho bà ta một đơn thuốc gì đó, tớ cam đoan là cậu sẽ không phải ân hận gì đâu. Bà ta có một chiếc chavecin (1); cậu biết là tớ cũng có biết đàn hát đôi chút chứ gì, tớ có một bản tình ca nhỏ, tình ca Nga hẳn hoi: "Dòng chân tôi tuôn lã chã". Bà ta mê tình ca lắm, chính tớ làm quen với bà ta là bắt đầu bằng bài hát tình ca ấy đấy. Vả lại cậu là một tay chơi dương cầm lão luyện, vào bậc thầy, một Rubinstein (2)… Tớ dám chắc là cậu sẽ không có gì phải ân hận đâu.
- Nhưng cậu đã có hứa hẹn gì với bà ta rồi chăng?
- Một lời hứa hẹn trên giấy tờ chẳng hạn? Có lẽ cậu đã hứa hôn với bà ấy rồi chăng?
- Không, chưa, chưa hề! Vả chăng hà ta không phải như cậu tưởng tí nào đâu? Shebarov đã rắp ranh…
- Thôi, thế thì cứ buông bà ta ra thôi.
- Nhưng không thể buông ra được.
- Sao lại không?
- Vì không thể được, thế thôi! Ở đây có một ma lực hấp dẫn thế nào ấy cậu ạ.
- Thế tại sao cậu lại quyễn rũ bà ta?
- Thì tớ có quyến rũ gì đâu, có lẽ chính tớ bị quyến rũ thì có, vì tớ ngu ngốc mới đến nỗi thế. Còn về phần bà ta thì bất luận là cậu hay tớ, miễn là có một người ngồi thở dài thở vắn bên cạnh là được. Nầy, cậu ạ…
Tới không biết nói thế nào cho cậu hiểu bây giờ. À, thế nầy, cậu vốn giỏi toán và tớ biết bây giờ cậu cũng đang còn nghiên cứu… Được, cậu cứ đem ra trình bày phép tính tích phân cho bà ấy nghe, tớ không đùa đâu, tớ cam đoán là bà ta chẳng cần gì chuyện đó đâu, bà ta ngồi ngắm cậu mà thở dài, cứ thế suốt năm. Như tớ chẳng hạn, tớ đã nói chuyện hai ngày liền với bà ta về thượng nghị viện Phổ (vì tớ còn biết nói cái gì nữa kia chứ!); thế là bà ta cứ việc thở dài! Nhưng cẩn thận, đừng có mà nói chuyện yêu đương đấy nhé! Bà ta cả thẹn lắm, có thể nổi cơn động kinh lên đấy? Cậu chí cần làm ra bộ không dứt được, thế là đủ. Thôi thì mọi thứ tiện nghi trên đời; cứ y như ở nhà cậu ấy - đọc sách, ngồi, nằm, viết lách tha hồ. Cậu có thể hôn bà ta nữa cũng được, nhưng phải từ từ đấy!
- Nhưng tớ cần cóc gì bà ấy mới được chứ?
- Ờ, quả thật tớ không biết giải thích thế nào cho cậu hiểu được. Rồi cậu sẽ thấy, cậu và bà ấy hôn nhau hoàn toàn. Trước đây, tớ đã nghĩ đến cậu. Và thế nào cuối cùng cậu cũng đi vào đường đó! Đã thế thì sớm hay muộn có khác gì? Đây quả là một cuộc sống trên đệm bông, mà không phải chỉ có thế đâu nhé, cậu sẽ bị hút hẳn vào cuộc sống đó. Ở đây chính là nơi tận cùng thế giới, là nơi bỏ neo, là bờ bến yên lành, là rốn của trái đất, nền tảng của vũ trụ, là bánh rán béo ngậy, chả cá ngon lành, là ấm xamovar lúc chiều tà, là những tiếng thở dài âu yếm, là những tấm áo nội tầm thơm tho, là chiếc giường êm ấm… cậu sẽ như đã chết, thế nhưng đồng thời cậu vẫn sống: thật là lợi được cả hai bê! Thôi, ông bạn tôi ơi, tán láo đủ rồi! Đi ngủ được rồi đấy! Nầy, đêm thỉnh thoảng tớ hay thức giấc có gì tớ sẽ đến Rodia một tí xem, mọi việc đều ổn cả thôi; nếu muốn thì cậu cũng lên xem qua hắn ta một chút. Nhưng nếu thấy có gì hơi khả nghi, như mê sảng hay sốt siếc chẳng hạn thì nhớ gọi tớ dậy ngay đấy nhé. Vả chăng, cũng không thể nào…
Chú thích:
Chàng cầm tay mẹ và em, rồi lặng lẽ nhìn một hồi lâu hết người nầy đến người kia. Mẹ chàng phát hoảng lên vì cái nhìn của chàng. Từ đấy mắt chàng ánh lên một nỗi day dứt gần như đau khổ, lại có một cái gì sững sờ, thậm chí dưởng như điên dại nữa. Bà Punkheria Alekxandrovna khóc oà lên.
Mặt Avdotia Romanovna tái mét, tay nàng run lập cập trong tay anh nàng.
- Về đi với cậu ấy - chàng trỏ Razumikhin nói, giọng ngắc ngứ, - Mai, mai hẵng hay… Mẹ, em đến đây đã lâu chưa?
- Lúc tối, con ạ, - bà Punkheria Alekxandrovna đáp; tàu đến chậm quá. Nhưng Rodia ạ, mẹ không thể nào rời con lúc nầy được, đêm nay mẹ sẽ ở lại đây, cạnh…
- Đừng làm khổ tôi nữa! - chàng bực bội xua tay.
- Tôi sẽ ở lại với anh ấy! - Razumikhin thốt lên. - Tôi sẽ không rời anh ấy một phút, còn khách khứa của tôi đằng ấy thì mặc, tha hồ cho họ muốn làm gì thì làm! Đã có chú tôi chủ toạ.
Bà Punkheria Alekxandrovna một lần nữa lại xiết chặt tay Razumikhin nói:
- Biết lấy gì, tôi biết lấy gì cảm ơn anh cho xứng?
Nhưng Raxkonikov lại cắt ngang.
- Không chịu được! Tôi không chịu được nữa… - Chàng giận dữ nhắc đi nhắc lại. - Đừng làm khổ tôi nữa! Đủ rồi, thôi, đi đi… Không chịu được nữa!
- Thôi ta đi đi mẹ ạ, cứ ra ngoài một tý đã. Dunia hoảng hốt rỉ tai mẹ: chúng ta giết anh ấy mất, mẹ không thấy ư?
- Nhưng sau ba năm trời xa cách mẹ lại không thể nhìn anh con được một tý hay sao? - bà Punkheria Alekxandrovna khóc lóc.
- Khoan hẵng! - Raxkonikov lần nữa chặn họ lại, - các người cứ cắt ngang lời tôi, mà đầu óc tôi thì cứ rối tinh lên… Mẹ, em đã gặp Lugin chưa?
- Chưa, Rodia ạ, song anh ấy cũng đã được tin mẹ và em đã lên tới đây. Rodia nầy, - Punkheria Alekxandrovna hơi ngập ngừng nói tiếp, - mẹ và em cũng được tin là Piotr Petrovich đã có lòng tốt đến thăm con.
- Phải… hắn có cái lòng tốt ấy đấy… Dunia nầy, lúc nãy anh vừa tuyên bố với Lugin là anh sẽ vứt hắn xuống cầu thang và anh đã tống cổ hắn đi rồi…
- Rodia. Con nói gì thế? Có thật là con không nói đùa đấy chứ) - bà Punkheria Alekxandrovna hoảng sợ ấp úng, nhưng rồi bà ngừng bặt, đưa mắt nhìn Dunia.
Avdotia Romanovna chăm chú nhìn anh và chờ đợi chàng nói tiếp. Cả hai mẹ con đều đã được Naxtaxia báo cho biết cuộc xung đột vừa rồi (theo cách hiểu của chị ta, cả hai người đều đã hết sức khổ tâm vì băn khoăn và thấp thỏm chờ đợi).
- Dunia, - Raxkonikov khó nhọc nói tiếp, - anh không bằng lòng cuộc hôn nhân đó! Vì vậy, ngay ngày mai hễ gặp Lugin là cô phải cắt đứt ngay với hắn, và tuyệt không được nói năng gì đến thằng cha ấy nữa!
- Trời ơi? - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
- Anh, cẩn thận lởi nói một tý! - Avdotia Romanovna nóng nảy đáp, nhưng rồi nàng lại tự chủ được ngay và dịu dàng nói tiếp. - Bây giờ có lẽ anh mệt rồi, không nói chuyện được đâu…
- Cô tưởng tôi mê sảng chắc? Không… Cô lấy Lugin là vì tôi nhưng tôi không nhận sự hy sinh đó. Vì vậy, ngay ngày mai, cô viết cho hắn một lá thư… cự tuyệt. Sớm mai, cô đem thư cho tôi xem, thế là hết!
- Không đời nào! - người con gái bị xúc phạm thét lên. - Anh có quyền gì mà…
- Dunia, con cũng nóng nảy quá, thôi, để đến mai… con không thấy là… - bà cụ kinh hoảng vồ lấy Dunia.
- Ôi thà ta đi đi còn hơn!
- Anh ấy mê sảng đấy! - Razumikhin nói lè nhè, - không thì đời nào anh ấy dám làm như vậy! Mai rồi cái chứng điên dại ấy sẽ bay đi hết thôi!. Nhưng hôm nay quả anh ấy có đuổi cổ hắn ra thật, đúng thế đấy. Dĩ nhiên lão kia cũng cáu… Hắn đến đây thuyết lý phô trương ra một mớ kiến thức, rồi cúp đuôi chuồn thắng…
- Thế ra chuyện có thật ư? - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
- Mai, anh nhé - Dunia nói, giọng ái ngại. - Mẹ ơi ta đi thôi…, anh Rodia, em đi nhé!
- Em, em hiểu chưa? - Chàng thu hết tàn lực nói với theo, - anh không mê sảng đâu, cuộc hôn nhân ấy là một việc hèn hạ. Cứ cho rằng anh là một thằng hèn, nhưng còn em, ít nhất em cũng không được thế, một người là đủ lắm rồi… Dù anh có là một thằng hèn mạt chăng nữa, anh cũng sẽ không thể coi em là em được nếu, hoặc anh, hoặc Lugin… Thôi, đi đi…
- Cậu điên rồi! Đồ bạo chúa - Razumikhin gầm lên, nhưng Raxkonikov lặng thinh, có lẽ chàng không còn đủ sức để đáp lại nữa. Chàng nằm dài trên đi-văng, quay mặt vào tường, hoàn toàn kiệt sức. Avdotia Romanovna tò mò nhìn Razumikhin; đôi mắt đen nhánh sáng long lanh khiến Razumikhin phải rùng mình. Bà Punkheria Alekxandrovna đứng sững ra như người mất hồn.
- Tôi không tài nào rứt ra mà đi được! - Bà thều thào nói với Razumikhin, gần như tuyệt vọng. - Tôi sẽ ở lại đây chỗ nào cũng được… Nhờ anh đưa Dunia về hộ.
- Thế rồi bà làm hong hết việc cho mà xem? - Razumikhin cũng thầm thì, vẻ hốt hoảng. - ít nhất ta cũng cữ hẵng ra ngoài cầu thang cái đã. Chị Naxtaxia à, soi đèn tí nào!
Ra đến cầu thang. Razumiklin lại khe khẽ nói tiếp:
- Lúc nãy chí thiếu chút nữa anh ấy đánh cả tôi lẫn bác sĩ đấy. Bà và cô nghe ra chưa? Đánh cả bác sĩ! Hắn đã phải chịu nhịn ra về để anh ấy khỏi nổi khùng lên đấy. Rồi trong lúc tôi đang đứng dưới nhà để theo dõi thì anh ấy đã mặc quần áo lẻn đi lúc nào không biết. Bây giờ, nếu bà và cô cứ làm anh ấy tức lên thì anh sẽ lại lẻn đi, đêm hôm thế nầy chưa biết chừng anh lại tự làm hại đến thân nữa đấy!
- Trời? Anh nói sao?
- Với lại cô Avdotia Romanovna cũng không thể ngủ một mình trong cái buồng trọ của Piotr Petrovich thuê được. Cái thằng cha Piotr Petrovich tồi thật! Hắn không thể thuê cho bà và cô một căn buồng khá hơn tý sao! Thôi, tôi hơi say, nên lời lẽ có thô lỗ một chút, bà và cô đừng chấp…
- Nhưng tôi phải đến gặp bà chủ nhà ở đây mới được - bà Punkheria Alekxandrovna khẩn khoản, - tôi sẽ van xin bà ta nhường cho tôi và Dunia một góc để ở lại đêm nay. Tôi không thể bỏ nó một mình như thế được, không thể được!
Lúc bấy giờ họ đứng ở bậc thang trước cửa phòng bà chủ. Chị Naxtaxia đứng ở bậc thang dưới, soi đèn cho họ. Razumikhin thấy xao xuyến lạ thường. Nửa giờ trước đây, khi đưa Raxkonikov về nhà, tuy có nói năng ba hoa, anh vẫn thấy hoàn toàn thanh thản và hầu như tỉnh táo, mặc dầu tối hôm ấy anh đã nốc rất nhiều rượu. Giờ đây, anh cảm thấy mình như chìm trong một trạng thái cuồng hoan và hơi men lại bốc lên đầu anh dữ dội hơn bội phần. Anh đứng giữa hai mẹ con bà Punkheria Alekxandrovna, cầm tay hai người - viện đủ các lý lẽ khuyên nhủ họ một cách mạnh dạn khác thường và chắc là để thêm sức thuyết phục, cứ mỗi câu anh lại xiết chặt tay họ trong tay mình như trong hai gọng kìm và nhìn thẳng vào mặt Avdotia Romanovna không chút ngượng ngùng, như muốn nhai sống nuốt tươi nàng vậy. Đôi khi đau quá, họ cố rút tay ra khỏi nắm tay to tướng xương xẩu của anh, song anh không những không để ý, mà lại còn kéo mạnh họ lại gần anh hơn nữa. Ví thử lúc ấy họ bảo anh đâm đầu nháy xuống thang gác, chắc anh sẽ nhảy ngay tức khắc, không suy nghĩ không đắn đo. Tuy cũng thấy anh chàng trai trẻ nầy quả rất kỳ cục, và xiết chặt tay mình quá đau, nhưng bà Punkheria Alekxandrovna đang hoang mang về chuyện Rodia, và đối với bà lúc nầy Razumikhin quả là một vị cứu tinh, nên bà cứ làm ngơ trước những cử chỉ kỳ quặc nhỏ nhặt ấy. Avdotia Romanovna lúc bấy giờ cũng hoang mang không kém; tuy chẳng phải là người nhút nhát, nàng cũng không khỏi sửng sốt và hầu thư sợ hãi nữa khi bắt gặp đôi mắt sáng quắc và man dại của người bạn anh nàng, duy chỉ vì lòng tin tưởng không bờ bến đối với con người kỳ quặc đó mà câu chuyện của Naxtaxia đã gieo vào lòng nàng, nàng mới bỏ được ý định kéo mẹ chạy trốn. Hơn nữa, nàng cũng hiểu rõ là bây giờ hai mẹ con không dễ gì thoát khỏi anh ta được. Vả chăng khoảng mươi phút sau nỗi lo lắng của nàng cũng dịu đi được phần lớn.
Razumikhin có một đặc điểm là chỉ trong nháy mắt cung có thể bộc lộ hết bản chất mình ra được, dù trong tâm trạng nào cũng vậy, thành thử ai cũng có thể hiểu ngay mình đang giao thiệp với loại người nào.
- Không đến hỏi bà chủ nhà được đâu, làm thế thì không gì khờ bằng nữa! - Anh quát to lên, cố thuyết phục bà Punkheria Alekxandrovna - Bà có là mẹ chăng nữa, nhưng nếu bà ở lại thì anh ấy sẽ điên tiết lên, rồi sự thể ra sao thì có trời biết được? Bà và cô hãy nghe tôi đây. Tôi định thế nầy… Bây giờ thì để chị Naxtaxia ở lại với anh ấy, còn tôi: tôi sẽ đưa bà và cô về nhà, vỉ ở đấy bà và cô không thể đi một mình ngoài đường được đâu. Về mặt nầy ở Petersbung chúng tôi… Thôi thèm vào nói chuyện ấy! Sau đó tôi sẽ chạy ngay lại đây, và xin hứa chắc là chỉ mười lăm phút tôi sẽ trở lại báo cáo với hai người về tình trạng sức khỏe của anh ấy: có ngủ được hay không v.v. Sau đó thì… thế nầy nhé! Sau đó tôi sẽ vù ngay về nhà, bởi vì tôi còn lũ khách khứa đang say sưa bí tỉ ở đằng ấy. Tôi sẽ lôi Zoximov theo, cậu ta là bác sĩ đang chăm sóc anh ấy, lúc nầy cậu ta đang ở đằng nhà tôi, cậu nầy thì không say, không, không bao giờ say. Tôi sẽ lôi cậu ta đến đằng Rodia và sau đó sẽ lập tức đến đằng bà và cô, không chậm trễ nhé, nghĩa là trong một tiếng đồng hồ nữa bà sẽ nhận được tin tức của tôi đi chứ! Nếu anh ấy mệt nặng, tôi xin hứa là sẽ đưa bà đến đằng anh ấy, còn nếu khá thì xin mời bà đi nghỉ. Đêm nay tôi sẽ ở lại đây, trong căn buồng ngoài anh ấy sẽ không hay biết gì đâu, tôi sẽ bắt Zoximov vào ngủ trong buồng bà chủ để có thể kịp thời động dụng. Lúc nầy đối với anh ấy thì ai hơn, bà hay là bác si? Bác sĩ hơn chứ, bác sĩ có ích hơn nhiều. Vậy thì bà hãy cứ trở về. Còn như đến gặp bà chủ thì không thể được, tôi thì được, nhưng bà thì không bà ta sẽ không bằng lòng đâu bởi vì… bởi vì bà ta ngốc lắm. Rà ta ghen với cô Avdotia Romanovna, xin bà biết t cho như vậy và cả với bà nữa…nhưng chắc chắn là với cô Avdotia Romanovna. Bà ta là một người kỳ quặc hết sức. Mà tôi, tôi cũng là một thằng ngốc. Thôi, thèm vào nói chuyện ấy. Ta đi đi. Bà có tin tôi hay không, nào bà nói đi, bà có tin tôi hay không?
- Mẹ ơi, ta đi thôi - Avdotia Romanovna nói - chắc chắn anh ấy sẽ làm như lời anh ấy hứa. Anh ấy đã cứu sống anh Rodia một lần rồi đấy, và nếu quả có bác sĩ thuận ngủ lại đêm ở đây thì mẹ con mình còn trông mong gì hơn nữa?
- Đấy, đấy, cô cô thật là hiểu tôi vì có 18 một vị thiên thần! - Razumikhin reo lên, tràn đầy phấn khởi.
- Ta đi thôi. Chị Naxtaxia, chị lên ngay tức khắc, chong đèn ngồi với anh ấy, mười lăm phút nữa tôi sẽ trở về, tuy chưa thật tin hẳn, bà Punkheria Alekxandrovna cũng không phản đối nữa. Razumikhin nắm cánh tay hai người lôi xuống cầu thang. Dù sao, bà cụ cũng không khỏi thắc mắc: "Tuy có tháo vát và tận tình thật, song không biết liệu anh ta có thể giữ được lời hứa không? Anh ta đang say thế nầy…"
- À, tôi hiểu rồi, bà nghĩ là tôi trông có vẻ say chứ gì - Razumikhin thốt lên, cắt ngang dòng ý nghĩ của bà mà anh vừa phỏng đoán trong khi xoạc cẳng bước trên vỉa hè những bước dài đến nỗi hai người đàn bà chật vật lắm mới theo kịp (điều mà anh cùng không hề chú ý đến). - Thật là ngốc, tôi muốn nói là… tôi say như một thằng vô lại, nhưng vấn đề không phải ở đấy, không phải tôi say vì rượu đâu. Từ khi tôi trông thấy bà và cô là đầu óc tôi cứ quay cuồng lên. Nhưng thôi, thèm vào nói chuyện tôi nữa. Xin đừng để ý đến tôi làm gì: tôi chỉ nói láo. Tôi không xứng đáng với bà và cô, không xứng đáng đến cực độ ấy Ngay sau khi đưa bà và cô về, lập tức tôi sẽ đi ra ngoài kênh gần đây, kia thôi, tôi sẽ dội hai thùng nước lên đàu và tỉnh hẳn… Giá ít nhất bà và cô cũng biết cho rằng tôi yêu quý hai người đến nhường nào!… Đừng cười tôi, cũng đừng giận tôi nhá! Các bà cứ giận hết mọi người đi, nhưng đừng giận tôi. Tôi là bạn của anh ấy và do đó tất cũng là bạn của các bà. Tôi mong được như vậy, tôi đã linh cảm như vậy… Từ năm ngoái, đã có lúc… Nghĩa là tôi không linh cảm gì hết vì bà ta và cô đến với tôi như từ trên trời sa xuống. Có thể là suốt đêm nay tôi sẽ không ngủ… Lúc nãy, cậu Zoximov cứ sợ là anh ấy điên… Đấy cho nên bà đừng làm anh ấy giận lên…
- Anh nói gì thế! - Bà cụ kêu lên.
- Chính bác sĩ nói như vậy thật ư? - Avdotia Romanovna hoảng sợ hỏi.
- Hắn nói thế nhưng không phải thế đâu. Không, hoàn toàn không phải. Hắn cũng đấy cho anh ấy uống một liều thuốc, một thứ thuốc bột, tôi thấy mà, và vừa đúng lúc ấy bà và cô đến. Ồ giá để đến mai bà và cô hẵng lại có phải hay hơn không? Chúng ta đi như thế nầy là rất tốt. Một giờ nữa, Zoximov sẽ báo cáo tường tận với bà. Ít nhất hắn ta cũng không say như tôi! Mà tôi rồi cũng không say nữa đâu… Nhưng sao tôi lại có thể quá chén thế nhỉ? Chà chính là vì mấy cái thằng quỷ sứ, chúng lôi cuốn tôi vào cuộc tranh luận. Thế mà tôi đã tự dặn là không được tranh luận rồi chứ có phải… chúng chỉ toàn nói nhảm! Tí nữa thì tôi gây ẩu đả! Tôi đã để chú tôi ở lại làm chủ toạ… Bà và cô có biết không: chúng nó yêu cầu phải huỷ diệt cá tính, và coi đó là lý tưởng tuyệt đỉnh đấy! Phải làm sao cho mình không phải là bản thân mình, càng ít giống mình ngần nào càng tốt ngần ấy. Đấy, chúng nó muốn đi đến kết luận như vậy đấy! Đối với chúng, đó là đỉnh tột cùng của tiến bộ. Thà chúng nó tán láo nhưng tán cho độc đáo một chút, chứ đằng nầy…
- Anh nầy, - bà Punkheria Alekxandrovna rụt rè ngắt lời Razumikhin, song chỉ càng làm cho anh chàng cao hứng lên.
- Thế bà nghĩ sao? - Razumikhin cất cao giọng gào to hơn nữa, - bà tưởng tôi nỗi khùng lên vì chúng nó tán láo à? Không phải. Tôi lại thích cho chúng nó tán nữa đấy. Tán láo là cái đặc quyền duy nhất của con người so với các sinh vật khác. Chính có tán láo người ta mới đạt được đến chân lý. Chính vì tôi tán láo nên tôi mới là người; không bao giờ đạt đến được một chân lý nào mà lại không phải tán láo đến mười bốn lần, có thể đến một trăm bốn mươi lần nữa là khác, và như thế cũng là một thứ vinh dự, thế nhưng chúng ta lại không biết tán láo cho độc đáo, dùng trí tuệ của mình mà tán láo! Anh cứ tán láo với tôi đi, nhưng hãy tán láo theo kiểu riêng của anh: tôi sẽ ôm hôn anh ngay.
Tán láo, nhưng theo kiểu của mình, có lẽ còn tốt hơn là nói đúng nhưng lại nhai lại của kẻ khác; trong trường hợp đầu, anh chính là một con người, còn trong trường hợp sau thì chỉ là một con vật! Chân lý không mất đi đâu, nhưng cuộc sống có thể huỷ diệt được, đã có những trường hợp như thế. Bây giờ chúng đang làm gì đây? Tất cả, tất cả chúng ta, không trừ ai, dù là trong lĩnh vực khoa học, văn hoá, tư tưởng, phát mình hay trong lĩnh vực của lý tưởng, dục vọng, chủ nghĩa tự do, lý trí, kinh nghiệm, tất cả, trong tất cả mọi lĩnh vực, chúng ta đều chỉ lên đến lớp dự bị tiểu học thôi. Chúng ta ưa chuộng những tri thức mà người khác mớm cho ta sau khi đã nhai kỹ. Có đúng như vậy không? Tôi nói như vậy có đúng không?- Razumikhin quát tướng lên, vừa lay vừa xiết chặt tay hai mẹ con Dunia. - Có đúng không?
- Ôi! Trời ơi! Tôi chịu thôi, - bà Punkheria Alekxandrovna đáp.
- Đúng, đúng như vậy… tuy có nhiều điểm tôi chưa đồng ý hẳn. - Avdotia Romanovna nghiêm trang tiếp lời, rồi bất giác kêu lên một tiếng vì lần nầy Razumikhin bóp chặt tay nàng đau quá.
- Đúng. Cô nói là đúng. Vậy, nếu vậy thì cô… cô - Anh ta phấn khởi reo lên. - cô thật là một nguồn nhân hậu, thanh cao, thông tuệ và… hoàn mỹ. Xin cô hãy đưa tay ra cho, đưa đi! Cả bà nữa, lúc nầy tôi muốn quỳ xuống, hôn tay cô, ngay ở đây ngay bây giờ!
Và anh ta quỳ luôn xuống vỉa hè, may sao lúc ấy vắng người.
- Thôi đừng, tôi van anh, anh làm gì thế? - bà Punkheria Alekxandrovna hoảng hốt đến cực điểm vội kêu lên.
- Anh đứng dậy đi. Kìa, đứng len! - Dunia cười, tuy chính nàng cũng hốt hoảng.
- Không, không đời nào, nếu cô không chìa tay ra cho tôi! Đấy nhé, bây giờ thì được, ta đi thôi! Tôi chỉ là thằng thô lỗ. Tôi không xứng đáng với cô, tôi say, và tôi tự thấy hổ thẹn lắm, tôi không xứng đáng được yêu cô, song phàm kẻ nào chưa hẳn là súc vật cũng đều phải quỳ xuống trước mặt cô cả! Cho nên tôi đã quỳ xuống… Chỗ ở của cô đấy à, chỉ riêng điều nầy thôi cùng đủ để Rodia có quyền tống cổ Piotr Petrovich ra khỏi nhà rồi? Sao hắn lại dám đưa cô đến ở một nhà trọ như thế nầy được! Thật là bêu xấu! Cô có biết hạng người nào thì người ta để cho vào đây không? Thế mà cô là vợ chưa cưới của hắn chứ có phải không đâu! Cô chính là vợ chưa cưới của hắn, phải không nào? Vậy thì, tôi xin nói thẳng với cô rằng người chồng chưa cưới của có là một thằng chó đểu!
- Ông Razumikhin ạ, ông quên mất rằng… - bà Punkheria Alekxandrovna nói.
- Vâng, vâng, bà nói đúng, tôi quên mất, chết thật. - Razumikhin hối hận đáp - nhưng, nhưng bà đừng giận tôi vì những lời tôi vừa nói ra. Bởi vì tôi thành thật. Bà nói, chứ không phải vì… hừm. Nếu vì thế thì thật là tồi, tóm lại không phài vì tôi… Hừm, thôi được, tôi sẽ không nói gì nữa, tôi không dám nói Nhưng hôm qua, khi hắn mới bước vào buồng, chúng tôi đã biết ngay rằng con người ấy không phải cùng cánh với chúng ta, không phải vì chúng tôi thấy hắn vào với một cái đầu mới uốn ở hiệu ra, cũng không phải vì hắn hối hả phô trương mớ kiến thức của hắn ra đâu, nhưng chính vì hắn là một thằng mật thám, một tên đầu cơ, vì hắn chính là một tên Do Thái, một thằng bịp bợm: trông qua cũng biết ngay. Bà tưởng hắn thông minh ư? Không đâu hắn đần độn hết chỗ nói! Đấy, cô nghĩ xem, hắn mà có thể là chồng cô được ư? Ôi! Trời ôi! Các bà thứ nghĩ xem. - vừa bước chân lên cầu thang anh đã dừng phắt ngay lại, - bạn bè của tôi ở đằng nhà dù có say chăng nữa thì họ cũng là những người lương thiện và chúng tôi, kể cả tôi vì tôi cũng thế, dù chúng tôi có nói láo chăng đi nữa thì rồi một ngày kia nói láo mãi chúng tôi cũng sẽ đạt được đến chân lý, vì con đường chúng tôi đang đi là một con đường cao quý, còn Piotr Petrovich thì… con đường hắn đi không cao quý chút nào. Tuy tôi vừa chửi bới họ thậm tệ, song tôi kính trọng họ; ngay đối với Zamiotov, tôi không kính trọng gì nhưng tôi rất mến hắn vì hắn là một thằng nhóc con! Cả đối với cái thằng súc sinh Zoximov kia nữa cũng thế, bởi vì hắn ta thật thà và biết việc. Nhưng thôi đủ rồi, mọi việc đều đã sáng tỏ và đều được tha thứ… Tha thứ chứ? Có phải không ạ? Thôi, ta đi thôi! Tôi biết cái hành lang nầy rồi, đã có lần tôi đến đây. Kia, ở số 3 ấy, đã từng xảy ra một việc bậy bạ… Nào! Các bà ở buồng nầy? Số bao nhiêu. Số 8 à? Được, ban đêm các bà nhớ khoá chặt cửa lại, đừng để cho ai vào cả. Mười lăm phút nữa tôi sẽ đem tin tức lại cho các bà rồi sau đó nữa tiếng tôi sẽ trở lại với Zoximov, các bà cứ chờ. Thôi tạm biệt, tôi đi đây.
- Trời ơi, Dunia, anh con rồi sẽ ra sao? - bà Punkheria Alekxandrovna lo sợ nói với con gái.
- Mẹ cứ bình tĩnh mẹ ạ, - Dunia vừa bỏ mũ, cởi áo choàng vừa đáp lại. - Chính Chúa đã phái cái ông nầy đến với chúng ta đấy, tuy ông ta cũng hơi quá chén. Con xin bảo đảm là mẹ con ta có thể tin được vào ông ấy. Vả lại ông ta đã giúp anh con biết bao nhiêu là việc…
- Trời ơi, Dunia! Biết anh ta có trở lại nữa không? Mà sao mẹ lại nỡ tâm rời Rodia nhỉ! Thật mẹ không ngờ sẽ gặp anh con trong một tình trạng như thế, không, thật không ngờ. Vừa rồi anh con mới phũ phàng làm sao! Tưởng như nó không hài lòng khi gặp lại mẹ con ta…
Bà ứa nước mắt.
- Không, không phải thế đâu mẹ ạ, mẹ không trông rõ đấy thôi, mẹ chỉ khóc suốt. Anh Rodia đang bị khích động vì một căn bệnh trầm trọng, nguyên do chỉ có thế thôi.
- Ôi! Bệnh với tật! Rồi sẽ ra sao đây, rồi sẽ ra sao đây! Mà Dunia, nó ăn nói với con mới tệ chứ? - Bà mẹ nói, rụt rè nhìn vào mắt Dunia như muốn đọc hết ý nghĩ của nàng, lòng cùng đã khuây khuây vì thấy Dunia bênh vực Rodia, nghĩa là đã tha thứ cho anh - Mẹ tin chắc là đến mai anh con sẽ nghĩ lại, - bà nói thêm để cố tìm hiểu cho đến cùng tâm trạng con gái.
- Con thì con biết chắc rằng ngày mai anh Rodia lại cũng sẽ nói như vậy… về vấn đề nầy, - Avdotia Romanovna ngắt lời mẹ. Và dĩ nhiên, đến đây câu chuyện cũng chấm dứt, vì đây là một vấn đề tế nhị mà bà Punkheria Alekxandrovna đang rất ngại đề cập đến.
Dunia đến hôn mẹ. Bà cụ lặng thinh ôm chặt lấy nàng, đoạn bà ngồi xuống lo âu chờ đợi Razumikhin trở về.
Bà đưa mắt rụt rè nhìn theo con gái đang chắp tay đi đi lại lại trong buồng suy nghĩ liên miên, lòng cũng thấp thỏm đợi chờ như mẹ. Cái kiểu đi đi lại lại từ góc nầy sang góc kia như vậy đã thành một thói quen đối với Avdotia Romanovna mỗỉ khi nàng suy nghĩ, và những lúc như vậy bao giờ mẹ nàng cũng sợ phá rối dòng suy tưởng của nàng.
Razumikhin quả cũng lố bịch với cái tình cảm bồng bột đối với Avdotia Romanovna, một tình cảm đột ngột cháy bùng lên trong cơn tuý luý; song cứ ngắm người con gái, nhất là bây giờ khi nàng đang buồn bã và đăm chiêu chắp tay đi đi lại lại trong phòng thì chắc nhiều người sẽ hiểu được cái thái độ kỳ quặc của Razumikhin mà lượng thứ cho anh. Avdotia Romanovna đẹp lắm; thân nàng cao dong dỏng, cân đối lạ thường, mỗi cử chỉ của nàng đều thể hiện sức mạnh và lòng tự tin, mà không hề mày may làm giảm vẻ dịu dàng và kiều diễm.
Mặt Avdotia giống mặt anh nàng, nhưng đó là khuôn mặt của một giai nhân. Tóc nàng màu hung thẫm, sáng hơn của anh nàng một tí, đôi mắt nàng hầu như đen, sáng long lanh, kiêu kỳ, nhưng đôi lúc lại hiền dịu khác thường. Da mặt nàng trắng xanh, song không phải thứ nước da xanh bủng của người ốm yếu, gương mặt nàng sáng bừng lên một khí sắc khỏe mạnh và tươi trẻ. Miệng nàng hơi nhỏ, đôi môi tươi thắm, môi dưới và cằm nàng hơi nhô ra một chút. Đó là nét không đều duy nhất trên khuôn mặt xinh đẹp của nàng, song điều đó cũng tạo cho mặt nàng một vẻ đặc biệt cương nghị vì dường như kiêu ngạo nữa. Nét mặt nàng có phần nghiêm nghị, đăm chiêu hơn là vui vẻ, nhưng ngược lại nụ cười nở trên môi nàng mới ăn nhịp với khuôn mặt ấy làm sao. Tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên và vô tư lự mới hợp với nàng làm sao, mà cũng dễ hiểu tại sao Razumikhin, con người chân tình, cởi mở, thật thà, trung hậu và khoe như thần ấy, lại đang lúc say sưa, và cũng chưa hề được thấy ai đẹp như vậy, mới thoạt nhìn nàng đã mất tự chủ đến nhường ấy. Hơn nữa sự tình cờ dường như cố ý cho anh ta trông thấy Dunia đúng vào lúc lòng nàng đang tràn ngập yêu đương, đang say sưa với hạnh phúc được gặp người anh yêu quý. Rồi sau đó anh lại thấy cánh môi của nàng run lên vì phẫn uấ trước những nhưng yêu sách xấc xược, vô ân và tàn nhẫn của anh nàng, và anh không cầm lòng được nữa.
Vả chăng Razumikhin cũng nói đúng khi đứng trên cầu thang trong cơn say, anh đã thốt ra rằng bà chủ nhà kỳ quặc với Raxkonikov - Praxkopia Ivanovna sẽ phải phát ghen không những với Avdotia Romanovna mà có thể là ngay cả với bà Punkheria Alekxandrovna. Tuy đã bốn mươi ba tuổi bà Punkheria Alekxandrovna vẫn giữ được những nét kiều diễm của nhan sắc ngày xưa, trông bà lại còn trẻ hơn tuổi nhiều; những người đàn bà đã già mà vẫn giữ mãi được sự trong sáng của tâm hồn, những tình cảm tươi mát, tấm nhiệt tình chân thật và thanh cao, thường hay có vẻ đẹp đó. Cũng xin mở ngoặc nói thêm rằng giữ được tất cả những đức tính đó chính là phương tiện duy nhất để khỏi bị mất vẻ đẹp ngay khi đã về già. Tóc bà Punkheria Alekxandrovna đã lốm đốm bạc và thưa thớt dần, nhưng nếp nhăn chân chim đã hằn lên từ lâu ở khóe mắt, má đã bóp vào và khô héo đi vì lo âu và sầu muộn tuy nhiên nét mặt của bà vẫn xinh đẹp. Đó là chân dung của Dunia thêm hai mươỉ tuổi nữa, chỉ có khác là môi dưới của bà không nhô ra, nên không có cái vẻ đặc biệt của Dunia. Bà Punkheria Alekxandrovna là một người đàn bà dễ xúc động, song không phải đến mức quá đa cảm, tính rụt rè và hay nhường nhịn nhưng chỉ đến một chừng mực nào thôi: bà có thể dung thứ, chấp nhận rất nhiều, ngay cả những điều trái với định kiến của bà, nhưng bao giờ cũng có một giới hạn do lờng trung thực do những quan niệm sống và những quy tắc tối thiểu của bà vạch ra mà không hoàn cảnh nào có thể buộc bà vi phạm được.
Razumikhin ra đi vừa được hai mươi phút thì trên cánh của nghe có hai tiếng gõ khè nhưng dồn dập: anh ta đã trở về.
- Tôi không vào đâu, tôi không có thì giờ, - anh nói vội khi họ ra mở cửa. - Anh ấy đang yên giấc, ngủ rất ngon, rất say. Chỉ mong sao anh ấy cứ ngủ được mười tiếng như vậy. Naxtaxia đang ở bên cạnh anh ấy. Tôi đã dặn chị ta là không được đi đâu hết trước khi tôi trở về. Bây giờ thì tôi đi lôi Zoximov đến đây, cậu ta sẽ thân đến bẩm báo; sau đó thì xin bà và cô hãy đi nghỉ, tôi thấy bà và cô đã quá mệt rồi…
Đoạn anh ta men theo hành lang ra ngoài.
- Con người thật là tháo vát và… tận tình! - Bà Punkheria reo lên, lòng tràn ngập vui sướng.
- Anh ấy tốt quá. - Avdotia Romanovna hồ hởi đáp, rồi lại tiếp tục đi đi lại lại trong phòng.
Chưa được một tiếng đồng hồ đã có tiếng bước lộp cộp trong hành lang và kế đến có tiếng gõ cửa. Hai người đàn bà đang chờ đợi, bây giờ họ đã hoàn toàn tin vào lời hứa của Razumikhin, và quả nhiên anh đã lôi được Zoximov đến. Zoximov thuận bỏ ngay bữa tiệc trà để đến thăm Raxkonikov, nhưng còn đến đằng các bà thì anh ta có ý miễn cưỡng và nghi ngại, vì không tin lắm vào lời Razumikhin đang say tuý luý. Nhưng đến đây tính tự ái của anh lập tức được xoa dịu và còn được thoả thuê nữa là khác; anh đã hiểu ra rằng người ta quả đang chờ đợi mình như một đấng tiên tri. Anh ta ở lại đúng mười phút và đã hoàn toàn thuyết phục, làm yên lòng được bà Punkheria Alekxandrovna. Anh ta nói năng một cách sốt sắng khác thường, tuy nhiên cũng cố giữ cái vẻ dè dặt và nghiêm trang của một ông bác sĩ hai mươi bảy tuổi khi được mời đến thăm một căn bệnh quan trọng. Anh ta không nói một câu nào ra ngoài vấn đề cả và không mảy may tó ý muốn thắt mối quan hệ riêng tư và gần gũi nào hơn với hai người đàn bà. Thoạt mới vào, nhìn thấy sắc đẹp lộng lẫy của Avdotia Romanovna, lập tức anh ta cố làm ra vẻ không mảy may chú ý đến nàng và suốt trong thời gian ngồi trong buồng, anh chỉ thưa chuyện với một mình bà Punkheria Alekxandrovna thôi. Thái độ đó khiến anh ta thấy lòng thoả mãn vô cùng. Về phần bệnh nhân, Zoximov cho biết là hiện trạng rất khả quan. Theo sự chẩn đoán của anh ta thì căn bệnh của Raxkonikov, ngoài những điều kiện vật chất thiếu thốn mà chàng phải chịu đựng trong mấy tháng gần đây, còn là do một số yếu tố tinh thần nữa: "Có thể nói đó là hậu quả của những tác động vật chất và tinh thần phức tạp của những mối lo lắng, sợ hãi, ưu tư, của một vài ý tưởng nào đó, vẫn vẫn". Bất chợt thấy Avdotia Romanovna đang hết sức chăm chú lắng tai nghe mình, Zoximov bèn phát triển luận điểm của mình một cách khoái trá.
Khi bà Punkheria Alekxandrovna với một giọng lo âu và rụt rè hỏi anh ta xem "có những triệu chứng gì của bệnh điên không", anh nở một nụ cười điểm tĩnh và cởi mở mà đáp rằng người ta đã hiểu những lời của anh theo một nghĩa phóng đại, rằng quả nhiên có thể thấy ở bệnh nhân một ý nghĩ gì cố định một cái gì như là chứng thiên chấp - nhất là vì hiện nay Zoximov lại đang đặc biệt nghiên cứu cái ngành y học hết sức lý thú nầy, song cũng phải nhớ rằng hầu như mãi đến nay bệnh nhân vẫn mê sảng và… tất nhiên có những người thân thích như thế nầy Raxkonikov sẽ chóng khoẻ hơn, sẽ được khuây khoả và nói chung đó là một tác dụng rất tốt "miễn là làm sao tránh được cho anh ấy những sự kích động mới" - anh ta nói thêm với một giọng quan trọng. Đoạn Zoximov đứng dậy cáo từ vừa trịnh trọng vừa vui vẻ, và được tiễn chân bằng những lời chúc phước, những lời cảm ơn nồng nhiệt và những lời cầu nguyện tha thiết. Avdotia Romanovna lại còn chìa bàn tay xinh xắn ra cho anh, tuy anh không hề ngỏ ý muốn thế. Zoximov ra về, rất hài lòng về cuộc đi thăm của mình vả lại càng hài lòng hơn nữa với chính bàn thân mình.
- Ngày mai chúng ta sẽ nói chuyện; bây giờ thì các bà nhất định phải ngủ thôi - Razumikhin vừa đi ra với Zoximov vừa khẩn khoản - Sáng mai, tôi sẽ đến thật sớm để báo tin cho các bà rõ.
- Cái cô Avdotia Romanovna ấy trông mới đáng yêu làm sao. - Zoximov nhận xét một cách chân tình khi cả hai đã ra ngoài phố.
- Đáng yêu? Cậu nói đáng yêu à? - Razumikhin hét tướng lên và lập tức chồm vào nắm lấy cổ Zoximov - Nếu cậu còn dám nói một lần nữa… Hiểu chưa? Cậu hiểu chưa? - Razumikhin vừa gào lên vừa day day cổ áo Zoximov và ép anh ta vào tường. - Buông tớ ra nào, đồ say rượu! - Zoximov gỡ tay bạn ra, nói.
Và khi Razumikhin đã buông tay, Zoximov nhìn anh chòng chọc rồi bỗng rũ ra cười. Razumikhin đứng trước mặt bạn, hai tay buông thõng, vẻ mặt nghiêm nghị, như đang miên man trong những ý nghĩ đen tối.
- Tớ thật là một con lừa. - anh nói, mặt tối sầm lại như đám mây giông tố, nhưng cậu… cậu cũng thế.
- Ơ, ông bạn tôi ơi, không, không thể tí nào đâu nhé! Tôi không mơ tưởng những chuyện vớ vẩn đâu.
Họ lặng thinh bước đi và mãi khi gần đến nhà Raxkonikov, Razumikhin đang mải lo âu nghĩ ngợi, mới lên tiếng:
- Nầy, cậu là một tay khá, nhưng ngoài các tật xấu thậm tệ khác của cậu, cậu còn là một tay chúa tán gái, tớ biết, mà là một tay tán gái vào loại bẩn thỉu nữa. Cậu quả là một thằng nông nổi, nhu nhược, ưa hưởng lạc, cậu rửng mỡ lên rồi không biết tự kiềm chế gì nữa, đấy như thế tớ gọi là bẩn thỉu đấy, vì thói ấy sẽ đưa cậu ngay xuống bùn lầy. Cậu đã trở thành nhu nhược, ẻo lả đến nỗi tớ không thể nào hiểu nối tại sao đã thế mà cậu vẫn có thể là một thằng thầy thuốc giỏi, mà lại tận tâm nữa kia chứ? Cậu ngủ trên đệm bông (một bác sĩ) nhưng đêm cậu có thể choàng dậy đi thăm bệnh nhân… Độ ba năm sau chắc cậu sẽ không làm như vậy nữa… Thôi được, mẹ kiếp, vấn đề không phải ở đây nó ở chỗ nầy kia: cậu sẽ nghỉ đêm trong căn nhà của bà chủ, tớ nói khản cả họng bà ta mới nghe đấy; còn tớ, tớ sẽ ngủ trong bếp: cũng là một dịp để hai cô cậu làm thân với nhau hơn. Không phải như cậu nghĩ đâu! Không, ông bạn của tôi ơi, không phải như vậy tí nào đâu…
- Nhưng tớ có nghĩ gì đâu.
- Nầy, bà ta thì bẽn lẽn, thầm lặng, rụt rè, trinh bạch hết chỗ nói, tuy vậy, chỉ cần tớ thở dài một tiếng là bà ta chảy ra như sáp. Đúng thế đấy. Nhân danh tất cả các thứ ma quỷ trong trời đất, xỉn cậu hay giúp tớ thoát khỏi bà ta, tớ van cậu. Bà ta khả ái vô cùng… Tớ sẽ hậu tạ, tớ thề là tớ sẽ hậu tạ.
Zoximov lại phá lên cười to hơn.
- Chà, cậu hăng quá thế? Tớ biết làm gì bà ta bây giờ…
- Tớ dám quả quyết với cậu là không tốn công tốn sức lắm đâu, cậu cứ nói thật nhiều vào, bất cứ chuyện gì, chỉ cần cậu ngồi cạnh bà ta và nói chuyện là được. Hơn nữa cậu là bác sĩ, trước hết cứ kể cho bà ta một đơn thuốc gì đó, tớ cam đoan là cậu sẽ không phải ân hận gì đâu. Bà ta có một chiếc chavecin (1); cậu biết là tớ cũng có biết đàn hát đôi chút chứ gì, tớ có một bản tình ca nhỏ, tình ca Nga hẳn hoi: "Dòng chân tôi tuôn lã chã". Bà ta mê tình ca lắm, chính tớ làm quen với bà ta là bắt đầu bằng bài hát tình ca ấy đấy. Vả lại cậu là một tay chơi dương cầm lão luyện, vào bậc thầy, một Rubinstein (2)… Tớ dám chắc là cậu sẽ không có gì phải ân hận đâu.
- Nhưng cậu đã có hứa hẹn gì với bà ta rồi chăng?
- Một lời hứa hẹn trên giấy tờ chẳng hạn? Có lẽ cậu đã hứa hôn với bà ấy rồi chăng?
- Không, chưa, chưa hề! Vả chăng hà ta không phải như cậu tưởng tí nào đâu? Shebarov đã rắp ranh…
- Thôi, thế thì cứ buông bà ta ra thôi.
- Nhưng không thể buông ra được.
- Sao lại không?
- Vì không thể được, thế thôi! Ở đây có một ma lực hấp dẫn thế nào ấy cậu ạ.
- Thế tại sao cậu lại quyễn rũ bà ta?
- Thì tớ có quyến rũ gì đâu, có lẽ chính tớ bị quyến rũ thì có, vì tớ ngu ngốc mới đến nỗi thế. Còn về phần bà ta thì bất luận là cậu hay tớ, miễn là có một người ngồi thở dài thở vắn bên cạnh là được. Nầy, cậu ạ…
Tới không biết nói thế nào cho cậu hiểu bây giờ. À, thế nầy, cậu vốn giỏi toán và tớ biết bây giờ cậu cũng đang còn nghiên cứu… Được, cậu cứ đem ra trình bày phép tính tích phân cho bà ấy nghe, tớ không đùa đâu, tớ cam đoán là bà ta chẳng cần gì chuyện đó đâu, bà ta ngồi ngắm cậu mà thở dài, cứ thế suốt năm. Như tớ chẳng hạn, tớ đã nói chuyện hai ngày liền với bà ta về thượng nghị viện Phổ (vì tớ còn biết nói cái gì nữa kia chứ!); thế là bà ta cứ việc thở dài! Nhưng cẩn thận, đừng có mà nói chuyện yêu đương đấy nhé! Bà ta cả thẹn lắm, có thể nổi cơn động kinh lên đấy? Cậu chí cần làm ra bộ không dứt được, thế là đủ. Thôi thì mọi thứ tiện nghi trên đời; cứ y như ở nhà cậu ấy - đọc sách, ngồi, nằm, viết lách tha hồ. Cậu có thể hôn bà ta nữa cũng được, nhưng phải từ từ đấy!
- Nhưng tớ cần cóc gì bà ấy mới được chứ?
- Ờ, quả thật tớ không biết giải thích thế nào cho cậu hiểu được. Rồi cậu sẽ thấy, cậu và bà ấy hôn nhau hoàn toàn. Trước đây, tớ đã nghĩ đến cậu. Và thế nào cuối cùng cậu cũng đi vào đường đó! Đã thế thì sớm hay muộn có khác gì? Đây quả là một cuộc sống trên đệm bông, mà không phải chỉ có thế đâu nhé, cậu sẽ bị hút hẳn vào cuộc sống đó. Ở đây chính là nơi tận cùng thế giới, là nơi bỏ neo, là bờ bến yên lành, là rốn của trái đất, nền tảng của vũ trụ, là bánh rán béo ngậy, chả cá ngon lành, là ấm xamovar lúc chiều tà, là những tiếng thở dài âu yếm, là những tấm áo nội tầm thơm tho, là chiếc giường êm ấm… cậu sẽ như đã chết, thế nhưng đồng thời cậu vẫn sống: thật là lợi được cả hai bê! Thôi, ông bạn tôi ơi, tán láo đủ rồi! Đi ngủ được rồi đấy! Nầy, đêm thỉnh thoảng tớ hay thức giấc có gì tớ sẽ đến Rodia một tí xem, mọi việc đều ổn cả thôi; nếu muốn thì cậu cũng lên xem qua hắn ta một chút. Nhưng nếu thấy có gì hơi khả nghi, như mê sảng hay sốt siếc chẳng hạn thì nhớ gọi tớ dậy ngay đấy nhé. Vả chăng, cũng không thể nào…
Chú thích:
(1) Loại dương cầm kiểu cổ
(2) Nhà dương cầm và nhà soạn nhạc Nga (1829-1894)
(2) Nhà dương cầm và nhà soạn nhạc Nga (1829-1894)
Chương 15
Sáng hôm sau, hơn bảy giờ Razumikhin mới thức giấc, ưu tư và
trầm lặng, không hiểu sao anh cứ có một cảm giác áy náy mới lạ, bất ngờ. Chưa
bao giờ anh nghĩ là sẽ có lần thức dậy trong một tâm trạng như thế. Anh nhớ lại
cho đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất trong những việc xảy ra hôm qua và hiểu rằng
đã có một chuyện gì khác thường vừa diễn ra trong lòng anh, một ấn tượng từ trước
đến nay anh chưa hề biết, không có chút gì giống những ấn tượng trước đây. Đồng
thời anh cùng nhận thức rõ ràng rằng giấc mơ đã nhen nhóm lên trong lòng mình
là một ao mộng cực kỳ viển vông, đến nỗi anh phải tự thấy hổ thẹn và hối hả
quay sang những chuyện khác, thực tế, cấp thiết hơn mà "cái ngày khỉ gió
hôm qua" đã để lại cho anh như một di sản.
Điều khiến anh kinh hãi nhất là hôm qua anh đã xử sự một cách "đê tiện và khả ố", không phải chỉ vì anh đã say rượu mà còn vì do một lòng ghen tuông ngu xuẩn, anh đã lợi dụng hoàn cảnh bối rối của người thiếu nữ để chửi bới vị hôn phu của nàng trước mặt nàng mà không hề hay biết gì về những mối quan hệ giữa hai người, về hoàn cảnh của họ, hơn nữa cũng không biết rõ người kia thế nào. Vả lại anh có quyền gì xét đoán người ta một cách hấp tấp và bạo phổi như vậy?
Ai khiến anh lên mặt quan toà? Mà chả nhẽ một người như Avdotia Romanovna lại có thể vì tiền mà trao thân cho một con người không xứng đáng? Avdotia Romanovna mà đã thuận lấy hắn thì tất hắn phải có cái xứng đáng… Còn căn nhà trọ? Nhưng hắn làm thế nào biết được đó là loại nhà trọ nào? Dù sao hắn cũng đã tìm cho các bà ấy được một chỗ trọ… Chà! Thật là hèn hạ! Cứ đổ lỗi cho cơn say! Các chống chế dại dột ấy chỉ càng làm hạ phẩm giá mình thêm! Sự thật nó ở trong chất men, và sự thật đã lộ ra trọn vẹn, nghĩa là anh đã phơi bày trọn vẹn "sự nhơ nhuốc của cái tâm hồn đố kỵ, thô lỗ của mình". Lẽ nào anh, Razumikhin, lại được phép ước mơ một cái gì tương tự như vậy? Mình, cái thằng say rượu khoác lác hôm qua mà lại đem sánh đối với một thiếu nữ như thế ư? Làm sao có thể có một sự so sánh vô liêm sỉ và lố bịch như vậy được? Nghĩ đến đấy Razumikhin đỏ dừ mặt, lên và ngay giây lát ấy, như có ai cố tình nhắc nhở, anh sực nhớ lại rõ ràng tối hôm qua, khi đứng trên cầu thang, anh đã nói rằng bà chủ nhà sẽ ghen với Avdotia Romanovna… Cái nầy thì thật quá lắm? Anh giáng mạnh nắm đấm vào cái lò bếp, bầm cả tay và làm vỡ một viên gạch.
Tất nhiên, - một lát sau anh lại làu bàu, lòng tủi thẹn, tất nhiên không bao giờ mình có thể xoá nhoà, cứu vãn được nhưng điều ô nhục ấy… Vậy, thì thôi, không nghĩ đến nó làm gì nữa, mình cứ lặng thinh mà đến và… cũng cứ 1ặng thinh mà làm tròn bổn phận… cũng không bào chữa, không nói gì cả, và… tất nhiên từ nay thế là hỏng hết!
Tuy vậy, khi mặc quần áo, anh cũng ngắm nghía cẩn thận hơn ngày thường. Anh không có bộ y phục nào khác, và dù có một bộ thứ hai có lẽ anh cũng không mặc, "đúng thế, mình sẽ chủ ý không mặc". Thế nhưng dù sao cũng không thể cứ phô trương cái vẻ lôi thôi bẩn thỉu của mình ra một cách trâng tráo như vậy được: anh không có quyền xúc phạm đến sự tế nhị của người khác, nhất là khi mà những người khác ấy đang cần đến anh và chính họ lại mời anh đến. Anh chải quần áo một cách cẩn thận. Còn quần áo lót của anh thì xưa nay bao giờ cũng khá tinh tươm, vì anh vốn chú ý đặc biệt đến mặt nầy.
Sáng hôm ấy anh rửa ráy cẩn thận, lấy xà phòng nơi chị Naxtaxia gội đầu, kỳ cổ và nhất là cọ hai bàn tay. Khi đề cập đến vấn đề: nên cạo râu hay không (Praxkopia Paplovna còn giữ lại được những con dao cạo thượng hsro hạng từ nơi mồ ma ông Zarditxyn, chồng bà). Chàng đã dứt khoát giải quyết theo hướng phủ định: cứ để nguyên thế, không họ lại tưởng đâu mình cạo râu để… thế nào họ cùng sẽ nghĩ như vậy! Không, không đời nào?".
Và nhất là mình lại thô lỗ cục cằn thế nầy, bẩn thỉu thế nầy? Lời ăn tiếng nói sặc mùi quán rượu; và… và cứ cho rằng mình là một người tử tế phần nào đi nữa, - dù sao điều đó cũng có phần đúng thì sao? Chả nhẽ người ta lại có quyền kiêu hãnh khi người ta là một người tử tế. Ai cũng phải là người tử tế, hơn thế nữa ấy chứ. Thế nhưng mình thì lại… (mình nhớ lắm mình thì lại có những chuyện lặt vặt… không hẳn là bất chính, song…) Còn nếu kể những ý định của mình thì, hừm! thế mà lại toan đem xếp sóng đôi với Avdotia Romanovna, đồ quỷ quái Thôi được, ta cứ cố ý giữ như cũ, cứ bẩn thỉu, cáu ghét, sực mùi quán rượu thế nầy thôi, cóc cần. Ta sẽ còn tồi tệ hơn thế nữa kia!".
Razumikhin đang lẩm bẩm một mình như vậy thì Zoximov vào; đêm hôm qua anh ta ngủ trong phòng khách của bà Praxkopia Pavlovna.
Zoximov trở về nhà và trước khi đi, anh ta đã vội vàng tạt vào thăm bệnh nhân một tí. Razumikhin báo cho bạn biết là Raxkonikov đang ngủ li bì. Zoximov cấm không được thức chàng dậy và hứa sẽ trở lại khoảng mười một giờ.
- Miễn sao hắn ta cứ ở nhà là được. - Zoximov nói thêm, - thật quái không có một tí uy quyền gì đối với bệnh nhân, thì còn chữa chạy cái nỗi gì! Cậu có biết hắn ta sẽ đến đằng ấy hay các bà sẽ đến đây không?
- Tớ chắc là họ sẽ đến, - Razumikhin đáp, hiểu ngay thâm ý của câu hỏi, - tất nhiên họ còn phải bàn việc gia đình nữa chứ? Tớ sẽ rút. Còn cậu là bác sĩ, dĩ nhiên cậu có nhiều quyền hơn tớ.
- Tớ không phải là ông cố đạo; tớ sẽ đến và sẽ đi ngay; tớ cũng bận khối việc ra rồi.
- Mình có thắc mắc một điều, - Razumikhin nhăn mặt, nói tiếp, - chiều hôm qua mình say và dọc đường mình nói nhảm khá nhiều với cậu ấy, nói cả chuyện… là cậu sợ cậu ấy có cơ phát điên.
- Hôm qua cậu nói cả chuyện đó với các bà ấy nữa chứ gì?
- Giờ mới biết là mình ngốc! Cậu cứ nện cho mình một trận cũng được. Nhưng có thật cậu đã nghĩ đúng như vậy không?
- Thì đã bảo là toàn chuyện vớ vẩn mà lại? Nghĩ đúng cái gì? Chính cậu, khi cậu dẫn mình đến nhà hắn, cậu đã nói với mình là hắn có chứng thiên chấp… Và hôm qua nữa, những câu chuyện về thằng thợ sơn của cậu cũng như đổ thêm dầu vào lửa trong khi có lẽ hắn phát điên lên vì chuyện ấy. Giá tớ biết đích xác câu chuyện xảy ra ở sở cảnh sát, và biết có một tay chó má nào đã làm nhục cậu ta với những mối nghi ngờ của hắn. Hừm… thì hôm qua tớ đã không để cho câu chuyện trò như vậy. Những tay mắc tính thiên chấp là hay thổi phồng giọt nước lên thành đại dương lắm, mọi ảo mộng đối với họ đều là sự thực hết. Cứ như tớ nghĩ lại thì câu chuyện của Zamiotov kể cho chúng ta nghe hôm qua nay đã giải thích được một nữa vấn đề rồi. Đúng thế đấy! Tớ còn nhớ lại một ca ưu uất một ông đã bốn mươi tuổi, vì không chịu được những lời che riễu hàng ngày của một thằng bé lên tám trong một bữa ăn, đã cắt cố thằng bé chết tươi. còn đây là một con người khổ sở, rách rưới, bị một viên cảnh sát xấc xược lăng mạ, bệnh thì đã chớm mà lại bị nghi ngờ như vậy! Một con người bị chứng ưu uất trầm trọng lại thêm cái tính sĩ diện quá đáng, ngông cuồng chút ít nữa chứ! Có lẽ đó chính là xuất phát điểm của căn bệnh! Phải rồi! Mẹ kiếp! Mà nầy, cậu nói đúng. Zamiotov là một thằng bé dễ chịu đấy, duy có điều… hừm! Hôm qua hắn kể chuyện kia ra làm gì thế không biết! Thằng cha ba hoa lạ?
- Nhưng hắn kể cho ai nghe?
- Cho cậu với mình nghe chứ còn ai nữa!
- Cho cả Porfiri nữa!
- Thì đã sao?
- Nầy, cậu có uy tín gì đối với họ không? Vôi bà cụ và cô em ấy mà! Hôm nay đối với Raxkonikov nên thận trọng hơn một tí?
- Họ sẽ dàn xếp được với nhau thôi - Razumikhin miễn cưỡng đáp.
- Mà sao cậu ta lại ghét căi thằng Lugin thế nhỉ? Một con người lắm tiền, mà cũng không đến nỗi mất cảm tình đối với cô ta lắm. Còn họ thì không có nổi một đồng xu nhỏ, phải không?
- Cậu có cái lối hỏi cũng ở đâu thế? Razumikhin bực tức quát lên. - Họ có còn xu nhỏ xu lớn nào không thì tớ biết đâu đấy. Muốn biết thì cậu cứ đi mà hỏi họ.
- Chà! đôi khi cậu cũng ngốc thật đấy? Thôi cậu đi nhé, cảm ơn hộ tớ bà Praxkopia Paplovna đã cho tớ ngủ trọ. Sáng nay bà ta cố thủ trong buồng đóng chặt cửa lại, tớ đứng ở ngoài cửa chào vọng vào, bà ta cùng chẳng thèm lên tiếng, tuy đã dậy từ lúc bảy giờ; người nhà đã đem ấm xamovar từ nhà bếp đi qua hành lang lên cho bà… Tớ không được hân hạnh chiêm ngưỡng dung nhan bà ta.
Đúng chín giờ, Razumikhin đến nhà Bakaleyev.
Hai mẹ con bà Punkheria Alekxandrovna đợi anh ta đã khá lâu, đang nóng điên cả ruột lên. Họ dậy lúc bảy giờ, có lẽ còn sớm hơn nữa. Anh bước vào, vẻ mặt u sầu như đêm tối, cúi chào một cách vụng về, và điều đó lập tức làm anh tức giận, dĩ nhiên là giận mình. Nhưng những nỗi lo sợ của anh đều tỏ ra không đúng: bà Punkheria Alekxandrovna vồ vập nắm lấy hai tay anh, và thiếu chút nữa bà đã đưa lên môi hôn. Anh rụt rè liếc nhìn Avdotia Romanovna, song trên gương mặt trang nghiêm ấy giờ đây không hề có những nét riễu cợt không hề thoáng thấy vẻ khinh bỉ giấu không kín như anh vẫn chờ đợi; gương mặt ấy chan chứa lòng biết ơn và tình trìu mến, chan chứa một niềm tôn kính chân thành và bất ngờ đến nỗi anh nghĩ thà họ cứ sỉ vả mình đi còn hơn, chứ thế nầy thì anh tự thấy xấu hổ quá chừng. May sao, anh đang sẵn có một đề tài nói chuyện, bèn vội vàng bám ngay lấy.
Nghe nói là "Rodia chưa dậy", song "mọi việc đều ổn", bà Punkheria Alekxandrovna lại tỏ ý hài lòng hơn vì bà "đang rất cần, rất cần bàn bạc trước với Razumikhin đã". Kế đến, hai người hỏi anh đã ăn sáng chưa và mời anh cùng uống chén trà; họ cũng chưa dùng trà vì muốn chờ anh một thể. Avdotia Romanovna lắc chuông: một cậu bé bẩn thỉu, rách rưới chạy vào và được lệnh bày ấm chén ra. Mãi một lát sau, khay trà mới được bưng lên, nhưng nó bẩn thỉu và luộm thuộm đến nỗi hai mẹ con bà Punkheria Alekxandrovna cũng phải thấy xấu hổ. Razumikhin toan lên tiếng chửi rủa thậm tệ, nhưng sực nhớ đến Lugin, anh lại nín lặng, lúng túng, và thật là sung sướng cho anh khi bà Punkheria Alekxandrovna dồn dập hỏi anh một tràng liên tiếp.
Anh phải nói trong bốn mươi lăm phút liền để trả lời cho hết những câu hỏi đó, liên tiếp bị ngắt lời và hỏi đi hỏi lại. Anh kể hết những sự kiện chủ yếu và quan trọng mà anh biết được về cuộc sống của Rodia trong một năm nay, và kết thúc bằng một câu chuyện tỉ mỉ về bệnh trạng của Rodia. Tuy vậy anh cũng đã bỏ qua nhiều điều cần phải giữ kín, kể cả cái màn kịch xảy ra ở sở cảnh sát và những hậu quả của nó. Hai mẹ con háo hức nghe anh kể, và khi anh yên trí đã nói cạn lời và đã thoả mãn được thính giả, thì họ lại tưởng đâu anh chỉ mới mở đầu…
- Thế còn anh, anh cho biết ý kiến của anh ra sao! Ồ, xin lỗi, mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa được biết tên riêng và phụ danh của anh! - bà Punkheria Alekxandrovna nói vội.
- Dmitri Prokofich.
- À vâng, đấy, anh Dmitri Prokofich, tôi rất mong, rất mong được biết, nói chung… hiện nay Rodia quan niệm, vấn đề như thế nào, nghĩa là… anh có hiểu ý tôi không, làm thế nào cho anh hiểu được nhỉ, nghĩa là không biết nói thế nào cho rõ hơn. Rodia ưa cái gì và không ưa cái gì? Lúc nào nó cũng dễ cáu bẩn như vậy sao? Nó ham thích gì, Và nếu có thể, anh làm ơn cho tôi biết nó đang mơ ước những gì? Đối với nó thì hiện nay cái gì có ảnh hưởng mạnh nhất… róm lại, tôi muốn biết…
- Ồ mẹ ơi, làm sao có thể trả lời một lúc ngần ấy câu hỏi được? - Dunia nhận xét.
- Lạy Chúa, bởi vì tôi không hề ngờ là khi gặp chúng tôi nó lại như vậy anh ạ.
- Dạ cái đó là lẽ hoàn toàn tự nhiên thôi ạ - Razumikhin đáp - Tôi không còn mẹ nữa, nhưng tôi có một ông chú hàng năm hay đến thăm tôi và hầu như lần nào ông cũng không nhận ra được tôi, ngay cả mặt mũi cũng vậy. Thế mà ông là người thông minh đấy. Còn như bà thì đã xa Rodion từ ba năm nay, bao nhiêu nước đã chảy qua chân cầu! Tôi còn biết nói thế nào bây giờ? Tôi quen Rodion đã một năm rưỡi nay, bao giờ trông anh ấy cũng vẫn buồn bã, lầm lì, kiêu hãnh và tự hào. Gần đây (và có lẽ lâu hơn nữa), anh ấy sinh ra đa nghi, thần kinh suy nhược. Anh ấy vốn cao thượng và tốt bụng. Anh không thích bộc lộ tình cảm, thà làm một việc gì tàn nhẫn chứ không chịu hé môi thổ lộ tâm tình bao giờ. Vả lại đôi lúc anh không phải là yếu thần kinh mà chỉ lạnh lùng dửng dưng đến mức phi nhân tính, cứ như thể trong người anh có hai tính cách đối lập nhau cứ lần lượt thay thế nhau. Đôi khi lại ít nói lạ lùng. Lúc nào anh ấy cũng không có thì giờ, lúc nào anh ấy cũng than phiền là người ta cứ hay phá quấy mình. Tuy anh chỉ nằm dài, không làm gì cả. Anh ấy không hay chế nhạo ai, không phải vì không đủ sắc sảo mà dường như chỉ vì không đủ thì giờ để làm những chuyện nhảm ấy. Ai nói gì, anh ấy không nghe được đến đầu đến đũa đâu. Không bao giờ anh quan tâm đến những việc mà mọi người đều đang chú ý. Anh tự đánh giá mình rất cao, và tôi nghĩ cũng không phải hoàn toàn không có lý. Gĩ nữa nhỉ? … Theo tôi thì bà và cô đến thăm như thế nầy sẽ có một ảnh hưởng rất tốt đối với anh ấy.
- Ôi lạy Chúa, thật thế ư? - Bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên, lòng day dứt về những nhận xét của Razumikhin về con trai mình.
Mãi đến bây giờ Razumikhin mới dám mạnh dạn nhìn Avdotia Romanovna. Trong khi nói chuyện, anh cũng có liếc nhìn nàng mấy lần, song chỉ vụng trộm nhìn thoáng qua thôi, rồi lại vội nhìn sang phía khác ngay. Avdotia Romanovna lúc thì ngồi xuống trước bàn chăm chú nghe, lúc thì lại đứng dậy và theo thói quen, dạo bước đi đi lại lại từ góc nầy sang góc kia, tay chắp trước ngực, môi mím chặt, thỉnh thoáng lại cất tiếng hỏi một câu, chân vẫn không dừng bước, vẻ đăm chiêu tư lự. Nàng cũng có cái thói quen không nghe được cho đến hết câu. Sáng hôm ấy nàng mặc một chiếc áo dài mỏng thẫm màu, quanh cổ thắt một chiếc khăn quàng trắng bằng thứ hàng trong mờ mờ. Razumikhin nhận thấy có nhiều dấu hiệu tỏ ra rằng hai mẹ con nàng sống trong một hoàn cảnh nghèo khổ cùng kiệt. Ví thử Avdotia Romanovna phục sức như một bà hoàng, có lẽ nàng sẽ không làm cho anh e dè chút nào; giờ đây có lẽ chính vì nàng ăn mặc tồi tàn và anh đã nhận rõ được cảnh sống nghèo khổ của họ. Razumikhin bỗng thấy e sợ cho mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của mình, và lẽ tất nhiên là tình huống ấy rất khó xử đối với một người đã sẵn thiếu tự tin như anh.
- Anh đã cho chúng tôi biết nhiều chi tiết kỳ lạ và tính tình anh tôi… và anh đã nói một cach vô tư. Thật là tốt, trước đây tôi cứ tưởng là anh sùng bái anh tôi, - Avdotia mỉm cười nhận xét. - Còn có một điều anh nói đúng: thế nào cũng phải có một người con gái bên cạnh anh tôi, - nàng trầm ngâm nói thêm.
- Tôi có nói chuyên đó đâu, song có lẽ cô nói đúng, nhưng…
- Sao kia ạ?
- Anh ấy không yêu ai và có lẽ anh sẽ không bao giờ yêu ai cả - Razumikhin nói giọng dứt khoát.
- Thế nghĩa là anh ấy không biết yêu?
- Cô Avdotia Romanovna ạ, cô giống anh cô lạ lùng, giống về mọi phương diện nữa là khác! - anh ta bỗng thốt lên một cách bất ngờ đến đỗi anh cũng phải tự lấy làm lạ, nhưng nhớ lại những điều mình vừa nói về Rodion, anh đỏ dừ mặt lên và đâm ra lúng túng.
Nhìn anh, Avdotia Romanovna không nhịn được cười.
- Về Rodia thì có lẽ cả hai người đều nhầm rồi đấy - bà Punkheria Alekxandrovna nói xen vào, hơi phật ý. - Dunia ạ, mẹ không nói đến việc hiện nay. Những điều Piotr Petrovich viết trong thư… và những điều hai mẹ con chúng mình đã dự kiến có lẽ đều không đúng cả, nhưng anh Dmitri Prokofich nầy, anh không thể hình dung được tính nó kỳ quặc và bất thường đến ngần nào. Tôi chưa bao giờ có thể yên tâm về tính khí của nó, ngay hồi nó mới mười lăm tuổi cũng vậy. Bây giờ nữa, tôi tin chắc rằng nó có thể liều lĩnh làm một điều gì mà chưa bao giờ có ai dám nghĩ đến… Đừng nói đâu xa, anh có biết không, mới cách đây một năm rưỡi thôi, nó đã làm tôi kinh hoảng cuống cuồng lên và suýt chết đi được vì ý định lấy cái cô… cô gì nhỉ? Con gái bà Zarnitxyna, chủ nhà của nó ấy mà?
- Anh có biết được ít nhiều chi tiết gì về chuyện ấy không? - Avdotia Romanovna hỏi.
- Anh có tin… - bà Punkheria Alekxandrovna hăng hái nói tiếp - anh có tin là những tiếng khóc, những lời van xin, bệnh tật và có thể là cái chết của tôi, nỗi khốn cùng của mẹ con tôi có thể làm nó từ bỏ ý định đố được không? Nó có thể vượt qua mọỉ trở ngại một cách bình tĩnh vô cùng. Nhưng có thể nào, có thể nào nó lại Không biết thương chúng tôi?
Anh ấy không hề nói gì về chuyện ấy với tôi bao giờ cả - Razumikhin thận trọng đáp - Nhưng tôi cũng có nghe được ít nhiều từ chính miệng bà Zarnitxyna bà ta cũng không hay chuyện lắm, và những điều tôi biết được, có lẽ nghe ra cũng khá kỳ quặc.
- Sao, anh nghe nói những gì? - cả hai mẹ con cùng hỏi một lúc.
- Ồ! Cũng chẳng có gì đặc biệt lắm. Tôi chỉ biết là cuộc hôn nhân đó đã được quyết định và sắp xếp xong xuôi, nhưng sở dĩ không thành chỉ vì cô dâu chết. Bà Zarnitxyna rất không hài lòng về cuộc hôn nhân nầy. Mặt khác, nghe nói cô dâu cũng không lấy gì làm đẹp lắm… xấu xí nữa là đằng khác… lại ốm yếu và, kỳ dị… song dù sao cũng có một vài tính tốt. Chắc phải có, vì nếu không thì thật không thể nào hiểu nổi… Cô ta không có của hồi môn, vả lại anh ấy cũng không đời nào đi nghĩ đến chuyện đó… Nhưng nói chung, trong một trường hợp như vậy khó lòng có thể hạ lời phê phán.
- Tôi tin chắc rằng cô ấy là người tốt - Avdotia Romanovna khẳng định.
- Lạy Chúa tha tội, nhưng quả tình tôi đã mừng trong bụng khi nghe tin cô ta chết, tuy tôi cũng chưa biết rõ trong hai người ai là kẻ sẽ làm hại người kia nếu cuộc hôn nhân ấy thành, - bà Punkheria Alekxandrovna kết luận; đoạn bà lại ngập ngừng lựa lời dò hỏi Razumikhin về tấn kịch xảy ra giữa Rodia và Lugin hôm qua, mắt luôn liếc trộm nhìn Dunia khiến nàng khó chịu rõ rệt. Có thể thấy rõ bà Punkheria Alekxandrovna lo ngại nhất về sự việc ấy, nó còn làm cho bà phải sợ hãi đứng ngồi không yên nữa là khác.
Razumikhin một lần nữa kể lại câu chuyện, đi sâu vào chi tiết, song lần nầy có thêm lời kết luận của mình: anh thắng thắn buộc tội Raxkonikov đã có chủ định sỉ vả Piotr Petrovich; lần nầy anh không đưa bệnh tình của bạn ra để bào chữa nữa.
- Ngay từ trước khi ốm, anh ấy đã nghĩ đến việc nầy - Razumikhin nói tiếp.
- Tôi cũng nghĩ như vậy - bà Punkheria Alekxandrovna nói, vẻ thất vọng. Song bà rất đỗi ngạc nhiên khi thấy Razumikhin lần nầy nói đến Piotr Petrovich một cách thận trọng mà lại có vẻ như kính nể nữa. Avdotia Romanovna cùng ngạc nhiên không kém.
Thế ý kiến của anh về Piotr Petrovich là như vậy hẳn? - bà Punkheria Alekxandrovna buột mồm hỏi.
- Đối với người chồng tương lai của cô, tôi không thể có kiến gì khác được. - Razumikhin đáp, giọng rắn rỏi và nhiệt thành, - tôi nói như vậy, cũng không phải vì một thứ lễ độ sơ đẳng, mà là vì… bởi vì… có thể chẳng qua vì có Avdotia Romanovna đã thuận lòng chọn người ấy. Hôm qua sở dĩ tôi quá nặng lời như thế: là vì tôi say bí tỉ và hơn nữa… là vì tôi mát cả trí khôn… vâng, mất trí khôn, tôi điên, hoàn toàn điên… và hôm nay tôi thấy xấu hổ quá?
Anh đỏ mặt lặng thinh. Mặt Avdotia Romanovna cũng đỏ bừng lên, nhưng nàng không nói gì. Từ khi hai người nói đến chuyện Lugin, nàng cứ lặng thinh.
Còn bà Punkheria Alekxandrovna, không được con hưởng ứng, cũng đâm ra do dự trông thấy. Mãi lát sau, mắt không ngớt liếc nhìn con gái, bà mới ấp úng nói rằng hỉện nay có một điều khiến cho bà rất bận tâm.
- Ông Dmitri Prokofich ạ, - bà mở đầu. - Mẹ sẽ nói thẳng với Dmitri Prokofich nhé, được không, Dunia?
- Tất nhiên rồi, mẹ cứ nói, - Avdotia Romanovna khuyến khích mẹ.
- Đấy, số là thế nầy, - bà Punkheria Alekxandrovna vội vã nói, dường như được phép bộc bạch nỗi buồn của mình là bà đã cắt bỏ được một tảng núi đang đè nặng trên ngực. - Hôm nay từ sớm tinh mơ chúng tôi có nhận được một mánh giấy của Piotr Petrovich từ Petersburg gửi về phúc đáp bức thư chúng tôi gửi hôm qua đi báo tin đã lên đến đây. Anh xem, lẽ ra anh ta phải ra ga đón chúng tôi như đã hứa. Thế nhưng anh ta lại sai một người đầy tớ ra, cầm theo địa chỉ nhà trọ nầy và chỉ đường cho chúng tôi; còn Piotr Petrovich thì anh ta nhắn là ngáy sáng hôm nay sẽ đến đây. Thế nhưng sáng nay không thấy anh ấy đến, chỉ thấy mảnh giấy nầy gửi lại. Tốt hơn là anh cứ đọc lấy; trong giấy có một điểm làm tôi thắc mắc quá… anh sẽ thấy ngay đó là điểm nào… và anh Dmitri Prokofich ạ, anh sẽ nói thẳng cho chúng tôi biết ý kiến! Anh là người biết tính tình Rodia hơn ai hết, và cũng hơn ai hết anh có thể khuyên bảo chúng tôi. Tôi cũng báo trước để anh biết là Dunia đã quyết định mọi việc ngay từ đầu nhưng tôi thì tôi chưa biết xử trí ra sao cả, thành thử tôi… tôi cứ đợi anh…
Razumikhin mở lá thư đề ngày hôm qua, và đọc được những giòng sau đây:
"Bà Punkheria Alekxandrovna kính mến.
Tôi rất hân hạnh được báo tin để bà biết là vì bận những việc bất ngờ nên tôi không thể ra đón bà ở sân ga được, vì vậy tôi đã cử một người rất tháo vát ra đón hộ tôi. Tôi cũng không được cái vinh hạnh đến thăm bà sớm mai được vì có những công việc cần kíp ở nguyên lão viện đang đợi tôi, và cũng là để khỏi làm phiền đến cuộc gặp gỡ giữa bà với con trai, giữa cô Avdotia Romanovna với anh cô. Vậy tôi sẽ được hân hạnh đến chào hỏi bà ở tại trú quán vào tối mai, đúng tám giờ, và đồng thời nhân đây tôi xin được phép đề đạt một lời yêu cầu mà tôi xin nói thêm là một lời yêu cầu khẩn khoản, - là Rodion Romanovich sẽ không dự vào cuộc gặp gỡ chung của chúng ta, vì anh ấy đã lăng mạ tôi một cách vô lễ chưa từng thấy, nhân dịp tôi đến thăm hôm qua trong khi anh ấy ốm, và ngoài ra vì tôi cần giãi bày riêng với bà một số điểm cần thiết mà tôi muốn được biết ý kiến cả nhân của bà. Ngoài ra tôi có hân hạnh báo trước với bà là nếu trái với lời yêu cầu của tôi, tôi vẫn gặp Rodion Romanovich ở nhà bà thì tôi sẽ buộc lòng phải cáo lui ngay tức khắc, và trong trường hợp đó, bà chỉ nên tự trách mình mà thôi. Tôi viết như vậy là vì Rodion Romanovich, tuy khi tôi đến thăm thì có vẻ đau yếu như thế, song chỉ hai giờ sau đã đột nhiên khỏi bệnh, đã đi ra phố được và do đó, cũng có thể đến thăm bà. Tôi có thể khẳng định được như vậy vì chính mắt tôi trông thấy anh ấy ở trong nhà một lão say rượu vừa bị xe ngựa cán chết; anh ta đã cho con gái lão kia, một cô gái mà ai cũng biết là hư hỏng, đến hai mươi lăm rúp lấy cớ là để trả tiền ma chay, điều đó khiến tôi rất ngạc nhiên vì biết số tiền ấy bà đã tốn bao nhiêu công sức mới gom góp lại được… Với tấm lòng tỏn quý đặc biệt của tôi đối với cô Avdotia Romanovna đáng kính, tôi xin bà nhận ở đây những tình cảm tận tuỵ và thành kính của người đầy tớ hèn mọn của bà.
P. Lugin".
- Tôi biết làm thế nào bây giờ, hở anh Dmitri Prokofich, - bà Punkheria Alekxandrovna rơm rớm nước mắt hỏi - tôi làm thế nào bảo Rodia đừng đến đây được? Hôm qua nó một mực đòi phải cự tuyệt Piotr Petrovich, thế mà nay chính Piotr Petrovich lại cấm tôi tiếp nó. Nó mà biết được thì thể nào nó cũng cố ý đến đây không biết rồi sẽ ra sao?
- Bà cứ làm theo như cô Avdotia Romanovna đã quyết định. - Razumikhin điểm tĩnh đáp không chần chừ.
- Ối trời ơi! em nó nói… em nó nói là… có trời biết được ý nó muốn gì, nó không hề nói rõ chủ định của nó với tôi. Theo nó thì tốt hơn hết, không, không, hay là tốt hơn hết mà nhất thiết mà Rodia phải đến đúng vào tám giờ tối hôm nay và cả hai người nhất thiết phải gặp nhau… Tôi thì tôi không muốn đưa cho Rodia xem lá thư nầy, tôi muốn tìm cách nhờ anh thu xếp thế nào cho nó đừng đến…vì tính nó nóng quá… Với lại tôi cũng không hiểu được sao lại có chuyện người say rượu bị chết ở đây, lại còn cô con gái nào kia nữa, và sao nó lại có thể cho cô con gái kia hết số tiền cuối cùng… mà…
- Mà mẹ đã phải chịu khổ sở bao nhiêu mới có được mẹ ạ - Avdotia Romanovna tiếp lời.
- Hôm qua anh ấy không được tĩnh trí, - Razumikhin nói, vẻ đăm chiêu. - Bà không biết chứ hôm qua trong quán rượu anh ấy đã dở quẻ bày ra một trò đùa kỳ quặc, tuy cũng khá tinh khôn… hừm! Quả tình hôm qua trên đường về nhà anh ấy có nói với tôi mấy câu về một người chết và một cô con gái nào đó, song tôi chà hiểu đầu đuôi ra làm sao cả. Vả lại chính tôi, hôm qua tôi cũng…
- Mẹ ơi, tốt hơn hết… là ta cứ đến đằng anh con, con xin quả quyết với mẹ là đến đấy ta sẽ biết ngay cần phải làm gì. Mà trời ơi đã đến giờ rồi đấy, mười giờ hơn rồi? - nàng thốt lên khi liếc nhìn đồng hồ vàng tráng men rất đẹp đeo trên cổ bằng một sợi dây chuyền thanh thanh đánh kiểu Venexy,… tương phản lạ lùng với toàn bộ trang phục của nàng… "Quà tặng của vị hôn phu" - Razumikhin thầm nghĩ.
- Ôi, đến giờ rồi Dunia ạ! đến giờ rồi - bà Punkheria Alekxandrovna nói, vẻ cuống quít, - khéo không thấy chúng ta đến nó lại nghĩ là từ hôm qua đến nay chúng ta vẫn còn giận. Ôi, trời ơi!
Vừa nói bà vừa vội vàng khoác áo choàng và đội mũ. Dunia cùng mặc áo vào. Razumikhin nhận thấy găng tay của nàng không những cũ mà còn bị thủng nữa; tuy nhiên cảnh nghèo nàn lộ rõ trong trang phục của họ lại càng làm tăng cái phong thái chững chạc đặc biệt mà người ta vẫn thường thấy ở những người biết cách ăn mặc những quần áo sờn cũ. Đôi mắt Razumikhin thành kính nhìn Dunia và cảm thấy tự hào khi nghĩ rằng mình sẽ được đi cạnh nàng: "Vị hoàng hậu kia - anh nghĩ thầm - ngay khi ngồi vá bít tất trong ngục tôi chắc hẳn còn uy nghi lộng lẫy hơn cả trong những ngày hội rực rỡ, tráng lệ nhất của cuộc đời đế vương".
- Trời ơi! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên, - có bao giờ tôi lại có thể tin được rằng tôi sẽ sợ một cuộc gặp gỡ với con tôi, với đứa con yêu quý, với thằng Rodia của tôi như lúc nầy… Tôi sợ, anh Dmitri Prokofich ạ, - bà nói tiếp.
- Đừng sợ gì cả mẹ ạ - Dunia hôn mẹ, nói. - Mẹ cứ tin ở anh ấy thì hơn: Con thì con tin lắm.
- Ôi lạy Chúa! Mẹ cũng tin ở anh con chứ, tuy thế suốt đêm mẹ cũng không sao nhắm mắt được - người mẹ đáng thương kêu lên.
Họ đi ra phố.
- Dunia ạ: hồi sáng mẹ vừa mới chợt thiếp đi một tí đã mơ thấy bà Marfa Petrovna quá cố… mặc toàn đồ trắng… bà đi đến gần mẹ, cầm tay mẹ rồi bắt đầu nhìn mẹ một cách nghiêm khắc tưởng như oán trách điều gì. Phải chăng đó là một điềm xấu? Trời ơi anh Dmitri Prokofich à, hẳn anh chưa biết: bà Marfa Petrovna mất rồi!
- Vâng, tôi chưa biết, bà Marfa Petrovna nào kia ạ?
- Bà ta chết đột ngột quá. Anh thử tưởng tượng…
- Sau hẵng hay mẹ ạ! - Dunia xen vào, - anh - Ấy đã biết bà Marfa Petrovna là ai đâu.
- Ồ anh chưa biết à? Thế mà tôi cứ tưởng anh đã rõ cả. Anh Dmitri Prokofich, anh thứ, lỗi cho tôi nhé, hai ngày hôm nay, đầu óc tôi cứ rối tung lên. Quả tình tôi coi anh như một vị ân nhân cho nên tôi cứ đinh ninh là anh đã tỏ tường hết mọi chuyện. Tôi coi anh như bà con ruột thịt ấy! Tôi nói thế anh đừng giận nhé! Trời ơi! tay phải anh làm sao thế kia? Anh bị thương?
- Vâng ạ, tay tôi bị dập - anh vui sướng nói lúng búng.
- Tính tôi nhiều khi cứ hay bộc tuệch quá thế đấy thành thử Dunia cứ phải la rầy tôi luôn… Nhưng trời ơi nó ở trong cái xó xỉnh nầy ư? Không biết bây giờ nó đã dậy chưa? Còn cái bà chủ nhà của nó ấy, một cái ổ như thế nầy mà bà ta có thể coi là một căn buồng được ư? Nầy, anh nói là nó không thích thổ lộ tâm tình phải không, thế thì không khéo tôi lại sẽ làm nó bực mình vì những… tình cảm mềm yếu của tôi mất! Anh, Dmitri Prokofich ạ, anh bảo tôi với nhé? Tôi phải ăn nói với nó ra sao đây? Anh biết đấy, tôi cứ như người lạc hướng.
- Nếu bà thấy anh ấy chau mày thì đừng có hỏi nhiều: nhất là đừng hỏi thăm nhiều quá về sức khỏe: anh ấy không thích đâu?
- Ôi, anh Dmitri Prokofich ạ, làm mẹ thật là vất vả! Lại cái cầu thang nầy nữa… Cầu thang gì mà khiếp thế?
- Mẹ ạ, trông mẹ xanh quá, cứ bình tâm, mẹ ạ! - Dunia trìu mến nói với mẹ. - Chắc chắn anh con sẽ rất vui sướng được gặp mẹ, thế mà mẹ lại rầu rĩ lo lắng nàng nói thêm, mắt long lanh sáng.
- Khoan hẵng, để tôi lên trước xem anh ấy đã dậy chưa.
Razumikhin đi lên trước, hai người đàn bà rón rén bước theo sau. Lên đến tầng gác thứ tư, hai người nhận thấy cánh cửa buồng của bà chủ he hé mở và từ trong cái khe hở nhỏ ấy hai con mắt đen sắc chăm chú theo dõi họ trong bóng tối. Mấy luồng mắt vừa gặp nhau thì cánh cửa bỗng đóng lại đánh sầm một tiếng khiến bà Punkheria Alekxandrovna suýt bật lên tiếng kêu hãi hùng.
3. "Khỏi rồi, khỏi rồi!" - Zoximov vui vẻ reo lên khi thấy họ đến, Zoximov đến đây đã được mười phút và đang ngồi ở chỗ hôm qua, trên chiếc đi-văng đặt ở góc phòng, Raxkonikov ngồi ở góc đối diện; chàng đã ăn mặc chỉnh tề, rửa mặt, chải đầu cẩn thận, một việc mà đã từ lâu chàng không hề nghĩ đến. Phút chốc, căn buồng đã chật ních. Tuy vậy Naxtaxia cũng đã theo các vị khách len được vào buồng hóng chuyện.
Qua nhiên Raxkonikov cũng đã gần khỏi, nhất là nếu so với hôm qua; tuy vậy, chàng vẫn còn xanh lắm, vẻ mặt ủ rũ và bơ phờ, trông chàng tựa như một người bị thương hay một người vừa bị đau đớn ê chề về nhục thế: mày thì cau lại, môi thì mím chặt, mắt đỏ ngầu. Chàng nói ít và miễn cường, tuồng như đang bị ép buộc phải làm tròn một nhiệm vụ, thỉnh thoảng một mối lo âu mơ hồ lộ rõ trong các cử chỉ của chàng.
Giá tay chàng quấn băng, hoặc ngón tay chàng rịt bông tẩm thuốc, thì trông chàng sẽ giống hệt như một người bị thương thật.
Tuy nhiên, gương mặt nhợt nhạt và ủ rũ đó dường như cũng bừng sáng lên trong chốc lát khi mẹ và em chàng vào, như thế chỉ càng làm tăng thêm cái vẻ đau khổ tập trung thay cho vẻ ủ rũ bơ phờ lúc nãy. Ánh sáng ấy vừa lóe lên đã vụt tắt, nhưng nỗi đau khổ thì vẫn còn đọng lại, và Zoximov, con người đã quan sát theo dõi bệnh nhân của mình với tất cả tấm nhiệt tình trẻ trung của một bác sĩ mới vào nghề, cũng không khỏi ngạc nhiên nhận thấy rằng khi hai người thân của chàng bước vào buồng, trên gương mặt chàng không lộ vẻ vui mừng mà lại có cái vẻ âm thầm đau khổ của một người đã quyết tâm chịu đựng một, cực hình không thể nào tranh khỏi, rồi Zoximov cũng lại nhận ra rằng mỗi lời thốt ra trong khi nói chuyện đều như xỉa xói vào một vết thương nào đó của bệnh nhân làm cho nó rớm máu lên, những đồng thời anh cũng không khỏi ngạc nhiên khi thấy con bệnh thiên chấp ấy đã đủ sức tự chủ và che giấu tình cả của mình, chứ không điên cuồng lồng lộn lên vì những lời lẽ nhỏ nhặt như ngày hôm qua nữa.
- Đúng thế, bây giờ chính con cùng cảm thấy gần khỏe hẳn rồi - Raxkonikov vừa nói vừa âu yếm ôm hôn mẹ và em, khiến gương mặt bà Punkheria Alekxandrovna rạng rỡ hẳn lên - Và tôi nói đây không phải như kiểu hôm qua nữa đâu, - Raxkonikov ngoảnh mặt về phía Razumikhin nói, và thân mật xiết chặt tay anh.
- Tôi cũng rất ngạc nhiên thấy anh ấy được như thế nầy, - Zoximov mở đầu, rất mừng khi thấy khách đến, vì trong mười phút qua, câu chuyện giữa anh với bệnh nhân đã bắt đầu cạn dần. - Bốn hôm nữa, nếu không có gì thay đổi thì mọi chuvện sẽ trở lại như trước, nghĩa là như cách đây một tháng, hay hai… hay có lẽ ba tháng gì đó? Vì chứng bệnh nầy đã phát sinh và chớm nở từ lâu rồi, phải không? - rồi dường như vẫn còn sợ bệnh nhân tức giận, anh ta nói thêm với một nụ cười dè dặt, - bây giờ anh có thừa nhận là có lẽ cũng tại cả anh nữa không nào?
- Rất có thể. - Raxkonikov lạnh lùng đáp.
- Tôi khẳng định như vậy. - Zoximov hăng lên nói tiếp, - kể từ nay anh có hoàn toàn bình phục hay không chủ yếu là tuỳ ở bản thân anh. Bây giờ đã nói chuyện được với anh, tôi muốn khuyên anh một điều: phải xóa bỏ những nguyên nhân ban đầu, nghĩa là những nguyên nhân căn ban đầu làm anh sinh bệnh. Có như vậy anh mới khỏi được, nếu không nó còn có thể trầm trọng thêm nữa là khác. Những nguyên nhân ban đầu ấy tôi không biết rõ, nhưng anh thì chắc phải biết. Anh là người thông minh, và lẽ tất nhiên anh vẫn thường tự quan sát. Theo tôi, hình như lúc khởi đầu chứng bệnh của anh có phần ăn khớp với việc anh ra khỏi trường Đại học. Anh không nên cứ nằm im, không hoạt động gì cả; vì vậy theo tôi phải làm việc, phải có mục đích nhất định; điều đó ắt sẽ có lợi cho sức khỏe của anh.
- Đúng, đúng, anh nói hoàn toàn có lý… Nay mai tôi sẽ trở lại trường Đại học, và thế là mọi việc cứ tuồn tuột như trên bánh xe.
Zoximov đưa ra những lời khuyên nhủ khôn ngoan ấy một phần cũng cốt để gây ảnh hưởng với hai người đàn bà. Anh ta không khỏi băn khoăn khi vừa dứt lời và liếc mắt nhìn Raxkonikov, anh thấy một nét mỉa mai rõ rệt trên gương mặt chàng, song cũng chỉ thoáng qua trong chốc lát. Bà Punkheria Alekxandrovna lập tức cảm ơn Zoximov, đặc biệt là về việc anh đã đến thăm hai mẹ con tối hôm qua.
- Sao kia? Tối hôm qua anh ấy đến đằng mẹ ấy à? - Raxkonikov hỏi, tựa hồ như có ý lo âu… - Thế là sau một cuộc hành trình dài như vậy, mẹ cũng không ngủ được tí nào.
- Ồ, Rodia ạ, lúc ấy đã đến hai giờ sáng đâu! Ở nhà mẹ và Dunia cũng không bao giờ ngủ trước hai giờ sáng cả. Tôi cũng không biết lấy gì cảm ơn anh nữa -
Raxkonikov mặt bỗng sa sầm xuống, cúi đầu nói tiếp với Zoximov. - Nếu không kể đến việc tiền nong - tôi xin lỗi vì đã đề cập đến vấn đề đó - tôi thật không hiểu tại sao lại được anh quan tâm đến thế. Quả thật tôi không hiểu… và… và tôi còn thấy khổ tâm nữa là khác, vì không thể hiểu được… tôi xin thú thật như vậy - Nhưng anh đừng cáu chứ! - Zoximov cười gượng đáp anh cứ tự coi như bệnh nhân đầu tiên của tôi: anh cũng biết là những người mới vào nghề như chúng tôi thường hay chiều chuộng bệnh nhân như con mình đẻ ra, có người lại hầu như phải lòng họ nữa. Với lại, tôi cũng không lấy gì làm đông khách lắm.
- Ấy là tôi chưa nói đến cậu nầy nữa đấy, - Raxkonikov trỏ Razumikhin nói tiếp, - cậu ta chỉ nhận được của tôi những mối lo âu và những lời sỉ vả.
- Rõ vớ vẩn! Hôm nay sao tâm hồn cậu đa cảm thế? - Razumikhin quát lên.
Giá Razumikhin tinh ý hơn, anh sẽ thấy bạn anh không hề có một tâm trạng đa cảm, thậm chí còn ngược lại nữa là khác. Song điều đó không thoát khỏi cặp mắt của Avdotia Romanovna đang chăm chú và lo lắng quan sát anh nàng.
- Còn về mẹ thì con không dám nói đến nữa mẹ ạ - chàng nói tiếp như đọc một bài đã học thuộc từ sáng - mãi đến bây giờ con mới hình dung được phần nào là hôm qua mẹ đã đau khổ biết bao nhiêu trong khi mong ngóng con về.
Nói đến đây, chàng bỗng lẳng lặng mỉm cười đưa tay ra cho em gái. Song lần nầy, trên nụ cười của chàng lóe lên một mối xúc cảm sâu sắc, chân thành. Dunia lập tức nắm lấy tay anh xiết thật chặt, lòng vui sướng và cảm khích. Kể từ câu chuyện lục đục hôm qua, đây là lần đầu tiên chàng lại ôn tồn với em. Gương mặt bà mẹ rạng rỡ lên vì hân hoan và hạnh phúc khi thấy cảnh dàn hoà im lặng và dứt khoát đó giữa hai anh em.
- Ồ chính vì thế mà tôi mến anh ấy! - Razumikhin vừa xoay mạnh người trên ghế vừa thì thầm; tính anh bao giờ cũng hay phóng đại - Anh ta có những cảm xúc đẹp đẽ như lê đấy
"Nó xử sự mới khéo làm sao! - bà cụ nghĩ thầm - Nó có những cảm xúc thật là cao thượng, và nó chấm dứt chuyện hiểu lầm với em nó một cách đơn giản mà tế nhị biết bao nhiêu: nó chỉ cần chìa tay ra và nhìn thẳng vào mặt em nó… Và đôi mắt nó, cả khuôn mặt nó nữa, mới đẹp làm sao. Người nó còn thanh tú hơn cả Dunia nữa… Nhưng, trời ơi, quần áo gì mà tệ thế, nó ăn mặc thật quá tồi tàn. Đến như Vaxia, đứa hầu xe của Aphanaxi Ivanovich ăn mặc cũng còn khá hơn? Ôi tôi muốn lao đến ôm lấy cổ nó mà hôn mà khóc vì sung sướng! Nhưng mà tôi sợ, tôi sợ lắm, nó thật là… Trời ơi, tính khí nó làm sao ấy? Vừa rồi nó nói năng thật dịu dàng âu yếm, thế nhưng tôi vẫn sợ. Tôi sợ cái gì thế nhỉ?".
- Ôi, Rodia - bà thốt lên, hối hả đáp lại điều nhận xét của con - Con không thể tưởng tượng được hôm qua mẹ và em… khổ tâm đến nhường nào! Bây giờ, mọi chuyện đã qua, đã chấm dứt và mẹ con ta đã lại vui vầy sung sướng nên mẹ mới dám nói. Con hãy tưởng tượng là mẹ và em vừa xuống tàu đã vội chạy ngay đến đây để ôm hôn con, và cái chị ấy - à đây! chị ấy đây rồi! Chào chị Naxtaxia. Chị ấy nói ngay là con sốt nóng, mà lại trốn bác sĩ lẻn ra đường trong lúc đang mê sảng, người ta đã phải chạy đi tìm con. Con không thể tưởng được là mẹ và em đã hốt hoảng lên như thế nào!
Mẹ nhớ ngay đến cái chết bi thảm của trung uý Potanshikov, một người quen nhà ta, bạn của ba con - con chắc không nhớ ông ta, Rodia nhỉ - Ông ta cũng bị sốt nóng và lẻn ra ngoài rồi rơi xuống giếng, đến hôm sai mới kéo lên được. Dĩ nhiên mẹ và em con còn tưởng tượng nhiều chuyện bi đát hơn nữa. Hai mẹ con toan đi tìm ngay Piotr Petrovich để nhờ anh ta đến giúp đỡ… vì, con biết đây, chỉ có mẹ với em, tứ cố vô thân, - bà mẹ nói tiếp, giọng ai oán, rồi bỗng im bặt vì sực nhớ ra rằng Piotr Petrovich vẫn còn là một đề tài nguy hiểm, mặc dầu "bây giờ mọi người đều đã lại vui vầy sung sướng".
- Phải! phải, những chuyện ấy thật đáng tiếc, Raxkonikov lẩm bẩm đáp, song vẻ mặt chàng hờ hững và lơ đãng đến nỗi Dunia phải kinh ngạc đưa mắt nhìn chàng.
- Con còn định nói gì với mẹ nữa nhỉ - chàng nói tiếp, cố sức nhớ lại - À phải… thưa mẹ, con xin mẹ và Dunia đừng nghĩ rằng hôm nay con không muốn đến thăm mẹ và em trước mà lại có ý đợi cho mẹ và em đến đây đã, không phải thế đâu.
- Sao con lại nói thế, hở Rodia, - bà Punkheria Alekxandrovna cũng kinh ngạc kêu lên.
"Sao thế nhỉ? Anh ấy chỉ vì bất đắc dĩ mà trả lời hay sao ấy? - Dunia suy nghĩ. - Anh ấy dàn hoà rồi xin lỗi, tuồng như làm cho xong một thủ tục hay đọc một bài học".
- Vừa thức dậy, con đã toan đến đằng ấy ngay, nhưng cứ loay hoay mãi về chuyện quần áo, hôm qua con quên bảo Naxtaxia… giặt sạch chỗ máu ấy đi… Bây giờ con mới vừa mặc xong quần áo…
- Máu? Máu nào? - bà Punkheria Alekxandrovna hoảng hốt hỏi lại.
Không có gì đâu, mẹ đừng lo. Có máu là bởi vì hôm qua trong lúc hơi mê sảng, con có chạm phải một người bị xe chẹt… Một người công chức…
- Trong cơn mê sảng? Thế nhưng cậu lại nhớ hết cơ mà? - Razumikhin ngắt lời.
- Chính thế - Raxkonikov đáp một cách đặc biệt sốt sắng, - tôi nhớ rõ cho đến từng chi tiết nhỏ, thế nhưng không hiểu tại sao tôi lại làm như thế? Tại sao tôi lại đến đằng ấy? Tại sao tôi lại nói thế kia? Thật tôi không tài nào giải thích rõ được.
- Hiện tượng đó cũng dễ hiểu, - Zoximov xen vào đôi khi cách hành động thì cực kỳ khéo léo, tinh xảo, nhưng cái động cơ, cái xuất phát điểm của hành động thì lại rối loạn và tuỳ thuộc vào những ấn tượng bệnh tật nào đó. Một cái gì tựa như một giấc mộng.
"Cũng còn may là hắn coi mình gần như một thằng loạn óc" - Raxkonikov nghĩ thầm.
- Thế thì những người khỏe mạnh cũng vậy thôi, - Dunia nhận xét, mắt lo âu nhìn Zoximov.
- Một lời nhận xét khá đúng! - Zoximov đáp - quả nhiên tất cả chúng ta cũng nhiều khi hành động gần như người điên, duy chỉ có khác là những người "mắc bệnh điên" họ điên hơn ta một tí; cho nên ở đây phải vạch một đường ranh giới. Còn người hoàn toàn sáng suốt thì có thể nói là hầu như không có, có lẽ trong hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn người, may ra mới tìm được một người như thế, mà cũng chưa hẳn là hoàn toàn sáng suốt…
Nghe đến chữ "điên" mà Zoximov vô tình thốt ra trong khi đang say sưa với vấn đề anh thích thú, mọi người đều cau mặt. Raxkonikov dường như không để ý, chàng ngồi yên, vẻ đăm chiêu tư lự, một nụ cười kỳ lạ in lên đôi môi nhợt nhạt của chàng. Chàng vẫn tiếp tục nghiền ngẫm một điều gì.
- Thế cái người bị xe chẹt ấy, rồi ra sao? Cậu kể tiếp đi - Razumikhin vội hỏi to.
- Gì cơ? - Raxkonikov như sực tỉnh - A! phải… thế rồi người tôi dính dầy máu khi tôi giúp họ khiêng ông ta về nhà… Nhân thể, mẹ ạ, hôm qua con đã làm một việc không thể tha thứ được, quả là con không còn trí khôn nữa. Số tiền mẹ gửi cho con, con đem cho… vợ ông ta hết… để lo việc ma chay. Bà ấy nay đã thành người góa bụa, lại ho lao, thật đáng thương, lại có ba đứa bé mồ côi, đói khát… mà nhà chẳng có tí gì… Ở nhà ấy còn một cô con gái nữa… Giá mẹ trông thấy, có lẽ mẹ cũng sẽ làm như con… con cũng biết là con không có quyền làm như vậy, nhất là khi biết mẹ đã vất vả thế nào mới kiếm ra món tiền đó. Muốn giúp đỡ, trước hết phải có quyền đã, bằng không thì "Crevez, chiens, si vous n êtes pas contents?" (l ) - Chàng cười - có phải thế không Đunya?
- Không, không phải thế! - Dunia đáp, giọng rắn rỏi.
- Chà, thôi, cô… cô cũng có dụng ý gì hẳn! - chàng lẩm bẩm nhìn em gái gần như căm hờn, môi mỉm một nụ cười ngạo nghễ. - Lẽ ra anh phải tính đến chuyện đó mới phải… Thôi, cũng đáng khen đấy? Càng tốt cho cô… rồi cô sẽ đi đến một giới hạn nào đó nầy nếu không bước qua, cô sẽ khổ sở, còn nếu bước qua, có lẽ cô còn sẽ khổ hơn nữa. Vả chăng, do toàn là chuyện nhảm. - Chàng bực dọc nói tiếp, giận mình đã quá nhiều lời. Mẹ ạ, con chỉ muốn nói rằng con xin lỗi mẹ, chàng kết thúc, giọng xẵng và ngắc ngứ.
- Thôi, Rodia, mẹ tin chắc ràng việc gì con đã làm thì cũng đều tốt đẹp cả - bà cụ mừng rỡ nói.
- Mẹ đừng tin như vậy, - chàng đáp, môi méo xệch thành một nụ cười gượng gạo.
Một khoảng im lặng tiếp theo sau. Trong suốt câu chuyện vừa qua có một cái gì căng thẳng, từ những phút im lặng cho đến cách giảng hòa, lời xin lỗi, và mọi người đều cảm thấy thế.
"Cứ như thể họ sợ mình" - Raxkonikov nghĩ thầm trong khi ngước mắt nhìn trộm mẹ và em. Quả nhiên, bà Punkheria Alekxandrovna càng im lặng lại càng đâm ra rụt rè.
Khi vắng họ hình như mình vẫn yêu quý họ kia mà - ý nghĩ ấy thoáng hiện trong trí chàng.
- Rodia ạ, bà Marfa Petrovna chết rồi đấy! - bà Punkheria Alekxandrovna bỗng thốt lên.
- Bà Marfa Petrovna nào?
- Trời ơi! Bà Marpha Petrovna, vợ ông Xvidrigailov ấy mà. Mẹ đã viết khá nhiều về bà ta trong bức thư vừa gửi cho con đấy thôi?
- À, à! phải… con nhớ ra rồi… thế bà ấy chết rồi? Thật ư - Chàng bỗng rùng mình như lại sực tỉnh dậy. - Bà ta chết rồi ư? Sao vậy.
- Con thử tưởng tượng xem; bà ta chết thật bắt ngờ! - bà Punkheria Alekxandrovna được thể, vội nói thêm - Ấy, đúng lúc mẹ gửi thư cho con, đúng cái ngày ấy! Con thử tưởng tượng: hình như chính vì con người ghê tởm kia mà bà ta chết. Nghe nói cái lão ấy đã đánh đập bà ta hết sức tàn nhẫn.
- Trước họ cũng sống như vậy sao? - chàng quay lại hỏi em.
- Không, ngược lại nữa là khác! Đối với bà lúc nào ông ta cũng tỏ ra rất kiên nhẫn lễ độ nữa ấy. Nhiều khi ông ta lại còn quá khoan dung với tính nết của vợ nữa; và như thế đã mấy năm ròng… Đến nay ông ta bỗng mất kiên nhẫn thế nào đấy.
- Thế nghĩa là ông ta tuyệt nhiên không đến nỗi ghê tởm lắm, vì cũng đã nén được báy năm kia mà?
- Dunia, hình như cô bênh vực ông ta thì phải?
- Không, không, đó là một con người ghê tởm, em không thể tưởng được còn có cái gì ghê tởm hơn nữa - Dunia đáp, gần như run lên, nàng cau mày, trầm ngâm suy nghĩ.
- Câu chuyện đó xảy ra ở nhà họ vào một buổi sáng, bà Punkheria Alekxandrovna vội và nói tiếp. - Sau đó bà ta lập tức ra lệnh thắng xe để sau bữa cơm trưa sẽ lên tỉnh, vì trong nhưng trường hợp như vậy, lúc nào bà ta cũng lên tỉnh. Nghe đâu trưa hôm ấy bà ăn ngon lành lắm.
- Sau khi bỉ đánh nhừ tử?
- Đối với bà ta… đã thành một thói quen như thế, và để khỏi chậm trễ, ăn xong bà ta đi tắm ngay… Con ạ, bà ta vẫn chữa bệnh bằng cách tắm đấy. Ở nhà họ có một con suối nước lạnh, ngày nào bà ta cũng đến đấy tắm rất đều. Nhưng vừa lội xuống nước bà ta bị một cơn động kinh.
- Tất nhiên phải như thế! - Zoximov nói. - Thế bà ta bị đánh đau lắm phải không?
- Mà thôi, có can hệ gì đâu. - Dunia lại xen vào.
- Hừm! Mẹ ạ, sao mẹ cứ kể lể những chuyện vớ vẩn ấy làm gì? - Raxkonikov bỗng buông ra một giọng gắt gỏng bất ngờ.
- Ôi! Con ạ, chỉ vì mẹ không biết nói chuyện gì hơn, - bà Punkheria Alekxandrovna buột mồm nói.
- Sao! Các người đều sợ tôi cả hay sao? - Chàng lại mỉm một nụ cười nhăn nhó.
- Quả đúng như thế. - Dunia nói, mắt nghiêm khắc nhìn thẳng vào mặt chàng. - Khi bước chân lên cầu thang, mẹ còn làm cả dấu thánh nữa, vì mẹ sợ quá.
Bộ mặt Raxkonikov nhăn rúm lại như thể bị chuột rút.
- Ôi! Dunia, con nói gì thế! Rodia, con đừng giận, mẹ van con! Sao con lại nói thế, hở Dunia? - bà Punkheria Alekxandrovna luống cuống nói. - Thật quả suốt dọc đường ngồi trên xe lửa, mẹ cứ nghĩ: gặp nhau mẹ con ta sẽ kể cho nhau nghĩ không biết bao nhiêu là chuyện… Lúc ấy mẹ sung sướng đến nỗi không còn chú ý gì dọc đường nữa. Nhưng mẹ vừa nói gì thế nhỉ? Bây giờ mẹ cũng vẫn sung sướng chứ… Dunia, con nhầm rồi đấy? Khi được gặp lại con thôi mẹ cũng đã sung sướng lắm rồi, Rodia ạ.
- Thôi, mẹ ơi, - chàng siết tay mẹ nói lắp bắp, có chiều bối rối, mắt nhìn đi nơi khác - Chúng ta còn đủ thì giờ nói chuyện nhiều.
Nói xong, chàng bỗng đâm ra luống cuống và tái mặt đi: cái cảm giác lạnh buốt kinh hoàng lúc nãy lại dâng ngập tâm hồn chàng; chàng lại thấy rõ mình vừa thốt ra một lời nói dối kinh khủng, và không những từ nay chàng sẽ không bao giờ còn có thể chuyện trò cởi mở với mẹ chàng nữa mà cũng không bao giờ còn có thể nói với ai bất cứ chuyện gì. Cái cảm giác chua xót ấy mạnh đến nỗi chàng hầu như mất trí trong chốc lát. Chàng đứng dậy và không nhìn ai, toan đi thẳng ra cửa.
- Cậu làm sao thế? - Razumikhin nắm lấy cánh tay chàng, kêu lên.
Chàng lại ngồi xuống va đưa mắt lặng lẽ nhìn quanh; mọi người đều bỡ ngỡ nhìn chàng.
- Ôi! Sao tất cả các người chán thế? - Chàng bỗng kêu lên một cách thật bất ngờ - Nói chuyện gì đi chứ! Sao các người lại ngồi trơ ra thế? Nào, nói đi chứ! Chúng ta nói chuyện nào… Đã sum họp thế nầy mà lại lặng thinh… Nào, nói chuyện đi.
- Lạy Chúa! Tôi cứ tưởng lại lên cơn như hôm qua. - Vừa noỉ bà Punkheria Alekxandrovna vừa làm dấu thánh.
- Anh làm sao thế? - Avdotia Romanovna hỏi, vẻ ngờ vực.
- Chả sao cả, anh vừa nhớ lại một chuyện không đâu - chàng đáp và đột nhiên cất tiếng cười.
- Được, nếu là chuyện không đâu thì tốt, nếu không chính tôi cũng nghĩ là… - Zoximov lẩm bẩm rời đi-văng đứng dậy. - Giờ thì tôi phải đi, có thể tôi sẽ trở lại nếu gặp cậu ở nhà…
Anh ta cúi chào và lui ra.
- Con người mới đáng quý làm sao! - bà Punkheria Alekxandrovna nhận xét.
Phải, đáng quý, tuyệt diệu, có học thức, thông minh, - đột nhiên Raxkonikov nói liến thoắng một thôi với vẻ khích động từ nãy đến giờ chưa từng thấy chàng có. - Con không nhớ là trước khi bị bệnh, con đã gặp anh ấy ở đâu… Hình như đã có gặp anh ta ở đâu rồi thì phải… Đây cũng là một người đáng quý nữa! - Chàng hất đầu về phía Razumikhin, - Dunia, em có thích anh ấy không? - chàng hỏi em rồi bật cười, chẳng hiểu tại sao.
- Rất thích, Dunia đáp.
- Chà, đồ quỷ…! - Razumikhin ngượng chín cả người, mặt đỏ dừ lên lúng túng đứng dậy. Bà Punkheria Alekxandrovna mỉm cười dịu dàng, còn Raxkonikov thì cười phá lên.
- Kìa, cậu đi đâu đấy?
- Mình cũng… có việc cần.
- Cậu chẳng có việc gì sất, ở lại đây! Zoximov đi rồi thì cậu cũng muốn bước đấy hẳn? Không đi đâu hết, mà mấy giờ rồi nhỉ? Mười hai giờ rồi phải không? Dunia, em có chiếc đồng hồ xinh quá nhỉ! Nhưng tại sao các người lại cứ lặng thinh thế? Vẫn chỉ có tôi nói mãi thôi!
- Đây là món quà của bà Marfa Petrovna, - Dunia đáp.
- Đắt tiền lắm đấy - bà Punkheria Alekxandrovna đệm theo.
- A - a - a! Nhưng là đồng hồ nữ thì hơi to.
- Em thích cỡ nầy - Dunia nói.
- Thế ra không phải của vị hôn phu?. - Razumikhin nghĩ và chợt thấy mừng thầm, chẳng hiểu vì sao. Thế mà anh cứ tưởng là tặng phẩm của Lugin. - Raxkonikov nói.
- Không phải, anh ta chưa tặng Dunia cái gì cả.
- Á - à - à! Mẹ ạ, mẹ còn nhớ không, con cũng đã từng yêu và đã từng muốn lấy vợ. - chàng nhìn mẹ nói, khiến bà kinh ngạc vì cách chuyển hướng bất ngờ của câu chuyện và giọng nói của chàng.
- Ôi, con yêu quý ạ, mẹ có nhớ! - bà Punkheria Alekxandrovna vừa nói vừa liếc mắt nhìn Dunia và Razumikhin.
- Hừm! đúng! Nhưng con biết kể chuyện gì với mẹ bây giờ? Chính con cũng không còn nhớ được bao nhiêu. Đó là một cô bé ốm yếu? - chàng nới tiếp, đầu cúi gầrn, dường như vụt trở lại với tâm trạng đăm chiêu ban nãy, - rất ốm yếu; cô ta thích bố thí cho ăn mày và chỉ mơ ước được vào tu viện; một hôm, cô khóc sướt mướt khi nói với con chuyện đó; phải… con nhớ ra rồi, con nhớ lò lắm, cô ta lại còn xấu xí nữa. thật quả con cũng không hiểu sao con lại gần với cô ta hình như vì cô ta bao giờ cũng ốm yếu. Giá như cô ấy lại thọt hay gù nữa thì chắc là con còn yêu cô gấp bội (chàng tư lự mỉm cười)… Thế đấy một cơn mê sang của tuổi xuân.
- Không, không phải chỉ là một cơn mê sảng của tuổi xuân! - Dunia nói, giọng nhiệt thành.
Chàng chăm chú nhìn em, tinh thần căng thẳng, song không hiểu em mình nói gì và thậm chí cũng không nghe thấy gì nữa. Rồi, vẫn chìm sâu trong tâm trạng đăm chiêu tư lự, chàng đứng dậy, đến hôn mẹ rồi trở lại ngồi chỗ cũ.
- Giờ con vẫn còn yêu cô ta? - bà Punkheria Alekxandrovna mủi lòng nói.
- Cô ấy… Bây giờ ấy à? À, phải… mẹ nói đến cô ấy phải không? Không. Bây giờ đối với con những việc ấy đều như đã sang thế giới khác rồi… đã xa xưa lắm? Và tất cả những việc xung quanh con cũng dường như đang diễn ra ở một nơi nào xa lạ.
Chàng đăm đăm nhìn họ.
- Như các người đây cũng thế, tôi nhìn các người như từ một nơi nào cách xa hàng nghìn dặm… Nhưng sao chúng ta lại nớl những chuyện ấy nhỉ, có ma nó biết và tại sao các người lại hỏi tôi? - chàng bực bội nói thêm rồi im bặt, cắn móng tay, vẻ lại trầm ngâm như cũ.
- Rodia, chỗ ở của con tệ quá, thật như cái quan tài - bà Punkheria Alekxandrovna bỗng lên tiếng để chấm dứt phút im lặng nặng nề. - Mẹ chắc con buồn buồn phần nào cũng do chỗ của con.
- Chỗ ở? - Chàng đáp vẻ lơ đãng - Vâng, chỗ ở của con cũng có dính dáng nhiều đến việc ấy… Con cũng đã nghĩ đến điều đó. Song ý nghĩ vừa rồi của mẹ thật là kỳ lạ, mẹ ạ - chàng nói thêm với một nụ cười quái gở. Chỉ thiếu chút nữa thì chàng không còn hơi sức nào chịu đựng được cuộc họp mặt nầy, chịu đựng những người thân mà sau ba năm xa cách, chàng mới được gặp lại, cũng như cái giọng thân mật gia đình của câu chuyện bất đắc dĩ trong khi chàng không thể nào nói được bất cứ chuyện gì. Tuy vậy chàng có một việc khẩn cấp cần phải quyết định ngay hôm nay không trì hoãn: sáng nay lúc ngủ dậy chàng đã có ý định dứt khoát như thế. Chàng thấy hài lòng vì đã nghĩ đến công việc để tìm một lối thoát.
- Dunia ạ, đây, vấn đề nó như thế nầy, - chàng mở đầu, giọng khô khan và nghiêm nghị, - tất nhiên anh phải xin lỗi em vì những chuyện xảy ra hôm qua, nhưng anh tự thấy có bổn phận nhắc cho em nhớ là anh không hề thay đổi ý kiến. Hoặc anh, hoặc Lugin. Anh có thể là một con người hèn mạt, nhưng em không thể thế được. Chỉ một người thôi cũng đủ. Nếu em kết hôn với Lugin, thì ngay tức khắc, anh sẽ không còn coi em là em nữa.
- Rodia! Rodia! thế thì lại như hôm qua rồi! - Bà Punkheria Alekxandrovna chua chát thốt lên, - mà tại sao con cứ gọi mình là người hèn mạt, mẹ không thể chịụ được. Hôm qua cũng thế…
- Anh à - Dunia đáp giọng rắn rỏi và cũng khô khan không kém - Chuyện nầy trước sau đều do một ý nghĩ sai lầm của anh mà ra cả. Đêm qua, em đã suy nghĩ và đã tìm ra được chỗ sai lầm đó. Hình như anh cho rằng em vì một người nào đó mà đem hiến mình cho một người nào đó. Hoàn toàn không phải như vậy, em đi lấy chồng chỉ vì bản thân em mà thôi, bởi vì em thấy khó sông một mình: rồi sau đó lẽ tất nhiên em cũng lấy làm sung sướng có thể giúp đỡ được cho những người thân, song đó không phải là động cơ chủ yếu trong quyết định của em.
"Nói dối, - Raxkonikov vừa nghĩ thầm vừa cắn móng tay một cách giận dữ. Con bé kiêu ngạo thật! Nó không muốn nhận là nó thích đóng cái vai ân nhân! Ôi, những nhân cách ti tiện! Họ yêu cũng chăng khác gì họ ghét! Ôi! ta… căm thù tất cả bọn họ!".
- Tóm lại, em sẽ lấy Piotr Petrovich, - Dunia nói tiếp, - vì trong hai nỗi khổ, em chọn lấy nỗi nhẹ nhất. Em sẽ trung thực làm tròn tất cả những gì người ấy chờ đợi ở em; vì vậy em sẽ không lừa dối người ấy. Sao anh lại cười?
Mặt nàng cũng đỏ bừng và trong khóe mắt nàng lóe lên một tia giận dữ.
- Em sẽ làm tròn tất cả đấy chứ? - chàng hỏi với một nụ cười hiểm độc.
- Đến một mức độ nào đó. Cách thức cầu hôn của Piotr Petrovich cũng đã làm cho em thấy ngay ông ấy muốn gì. Quá ông ta đánh giá mình quá cao, song em hy vọng ông ta cũng sẽ coi trọng em… Sao anh lại cười?
- Thế tại sao em lại đỏ mặt? Em nói dối, em ạ, em cố tình nói dối chỉ vì cái tính cố chấp của đàn bà, chỉ vì muốn bắt anh nhìn nhận mọi việc theo ý riêng của em. Em không thể kính trọng Lugin được, anh đã gặp hắn và đã nói chuyện với hắn. Thế nghĩa là em bán mình vì tiền, vì vậy em đã hành động một cách hèn hạ, và anh lấy làm mừng rằng ít nhất em cũng còn biết ngượng vì việc đó?
- Không phải, em không nói dối đâu… - Dunia mất hết tự chủ thét lên. - Em không đời nào lấy ông ta nếu không biết chắc là ông ta quý trọng em, em không đời nào lấy ông ta nếu không biết chắc rằng em có thể kính trọng được ông ta. Cũng may là ngay hôm nay, em sẽ có dịp biết chắc chắn được điều đó. Một cuộc hôn nhân như vậy không phải là một việc đê tiện như anh nói. Mà dù anh có nói đúng chăng nữa, dù em có cam tâm làm một việc đê tiện thì anh nói như thế chẳng phải là quá tàn nhẫn hay sao? Tại sao anh cứ đòi hỏi ở em một bản lĩnh anh hùng mà có lẽ anh cũng không có? Như vậy là áp chế, như vậy là cưỡng bức? Nếu em có làm hại người nào thì người đó chỉ có thể là một mình em mà thôi… Em cũng chưa giết người nào kia mà! Sao anh lại nhìn em như thế? Sao anh lại tái mặt đi thế? Rodia, anh làm sao thế? Rodia, anh yêu quý!
- Trời ơi! Nó làm anh nó ngất đi kia kìa! - bà Punkheria Alekxandrovna thét lên.
- Không, không… không hề gì… cớ sao đâu. Con hơi chóng mặt một tí thôi. Không ngất đâu… Mẹ thì lúc nào cũng sợ con ngất! Hừm? Phải anh định nói gì nhỉ? À, phải rồi, cô làm thế nào mà ngay hôm nay có thể biết chắc rằng cô sẽ kính trọng hắn và hắn sẽ coi trọng cô, có phải đúng cô vừa nói như vậy không? Hình như cô vừa nói là hôm nay thì phải. Hay anh nghe nhầm?
- Mẹ ơi, đưa cho anh con xem lá thư của Piotr Petrovich, - Dunia nói. Tay run run, bà Punkheria Alekxandrovna đưa thư cho con trai. Chàng cầm lấy, trí tò mò lên đến cao độ. Song trước khi mở thư chàng bỗng quay lại nhìn Dunia như có ý ngạc nhiên.
- Lạ thật! - chàng nói chậm rãi, tuồng như vừa có một ý nghĩ mới mẻ vụt hiện đến. - Sao tôi lại nhặng xị thế nhỉ? Sao tôi lại có thể làm toáng lên như thế? Cô muốn lấy ai thì cứ lấy thôi!
Chàng như tự nhủ một mình, nhưng lại nói to lên, rồi sững sờ nhìn em một lát, vẻ như băn khoăn không hiểu.
Cuối cùng, chàng giở thư ra, vẫn giữ một vẻ ngạc nhiên khác thường; rồi chàng thong thả và chăm chú đọc đi đọc lại bức thư hai lần.
Bà Punkheria Alekxandrovna lo ngay ngáy; và mọi người đều chờ đợi một sự kiện khác thường sắp xảy ra.
- Kể cũng lạ thật, - sau một lát suy nghĩ chàng trả lại bức thư cho mẹ và cất tiếng nói trống không, - hắn làm luật sư, quen giao thiệp, nói năng nghe cũng có vẻ trau chuốt, thế mà thư thì viết như người vô học.
Ai nấy đều xôn xao lên: nầy giờ họ chờ đợi một cái gì khác hẳn.
- Họ đều viết như thế cả đấy, - Razumikhin nói, giọng ngắc ngứ.
- Cậu đọc lá thư nầy rồi à?
- Rồi.
- Mẹ và em có đưa cho anh ấy xem, Rodia ạ, lúc nãy mẹ… có hỏi ý kiến anh ấy, - bà Punkheria Alekxandrovna đỡ lời, vẻ bối rối.
- Đó chính là lối văn tố tụng - Razumikhin cắt ngang, - xưa nay các giấy tờ ở tòa án vẫn viết lối văn tố tụng như vậy đấy.
- Văn tố tụng? Đúng, đúng là văn tố tụng, văn sự vụ Không hẳn là cách viết của kẻ vô học, cũng không phải là lối viết văn hoa gì đúng là văn sự vụ. Piotr Petrovich không hề có ý giấu là mình ít được học hành, hơn nữa còn tự hào là đã tự xây dựng lấy cuộc đời mình. - Avdotia Romanovna nhận xét, hơi phật ý vì giọng nói của anh.
- Được rồi, nếu hắn tự hào thì chắc cũng có lý do, anh không phản đối. Em ạ, hình như em bực mình vì cả một lá thư như vậy mà anh chỉ rút ra được có mỗi một lời nhận xét nông nổi, và em nghĩ là anh cố tình nói những điều không đâu như vậy để trêu tức em. Không, trái lại, về lời văn, anh vừa nảy ra một nhận xét mà trong trường hợp nầy có lẽ không thừa chút nào. Trong thư có câu: "bà chỉ nên tự trách mình", thật hàm súc và rõ ràng; ngoài ra lại có lời đe doạ là sẽ đi ngay lập tức nếu anh đến. Lời đe doạ đó cũng có nghĩa là đe doạ sẽ bỏ rơi mẹ và em, và bỏ rơi đúng vào lúc nầy, sau khi đã gọi hai người lên Petersburg! Đấy, cô nghĩ sao, ví thử không phải Lugin viết ra câu văn ấy mà là anh nầy chẳng hạn (chàng trỏ Razumikhin), hoặc Zoximov, hoặc một người nào trong mẹ con chúng ta viết ra thì người đọc có thấy mình bị xúc phạm như vậy không?
- Kh… không, - Dunia hăm hở đáp. - Em hiểu rất rõ rằng viết như vậy là quá vụng về, song có lẽ ông ta không làm chủ được ngòi bút của mình. Anh phê phán đúng, anh Rodia, chỉnh em cũng không ngờ là…
- Thư viết bằng lối vẫn tố tụng, mà dùng lối văn tố tụng thì không có cách nào viết khác được, cho nên giọng văn đâm ra thô lỗ hơn là vì hắn muốn thì phải. Ngoài ra, anh buộc lòng phải làm cho em tỉnh ngộ một chút: trong thư, còn có một câu khác, vu khống anh một cách khá đê tiện. Hôm qua, anh đem tiền cho một người đàn bà goá, ho lao, tuyệt vọng, không phải lấy cớ là để "trả tiền ma chay" mà chính là để lo việc ma chay thật, và không phải đưa cho con gái ông ta, một người con gái mà như hắn viết, "ai cũng biết là hư hỏng" (hôm qua anh mới gặp cô ta lần đầu) mà trao cho chính người quả phụ. Anh thấy ở đây có một dụng tâm quá ư vội vàng định bôi nhọ anh và làm cho anh xích mích với mẹ và em. Tất cả những chuyện đó, một lần nữa, cũng được diễn đạt băng lối văn tố tụng, nghĩa là có một dụng ý quá rõ ràng và hấp tấp một cách quá ngay ngô. Hắn là một người thông minh, song chỉ riêng trí thông minh thôi thì chưa đủ để hành động một cách thông minh. Tất cả những chuyện đó vẽ nên con người… và anh cũng không tin là hắn coi trọng em lắm đâu Anh nói điều đó cốt chỉ để giúp đỡ em thôi, vì anh thành thật cầu mong điều lành điều tốt cho em.
Dunia không đáp, nàng đã quyết định xong xuôi từ lúc nầy nàng chỉ muốn đợi đến chiều.
- Vậy thì con định thế nào hơ Rodia? - Bà Punkheria Alekxandrovna hỏi, lòng càng lo âu hơn vì câu chuyện bỗng nhiên chuyển sang giọng "sự vụ" - "Con định thế nào" nghĩa là thế nào?
- Đấy Piotr Petrovich bảo là con đừng đến đằng nhà chiều nay, và nói là sẽ bỏ đi, nếu con đến. Vậy thì con… có đến không? Tất nhiên việc đó không thể do con quyết định, mà trước hết là do mẹ, nếu yêu sách đó của Piotr Petrovich không mếch 1òng mẹ, hai nữa là do Dunia, nếu nó cũng không cảm thấy bị xúc phạm. Còn con, con sẽ làm theo ý mẹ, - chàng nói thêm, giọng cộc cằn.
- Dunia đã quyết định rồi, và mẹ cùng hoàn toàn thuận theo nó, - bà Punkheria Alekxandrovna vội đáp.
- Em quyết định, anh Rodia ạ, là tha thiết mời anh đến đằng nhà dự buổi họp mặt nầy, - Dunia nói. Anh đến chứ?
- Anh sẽ đến.
- Cả anh nữa, tôi cũng xin mời anh tám giờ đến dằng chúng tôi, - nàng quay về phía Razumikhin nói. - Mẹ ơi, con mời ca anh ấy nữa đấy.
- Rất tốt, Dunia ạ Được - Bà Punkheria Alekxandrovna nói thêm. - Các con quyết định ra sao thì mẹ cũng ưng như thế. Đối với mẹ như thế lại càng nhẹ nhõm, mẹ không thích giả vờ và nói dối; tốt hơn cả là nói hết sự thật… Piotr Petrovich có giận hay không cũng mặc.
Chú thích:
Điều khiến anh kinh hãi nhất là hôm qua anh đã xử sự một cách "đê tiện và khả ố", không phải chỉ vì anh đã say rượu mà còn vì do một lòng ghen tuông ngu xuẩn, anh đã lợi dụng hoàn cảnh bối rối của người thiếu nữ để chửi bới vị hôn phu của nàng trước mặt nàng mà không hề hay biết gì về những mối quan hệ giữa hai người, về hoàn cảnh của họ, hơn nữa cũng không biết rõ người kia thế nào. Vả lại anh có quyền gì xét đoán người ta một cách hấp tấp và bạo phổi như vậy?
Ai khiến anh lên mặt quan toà? Mà chả nhẽ một người như Avdotia Romanovna lại có thể vì tiền mà trao thân cho một con người không xứng đáng? Avdotia Romanovna mà đã thuận lấy hắn thì tất hắn phải có cái xứng đáng… Còn căn nhà trọ? Nhưng hắn làm thế nào biết được đó là loại nhà trọ nào? Dù sao hắn cũng đã tìm cho các bà ấy được một chỗ trọ… Chà! Thật là hèn hạ! Cứ đổ lỗi cho cơn say! Các chống chế dại dột ấy chỉ càng làm hạ phẩm giá mình thêm! Sự thật nó ở trong chất men, và sự thật đã lộ ra trọn vẹn, nghĩa là anh đã phơi bày trọn vẹn "sự nhơ nhuốc của cái tâm hồn đố kỵ, thô lỗ của mình". Lẽ nào anh, Razumikhin, lại được phép ước mơ một cái gì tương tự như vậy? Mình, cái thằng say rượu khoác lác hôm qua mà lại đem sánh đối với một thiếu nữ như thế ư? Làm sao có thể có một sự so sánh vô liêm sỉ và lố bịch như vậy được? Nghĩ đến đấy Razumikhin đỏ dừ mặt, lên và ngay giây lát ấy, như có ai cố tình nhắc nhở, anh sực nhớ lại rõ ràng tối hôm qua, khi đứng trên cầu thang, anh đã nói rằng bà chủ nhà sẽ ghen với Avdotia Romanovna… Cái nầy thì thật quá lắm? Anh giáng mạnh nắm đấm vào cái lò bếp, bầm cả tay và làm vỡ một viên gạch.
Tất nhiên, - một lát sau anh lại làu bàu, lòng tủi thẹn, tất nhiên không bao giờ mình có thể xoá nhoà, cứu vãn được nhưng điều ô nhục ấy… Vậy, thì thôi, không nghĩ đến nó làm gì nữa, mình cứ lặng thinh mà đến và… cũng cứ 1ặng thinh mà làm tròn bổn phận… cũng không bào chữa, không nói gì cả, và… tất nhiên từ nay thế là hỏng hết!
Tuy vậy, khi mặc quần áo, anh cũng ngắm nghía cẩn thận hơn ngày thường. Anh không có bộ y phục nào khác, và dù có một bộ thứ hai có lẽ anh cũng không mặc, "đúng thế, mình sẽ chủ ý không mặc". Thế nhưng dù sao cũng không thể cứ phô trương cái vẻ lôi thôi bẩn thỉu của mình ra một cách trâng tráo như vậy được: anh không có quyền xúc phạm đến sự tế nhị của người khác, nhất là khi mà những người khác ấy đang cần đến anh và chính họ lại mời anh đến. Anh chải quần áo một cách cẩn thận. Còn quần áo lót của anh thì xưa nay bao giờ cũng khá tinh tươm, vì anh vốn chú ý đặc biệt đến mặt nầy.
Sáng hôm ấy anh rửa ráy cẩn thận, lấy xà phòng nơi chị Naxtaxia gội đầu, kỳ cổ và nhất là cọ hai bàn tay. Khi đề cập đến vấn đề: nên cạo râu hay không (Praxkopia Paplovna còn giữ lại được những con dao cạo thượng hsro hạng từ nơi mồ ma ông Zarditxyn, chồng bà). Chàng đã dứt khoát giải quyết theo hướng phủ định: cứ để nguyên thế, không họ lại tưởng đâu mình cạo râu để… thế nào họ cùng sẽ nghĩ như vậy! Không, không đời nào?".
Và nhất là mình lại thô lỗ cục cằn thế nầy, bẩn thỉu thế nầy? Lời ăn tiếng nói sặc mùi quán rượu; và… và cứ cho rằng mình là một người tử tế phần nào đi nữa, - dù sao điều đó cũng có phần đúng thì sao? Chả nhẽ người ta lại có quyền kiêu hãnh khi người ta là một người tử tế. Ai cũng phải là người tử tế, hơn thế nữa ấy chứ. Thế nhưng mình thì lại… (mình nhớ lắm mình thì lại có những chuyện lặt vặt… không hẳn là bất chính, song…) Còn nếu kể những ý định của mình thì, hừm! thế mà lại toan đem xếp sóng đôi với Avdotia Romanovna, đồ quỷ quái Thôi được, ta cứ cố ý giữ như cũ, cứ bẩn thỉu, cáu ghét, sực mùi quán rượu thế nầy thôi, cóc cần. Ta sẽ còn tồi tệ hơn thế nữa kia!".
Razumikhin đang lẩm bẩm một mình như vậy thì Zoximov vào; đêm hôm qua anh ta ngủ trong phòng khách của bà Praxkopia Pavlovna.
Zoximov trở về nhà và trước khi đi, anh ta đã vội vàng tạt vào thăm bệnh nhân một tí. Razumikhin báo cho bạn biết là Raxkonikov đang ngủ li bì. Zoximov cấm không được thức chàng dậy và hứa sẽ trở lại khoảng mười một giờ.
- Miễn sao hắn ta cứ ở nhà là được. - Zoximov nói thêm, - thật quái không có một tí uy quyền gì đối với bệnh nhân, thì còn chữa chạy cái nỗi gì! Cậu có biết hắn ta sẽ đến đằng ấy hay các bà sẽ đến đây không?
- Tớ chắc là họ sẽ đến, - Razumikhin đáp, hiểu ngay thâm ý của câu hỏi, - tất nhiên họ còn phải bàn việc gia đình nữa chứ? Tớ sẽ rút. Còn cậu là bác sĩ, dĩ nhiên cậu có nhiều quyền hơn tớ.
- Tớ không phải là ông cố đạo; tớ sẽ đến và sẽ đi ngay; tớ cũng bận khối việc ra rồi.
- Mình có thắc mắc một điều, - Razumikhin nhăn mặt, nói tiếp, - chiều hôm qua mình say và dọc đường mình nói nhảm khá nhiều với cậu ấy, nói cả chuyện… là cậu sợ cậu ấy có cơ phát điên.
- Hôm qua cậu nói cả chuyện đó với các bà ấy nữa chứ gì?
- Giờ mới biết là mình ngốc! Cậu cứ nện cho mình một trận cũng được. Nhưng có thật cậu đã nghĩ đúng như vậy không?
- Thì đã bảo là toàn chuyện vớ vẩn mà lại? Nghĩ đúng cái gì? Chính cậu, khi cậu dẫn mình đến nhà hắn, cậu đã nói với mình là hắn có chứng thiên chấp… Và hôm qua nữa, những câu chuyện về thằng thợ sơn của cậu cũng như đổ thêm dầu vào lửa trong khi có lẽ hắn phát điên lên vì chuyện ấy. Giá tớ biết đích xác câu chuyện xảy ra ở sở cảnh sát, và biết có một tay chó má nào đã làm nhục cậu ta với những mối nghi ngờ của hắn. Hừm… thì hôm qua tớ đã không để cho câu chuyện trò như vậy. Những tay mắc tính thiên chấp là hay thổi phồng giọt nước lên thành đại dương lắm, mọi ảo mộng đối với họ đều là sự thực hết. Cứ như tớ nghĩ lại thì câu chuyện của Zamiotov kể cho chúng ta nghe hôm qua nay đã giải thích được một nữa vấn đề rồi. Đúng thế đấy! Tớ còn nhớ lại một ca ưu uất một ông đã bốn mươi tuổi, vì không chịu được những lời che riễu hàng ngày của một thằng bé lên tám trong một bữa ăn, đã cắt cố thằng bé chết tươi. còn đây là một con người khổ sở, rách rưới, bị một viên cảnh sát xấc xược lăng mạ, bệnh thì đã chớm mà lại bị nghi ngờ như vậy! Một con người bị chứng ưu uất trầm trọng lại thêm cái tính sĩ diện quá đáng, ngông cuồng chút ít nữa chứ! Có lẽ đó chính là xuất phát điểm của căn bệnh! Phải rồi! Mẹ kiếp! Mà nầy, cậu nói đúng. Zamiotov là một thằng bé dễ chịu đấy, duy có điều… hừm! Hôm qua hắn kể chuyện kia ra làm gì thế không biết! Thằng cha ba hoa lạ?
- Nhưng hắn kể cho ai nghe?
- Cho cậu với mình nghe chứ còn ai nữa!
- Cho cả Porfiri nữa!
- Thì đã sao?
- Nầy, cậu có uy tín gì đối với họ không? Vôi bà cụ và cô em ấy mà! Hôm nay đối với Raxkonikov nên thận trọng hơn một tí?
- Họ sẽ dàn xếp được với nhau thôi - Razumikhin miễn cưỡng đáp.
- Mà sao cậu ta lại ghét căi thằng Lugin thế nhỉ? Một con người lắm tiền, mà cũng không đến nỗi mất cảm tình đối với cô ta lắm. Còn họ thì không có nổi một đồng xu nhỏ, phải không?
- Cậu có cái lối hỏi cũng ở đâu thế? Razumikhin bực tức quát lên. - Họ có còn xu nhỏ xu lớn nào không thì tớ biết đâu đấy. Muốn biết thì cậu cứ đi mà hỏi họ.
- Chà! đôi khi cậu cũng ngốc thật đấy? Thôi cậu đi nhé, cảm ơn hộ tớ bà Praxkopia Paplovna đã cho tớ ngủ trọ. Sáng nay bà ta cố thủ trong buồng đóng chặt cửa lại, tớ đứng ở ngoài cửa chào vọng vào, bà ta cùng chẳng thèm lên tiếng, tuy đã dậy từ lúc bảy giờ; người nhà đã đem ấm xamovar từ nhà bếp đi qua hành lang lên cho bà… Tớ không được hân hạnh chiêm ngưỡng dung nhan bà ta.
Đúng chín giờ, Razumikhin đến nhà Bakaleyev.
Hai mẹ con bà Punkheria Alekxandrovna đợi anh ta đã khá lâu, đang nóng điên cả ruột lên. Họ dậy lúc bảy giờ, có lẽ còn sớm hơn nữa. Anh bước vào, vẻ mặt u sầu như đêm tối, cúi chào một cách vụng về, và điều đó lập tức làm anh tức giận, dĩ nhiên là giận mình. Nhưng những nỗi lo sợ của anh đều tỏ ra không đúng: bà Punkheria Alekxandrovna vồ vập nắm lấy hai tay anh, và thiếu chút nữa bà đã đưa lên môi hôn. Anh rụt rè liếc nhìn Avdotia Romanovna, song trên gương mặt trang nghiêm ấy giờ đây không hề có những nét riễu cợt không hề thoáng thấy vẻ khinh bỉ giấu không kín như anh vẫn chờ đợi; gương mặt ấy chan chứa lòng biết ơn và tình trìu mến, chan chứa một niềm tôn kính chân thành và bất ngờ đến nỗi anh nghĩ thà họ cứ sỉ vả mình đi còn hơn, chứ thế nầy thì anh tự thấy xấu hổ quá chừng. May sao, anh đang sẵn có một đề tài nói chuyện, bèn vội vàng bám ngay lấy.
Nghe nói là "Rodia chưa dậy", song "mọi việc đều ổn", bà Punkheria Alekxandrovna lại tỏ ý hài lòng hơn vì bà "đang rất cần, rất cần bàn bạc trước với Razumikhin đã". Kế đến, hai người hỏi anh đã ăn sáng chưa và mời anh cùng uống chén trà; họ cũng chưa dùng trà vì muốn chờ anh một thể. Avdotia Romanovna lắc chuông: một cậu bé bẩn thỉu, rách rưới chạy vào và được lệnh bày ấm chén ra. Mãi một lát sau, khay trà mới được bưng lên, nhưng nó bẩn thỉu và luộm thuộm đến nỗi hai mẹ con bà Punkheria Alekxandrovna cũng phải thấy xấu hổ. Razumikhin toan lên tiếng chửi rủa thậm tệ, nhưng sực nhớ đến Lugin, anh lại nín lặng, lúng túng, và thật là sung sướng cho anh khi bà Punkheria Alekxandrovna dồn dập hỏi anh một tràng liên tiếp.
Anh phải nói trong bốn mươi lăm phút liền để trả lời cho hết những câu hỏi đó, liên tiếp bị ngắt lời và hỏi đi hỏi lại. Anh kể hết những sự kiện chủ yếu và quan trọng mà anh biết được về cuộc sống của Rodia trong một năm nay, và kết thúc bằng một câu chuyện tỉ mỉ về bệnh trạng của Rodia. Tuy vậy anh cũng đã bỏ qua nhiều điều cần phải giữ kín, kể cả cái màn kịch xảy ra ở sở cảnh sát và những hậu quả của nó. Hai mẹ con háo hức nghe anh kể, và khi anh yên trí đã nói cạn lời và đã thoả mãn được thính giả, thì họ lại tưởng đâu anh chỉ mới mở đầu…
- Thế còn anh, anh cho biết ý kiến của anh ra sao! Ồ, xin lỗi, mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa được biết tên riêng và phụ danh của anh! - bà Punkheria Alekxandrovna nói vội.
- Dmitri Prokofich.
- À vâng, đấy, anh Dmitri Prokofich, tôi rất mong, rất mong được biết, nói chung… hiện nay Rodia quan niệm, vấn đề như thế nào, nghĩa là… anh có hiểu ý tôi không, làm thế nào cho anh hiểu được nhỉ, nghĩa là không biết nói thế nào cho rõ hơn. Rodia ưa cái gì và không ưa cái gì? Lúc nào nó cũng dễ cáu bẩn như vậy sao? Nó ham thích gì, Và nếu có thể, anh làm ơn cho tôi biết nó đang mơ ước những gì? Đối với nó thì hiện nay cái gì có ảnh hưởng mạnh nhất… róm lại, tôi muốn biết…
- Ồ mẹ ơi, làm sao có thể trả lời một lúc ngần ấy câu hỏi được? - Dunia nhận xét.
- Lạy Chúa, bởi vì tôi không hề ngờ là khi gặp chúng tôi nó lại như vậy anh ạ.
- Dạ cái đó là lẽ hoàn toàn tự nhiên thôi ạ - Razumikhin đáp - Tôi không còn mẹ nữa, nhưng tôi có một ông chú hàng năm hay đến thăm tôi và hầu như lần nào ông cũng không nhận ra được tôi, ngay cả mặt mũi cũng vậy. Thế mà ông là người thông minh đấy. Còn như bà thì đã xa Rodion từ ba năm nay, bao nhiêu nước đã chảy qua chân cầu! Tôi còn biết nói thế nào bây giờ? Tôi quen Rodion đã một năm rưỡi nay, bao giờ trông anh ấy cũng vẫn buồn bã, lầm lì, kiêu hãnh và tự hào. Gần đây (và có lẽ lâu hơn nữa), anh ấy sinh ra đa nghi, thần kinh suy nhược. Anh ấy vốn cao thượng và tốt bụng. Anh không thích bộc lộ tình cảm, thà làm một việc gì tàn nhẫn chứ không chịu hé môi thổ lộ tâm tình bao giờ. Vả lại đôi lúc anh không phải là yếu thần kinh mà chỉ lạnh lùng dửng dưng đến mức phi nhân tính, cứ như thể trong người anh có hai tính cách đối lập nhau cứ lần lượt thay thế nhau. Đôi khi lại ít nói lạ lùng. Lúc nào anh ấy cũng không có thì giờ, lúc nào anh ấy cũng than phiền là người ta cứ hay phá quấy mình. Tuy anh chỉ nằm dài, không làm gì cả. Anh ấy không hay chế nhạo ai, không phải vì không đủ sắc sảo mà dường như chỉ vì không đủ thì giờ để làm những chuyện nhảm ấy. Ai nói gì, anh ấy không nghe được đến đầu đến đũa đâu. Không bao giờ anh quan tâm đến những việc mà mọi người đều đang chú ý. Anh tự đánh giá mình rất cao, và tôi nghĩ cũng không phải hoàn toàn không có lý. Gĩ nữa nhỉ? … Theo tôi thì bà và cô đến thăm như thế nầy sẽ có một ảnh hưởng rất tốt đối với anh ấy.
- Ôi lạy Chúa, thật thế ư? - Bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên, lòng day dứt về những nhận xét của Razumikhin về con trai mình.
Mãi đến bây giờ Razumikhin mới dám mạnh dạn nhìn Avdotia Romanovna. Trong khi nói chuyện, anh cũng có liếc nhìn nàng mấy lần, song chỉ vụng trộm nhìn thoáng qua thôi, rồi lại vội nhìn sang phía khác ngay. Avdotia Romanovna lúc thì ngồi xuống trước bàn chăm chú nghe, lúc thì lại đứng dậy và theo thói quen, dạo bước đi đi lại lại từ góc nầy sang góc kia, tay chắp trước ngực, môi mím chặt, thỉnh thoáng lại cất tiếng hỏi một câu, chân vẫn không dừng bước, vẻ đăm chiêu tư lự. Nàng cũng có cái thói quen không nghe được cho đến hết câu. Sáng hôm ấy nàng mặc một chiếc áo dài mỏng thẫm màu, quanh cổ thắt một chiếc khăn quàng trắng bằng thứ hàng trong mờ mờ. Razumikhin nhận thấy có nhiều dấu hiệu tỏ ra rằng hai mẹ con nàng sống trong một hoàn cảnh nghèo khổ cùng kiệt. Ví thử Avdotia Romanovna phục sức như một bà hoàng, có lẽ nàng sẽ không làm cho anh e dè chút nào; giờ đây có lẽ chính vì nàng ăn mặc tồi tàn và anh đã nhận rõ được cảnh sống nghèo khổ của họ. Razumikhin bỗng thấy e sợ cho mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của mình, và lẽ tất nhiên là tình huống ấy rất khó xử đối với một người đã sẵn thiếu tự tin như anh.
- Anh đã cho chúng tôi biết nhiều chi tiết kỳ lạ và tính tình anh tôi… và anh đã nói một cach vô tư. Thật là tốt, trước đây tôi cứ tưởng là anh sùng bái anh tôi, - Avdotia mỉm cười nhận xét. - Còn có một điều anh nói đúng: thế nào cũng phải có một người con gái bên cạnh anh tôi, - nàng trầm ngâm nói thêm.
- Tôi có nói chuyên đó đâu, song có lẽ cô nói đúng, nhưng…
- Sao kia ạ?
- Anh ấy không yêu ai và có lẽ anh sẽ không bao giờ yêu ai cả - Razumikhin nói giọng dứt khoát.
- Thế nghĩa là anh ấy không biết yêu?
- Cô Avdotia Romanovna ạ, cô giống anh cô lạ lùng, giống về mọi phương diện nữa là khác! - anh ta bỗng thốt lên một cách bất ngờ đến đỗi anh cũng phải tự lấy làm lạ, nhưng nhớ lại những điều mình vừa nói về Rodion, anh đỏ dừ mặt lên và đâm ra lúng túng.
Nhìn anh, Avdotia Romanovna không nhịn được cười.
- Về Rodia thì có lẽ cả hai người đều nhầm rồi đấy - bà Punkheria Alekxandrovna nói xen vào, hơi phật ý. - Dunia ạ, mẹ không nói đến việc hiện nay. Những điều Piotr Petrovich viết trong thư… và những điều hai mẹ con chúng mình đã dự kiến có lẽ đều không đúng cả, nhưng anh Dmitri Prokofich nầy, anh không thể hình dung được tính nó kỳ quặc và bất thường đến ngần nào. Tôi chưa bao giờ có thể yên tâm về tính khí của nó, ngay hồi nó mới mười lăm tuổi cũng vậy. Bây giờ nữa, tôi tin chắc rằng nó có thể liều lĩnh làm một điều gì mà chưa bao giờ có ai dám nghĩ đến… Đừng nói đâu xa, anh có biết không, mới cách đây một năm rưỡi thôi, nó đã làm tôi kinh hoảng cuống cuồng lên và suýt chết đi được vì ý định lấy cái cô… cô gì nhỉ? Con gái bà Zarnitxyna, chủ nhà của nó ấy mà?
- Anh có biết được ít nhiều chi tiết gì về chuyện ấy không? - Avdotia Romanovna hỏi.
- Anh có tin… - bà Punkheria Alekxandrovna hăng hái nói tiếp - anh có tin là những tiếng khóc, những lời van xin, bệnh tật và có thể là cái chết của tôi, nỗi khốn cùng của mẹ con tôi có thể làm nó từ bỏ ý định đố được không? Nó có thể vượt qua mọỉ trở ngại một cách bình tĩnh vô cùng. Nhưng có thể nào, có thể nào nó lại Không biết thương chúng tôi?
Anh ấy không hề nói gì về chuyện ấy với tôi bao giờ cả - Razumikhin thận trọng đáp - Nhưng tôi cũng có nghe được ít nhiều từ chính miệng bà Zarnitxyna bà ta cũng không hay chuyện lắm, và những điều tôi biết được, có lẽ nghe ra cũng khá kỳ quặc.
- Sao, anh nghe nói những gì? - cả hai mẹ con cùng hỏi một lúc.
- Ồ! Cũng chẳng có gì đặc biệt lắm. Tôi chỉ biết là cuộc hôn nhân đó đã được quyết định và sắp xếp xong xuôi, nhưng sở dĩ không thành chỉ vì cô dâu chết. Bà Zarnitxyna rất không hài lòng về cuộc hôn nhân nầy. Mặt khác, nghe nói cô dâu cũng không lấy gì làm đẹp lắm… xấu xí nữa là đằng khác… lại ốm yếu và, kỳ dị… song dù sao cũng có một vài tính tốt. Chắc phải có, vì nếu không thì thật không thể nào hiểu nổi… Cô ta không có của hồi môn, vả lại anh ấy cũng không đời nào đi nghĩ đến chuyện đó… Nhưng nói chung, trong một trường hợp như vậy khó lòng có thể hạ lời phê phán.
- Tôi tin chắc rằng cô ấy là người tốt - Avdotia Romanovna khẳng định.
- Lạy Chúa tha tội, nhưng quả tình tôi đã mừng trong bụng khi nghe tin cô ta chết, tuy tôi cũng chưa biết rõ trong hai người ai là kẻ sẽ làm hại người kia nếu cuộc hôn nhân ấy thành, - bà Punkheria Alekxandrovna kết luận; đoạn bà lại ngập ngừng lựa lời dò hỏi Razumikhin về tấn kịch xảy ra giữa Rodia và Lugin hôm qua, mắt luôn liếc trộm nhìn Dunia khiến nàng khó chịu rõ rệt. Có thể thấy rõ bà Punkheria Alekxandrovna lo ngại nhất về sự việc ấy, nó còn làm cho bà phải sợ hãi đứng ngồi không yên nữa là khác.
Razumikhin một lần nữa kể lại câu chuyện, đi sâu vào chi tiết, song lần nầy có thêm lời kết luận của mình: anh thắng thắn buộc tội Raxkonikov đã có chủ định sỉ vả Piotr Petrovich; lần nầy anh không đưa bệnh tình của bạn ra để bào chữa nữa.
- Ngay từ trước khi ốm, anh ấy đã nghĩ đến việc nầy - Razumikhin nói tiếp.
- Tôi cũng nghĩ như vậy - bà Punkheria Alekxandrovna nói, vẻ thất vọng. Song bà rất đỗi ngạc nhiên khi thấy Razumikhin lần nầy nói đến Piotr Petrovich một cách thận trọng mà lại có vẻ như kính nể nữa. Avdotia Romanovna cùng ngạc nhiên không kém.
Thế ý kiến của anh về Piotr Petrovich là như vậy hẳn? - bà Punkheria Alekxandrovna buột mồm hỏi.
- Đối với người chồng tương lai của cô, tôi không thể có kiến gì khác được. - Razumikhin đáp, giọng rắn rỏi và nhiệt thành, - tôi nói như vậy, cũng không phải vì một thứ lễ độ sơ đẳng, mà là vì… bởi vì… có thể chẳng qua vì có Avdotia Romanovna đã thuận lòng chọn người ấy. Hôm qua sở dĩ tôi quá nặng lời như thế: là vì tôi say bí tỉ và hơn nữa… là vì tôi mát cả trí khôn… vâng, mất trí khôn, tôi điên, hoàn toàn điên… và hôm nay tôi thấy xấu hổ quá?
Anh đỏ mặt lặng thinh. Mặt Avdotia Romanovna cũng đỏ bừng lên, nhưng nàng không nói gì. Từ khi hai người nói đến chuyện Lugin, nàng cứ lặng thinh.
Còn bà Punkheria Alekxandrovna, không được con hưởng ứng, cũng đâm ra do dự trông thấy. Mãi lát sau, mắt không ngớt liếc nhìn con gái, bà mới ấp úng nói rằng hỉện nay có một điều khiến cho bà rất bận tâm.
- Ông Dmitri Prokofich ạ, - bà mở đầu. - Mẹ sẽ nói thẳng với Dmitri Prokofich nhé, được không, Dunia?
- Tất nhiên rồi, mẹ cứ nói, - Avdotia Romanovna khuyến khích mẹ.
- Đấy, số là thế nầy, - bà Punkheria Alekxandrovna vội vã nói, dường như được phép bộc bạch nỗi buồn của mình là bà đã cắt bỏ được một tảng núi đang đè nặng trên ngực. - Hôm nay từ sớm tinh mơ chúng tôi có nhận được một mánh giấy của Piotr Petrovich từ Petersburg gửi về phúc đáp bức thư chúng tôi gửi hôm qua đi báo tin đã lên đến đây. Anh xem, lẽ ra anh ta phải ra ga đón chúng tôi như đã hứa. Thế nhưng anh ta lại sai một người đầy tớ ra, cầm theo địa chỉ nhà trọ nầy và chỉ đường cho chúng tôi; còn Piotr Petrovich thì anh ta nhắn là ngáy sáng hôm nay sẽ đến đây. Thế nhưng sáng nay không thấy anh ấy đến, chỉ thấy mảnh giấy nầy gửi lại. Tốt hơn là anh cứ đọc lấy; trong giấy có một điểm làm tôi thắc mắc quá… anh sẽ thấy ngay đó là điểm nào… và anh Dmitri Prokofich ạ, anh sẽ nói thẳng cho chúng tôi biết ý kiến! Anh là người biết tính tình Rodia hơn ai hết, và cũng hơn ai hết anh có thể khuyên bảo chúng tôi. Tôi cũng báo trước để anh biết là Dunia đã quyết định mọi việc ngay từ đầu nhưng tôi thì tôi chưa biết xử trí ra sao cả, thành thử tôi… tôi cứ đợi anh…
Razumikhin mở lá thư đề ngày hôm qua, và đọc được những giòng sau đây:
"Bà Punkheria Alekxandrovna kính mến.
Tôi rất hân hạnh được báo tin để bà biết là vì bận những việc bất ngờ nên tôi không thể ra đón bà ở sân ga được, vì vậy tôi đã cử một người rất tháo vát ra đón hộ tôi. Tôi cũng không được cái vinh hạnh đến thăm bà sớm mai được vì có những công việc cần kíp ở nguyên lão viện đang đợi tôi, và cũng là để khỏi làm phiền đến cuộc gặp gỡ giữa bà với con trai, giữa cô Avdotia Romanovna với anh cô. Vậy tôi sẽ được hân hạnh đến chào hỏi bà ở tại trú quán vào tối mai, đúng tám giờ, và đồng thời nhân đây tôi xin được phép đề đạt một lời yêu cầu mà tôi xin nói thêm là một lời yêu cầu khẩn khoản, - là Rodion Romanovich sẽ không dự vào cuộc gặp gỡ chung của chúng ta, vì anh ấy đã lăng mạ tôi một cách vô lễ chưa từng thấy, nhân dịp tôi đến thăm hôm qua trong khi anh ấy ốm, và ngoài ra vì tôi cần giãi bày riêng với bà một số điểm cần thiết mà tôi muốn được biết ý kiến cả nhân của bà. Ngoài ra tôi có hân hạnh báo trước với bà là nếu trái với lời yêu cầu của tôi, tôi vẫn gặp Rodion Romanovich ở nhà bà thì tôi sẽ buộc lòng phải cáo lui ngay tức khắc, và trong trường hợp đó, bà chỉ nên tự trách mình mà thôi. Tôi viết như vậy là vì Rodion Romanovich, tuy khi tôi đến thăm thì có vẻ đau yếu như thế, song chỉ hai giờ sau đã đột nhiên khỏi bệnh, đã đi ra phố được và do đó, cũng có thể đến thăm bà. Tôi có thể khẳng định được như vậy vì chính mắt tôi trông thấy anh ấy ở trong nhà một lão say rượu vừa bị xe ngựa cán chết; anh ta đã cho con gái lão kia, một cô gái mà ai cũng biết là hư hỏng, đến hai mươi lăm rúp lấy cớ là để trả tiền ma chay, điều đó khiến tôi rất ngạc nhiên vì biết số tiền ấy bà đã tốn bao nhiêu công sức mới gom góp lại được… Với tấm lòng tỏn quý đặc biệt của tôi đối với cô Avdotia Romanovna đáng kính, tôi xin bà nhận ở đây những tình cảm tận tuỵ và thành kính của người đầy tớ hèn mọn của bà.
P. Lugin".
- Tôi biết làm thế nào bây giờ, hở anh Dmitri Prokofich, - bà Punkheria Alekxandrovna rơm rớm nước mắt hỏi - tôi làm thế nào bảo Rodia đừng đến đây được? Hôm qua nó một mực đòi phải cự tuyệt Piotr Petrovich, thế mà nay chính Piotr Petrovich lại cấm tôi tiếp nó. Nó mà biết được thì thể nào nó cũng cố ý đến đây không biết rồi sẽ ra sao?
- Bà cứ làm theo như cô Avdotia Romanovna đã quyết định. - Razumikhin điểm tĩnh đáp không chần chừ.
- Ối trời ơi! em nó nói… em nó nói là… có trời biết được ý nó muốn gì, nó không hề nói rõ chủ định của nó với tôi. Theo nó thì tốt hơn hết, không, không, hay là tốt hơn hết mà nhất thiết mà Rodia phải đến đúng vào tám giờ tối hôm nay và cả hai người nhất thiết phải gặp nhau… Tôi thì tôi không muốn đưa cho Rodia xem lá thư nầy, tôi muốn tìm cách nhờ anh thu xếp thế nào cho nó đừng đến…vì tính nó nóng quá… Với lại tôi cũng không hiểu được sao lại có chuyện người say rượu bị chết ở đây, lại còn cô con gái nào kia nữa, và sao nó lại có thể cho cô con gái kia hết số tiền cuối cùng… mà…
- Mà mẹ đã phải chịu khổ sở bao nhiêu mới có được mẹ ạ - Avdotia Romanovna tiếp lời.
- Hôm qua anh ấy không được tĩnh trí, - Razumikhin nói, vẻ đăm chiêu. - Bà không biết chứ hôm qua trong quán rượu anh ấy đã dở quẻ bày ra một trò đùa kỳ quặc, tuy cũng khá tinh khôn… hừm! Quả tình hôm qua trên đường về nhà anh ấy có nói với tôi mấy câu về một người chết và một cô con gái nào đó, song tôi chà hiểu đầu đuôi ra làm sao cả. Vả lại chính tôi, hôm qua tôi cũng…
- Mẹ ơi, tốt hơn hết… là ta cứ đến đằng anh con, con xin quả quyết với mẹ là đến đấy ta sẽ biết ngay cần phải làm gì. Mà trời ơi đã đến giờ rồi đấy, mười giờ hơn rồi? - nàng thốt lên khi liếc nhìn đồng hồ vàng tráng men rất đẹp đeo trên cổ bằng một sợi dây chuyền thanh thanh đánh kiểu Venexy,… tương phản lạ lùng với toàn bộ trang phục của nàng… "Quà tặng của vị hôn phu" - Razumikhin thầm nghĩ.
- Ôi, đến giờ rồi Dunia ạ! đến giờ rồi - bà Punkheria Alekxandrovna nói, vẻ cuống quít, - khéo không thấy chúng ta đến nó lại nghĩ là từ hôm qua đến nay chúng ta vẫn còn giận. Ôi, trời ơi!
Vừa nói bà vừa vội vàng khoác áo choàng và đội mũ. Dunia cùng mặc áo vào. Razumikhin nhận thấy găng tay của nàng không những cũ mà còn bị thủng nữa; tuy nhiên cảnh nghèo nàn lộ rõ trong trang phục của họ lại càng làm tăng cái phong thái chững chạc đặc biệt mà người ta vẫn thường thấy ở những người biết cách ăn mặc những quần áo sờn cũ. Đôi mắt Razumikhin thành kính nhìn Dunia và cảm thấy tự hào khi nghĩ rằng mình sẽ được đi cạnh nàng: "Vị hoàng hậu kia - anh nghĩ thầm - ngay khi ngồi vá bít tất trong ngục tôi chắc hẳn còn uy nghi lộng lẫy hơn cả trong những ngày hội rực rỡ, tráng lệ nhất của cuộc đời đế vương".
- Trời ơi! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên, - có bao giờ tôi lại có thể tin được rằng tôi sẽ sợ một cuộc gặp gỡ với con tôi, với đứa con yêu quý, với thằng Rodia của tôi như lúc nầy… Tôi sợ, anh Dmitri Prokofich ạ, - bà nói tiếp.
- Đừng sợ gì cả mẹ ạ - Dunia hôn mẹ, nói. - Mẹ cứ tin ở anh ấy thì hơn: Con thì con tin lắm.
- Ôi lạy Chúa! Mẹ cũng tin ở anh con chứ, tuy thế suốt đêm mẹ cũng không sao nhắm mắt được - người mẹ đáng thương kêu lên.
Họ đi ra phố.
- Dunia ạ: hồi sáng mẹ vừa mới chợt thiếp đi một tí đã mơ thấy bà Marfa Petrovna quá cố… mặc toàn đồ trắng… bà đi đến gần mẹ, cầm tay mẹ rồi bắt đầu nhìn mẹ một cách nghiêm khắc tưởng như oán trách điều gì. Phải chăng đó là một điềm xấu? Trời ơi anh Dmitri Prokofich à, hẳn anh chưa biết: bà Marfa Petrovna mất rồi!
- Vâng, tôi chưa biết, bà Marfa Petrovna nào kia ạ?
- Bà ta chết đột ngột quá. Anh thử tưởng tượng…
- Sau hẵng hay mẹ ạ! - Dunia xen vào, - anh - Ấy đã biết bà Marfa Petrovna là ai đâu.
- Ồ anh chưa biết à? Thế mà tôi cứ tưởng anh đã rõ cả. Anh Dmitri Prokofich, anh thứ, lỗi cho tôi nhé, hai ngày hôm nay, đầu óc tôi cứ rối tung lên. Quả tình tôi coi anh như một vị ân nhân cho nên tôi cứ đinh ninh là anh đã tỏ tường hết mọi chuyện. Tôi coi anh như bà con ruột thịt ấy! Tôi nói thế anh đừng giận nhé! Trời ơi! tay phải anh làm sao thế kia? Anh bị thương?
- Vâng ạ, tay tôi bị dập - anh vui sướng nói lúng búng.
- Tính tôi nhiều khi cứ hay bộc tuệch quá thế đấy thành thử Dunia cứ phải la rầy tôi luôn… Nhưng trời ơi nó ở trong cái xó xỉnh nầy ư? Không biết bây giờ nó đã dậy chưa? Còn cái bà chủ nhà của nó ấy, một cái ổ như thế nầy mà bà ta có thể coi là một căn buồng được ư? Nầy, anh nói là nó không thích thổ lộ tâm tình phải không, thế thì không khéo tôi lại sẽ làm nó bực mình vì những… tình cảm mềm yếu của tôi mất! Anh, Dmitri Prokofich ạ, anh bảo tôi với nhé? Tôi phải ăn nói với nó ra sao đây? Anh biết đấy, tôi cứ như người lạc hướng.
- Nếu bà thấy anh ấy chau mày thì đừng có hỏi nhiều: nhất là đừng hỏi thăm nhiều quá về sức khỏe: anh ấy không thích đâu?
- Ôi, anh Dmitri Prokofich ạ, làm mẹ thật là vất vả! Lại cái cầu thang nầy nữa… Cầu thang gì mà khiếp thế?
- Mẹ ạ, trông mẹ xanh quá, cứ bình tâm, mẹ ạ! - Dunia trìu mến nói với mẹ. - Chắc chắn anh con sẽ rất vui sướng được gặp mẹ, thế mà mẹ lại rầu rĩ lo lắng nàng nói thêm, mắt long lanh sáng.
- Khoan hẵng, để tôi lên trước xem anh ấy đã dậy chưa.
Razumikhin đi lên trước, hai người đàn bà rón rén bước theo sau. Lên đến tầng gác thứ tư, hai người nhận thấy cánh cửa buồng của bà chủ he hé mở và từ trong cái khe hở nhỏ ấy hai con mắt đen sắc chăm chú theo dõi họ trong bóng tối. Mấy luồng mắt vừa gặp nhau thì cánh cửa bỗng đóng lại đánh sầm một tiếng khiến bà Punkheria Alekxandrovna suýt bật lên tiếng kêu hãi hùng.
3. "Khỏi rồi, khỏi rồi!" - Zoximov vui vẻ reo lên khi thấy họ đến, Zoximov đến đây đã được mười phút và đang ngồi ở chỗ hôm qua, trên chiếc đi-văng đặt ở góc phòng, Raxkonikov ngồi ở góc đối diện; chàng đã ăn mặc chỉnh tề, rửa mặt, chải đầu cẩn thận, một việc mà đã từ lâu chàng không hề nghĩ đến. Phút chốc, căn buồng đã chật ních. Tuy vậy Naxtaxia cũng đã theo các vị khách len được vào buồng hóng chuyện.
Qua nhiên Raxkonikov cũng đã gần khỏi, nhất là nếu so với hôm qua; tuy vậy, chàng vẫn còn xanh lắm, vẻ mặt ủ rũ và bơ phờ, trông chàng tựa như một người bị thương hay một người vừa bị đau đớn ê chề về nhục thế: mày thì cau lại, môi thì mím chặt, mắt đỏ ngầu. Chàng nói ít và miễn cường, tuồng như đang bị ép buộc phải làm tròn một nhiệm vụ, thỉnh thoảng một mối lo âu mơ hồ lộ rõ trong các cử chỉ của chàng.
Giá tay chàng quấn băng, hoặc ngón tay chàng rịt bông tẩm thuốc, thì trông chàng sẽ giống hệt như một người bị thương thật.
Tuy nhiên, gương mặt nhợt nhạt và ủ rũ đó dường như cũng bừng sáng lên trong chốc lát khi mẹ và em chàng vào, như thế chỉ càng làm tăng thêm cái vẻ đau khổ tập trung thay cho vẻ ủ rũ bơ phờ lúc nãy. Ánh sáng ấy vừa lóe lên đã vụt tắt, nhưng nỗi đau khổ thì vẫn còn đọng lại, và Zoximov, con người đã quan sát theo dõi bệnh nhân của mình với tất cả tấm nhiệt tình trẻ trung của một bác sĩ mới vào nghề, cũng không khỏi ngạc nhiên nhận thấy rằng khi hai người thân của chàng bước vào buồng, trên gương mặt chàng không lộ vẻ vui mừng mà lại có cái vẻ âm thầm đau khổ của một người đã quyết tâm chịu đựng một, cực hình không thể nào tranh khỏi, rồi Zoximov cũng lại nhận ra rằng mỗi lời thốt ra trong khi nói chuyện đều như xỉa xói vào một vết thương nào đó của bệnh nhân làm cho nó rớm máu lên, những đồng thời anh cũng không khỏi ngạc nhiên khi thấy con bệnh thiên chấp ấy đã đủ sức tự chủ và che giấu tình cả của mình, chứ không điên cuồng lồng lộn lên vì những lời lẽ nhỏ nhặt như ngày hôm qua nữa.
- Đúng thế, bây giờ chính con cùng cảm thấy gần khỏe hẳn rồi - Raxkonikov vừa nói vừa âu yếm ôm hôn mẹ và em, khiến gương mặt bà Punkheria Alekxandrovna rạng rỡ hẳn lên - Và tôi nói đây không phải như kiểu hôm qua nữa đâu, - Raxkonikov ngoảnh mặt về phía Razumikhin nói, và thân mật xiết chặt tay anh.
- Tôi cũng rất ngạc nhiên thấy anh ấy được như thế nầy, - Zoximov mở đầu, rất mừng khi thấy khách đến, vì trong mười phút qua, câu chuyện giữa anh với bệnh nhân đã bắt đầu cạn dần. - Bốn hôm nữa, nếu không có gì thay đổi thì mọi chuvện sẽ trở lại như trước, nghĩa là như cách đây một tháng, hay hai… hay có lẽ ba tháng gì đó? Vì chứng bệnh nầy đã phát sinh và chớm nở từ lâu rồi, phải không? - rồi dường như vẫn còn sợ bệnh nhân tức giận, anh ta nói thêm với một nụ cười dè dặt, - bây giờ anh có thừa nhận là có lẽ cũng tại cả anh nữa không nào?
- Rất có thể. - Raxkonikov lạnh lùng đáp.
- Tôi khẳng định như vậy. - Zoximov hăng lên nói tiếp, - kể từ nay anh có hoàn toàn bình phục hay không chủ yếu là tuỳ ở bản thân anh. Bây giờ đã nói chuyện được với anh, tôi muốn khuyên anh một điều: phải xóa bỏ những nguyên nhân ban đầu, nghĩa là những nguyên nhân căn ban đầu làm anh sinh bệnh. Có như vậy anh mới khỏi được, nếu không nó còn có thể trầm trọng thêm nữa là khác. Những nguyên nhân ban đầu ấy tôi không biết rõ, nhưng anh thì chắc phải biết. Anh là người thông minh, và lẽ tất nhiên anh vẫn thường tự quan sát. Theo tôi, hình như lúc khởi đầu chứng bệnh của anh có phần ăn khớp với việc anh ra khỏi trường Đại học. Anh không nên cứ nằm im, không hoạt động gì cả; vì vậy theo tôi phải làm việc, phải có mục đích nhất định; điều đó ắt sẽ có lợi cho sức khỏe của anh.
- Đúng, đúng, anh nói hoàn toàn có lý… Nay mai tôi sẽ trở lại trường Đại học, và thế là mọi việc cứ tuồn tuột như trên bánh xe.
Zoximov đưa ra những lời khuyên nhủ khôn ngoan ấy một phần cũng cốt để gây ảnh hưởng với hai người đàn bà. Anh ta không khỏi băn khoăn khi vừa dứt lời và liếc mắt nhìn Raxkonikov, anh thấy một nét mỉa mai rõ rệt trên gương mặt chàng, song cũng chỉ thoáng qua trong chốc lát. Bà Punkheria Alekxandrovna lập tức cảm ơn Zoximov, đặc biệt là về việc anh đã đến thăm hai mẹ con tối hôm qua.
- Sao kia? Tối hôm qua anh ấy đến đằng mẹ ấy à? - Raxkonikov hỏi, tựa hồ như có ý lo âu… - Thế là sau một cuộc hành trình dài như vậy, mẹ cũng không ngủ được tí nào.
- Ồ, Rodia ạ, lúc ấy đã đến hai giờ sáng đâu! Ở nhà mẹ và Dunia cũng không bao giờ ngủ trước hai giờ sáng cả. Tôi cũng không biết lấy gì cảm ơn anh nữa -
Raxkonikov mặt bỗng sa sầm xuống, cúi đầu nói tiếp với Zoximov. - Nếu không kể đến việc tiền nong - tôi xin lỗi vì đã đề cập đến vấn đề đó - tôi thật không hiểu tại sao lại được anh quan tâm đến thế. Quả thật tôi không hiểu… và… và tôi còn thấy khổ tâm nữa là khác, vì không thể hiểu được… tôi xin thú thật như vậy - Nhưng anh đừng cáu chứ! - Zoximov cười gượng đáp anh cứ tự coi như bệnh nhân đầu tiên của tôi: anh cũng biết là những người mới vào nghề như chúng tôi thường hay chiều chuộng bệnh nhân như con mình đẻ ra, có người lại hầu như phải lòng họ nữa. Với lại, tôi cũng không lấy gì làm đông khách lắm.
- Ấy là tôi chưa nói đến cậu nầy nữa đấy, - Raxkonikov trỏ Razumikhin nói tiếp, - cậu ta chỉ nhận được của tôi những mối lo âu và những lời sỉ vả.
- Rõ vớ vẩn! Hôm nay sao tâm hồn cậu đa cảm thế? - Razumikhin quát lên.
Giá Razumikhin tinh ý hơn, anh sẽ thấy bạn anh không hề có một tâm trạng đa cảm, thậm chí còn ngược lại nữa là khác. Song điều đó không thoát khỏi cặp mắt của Avdotia Romanovna đang chăm chú và lo lắng quan sát anh nàng.
- Còn về mẹ thì con không dám nói đến nữa mẹ ạ - chàng nói tiếp như đọc một bài đã học thuộc từ sáng - mãi đến bây giờ con mới hình dung được phần nào là hôm qua mẹ đã đau khổ biết bao nhiêu trong khi mong ngóng con về.
Nói đến đây, chàng bỗng lẳng lặng mỉm cười đưa tay ra cho em gái. Song lần nầy, trên nụ cười của chàng lóe lên một mối xúc cảm sâu sắc, chân thành. Dunia lập tức nắm lấy tay anh xiết thật chặt, lòng vui sướng và cảm khích. Kể từ câu chuyện lục đục hôm qua, đây là lần đầu tiên chàng lại ôn tồn với em. Gương mặt bà mẹ rạng rỡ lên vì hân hoan và hạnh phúc khi thấy cảnh dàn hoà im lặng và dứt khoát đó giữa hai anh em.
- Ồ chính vì thế mà tôi mến anh ấy! - Razumikhin vừa xoay mạnh người trên ghế vừa thì thầm; tính anh bao giờ cũng hay phóng đại - Anh ta có những cảm xúc đẹp đẽ như lê đấy
"Nó xử sự mới khéo làm sao! - bà cụ nghĩ thầm - Nó có những cảm xúc thật là cao thượng, và nó chấm dứt chuyện hiểu lầm với em nó một cách đơn giản mà tế nhị biết bao nhiêu: nó chỉ cần chìa tay ra và nhìn thẳng vào mặt em nó… Và đôi mắt nó, cả khuôn mặt nó nữa, mới đẹp làm sao. Người nó còn thanh tú hơn cả Dunia nữa… Nhưng, trời ơi, quần áo gì mà tệ thế, nó ăn mặc thật quá tồi tàn. Đến như Vaxia, đứa hầu xe của Aphanaxi Ivanovich ăn mặc cũng còn khá hơn? Ôi tôi muốn lao đến ôm lấy cổ nó mà hôn mà khóc vì sung sướng! Nhưng mà tôi sợ, tôi sợ lắm, nó thật là… Trời ơi, tính khí nó làm sao ấy? Vừa rồi nó nói năng thật dịu dàng âu yếm, thế nhưng tôi vẫn sợ. Tôi sợ cái gì thế nhỉ?".
- Ôi, Rodia - bà thốt lên, hối hả đáp lại điều nhận xét của con - Con không thể tưởng tượng được hôm qua mẹ và em… khổ tâm đến nhường nào! Bây giờ, mọi chuyện đã qua, đã chấm dứt và mẹ con ta đã lại vui vầy sung sướng nên mẹ mới dám nói. Con hãy tưởng tượng là mẹ và em vừa xuống tàu đã vội chạy ngay đến đây để ôm hôn con, và cái chị ấy - à đây! chị ấy đây rồi! Chào chị Naxtaxia. Chị ấy nói ngay là con sốt nóng, mà lại trốn bác sĩ lẻn ra đường trong lúc đang mê sảng, người ta đã phải chạy đi tìm con. Con không thể tưởng được là mẹ và em đã hốt hoảng lên như thế nào!
Mẹ nhớ ngay đến cái chết bi thảm của trung uý Potanshikov, một người quen nhà ta, bạn của ba con - con chắc không nhớ ông ta, Rodia nhỉ - Ông ta cũng bị sốt nóng và lẻn ra ngoài rồi rơi xuống giếng, đến hôm sai mới kéo lên được. Dĩ nhiên mẹ và em con còn tưởng tượng nhiều chuyện bi đát hơn nữa. Hai mẹ con toan đi tìm ngay Piotr Petrovich để nhờ anh ta đến giúp đỡ… vì, con biết đây, chỉ có mẹ với em, tứ cố vô thân, - bà mẹ nói tiếp, giọng ai oán, rồi bỗng im bặt vì sực nhớ ra rằng Piotr Petrovich vẫn còn là một đề tài nguy hiểm, mặc dầu "bây giờ mọi người đều đã lại vui vầy sung sướng".
- Phải! phải, những chuyện ấy thật đáng tiếc, Raxkonikov lẩm bẩm đáp, song vẻ mặt chàng hờ hững và lơ đãng đến nỗi Dunia phải kinh ngạc đưa mắt nhìn chàng.
- Con còn định nói gì với mẹ nữa nhỉ - chàng nói tiếp, cố sức nhớ lại - À phải… thưa mẹ, con xin mẹ và Dunia đừng nghĩ rằng hôm nay con không muốn đến thăm mẹ và em trước mà lại có ý đợi cho mẹ và em đến đây đã, không phải thế đâu.
- Sao con lại nói thế, hở Rodia, - bà Punkheria Alekxandrovna cũng kinh ngạc kêu lên.
"Sao thế nhỉ? Anh ấy chỉ vì bất đắc dĩ mà trả lời hay sao ấy? - Dunia suy nghĩ. - Anh ấy dàn hoà rồi xin lỗi, tuồng như làm cho xong một thủ tục hay đọc một bài học".
- Vừa thức dậy, con đã toan đến đằng ấy ngay, nhưng cứ loay hoay mãi về chuyện quần áo, hôm qua con quên bảo Naxtaxia… giặt sạch chỗ máu ấy đi… Bây giờ con mới vừa mặc xong quần áo…
- Máu? Máu nào? - bà Punkheria Alekxandrovna hoảng hốt hỏi lại.
Không có gì đâu, mẹ đừng lo. Có máu là bởi vì hôm qua trong lúc hơi mê sảng, con có chạm phải một người bị xe chẹt… Một người công chức…
- Trong cơn mê sảng? Thế nhưng cậu lại nhớ hết cơ mà? - Razumikhin ngắt lời.
- Chính thế - Raxkonikov đáp một cách đặc biệt sốt sắng, - tôi nhớ rõ cho đến từng chi tiết nhỏ, thế nhưng không hiểu tại sao tôi lại làm như thế? Tại sao tôi lại đến đằng ấy? Tại sao tôi lại nói thế kia? Thật tôi không tài nào giải thích rõ được.
- Hiện tượng đó cũng dễ hiểu, - Zoximov xen vào đôi khi cách hành động thì cực kỳ khéo léo, tinh xảo, nhưng cái động cơ, cái xuất phát điểm của hành động thì lại rối loạn và tuỳ thuộc vào những ấn tượng bệnh tật nào đó. Một cái gì tựa như một giấc mộng.
"Cũng còn may là hắn coi mình gần như một thằng loạn óc" - Raxkonikov nghĩ thầm.
- Thế thì những người khỏe mạnh cũng vậy thôi, - Dunia nhận xét, mắt lo âu nhìn Zoximov.
- Một lời nhận xét khá đúng! - Zoximov đáp - quả nhiên tất cả chúng ta cũng nhiều khi hành động gần như người điên, duy chỉ có khác là những người "mắc bệnh điên" họ điên hơn ta một tí; cho nên ở đây phải vạch một đường ranh giới. Còn người hoàn toàn sáng suốt thì có thể nói là hầu như không có, có lẽ trong hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn người, may ra mới tìm được một người như thế, mà cũng chưa hẳn là hoàn toàn sáng suốt…
Nghe đến chữ "điên" mà Zoximov vô tình thốt ra trong khi đang say sưa với vấn đề anh thích thú, mọi người đều cau mặt. Raxkonikov dường như không để ý, chàng ngồi yên, vẻ đăm chiêu tư lự, một nụ cười kỳ lạ in lên đôi môi nhợt nhạt của chàng. Chàng vẫn tiếp tục nghiền ngẫm một điều gì.
- Thế cái người bị xe chẹt ấy, rồi ra sao? Cậu kể tiếp đi - Razumikhin vội hỏi to.
- Gì cơ? - Raxkonikov như sực tỉnh - A! phải… thế rồi người tôi dính dầy máu khi tôi giúp họ khiêng ông ta về nhà… Nhân thể, mẹ ạ, hôm qua con đã làm một việc không thể tha thứ được, quả là con không còn trí khôn nữa. Số tiền mẹ gửi cho con, con đem cho… vợ ông ta hết… để lo việc ma chay. Bà ấy nay đã thành người góa bụa, lại ho lao, thật đáng thương, lại có ba đứa bé mồ côi, đói khát… mà nhà chẳng có tí gì… Ở nhà ấy còn một cô con gái nữa… Giá mẹ trông thấy, có lẽ mẹ cũng sẽ làm như con… con cũng biết là con không có quyền làm như vậy, nhất là khi biết mẹ đã vất vả thế nào mới kiếm ra món tiền đó. Muốn giúp đỡ, trước hết phải có quyền đã, bằng không thì "Crevez, chiens, si vous n êtes pas contents?" (l ) - Chàng cười - có phải thế không Đunya?
- Không, không phải thế! - Dunia đáp, giọng rắn rỏi.
- Chà, thôi, cô… cô cũng có dụng ý gì hẳn! - chàng lẩm bẩm nhìn em gái gần như căm hờn, môi mỉm một nụ cười ngạo nghễ. - Lẽ ra anh phải tính đến chuyện đó mới phải… Thôi, cũng đáng khen đấy? Càng tốt cho cô… rồi cô sẽ đi đến một giới hạn nào đó nầy nếu không bước qua, cô sẽ khổ sở, còn nếu bước qua, có lẽ cô còn sẽ khổ hơn nữa. Vả chăng, do toàn là chuyện nhảm. - Chàng bực dọc nói tiếp, giận mình đã quá nhiều lời. Mẹ ạ, con chỉ muốn nói rằng con xin lỗi mẹ, chàng kết thúc, giọng xẵng và ngắc ngứ.
- Thôi, Rodia, mẹ tin chắc ràng việc gì con đã làm thì cũng đều tốt đẹp cả - bà cụ mừng rỡ nói.
- Mẹ đừng tin như vậy, - chàng đáp, môi méo xệch thành một nụ cười gượng gạo.
Một khoảng im lặng tiếp theo sau. Trong suốt câu chuyện vừa qua có một cái gì căng thẳng, từ những phút im lặng cho đến cách giảng hòa, lời xin lỗi, và mọi người đều cảm thấy thế.
"Cứ như thể họ sợ mình" - Raxkonikov nghĩ thầm trong khi ngước mắt nhìn trộm mẹ và em. Quả nhiên, bà Punkheria Alekxandrovna càng im lặng lại càng đâm ra rụt rè.
Khi vắng họ hình như mình vẫn yêu quý họ kia mà - ý nghĩ ấy thoáng hiện trong trí chàng.
- Rodia ạ, bà Marfa Petrovna chết rồi đấy! - bà Punkheria Alekxandrovna bỗng thốt lên.
- Bà Marfa Petrovna nào?
- Trời ơi! Bà Marpha Petrovna, vợ ông Xvidrigailov ấy mà. Mẹ đã viết khá nhiều về bà ta trong bức thư vừa gửi cho con đấy thôi?
- À, à! phải… con nhớ ra rồi… thế bà ấy chết rồi? Thật ư - Chàng bỗng rùng mình như lại sực tỉnh dậy. - Bà ta chết rồi ư? Sao vậy.
- Con thử tưởng tượng xem; bà ta chết thật bắt ngờ! - bà Punkheria Alekxandrovna được thể, vội nói thêm - Ấy, đúng lúc mẹ gửi thư cho con, đúng cái ngày ấy! Con thử tưởng tượng: hình như chính vì con người ghê tởm kia mà bà ta chết. Nghe nói cái lão ấy đã đánh đập bà ta hết sức tàn nhẫn.
- Trước họ cũng sống như vậy sao? - chàng quay lại hỏi em.
- Không, ngược lại nữa là khác! Đối với bà lúc nào ông ta cũng tỏ ra rất kiên nhẫn lễ độ nữa ấy. Nhiều khi ông ta lại còn quá khoan dung với tính nết của vợ nữa; và như thế đã mấy năm ròng… Đến nay ông ta bỗng mất kiên nhẫn thế nào đấy.
- Thế nghĩa là ông ta tuyệt nhiên không đến nỗi ghê tởm lắm, vì cũng đã nén được báy năm kia mà?
- Dunia, hình như cô bênh vực ông ta thì phải?
- Không, không, đó là một con người ghê tởm, em không thể tưởng được còn có cái gì ghê tởm hơn nữa - Dunia đáp, gần như run lên, nàng cau mày, trầm ngâm suy nghĩ.
- Câu chuyện đó xảy ra ở nhà họ vào một buổi sáng, bà Punkheria Alekxandrovna vội và nói tiếp. - Sau đó bà ta lập tức ra lệnh thắng xe để sau bữa cơm trưa sẽ lên tỉnh, vì trong nhưng trường hợp như vậy, lúc nào bà ta cũng lên tỉnh. Nghe đâu trưa hôm ấy bà ăn ngon lành lắm.
- Sau khi bỉ đánh nhừ tử?
- Đối với bà ta… đã thành một thói quen như thế, và để khỏi chậm trễ, ăn xong bà ta đi tắm ngay… Con ạ, bà ta vẫn chữa bệnh bằng cách tắm đấy. Ở nhà họ có một con suối nước lạnh, ngày nào bà ta cũng đến đấy tắm rất đều. Nhưng vừa lội xuống nước bà ta bị một cơn động kinh.
- Tất nhiên phải như thế! - Zoximov nói. - Thế bà ta bị đánh đau lắm phải không?
- Mà thôi, có can hệ gì đâu. - Dunia lại xen vào.
- Hừm! Mẹ ạ, sao mẹ cứ kể lể những chuyện vớ vẩn ấy làm gì? - Raxkonikov bỗng buông ra một giọng gắt gỏng bất ngờ.
- Ôi! Con ạ, chỉ vì mẹ không biết nói chuyện gì hơn, - bà Punkheria Alekxandrovna buột mồm nói.
- Sao! Các người đều sợ tôi cả hay sao? - Chàng lại mỉm một nụ cười nhăn nhó.
- Quả đúng như thế. - Dunia nói, mắt nghiêm khắc nhìn thẳng vào mặt chàng. - Khi bước chân lên cầu thang, mẹ còn làm cả dấu thánh nữa, vì mẹ sợ quá.
Bộ mặt Raxkonikov nhăn rúm lại như thể bị chuột rút.
- Ôi! Dunia, con nói gì thế! Rodia, con đừng giận, mẹ van con! Sao con lại nói thế, hở Dunia? - bà Punkheria Alekxandrovna luống cuống nói. - Thật quả suốt dọc đường ngồi trên xe lửa, mẹ cứ nghĩ: gặp nhau mẹ con ta sẽ kể cho nhau nghĩ không biết bao nhiêu là chuyện… Lúc ấy mẹ sung sướng đến nỗi không còn chú ý gì dọc đường nữa. Nhưng mẹ vừa nói gì thế nhỉ? Bây giờ mẹ cũng vẫn sung sướng chứ… Dunia, con nhầm rồi đấy? Khi được gặp lại con thôi mẹ cũng đã sung sướng lắm rồi, Rodia ạ.
- Thôi, mẹ ơi, - chàng siết tay mẹ nói lắp bắp, có chiều bối rối, mắt nhìn đi nơi khác - Chúng ta còn đủ thì giờ nói chuyện nhiều.
Nói xong, chàng bỗng đâm ra luống cuống và tái mặt đi: cái cảm giác lạnh buốt kinh hoàng lúc nãy lại dâng ngập tâm hồn chàng; chàng lại thấy rõ mình vừa thốt ra một lời nói dối kinh khủng, và không những từ nay chàng sẽ không bao giờ còn có thể chuyện trò cởi mở với mẹ chàng nữa mà cũng không bao giờ còn có thể nói với ai bất cứ chuyện gì. Cái cảm giác chua xót ấy mạnh đến nỗi chàng hầu như mất trí trong chốc lát. Chàng đứng dậy và không nhìn ai, toan đi thẳng ra cửa.
- Cậu làm sao thế? - Razumikhin nắm lấy cánh tay chàng, kêu lên.
Chàng lại ngồi xuống va đưa mắt lặng lẽ nhìn quanh; mọi người đều bỡ ngỡ nhìn chàng.
- Ôi! Sao tất cả các người chán thế? - Chàng bỗng kêu lên một cách thật bất ngờ - Nói chuyện gì đi chứ! Sao các người lại ngồi trơ ra thế? Nào, nói đi chứ! Chúng ta nói chuyện nào… Đã sum họp thế nầy mà lại lặng thinh… Nào, nói chuyện đi.
- Lạy Chúa! Tôi cứ tưởng lại lên cơn như hôm qua. - Vừa noỉ bà Punkheria Alekxandrovna vừa làm dấu thánh.
- Anh làm sao thế? - Avdotia Romanovna hỏi, vẻ ngờ vực.
- Chả sao cả, anh vừa nhớ lại một chuyện không đâu - chàng đáp và đột nhiên cất tiếng cười.
- Được, nếu là chuyện không đâu thì tốt, nếu không chính tôi cũng nghĩ là… - Zoximov lẩm bẩm rời đi-văng đứng dậy. - Giờ thì tôi phải đi, có thể tôi sẽ trở lại nếu gặp cậu ở nhà…
Anh ta cúi chào và lui ra.
- Con người mới đáng quý làm sao! - bà Punkheria Alekxandrovna nhận xét.
Phải, đáng quý, tuyệt diệu, có học thức, thông minh, - đột nhiên Raxkonikov nói liến thoắng một thôi với vẻ khích động từ nãy đến giờ chưa từng thấy chàng có. - Con không nhớ là trước khi bị bệnh, con đã gặp anh ấy ở đâu… Hình như đã có gặp anh ta ở đâu rồi thì phải… Đây cũng là một người đáng quý nữa! - Chàng hất đầu về phía Razumikhin, - Dunia, em có thích anh ấy không? - chàng hỏi em rồi bật cười, chẳng hiểu tại sao.
- Rất thích, Dunia đáp.
- Chà, đồ quỷ…! - Razumikhin ngượng chín cả người, mặt đỏ dừ lên lúng túng đứng dậy. Bà Punkheria Alekxandrovna mỉm cười dịu dàng, còn Raxkonikov thì cười phá lên.
- Kìa, cậu đi đâu đấy?
- Mình cũng… có việc cần.
- Cậu chẳng có việc gì sất, ở lại đây! Zoximov đi rồi thì cậu cũng muốn bước đấy hẳn? Không đi đâu hết, mà mấy giờ rồi nhỉ? Mười hai giờ rồi phải không? Dunia, em có chiếc đồng hồ xinh quá nhỉ! Nhưng tại sao các người lại cứ lặng thinh thế? Vẫn chỉ có tôi nói mãi thôi!
- Đây là món quà của bà Marfa Petrovna, - Dunia đáp.
- Đắt tiền lắm đấy - bà Punkheria Alekxandrovna đệm theo.
- A - a - a! Nhưng là đồng hồ nữ thì hơi to.
- Em thích cỡ nầy - Dunia nói.
- Thế ra không phải của vị hôn phu?. - Razumikhin nghĩ và chợt thấy mừng thầm, chẳng hiểu vì sao. Thế mà anh cứ tưởng là tặng phẩm của Lugin. - Raxkonikov nói.
- Không phải, anh ta chưa tặng Dunia cái gì cả.
- Á - à - à! Mẹ ạ, mẹ còn nhớ không, con cũng đã từng yêu và đã từng muốn lấy vợ. - chàng nhìn mẹ nói, khiến bà kinh ngạc vì cách chuyển hướng bất ngờ của câu chuyện và giọng nói của chàng.
- Ôi, con yêu quý ạ, mẹ có nhớ! - bà Punkheria Alekxandrovna vừa nói vừa liếc mắt nhìn Dunia và Razumikhin.
- Hừm! đúng! Nhưng con biết kể chuyện gì với mẹ bây giờ? Chính con cũng không còn nhớ được bao nhiêu. Đó là một cô bé ốm yếu? - chàng nới tiếp, đầu cúi gầrn, dường như vụt trở lại với tâm trạng đăm chiêu ban nãy, - rất ốm yếu; cô ta thích bố thí cho ăn mày và chỉ mơ ước được vào tu viện; một hôm, cô khóc sướt mướt khi nói với con chuyện đó; phải… con nhớ ra rồi, con nhớ lò lắm, cô ta lại còn xấu xí nữa. thật quả con cũng không hiểu sao con lại gần với cô ta hình như vì cô ta bao giờ cũng ốm yếu. Giá như cô ấy lại thọt hay gù nữa thì chắc là con còn yêu cô gấp bội (chàng tư lự mỉm cười)… Thế đấy một cơn mê sang của tuổi xuân.
- Không, không phải chỉ là một cơn mê sảng của tuổi xuân! - Dunia nói, giọng nhiệt thành.
Chàng chăm chú nhìn em, tinh thần căng thẳng, song không hiểu em mình nói gì và thậm chí cũng không nghe thấy gì nữa. Rồi, vẫn chìm sâu trong tâm trạng đăm chiêu tư lự, chàng đứng dậy, đến hôn mẹ rồi trở lại ngồi chỗ cũ.
- Giờ con vẫn còn yêu cô ta? - bà Punkheria Alekxandrovna mủi lòng nói.
- Cô ấy… Bây giờ ấy à? À, phải… mẹ nói đến cô ấy phải không? Không. Bây giờ đối với con những việc ấy đều như đã sang thế giới khác rồi… đã xa xưa lắm? Và tất cả những việc xung quanh con cũng dường như đang diễn ra ở một nơi nào xa lạ.
Chàng đăm đăm nhìn họ.
- Như các người đây cũng thế, tôi nhìn các người như từ một nơi nào cách xa hàng nghìn dặm… Nhưng sao chúng ta lại nớl những chuyện ấy nhỉ, có ma nó biết và tại sao các người lại hỏi tôi? - chàng bực bội nói thêm rồi im bặt, cắn móng tay, vẻ lại trầm ngâm như cũ.
- Rodia, chỗ ở của con tệ quá, thật như cái quan tài - bà Punkheria Alekxandrovna bỗng lên tiếng để chấm dứt phút im lặng nặng nề. - Mẹ chắc con buồn buồn phần nào cũng do chỗ của con.
- Chỗ ở? - Chàng đáp vẻ lơ đãng - Vâng, chỗ ở của con cũng có dính dáng nhiều đến việc ấy… Con cũng đã nghĩ đến điều đó. Song ý nghĩ vừa rồi của mẹ thật là kỳ lạ, mẹ ạ - chàng nói thêm với một nụ cười quái gở. Chỉ thiếu chút nữa thì chàng không còn hơi sức nào chịu đựng được cuộc họp mặt nầy, chịu đựng những người thân mà sau ba năm xa cách, chàng mới được gặp lại, cũng như cái giọng thân mật gia đình của câu chuyện bất đắc dĩ trong khi chàng không thể nào nói được bất cứ chuyện gì. Tuy vậy chàng có một việc khẩn cấp cần phải quyết định ngay hôm nay không trì hoãn: sáng nay lúc ngủ dậy chàng đã có ý định dứt khoát như thế. Chàng thấy hài lòng vì đã nghĩ đến công việc để tìm một lối thoát.
- Dunia ạ, đây, vấn đề nó như thế nầy, - chàng mở đầu, giọng khô khan và nghiêm nghị, - tất nhiên anh phải xin lỗi em vì những chuyện xảy ra hôm qua, nhưng anh tự thấy có bổn phận nhắc cho em nhớ là anh không hề thay đổi ý kiến. Hoặc anh, hoặc Lugin. Anh có thể là một con người hèn mạt, nhưng em không thể thế được. Chỉ một người thôi cũng đủ. Nếu em kết hôn với Lugin, thì ngay tức khắc, anh sẽ không còn coi em là em nữa.
- Rodia! Rodia! thế thì lại như hôm qua rồi! - Bà Punkheria Alekxandrovna chua chát thốt lên, - mà tại sao con cứ gọi mình là người hèn mạt, mẹ không thể chịụ được. Hôm qua cũng thế…
- Anh à - Dunia đáp giọng rắn rỏi và cũng khô khan không kém - Chuyện nầy trước sau đều do một ý nghĩ sai lầm của anh mà ra cả. Đêm qua, em đã suy nghĩ và đã tìm ra được chỗ sai lầm đó. Hình như anh cho rằng em vì một người nào đó mà đem hiến mình cho một người nào đó. Hoàn toàn không phải như vậy, em đi lấy chồng chỉ vì bản thân em mà thôi, bởi vì em thấy khó sông một mình: rồi sau đó lẽ tất nhiên em cũng lấy làm sung sướng có thể giúp đỡ được cho những người thân, song đó không phải là động cơ chủ yếu trong quyết định của em.
"Nói dối, - Raxkonikov vừa nghĩ thầm vừa cắn móng tay một cách giận dữ. Con bé kiêu ngạo thật! Nó không muốn nhận là nó thích đóng cái vai ân nhân! Ôi, những nhân cách ti tiện! Họ yêu cũng chăng khác gì họ ghét! Ôi! ta… căm thù tất cả bọn họ!".
- Tóm lại, em sẽ lấy Piotr Petrovich, - Dunia nói tiếp, - vì trong hai nỗi khổ, em chọn lấy nỗi nhẹ nhất. Em sẽ trung thực làm tròn tất cả những gì người ấy chờ đợi ở em; vì vậy em sẽ không lừa dối người ấy. Sao anh lại cười?
Mặt nàng cũng đỏ bừng và trong khóe mắt nàng lóe lên một tia giận dữ.
- Em sẽ làm tròn tất cả đấy chứ? - chàng hỏi với một nụ cười hiểm độc.
- Đến một mức độ nào đó. Cách thức cầu hôn của Piotr Petrovich cũng đã làm cho em thấy ngay ông ấy muốn gì. Quá ông ta đánh giá mình quá cao, song em hy vọng ông ta cũng sẽ coi trọng em… Sao anh lại cười?
- Thế tại sao em lại đỏ mặt? Em nói dối, em ạ, em cố tình nói dối chỉ vì cái tính cố chấp của đàn bà, chỉ vì muốn bắt anh nhìn nhận mọi việc theo ý riêng của em. Em không thể kính trọng Lugin được, anh đã gặp hắn và đã nói chuyện với hắn. Thế nghĩa là em bán mình vì tiền, vì vậy em đã hành động một cách hèn hạ, và anh lấy làm mừng rằng ít nhất em cũng còn biết ngượng vì việc đó?
- Không phải, em không nói dối đâu… - Dunia mất hết tự chủ thét lên. - Em không đời nào lấy ông ta nếu không biết chắc là ông ta quý trọng em, em không đời nào lấy ông ta nếu không biết chắc rằng em có thể kính trọng được ông ta. Cũng may là ngay hôm nay, em sẽ có dịp biết chắc chắn được điều đó. Một cuộc hôn nhân như vậy không phải là một việc đê tiện như anh nói. Mà dù anh có nói đúng chăng nữa, dù em có cam tâm làm một việc đê tiện thì anh nói như thế chẳng phải là quá tàn nhẫn hay sao? Tại sao anh cứ đòi hỏi ở em một bản lĩnh anh hùng mà có lẽ anh cũng không có? Như vậy là áp chế, như vậy là cưỡng bức? Nếu em có làm hại người nào thì người đó chỉ có thể là một mình em mà thôi… Em cũng chưa giết người nào kia mà! Sao anh lại nhìn em như thế? Sao anh lại tái mặt đi thế? Rodia, anh làm sao thế? Rodia, anh yêu quý!
- Trời ơi! Nó làm anh nó ngất đi kia kìa! - bà Punkheria Alekxandrovna thét lên.
- Không, không… không hề gì… cớ sao đâu. Con hơi chóng mặt một tí thôi. Không ngất đâu… Mẹ thì lúc nào cũng sợ con ngất! Hừm? Phải anh định nói gì nhỉ? À, phải rồi, cô làm thế nào mà ngay hôm nay có thể biết chắc rằng cô sẽ kính trọng hắn và hắn sẽ coi trọng cô, có phải đúng cô vừa nói như vậy không? Hình như cô vừa nói là hôm nay thì phải. Hay anh nghe nhầm?
- Mẹ ơi, đưa cho anh con xem lá thư của Piotr Petrovich, - Dunia nói. Tay run run, bà Punkheria Alekxandrovna đưa thư cho con trai. Chàng cầm lấy, trí tò mò lên đến cao độ. Song trước khi mở thư chàng bỗng quay lại nhìn Dunia như có ý ngạc nhiên.
- Lạ thật! - chàng nói chậm rãi, tuồng như vừa có một ý nghĩ mới mẻ vụt hiện đến. - Sao tôi lại nhặng xị thế nhỉ? Sao tôi lại có thể làm toáng lên như thế? Cô muốn lấy ai thì cứ lấy thôi!
Chàng như tự nhủ một mình, nhưng lại nói to lên, rồi sững sờ nhìn em một lát, vẻ như băn khoăn không hiểu.
Cuối cùng, chàng giở thư ra, vẫn giữ một vẻ ngạc nhiên khác thường; rồi chàng thong thả và chăm chú đọc đi đọc lại bức thư hai lần.
Bà Punkheria Alekxandrovna lo ngay ngáy; và mọi người đều chờ đợi một sự kiện khác thường sắp xảy ra.
- Kể cũng lạ thật, - sau một lát suy nghĩ chàng trả lại bức thư cho mẹ và cất tiếng nói trống không, - hắn làm luật sư, quen giao thiệp, nói năng nghe cũng có vẻ trau chuốt, thế mà thư thì viết như người vô học.
Ai nấy đều xôn xao lên: nầy giờ họ chờ đợi một cái gì khác hẳn.
- Họ đều viết như thế cả đấy, - Razumikhin nói, giọng ngắc ngứ.
- Cậu đọc lá thư nầy rồi à?
- Rồi.
- Mẹ và em có đưa cho anh ấy xem, Rodia ạ, lúc nãy mẹ… có hỏi ý kiến anh ấy, - bà Punkheria Alekxandrovna đỡ lời, vẻ bối rối.
- Đó chính là lối văn tố tụng - Razumikhin cắt ngang, - xưa nay các giấy tờ ở tòa án vẫn viết lối văn tố tụng như vậy đấy.
- Văn tố tụng? Đúng, đúng là văn tố tụng, văn sự vụ Không hẳn là cách viết của kẻ vô học, cũng không phải là lối viết văn hoa gì đúng là văn sự vụ. Piotr Petrovich không hề có ý giấu là mình ít được học hành, hơn nữa còn tự hào là đã tự xây dựng lấy cuộc đời mình. - Avdotia Romanovna nhận xét, hơi phật ý vì giọng nói của anh.
- Được rồi, nếu hắn tự hào thì chắc cũng có lý do, anh không phản đối. Em ạ, hình như em bực mình vì cả một lá thư như vậy mà anh chỉ rút ra được có mỗi một lời nhận xét nông nổi, và em nghĩ là anh cố tình nói những điều không đâu như vậy để trêu tức em. Không, trái lại, về lời văn, anh vừa nảy ra một nhận xét mà trong trường hợp nầy có lẽ không thừa chút nào. Trong thư có câu: "bà chỉ nên tự trách mình", thật hàm súc và rõ ràng; ngoài ra lại có lời đe doạ là sẽ đi ngay lập tức nếu anh đến. Lời đe doạ đó cũng có nghĩa là đe doạ sẽ bỏ rơi mẹ và em, và bỏ rơi đúng vào lúc nầy, sau khi đã gọi hai người lên Petersburg! Đấy, cô nghĩ sao, ví thử không phải Lugin viết ra câu văn ấy mà là anh nầy chẳng hạn (chàng trỏ Razumikhin), hoặc Zoximov, hoặc một người nào trong mẹ con chúng ta viết ra thì người đọc có thấy mình bị xúc phạm như vậy không?
- Kh… không, - Dunia hăm hở đáp. - Em hiểu rất rõ rằng viết như vậy là quá vụng về, song có lẽ ông ta không làm chủ được ngòi bút của mình. Anh phê phán đúng, anh Rodia, chỉnh em cũng không ngờ là…
- Thư viết bằng lối vẫn tố tụng, mà dùng lối văn tố tụng thì không có cách nào viết khác được, cho nên giọng văn đâm ra thô lỗ hơn là vì hắn muốn thì phải. Ngoài ra, anh buộc lòng phải làm cho em tỉnh ngộ một chút: trong thư, còn có một câu khác, vu khống anh một cách khá đê tiện. Hôm qua, anh đem tiền cho một người đàn bà goá, ho lao, tuyệt vọng, không phải lấy cớ là để "trả tiền ma chay" mà chính là để lo việc ma chay thật, và không phải đưa cho con gái ông ta, một người con gái mà như hắn viết, "ai cũng biết là hư hỏng" (hôm qua anh mới gặp cô ta lần đầu) mà trao cho chính người quả phụ. Anh thấy ở đây có một dụng tâm quá ư vội vàng định bôi nhọ anh và làm cho anh xích mích với mẹ và em. Tất cả những chuyện đó, một lần nữa, cũng được diễn đạt băng lối văn tố tụng, nghĩa là có một dụng ý quá rõ ràng và hấp tấp một cách quá ngay ngô. Hắn là một người thông minh, song chỉ riêng trí thông minh thôi thì chưa đủ để hành động một cách thông minh. Tất cả những chuyện đó vẽ nên con người… và anh cũng không tin là hắn coi trọng em lắm đâu Anh nói điều đó cốt chỉ để giúp đỡ em thôi, vì anh thành thật cầu mong điều lành điều tốt cho em.
Dunia không đáp, nàng đã quyết định xong xuôi từ lúc nầy nàng chỉ muốn đợi đến chiều.
- Vậy thì con định thế nào hơ Rodia? - Bà Punkheria Alekxandrovna hỏi, lòng càng lo âu hơn vì câu chuyện bỗng nhiên chuyển sang giọng "sự vụ" - "Con định thế nào" nghĩa là thế nào?
- Đấy Piotr Petrovich bảo là con đừng đến đằng nhà chiều nay, và nói là sẽ bỏ đi, nếu con đến. Vậy thì con… có đến không? Tất nhiên việc đó không thể do con quyết định, mà trước hết là do mẹ, nếu yêu sách đó của Piotr Petrovich không mếch 1òng mẹ, hai nữa là do Dunia, nếu nó cũng không cảm thấy bị xúc phạm. Còn con, con sẽ làm theo ý mẹ, - chàng nói thêm, giọng cộc cằn.
- Dunia đã quyết định rồi, và mẹ cùng hoàn toàn thuận theo nó, - bà Punkheria Alekxandrovna vội đáp.
- Em quyết định, anh Rodia ạ, là tha thiết mời anh đến đằng nhà dự buổi họp mặt nầy, - Dunia nói. Anh đến chứ?
- Anh sẽ đến.
- Cả anh nữa, tôi cũng xin mời anh tám giờ đến dằng chúng tôi, - nàng quay về phía Razumikhin nói. - Mẹ ơi, con mời ca anh ấy nữa đấy.
- Rất tốt, Dunia ạ Được - Bà Punkheria Alekxandrovna nói thêm. - Các con quyết định ra sao thì mẹ cũng ưng như thế. Đối với mẹ như thế lại càng nhẹ nhõm, mẹ không thích giả vờ và nói dối; tốt hơn cả là nói hết sự thật… Piotr Petrovich có giận hay không cũng mặc.
Chú thích:
(1) "Không bằng lòng thì cứ chết tiệt đi, đồ chó
má!" (tiếng Pháp trong nguyên văn)
Chương 16
Vừa lúc ấy, cánh cửa nhẹ mở và một người con gái bước vào buồng
rụt rè đưa mắt nhìn quanh. Mọi người đều ngạc nhiên và tò mò quay lại nhìn nàng
Thoạt tiên Raxkonikov chưa nhận ra ai. Nàng chính là Sofia Xemionovna Marmelazova. Hôm qua chàng mới gặp nàng lần đầu, song thời gian, khung cảnh và cách phục sức của nàng lúc ấy đã khác sâu vào ký ức chàng một hình ảnh khác hẳn. Giờ đây, nàng là một người con gái ăn mặc giản dị và tồi tàn, còn rất ít tuổi, trông như một đứa trẻ; cử chỉ cô dè dặt và lễ độ, nét mặt cởi mở, nhưng hình như có chiều sợ hãi. Nàng mặc một chiếc áo dài rất giản dị tự may lấy ở nhà và đội một chiếc mũ cũ kỹ đã quá mùa, duy chỉ còn chiếc ô hôm qua là vẫn cầm trên tay. Chợt nhìn thấy trong buồng đông người, nàng không những ngượng ngùng mả còn rối trí hẳn hoi, luống cuống như một đứa bé, thậm chí còn toan quay trở ra nữa là khác.
- A! Cô đấy à? - Raxkonikov kinh ngạc cất tiếng hỏi và cũng đâm ra lúng túng.
Ngay lúc ấy chàng hình dung là qua bức thư của Lugin, mẹ và em chàng đã biết ít nhiều về người con gái mà "ai cũng biết là hư hỏng". Chàng vừa phản kháng những lời vu khống của Lugin và tuyên bố chỉ mới gặp người con gái ấy lần đầu tiên thì bỗng dưng nàng lại đến nhà chàng một mình. Chàng cũng nhớ lại là lúc nầy chàng không hề cải chính cái "hư hỏng" mà Lugin đã gán cho nàng. Trong nháy mắt hết thảy nhưng điều vụt thoáng qua tâm trí chàng một cách mơ hồ, hỗn độn. Song nhìn khi chàng thấy con người khôn khổ ấy đã phải chịu bao nhiêu nỗi tủi nhục ê chề đến nỗi chàng bất giác phải thương hại. Khi thấy nàng hoảng hốt toan bỏ chạy. Chàng bỗng cảm thấy xao xuyến như có một cái gì đảo ngược lại trong lòng.
- Tôi không ngờ cô đến, - chàng vội nói và đưa mắt ngăn nàng lại. - Xin mời cô ngồi. Chắc bà Katerina Ivanovna bảo cô đến. Ấy xin lỗi, không phải đấy, mời cô ngồi trên ghế kia.
Thấy Sonya đến, Razumikhin đang ngồi trên một chiếc ghế của Raxkonikov ngay cạnh cửa, đã đứng dậy nhường lối cho nàng.
Lúc đầu Raxkonikov trỏ cho nàng ngồi vào góc đi-văng, chỗ Razumikhin ngồi lúc nãy; nhưng sực nhớ là ngồi trên đi-văng có vẻ "thân mật" quá, chàng vội vàng trỏ sang ghế Razumikhin.
- Còn cậu, cậu ngồi đây, - Chàng vừa nói với Razumikhin vừa trỏ vào góc đivăng, chỗ Zoximov ngồi lúc nãy.
Sonya ngồi xuống, người hầu như run lên vì sợ hãi và rụt rè nhìn hai người đàn bà. Có thể thấy rõ ràng chính nàng cũng không hiểu sao mình lại có thể ngồi bên cạnh họ được. Nghĩ thế, nàng thấy sợ quá, đến nỗi nàng vụt đứng dậy và bối rối nói với Raxkonikov.
- Tôi… tôi… chỉ ghé đây một phút thôi, xin ông thứ lỗi vì đã quấy rầy - nàng ấp úng - Katerina Ivanovna bảo tôi đến vì nhà không còn ai nữa. Dì tôi căn dặn tôi thế nào cũng khẩn khoản mời ông sớm mai… đến dự buổi lễ cầu hòn ở nhà thờ Mitrophan rồi đến nhà chúng tôi… đằng nhà Katerina Ivanovna, xơi bữa tiệc xoàng… cho dì tôi được vinh dự tiếp ông… Dì căn dặn tôi đến nói với ông như vậy.
Sonya líu lưỡi im bặt.
- Tôi sẽ cố gắng… thế nào tôi cũng cố gắng đến! - Raxkonikov lại cũng đứng dậy nói ấp úng câu được câu mất. - Xin cô ngồi lại đã, - chàng bỗng nói, - Tôi có câu chuyện cần nói với cô. Xin mời… hình như cô đang vội? Xin cô vui lòng ở lại độ hai phút nữa… - Và chàng đẩy ghế về phía nàng. Sonya lại ngồi xuống vả lại đưa mắt rụt rè, sợ hãi nhìn hai người đàn bà, rồi bỗng cúi mặt xuống.
Gương mặt nhợt nhạt của Raxkonikov đỏ ửng lên, cả người chàng như điên đảo, mắt chàng sáng quắc.
- Mẹ ạ, - chàng nói, giọng rắn rỏi, đây là Sofia Xemionovna Marmelazova, con gái của ông Marmelazov bất hạnh đã bị xe chẹt hôm qua trước mắt con, như con đã có dịp thưa với mẹ
Bà Punkheria Alekxandrovna nhìn Sonya và hơi nheo mắt lại. Tuy luống cuống trước cái nhìn khẩn khoản và khiêu khích của Rodia, bà cũng không thể bỏ qua điều thích thú đó. Duneska nghiêm trang và chăm chú nhìn thẳng vào khuôn mặt người con gái đáng thương như muốn hỏi han tìm hiểu. Nghe lời giới thiệu, Sonya ngửng đầu lên song lại cúi ngay xuống, lòng càng bối rối hơn.
- Xin cô cho biết - Raxkonikop hỏi vội Sonya - hôm nay ở đằng nhà công việc ra sao? Có gì rắc rối không… về phía cảnh sát chẳng hạn?
- Không ạ, mọi việc đều ổn cả. Với lại, nguyên nhân tai nạn đã quá rõ ràng rồi: họ cũng không quày rầy gì chúng tôi cả; chỉ phải những người cùng trọ họ kêu ca thôi.
- Tại sao ạ?
- Họ kêu là thi hài để mãi trong nhà dạo nầy trời lại nóng bức… có mùi, nên từ buổi cầu kinh chiều nay cho đến mai sẽ đưa đến nghĩa trang trong nhà thờ. Lúc đầu Katerina Ivanovna không thuận, nhưng giờ thì dì cũng thấy là không làm thế nào khác được.
- Vậy là hôm nay à?
- Dì tôi trân trọng mời ông ngày mai đến dự buổi lễ cầu hồn tại nhà thờ, rồi đến đằng chúng tôi dùng bữa tỉệc tang.
- Bà nhà dọn tiệc tang à?
- Vâng ạ, gọi là mấy món xoàng thôi ạ, dì tôi căn dặn tôi đến chân thành cảm tạ ông đã giúp đỡ chúng tôi. Không có ông thì chúng tôi không biết lấy gì lo việc ma chay nữa. - Môi và cằm nàng bỗng run lên, song nàng cố kìm giữ lại và hối hả cúi nhìn xuống đất.
Trong khi hỏi chuyện, Raxkonikov chăm chú nhìn nàng: khuôn mặt nàng nhỏ, rất gầy và xanh, nét không được đều đặn lắm; mũi và cằm nàng nhỏ và hơi nhọn khiến khuôn mặt trông hơi sắc. Cũng không thể nói là nàng xinh được, song đôi mắt xanh của nàng trong sáng lạ thường, và mỗi khi đôi mắt đó sinh động lên, gương mặt nàng trông hiền hậu và chất phác đến nỗi người ta bất giác thấy mình bị thu hút lại gần. Trên khuôn mặt và ngay trên khắp dáng dấp của nàng lại có một nét đặc biệt nữa: tuy đã mười tám tuổi, nhưng trông nàng có vẻ trẻ hơn nhiều, hầu như chỉ là một con bé và điều nầy thỉnh thoảng lại hiện rõ lên một cách ngộ nghĩnh trong một vài cử chỉ của nàng.
- Nhưng không hiểu với số tiền ít ỏi thế thì làm sao Katerina Ivanovna có thể thu xếp mọi việc được, mà lại còn định mở tiệc tang? - Raxkonikov, bám lấy câu chuyện, hỏi tiếp.
- Áo quan thì rất đơn giản thôi ạ… và hết thảy mọi việc cũng đều rất đơn giản, nên cũng không tốn mấy… Vừa rồi chúng tôi với Katerina Ivanovna có tính qua thì thấy cũng còn đủ để dọn bữa tiệc tang… Katerina Ivanovna rất thiết tha muốn làm như vậy. Quả tình, không thể… đó là một điều an ủi đối với dì… Tính dì tôi vốn thế, ông cũng biết…
- Vâng, vâng, tôi hiểu, tôi hiểu lắm… - Có gì mà cô nhìn căn buồng của tôi kỹ thế? Đấy, mẹ tôi cũng nói nó giống như một cỗ quan tài.
- Hôm qua, có bao nhiêu ông đã cho chúng tôi hết! - Sonya chợt nói nhanh, giọng gần như thầm thì, rồi vội và cúi mặt xuống. Môi và cằm nàng lại run run. Từ lúc nãy, căn buồng khốn khổ của Raxkonikov đã đập vào mắt nàng và giờ đây mấy tiếng ấy bỗng dưng cứ tự nó buột ra khỏi miệng nàng. Một giây lát im lặng tiếp theo. Mắt Dunia sáng lên, và bà Punkheria Alekxandrovna cũng nhìn Sonya một cách trìu mến.
- Rodia ạ. - bà vừa nói vừa đứng dậy. - tất nhiên mẹ con ta sẽ ăn bữa chiều với nhau, ta đi thôi, Dunia ạ, còn con, Rodia, con nên đi ra ngoài dạo chơi một lát, xong nằm nghĩ cho khỏe, rồi đến đằng mẹ sơm sớm một chút… Chỉ sợ mẹ và em ngồi đây mãi làm con mệt…
- Vâng, vâng, con sẽ đến, chàng đứng dậy đáp, vẻ vội vàng… - Với lại con cùng bận tí việc.
- Nhưng các vị không đi ăn mỗi người một nơi đấy chứ? - Razumikhin ngạc nhiên nhìn kêu lên. - Cậu định thế nào đấy?
- Được, được tôi sẽ đến, tất nhiên, tất nhiên. Còn cậu ngồi lại đây một phút nữa. Hiện giờ mẹ không có việc gì cần đến cậu ấy chứ? Hay là con giành mất của mẹ?
- Ô không, không đâu. À, anh Dmitri Prokofich, mời anh vui lòng cũng đến dùng bữa chiều với chúng tôi?
- Anh đến nhé! Tôi xin anh. - Dunia nói thêm.
Razumikhin nghiêng mình, gương mặt rạng rỡ lên.
Trong giây lát, mọi người đều cảm thấy ngượng nghịu khác thường.
- Từ biệt Rodia, à quên, có nghĩa là tạm biệt ấy. Mẹ không thích nói từ biệt. Từ biệt chị Naxtaxia… Ồ tôi lại nói từ biệt nữa rồi!
Bà Punkheria Alekxandrovna cũng muốn chào Sonya nhưng rồi luống cuống không biết chào cách nào, đành vội vã ra khỏi phòng.
Nhưng Avdotia Romanovna chừng như đã đợi sẵn đến phiên mình, khi nối chân mẹ đi ngang trước mặt Sonya liền lễ phép và trân trọng cúi đầu chào nàng.
Sonya luống cuống nghiêng mình đáp lễ, vẻ hấp tấp và sợ sệt, một nét đau khổ thoáng hiện trên gương mặt, dường như thái độ lễ phép và trân trọng của Avdotia Romanovna là một, cực hình đối với nàng.
- Dunia, em đi nhé, - Raxkonikov nói khi đã ra đến đầu cầu thang, - đưa tay anh bắt nào?
- Em đã bắt tay anh rồi mà, anh quên rồi sao?
Dunia ngoảnh lại phía chàng, vẻ trìu mến và ngượng nghịu.
- Cũng chẳng sao, đưa anh bắt một lần nữa.
Và chàng xiết chặt mây ngón tay nhỏ nhắn của nàng. Dunia mỉm cười với anh, mặt đỏ ửng, rồi rút vội bàn tay lại và đi theo mẹ, chẳng hiểu tại sao cũng thấy lòng khắp khởi vui sướng.
- Thôi, thế là ổn cả. - chàng trở vào buồng nói với Sonya và nhìn nàng, gương mặt sáng hẳn lên. Cầu Chúa cho kẻ đã chết được yên nghỉ, cho kẻ còn sống được sống thêm! Có phải thế không? Có đúng thế không nào?
Sonya ngạc nhiên nhìn gương mặt rạng rỡ của Raxkonikov; chàng lặng thinh chăm chú nhìn nàng một lúc. Tất cả câu chuyện mà người cha quá cố đã kể về nàng, giờ phút nầy bỗng hiện rõ lên trong ký ức chàng.
- Trời ơi Dunia! - bà Punkheria Alekxandrovna thốt lên khi ra đến ngoài đường, - bây giờ ra khỏi nhà anh con rồi mẹ cứ mừng mừng thế nào ấy, tựa như nhẹ hẳn đi, hôm qua, trên tàu, mẹ có ngờ đâu mẹ sẽ vui mừng khi được từ biệt anh con?
- Mẹ ạ, một lần nữa con nhắc mẹ là anh con đang ốm nặng đấy, chả nhe mẹ không thấy sao? Có thể là vì quá thương mẹ, thương em nên sinh bệnh. Chỉ cản độ lượng là có thể tha thứ cho anh con rất nhiều, rất nhiều, mẹ ạ.
- Chính cô lúc nầy không độ lượng thì có! - Bà Punkheria Alekxandrovna ngắt lời con gái, giọng giận dỗi. - Dunia, con có biết không, mẹ đã ngắm kỹ hai anh em con, con giống hệt như anh con, giống khuôn mặt đã đành nhưng tính tình lại càng giống nhiều hơn: cà hai anh em con đều hay sầu muộn, cả hai đều lầm lì và nóng tính, cả hai đều kiêu hãnh, và hào hiệp. Vì không lý nào anh con lại là một người ích kỷ, đúng thế không, Dunia? Nghĩ đến câu chuyện sẽ xảy ra chiều nay ở đằng nhà ta, lòng mẹ cứ xốn xang lên con ạ.
- Mẹ ơi, đừng lo mẹ ạ, sự việc sẽ xảy ra theo đúng lẽ tự nhiên thôi.
- Nhưng Dunia, con hãy nghĩ tình cảnh mẹ con ta mà xem! Rồi sẽ ra sao nêu Piotr Petrovich cứ một mực như thế? - bà Punkheria Alekxandrovna chợt buột mồm.
- Thế thì ông ta không còn đáng giá là bao nữa! - Dunia nói, giọng xẵng và khinh bỉ.
- Lúc nầy mẹ con ta đi là phải, - bà Punkheria Alekxandrovna vội nói tiếp, anh con đang vội đi đâu đấy thôi để cho nó ra ngoài một tí cho nó thoáng mà thở, chứ cứ ở trong buồng nó thì phát ngột lên ấy… Nhưng ở trong cái thành phố nầy thì lấy đâu ra không khí mà thở kia chứ? Ở ngoài phố mà cứ y như ở trong buồng kín. Trời, thành với phố! Ấy, tránh ra con, khéo lại bị chẹt bây giờ, họ khiêng cái gì kia kìa.) Một chiếc dương cầm thì phải? Họ chen chúc nhau ghê thật… Mẹ cũng sợ người con gái ấy lắm.
- Người con gái nào hở mẹ?
- Thì cái cô Sofia Xemionovna vừa đến đằng anh mày lúc nãy ấy.
- Tại sao mẹ lại sợ?
- Mẹ có linh cám thế nào ấy. Dunia ạ. Tin hay không thì tùy con, nhưng khi cô ta mới bước vào, mẹ đã nghĩ ngay rằng chủ yếu là ở đấy cả.
- Chả có gì ở đấy hết! - Dunia bực mình gắt. - Mẹ thì bao giờ cũng linh với cảm. Anh ấy chỉ mới quen cô ta từ hôm qua thôi, lúc nãy khi cô ta bước vào, anh cũng không nhận ra nữa là!
- Đấy rồi con xem!… Cô ta làm mẹ lo lắmg. Rồi con xeml Rồi con xem! Mẹ sợ quá! Cô ta nhìn mẹ, nhìn mẹ với cặp mắt lạ lùng đến nỗi mẹ ngồi không yên nữa, con có nhớ là anh con đã giới thiệu cô ấy với mẹ con ta thế nào không? Mẹ thấy lạ quá, Piotr Petrovich viết thư nói chuyện cô ấy như thế mà anh con vẫn cứ giới thiệu, và nhất là giới thiệu với con nữa chứ? Thế nghĩa là anh con quý cô ấy lắm.
- Chuyện gì mà họ chả viết! Đấy dạo trước họ đã
viết đủ điều dèm pha mẹ con ta, mẹ quên rồi hay sao? Con thì con tin chắc rằng… cô ta là một cô gái rất tốt và tất cả những lời người ta nói đều là chuyện nhảm.
- Cầu Chúa phù hộ cô ấy?
- Còn Piotr Petrovich chính là một kẻ ngồi lê đôi mách ti tiện - Dunia bỗng thét lên.
Bà Punkheria Alekxandrovna cúi mặt xuống, lặng thinh. Câu chuyện bị bỏ lửng.
- Đây, việc mình cần nói với cậu là thế nầy. - Raxkonikov kéo Razumikhin ra cửa sổ nói
- Thế nghĩa là tôi có thể thưa được với dì Katerina Ivanovna là ông sẽ đến chứ ạ. - Sonya vội nói chen vào và nghiêng mình như muốn chào ra về.
- Một lát nữa đã, Sofia Xemionovna ạ, chúng tôi chẳng có chuyện gì bí mật đâu, cô không làm phiền gì chúng tô đâu… Tôi có câu chuyện nhỏ muốn nói với cô - Đoạn cắt ngang câu nói đang bỏ giở, chàng quay về phía Razumikhin, - Thế nầy nhé. Cậu có biết cái lão… tên gì nhỉ? Porfiri Petrovich ấy mà?
- Biết quá đi ấy chứ, có họ với mình đấy! Nhưng sao kia. - anh ta nói tiếp, vẻ tò mò.
- Có phải hiện nay hắn đang tiến hành điều tra vụ ấy phải không… chậc! Cái vụ giết người ấy mà? Hôm qua tôi có nghe hai cậu nói thế thì phải…
- Phải… Sao nữa? - Razumikhin mở hai mắt tròn xoe ra.
- Hắn ta có hỏi cũng những người cầm đồ, mà tôi cũng có một vài thứ đem cầm ở đằng ấy, đồ lặt vặt thôi, nhưng lại là một chiếc nhẫn con của em tôi tặng làm kỷ niệm hồi tôi lên đường đi Petersbung và chiếc đồng hồ quả quýt bằng bạc của cha tôi. Tất cả cũng chỉ đáng giá năm, sáu rúp gì đó thôi, song đối với tôi lại rất quý, chả là vật kỷ niệm. Bây giờ tôi phải làm thế nào? Tôi không muốn mất những vật ấy, nhất là chiếc đồng hồ, lúc nãy khi nói chuyện đến chiếc đồng hồ của Dunia tôi cứ lo cuống lên, sợ bà cụ đòi xem. Vật duy nhất còn lại của ông cụ tôi đây. Nếu mất thì bà cụ sẽ phát ốm lên được. Đàn bà họ thật…! Thế cậu báo cho tôi biết phải làm như nào nhé? Tôi cũng biết là sẽ phải làm một tờ khai nộp lên đồn. Nhưng nếu trực tiếp với Porfiri, liệu có hơn không? Cậu nghĩ thế nào? Tôi muốn thu xếp việc nầy càng chóng càng tốt. Cậu sẽ thấy là từ đây đến bữa ăn chiều thế nào bà cụ tôi cũng hỏi cho mà xem.
- Không cần gì đồn cảnh sát tất, nhất định trực tiếp với Porfiri thôi! - Razumikhin reo lên, giọng có vẻ phấn khích khác thường. Ồ! Mình mừng quá! Thôi, đi, đi ngay bây giờ, chỉ hai bước thôi; chắc chắn sẽ gặp hắn ta ở nhà.
- Được ta đi đi.
- Hắn ta rất thích làm quen với cậu? Mình đã nói chuyện với hắn về cậu nhiều bận rồi… Mới hôm qua đây nữa… Thế cậu cũng có biết mụ ấy à? À hay lắm! Mọi việc đã ăn khớp với nhau đến là tuyệt. À, phải cô Sofia Ivanovna…
- Sofia Xemionovna, - Raxkonikov đính chính lại - Cô Sofia Xemionovna, đây là Razumikhin, bạn tôi, một người rất tốt.
- Nếu các ông phải đi bây giờ thì… - Sonya nói, mắt không dám nhìn Razumikhin, và điều đó càng làm cho nàng ngượng nghịu thêm.
- Ta đi thì - Raxkonikov quyết định, - cô Sofia Xemionovna, ngày hôm nay tôi sẽ đến đằng cô, nhưng cô cho biết hiện cô ở đâu?
Chàng không có vẻ gì bôi ril, song lại có ý vội vã, và cố tránh mắt Sonya. Sonya nói rõ địa chỉ, mặt đỏ ứng. Cả ba cùng đi ra.
- Cậu không khoá cửa lại à? - Razumikhin hỏi trong khi theo sau chàng bước xuống cầu thang.
- Không bao giờ! - Với lại tôi đã định mua một ổ khoá từ hai năm nay rồi đấy! - Raxkonikov nói tiếp - Diễm phúc thay những kẻ chẳng có gì để đến nỗi phải khoá cửa cả! - Chàng cất tiếng cười quay sang nói với Sonya.
Ra đến ngoài, họ dừng bước dưới cổng.
- Cô rẽ tay phải chứ, cô Sofia Xemionovna? À nầy, cô làm thế nào mà tìm ra được chỗ tôi thế? - chàng hỏi, tựa như muốn gợi một chuyện gì khác với nàng. Chàng muốn nhìn thẳng vào đôi mắt trong sáng và dịu dàng của cô gái, nhưng không hiểu sao chàng không thể nhìn được.
- Hôm qua chính ông có dặn địa chỉ lại cho Poleska đấy ạ.
- Poleska? À, phải… Poleska. Có phải là cô bé, em gái cô phải không? Thế ra tôi có để lại địa chỉ cho em cô à?
- Chả nhẽ ông quên rồi sao?
- Không… Tôi nhớ.
- Hồi trước tôi có nghe cha tôi nói đến ông… Song hồi ấy tôi không biết tên ông, cha tôi cũng không biết nốt. Và hôm nay, tôi đến đây tôi đã biết tên ông từ hôm qua, nên tôi hỏi thăm: "Phải ông Raxkonikov ở đây không?" Tôi không biết là ông cũng phải thuê trọ… Thôi, xin chào hai ông, tôi sẽ thưa với Katerina Ivanovna…
Nàng mừng quýnh lên vì được đi khỏi; nàng bước đi mặt cúi gằm, hối hả cho chóng thoát khỏi tầm mắt của hai người, cho chóng vượt hết cái khoảng hai mươi bước đến chõ rẽ ngoặt sang phải để rồi được thanh thản một mình, và qua khỏi góc phố, lại rảo bước không nhìn ai mà cũng không trông thấy gì xung quanh mình, ngẫm nghĩ, nhớ lại, suy xét từng lời từng chữ mình nói lúc nãy, nhớ lại từng sự việc một. Chưa bao giờ, nàng chưa bao giờ có một cảm giác như vậy. Cả một thế giới mới lạ vụt hiện lên trong tâm hồn nàng, mơ hồ và khó hiểu. Nàng bỗng sực nhớ ra rằng Raxkonikov định sẽ đến nhà mình hôm nay, có thể là sáng nay, có thể là ngay bây giờ.
- Ôi chỉ xin người ấy đừng đến hôm nay, - nàng thầm thì, tim như lặng hẳn đi, tựa hồ muốn van xin ai, như một đứa bé hoảng sợ. - Trời ơi! Lại nhà mình à! Vào cái buồng ấy, người đó sẽ thấy. Ôi! Lạy Chúa
Và trong giây phút ấy, lẽ dĩ nhiên nàng không thể nào chú ý đến một kẻ lạ mặt đang chăm chú theo dõi và bám sát nàng, hắn theo nàng mãi từ khi nàng ra khỏi cổng. Khi Razumikhin, Raxkonikov và Sonya đứng ở vỉa hè nói chuyện ới nhau thì người lạ mặt vừa đi ngang, hắn hầu như bỗng giật mình khi tình cờ thoáng nghe Sonya nói: "Tôi hỏi thăm: có phải ông Raxkonikov ở đây không?" hắn đưa mắt soi mói nhìn lướt qua mọi người, nhất là Raxkonikov, mà Sonya vừa mới gửi chuyện, đoạn hắn nhìn qua ngôi nhà và ghi nhớ lấy tất cả những việc đó, hắn làm trong nháy mắt khi đi ngang qua, hắn làm ra vẻe không chú ý, cứ đi thẳng, nhưng bước chậm dần như muốn chờ đợi.
Hắn rình Sonya. Hắn đã thấy ba người chia tay nhau và Sonya đi riêng ra để về nhà.
"Không biết cô ta ở nhà nào? Mình đã thấy khuôn mặt nầy ở đâu rồi ấy!" - hắn vừa nghĩ thầm, vừa cố nhớ lại nét mặt của Sonya.
Đến góc phố, hắn sang vỉa hè bên kia, ngoảnh lại và thấy Sonya cũng đang đi về phía hắn, không chú ý gì xung quanh cả. Đến chỗ ngoặt, nàng cũng rẽ vào cùng đường với hắn. Hắn liền theo riết nàng không rời mắt dọc theo bờ đường bên kia; đi độ dăm chục bước, hắn lại sang bên vỉa hè Sonya đang đi và theo sau nàng cách chừng dăm bước.
Đó là một người tuổi trạc ngũ tuần, tầm vóc cao hơn trung bình; người đẫy, vai rộng và xuôi nên trông như hơi gù. Hắn ăn mặc bảnh bao và chừng chạc, trông ra dáng một ông lớn. Tay hắn đi đôi găng mới tinh, cầm một cái can trau chuốt, gõ lộc cộc trên vỉa hè theo từng bước chân. Khuôn mặt hắn rộng, gò má cao, trông cũng dễ coi và nước da hồng hào của hắn trông không có vẻ gì là dân Petersbung cả. Tóc hắn hãy còn tốt và một màu vàng hoe, chỉ điểm lưa thưa một vài sợi bạc; râu hắn rậm và xòe rộng ra, màu còn sáng hơn cả tóc hắn nữa, hắn có đôi mắt xanh với cái nhìn lạnh lùng, chăm chú mà tư lự; môi hắn đỏ thắm. Nhìn chung hắn ta rất quắc thước, trông còn trẻ hơn tuổi nhiều.
Khi Sonya rẽ ra kênh đào thì chỉ còn to hai người trên vệ đường. Nhìn kỹ Sonya, hắn kịp nhận thấy cái vẻ tư lự và lơ đãng của nàng. Về đến trước nhà, Sonya rẽ vào cổng: hắn cũng bước theo và có vẻ như hơi ngạc nhiên. Vào trong sân, Sonya rẽ sang phải, đi vào góc sân có cái cầu thang đưa lên buồng nàng.
"Chà!" - người lạ mặt lẩm bẩm và bước theo nàng lên cầu thang. Mãi đến bây giờ, Sonya mới để ý thấy hắn. Đến tầng thứ ba. Sonya rẽ vào hành lang và giật chuông buồng số 9, trước cửa buồng có mấy chữ viết phấn: Kapernaumov, thợ may. "Chà" - người lạ mặt lại lẩm bẩm, ngạc nhiên vì sự ngẫu hợp kỳ lạ nầy, rồi bấm chuông buồng bên cạnh số 8. Hai cửa buồng chỉ cách nhau có sáu bước chân.
- Cô trọ ở nhà Kapernaumov à? - hắn nhìn Sonya, mỉm cười. - Hôm qua ông ta vừa mới chữa cho tôi chiếc gi-lê. Còn tôi, tôi ở đây, bên cạnh, cùng với bà Resslich, Gertruda Karlovna. Thật là một sự tình cờ thú vị.
Sonya nhìn hắn chăm chú.
- Chúng ta là chỗ láng giềng với nhau đấy. - Hắn nói tiếp, giọng đặc biệt vui vẻ - Tôi mới đến Petersbung chỉ được hai hôm nay. Thôi, chào cô, rất mong được gặp lại cô.
Sonya không đáp. Cửa buồng nàng mở, nàng lách người vào. Không hiểu sao, một cảm giác lẫn lộn vừa sợ sệt vừa xấu hổ bổng tràn ngập lòng nàng.
Trên đường đến nhà Porfiri, Razumikhin phấn khởi khác thường.
- Tuyệt thật đấy, - anh lắp đi lắp lại mấy lần - tớ rất thú, rất thú!
"Hắn thú cái gì mới được chứ?" - Raxkonikov nghĩ thầm.
- Nầy, tớ không biết là cậu cùng có cầm đồ ở đằng mụ ấy… thế… thế… đã lâu chưa? Nghĩa là cậu đến đằng mụ ày đã lâu chưa?
"Thằng cha mới ngây ngô làm sao".
- Lúc nào à? - Raxkonikov đáp và dừng lại để suy nghĩ - tôi đến đằng mụ ấy đâu ba ngày trước khi mụ ấy chết thì phải. Với lại, bây giờ tôi cũng không có ý định đến chuộc đồ cầm lại đâu, - chàng nói tiếp, tuồng như có ý vội vã và đặc biệt sốt sắng với những vật đó - vì tôi chỉ còn mỗi đồng rúp bạc trong túi… cũng vì cái cơn mê sảng chết tiệt chiều hôm qua!
Chàng chú ý nhấn mạnh vào hai chữ "mê sảng".
- Phải đấy, đúng, đúng, - Razumikhin vội vã tán thành, cũng chẳng hiểu tại sao - đấy, chính vì thế mà cậu. hôm ấy tớ cũng hơi lấy làm lạ… cậu biết không, trong cơn mê sảng, cậu lúc nào cũng nhắc đến đây chuyền với nhẫn; thôi… đúng… đúng rồi. Rõ! Bây giờ thì rõ cả rồi.
"Ấy đấy! Thế nghĩa là ý nghĩ ấy đã thâm nhập vào trí óc họ! Anh chàng nầy chẳng hạn, một con người có thể vì mình mà chịu đóng đinh trên giá thập tự, rất sung sướng là đã tự giải thích được tại sao mình lại nói đến nhẫn trong cơn mê! Ý nghĩ ấy thật đã neo chặt vào đầu óc tất cả bọn họ rồi".
- Không biết hắn ta có ở nhà không? - chàng cất tiếng hỏi.
- Có chứ, có chứ! - Razumikhin vội đáp. - Hắn ta là một tay rất tốt, đấy, rồi cậu xem, hơi vụng về một tí hắn vẫn là một người lịch thiệp, nhưng đây tớ nói về một phương diện khác. Một tay thông minh, không ngốc tí nào, nhưng mà lại là một kiểu trí tuệ hơi đặc biệt… Một con người hay ngờ vực, hoài nghi, vô sỉ, thích bịp đời. Nghĩa là không phải thích bịp, mà là thích chơi xỏ thì đúng hơn. Phương pháp của hắn là phương pháp cũ dựa trên bằng chứng vật chất, nhưng hắn thạo nghề đấy, khá thạo… Năm ngoái hắn điều tra ra một vụ án mạng hầu như đã mất hết tung tích! Hắn ta rất thích, rất thích làm quen với cậu.
- Sao hắn lại thích quá đến như vậy?
- Không phải là vì… cậu thấy đấy, trong thời gian gần đây khi cậu đang ốm tớ cũng có hay nhắc đến cậu… Hắn ta cũng chú ý nghe… và khi biết cậu là sinh viên trường Luật, vì hoàn cảnh không tiếp tục theo học được, hắn có nói: "Tiếc thật?". Vì thế tớ kết luận là… tớ muốn nói là do tất cả những việc đó chứ không phải chỉ riêng việc kia. Nầy, Rodia, hôm qua khi đi về với cậu, tớ say nên ba hoa nhiều… thành thử tớ cứ sợ cậu hiểu lầm…
- Sao? Hiểu lầm rằng người ta cho mình là điên ấy à? Mà có lẽ thật đấy. - Chàng cười gượng.
- Ờ… ừ à không! Nầy, những chuyện tớ nói hôm qua (và cả những chuyện khác cùng vậy) đều nhảm nhí tất, đều là con đẻ của ma men tất.
- Sao cậu lại tự thanh minh mãi thế! Tôi ngấy lắm rồi - Raxkonikov quát lên với một giọng bực tức cường điệu và có phần giả tạo.
- Tớ biết, tớ hiểu rồi. Cậu cứ tin chắc là tớ hiểu, thậm chí tớ còn thấy xấu hổ khi nói đến chuyện ấy.
- Đã thấy xấu hổ thì thôi, đừng nói nữa!
Hai người lặng thinh. Razumikhin đang phấn khởi đến cực độ. Raxkonikov cũng nhận thấy thế, và chàng chán ghét lạ lùng. Chàng còn lo sợ vì những chuyện Razumikhin vừa nói về Porfiri "Với thằng kia mình cũng phải lòe mới được - chàng suy nghĩ, mặt tái đi, trống ngực đánh thình thình mà phải loè cho tự nhiên hơn nữa. Thật ra, tự nhiên hơn cả là đừng lòe với bịp gì tất. Phải cố sức đừng lòe bịp gì hếtl Không, cố sức thì lại không tự nhiên rồi. Thôi được, để xem sự thể ra sao… rồi sẽ liệu… chỉ lát nữa thôi… không biết mình đến đấy là có lợi hay có hại? Con thiêu thân tự lao vào ánh đèn. Tim mình đập mạnh quá thật chẳng lành!"
- Đây ngồi nhà xam xám nầy - Razumikhin nói.
"Điều quan trọng hơn cả là Porfiri có biết hôm qua mình đến nhà mụ phù thủy ấy và hỏi về vũng máu hay không biết. Trước hết, mình phải làm thế nào biết ngay được điều đó trong nháy mắt, bước vào buồng là phải đọc ngay được điều đó trên nét mặt hắn, không thì… dù có thế nào cũng phải biết mới được"
- Nầy, - chàng bỗng quay sang phía Razumikhin với một nụ cười tinh quái, - anh bạn ạ, tôi nhận thấy từ sáng nay anh bạn không được bình thường lắm, cứ cuống cả lên, đúng không?
- Cuống thế nào? Tớ chẳng cuống kiếc tí nào cả. - Razumikhin giận dỗi đáp.
- Không phải đâu, ông bạn ạ, trông rõ quá đi rồi. Lúc nãy cậu ngồi trên ghế dựa mà cứ ngồi tít ra ngoài mép ấy, có bao giờ cậu ngồi thế đâu? Cậu cứ như bị chuột rút ấy, động một tí là giật bắn lên. Mặt cậu khi thì hầm hầm, khi thì ngọt lịm như miếng kem. Cậu lại còn đỏ mặt nữa, nhất là khi người ta mời cậu đến ăn cơm thì cậu đỏ chín cả người lên.
- Nói bậy; tớ có làm sao đâu! Cậu định nói gì thế?
- Định nói rằng cậu nhút nhát như một thằng học sinh vậy! Ấy, đấy, lại đỏ mặt nữa rồi!
- Rõ khỉ!
- Nhưng tại sao cậu lại ngượng kia chứ. Đúng là một chàng Romco! Ấy, khoan hẵng, hôm nay mình sẽ kể lại chuyện nầy ở một nơi nào đấy cho mà xem, ha! ha! ha… Mình sẽ cù cho bà cụ cười một mẻ, và cả ai kia nữa.
- Nầy cậu, đây là chuyện nghiêm túc, tớ không đùa đâu… Sau đó rồi sẽ ra sao, hử đồ quỷ! - Razumikhin đâm hoảng thật sự, người lạnh toát ra. - Cậu sẽ kể những gì với các bà ấy? Tớ thì tớ… thẳng cha khỉ thật?
- Cậu thật là một nụ tầm xuân! Mà như thế lại rất hợp với cậu kia đấy! Một chàng Romco cao mười versok? Nầy, hôm nay cậu rửa ráy cẩn thận quá nhỉ, chải cả móng tay nữa kìa? Thật là chưa từng thấy! Trời ơi, lại xức sáp thơm nữa à? Cúi đầu xuống mình xem tí!
- Rõ khỉ!
Raxkonikov dường như không nhịn được nữa, cười phá lên từng tràng dòn dã suốt trong khoang thời gian hai người cùng bước vào nhà Porfiri Petrovich. Chính Raxkonikov muốn như thế: từ nhà trong người ta có thể nghe thấy tiếng cười ầm ĩ khi hai người vào nhà và vẫn kéo dài khi họ bước vào phòng mắc áo.
- Ở đây không được hở câu nào ra đấy, nếu không, tớ quai vỡ mặt ra - Razumikhin điên tiết rít qua kẽ răng, hai tay nắm chặt lấy vai Raxkonikov.
Thoạt tiên Raxkonikov chưa nhận ra ai. Nàng chính là Sofia Xemionovna Marmelazova. Hôm qua chàng mới gặp nàng lần đầu, song thời gian, khung cảnh và cách phục sức của nàng lúc ấy đã khác sâu vào ký ức chàng một hình ảnh khác hẳn. Giờ đây, nàng là một người con gái ăn mặc giản dị và tồi tàn, còn rất ít tuổi, trông như một đứa trẻ; cử chỉ cô dè dặt và lễ độ, nét mặt cởi mở, nhưng hình như có chiều sợ hãi. Nàng mặc một chiếc áo dài rất giản dị tự may lấy ở nhà và đội một chiếc mũ cũ kỹ đã quá mùa, duy chỉ còn chiếc ô hôm qua là vẫn cầm trên tay. Chợt nhìn thấy trong buồng đông người, nàng không những ngượng ngùng mả còn rối trí hẳn hoi, luống cuống như một đứa bé, thậm chí còn toan quay trở ra nữa là khác.
- A! Cô đấy à? - Raxkonikov kinh ngạc cất tiếng hỏi và cũng đâm ra lúng túng.
Ngay lúc ấy chàng hình dung là qua bức thư của Lugin, mẹ và em chàng đã biết ít nhiều về người con gái mà "ai cũng biết là hư hỏng". Chàng vừa phản kháng những lời vu khống của Lugin và tuyên bố chỉ mới gặp người con gái ấy lần đầu tiên thì bỗng dưng nàng lại đến nhà chàng một mình. Chàng cũng nhớ lại là lúc nầy chàng không hề cải chính cái "hư hỏng" mà Lugin đã gán cho nàng. Trong nháy mắt hết thảy nhưng điều vụt thoáng qua tâm trí chàng một cách mơ hồ, hỗn độn. Song nhìn khi chàng thấy con người khôn khổ ấy đã phải chịu bao nhiêu nỗi tủi nhục ê chề đến nỗi chàng bất giác phải thương hại. Khi thấy nàng hoảng hốt toan bỏ chạy. Chàng bỗng cảm thấy xao xuyến như có một cái gì đảo ngược lại trong lòng.
- Tôi không ngờ cô đến, - chàng vội nói và đưa mắt ngăn nàng lại. - Xin mời cô ngồi. Chắc bà Katerina Ivanovna bảo cô đến. Ấy xin lỗi, không phải đấy, mời cô ngồi trên ghế kia.
Thấy Sonya đến, Razumikhin đang ngồi trên một chiếc ghế của Raxkonikov ngay cạnh cửa, đã đứng dậy nhường lối cho nàng.
Lúc đầu Raxkonikov trỏ cho nàng ngồi vào góc đi-văng, chỗ Razumikhin ngồi lúc nãy; nhưng sực nhớ là ngồi trên đi-văng có vẻ "thân mật" quá, chàng vội vàng trỏ sang ghế Razumikhin.
- Còn cậu, cậu ngồi đây, - Chàng vừa nói với Razumikhin vừa trỏ vào góc đivăng, chỗ Zoximov ngồi lúc nãy.
Sonya ngồi xuống, người hầu như run lên vì sợ hãi và rụt rè nhìn hai người đàn bà. Có thể thấy rõ ràng chính nàng cũng không hiểu sao mình lại có thể ngồi bên cạnh họ được. Nghĩ thế, nàng thấy sợ quá, đến nỗi nàng vụt đứng dậy và bối rối nói với Raxkonikov.
- Tôi… tôi… chỉ ghé đây một phút thôi, xin ông thứ lỗi vì đã quấy rầy - nàng ấp úng - Katerina Ivanovna bảo tôi đến vì nhà không còn ai nữa. Dì tôi căn dặn tôi thế nào cũng khẩn khoản mời ông sớm mai… đến dự buổi lễ cầu hòn ở nhà thờ Mitrophan rồi đến nhà chúng tôi… đằng nhà Katerina Ivanovna, xơi bữa tiệc xoàng… cho dì tôi được vinh dự tiếp ông… Dì căn dặn tôi đến nói với ông như vậy.
Sonya líu lưỡi im bặt.
- Tôi sẽ cố gắng… thế nào tôi cũng cố gắng đến! - Raxkonikov lại cũng đứng dậy nói ấp úng câu được câu mất. - Xin cô ngồi lại đã, - chàng bỗng nói, - Tôi có câu chuyện cần nói với cô. Xin mời… hình như cô đang vội? Xin cô vui lòng ở lại độ hai phút nữa… - Và chàng đẩy ghế về phía nàng. Sonya lại ngồi xuống vả lại đưa mắt rụt rè, sợ hãi nhìn hai người đàn bà, rồi bỗng cúi mặt xuống.
Gương mặt nhợt nhạt của Raxkonikov đỏ ửng lên, cả người chàng như điên đảo, mắt chàng sáng quắc.
- Mẹ ạ, - chàng nói, giọng rắn rỏi, đây là Sofia Xemionovna Marmelazova, con gái của ông Marmelazov bất hạnh đã bị xe chẹt hôm qua trước mắt con, như con đã có dịp thưa với mẹ
Bà Punkheria Alekxandrovna nhìn Sonya và hơi nheo mắt lại. Tuy luống cuống trước cái nhìn khẩn khoản và khiêu khích của Rodia, bà cũng không thể bỏ qua điều thích thú đó. Duneska nghiêm trang và chăm chú nhìn thẳng vào khuôn mặt người con gái đáng thương như muốn hỏi han tìm hiểu. Nghe lời giới thiệu, Sonya ngửng đầu lên song lại cúi ngay xuống, lòng càng bối rối hơn.
- Xin cô cho biết - Raxkonikop hỏi vội Sonya - hôm nay ở đằng nhà công việc ra sao? Có gì rắc rối không… về phía cảnh sát chẳng hạn?
- Không ạ, mọi việc đều ổn cả. Với lại, nguyên nhân tai nạn đã quá rõ ràng rồi: họ cũng không quày rầy gì chúng tôi cả; chỉ phải những người cùng trọ họ kêu ca thôi.
- Tại sao ạ?
- Họ kêu là thi hài để mãi trong nhà dạo nầy trời lại nóng bức… có mùi, nên từ buổi cầu kinh chiều nay cho đến mai sẽ đưa đến nghĩa trang trong nhà thờ. Lúc đầu Katerina Ivanovna không thuận, nhưng giờ thì dì cũng thấy là không làm thế nào khác được.
- Vậy là hôm nay à?
- Dì tôi trân trọng mời ông ngày mai đến dự buổi lễ cầu hồn tại nhà thờ, rồi đến đằng chúng tôi dùng bữa tỉệc tang.
- Bà nhà dọn tiệc tang à?
- Vâng ạ, gọi là mấy món xoàng thôi ạ, dì tôi căn dặn tôi đến chân thành cảm tạ ông đã giúp đỡ chúng tôi. Không có ông thì chúng tôi không biết lấy gì lo việc ma chay nữa. - Môi và cằm nàng bỗng run lên, song nàng cố kìm giữ lại và hối hả cúi nhìn xuống đất.
Trong khi hỏi chuyện, Raxkonikov chăm chú nhìn nàng: khuôn mặt nàng nhỏ, rất gầy và xanh, nét không được đều đặn lắm; mũi và cằm nàng nhỏ và hơi nhọn khiến khuôn mặt trông hơi sắc. Cũng không thể nói là nàng xinh được, song đôi mắt xanh của nàng trong sáng lạ thường, và mỗi khi đôi mắt đó sinh động lên, gương mặt nàng trông hiền hậu và chất phác đến nỗi người ta bất giác thấy mình bị thu hút lại gần. Trên khuôn mặt và ngay trên khắp dáng dấp của nàng lại có một nét đặc biệt nữa: tuy đã mười tám tuổi, nhưng trông nàng có vẻ trẻ hơn nhiều, hầu như chỉ là một con bé và điều nầy thỉnh thoảng lại hiện rõ lên một cách ngộ nghĩnh trong một vài cử chỉ của nàng.
- Nhưng không hiểu với số tiền ít ỏi thế thì làm sao Katerina Ivanovna có thể thu xếp mọi việc được, mà lại còn định mở tiệc tang? - Raxkonikov, bám lấy câu chuyện, hỏi tiếp.
- Áo quan thì rất đơn giản thôi ạ… và hết thảy mọi việc cũng đều rất đơn giản, nên cũng không tốn mấy… Vừa rồi chúng tôi với Katerina Ivanovna có tính qua thì thấy cũng còn đủ để dọn bữa tiệc tang… Katerina Ivanovna rất thiết tha muốn làm như vậy. Quả tình, không thể… đó là một điều an ủi đối với dì… Tính dì tôi vốn thế, ông cũng biết…
- Vâng, vâng, tôi hiểu, tôi hiểu lắm… - Có gì mà cô nhìn căn buồng của tôi kỹ thế? Đấy, mẹ tôi cũng nói nó giống như một cỗ quan tài.
- Hôm qua, có bao nhiêu ông đã cho chúng tôi hết! - Sonya chợt nói nhanh, giọng gần như thầm thì, rồi vội và cúi mặt xuống. Môi và cằm nàng lại run run. Từ lúc nãy, căn buồng khốn khổ của Raxkonikov đã đập vào mắt nàng và giờ đây mấy tiếng ấy bỗng dưng cứ tự nó buột ra khỏi miệng nàng. Một giây lát im lặng tiếp theo. Mắt Dunia sáng lên, và bà Punkheria Alekxandrovna cũng nhìn Sonya một cách trìu mến.
- Rodia ạ. - bà vừa nói vừa đứng dậy. - tất nhiên mẹ con ta sẽ ăn bữa chiều với nhau, ta đi thôi, Dunia ạ, còn con, Rodia, con nên đi ra ngoài dạo chơi một lát, xong nằm nghĩ cho khỏe, rồi đến đằng mẹ sơm sớm một chút… Chỉ sợ mẹ và em ngồi đây mãi làm con mệt…
- Vâng, vâng, con sẽ đến, chàng đứng dậy đáp, vẻ vội vàng… - Với lại con cùng bận tí việc.
- Nhưng các vị không đi ăn mỗi người một nơi đấy chứ? - Razumikhin ngạc nhiên nhìn kêu lên. - Cậu định thế nào đấy?
- Được, được tôi sẽ đến, tất nhiên, tất nhiên. Còn cậu ngồi lại đây một phút nữa. Hiện giờ mẹ không có việc gì cần đến cậu ấy chứ? Hay là con giành mất của mẹ?
- Ô không, không đâu. À, anh Dmitri Prokofich, mời anh vui lòng cũng đến dùng bữa chiều với chúng tôi?
- Anh đến nhé! Tôi xin anh. - Dunia nói thêm.
Razumikhin nghiêng mình, gương mặt rạng rỡ lên.
Trong giây lát, mọi người đều cảm thấy ngượng nghịu khác thường.
- Từ biệt Rodia, à quên, có nghĩa là tạm biệt ấy. Mẹ không thích nói từ biệt. Từ biệt chị Naxtaxia… Ồ tôi lại nói từ biệt nữa rồi!
Bà Punkheria Alekxandrovna cũng muốn chào Sonya nhưng rồi luống cuống không biết chào cách nào, đành vội vã ra khỏi phòng.
Nhưng Avdotia Romanovna chừng như đã đợi sẵn đến phiên mình, khi nối chân mẹ đi ngang trước mặt Sonya liền lễ phép và trân trọng cúi đầu chào nàng.
Sonya luống cuống nghiêng mình đáp lễ, vẻ hấp tấp và sợ sệt, một nét đau khổ thoáng hiện trên gương mặt, dường như thái độ lễ phép và trân trọng của Avdotia Romanovna là một, cực hình đối với nàng.
- Dunia, em đi nhé, - Raxkonikov nói khi đã ra đến đầu cầu thang, - đưa tay anh bắt nào?
- Em đã bắt tay anh rồi mà, anh quên rồi sao?
Dunia ngoảnh lại phía chàng, vẻ trìu mến và ngượng nghịu.
- Cũng chẳng sao, đưa anh bắt một lần nữa.
Và chàng xiết chặt mây ngón tay nhỏ nhắn của nàng. Dunia mỉm cười với anh, mặt đỏ ửng, rồi rút vội bàn tay lại và đi theo mẹ, chẳng hiểu tại sao cũng thấy lòng khắp khởi vui sướng.
- Thôi, thế là ổn cả. - chàng trở vào buồng nói với Sonya và nhìn nàng, gương mặt sáng hẳn lên. Cầu Chúa cho kẻ đã chết được yên nghỉ, cho kẻ còn sống được sống thêm! Có phải thế không? Có đúng thế không nào?
Sonya ngạc nhiên nhìn gương mặt rạng rỡ của Raxkonikov; chàng lặng thinh chăm chú nhìn nàng một lúc. Tất cả câu chuyện mà người cha quá cố đã kể về nàng, giờ phút nầy bỗng hiện rõ lên trong ký ức chàng.
- Trời ơi Dunia! - bà Punkheria Alekxandrovna thốt lên khi ra đến ngoài đường, - bây giờ ra khỏi nhà anh con rồi mẹ cứ mừng mừng thế nào ấy, tựa như nhẹ hẳn đi, hôm qua, trên tàu, mẹ có ngờ đâu mẹ sẽ vui mừng khi được từ biệt anh con?
- Mẹ ạ, một lần nữa con nhắc mẹ là anh con đang ốm nặng đấy, chả nhe mẹ không thấy sao? Có thể là vì quá thương mẹ, thương em nên sinh bệnh. Chỉ cản độ lượng là có thể tha thứ cho anh con rất nhiều, rất nhiều, mẹ ạ.
- Chính cô lúc nầy không độ lượng thì có! - Bà Punkheria Alekxandrovna ngắt lời con gái, giọng giận dỗi. - Dunia, con có biết không, mẹ đã ngắm kỹ hai anh em con, con giống hệt như anh con, giống khuôn mặt đã đành nhưng tính tình lại càng giống nhiều hơn: cà hai anh em con đều hay sầu muộn, cả hai đều lầm lì và nóng tính, cả hai đều kiêu hãnh, và hào hiệp. Vì không lý nào anh con lại là một người ích kỷ, đúng thế không, Dunia? Nghĩ đến câu chuyện sẽ xảy ra chiều nay ở đằng nhà ta, lòng mẹ cứ xốn xang lên con ạ.
- Mẹ ơi, đừng lo mẹ ạ, sự việc sẽ xảy ra theo đúng lẽ tự nhiên thôi.
- Nhưng Dunia, con hãy nghĩ tình cảnh mẹ con ta mà xem! Rồi sẽ ra sao nêu Piotr Petrovich cứ một mực như thế? - bà Punkheria Alekxandrovna chợt buột mồm.
- Thế thì ông ta không còn đáng giá là bao nữa! - Dunia nói, giọng xẵng và khinh bỉ.
- Lúc nầy mẹ con ta đi là phải, - bà Punkheria Alekxandrovna vội nói tiếp, anh con đang vội đi đâu đấy thôi để cho nó ra ngoài một tí cho nó thoáng mà thở, chứ cứ ở trong buồng nó thì phát ngột lên ấy… Nhưng ở trong cái thành phố nầy thì lấy đâu ra không khí mà thở kia chứ? Ở ngoài phố mà cứ y như ở trong buồng kín. Trời, thành với phố! Ấy, tránh ra con, khéo lại bị chẹt bây giờ, họ khiêng cái gì kia kìa.) Một chiếc dương cầm thì phải? Họ chen chúc nhau ghê thật… Mẹ cũng sợ người con gái ấy lắm.
- Người con gái nào hở mẹ?
- Thì cái cô Sofia Xemionovna vừa đến đằng anh mày lúc nãy ấy.
- Tại sao mẹ lại sợ?
- Mẹ có linh cám thế nào ấy. Dunia ạ. Tin hay không thì tùy con, nhưng khi cô ta mới bước vào, mẹ đã nghĩ ngay rằng chủ yếu là ở đấy cả.
- Chả có gì ở đấy hết! - Dunia bực mình gắt. - Mẹ thì bao giờ cũng linh với cảm. Anh ấy chỉ mới quen cô ta từ hôm qua thôi, lúc nãy khi cô ta bước vào, anh cũng không nhận ra nữa là!
- Đấy rồi con xem!… Cô ta làm mẹ lo lắmg. Rồi con xeml Rồi con xem! Mẹ sợ quá! Cô ta nhìn mẹ, nhìn mẹ với cặp mắt lạ lùng đến nỗi mẹ ngồi không yên nữa, con có nhớ là anh con đã giới thiệu cô ấy với mẹ con ta thế nào không? Mẹ thấy lạ quá, Piotr Petrovich viết thư nói chuyện cô ấy như thế mà anh con vẫn cứ giới thiệu, và nhất là giới thiệu với con nữa chứ? Thế nghĩa là anh con quý cô ấy lắm.
- Chuyện gì mà họ chả viết! Đấy dạo trước họ đã
viết đủ điều dèm pha mẹ con ta, mẹ quên rồi hay sao? Con thì con tin chắc rằng… cô ta là một cô gái rất tốt và tất cả những lời người ta nói đều là chuyện nhảm.
- Cầu Chúa phù hộ cô ấy?
- Còn Piotr Petrovich chính là một kẻ ngồi lê đôi mách ti tiện - Dunia bỗng thét lên.
Bà Punkheria Alekxandrovna cúi mặt xuống, lặng thinh. Câu chuyện bị bỏ lửng.
- Đây, việc mình cần nói với cậu là thế nầy. - Raxkonikov kéo Razumikhin ra cửa sổ nói
- Thế nghĩa là tôi có thể thưa được với dì Katerina Ivanovna là ông sẽ đến chứ ạ. - Sonya vội nói chen vào và nghiêng mình như muốn chào ra về.
- Một lát nữa đã, Sofia Xemionovna ạ, chúng tôi chẳng có chuyện gì bí mật đâu, cô không làm phiền gì chúng tô đâu… Tôi có câu chuyện nhỏ muốn nói với cô - Đoạn cắt ngang câu nói đang bỏ giở, chàng quay về phía Razumikhin, - Thế nầy nhé. Cậu có biết cái lão… tên gì nhỉ? Porfiri Petrovich ấy mà?
- Biết quá đi ấy chứ, có họ với mình đấy! Nhưng sao kia. - anh ta nói tiếp, vẻ tò mò.
- Có phải hiện nay hắn đang tiến hành điều tra vụ ấy phải không… chậc! Cái vụ giết người ấy mà? Hôm qua tôi có nghe hai cậu nói thế thì phải…
- Phải… Sao nữa? - Razumikhin mở hai mắt tròn xoe ra.
- Hắn ta có hỏi cũng những người cầm đồ, mà tôi cũng có một vài thứ đem cầm ở đằng ấy, đồ lặt vặt thôi, nhưng lại là một chiếc nhẫn con của em tôi tặng làm kỷ niệm hồi tôi lên đường đi Petersbung và chiếc đồng hồ quả quýt bằng bạc của cha tôi. Tất cả cũng chỉ đáng giá năm, sáu rúp gì đó thôi, song đối với tôi lại rất quý, chả là vật kỷ niệm. Bây giờ tôi phải làm thế nào? Tôi không muốn mất những vật ấy, nhất là chiếc đồng hồ, lúc nãy khi nói chuyện đến chiếc đồng hồ của Dunia tôi cứ lo cuống lên, sợ bà cụ đòi xem. Vật duy nhất còn lại của ông cụ tôi đây. Nếu mất thì bà cụ sẽ phát ốm lên được. Đàn bà họ thật…! Thế cậu báo cho tôi biết phải làm như nào nhé? Tôi cũng biết là sẽ phải làm một tờ khai nộp lên đồn. Nhưng nếu trực tiếp với Porfiri, liệu có hơn không? Cậu nghĩ thế nào? Tôi muốn thu xếp việc nầy càng chóng càng tốt. Cậu sẽ thấy là từ đây đến bữa ăn chiều thế nào bà cụ tôi cũng hỏi cho mà xem.
- Không cần gì đồn cảnh sát tất, nhất định trực tiếp với Porfiri thôi! - Razumikhin reo lên, giọng có vẻ phấn khích khác thường. Ồ! Mình mừng quá! Thôi, đi, đi ngay bây giờ, chỉ hai bước thôi; chắc chắn sẽ gặp hắn ta ở nhà.
- Được ta đi đi.
- Hắn ta rất thích làm quen với cậu? Mình đã nói chuyện với hắn về cậu nhiều bận rồi… Mới hôm qua đây nữa… Thế cậu cũng có biết mụ ấy à? À hay lắm! Mọi việc đã ăn khớp với nhau đến là tuyệt. À, phải cô Sofia Ivanovna…
- Sofia Xemionovna, - Raxkonikov đính chính lại - Cô Sofia Xemionovna, đây là Razumikhin, bạn tôi, một người rất tốt.
- Nếu các ông phải đi bây giờ thì… - Sonya nói, mắt không dám nhìn Razumikhin, và điều đó càng làm cho nàng ngượng nghịu thêm.
- Ta đi thì - Raxkonikov quyết định, - cô Sofia Xemionovna, ngày hôm nay tôi sẽ đến đằng cô, nhưng cô cho biết hiện cô ở đâu?
Chàng không có vẻ gì bôi ril, song lại có ý vội vã, và cố tránh mắt Sonya. Sonya nói rõ địa chỉ, mặt đỏ ứng. Cả ba cùng đi ra.
- Cậu không khoá cửa lại à? - Razumikhin hỏi trong khi theo sau chàng bước xuống cầu thang.
- Không bao giờ! - Với lại tôi đã định mua một ổ khoá từ hai năm nay rồi đấy! - Raxkonikov nói tiếp - Diễm phúc thay những kẻ chẳng có gì để đến nỗi phải khoá cửa cả! - Chàng cất tiếng cười quay sang nói với Sonya.
Ra đến ngoài, họ dừng bước dưới cổng.
- Cô rẽ tay phải chứ, cô Sofia Xemionovna? À nầy, cô làm thế nào mà tìm ra được chỗ tôi thế? - chàng hỏi, tựa như muốn gợi một chuyện gì khác với nàng. Chàng muốn nhìn thẳng vào đôi mắt trong sáng và dịu dàng của cô gái, nhưng không hiểu sao chàng không thể nhìn được.
- Hôm qua chính ông có dặn địa chỉ lại cho Poleska đấy ạ.
- Poleska? À, phải… Poleska. Có phải là cô bé, em gái cô phải không? Thế ra tôi có để lại địa chỉ cho em cô à?
- Chả nhẽ ông quên rồi sao?
- Không… Tôi nhớ.
- Hồi trước tôi có nghe cha tôi nói đến ông… Song hồi ấy tôi không biết tên ông, cha tôi cũng không biết nốt. Và hôm nay, tôi đến đây tôi đã biết tên ông từ hôm qua, nên tôi hỏi thăm: "Phải ông Raxkonikov ở đây không?" Tôi không biết là ông cũng phải thuê trọ… Thôi, xin chào hai ông, tôi sẽ thưa với Katerina Ivanovna…
Nàng mừng quýnh lên vì được đi khỏi; nàng bước đi mặt cúi gằm, hối hả cho chóng thoát khỏi tầm mắt của hai người, cho chóng vượt hết cái khoảng hai mươi bước đến chõ rẽ ngoặt sang phải để rồi được thanh thản một mình, và qua khỏi góc phố, lại rảo bước không nhìn ai mà cũng không trông thấy gì xung quanh mình, ngẫm nghĩ, nhớ lại, suy xét từng lời từng chữ mình nói lúc nãy, nhớ lại từng sự việc một. Chưa bao giờ, nàng chưa bao giờ có một cảm giác như vậy. Cả một thế giới mới lạ vụt hiện lên trong tâm hồn nàng, mơ hồ và khó hiểu. Nàng bỗng sực nhớ ra rằng Raxkonikov định sẽ đến nhà mình hôm nay, có thể là sáng nay, có thể là ngay bây giờ.
- Ôi chỉ xin người ấy đừng đến hôm nay, - nàng thầm thì, tim như lặng hẳn đi, tựa hồ muốn van xin ai, như một đứa bé hoảng sợ. - Trời ơi! Lại nhà mình à! Vào cái buồng ấy, người đó sẽ thấy. Ôi! Lạy Chúa
Và trong giây phút ấy, lẽ dĩ nhiên nàng không thể nào chú ý đến một kẻ lạ mặt đang chăm chú theo dõi và bám sát nàng, hắn theo nàng mãi từ khi nàng ra khỏi cổng. Khi Razumikhin, Raxkonikov và Sonya đứng ở vỉa hè nói chuyện ới nhau thì người lạ mặt vừa đi ngang, hắn hầu như bỗng giật mình khi tình cờ thoáng nghe Sonya nói: "Tôi hỏi thăm: có phải ông Raxkonikov ở đây không?" hắn đưa mắt soi mói nhìn lướt qua mọi người, nhất là Raxkonikov, mà Sonya vừa mới gửi chuyện, đoạn hắn nhìn qua ngôi nhà và ghi nhớ lấy tất cả những việc đó, hắn làm trong nháy mắt khi đi ngang qua, hắn làm ra vẻe không chú ý, cứ đi thẳng, nhưng bước chậm dần như muốn chờ đợi.
Hắn rình Sonya. Hắn đã thấy ba người chia tay nhau và Sonya đi riêng ra để về nhà.
"Không biết cô ta ở nhà nào? Mình đã thấy khuôn mặt nầy ở đâu rồi ấy!" - hắn vừa nghĩ thầm, vừa cố nhớ lại nét mặt của Sonya.
Đến góc phố, hắn sang vỉa hè bên kia, ngoảnh lại và thấy Sonya cũng đang đi về phía hắn, không chú ý gì xung quanh cả. Đến chỗ ngoặt, nàng cũng rẽ vào cùng đường với hắn. Hắn liền theo riết nàng không rời mắt dọc theo bờ đường bên kia; đi độ dăm chục bước, hắn lại sang bên vỉa hè Sonya đang đi và theo sau nàng cách chừng dăm bước.
Đó là một người tuổi trạc ngũ tuần, tầm vóc cao hơn trung bình; người đẫy, vai rộng và xuôi nên trông như hơi gù. Hắn ăn mặc bảnh bao và chừng chạc, trông ra dáng một ông lớn. Tay hắn đi đôi găng mới tinh, cầm một cái can trau chuốt, gõ lộc cộc trên vỉa hè theo từng bước chân. Khuôn mặt hắn rộng, gò má cao, trông cũng dễ coi và nước da hồng hào của hắn trông không có vẻ gì là dân Petersbung cả. Tóc hắn hãy còn tốt và một màu vàng hoe, chỉ điểm lưa thưa một vài sợi bạc; râu hắn rậm và xòe rộng ra, màu còn sáng hơn cả tóc hắn nữa, hắn có đôi mắt xanh với cái nhìn lạnh lùng, chăm chú mà tư lự; môi hắn đỏ thắm. Nhìn chung hắn ta rất quắc thước, trông còn trẻ hơn tuổi nhiều.
Khi Sonya rẽ ra kênh đào thì chỉ còn to hai người trên vệ đường. Nhìn kỹ Sonya, hắn kịp nhận thấy cái vẻ tư lự và lơ đãng của nàng. Về đến trước nhà, Sonya rẽ vào cổng: hắn cũng bước theo và có vẻ như hơi ngạc nhiên. Vào trong sân, Sonya rẽ sang phải, đi vào góc sân có cái cầu thang đưa lên buồng nàng.
"Chà!" - người lạ mặt lẩm bẩm và bước theo nàng lên cầu thang. Mãi đến bây giờ, Sonya mới để ý thấy hắn. Đến tầng thứ ba. Sonya rẽ vào hành lang và giật chuông buồng số 9, trước cửa buồng có mấy chữ viết phấn: Kapernaumov, thợ may. "Chà" - người lạ mặt lại lẩm bẩm, ngạc nhiên vì sự ngẫu hợp kỳ lạ nầy, rồi bấm chuông buồng bên cạnh số 8. Hai cửa buồng chỉ cách nhau có sáu bước chân.
- Cô trọ ở nhà Kapernaumov à? - hắn nhìn Sonya, mỉm cười. - Hôm qua ông ta vừa mới chữa cho tôi chiếc gi-lê. Còn tôi, tôi ở đây, bên cạnh, cùng với bà Resslich, Gertruda Karlovna. Thật là một sự tình cờ thú vị.
Sonya nhìn hắn chăm chú.
- Chúng ta là chỗ láng giềng với nhau đấy. - Hắn nói tiếp, giọng đặc biệt vui vẻ - Tôi mới đến Petersbung chỉ được hai hôm nay. Thôi, chào cô, rất mong được gặp lại cô.
Sonya không đáp. Cửa buồng nàng mở, nàng lách người vào. Không hiểu sao, một cảm giác lẫn lộn vừa sợ sệt vừa xấu hổ bổng tràn ngập lòng nàng.
Trên đường đến nhà Porfiri, Razumikhin phấn khởi khác thường.
- Tuyệt thật đấy, - anh lắp đi lắp lại mấy lần - tớ rất thú, rất thú!
"Hắn thú cái gì mới được chứ?" - Raxkonikov nghĩ thầm.
- Nầy, tớ không biết là cậu cùng có cầm đồ ở đằng mụ ấy… thế… thế… đã lâu chưa? Nghĩa là cậu đến đằng mụ ày đã lâu chưa?
"Thằng cha mới ngây ngô làm sao".
- Lúc nào à? - Raxkonikov đáp và dừng lại để suy nghĩ - tôi đến đằng mụ ấy đâu ba ngày trước khi mụ ấy chết thì phải. Với lại, bây giờ tôi cũng không có ý định đến chuộc đồ cầm lại đâu, - chàng nói tiếp, tuồng như có ý vội vã và đặc biệt sốt sắng với những vật đó - vì tôi chỉ còn mỗi đồng rúp bạc trong túi… cũng vì cái cơn mê sảng chết tiệt chiều hôm qua!
Chàng chú ý nhấn mạnh vào hai chữ "mê sảng".
- Phải đấy, đúng, đúng, - Razumikhin vội vã tán thành, cũng chẳng hiểu tại sao - đấy, chính vì thế mà cậu. hôm ấy tớ cũng hơi lấy làm lạ… cậu biết không, trong cơn mê sảng, cậu lúc nào cũng nhắc đến đây chuyền với nhẫn; thôi… đúng… đúng rồi. Rõ! Bây giờ thì rõ cả rồi.
"Ấy đấy! Thế nghĩa là ý nghĩ ấy đã thâm nhập vào trí óc họ! Anh chàng nầy chẳng hạn, một con người có thể vì mình mà chịu đóng đinh trên giá thập tự, rất sung sướng là đã tự giải thích được tại sao mình lại nói đến nhẫn trong cơn mê! Ý nghĩ ấy thật đã neo chặt vào đầu óc tất cả bọn họ rồi".
- Không biết hắn ta có ở nhà không? - chàng cất tiếng hỏi.
- Có chứ, có chứ! - Razumikhin vội đáp. - Hắn ta là một tay rất tốt, đấy, rồi cậu xem, hơi vụng về một tí hắn vẫn là một người lịch thiệp, nhưng đây tớ nói về một phương diện khác. Một tay thông minh, không ngốc tí nào, nhưng mà lại là một kiểu trí tuệ hơi đặc biệt… Một con người hay ngờ vực, hoài nghi, vô sỉ, thích bịp đời. Nghĩa là không phải thích bịp, mà là thích chơi xỏ thì đúng hơn. Phương pháp của hắn là phương pháp cũ dựa trên bằng chứng vật chất, nhưng hắn thạo nghề đấy, khá thạo… Năm ngoái hắn điều tra ra một vụ án mạng hầu như đã mất hết tung tích! Hắn ta rất thích, rất thích làm quen với cậu.
- Sao hắn lại thích quá đến như vậy?
- Không phải là vì… cậu thấy đấy, trong thời gian gần đây khi cậu đang ốm tớ cũng có hay nhắc đến cậu… Hắn ta cũng chú ý nghe… và khi biết cậu là sinh viên trường Luật, vì hoàn cảnh không tiếp tục theo học được, hắn có nói: "Tiếc thật?". Vì thế tớ kết luận là… tớ muốn nói là do tất cả những việc đó chứ không phải chỉ riêng việc kia. Nầy, Rodia, hôm qua khi đi về với cậu, tớ say nên ba hoa nhiều… thành thử tớ cứ sợ cậu hiểu lầm…
- Sao? Hiểu lầm rằng người ta cho mình là điên ấy à? Mà có lẽ thật đấy. - Chàng cười gượng.
- Ờ… ừ à không! Nầy, những chuyện tớ nói hôm qua (và cả những chuyện khác cùng vậy) đều nhảm nhí tất, đều là con đẻ của ma men tất.
- Sao cậu lại tự thanh minh mãi thế! Tôi ngấy lắm rồi - Raxkonikov quát lên với một giọng bực tức cường điệu và có phần giả tạo.
- Tớ biết, tớ hiểu rồi. Cậu cứ tin chắc là tớ hiểu, thậm chí tớ còn thấy xấu hổ khi nói đến chuyện ấy.
- Đã thấy xấu hổ thì thôi, đừng nói nữa!
Hai người lặng thinh. Razumikhin đang phấn khởi đến cực độ. Raxkonikov cũng nhận thấy thế, và chàng chán ghét lạ lùng. Chàng còn lo sợ vì những chuyện Razumikhin vừa nói về Porfiri "Với thằng kia mình cũng phải lòe mới được - chàng suy nghĩ, mặt tái đi, trống ngực đánh thình thình mà phải loè cho tự nhiên hơn nữa. Thật ra, tự nhiên hơn cả là đừng lòe với bịp gì tất. Phải cố sức đừng lòe bịp gì hếtl Không, cố sức thì lại không tự nhiên rồi. Thôi được, để xem sự thể ra sao… rồi sẽ liệu… chỉ lát nữa thôi… không biết mình đến đấy là có lợi hay có hại? Con thiêu thân tự lao vào ánh đèn. Tim mình đập mạnh quá thật chẳng lành!"
- Đây ngồi nhà xam xám nầy - Razumikhin nói.
"Điều quan trọng hơn cả là Porfiri có biết hôm qua mình đến nhà mụ phù thủy ấy và hỏi về vũng máu hay không biết. Trước hết, mình phải làm thế nào biết ngay được điều đó trong nháy mắt, bước vào buồng là phải đọc ngay được điều đó trên nét mặt hắn, không thì… dù có thế nào cũng phải biết mới được"
- Nầy, - chàng bỗng quay sang phía Razumikhin với một nụ cười tinh quái, - anh bạn ạ, tôi nhận thấy từ sáng nay anh bạn không được bình thường lắm, cứ cuống cả lên, đúng không?
- Cuống thế nào? Tớ chẳng cuống kiếc tí nào cả. - Razumikhin giận dỗi đáp.
- Không phải đâu, ông bạn ạ, trông rõ quá đi rồi. Lúc nãy cậu ngồi trên ghế dựa mà cứ ngồi tít ra ngoài mép ấy, có bao giờ cậu ngồi thế đâu? Cậu cứ như bị chuột rút ấy, động một tí là giật bắn lên. Mặt cậu khi thì hầm hầm, khi thì ngọt lịm như miếng kem. Cậu lại còn đỏ mặt nữa, nhất là khi người ta mời cậu đến ăn cơm thì cậu đỏ chín cả người lên.
- Nói bậy; tớ có làm sao đâu! Cậu định nói gì thế?
- Định nói rằng cậu nhút nhát như một thằng học sinh vậy! Ấy, đấy, lại đỏ mặt nữa rồi!
- Rõ khỉ!
- Nhưng tại sao cậu lại ngượng kia chứ. Đúng là một chàng Romco! Ấy, khoan hẵng, hôm nay mình sẽ kể lại chuyện nầy ở một nơi nào đấy cho mà xem, ha! ha! ha… Mình sẽ cù cho bà cụ cười một mẻ, và cả ai kia nữa.
- Nầy cậu, đây là chuyện nghiêm túc, tớ không đùa đâu… Sau đó rồi sẽ ra sao, hử đồ quỷ! - Razumikhin đâm hoảng thật sự, người lạnh toát ra. - Cậu sẽ kể những gì với các bà ấy? Tớ thì tớ… thẳng cha khỉ thật?
- Cậu thật là một nụ tầm xuân! Mà như thế lại rất hợp với cậu kia đấy! Một chàng Romco cao mười versok? Nầy, hôm nay cậu rửa ráy cẩn thận quá nhỉ, chải cả móng tay nữa kìa? Thật là chưa từng thấy! Trời ơi, lại xức sáp thơm nữa à? Cúi đầu xuống mình xem tí!
- Rõ khỉ!
Raxkonikov dường như không nhịn được nữa, cười phá lên từng tràng dòn dã suốt trong khoang thời gian hai người cùng bước vào nhà Porfiri Petrovich. Chính Raxkonikov muốn như thế: từ nhà trong người ta có thể nghe thấy tiếng cười ầm ĩ khi hai người vào nhà và vẫn kéo dài khi họ bước vào phòng mắc áo.
- Ở đây không được hở câu nào ra đấy, nếu không, tớ quai vỡ mặt ra - Razumikhin điên tiết rít qua kẽ răng, hai tay nắm chặt lấy vai Raxkonikov.
Chương 17
Raxkonikov đã vào nhà. Chàng bước vào với cái vẻ như đang cố
hết sức nhịn cười. Razumikhin ngượng ngùng theo sau, mặt đỏ như hoa vông, nhăn
nhúm lại vì tức giận, thân mình dài lêu nghêu trông hết sức vụng về. Bộ mặt và
cả dáng người anh lúc ấy thật là một lời giải thích hùng hồn cho tiếng cười của
Raxkonikov. Chưa kịp được giới thiệu, Raxkonikov đã nghiêng mình trước chu nhân
đang đứng giữa phòng đưa mắt dò hỏi hai vị khách. Vừa bắt tay ông ta, chàng vừa
làm ra vẻ cố hết sức nhịn cười và nói lấy đôi ba tiếng gọi là để tự giới thiệu.
Song vừa mới nghiêm được nét mặt lại và lúng búng được mấy tiếng chàng đã lại
dường như bất giác nhìn về phía Razumikhin, thế là không sao nhịn được nữa: tiếng
cười vừa rồi bị nén chặt bao nhiêu, thì nay lại bật ra mạnh bấu nhiêu không sao
cưỡng nổi. Cơn giận dữ điên cuồng của Razumikhin tiếp theo tiếng cười "hồn
nhiên" đó của Raxkonikov đã tạo cho cái cảnh nầy một vẻ hoan hỉ thành thật
và nhất là rất tự nhiên. Razumikhin tựa hồ như cố ý, đang giúp thêm vào màn kịch
của bạn.
- Hừm! Đồ quỷ! - Anh gầm lên và vung tay một cái va ngay vào một chiếc ghế con trên đặt một cái cốc trà nhỏ đã uống cạn. Ghế và cốc rơi đánh xoảng một tiếng.
- Tại sao lại phá hoại bàn ghế thế, hở các vị, thiệt hại cho công quỹ đấy? - Porfiri Prtrovich vui vẻ kêu lên.
Màn kịch tiếp diễn như sau: Raxkonikov cười chán chê rồi, tay vẫn để quên trong tay chủ nhân, nhưng vẫn biết giữ mức vừa phải, chàng chờ dịp rút tay ra cho thật nhanh và thật tự nhiên. Razumikhin hết sức luống cuống với chiếc ghế đổ và cái cốc vỡ, ngẩn người ra nhìn mấy mánh cốc, vẻ mặt hầm hầm, đoạn nhổ toẹt một bãi nước bọt và quay phắt ra cửa sổ, đứng quay lưng về phía công chúng, mặt khó đăm đăm, nhìn bâng quơ ra ngoài cửa kính, chắc cũng chẳng trông thấy gì. Porfiri Petrovich cười, ông ta cùng muốn vui chung với khách, nhưng hiển nhiên còn đang chờ đợi người ta giải thích cho. Trong góc phòng, Zamiotov ngồi trên một chiếc ghế dựa. Hắn nhổm dậy khi thấy khách vào, và chờ đợi, môi nhoẻn một nụ cười, vẻ ngỡ ngàng và thậm chí hầu như ngờ vực nữa trước cái cảnh vừa diễn ra, riêng khi nhìn Raxkonikov thì hắn lại có vẻ bối rối nữa. Sự có mặt bất ngờ của Zamiotov khiến Raxkonikov ngạc nhiên và khó chịu.
"Lại thêm một điều cần phải suy xét?" - chàng nghĩ.
- Xin hai ông thứ lỗi. - Raxkonikov mở đầu, cố làm ra vẻ ngượng nghịu.
- Có gì đâu! Tôi rất, thích thú. Các anh đến chơi thật là vui vẻ. Sao, lại không thèm chào hỏi ai nữa kia à? - Porfiri Petrovich hất hàm trỏ Razumikhin nói tiếp.
- Quả tình tôi cũng không hiểu tại sao cậu ta lại tức giận tôi. Dọc dường, tôi chỉ nói là cậu ta giống Romco và và chứng minh cho cậu ta thấy, ngoài ra hình như không còn lý do nào khác.
- Rõ khỉ! - Razumikhin đáp, vẫn không ngoảnh lại - Thế thì chắc phải có những lý do rất nghiêm trọng cậu ấy mới có thể nổi giận lên như vậy vì mỗi một câu nói đùa cỏn con - Porfiri cười xoà.
- Chà, quan dự thẩm toà án đấy nhá! Thôi, ma quỷ bắt hết các cậu đi cho rảnh - Razumikhin cắt ngang và cũng bật cười theo, vẻ mặt vui hẳn lên tuồng như không có việc gì xảy ra cả. Anh đến cạnh Porfiri Petrovich.
- Thôi, đủ rồi! Toàn một lũ ngốc, vào việc thôi! Đây là bạn mình, Rodion Romanovich Raxkonikov, trước hết là vì nghe nói nhiều đến cậu nên muốn làm quen với cậu, sau nữa cùng có tí việc muốn nhờ đến cậu. Kìa, Zamiotov! Sao cậu lại ở đây? Thế hai người có quen nhau à? Từ bao giờ thế?
"Lại chuyện gì thế nầy nữa?" - Raxkonikov hoảng hốt nghĩ thầm.
Zamiotov như có vẻ ngượng nghịu, nhưng chỉ thoáng một chút thôi.
- Ấy chúng tôi mới quen nhau từ hôm qua, ở nhà cậu đấy hắn nói, giọng ung dung.
- Thế thì thật là Trời giữa tớ: tuần trước hắn cứ khẩn khoản mình tìm cách giới thiệu hắn với cậu, thế mà cũng chẳng cần gì kẻ nầy, các người cũng đã đánh hơi được nhau… Thuốc lá cậu đâu? Porfiri Petrovich ăn vận kiểu trong nhà: áo dài ngủ, đồ lót khá sạch, chân đi giầy vải vẹt gót. Đó là một người tuổi trạc ba mươi lăm, vóc dáng người hơi lùn, to béo và hơi có bụng nữa, râu ria cạo nhẵn, tóc cắt ngắn, đầu to tròn, gáy dô ra một cách kỳ quái. Khuôn mặt tuy tròn và béo phị, mũi hơi hếch, nước da vàng vọt song vẫn không thiếu vẻ hoạt bát và lại có phần hóm hỉnh nữa. Lẽ ra khuôn mặt ấy trông còn có vẻ thật thà là khác nếu không có cái thần sắc của cặp mắt sáng loáng như màu nước, ẩn dưới hàng mi bạc phếch luôn luôn hấp háy như muốn ra hiệu cho một người nào. Cái nhìn của cặp mắt đó tương phản lạ kỳ với toàn bộ con người trông như có dáng dấp đàn bà của ông ta và điểm cho nét mặt ông ta một vẻ nghiêm nghị hơn là người ta có thể tưởng khi mới nhác trông.
Vừa nghe nói ông khách có "tí việc" cần bàn với mình, Porfiri Petrovich lập tức mời khách ngồi lên ghế sofa, còn ông ta thì ngồi vào cuối ghế và chú mục nhìn Raxkonikov, chờ đợi chàng trình bày công việc, với cái vẻ quan tâm có dụng công và trang nghiêm quá mức khiến người ta phải lúng túng khó chịu, nhất là người chưa quen biết khi mới gặp lần đầu, và nhất là khi nghĩ rằng điều mình sắp nói ra lại không tương xứng với thái độ chăm chú trịnh trọng khác thường của ông. Nhưng Raxkonikov, qua mấy câu ngắn gọn và mạnh lạc, trình bày việc mình một cách rõ ràng, chính xác và thấy hài lòng với bản thân đến nỗi còn có đủ thì giờ quan sát, Porfiri khá ký. Porfiri Petrovich cũng nhìn khách không rời mắt trong suốt thời gian nói chuyện. Razumikhin ngồi bên kia bàn sốt ruột và háo hức theo dõi câu chuyện, mắt cứ luôn luôn chuyển từ người nầy sang người kia, chẳng chú ý mấy đến phép lịch sự.
"Thằng ngốc!" -Raxkonikov chửi thầm.
- Thế thì anh phải khai với sở cảnh sát. - Porfiri dùng một giọng đặc biệt sự vụ trả lời khách - Anh sẽ viết là vì được tin xảy ra sự kiện như thế - có nghĩa là vụ ám sát - nên cần báo cho viên dự thẩm phụ trách việc đó biết là có những vật nầy vật nọ thuộc quyền sở hữu của anh và anh muốn chuộc lại. Hoặc là thôi cũng chẳng cần rồi người ta sẽ viết cho anh.
- Nhưng phiền một nỗi là hiện nay? - Raxkonikov nói tiếp, cố làm ra vẻ thật ngượng nghịu: tôi cũng không sẵn tiền lắm, và ngay những đồ lặt vặt ấy, tôi cũng không thể… Ông ạ, bây giờ tôi chỉ muốn khai rằng những vật ấy là của tôi, rồi khi nào có tiền…
- Không hề gì - Porfiri Petrovich đáp, có vẻ dửng dưng đối với những lời giãi bày về tiền nong đó, - vả lại, nếu cần anh có thể viết thẳng cho tôi mấy chữ cũng theo kiểu như trên, đại ý: được biết thế nầy thế nọ, và kê khai những vật nầy vật kia là của tôi, yêu cầu.
- Thế viết trên giấy thường có được không? - Raxkonikov vội vã ngắt lời, một lần nữa tỏ ra quan tâm đến mặt tiền nong của công việc.
- Ồ, giấy gì ma chả được? - Và bỗng Porfiri Petrovich nhìn chàng với một vẻ giễu cợt ra mặt, nheo nheo đôi mắt tựa như muốn nháy chàng. Vả chăng, có thể là Raxkonikov tưởng tượng ra thế thôi, vì cái đó chỉ thoáng qua trong giây lát. Song ít nhất cũng phải có một chuyện gì đây. Raxkonikov cứ đinh ninh là ông ta đã nháy mắt với chàng, có trời biết tại sao. Hắn biết!" - Ý nghĩ đó vụt thoáng qua tâm trí chàng như một tia chớp.
- Xin ông thứ lỗi vì đã đến làm phiền ông vì những chuyện không đâu như thế! - chàng nói tiếp, hơi lúng túng. - Những vật ấy đáng giá cả thảy chỉ độ năm rúp, nhưng đối với tôi thì nó quý lắm, vì đó là những vật kỷ niệm của người thân, và xin thú thực là tôi rất lo sợ khi được tin…
- À, à, thế ra hôm qua khi nghe tớ nói với Zoximov là Porfiri đã tiến hành hỏi cung những người có cầm đồ, cậu đã giật nẩy mình lên là vì thế đấy - Razumikhin nói với một dụng ý lộ liễu.
Cái nầy thì thật quá thể. Raxkonikov không chịu được nữa, đưa đôi mắt đen sáng quắc lên giận dữ nhìn Razumikhin Nhưng chàng lại trấn tĩnh được ngay.
- Cậu muốn giễu tôi đấy hẳn? - Chàng nói với một vẻ tức giận giả vờ rất khéo - Tôi xin nhận rằng có lẽ tôi có lo lắng quá nhiều đến những vật mà dưới mắt cậu chỉ là những đồ bỏ đi; nhưng cũng không nên vì thế mà coi tôi là một thằng ích kỷ, một thằng tham lam, vì dưới mắt tôi những vật vô nghĩa đó rất có thể không phải là những đồ bỏ đi. Lúc nãy tôi đã nói với cậu là chiếc đồng hồ bạc chỉ đáng giá vài xu ấy là vật duy nhất của cha tôi còn để lại. Cứ tha hồ mà giễu tôi đi, nhưng kỳ tình mẹ tôi đã lên đây - chàng chợt quay sang nói với Porfiri - và nếu bà cụ biết - chàng lại vội quay về với Razumikhin và cố nói giọng run run, - nếu bà cụ biết chiếc đồng hồ ấy không còn nữa, tôi thề với cậu là bà cụ sẽ chết điếng đi. Ôi! đàn bà họ thật…
- Nhưng có phải thế đâu! Mình không hề có ý như thế. Ý mình trái hẳn lại! - Razumikhin khổ sở kêu lên.
"Thế có được không? Có tự nhiên không? Mình có cường điệu quá không? Raxkonikov lo âu tự hỏi - Sao mình lại nói "đàn bà"?
- Thế ra cụ nhà đã lên đây rồi? - Porfiri Petrovich hỏi, không rõ để làm gì.
- Vâng.
- Lúc nào?
- Chiều hôm qua.
Porfiri lặng thinh như suy tính điều gì.
- Những đồ vật của anh dù sao cũng không thể mất được, - hắn nói tiếp, giọng điềm tĩnh và lạnh lùng. - Mà tôi đợi anh ở đây cũng đã từ lâu.
Rồi, coỉ như khong có việc gì xảy ra, Porfiri sốt sắng trao cái gạt tàn thuốc lá cho Razumikhin, đang thẳng tay gạt tàn thuốc xuống thảm không chút thương tiếc. Raxkonikov giật nẩy mình, nhưng Porfiri dường như không nhìn chàng vì đang bận tâm với điếu thuốc lá của Razumikhin.
- Sao? Cậu đợi cậu ấy à? Thì ra là cậu biết cậu ấy có đồ cầm ở đằng ấy à? - Razumikhin kêu lên.
Porfiri Petrovich quay hẳn sang Raxkonikov nói.
- Cả hai thứ anh đem cầm đằng mụ ấy. - chiếc nhẫn và cái đồng hồ - đều được gói vào một mảnh giấy và tên anh được ghi rõ ràng bằng bút chì trên giấy gói, có cả ngày tháng nhận cầm.
- Sao ông nhớ kỹ thế? - Raxkonikov cười nhạt một cách vụng về, cố nhìn thẳng vào mắt ông ta, nhưng rồi không ghìm nổi và bỗng nói thêm: - Sở dĩ tôi nghĩ thế là vì có lẽ có nhiều khách cầm đồ lắm. Thành thử ông cũng khó lòng mà nhớ hết được. Thế nhưng đằng nầy, ông lại nhớ hết, mà rất rõ và và…
Ngốc thật! Kém lắm! Sao lại thêm câu ấy làm gì.
- Chả là hầu hết các khách cầm đồ đều đã đến gặp tôi, chỉ còn anh là người duy nhất chưa quá bộ đến đây - Porfiri đáp, trong giọng nói thoáng có một sắc thái giễu cợt khá rõ.
- Vừa rồi tôi hơi bị mệt.
Vâng, tôi cũng có nghe nói. Tôi lại nghe nói là anh còn có điều gì bối rối khó chịu nữa. Đấy bây giờ trông anh vẫn còn xanh lắm.
- Có xanh tí nào đâu, ngược tại tôi rất khỏe - Raxkonikov đột nhiên chuyển sang giọng cục cằn và giận dữ ngắt lời.
Cơn giận sôi sục lên trong người chàng, không tài nào nén được. "Cơn giận nầy sẽ phản mình mất - chàng chợt nghĩ "Sao họ lại cứ làm khổ mình như thế"
- "Tôi hơi bị mệt!" - Razumikhin kêu lên - Thật khéo nói. Mãi đến tận hôm qua cũng vẫn còn mê sảng đấy. Nầy Porfiri, cậu có tin được không, cậu ấy vừa mới tấp tểnh đứng dậy được, thế mà Zoximov với mình vừa mới quay lưng một cái là cậu ta mặc quần áo lặng lẽ chuồn đi; lang thang mãi tận đâu gần đến nửa đêm mới về, mà xin nhắc lại là đang mê sảng đấy nhé. Cậu có thể tưởng tượng được không? Một trường hợp đến kỳ quặc?
- Sao? Đang mê sảng à? Có thể như vậy được ư? - Porfiri lắc đầu với một cử chỉ trông như đàn bà.
- Chỉ nhảm? Ông đừng tin? Mà ông cũng có tin đâu - Raxkonikov buột mồm, không nén được cơn thịnh nộ. Nhưng Porfiri có vẻ như không nghe thấy những lời lẽ kỳ quặc đó.
- Nếu không mê sảng thì sao cậu lại có thể đi ra ngoài được? - Razumikhin bỗng nóng mặt lên đáp. - Tại sao cậu lại đi? Đi làm cái gì? Mà tại sao lại len lén như thế? Nào lúc ấy trí óc cậu liệu có còn minh mẫn không? Bây giờ cậu đã khỏi, tớ có thể nói toạc ra với cậu như vậy.
- Hôm qua, mấy cậu làm tôi ngấy quá - Raxkonikov chợt quay sang Porfiri nói với một nụ cười xấc xược và khiêu khích - Tôi phải trốn đi thuê một nơi ở khác, đi cho các cậu ấy không tìm ra được, tôi đã đem theo một mớ tiền. Ông Zamiotov đây cũng có trông thấy số tiền ấy đấy. Thế nào. Ông Zamiotov, hôm qua trí óc tôi có mình mẫn không, hay là mê sảng, ông phân giai hộ cho.
Lúc nầy hình như chàng chỉ muốn xông vào bóp cổ Zamiotov. Chàng khó chịu với cái nhìn và sự im lặng của hắn quá.
- Theo ý tôi thì hôm qua ông đã nói chuyện khá tỉnh táo, khôn ngoan nữa là khác, duy có điều ông quá cáu kỉnh - Zamiotov đáp xẵng.
- Hôm nay, - Porfiri chen vào, Nikodim Phomits có nói với tôi là tối hôm qua lúc đã khuya ông ta có gặp anh trong nhà người công chức vừa bị ngựa xéo.
- Đấy, cứ xét chuyện cái lão công chức ấy thì biết - Razumikhin nói tiếp - có phải là cậu đã hành động như một thằng điên ở nhà lão ấy không nào? Còn được bao nhiêu cậu đã đem cho mụ goá ấy hết để lo việc ma chay! Nếu muốn giúp thì cũng có thể cho mười lăm rúp, hay hai mươi rúp đi nữa, nhưng ít nhất cùng giữ lại lấy vài ba rúp chứ, đằng nầy lại vung hết cả hai mươi lăm rúp kia!
- Thế ngộ nhỡ tôi vừa tìm ra được một kho vàng thì sao? Có thể hôm qua tôi mới đâm ra hào hiệp như vậy. Đấy có ông Zamiotov biết rõ là tôi đã tìm ra được một kho vàng! Xin ông thứ lỗi, - chàng quay sang nói với Porfiri, môi run run, - chúng tôi đã làm mất của ông nữa tiếng đồng hồ vì những chuyện không đâu. Chắc chúng tôi làm ông bực mình lắm?
- Ấy không, ngược lại, ngược lại! Giá anh biết anh đã làm cho tôi quan tâm đến nhường nào! Tôi rất thích được nhìn anh, nghe anh nói, và xin thú thật là tôi rất hài lòng khi thấy anh rốt cục đã có nhã ý đến đây.
- Nhưng phải cho chúng tớ uống nước với chứ? Khô cả cố rồi! - Razumikhin kêu lên.
- Một ý rất hay? Chắc là các vị cùng vui lòng cả. Nhưng trước khi dùng trà có nên làm một tý gì… có "chất" hơn chăng?
- Thôi, vù đi!
Porfiri Petrovich đi sai người đun trà.
Những nghĩ cứ quay cuồng trong đầu óc Raxkonikov. Chàng đang tức lộn ruột lên.
"Tệ nhất là chúng nó cũng chẳng buồn vờ vịt hay giữ lễ tí nào nừa? Nếu mày không hề biết tao thì làm thế nào mày lại nói chuyện về tao với Nikodim Phomits được? Thế nghĩa là bọn chúng cũng không thèm giấu giếm là chúng đang theo vết mình như một bầy chó. Thật là chúng nhổ toẹt vào mặt mình! - Raxkonikov run lên vì tức giận. - Thôi các người cứ đánh trực diện đi chứ đừng vờn ta như mèo vờn chuột nữa! Vì như thế là vô lễ Porfiri ạ, mà có lẽ ta sẽ không cho phép người làm như vậy" Ta sẽ đứng đây và sẽ nói toạc vào mặt các người tất cả sự thật rồi các người sẽ thấy ta khinh các người đến nhường nào! - Chàng mệt nhọc thở hổn hển - "Nhưng, ngộ nhỡ chẳng qua chỉ là một ảo giác của mình thì sao? Nếu đó chí là một ảo giác, nếu mình lẩm từ đầu chí cuối, nổi xung lên một cách khờ khạo, rồi không đóng nổi vai tuồng ti tiện của mình thì sao? Có thể tất cả những lời nói, những cử chỉ ấy đều không có chú ý. Lời lẽ của họ cũng bình thường cả thôi, nhưng cũng có một ẩn ý gì bên trong. Những câu như thế người ta có thể nói trong bất cứ trường hợp nào, nhưng dù sao cũng vẫn có một cái gì đây. Tại sao hắn lại nói "đằng mụ ấy"? Sao Zamiotov lại thêm là mình ăn nói "khôn ngoan"? Tại sao chúng lại nói cái giọng như vậy? Đúng… cái giọng. Razumikhin cũng ngồi đây, sao hắn lại không nghi ngờ gì cả? Cái thằng ngây ngô ấy thì chẳng bao giờ nghi ngờ gì tất! Thôi, mình lại lên cơn sốt rồi! Lúc nầy, có phải Porfiri nháy mắt với mình không nhỉ? Vô lý, chắc là không, sao hắn lại phải nháy mắt với mình kia chứ: Phải chăng chúng định trêu ngươi mình, đó chỉ là ảo giác, hay là chúng nó biết thật… Ngay cả Zamiotov cũng tỏ ra xấc láo. Có thực Zamiotov xấc không? Đêm qua chắc hắn đã nghĩ lại. Mình cùng đã biết, là hắn sẽ nghĩ lại!
Ở đây hắn như ở nhà vậy, thế mà là lần đầu hắn đến đây Porfiri không coi hắn như khách, lão ta ngồi quay lưng lại phía hắn. Chúng nó đã ăn ý với nhau rồi! Chúng nó ăn ý với nhau chính là vì mình. Chắc chắn hai đứa đã bàn về mình trước khi mình đến! Không hiểu chúng nó đã biết là mình có đến đằng ấy chưa? Sao cho nhanh lên chứ. Lúc mình nói là hôm qua mình chuồn đi tìm thuê một nơi ở khác, hắn đã bỏ qua không nêu lại… Mình chuồi câu chuyện thuê nhà vào như thế mà hay đấy, sau nầy sẽ có ích! "Trong cơn mê sảng kia chứ! Ha, ha, ha! Hắn biết tất cả những việc xảy ra tối hôm qua, nhưng lại không biết mẹ mình mới đến? Con mụ phù thuỷ ấy lại ghi ngày tháng bằng bút chì kia à? Chỉ láo, không bịp được ta đâu. Vì đó chưa phải là những sự kiện mà chỉ la một ảo giác thôi! Tang chứng đâu, thử đưa ra xem nào! Ngay cả cái chuyện đi tìm nhà cũng không phải là một tang chứng, mà là chuyện mê sảng; mình biết cách nói với chúng rồi. Chúng có biết chuyện mình đến xem phòng không nhỉ? Chưa biết được điều nầy thì chưa về. Mà sao mình lại đến đây làm gì nhỉ? Bây giờ mình lại nổi giận lên: đó mới thật là một sự kiện! Hà! Sao mình lại nóng nảy thế. Cũng có thể như vậy lại hay, mình đóng vai người ốm mà… Hắn đừng thăm dò mình… hắn sẽ đánh lạc hướng mình. Mà sao mình lại đến đây?" Tất cả những ý nghĩ đó thoảng qua óc chàng như một tia chớp.
Một lát sau Porfiri Petrovich trở lại: trông ông ta vui vẻ hẳn ra.
- Cậu nầy, sau bữa chén tối qua ở nhà cậu, đầu mình cứ… Mà cả người cũng rã ra… - Ông ta vừa cười vừa nói với Razumikhin, giọng khác hẳn.
- Sao? vui chứ? Hôm qua bàn đến điểm thú vị nhất thì mình lại bỏ các cậu. Sau ai thắng?
- Tất nhiên chẳng ai thắng cả. Chúng nó lại chẹo vào cái vấn đề muôn thuở, lại bốc lên mây.
- Rodia nầy, cậu thử tưởng tượng hôm qua họ xoay ra bàn vấn đề: có tội ác hay không? Tớ đã nói với cậu đấy: chúng nó tha hồ phun ra đủ các thứ chuyện nhảm.
- Có gì là lạ! Cũng là một vấn đề xã hội thông thường. - Raxkonikov nói, giọng lơ đãng.
- Vấn đề không phải đặt ra dưới hình thức ấy - Porfiri chêm vào.
- Ô đúng, không hẳn như vậy, - Razumikhin tán thành ngay, vả lại sôi nổi lên như thường lệ - Rodia ạ; cậu thử nghe và cho biết ý kiến nhé. Tớ muốn thế! Hôm qua tớ toát mồ hôi hột ra với họ trong khi đợi cậu tớ cũng có nói với họ là cậu sẽ đến. Thoạt tiên chúng tớ bàn đến quan điểm của bọn xã hội. Còn lạ gì quan điểm ấy nữa: cói ác là một sự phản kháng chống lại cơ cấu bất hợp lý của xã hội, chỉ thế thôi, không hơn không kém, và họ không chịu nhận nguyên nhân nào khác hết.
- Cậu chỉ bịa? - Porfiri Petrovich kêu lên, vẻ phấn khởi trông thấy; ông ta vừa nhìn Razumikhin vừa cười luôn miệng khiến anh lại càng bốc lên ngùn ngụt.
- Quyết không thừa nhận nguyên nhân nào khác - Razumikhin hăm hở nói tiếp - Tớ không bịa đâu? Tớ sẽ giở sách của họ cho cậu xem, theo họ thì tất cả đều là do tác hại của môi trường cả, không có gì khác. Câu nói đầu miệng của họ đấy. Và từ đây suy thẳng ra là nếu tổ chức xã hội cho hợp lý thì mọi thứ tội ác đều sẽ biến đi ngay tức khắc, vì không còn có gì để mà phản kháng nữa, và chỉ trong nháy mắt mọi người đều sẽ trở nên lương thiện. Họ không đếm xỉa gì đến nhân tính cả, nhân tính bị gạt bỏ, nhân tính không đáng kể. Theo họ thì không phải là nhân loại cứ phát triển theo một quy luật lịch sử sinh động rồi cuối cùng sẽ tiến đến tự cái biến thành một xã hội hợp lý; mà ngược lại là một chế độ xã hội, phọt ra từ một bộ óc toán học nào đó, sẽ tức thì tổ chức toàn thể nhân loại lại và trong nháy mắt sẽ làm cho nhân loại công bằng và hoàn thiện, không cần đợi đến sự phát triển của sự sống, bất chấp hết thảy mọi con đường phát triển lịch sử sinh động. Chính vì thế mà họ ghét lịch sử một cách bản năng. Họ nói "lịch sử chỉ rặt những chuyện quái gở và ngu xuẩn" và mọi chuyện chẳng qua đều do ngu xuẩn mà ra cả. Cũng vì vậy họ không ưa cái quá trình sinh động của cuộc sống. Không cần đến tâm hồn sống. Tâm hồn sống đòi hỏi sự sống: nó không phục tùng máy móc, nó có tính đa nghi, nó vốn thoái bộ. Còn thứ tâm hồn của họ thì tuy có mùi xác chết, có thể làm bằng cao su cũng được, nhưng ngược lại nó không có sức sống, không có ý chí, nó ngoan ngoãn, nó không nổi loạn? Và kết quả là họ quy tất cả vào mỗi một việc: xếp gạch, chia dây chia phòng trong cái phalanstère(l). Phalanstère đựng xong xuôi đấy nhưng nhân tíỉnh của các ông thì lại chưa được chuẩn bị, mà nhân tính thì vốn muốn sống, nó chưa hoàn thành cả cái quá trình sinh tử, nó cho rằng bây giờ mà vào nghĩa địa thì hãy còn sớm. Không thể nào chỉ dùng luận lý để vượt qua nhân tính được. Phép luận lý chỉ mới đề ra có ba trường hợp mà thật ra thì có đến hàng triệu! Vất bỏ hết cả mấy triệu trường hợp ấy đi để quy tất cả lại thành mỗi một vấn đề tiện nghi. Cách giải quyết thật đến dễ dàng. Rõ ràng một cách hấp dẫn đấy chứ: chẳng cần gì phải suy nghĩ nữa! Cái chính là đừng suy nghĩ. Mọi bí ẩn của cuộc sống có thể tóm tắt trên hai tờ giấy in!
- Ấy đấy lại bốc lên rồi đấy! Lại dong kèn dong trống lên rồi! Phải giữ lấy tay hắn, - Porfiri cười đoạn quay sang Raxkonikov nói tiếp. - Anh thử tưởng tượng mà xem, hôm qua cũng thế đấy: một bản hợp xưởng sáu giọng trong một căn buồng; mà trước đó lại còn chuốc rượu Punch nữa, anh hình dung được chứ? Không, ông bạn tôi ơi, ông nói sai rồi: "môi trường" có ý nghĩa rất quan trọng trong các vụ án mạng: tôi sẽ chứng minh cho cậu thấy như vậy.
- Tớ cũng biết là nó quan trọng, nhưng cậu thử nói tớ nghe xem: một lão bốn mươi tuổi hiếp một đứa bé mười tuổi, có phải là môi trường đã xúi bẩy lão ta chăng?
- Hiểu một cách chặt chẽ thì cũng có thể nói được là môi trường - Porfiri đáp, vẻ quan trọng lạ thường - Khi một đứa bé rất có thể giải thích bằng ảnh hưởng của môi trường có thể lắm chứ?
Razumikhin cơ hồ như sắp sửa nỗi khùng lên.
- Được rồi - nếu cậu muốn: tớ sẽ chứng minh cho cậu ngay lập tức - anh gầm lên - là sớ dĩ mi cậu bạc chi vì cái tháp chuông nhà thờ Ivan Đại đế cao ba mươi lăm xagien. Tớ sẽ tuần tự chứng minh một cách rõ ràng chính xác, lại có sắc thái tự do chủ nghĩa nữa cho mà xem. Tớ cam đoan như thế. Nào, cậu có cuộc tớ không nào?
- Sẵn sàng! Chúng ta thử nghe xem cậu ấy chứng minh thế nào?
- Cậu thì chỉ vờ vịt suốt, quỷ thật. - Razumikhin nhảy chồm lên vung tay tức giận - Nói với cậu cũng bằng thừa! Rodion nầy, cậu chưa biết hắn đấy thôi, chứ hắn nói thế là cố ý cả đấy. Hôm qua hắn cũng đứng về phe bọn kia để rồi chơi xỏ lại hết thảy bọn chúng. Mà hôm qua hắn nói mới ghê chứ! Còn bọn kia thì cứ nở mày nở mặt ra? Hắn có thể tiếp tục như thế hai tuần liền. Hồi năm ngoái, hắn tự dưng nói cả quyết là sẽ đi tu: suốt hai tháng hắn cứ vẫn một mực như thế. Gần đây hắn lại nảy ra cái ý làm cho chúng mình tin là hắn sắp cưới vợ, là hôn lễ đã chuấn bị xong xuôi. Hắn lại còn may cả quần áo mới nữa. Chúng mình chúc mừng hắn. Thế rồi chẳng có cóc khô gì hết, cô dâu cũng chẳng thấy đâu: chẳng qua chỉ là một ảo ảnh.
- Cậu lại nói sai rồi! Tôi may áo từ trước kia, rồi nhân có bộ quần áo đó, tôi mới nảy ra ý nghĩ lòe các cậu.
- Thật à? Ông hay lòe đến thế cơ à? - Raxkonikov lơ đãng hỏi.
- Thế anh không tin? Được rồi, tôi cũng sẽ lòe cả anh nữa cho mà xem, ha, ha, ha! Không khoan hẵng, để tôi nói hết sự thật với anh đã. Nhân những vấn đề về án mạng, về môi trường, về những con bé ấy, tôi lại nhớ - vả lại bao giờ tôi cũng quan tâm - đến bài báo của anh nhan đề là "Bàn về tột ác"… hay một đầu đề gì tương tự, tôi cũng không nhớ rõ nữa. Cách đây hai tháng tôi đã được hưởng cái thú đọc bài ấy trong tờ "Ngôn luận Thời báo".
- Bài của tôi? Trong "Ngôn luận Thời báo" - Raxkonikov sửng sốt hỏi. - Phải rồi, cách đây sáu tháng khi thôi học, tôi có viết một bài báo bàn về một quyển sách, nhưng tôi gửi đến tờ "Ngôn luận Tuần báo" chứ không phải tờ Ngôn luận Thời báo.
- Thế mà nó lại được đăng trên tờ Ngôn luận Thời báo đấy.
- Thôi phải rồi. Tờ "Ngôn luận Tuần báo" đình bản nên người ta không in được nữa.
- Đúng thế đấy, sau khi đình báo thì tờ "Ngôn luận Tuần báo" hợp nhất với tờ "Ngôn luận Thời báo" nên cách đây hai tháng bài của anh mới thấy đăng trên tờ nầy. Anh không biết sao?
Quả thật Raxkonikov không hề hay biết gì cả.
- Nầy, thế anh phải đòi người ta trả tiền nhuận bút đi chứ? Tính anh kỳ thật? Anh sống cô độc đến nỗi những việc dính dáng mật thiết đến bản thân anh, anh cũng không biết nữa, kể cũng lạ đấy.
- Hoan hô Rodia. Mình cũng không biết đấy nhá! - Razumikhin kêu lên - Ngay hôm nay, mình phải chạy ngay đến phòng đọc tìm một số mới được? Cách đây hai tháng phải không? Ngày nào? Không hề gì, mình sẽ tìm thấy! Hay đấy nhá! Thế mà cậu ta không hề hở ra!
- Nhưng sao ông lại biết bài báo đó của tôi? Tôi ký tắt kia mà?
- Chỉ là một sự tình cờ, mà cũng chỉ mới được mấy hôm nay thôi, do hỏi thăm ông chủ bút có quen… bài báo của anh làm tôi rất chú ý.
- Tôi nhớ là trong bài đó tôi phân tích tâm trạng của một kẻ sát nhân trong suốt quá trình hành động của hắn.
- Đúng thế, anh lại nhấn mạnh rằng hành động của kẻ sát nhân bao giờ cũng đi đối với một trạng thái bệnh tật. Rất độc đáo… rất độc đáo, nhưng thực ra không phải phần đó trong bài báo làm tôi chú ý, mà chính là cái ý anh chen vào cuối bài ấy, nhưng tiếc thay, ý ấy anh chi nói lướt qua thôi và diễn đạt cũng chưa rõ ràng lắm! Tóm lại, nếu anh còn nhớ thì trong đó có ám chỉ rằng trên thế gian nầy có những người có thể… hay nói cho đúng hơn không phải là có thể mà có toàn quyền làm đủ mọi việc ngang ngược, phạm đủ mọi tội ác, và với họ thì luật pháp không đụng chạm đến được.
Lối xuyên tạc vũ đoán và gượng ép đó khiến Raxkonikov mỉm cười.
- Thế nào? Sao? Có quyền phạm tội a? Thế chứ không phải là do "tác hại của môi trường" nữa à? - Razumikhin chen vào, có phần hoảng hốt.
- Không, không, không hẳn là như vậy - Porfiri Petrovich tiếp. - Trong bài của anh ấy, vấn đề là ở chỗ loài người chia ra làm hai loại, loại "bình thường" và loại "phi thường". Loại bình thường thì phải sống phục tòng và không có quyền vượt ra ngoài luật pháp bởi vì, ấy đấy, vì họ là những người bình thường, còn loại phi thường thì có quyền phạm mọi tội ác và có thể vi phạm luật pháp đủ cách, chính bởi vì họ là những con người phi thường: Không biết ý anh có phải như vậy không?
- Thế nào? Không thể như vậy được! - Razumikhin ngơ ngác lẩm bẩm.
Raxkonikov lại cười nhạt. Mới nghe chàng đã biết ngay hắn muốn nói gì và muốn đẩy chàng đến đâu; chàng nhớ lại bài báo chàng đã viết. Chàng quyết nhận lời thách thức.
- Không hẳn như vậy, - chàng đáp một cách giản dị và khiêm tốn. - Tuy vậy tôi cũng xin nhận là ông đã trình bày gần trung thành ý nghĩ của tôi, thậm chí có thể nói hoàn toàn trung thành nữa là đằng khác (chàng dường như lấy làm thích thú khi thừa nhận là "hoàn toàn trung thành"). Chỉ có điểm khác biệt là tôi không hề nhấn mạnh rằng những người phi thường thì nhất thiế phải làm đủ mọi việc ngang ngược như ông nói. Tôi lại còn nghĩ rằng sở kiểm duyệt không đời nào cho in một bài báo như vậy. Tôi chỉ muốn nêu lên rằng con người "phi thường" có quyền, tôi không nói là cái quyền pháp lý mà chỉ là bản thân họ có quyền tự cho phép lương tâm mình vượt qua một số trở lực nào đấy, và chỉ riêng trong trường hợp nào việc thực hiện ý tưởng của họ đòi hỏi thôi (đôi khi ý tưởng đó có thể có một tác dụng cứu vớt nhân loại). Ông nói là bài báo của tôi không được rõ ràng, tôi sẵn sàng giải thích cho ông hiểu trong chừng mực có thể. Có lẽ tôi không nhầm khi nghĩ rằng đó chính là ý thích của ông: vâng, tôi xin chiều ý ông. Theo tôi, nếu vì một trường hợp nào đó mà những phát minh của Kepler, Newton không thể truyền bá được trong nhân loại bằng cách nào khác hơn là hy sinh tính mạng của một người, mười người, trăm người hoặc nhiều hơn thế vì họ ngăn trở sự phát minh đó hoặc làm thành một chướng ngại trên con đường thực hiện, thì Newton sẽ có quyền, và hơn nữa còn có bổn phận… loại trừ cái số mười người, trăm người ấy đi để truyền bá những phát minh của mình ra cho toàn thể nhân loại. Nói như thế không có nghĩa là Newton có quyền tuỳ tiện muốn giết ai thì giết hoặc hằng ngày ra chợ ăn cắp. Hơn nữa, tôi nhớ là đã có phát triển trong bài báo của tôi một ý kiến nói rằng mọi người… đây là nói những người chỉ đạo, những người cầm cân nảy mực cho nhân loại, từ những nhân vật cổ xưa nhất cho đến loại Licurg, Solon, Mohammet, Napoleon và những người sau đó nữa, muôn người như một, không trừ ai, đều là những kẻ tội phạm tất, vì chỉ nguyên cái việc ban hành ra một đạo luật mới tức là đã phải huỷ bỏ đạo luật cũ của tổ tiên để lại và được xã hội coi như thiêng liêng; và dĩ nhiên, họ sẽ không chùn bước dù có phải đổ máu, nếu như máu đó (đôi khi hoàn toàn vô tội, và anh dũng đổ ra để bảo vệ cho đạo luật cũ kia) có thể giúp họ hoàn thành ý đồ. Còn có một điều đáng chú ý là phần đông những vị ân nhân của loài người, những kẻ cầm cân nẩy mực cho xã hội đều là những kẻ khát máu ghê gớm. Tóm lại, tôi kết luận rằng tất cả, không riêng gì những bậc vĩ nhân, mà ngay cả những người chỉ vượt lên trên mức bình thường một tí thôi cũng vậy, nghĩa là tất cả những người có thể nói lên một điều gì mới mới, thì do bản chất của mình, họ đều nhất thiết phải là những kẻ tội phạm, tất nhiên là nhiều hay ít còn tuỳ. Nếu không, họ sẽ khó lòng thoát ra khỏi vết bánh xe cũ, mà nằm yên trong vết cũ thì cũng do bản chất, họ sẽ không thể nào cam tâm được và theo tôi họ còn có bổn phận không được cam tâm nằm yên như thế. Tóm lại. Ông cũng thấy những điều đó không có gì là mới mẻ cả. Nó đã được in ra, được đọc hàng nghìn lần rồi. Còn về chuyện phân ra thành loại người bình thường và phi thường thì tôi cũng thừa nhận là hơi võ đoán, song tôi không hề vạch ra những con số chính xác. Tôi chỉ tin chắc vào ý chủ đạo của tôi thôi. Nội dung của cái ý chủ đạo đó như sau: theo một quy luật của tạo hoá thì loài người, nói chung, chia ra làm hai loại: loại hạ đẳng (gồm những người bình thường) chỉ là những vật liệu dùng để sản sinh ra những kẻ như họ, và loại những người chân chính, những người có thiên bẩm hoặc có tài năng nói lên được một ý mới trong môi trường của mình. Tất nhiên còn có thể chia nhỏ mãi ra nữa, đến vô cùng, song những nét khác biệt của hai loại đó thì khá rõ ràng dứt khoát loại đầu, nghĩa là đám vật liệu nói chung, gồm những người bản tính bảo thủ, yên lành, sống trong sự phục tùng và vốn thích phục tùng. Theo tôi thì họ có bổn phận phải phục tùng vì công dụng của họ là như vậy, và đối với họ việc đó không có gì là nhục nhã cả. Còn đối với loại thứ hai thì họ đều vượt qua pháp luật, họ đều là những kẻ phá hoại hay có khuynh hướng phá hoại, tuỳ theo khả năng. Tội ác của những con người đó dĩ nhiên là tương đối và muốn hình muốn vẻ: với những chủ trương rất khác nhau, phần lớn những người nầy đều đòi phải huỷ bỏ cái hiện tại vì một cái gì tốt đẹp hơn. Nhưng nếu để thực hiện ý tưởng của mình, họ phải dẫm lên trên một xác người, băng qua một con sông máu, thì theo tôi lương tâm họ cũng có quyền cho phép họ làm như thế, song cũng còn phải xét cái ý tưởng kia, xét quy mô của nó nữa, - xin ông chú ý cho điểm nầy. Trong bài báo ấy tôi nói đến quyền phạm tội ác chỉ là theo nghĩa đó (ông nhớ cho rằng cuộc tranh luận của chúng ta xuất phát từ một vấn đề luật pháp đấy). Vả chăng, cũng không có gì đáng phải lo ngại cho lắm: hầu như không bao giờ đám đông thừa nhận cái quyền đó của họ cả, mà lại hành hình họ, treo cổ họ lên (tuỳ theo mức độ) và như vậy là đám đông đã thực hiện đúng cái sứ mệnh bảo thủ của mình, mặc dầu trong những thế hệ sau chính cái đám đông ấy lại sẽ đặt những người bị hành hình đó lên bệ thờ mà hương khói (ít nhiều tuỳ theo mức độ). Loại đầu bao giờ cũng là chủ nhân của hiện tại; loại sau là chủ nhân của tương lai. Loại đầu bảo tồn thế giới và làm cho thế giới tăng thêm về số lượng; loại thứ hai thúc đẩy thế giới và dẫn dắt nó đến mục đích. Mà loại nầy cũng như loại kia đều có đầy đủ quyền tồn tại như nhau. Tóm lại, theo tôi thì tất cả đều có quyền ngang nhau và vive la guerre éternelle (2) tức là cho đến Tân Jerusalem (3) dĩ nhiên!
- Thế anh cũng tin Tân Jerusalem à?
- Tin, - Raxkonikov đáp, giọng rắn rỏi - mặt vẫn cúi gằm xuống đất, vẫn dán mắt vào một điểm đã chọn trên tấm thảm như suốt trong thiên trường ngôn của chàng.
- Thế… anh có tin Thượng đế không? Xin anh bỏ qua cho thói tò mò của tôi.
- Tin! - Raxkonikov ngẩng mặt lên nhìn Porfiri nhắc lại.
- Thế anh có tin sự tích Lazaro phục sinh (4) không?
- Tin, nhưng sao ông lại hỏi như vậy?
- Anh tin theo nghĩa đen chứ?
- Theo nghĩa đen.
- Thế cơ đấy… Tôi cũng chỉ vì tò mò mà hỏi thế thôi. Xin lỗi anh. Nhưng, xin phép anh, ta lại trơ về chuyện ban nãy. Không phải bao giờ người ta cũng hành hình họ dảu; cũng có người…
- Đã chiến thắng trong sinh thời họ? À đúng, cũng có người đã chiến thắng trong sinh thời họ, thế và…
- Chính những người đó lại bắt tay vào hành hình kẻ khác?
- Nếu cần, mà ông cũng biết đấy đa số đều làm như vậy. Nói chung, nhận xét của ông rất tinh tế.
- Cảm ơn anh. Nhưng nầy, anh cho biết là làm thế nào để phân biệt được những con người phi thường ấy với những người bình thường? Mới sinh ra họ đã có một vài dấu hiệu gì hẳn? Tôi muốn nói là trong trường hợp nầy cần phải có một tiêu chuẩn chính xác hơn, hay nói cách khác là phải có một dấu hỉệu bè ngoài rõ rệt hơn: anh bỏ qua cho những thắc mắc tự nhiên ở một con người thực tế và trung tín nhưng trong trường hợp nầy có lẽ cần phải có một cách trang phục đặc biệt chẳng hạn, hay có một dấu vết gì? Vì chắc anh cũng nhận rằng nếu xảy ra một sự nhầm lẫn và một người nào đó thuộc về một loại nầy lại tưởng rằng mình thuộc loại kia rồi quay ra "loại trừ mọi trở lực", như anh vừa nói một cách rất mình xác đó, thì…
- À! trường hợp ấy cũng thường xảy ra luôn. Lời nhận xét nầy lại còn tinh tế hơn lần trước nữa.
- Xin cảm ơn anh
- Không dám. Song cũng xin ông lưu ý là sự nhầm lẫn chỉ có thể có ở trong loại người đầu thôi, nghĩa là "những người bình thường" theo như cách gọi có lẽ cũng không hay ho lắm của tôi. Tuy bẩm sinh họ vẫn có khuynh hướng phục tùng, song vì một sự trở trêu nào đó của tạo hoá mà ngay cả con bò cũng không thoát khỏi, có nhiều người trong bọn họ thích tự cho mình là những kẻ tiên phong, những kẻ "phá hoại" rồi sa vào một "ý mới", mà là một cách hoàn toàn thành thật. Đồng thời họ lại thường không hay chú ý đến những người thực sự mới, thậm chí lại còn khinh miệt những người nầy nữa coi người ta như những kẻ lạc hậu, tư tưởng thấp hèn. Song, theo tôi, đây không thể có một nguy cơ gì nghiêm trọng cả, và ông cũng không có gì đáng phải bận tâm, vì họ không bao giờ đi xa được. Để trị cái thói ngông cuồng ấy, dĩ nhiên cũng nên quất roi vào họ để nhắc nhở cho họ biết thân biết phận nhưng không nên làm gì hơn thế, vả chăng việc nầy cũng chẳng cần ai thi hành cả; tự họ quất vào họ thôi vì họ là những kẻ rất mực luân thường đạo lý, có khi thì làm hộ cho nhau, có kẻ lại tự tay mình quất vào mình… Ngoài ra, họ lại còn quy định ra những hình thức sám hối công khai để tự trừng trị nữa: kết quả thật là đẹp đẽ và bổ ích. Tóm lại ông không có lý do gì để phải lo lắng bận tâm cả… Có một quy luật như thế đấy.
- Ấy ít nhất về mặt ấy anh cũng đã làm cho tôi yên tâm được chút ít, nhưng lại thế nầy mới khó chứ: xin anh cho biết là những kẻ có cái quyền ám hại kẻ khác, những người phi thường ấy, có nhiều không? Lẽ tất nhiên tôi sẵn sàng nghiêng mình trước họ, nhưng dù sao anh cũng phải nhận là nếu họ quá nhiều thì cũng sởn gáy thật đấy, nhỉ?
- Ồ điều nầy nữa cũng xin ông đừng lo, - Raxkonikov nói tiếp, giọng vẫn như cũ - Nói chung, những người có một ý tưởng mới hoặc chỉ có khả năng nói ra một điều gì mới thôi, cũng ít lắm, ít một cách kỳ lạ nữa là khác. Chỉ biết rõ là cách phân phối người thành từng loạt và tiểu loại chắc chắn đã được một quy luật nào đó của tạo hoá quy định một cách chính xác và công bằng. Cái quy luật đó thì dĩ nhiên hiện nay chúng ta chưa biết, song tôi tin là nó tồn tại và sau nầy rồi có lẽ chúng ta sẽ biết. Cái đám đông to lớn, cái mở vật hệu ấy tồn tại trên mặt đất rốt cục cũng chỉ để rồi qua một quá trình bí ẩn nào đó, qua sự giao hợp phức tạp giữa các nói giống, chủng tộc, cố sức sản sinh ra cho được một con người, trong hàng nghìn người khác, ít nhiều có tính dộc lập. Những người có một trình độ độc lập cao hơn thì trong một vạn người mới có được một (đây tôi nói áng chừng thế thôi, cho dễ hiểu). Cao hơn nữa thì trong mười vạn chỉ có một. Và phải đến hàng triệu người mới có được một bậc thiên tài. Còn những vĩ nhân, những người nắm giữ vận mệnh của nhân loại thì có lẽ còn có một người xuất hiện sau khi hàng nghìn triệu người đã bước vào cuộc sống. Tóm lại cũng chưa bao giờ tôi ghé mắt vào cái lò đúc ấy của tạo hoá để xem quá trình nó diễn biến ra sao cả. Song chắc chắn là có và phải có một quy luật nhất định; ở đây không phải có sự ngẫu nhiên được.
- Nầy, sao, cả hai người đùa đấy chứ? - cuối cùng Razumikhin phải kêu lên - Hai người đang xỏ nhau hay sao đấy? Ngồi mà chế ngạo nhau có lạ không chứ? Rodia, cậu nói chuyện đứng đắn đấy chứ?
Raxkonikov lặng lẽ ngẩng bộ mặt nhợt nhạt và gần như buồn rầu lên nhìn bạn, không đáp. Bên cạnh bộ mặt trầm lặng và đau khổ đó, cái vẻ cay độc trâng tráo, lì lợm trêu chọc và vô lễ của Porfiri lại càng có vẻ lạ lùng đối với Razumikhin.
- Nầy cậu, nếu quả thật các cậu nói chuyện đứng đắn thì… Tất nhiên cậu có lý khi nói rằng vấn đề đó không có gì mới và cũng giống những điều mà chúng ta đã đọc, đã nghe hàng nghìn lần rồi, song cái điều thật sự độc đáo ở trong đó, cái ý mà quả thật là của riêng cậu ấy, một ý nghĩ khiến mình phải kinh hãi là cậu chủ trương có thể giet người theo lương tâm, mà, xin lỗi cậu, lại chủ trương một cách cuồng tín như vậy nữa chứ! Cho nên đó mới là cái chủ đạo trong bài báo của cậu. Theo mình, dung thứ kiểu giết người theo lương tâm lại càng kinh khủng hơn là một sự dung thứ chính thức, hợp pháp nữa.
- Rất đúng, thế lại càng kỉnh khủng hơn ấy, - Porfiri đệm theo.
- Không, cậu đi quá xa rồi đấy? Hắn là có một sự nhầm lẫn gì đây! Mình sẽ đọc bài báo… cậu đi quá xa rồi! Cậu không thể nghĩ như vậy được… Mình sẽ đọc.
- Trong bài báo không hề có những ý đó, mà chỉ có những ám dụ thôi! - Raxkonikov nói.
- Đúng, đúng - Porfiri tiếp ngay - bây giờ tôi đã gần thấy rõ được cách anh nhìn nhận tội ác nhưng… Xin anh bỏ qua cho cái tính dai dẳng của tôi (tôi làm phiền anh nhiều quá, chính tôi cũng thấy ngượng) đấy anh xem, lúc nãy anh có nói đi nói lại với tôi là cứ yên tâm về sự lẫn lộn có thể xảy ra giữa hai loại người, song… tuy vậy cũng có một số trường hợp thực tế làm tôi lo lắng. Chẳng hạn, ví thứ có một người đàn ông nào đó, một người thanh niên tự do cho mình là một Licurg hay một Mohammet… tương lai, cố nhiên, rồi anh ta bèn loại trừ tất cả những trở lực ngăn cách anh ta với cái tương lai đó. Anh ta nghĩ là phải thực hiện một cuộc viễn chinh, mà muốn viễn chinh thì phải có tiền… Thế là anh ta bắt đầu kiếm tiền cho cuộc viễn chinh ấy… anh biết chứ?
Zamiotov ngồi trong góc bỗng phì cười. Raxkonikov cũng không hề đưa mắt về phía hắn. Chàng đáp, giọng bình thản:
- Tôi cũng phải thừa nhận rằng những trường hợp như thế quả phải xảy ra. Và nhất là chỉ có những kẻ ngu xuẩn và hợm mình mới mắc vào lưỡi câu ấy; nhất là thanh niên.
- Đấy anh thấy đấy. Thế thì sao?
- Thì thế thôi - Raxkonikov cười khẩy - Không phải là lỗi tại tôi. Sự thể nó như vậy, và mãi mãi sẽ như vậy. Đây như cậu nầy (chàng hất hàm trỏ Razumikhin) vừa nói là tôi dung thứ việc giết người. Vậy thì sao? Chẳng phải xã hội đã được đảm bảo quá đầy đủ với những án đày, những nhà tù, những quan toà, những trại khổ sai rồi hay sao? Lo lắng mà làm gì? Các anh cứ tìm thủ phạm đi thôi!
- Và nếu chúng tôi bắt được hắn?
- Thì hắn phải đền tội.
- Dù sao anh cũng thật là logic. Nhưng còn lương tâm hắn thì sao?
- Cái đó thì có can hệ gì đến ông?
- Là tôi hỏi thế, cũng vì lòng nhân đạo thôi!
- Người mà có lương tâm thì sẽ đau khổ nếu nhận thức được lỗi lầm. Đó chính là hình phạt rồi, không nói chi đến ngục tù nữa!
- Nhưng mà, những bậc thiên tài - Razumikhin hỏi, mày cau lại, - những kẻ được quyền giết người ấy, chắc họ phải không đau khổ tí nào hết, dù đã làm đổ máu?
- Tại sao lại có chữ phải? Ở đây không có sự chuẩn y cũng không có sự cấm đoán nào cả. Ai thương hại nạn nhân thì người ấy đau khổ. Nỗi thống khổ bao giờ cũng là hệ quả tất yếu của một lương tâm rộng lớn và một tâm hồn thâm thuỷ. Những con người thật là vĩ đại, chắc phải chịu một nỗi buồn sâu rộng trên cõi đời nầy, - chàng bỗng nói thêm, giọng trầm ngâm không ăn khớp với phong thái của câu chuyện.
Chàng ngước mắt nhìn mọi người, vẻ tư lự, và cầm lấy mũ. Chàng quá bình thản so với thái độ của chàng lúc nãy khi bước vào, và chàng cũng cảm thấy như vây. Mọi người đều đứng dậy.
- Đây, dù anh có sỉ vả tôi, anh có giận tôi hay không, - Porfiri lại nói như để kết luận - thì quả tình tôi cũng không thể cầm lòng mà - xin anh thứ lỗi - hỏi thêm anh một câu nhỏ nữa (quà thật tôi quấy rầy anh quá) tôi chỉ muốn trao đổi qua một ý nhỏ, chẳng qua chỉ để cho khỏi quên thôi.
- Được, ông cứ nói cái ý nhỏ ấy ra - Raxkonikov đáp, gương mặt nghiêm nghị và nhợt nhạt, đứng trước mặt Porfiri chờ đợi.
- Thế nầy… Thật quả tôi không biết có thể nào cho rõ. cái ý nầy nó cũng quá ư kỳ quặc… một ý nghĩ có tính chất tâm lý học… Thế nầy, khi anh thảo ra bài báo, không thể nào, thì hì… anh lại không tự xem mình là ấy, dù chỉ chút đỉnh thôi, xem mình như một con người phi thường và đang nói lên một ý mới theo cái nghĩa anh hiểu… Có phải thế không nào?
- Rất có thể - Raxkonikov đáp, giọng khinh bỉ. Razumikhin rậm rựt như muốn nói điều gì.
- Đã thế thì phải chăng chính anh có thể… chẳng hạn để giải quyết một số thất bại, khó khăn trong cuộc sống vật chất hoặc để góp phần thúc đẩy bước tiến của toàn thể nhân loại - anh có thể quyết định vượt qua trở lực? Giết người, lấy của chẳng hạn?
Đoạn, hình như Porfiri lại bỗng nheo mắt trái và cười thầm, hệt như lúc nãy.
- Nếu tôi đã vượt qua trở lực tất nhiên tôi sẽ không nói với ông! - Raxkonikov đáp, với một vẻ khinh miệt đầy ý ngạo nghễ và khiêu khích.
- Không phải đâu, tôi chú ý như vậy chỉ để tìm hiểu bài báo của anh rõ hơn về phương diện văn học thôi!
"Hừ, thật là lộ liễu và trâng tráo!" - Raxkonikov kinh tởm nghĩ thầm.
- Xin ông lưu ý cho - chàng xẵng giọng đáp - rằng tôi không tưởng tượng mình là Mohammet hay Napoleon… cũng không phải là một nhân vật nào ở cỡ đó cả; cho nên, tôi không thể trả lời ông một cách thỏa đáng là tôi sẽ hành động ra sao nếu ở vào địa vị họ.
- Thôi đi, ở nước Nga chúng ta thì hiện nay ai mà không tự cho mình là Napoleon? - Porfiri bỗng nói với một giọng thân mật khủng khiếp. Lần nầy ngay trong giọng nói của ông ta cũng có một cái gì đặc biệt rõ ràng.
- Không phải là tuần vừa rồi, một Napoleon tương lai đã khử mụ Aliona Ivanovna nhà ta đó sao? - Zamiotov từ trong góc ném ra một câu.
Raxkonikov lặng thinh đưa mắt chăm chú và rắn rỏi nhìn Porfiri. Razumikhin sa sầm mặt xuống. Từ nãy anh đã bắt đầu nghĩ là có một vấn đề gì đây, anh quay mặt giận dữ nhìn quanh. Một phút im lặng nặng nề trôi qua. Raxkonikov quay gót ra về.
- Anh đã đi đấy à! - Porfiri ân cần nói và chìa tay ra, vẻ cực kỳ thân mật. - Rất sung sướng, rất sung sướng được làm quen với anh. Còn về yêu cầu của anh, anh cứ yên chí. Anh cứ viết đại ý như tôi nói. Hay tốt hơn là anh tự đến đằng chỗ tôi làm việc vậy… một ngày nào đó, mai chẳng hạn. Mười một giờ có thể tôi cũng sẽ đến đấy, ta sẽ thu xếp mọi việc và sẽ nói chuyện… Anh lại là một trong những người cuối cùng đến đằng ấy có thể anh sẽ nói cho chúng tôi biết một điều gì chăng. - Ông ta nói tiếp với một vẻ hết sức chất phác.
- Ông muốn chính thức hoi cung tôi theo đúng thủ tục hẳn? - Raxkonikov xẵng giọng hỏi.
- Để làm gì mới được chứ? Lúc nầy thì hoàn toàn chưa cần thiết. Anh không hiểu tôi. Anh thấy đấy, tôi không bỏ lỡ một cơ hội nào và tôi đã nói chuyện với hết thảy những người có cầm đồ, tôi đã thu nhặt được một số bằng chứng ở một số người… Anh lại là người cuối cùng… à, thật là vừa đúng dịp, ông ta reo lên như chợt có điều gì mừng rỡ - tôi nhớ đúng dịp quá, khá thật! - Porfiri quay về phía Razumikhin: cậu có nhớ là cậu đã làm mình bở hơỉ tai với cái thằng Nikolai ấy không… ấy mình biết, chính mình cũng biết, - y quay về phía Raxkonikov, - chính mình cũng biết hắn vô tội, nhưng làm thế nào được? Ấy ngay đến Mitka mà tôi cũng phải làm phiền. Thế đấy. Chuyện tôi muốn hỏi anh chẳng qua chỉ có thể nầy: khi lên thang gác, xin lỗi anh: anh lên đấy khoảng gần tám giờ phải không nhỉ?
Phải - Raxkonikov đáp, đoạn hiểu ngay rằng đáng lẽ mình rất có thể không trả lời như vậy.
Thế khi lên cầu thang vào quâng gần tám giờ, hẳn là anh có thấy ở từng hai trong một căn phòng buồng cửa mở rộng, anh có nhớ không? Có hai người thợ, hay ít nhất anh cũng thấy một trong hai người chứ? Lúc ấy họ đang sơn, anh không chú ý ư? Điều nầy rất quan trọng đối với họ!
- Thợ sơn à? Không, không thấy - Raxkonikov thong thả đáp, tựa như đang lục tìm trong ký ức, trong khi bao nhiêu tinh lực trong người chàng đều căng thẳng lên, trong khi toàn thân chàng đau buốt đến lặng người đi cố đoán xem cái bẫy căng ở chỗ nào, nhỡ ra mình có chỗ nào hớ chăng? - Không, tôi không thấy họ, và tôi cũng không nhớ là có một căn buồng nào mở cửa. Nhưng ở tầng gác thứ tư (giờ thì chàng đã khám phá ra cái bẫy và hân hoan đắc thắng), tôi nhớ là có một công chức đang dọn nhà… trước mặt buồng bà Aliona Ivanovna… Tôi nhớ, cái nầy thì tôi nhớ rõ lắm… có mấy người lính khiêng một chiếc đi-văng, họ ép tôi vào tường… Nhưng mấy người thợ sơn thì không, tôi không nhớ là có họ ở đấy. Và đâu như không hề có một buồng nào mở cửa thì phải. Không, không có.
- Cậu giở cái trò gì thế? - Razumikhin chợt kêu lên, dường như vừa sực tỉnh và hiểu ra. - Nầy, thợ họ quét sơn đúng vào cái ngày xảy ra án mạng, còn cậu nầy đến cách đấy hai hôm kia mà. Cậu hỏi vớ vẫn cái gì thế?
- Chà! mình lại nhầm lẫn rồi! - Porfiri đập trán - Mẹ kiếp, câu chuyện nầy làm mình rối tinh cả óc lên! - Ông ta quay sang Raxkonikov nói tiếp như để xin lỗi. - Cái việc cần biết xem có ai thấy họ trong căn nhà vào quãng tám giờ không nó quan trọng đến nỗi tôi đâm ra tưởng tượng là anh cũng có thể nói cho chúng tôi biết… Tôi thật đến lẫn tất!
- Phải thận trọng hơn một tí chứ - Razumikhin mặt sa sầm xuống.
Mấy câu sau nầy nói ở phòng ngoài. Porfiri Petrovich đưa hai người ra tận cửa một cách hết sức nhà nhặn. Hai người bạn bước ra đường, vẻ mặt lầm lì, cau có, và mấy hước đầu, không ai nói với ai một câu.
Raxkonikov thở ra một tiếng rất dài.
Chú thích:(1) Chỗ ở công cộng của nhân dân (trong chương trình của những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp (1771-1837)
- Hừm! Đồ quỷ! - Anh gầm lên và vung tay một cái va ngay vào một chiếc ghế con trên đặt một cái cốc trà nhỏ đã uống cạn. Ghế và cốc rơi đánh xoảng một tiếng.
- Tại sao lại phá hoại bàn ghế thế, hở các vị, thiệt hại cho công quỹ đấy? - Porfiri Prtrovich vui vẻ kêu lên.
Màn kịch tiếp diễn như sau: Raxkonikov cười chán chê rồi, tay vẫn để quên trong tay chủ nhân, nhưng vẫn biết giữ mức vừa phải, chàng chờ dịp rút tay ra cho thật nhanh và thật tự nhiên. Razumikhin hết sức luống cuống với chiếc ghế đổ và cái cốc vỡ, ngẩn người ra nhìn mấy mánh cốc, vẻ mặt hầm hầm, đoạn nhổ toẹt một bãi nước bọt và quay phắt ra cửa sổ, đứng quay lưng về phía công chúng, mặt khó đăm đăm, nhìn bâng quơ ra ngoài cửa kính, chắc cũng chẳng trông thấy gì. Porfiri Petrovich cười, ông ta cùng muốn vui chung với khách, nhưng hiển nhiên còn đang chờ đợi người ta giải thích cho. Trong góc phòng, Zamiotov ngồi trên một chiếc ghế dựa. Hắn nhổm dậy khi thấy khách vào, và chờ đợi, môi nhoẻn một nụ cười, vẻ ngỡ ngàng và thậm chí hầu như ngờ vực nữa trước cái cảnh vừa diễn ra, riêng khi nhìn Raxkonikov thì hắn lại có vẻ bối rối nữa. Sự có mặt bất ngờ của Zamiotov khiến Raxkonikov ngạc nhiên và khó chịu.
"Lại thêm một điều cần phải suy xét?" - chàng nghĩ.
- Xin hai ông thứ lỗi. - Raxkonikov mở đầu, cố làm ra vẻ ngượng nghịu.
- Có gì đâu! Tôi rất, thích thú. Các anh đến chơi thật là vui vẻ. Sao, lại không thèm chào hỏi ai nữa kia à? - Porfiri Petrovich hất hàm trỏ Razumikhin nói tiếp.
- Quả tình tôi cũng không hiểu tại sao cậu ta lại tức giận tôi. Dọc dường, tôi chỉ nói là cậu ta giống Romco và và chứng minh cho cậu ta thấy, ngoài ra hình như không còn lý do nào khác.
- Rõ khỉ! - Razumikhin đáp, vẫn không ngoảnh lại - Thế thì chắc phải có những lý do rất nghiêm trọng cậu ấy mới có thể nổi giận lên như vậy vì mỗi một câu nói đùa cỏn con - Porfiri cười xoà.
- Chà, quan dự thẩm toà án đấy nhá! Thôi, ma quỷ bắt hết các cậu đi cho rảnh - Razumikhin cắt ngang và cũng bật cười theo, vẻ mặt vui hẳn lên tuồng như không có việc gì xảy ra cả. Anh đến cạnh Porfiri Petrovich.
- Thôi, đủ rồi! Toàn một lũ ngốc, vào việc thôi! Đây là bạn mình, Rodion Romanovich Raxkonikov, trước hết là vì nghe nói nhiều đến cậu nên muốn làm quen với cậu, sau nữa cùng có tí việc muốn nhờ đến cậu. Kìa, Zamiotov! Sao cậu lại ở đây? Thế hai người có quen nhau à? Từ bao giờ thế?
"Lại chuyện gì thế nầy nữa?" - Raxkonikov hoảng hốt nghĩ thầm.
Zamiotov như có vẻ ngượng nghịu, nhưng chỉ thoáng một chút thôi.
- Ấy chúng tôi mới quen nhau từ hôm qua, ở nhà cậu đấy hắn nói, giọng ung dung.
- Thế thì thật là Trời giữa tớ: tuần trước hắn cứ khẩn khoản mình tìm cách giới thiệu hắn với cậu, thế mà cũng chẳng cần gì kẻ nầy, các người cũng đã đánh hơi được nhau… Thuốc lá cậu đâu? Porfiri Petrovich ăn vận kiểu trong nhà: áo dài ngủ, đồ lót khá sạch, chân đi giầy vải vẹt gót. Đó là một người tuổi trạc ba mươi lăm, vóc dáng người hơi lùn, to béo và hơi có bụng nữa, râu ria cạo nhẵn, tóc cắt ngắn, đầu to tròn, gáy dô ra một cách kỳ quái. Khuôn mặt tuy tròn và béo phị, mũi hơi hếch, nước da vàng vọt song vẫn không thiếu vẻ hoạt bát và lại có phần hóm hỉnh nữa. Lẽ ra khuôn mặt ấy trông còn có vẻ thật thà là khác nếu không có cái thần sắc của cặp mắt sáng loáng như màu nước, ẩn dưới hàng mi bạc phếch luôn luôn hấp háy như muốn ra hiệu cho một người nào. Cái nhìn của cặp mắt đó tương phản lạ kỳ với toàn bộ con người trông như có dáng dấp đàn bà của ông ta và điểm cho nét mặt ông ta một vẻ nghiêm nghị hơn là người ta có thể tưởng khi mới nhác trông.
Vừa nghe nói ông khách có "tí việc" cần bàn với mình, Porfiri Petrovich lập tức mời khách ngồi lên ghế sofa, còn ông ta thì ngồi vào cuối ghế và chú mục nhìn Raxkonikov, chờ đợi chàng trình bày công việc, với cái vẻ quan tâm có dụng công và trang nghiêm quá mức khiến người ta phải lúng túng khó chịu, nhất là người chưa quen biết khi mới gặp lần đầu, và nhất là khi nghĩ rằng điều mình sắp nói ra lại không tương xứng với thái độ chăm chú trịnh trọng khác thường của ông. Nhưng Raxkonikov, qua mấy câu ngắn gọn và mạnh lạc, trình bày việc mình một cách rõ ràng, chính xác và thấy hài lòng với bản thân đến nỗi còn có đủ thì giờ quan sát, Porfiri khá ký. Porfiri Petrovich cũng nhìn khách không rời mắt trong suốt thời gian nói chuyện. Razumikhin ngồi bên kia bàn sốt ruột và háo hức theo dõi câu chuyện, mắt cứ luôn luôn chuyển từ người nầy sang người kia, chẳng chú ý mấy đến phép lịch sự.
"Thằng ngốc!" -Raxkonikov chửi thầm.
- Thế thì anh phải khai với sở cảnh sát. - Porfiri dùng một giọng đặc biệt sự vụ trả lời khách - Anh sẽ viết là vì được tin xảy ra sự kiện như thế - có nghĩa là vụ ám sát - nên cần báo cho viên dự thẩm phụ trách việc đó biết là có những vật nầy vật nọ thuộc quyền sở hữu của anh và anh muốn chuộc lại. Hoặc là thôi cũng chẳng cần rồi người ta sẽ viết cho anh.
- Nhưng phiền một nỗi là hiện nay? - Raxkonikov nói tiếp, cố làm ra vẻ thật ngượng nghịu: tôi cũng không sẵn tiền lắm, và ngay những đồ lặt vặt ấy, tôi cũng không thể… Ông ạ, bây giờ tôi chỉ muốn khai rằng những vật ấy là của tôi, rồi khi nào có tiền…
- Không hề gì - Porfiri Petrovich đáp, có vẻ dửng dưng đối với những lời giãi bày về tiền nong đó, - vả lại, nếu cần anh có thể viết thẳng cho tôi mấy chữ cũng theo kiểu như trên, đại ý: được biết thế nầy thế nọ, và kê khai những vật nầy vật kia là của tôi, yêu cầu.
- Thế viết trên giấy thường có được không? - Raxkonikov vội vã ngắt lời, một lần nữa tỏ ra quan tâm đến mặt tiền nong của công việc.
- Ồ, giấy gì ma chả được? - Và bỗng Porfiri Petrovich nhìn chàng với một vẻ giễu cợt ra mặt, nheo nheo đôi mắt tựa như muốn nháy chàng. Vả chăng, có thể là Raxkonikov tưởng tượng ra thế thôi, vì cái đó chỉ thoáng qua trong giây lát. Song ít nhất cũng phải có một chuyện gì đây. Raxkonikov cứ đinh ninh là ông ta đã nháy mắt với chàng, có trời biết tại sao. Hắn biết!" - Ý nghĩ đó vụt thoáng qua tâm trí chàng như một tia chớp.
- Xin ông thứ lỗi vì đã đến làm phiền ông vì những chuyện không đâu như thế! - chàng nói tiếp, hơi lúng túng. - Những vật ấy đáng giá cả thảy chỉ độ năm rúp, nhưng đối với tôi thì nó quý lắm, vì đó là những vật kỷ niệm của người thân, và xin thú thực là tôi rất lo sợ khi được tin…
- À, à, thế ra hôm qua khi nghe tớ nói với Zoximov là Porfiri đã tiến hành hỏi cung những người có cầm đồ, cậu đã giật nẩy mình lên là vì thế đấy - Razumikhin nói với một dụng ý lộ liễu.
Cái nầy thì thật quá thể. Raxkonikov không chịu được nữa, đưa đôi mắt đen sáng quắc lên giận dữ nhìn Razumikhin Nhưng chàng lại trấn tĩnh được ngay.
- Cậu muốn giễu tôi đấy hẳn? - Chàng nói với một vẻ tức giận giả vờ rất khéo - Tôi xin nhận rằng có lẽ tôi có lo lắng quá nhiều đến những vật mà dưới mắt cậu chỉ là những đồ bỏ đi; nhưng cũng không nên vì thế mà coi tôi là một thằng ích kỷ, một thằng tham lam, vì dưới mắt tôi những vật vô nghĩa đó rất có thể không phải là những đồ bỏ đi. Lúc nãy tôi đã nói với cậu là chiếc đồng hồ bạc chỉ đáng giá vài xu ấy là vật duy nhất của cha tôi còn để lại. Cứ tha hồ mà giễu tôi đi, nhưng kỳ tình mẹ tôi đã lên đây - chàng chợt quay sang nói với Porfiri - và nếu bà cụ biết - chàng lại vội quay về với Razumikhin và cố nói giọng run run, - nếu bà cụ biết chiếc đồng hồ ấy không còn nữa, tôi thề với cậu là bà cụ sẽ chết điếng đi. Ôi! đàn bà họ thật…
- Nhưng có phải thế đâu! Mình không hề có ý như thế. Ý mình trái hẳn lại! - Razumikhin khổ sở kêu lên.
"Thế có được không? Có tự nhiên không? Mình có cường điệu quá không? Raxkonikov lo âu tự hỏi - Sao mình lại nói "đàn bà"?
- Thế ra cụ nhà đã lên đây rồi? - Porfiri Petrovich hỏi, không rõ để làm gì.
- Vâng.
- Lúc nào?
- Chiều hôm qua.
Porfiri lặng thinh như suy tính điều gì.
- Những đồ vật của anh dù sao cũng không thể mất được, - hắn nói tiếp, giọng điềm tĩnh và lạnh lùng. - Mà tôi đợi anh ở đây cũng đã từ lâu.
Rồi, coỉ như khong có việc gì xảy ra, Porfiri sốt sắng trao cái gạt tàn thuốc lá cho Razumikhin, đang thẳng tay gạt tàn thuốc xuống thảm không chút thương tiếc. Raxkonikov giật nẩy mình, nhưng Porfiri dường như không nhìn chàng vì đang bận tâm với điếu thuốc lá của Razumikhin.
- Sao? Cậu đợi cậu ấy à? Thì ra là cậu biết cậu ấy có đồ cầm ở đằng ấy à? - Razumikhin kêu lên.
Porfiri Petrovich quay hẳn sang Raxkonikov nói.
- Cả hai thứ anh đem cầm đằng mụ ấy. - chiếc nhẫn và cái đồng hồ - đều được gói vào một mảnh giấy và tên anh được ghi rõ ràng bằng bút chì trên giấy gói, có cả ngày tháng nhận cầm.
- Sao ông nhớ kỹ thế? - Raxkonikov cười nhạt một cách vụng về, cố nhìn thẳng vào mắt ông ta, nhưng rồi không ghìm nổi và bỗng nói thêm: - Sở dĩ tôi nghĩ thế là vì có lẽ có nhiều khách cầm đồ lắm. Thành thử ông cũng khó lòng mà nhớ hết được. Thế nhưng đằng nầy, ông lại nhớ hết, mà rất rõ và và…
Ngốc thật! Kém lắm! Sao lại thêm câu ấy làm gì.
- Chả là hầu hết các khách cầm đồ đều đã đến gặp tôi, chỉ còn anh là người duy nhất chưa quá bộ đến đây - Porfiri đáp, trong giọng nói thoáng có một sắc thái giễu cợt khá rõ.
- Vừa rồi tôi hơi bị mệt.
Vâng, tôi cũng có nghe nói. Tôi lại nghe nói là anh còn có điều gì bối rối khó chịu nữa. Đấy bây giờ trông anh vẫn còn xanh lắm.
- Có xanh tí nào đâu, ngược tại tôi rất khỏe - Raxkonikov đột nhiên chuyển sang giọng cục cằn và giận dữ ngắt lời.
Cơn giận sôi sục lên trong người chàng, không tài nào nén được. "Cơn giận nầy sẽ phản mình mất - chàng chợt nghĩ "Sao họ lại cứ làm khổ mình như thế"
- "Tôi hơi bị mệt!" - Razumikhin kêu lên - Thật khéo nói. Mãi đến tận hôm qua cũng vẫn còn mê sảng đấy. Nầy Porfiri, cậu có tin được không, cậu ấy vừa mới tấp tểnh đứng dậy được, thế mà Zoximov với mình vừa mới quay lưng một cái là cậu ta mặc quần áo lặng lẽ chuồn đi; lang thang mãi tận đâu gần đến nửa đêm mới về, mà xin nhắc lại là đang mê sảng đấy nhé. Cậu có thể tưởng tượng được không? Một trường hợp đến kỳ quặc?
- Sao? Đang mê sảng à? Có thể như vậy được ư? - Porfiri lắc đầu với một cử chỉ trông như đàn bà.
- Chỉ nhảm? Ông đừng tin? Mà ông cũng có tin đâu - Raxkonikov buột mồm, không nén được cơn thịnh nộ. Nhưng Porfiri có vẻ như không nghe thấy những lời lẽ kỳ quặc đó.
- Nếu không mê sảng thì sao cậu lại có thể đi ra ngoài được? - Razumikhin bỗng nóng mặt lên đáp. - Tại sao cậu lại đi? Đi làm cái gì? Mà tại sao lại len lén như thế? Nào lúc ấy trí óc cậu liệu có còn minh mẫn không? Bây giờ cậu đã khỏi, tớ có thể nói toạc ra với cậu như vậy.
- Hôm qua, mấy cậu làm tôi ngấy quá - Raxkonikov chợt quay sang Porfiri nói với một nụ cười xấc xược và khiêu khích - Tôi phải trốn đi thuê một nơi ở khác, đi cho các cậu ấy không tìm ra được, tôi đã đem theo một mớ tiền. Ông Zamiotov đây cũng có trông thấy số tiền ấy đấy. Thế nào. Ông Zamiotov, hôm qua trí óc tôi có mình mẫn không, hay là mê sảng, ông phân giai hộ cho.
Lúc nầy hình như chàng chỉ muốn xông vào bóp cổ Zamiotov. Chàng khó chịu với cái nhìn và sự im lặng của hắn quá.
- Theo ý tôi thì hôm qua ông đã nói chuyện khá tỉnh táo, khôn ngoan nữa là khác, duy có điều ông quá cáu kỉnh - Zamiotov đáp xẵng.
- Hôm nay, - Porfiri chen vào, Nikodim Phomits có nói với tôi là tối hôm qua lúc đã khuya ông ta có gặp anh trong nhà người công chức vừa bị ngựa xéo.
- Đấy, cứ xét chuyện cái lão công chức ấy thì biết - Razumikhin nói tiếp - có phải là cậu đã hành động như một thằng điên ở nhà lão ấy không nào? Còn được bao nhiêu cậu đã đem cho mụ goá ấy hết để lo việc ma chay! Nếu muốn giúp thì cũng có thể cho mười lăm rúp, hay hai mươi rúp đi nữa, nhưng ít nhất cùng giữ lại lấy vài ba rúp chứ, đằng nầy lại vung hết cả hai mươi lăm rúp kia!
- Thế ngộ nhỡ tôi vừa tìm ra được một kho vàng thì sao? Có thể hôm qua tôi mới đâm ra hào hiệp như vậy. Đấy có ông Zamiotov biết rõ là tôi đã tìm ra được một kho vàng! Xin ông thứ lỗi, - chàng quay sang nói với Porfiri, môi run run, - chúng tôi đã làm mất của ông nữa tiếng đồng hồ vì những chuyện không đâu. Chắc chúng tôi làm ông bực mình lắm?
- Ấy không, ngược lại, ngược lại! Giá anh biết anh đã làm cho tôi quan tâm đến nhường nào! Tôi rất thích được nhìn anh, nghe anh nói, và xin thú thật là tôi rất hài lòng khi thấy anh rốt cục đã có nhã ý đến đây.
- Nhưng phải cho chúng tớ uống nước với chứ? Khô cả cố rồi! - Razumikhin kêu lên.
- Một ý rất hay? Chắc là các vị cùng vui lòng cả. Nhưng trước khi dùng trà có nên làm một tý gì… có "chất" hơn chăng?
- Thôi, vù đi!
Porfiri Petrovich đi sai người đun trà.
Những nghĩ cứ quay cuồng trong đầu óc Raxkonikov. Chàng đang tức lộn ruột lên.
"Tệ nhất là chúng nó cũng chẳng buồn vờ vịt hay giữ lễ tí nào nừa? Nếu mày không hề biết tao thì làm thế nào mày lại nói chuyện về tao với Nikodim Phomits được? Thế nghĩa là bọn chúng cũng không thèm giấu giếm là chúng đang theo vết mình như một bầy chó. Thật là chúng nhổ toẹt vào mặt mình! - Raxkonikov run lên vì tức giận. - Thôi các người cứ đánh trực diện đi chứ đừng vờn ta như mèo vờn chuột nữa! Vì như thế là vô lễ Porfiri ạ, mà có lẽ ta sẽ không cho phép người làm như vậy" Ta sẽ đứng đây và sẽ nói toạc vào mặt các người tất cả sự thật rồi các người sẽ thấy ta khinh các người đến nhường nào! - Chàng mệt nhọc thở hổn hển - "Nhưng, ngộ nhỡ chẳng qua chỉ là một ảo giác của mình thì sao? Nếu đó chí là một ảo giác, nếu mình lẩm từ đầu chí cuối, nổi xung lên một cách khờ khạo, rồi không đóng nổi vai tuồng ti tiện của mình thì sao? Có thể tất cả những lời nói, những cử chỉ ấy đều không có chú ý. Lời lẽ của họ cũng bình thường cả thôi, nhưng cũng có một ẩn ý gì bên trong. Những câu như thế người ta có thể nói trong bất cứ trường hợp nào, nhưng dù sao cũng vẫn có một cái gì đây. Tại sao hắn lại nói "đằng mụ ấy"? Sao Zamiotov lại thêm là mình ăn nói "khôn ngoan"? Tại sao chúng lại nói cái giọng như vậy? Đúng… cái giọng. Razumikhin cũng ngồi đây, sao hắn lại không nghi ngờ gì cả? Cái thằng ngây ngô ấy thì chẳng bao giờ nghi ngờ gì tất! Thôi, mình lại lên cơn sốt rồi! Lúc nầy, có phải Porfiri nháy mắt với mình không nhỉ? Vô lý, chắc là không, sao hắn lại phải nháy mắt với mình kia chứ: Phải chăng chúng định trêu ngươi mình, đó chỉ là ảo giác, hay là chúng nó biết thật… Ngay cả Zamiotov cũng tỏ ra xấc láo. Có thực Zamiotov xấc không? Đêm qua chắc hắn đã nghĩ lại. Mình cùng đã biết, là hắn sẽ nghĩ lại!
Ở đây hắn như ở nhà vậy, thế mà là lần đầu hắn đến đây Porfiri không coi hắn như khách, lão ta ngồi quay lưng lại phía hắn. Chúng nó đã ăn ý với nhau rồi! Chúng nó ăn ý với nhau chính là vì mình. Chắc chắn hai đứa đã bàn về mình trước khi mình đến! Không hiểu chúng nó đã biết là mình có đến đằng ấy chưa? Sao cho nhanh lên chứ. Lúc mình nói là hôm qua mình chuồn đi tìm thuê một nơi ở khác, hắn đã bỏ qua không nêu lại… Mình chuồi câu chuyện thuê nhà vào như thế mà hay đấy, sau nầy sẽ có ích! "Trong cơn mê sảng kia chứ! Ha, ha, ha! Hắn biết tất cả những việc xảy ra tối hôm qua, nhưng lại không biết mẹ mình mới đến? Con mụ phù thuỷ ấy lại ghi ngày tháng bằng bút chì kia à? Chỉ láo, không bịp được ta đâu. Vì đó chưa phải là những sự kiện mà chỉ la một ảo giác thôi! Tang chứng đâu, thử đưa ra xem nào! Ngay cả cái chuyện đi tìm nhà cũng không phải là một tang chứng, mà là chuyện mê sảng; mình biết cách nói với chúng rồi. Chúng có biết chuyện mình đến xem phòng không nhỉ? Chưa biết được điều nầy thì chưa về. Mà sao mình lại đến đây làm gì nhỉ? Bây giờ mình lại nổi giận lên: đó mới thật là một sự kiện! Hà! Sao mình lại nóng nảy thế. Cũng có thể như vậy lại hay, mình đóng vai người ốm mà… Hắn đừng thăm dò mình… hắn sẽ đánh lạc hướng mình. Mà sao mình lại đến đây?" Tất cả những ý nghĩ đó thoảng qua óc chàng như một tia chớp.
Một lát sau Porfiri Petrovich trở lại: trông ông ta vui vẻ hẳn ra.
- Cậu nầy, sau bữa chén tối qua ở nhà cậu, đầu mình cứ… Mà cả người cũng rã ra… - Ông ta vừa cười vừa nói với Razumikhin, giọng khác hẳn.
- Sao? vui chứ? Hôm qua bàn đến điểm thú vị nhất thì mình lại bỏ các cậu. Sau ai thắng?
- Tất nhiên chẳng ai thắng cả. Chúng nó lại chẹo vào cái vấn đề muôn thuở, lại bốc lên mây.
- Rodia nầy, cậu thử tưởng tượng hôm qua họ xoay ra bàn vấn đề: có tội ác hay không? Tớ đã nói với cậu đấy: chúng nó tha hồ phun ra đủ các thứ chuyện nhảm.
- Có gì là lạ! Cũng là một vấn đề xã hội thông thường. - Raxkonikov nói, giọng lơ đãng.
- Vấn đề không phải đặt ra dưới hình thức ấy - Porfiri chêm vào.
- Ô đúng, không hẳn như vậy, - Razumikhin tán thành ngay, vả lại sôi nổi lên như thường lệ - Rodia ạ; cậu thử nghe và cho biết ý kiến nhé. Tớ muốn thế! Hôm qua tớ toát mồ hôi hột ra với họ trong khi đợi cậu tớ cũng có nói với họ là cậu sẽ đến. Thoạt tiên chúng tớ bàn đến quan điểm của bọn xã hội. Còn lạ gì quan điểm ấy nữa: cói ác là một sự phản kháng chống lại cơ cấu bất hợp lý của xã hội, chỉ thế thôi, không hơn không kém, và họ không chịu nhận nguyên nhân nào khác hết.
- Cậu chỉ bịa? - Porfiri Petrovich kêu lên, vẻ phấn khởi trông thấy; ông ta vừa nhìn Razumikhin vừa cười luôn miệng khiến anh lại càng bốc lên ngùn ngụt.
- Quyết không thừa nhận nguyên nhân nào khác - Razumikhin hăm hở nói tiếp - Tớ không bịa đâu? Tớ sẽ giở sách của họ cho cậu xem, theo họ thì tất cả đều là do tác hại của môi trường cả, không có gì khác. Câu nói đầu miệng của họ đấy. Và từ đây suy thẳng ra là nếu tổ chức xã hội cho hợp lý thì mọi thứ tội ác đều sẽ biến đi ngay tức khắc, vì không còn có gì để mà phản kháng nữa, và chỉ trong nháy mắt mọi người đều sẽ trở nên lương thiện. Họ không đếm xỉa gì đến nhân tính cả, nhân tính bị gạt bỏ, nhân tính không đáng kể. Theo họ thì không phải là nhân loại cứ phát triển theo một quy luật lịch sử sinh động rồi cuối cùng sẽ tiến đến tự cái biến thành một xã hội hợp lý; mà ngược lại là một chế độ xã hội, phọt ra từ một bộ óc toán học nào đó, sẽ tức thì tổ chức toàn thể nhân loại lại và trong nháy mắt sẽ làm cho nhân loại công bằng và hoàn thiện, không cần đợi đến sự phát triển của sự sống, bất chấp hết thảy mọi con đường phát triển lịch sử sinh động. Chính vì thế mà họ ghét lịch sử một cách bản năng. Họ nói "lịch sử chỉ rặt những chuyện quái gở và ngu xuẩn" và mọi chuyện chẳng qua đều do ngu xuẩn mà ra cả. Cũng vì vậy họ không ưa cái quá trình sinh động của cuộc sống. Không cần đến tâm hồn sống. Tâm hồn sống đòi hỏi sự sống: nó không phục tùng máy móc, nó có tính đa nghi, nó vốn thoái bộ. Còn thứ tâm hồn của họ thì tuy có mùi xác chết, có thể làm bằng cao su cũng được, nhưng ngược lại nó không có sức sống, không có ý chí, nó ngoan ngoãn, nó không nổi loạn? Và kết quả là họ quy tất cả vào mỗi một việc: xếp gạch, chia dây chia phòng trong cái phalanstère(l). Phalanstère đựng xong xuôi đấy nhưng nhân tíỉnh của các ông thì lại chưa được chuẩn bị, mà nhân tính thì vốn muốn sống, nó chưa hoàn thành cả cái quá trình sinh tử, nó cho rằng bây giờ mà vào nghĩa địa thì hãy còn sớm. Không thể nào chỉ dùng luận lý để vượt qua nhân tính được. Phép luận lý chỉ mới đề ra có ba trường hợp mà thật ra thì có đến hàng triệu! Vất bỏ hết cả mấy triệu trường hợp ấy đi để quy tất cả lại thành mỗi một vấn đề tiện nghi. Cách giải quyết thật đến dễ dàng. Rõ ràng một cách hấp dẫn đấy chứ: chẳng cần gì phải suy nghĩ nữa! Cái chính là đừng suy nghĩ. Mọi bí ẩn của cuộc sống có thể tóm tắt trên hai tờ giấy in!
- Ấy đấy lại bốc lên rồi đấy! Lại dong kèn dong trống lên rồi! Phải giữ lấy tay hắn, - Porfiri cười đoạn quay sang Raxkonikov nói tiếp. - Anh thử tưởng tượng mà xem, hôm qua cũng thế đấy: một bản hợp xưởng sáu giọng trong một căn buồng; mà trước đó lại còn chuốc rượu Punch nữa, anh hình dung được chứ? Không, ông bạn tôi ơi, ông nói sai rồi: "môi trường" có ý nghĩa rất quan trọng trong các vụ án mạng: tôi sẽ chứng minh cho cậu thấy như vậy.
- Tớ cũng biết là nó quan trọng, nhưng cậu thử nói tớ nghe xem: một lão bốn mươi tuổi hiếp một đứa bé mười tuổi, có phải là môi trường đã xúi bẩy lão ta chăng?
- Hiểu một cách chặt chẽ thì cũng có thể nói được là môi trường - Porfiri đáp, vẻ quan trọng lạ thường - Khi một đứa bé rất có thể giải thích bằng ảnh hưởng của môi trường có thể lắm chứ?
Razumikhin cơ hồ như sắp sửa nỗi khùng lên.
- Được rồi - nếu cậu muốn: tớ sẽ chứng minh cho cậu ngay lập tức - anh gầm lên - là sớ dĩ mi cậu bạc chi vì cái tháp chuông nhà thờ Ivan Đại đế cao ba mươi lăm xagien. Tớ sẽ tuần tự chứng minh một cách rõ ràng chính xác, lại có sắc thái tự do chủ nghĩa nữa cho mà xem. Tớ cam đoan như thế. Nào, cậu có cuộc tớ không nào?
- Sẵn sàng! Chúng ta thử nghe xem cậu ấy chứng minh thế nào?
- Cậu thì chỉ vờ vịt suốt, quỷ thật. - Razumikhin nhảy chồm lên vung tay tức giận - Nói với cậu cũng bằng thừa! Rodion nầy, cậu chưa biết hắn đấy thôi, chứ hắn nói thế là cố ý cả đấy. Hôm qua hắn cũng đứng về phe bọn kia để rồi chơi xỏ lại hết thảy bọn chúng. Mà hôm qua hắn nói mới ghê chứ! Còn bọn kia thì cứ nở mày nở mặt ra? Hắn có thể tiếp tục như thế hai tuần liền. Hồi năm ngoái, hắn tự dưng nói cả quyết là sẽ đi tu: suốt hai tháng hắn cứ vẫn một mực như thế. Gần đây hắn lại nảy ra cái ý làm cho chúng mình tin là hắn sắp cưới vợ, là hôn lễ đã chuấn bị xong xuôi. Hắn lại còn may cả quần áo mới nữa. Chúng mình chúc mừng hắn. Thế rồi chẳng có cóc khô gì hết, cô dâu cũng chẳng thấy đâu: chẳng qua chỉ là một ảo ảnh.
- Cậu lại nói sai rồi! Tôi may áo từ trước kia, rồi nhân có bộ quần áo đó, tôi mới nảy ra ý nghĩ lòe các cậu.
- Thật à? Ông hay lòe đến thế cơ à? - Raxkonikov lơ đãng hỏi.
- Thế anh không tin? Được rồi, tôi cũng sẽ lòe cả anh nữa cho mà xem, ha, ha, ha! Không khoan hẵng, để tôi nói hết sự thật với anh đã. Nhân những vấn đề về án mạng, về môi trường, về những con bé ấy, tôi lại nhớ - vả lại bao giờ tôi cũng quan tâm - đến bài báo của anh nhan đề là "Bàn về tột ác"… hay một đầu đề gì tương tự, tôi cũng không nhớ rõ nữa. Cách đây hai tháng tôi đã được hưởng cái thú đọc bài ấy trong tờ "Ngôn luận Thời báo".
- Bài của tôi? Trong "Ngôn luận Thời báo" - Raxkonikov sửng sốt hỏi. - Phải rồi, cách đây sáu tháng khi thôi học, tôi có viết một bài báo bàn về một quyển sách, nhưng tôi gửi đến tờ "Ngôn luận Tuần báo" chứ không phải tờ Ngôn luận Thời báo.
- Thế mà nó lại được đăng trên tờ Ngôn luận Thời báo đấy.
- Thôi phải rồi. Tờ "Ngôn luận Tuần báo" đình bản nên người ta không in được nữa.
- Đúng thế đấy, sau khi đình báo thì tờ "Ngôn luận Tuần báo" hợp nhất với tờ "Ngôn luận Thời báo" nên cách đây hai tháng bài của anh mới thấy đăng trên tờ nầy. Anh không biết sao?
Quả thật Raxkonikov không hề hay biết gì cả.
- Nầy, thế anh phải đòi người ta trả tiền nhuận bút đi chứ? Tính anh kỳ thật? Anh sống cô độc đến nỗi những việc dính dáng mật thiết đến bản thân anh, anh cũng không biết nữa, kể cũng lạ đấy.
- Hoan hô Rodia. Mình cũng không biết đấy nhá! - Razumikhin kêu lên - Ngay hôm nay, mình phải chạy ngay đến phòng đọc tìm một số mới được? Cách đây hai tháng phải không? Ngày nào? Không hề gì, mình sẽ tìm thấy! Hay đấy nhá! Thế mà cậu ta không hề hở ra!
- Nhưng sao ông lại biết bài báo đó của tôi? Tôi ký tắt kia mà?
- Chỉ là một sự tình cờ, mà cũng chỉ mới được mấy hôm nay thôi, do hỏi thăm ông chủ bút có quen… bài báo của anh làm tôi rất chú ý.
- Tôi nhớ là trong bài đó tôi phân tích tâm trạng của một kẻ sát nhân trong suốt quá trình hành động của hắn.
- Đúng thế, anh lại nhấn mạnh rằng hành động của kẻ sát nhân bao giờ cũng đi đối với một trạng thái bệnh tật. Rất độc đáo… rất độc đáo, nhưng thực ra không phải phần đó trong bài báo làm tôi chú ý, mà chính là cái ý anh chen vào cuối bài ấy, nhưng tiếc thay, ý ấy anh chi nói lướt qua thôi và diễn đạt cũng chưa rõ ràng lắm! Tóm lại, nếu anh còn nhớ thì trong đó có ám chỉ rằng trên thế gian nầy có những người có thể… hay nói cho đúng hơn không phải là có thể mà có toàn quyền làm đủ mọi việc ngang ngược, phạm đủ mọi tội ác, và với họ thì luật pháp không đụng chạm đến được.
Lối xuyên tạc vũ đoán và gượng ép đó khiến Raxkonikov mỉm cười.
- Thế nào? Sao? Có quyền phạm tội a? Thế chứ không phải là do "tác hại của môi trường" nữa à? - Razumikhin chen vào, có phần hoảng hốt.
- Không, không, không hẳn là như vậy - Porfiri Petrovich tiếp. - Trong bài của anh ấy, vấn đề là ở chỗ loài người chia ra làm hai loại, loại "bình thường" và loại "phi thường". Loại bình thường thì phải sống phục tòng và không có quyền vượt ra ngoài luật pháp bởi vì, ấy đấy, vì họ là những người bình thường, còn loại phi thường thì có quyền phạm mọi tội ác và có thể vi phạm luật pháp đủ cách, chính bởi vì họ là những con người phi thường: Không biết ý anh có phải như vậy không?
- Thế nào? Không thể như vậy được! - Razumikhin ngơ ngác lẩm bẩm.
Raxkonikov lại cười nhạt. Mới nghe chàng đã biết ngay hắn muốn nói gì và muốn đẩy chàng đến đâu; chàng nhớ lại bài báo chàng đã viết. Chàng quyết nhận lời thách thức.
- Không hẳn như vậy, - chàng đáp một cách giản dị và khiêm tốn. - Tuy vậy tôi cũng xin nhận là ông đã trình bày gần trung thành ý nghĩ của tôi, thậm chí có thể nói hoàn toàn trung thành nữa là đằng khác (chàng dường như lấy làm thích thú khi thừa nhận là "hoàn toàn trung thành"). Chỉ có điểm khác biệt là tôi không hề nhấn mạnh rằng những người phi thường thì nhất thiế phải làm đủ mọi việc ngang ngược như ông nói. Tôi lại còn nghĩ rằng sở kiểm duyệt không đời nào cho in một bài báo như vậy. Tôi chỉ muốn nêu lên rằng con người "phi thường" có quyền, tôi không nói là cái quyền pháp lý mà chỉ là bản thân họ có quyền tự cho phép lương tâm mình vượt qua một số trở lực nào đấy, và chỉ riêng trong trường hợp nào việc thực hiện ý tưởng của họ đòi hỏi thôi (đôi khi ý tưởng đó có thể có một tác dụng cứu vớt nhân loại). Ông nói là bài báo của tôi không được rõ ràng, tôi sẵn sàng giải thích cho ông hiểu trong chừng mực có thể. Có lẽ tôi không nhầm khi nghĩ rằng đó chính là ý thích của ông: vâng, tôi xin chiều ý ông. Theo tôi, nếu vì một trường hợp nào đó mà những phát minh của Kepler, Newton không thể truyền bá được trong nhân loại bằng cách nào khác hơn là hy sinh tính mạng của một người, mười người, trăm người hoặc nhiều hơn thế vì họ ngăn trở sự phát minh đó hoặc làm thành một chướng ngại trên con đường thực hiện, thì Newton sẽ có quyền, và hơn nữa còn có bổn phận… loại trừ cái số mười người, trăm người ấy đi để truyền bá những phát minh của mình ra cho toàn thể nhân loại. Nói như thế không có nghĩa là Newton có quyền tuỳ tiện muốn giết ai thì giết hoặc hằng ngày ra chợ ăn cắp. Hơn nữa, tôi nhớ là đã có phát triển trong bài báo của tôi một ý kiến nói rằng mọi người… đây là nói những người chỉ đạo, những người cầm cân nảy mực cho nhân loại, từ những nhân vật cổ xưa nhất cho đến loại Licurg, Solon, Mohammet, Napoleon và những người sau đó nữa, muôn người như một, không trừ ai, đều là những kẻ tội phạm tất, vì chỉ nguyên cái việc ban hành ra một đạo luật mới tức là đã phải huỷ bỏ đạo luật cũ của tổ tiên để lại và được xã hội coi như thiêng liêng; và dĩ nhiên, họ sẽ không chùn bước dù có phải đổ máu, nếu như máu đó (đôi khi hoàn toàn vô tội, và anh dũng đổ ra để bảo vệ cho đạo luật cũ kia) có thể giúp họ hoàn thành ý đồ. Còn có một điều đáng chú ý là phần đông những vị ân nhân của loài người, những kẻ cầm cân nẩy mực cho xã hội đều là những kẻ khát máu ghê gớm. Tóm lại, tôi kết luận rằng tất cả, không riêng gì những bậc vĩ nhân, mà ngay cả những người chỉ vượt lên trên mức bình thường một tí thôi cũng vậy, nghĩa là tất cả những người có thể nói lên một điều gì mới mới, thì do bản chất của mình, họ đều nhất thiết phải là những kẻ tội phạm, tất nhiên là nhiều hay ít còn tuỳ. Nếu không, họ sẽ khó lòng thoát ra khỏi vết bánh xe cũ, mà nằm yên trong vết cũ thì cũng do bản chất, họ sẽ không thể nào cam tâm được và theo tôi họ còn có bổn phận không được cam tâm nằm yên như thế. Tóm lại. Ông cũng thấy những điều đó không có gì là mới mẻ cả. Nó đã được in ra, được đọc hàng nghìn lần rồi. Còn về chuyện phân ra thành loại người bình thường và phi thường thì tôi cũng thừa nhận là hơi võ đoán, song tôi không hề vạch ra những con số chính xác. Tôi chỉ tin chắc vào ý chủ đạo của tôi thôi. Nội dung của cái ý chủ đạo đó như sau: theo một quy luật của tạo hoá thì loài người, nói chung, chia ra làm hai loại: loại hạ đẳng (gồm những người bình thường) chỉ là những vật liệu dùng để sản sinh ra những kẻ như họ, và loại những người chân chính, những người có thiên bẩm hoặc có tài năng nói lên được một ý mới trong môi trường của mình. Tất nhiên còn có thể chia nhỏ mãi ra nữa, đến vô cùng, song những nét khác biệt của hai loại đó thì khá rõ ràng dứt khoát loại đầu, nghĩa là đám vật liệu nói chung, gồm những người bản tính bảo thủ, yên lành, sống trong sự phục tùng và vốn thích phục tùng. Theo tôi thì họ có bổn phận phải phục tùng vì công dụng của họ là như vậy, và đối với họ việc đó không có gì là nhục nhã cả. Còn đối với loại thứ hai thì họ đều vượt qua pháp luật, họ đều là những kẻ phá hoại hay có khuynh hướng phá hoại, tuỳ theo khả năng. Tội ác của những con người đó dĩ nhiên là tương đối và muốn hình muốn vẻ: với những chủ trương rất khác nhau, phần lớn những người nầy đều đòi phải huỷ bỏ cái hiện tại vì một cái gì tốt đẹp hơn. Nhưng nếu để thực hiện ý tưởng của mình, họ phải dẫm lên trên một xác người, băng qua một con sông máu, thì theo tôi lương tâm họ cũng có quyền cho phép họ làm như thế, song cũng còn phải xét cái ý tưởng kia, xét quy mô của nó nữa, - xin ông chú ý cho điểm nầy. Trong bài báo ấy tôi nói đến quyền phạm tội ác chỉ là theo nghĩa đó (ông nhớ cho rằng cuộc tranh luận của chúng ta xuất phát từ một vấn đề luật pháp đấy). Vả chăng, cũng không có gì đáng phải lo ngại cho lắm: hầu như không bao giờ đám đông thừa nhận cái quyền đó của họ cả, mà lại hành hình họ, treo cổ họ lên (tuỳ theo mức độ) và như vậy là đám đông đã thực hiện đúng cái sứ mệnh bảo thủ của mình, mặc dầu trong những thế hệ sau chính cái đám đông ấy lại sẽ đặt những người bị hành hình đó lên bệ thờ mà hương khói (ít nhiều tuỳ theo mức độ). Loại đầu bao giờ cũng là chủ nhân của hiện tại; loại sau là chủ nhân của tương lai. Loại đầu bảo tồn thế giới và làm cho thế giới tăng thêm về số lượng; loại thứ hai thúc đẩy thế giới và dẫn dắt nó đến mục đích. Mà loại nầy cũng như loại kia đều có đầy đủ quyền tồn tại như nhau. Tóm lại, theo tôi thì tất cả đều có quyền ngang nhau và vive la guerre éternelle (2) tức là cho đến Tân Jerusalem (3) dĩ nhiên!
- Thế anh cũng tin Tân Jerusalem à?
- Tin, - Raxkonikov đáp, giọng rắn rỏi - mặt vẫn cúi gằm xuống đất, vẫn dán mắt vào một điểm đã chọn trên tấm thảm như suốt trong thiên trường ngôn của chàng.
- Thế… anh có tin Thượng đế không? Xin anh bỏ qua cho thói tò mò của tôi.
- Tin! - Raxkonikov ngẩng mặt lên nhìn Porfiri nhắc lại.
- Thế anh có tin sự tích Lazaro phục sinh (4) không?
- Tin, nhưng sao ông lại hỏi như vậy?
- Anh tin theo nghĩa đen chứ?
- Theo nghĩa đen.
- Thế cơ đấy… Tôi cũng chỉ vì tò mò mà hỏi thế thôi. Xin lỗi anh. Nhưng, xin phép anh, ta lại trơ về chuyện ban nãy. Không phải bao giờ người ta cũng hành hình họ dảu; cũng có người…
- Đã chiến thắng trong sinh thời họ? À đúng, cũng có người đã chiến thắng trong sinh thời họ, thế và…
- Chính những người đó lại bắt tay vào hành hình kẻ khác?
- Nếu cần, mà ông cũng biết đấy đa số đều làm như vậy. Nói chung, nhận xét của ông rất tinh tế.
- Cảm ơn anh. Nhưng nầy, anh cho biết là làm thế nào để phân biệt được những con người phi thường ấy với những người bình thường? Mới sinh ra họ đã có một vài dấu hiệu gì hẳn? Tôi muốn nói là trong trường hợp nầy cần phải có một tiêu chuẩn chính xác hơn, hay nói cách khác là phải có một dấu hỉệu bè ngoài rõ rệt hơn: anh bỏ qua cho những thắc mắc tự nhiên ở một con người thực tế và trung tín nhưng trong trường hợp nầy có lẽ cần phải có một cách trang phục đặc biệt chẳng hạn, hay có một dấu vết gì? Vì chắc anh cũng nhận rằng nếu xảy ra một sự nhầm lẫn và một người nào đó thuộc về một loại nầy lại tưởng rằng mình thuộc loại kia rồi quay ra "loại trừ mọi trở lực", như anh vừa nói một cách rất mình xác đó, thì…
- À! trường hợp ấy cũng thường xảy ra luôn. Lời nhận xét nầy lại còn tinh tế hơn lần trước nữa.
- Xin cảm ơn anh
- Không dám. Song cũng xin ông lưu ý là sự nhầm lẫn chỉ có thể có ở trong loại người đầu thôi, nghĩa là "những người bình thường" theo như cách gọi có lẽ cũng không hay ho lắm của tôi. Tuy bẩm sinh họ vẫn có khuynh hướng phục tùng, song vì một sự trở trêu nào đó của tạo hoá mà ngay cả con bò cũng không thoát khỏi, có nhiều người trong bọn họ thích tự cho mình là những kẻ tiên phong, những kẻ "phá hoại" rồi sa vào một "ý mới", mà là một cách hoàn toàn thành thật. Đồng thời họ lại thường không hay chú ý đến những người thực sự mới, thậm chí lại còn khinh miệt những người nầy nữa coi người ta như những kẻ lạc hậu, tư tưởng thấp hèn. Song, theo tôi, đây không thể có một nguy cơ gì nghiêm trọng cả, và ông cũng không có gì đáng phải bận tâm, vì họ không bao giờ đi xa được. Để trị cái thói ngông cuồng ấy, dĩ nhiên cũng nên quất roi vào họ để nhắc nhở cho họ biết thân biết phận nhưng không nên làm gì hơn thế, vả chăng việc nầy cũng chẳng cần ai thi hành cả; tự họ quất vào họ thôi vì họ là những kẻ rất mực luân thường đạo lý, có khi thì làm hộ cho nhau, có kẻ lại tự tay mình quất vào mình… Ngoài ra, họ lại còn quy định ra những hình thức sám hối công khai để tự trừng trị nữa: kết quả thật là đẹp đẽ và bổ ích. Tóm lại ông không có lý do gì để phải lo lắng bận tâm cả… Có một quy luật như thế đấy.
- Ấy ít nhất về mặt ấy anh cũng đã làm cho tôi yên tâm được chút ít, nhưng lại thế nầy mới khó chứ: xin anh cho biết là những kẻ có cái quyền ám hại kẻ khác, những người phi thường ấy, có nhiều không? Lẽ tất nhiên tôi sẵn sàng nghiêng mình trước họ, nhưng dù sao anh cũng phải nhận là nếu họ quá nhiều thì cũng sởn gáy thật đấy, nhỉ?
- Ồ điều nầy nữa cũng xin ông đừng lo, - Raxkonikov nói tiếp, giọng vẫn như cũ - Nói chung, những người có một ý tưởng mới hoặc chỉ có khả năng nói ra một điều gì mới thôi, cũng ít lắm, ít một cách kỳ lạ nữa là khác. Chỉ biết rõ là cách phân phối người thành từng loạt và tiểu loại chắc chắn đã được một quy luật nào đó của tạo hoá quy định một cách chính xác và công bằng. Cái quy luật đó thì dĩ nhiên hiện nay chúng ta chưa biết, song tôi tin là nó tồn tại và sau nầy rồi có lẽ chúng ta sẽ biết. Cái đám đông to lớn, cái mở vật hệu ấy tồn tại trên mặt đất rốt cục cũng chỉ để rồi qua một quá trình bí ẩn nào đó, qua sự giao hợp phức tạp giữa các nói giống, chủng tộc, cố sức sản sinh ra cho được một con người, trong hàng nghìn người khác, ít nhiều có tính dộc lập. Những người có một trình độ độc lập cao hơn thì trong một vạn người mới có được một (đây tôi nói áng chừng thế thôi, cho dễ hiểu). Cao hơn nữa thì trong mười vạn chỉ có một. Và phải đến hàng triệu người mới có được một bậc thiên tài. Còn những vĩ nhân, những người nắm giữ vận mệnh của nhân loại thì có lẽ còn có một người xuất hiện sau khi hàng nghìn triệu người đã bước vào cuộc sống. Tóm lại cũng chưa bao giờ tôi ghé mắt vào cái lò đúc ấy của tạo hoá để xem quá trình nó diễn biến ra sao cả. Song chắc chắn là có và phải có một quy luật nhất định; ở đây không phải có sự ngẫu nhiên được.
- Nầy, sao, cả hai người đùa đấy chứ? - cuối cùng Razumikhin phải kêu lên - Hai người đang xỏ nhau hay sao đấy? Ngồi mà chế ngạo nhau có lạ không chứ? Rodia, cậu nói chuyện đứng đắn đấy chứ?
Raxkonikov lặng lẽ ngẩng bộ mặt nhợt nhạt và gần như buồn rầu lên nhìn bạn, không đáp. Bên cạnh bộ mặt trầm lặng và đau khổ đó, cái vẻ cay độc trâng tráo, lì lợm trêu chọc và vô lễ của Porfiri lại càng có vẻ lạ lùng đối với Razumikhin.
- Nầy cậu, nếu quả thật các cậu nói chuyện đứng đắn thì… Tất nhiên cậu có lý khi nói rằng vấn đề đó không có gì mới và cũng giống những điều mà chúng ta đã đọc, đã nghe hàng nghìn lần rồi, song cái điều thật sự độc đáo ở trong đó, cái ý mà quả thật là của riêng cậu ấy, một ý nghĩ khiến mình phải kinh hãi là cậu chủ trương có thể giet người theo lương tâm, mà, xin lỗi cậu, lại chủ trương một cách cuồng tín như vậy nữa chứ! Cho nên đó mới là cái chủ đạo trong bài báo của cậu. Theo mình, dung thứ kiểu giết người theo lương tâm lại càng kinh khủng hơn là một sự dung thứ chính thức, hợp pháp nữa.
- Rất đúng, thế lại càng kỉnh khủng hơn ấy, - Porfiri đệm theo.
- Không, cậu đi quá xa rồi đấy? Hắn là có một sự nhầm lẫn gì đây! Mình sẽ đọc bài báo… cậu đi quá xa rồi! Cậu không thể nghĩ như vậy được… Mình sẽ đọc.
- Trong bài báo không hề có những ý đó, mà chỉ có những ám dụ thôi! - Raxkonikov nói.
- Đúng, đúng - Porfiri tiếp ngay - bây giờ tôi đã gần thấy rõ được cách anh nhìn nhận tội ác nhưng… Xin anh bỏ qua cho cái tính dai dẳng của tôi (tôi làm phiền anh nhiều quá, chính tôi cũng thấy ngượng) đấy anh xem, lúc nãy anh có nói đi nói lại với tôi là cứ yên tâm về sự lẫn lộn có thể xảy ra giữa hai loại người, song… tuy vậy cũng có một số trường hợp thực tế làm tôi lo lắng. Chẳng hạn, ví thứ có một người đàn ông nào đó, một người thanh niên tự do cho mình là một Licurg hay một Mohammet… tương lai, cố nhiên, rồi anh ta bèn loại trừ tất cả những trở lực ngăn cách anh ta với cái tương lai đó. Anh ta nghĩ là phải thực hiện một cuộc viễn chinh, mà muốn viễn chinh thì phải có tiền… Thế là anh ta bắt đầu kiếm tiền cho cuộc viễn chinh ấy… anh biết chứ?
Zamiotov ngồi trong góc bỗng phì cười. Raxkonikov cũng không hề đưa mắt về phía hắn. Chàng đáp, giọng bình thản:
- Tôi cũng phải thừa nhận rằng những trường hợp như thế quả phải xảy ra. Và nhất là chỉ có những kẻ ngu xuẩn và hợm mình mới mắc vào lưỡi câu ấy; nhất là thanh niên.
- Đấy anh thấy đấy. Thế thì sao?
- Thì thế thôi - Raxkonikov cười khẩy - Không phải là lỗi tại tôi. Sự thể nó như vậy, và mãi mãi sẽ như vậy. Đây như cậu nầy (chàng hất hàm trỏ Razumikhin) vừa nói là tôi dung thứ việc giết người. Vậy thì sao? Chẳng phải xã hội đã được đảm bảo quá đầy đủ với những án đày, những nhà tù, những quan toà, những trại khổ sai rồi hay sao? Lo lắng mà làm gì? Các anh cứ tìm thủ phạm đi thôi!
- Và nếu chúng tôi bắt được hắn?
- Thì hắn phải đền tội.
- Dù sao anh cũng thật là logic. Nhưng còn lương tâm hắn thì sao?
- Cái đó thì có can hệ gì đến ông?
- Là tôi hỏi thế, cũng vì lòng nhân đạo thôi!
- Người mà có lương tâm thì sẽ đau khổ nếu nhận thức được lỗi lầm. Đó chính là hình phạt rồi, không nói chi đến ngục tù nữa!
- Nhưng mà, những bậc thiên tài - Razumikhin hỏi, mày cau lại, - những kẻ được quyền giết người ấy, chắc họ phải không đau khổ tí nào hết, dù đã làm đổ máu?
- Tại sao lại có chữ phải? Ở đây không có sự chuẩn y cũng không có sự cấm đoán nào cả. Ai thương hại nạn nhân thì người ấy đau khổ. Nỗi thống khổ bao giờ cũng là hệ quả tất yếu của một lương tâm rộng lớn và một tâm hồn thâm thuỷ. Những con người thật là vĩ đại, chắc phải chịu một nỗi buồn sâu rộng trên cõi đời nầy, - chàng bỗng nói thêm, giọng trầm ngâm không ăn khớp với phong thái của câu chuyện.
Chàng ngước mắt nhìn mọi người, vẻ tư lự, và cầm lấy mũ. Chàng quá bình thản so với thái độ của chàng lúc nãy khi bước vào, và chàng cũng cảm thấy như vây. Mọi người đều đứng dậy.
- Đây, dù anh có sỉ vả tôi, anh có giận tôi hay không, - Porfiri lại nói như để kết luận - thì quả tình tôi cũng không thể cầm lòng mà - xin anh thứ lỗi - hỏi thêm anh một câu nhỏ nữa (quà thật tôi quấy rầy anh quá) tôi chỉ muốn trao đổi qua một ý nhỏ, chẳng qua chỉ để cho khỏi quên thôi.
- Được, ông cứ nói cái ý nhỏ ấy ra - Raxkonikov đáp, gương mặt nghiêm nghị và nhợt nhạt, đứng trước mặt Porfiri chờ đợi.
- Thế nầy… Thật quả tôi không biết có thể nào cho rõ. cái ý nầy nó cũng quá ư kỳ quặc… một ý nghĩ có tính chất tâm lý học… Thế nầy, khi anh thảo ra bài báo, không thể nào, thì hì… anh lại không tự xem mình là ấy, dù chỉ chút đỉnh thôi, xem mình như một con người phi thường và đang nói lên một ý mới theo cái nghĩa anh hiểu… Có phải thế không nào?
- Rất có thể - Raxkonikov đáp, giọng khinh bỉ. Razumikhin rậm rựt như muốn nói điều gì.
- Đã thế thì phải chăng chính anh có thể… chẳng hạn để giải quyết một số thất bại, khó khăn trong cuộc sống vật chất hoặc để góp phần thúc đẩy bước tiến của toàn thể nhân loại - anh có thể quyết định vượt qua trở lực? Giết người, lấy của chẳng hạn?
Đoạn, hình như Porfiri lại bỗng nheo mắt trái và cười thầm, hệt như lúc nãy.
- Nếu tôi đã vượt qua trở lực tất nhiên tôi sẽ không nói với ông! - Raxkonikov đáp, với một vẻ khinh miệt đầy ý ngạo nghễ và khiêu khích.
- Không phải đâu, tôi chú ý như vậy chỉ để tìm hiểu bài báo của anh rõ hơn về phương diện văn học thôi!
"Hừ, thật là lộ liễu và trâng tráo!" - Raxkonikov kinh tởm nghĩ thầm.
- Xin ông lưu ý cho - chàng xẵng giọng đáp - rằng tôi không tưởng tượng mình là Mohammet hay Napoleon… cũng không phải là một nhân vật nào ở cỡ đó cả; cho nên, tôi không thể trả lời ông một cách thỏa đáng là tôi sẽ hành động ra sao nếu ở vào địa vị họ.
- Thôi đi, ở nước Nga chúng ta thì hiện nay ai mà không tự cho mình là Napoleon? - Porfiri bỗng nói với một giọng thân mật khủng khiếp. Lần nầy ngay trong giọng nói của ông ta cũng có một cái gì đặc biệt rõ ràng.
- Không phải là tuần vừa rồi, một Napoleon tương lai đã khử mụ Aliona Ivanovna nhà ta đó sao? - Zamiotov từ trong góc ném ra một câu.
Raxkonikov lặng thinh đưa mắt chăm chú và rắn rỏi nhìn Porfiri. Razumikhin sa sầm mặt xuống. Từ nãy anh đã bắt đầu nghĩ là có một vấn đề gì đây, anh quay mặt giận dữ nhìn quanh. Một phút im lặng nặng nề trôi qua. Raxkonikov quay gót ra về.
- Anh đã đi đấy à! - Porfiri ân cần nói và chìa tay ra, vẻ cực kỳ thân mật. - Rất sung sướng, rất sung sướng được làm quen với anh. Còn về yêu cầu của anh, anh cứ yên chí. Anh cứ viết đại ý như tôi nói. Hay tốt hơn là anh tự đến đằng chỗ tôi làm việc vậy… một ngày nào đó, mai chẳng hạn. Mười một giờ có thể tôi cũng sẽ đến đấy, ta sẽ thu xếp mọi việc và sẽ nói chuyện… Anh lại là một trong những người cuối cùng đến đằng ấy có thể anh sẽ nói cho chúng tôi biết một điều gì chăng. - Ông ta nói tiếp với một vẻ hết sức chất phác.
- Ông muốn chính thức hoi cung tôi theo đúng thủ tục hẳn? - Raxkonikov xẵng giọng hỏi.
- Để làm gì mới được chứ? Lúc nầy thì hoàn toàn chưa cần thiết. Anh không hiểu tôi. Anh thấy đấy, tôi không bỏ lỡ một cơ hội nào và tôi đã nói chuyện với hết thảy những người có cầm đồ, tôi đã thu nhặt được một số bằng chứng ở một số người… Anh lại là người cuối cùng… à, thật là vừa đúng dịp, ông ta reo lên như chợt có điều gì mừng rỡ - tôi nhớ đúng dịp quá, khá thật! - Porfiri quay về phía Razumikhin: cậu có nhớ là cậu đã làm mình bở hơỉ tai với cái thằng Nikolai ấy không… ấy mình biết, chính mình cũng biết, - y quay về phía Raxkonikov, - chính mình cũng biết hắn vô tội, nhưng làm thế nào được? Ấy ngay đến Mitka mà tôi cũng phải làm phiền. Thế đấy. Chuyện tôi muốn hỏi anh chẳng qua chỉ có thể nầy: khi lên thang gác, xin lỗi anh: anh lên đấy khoảng gần tám giờ phải không nhỉ?
Phải - Raxkonikov đáp, đoạn hiểu ngay rằng đáng lẽ mình rất có thể không trả lời như vậy.
Thế khi lên cầu thang vào quâng gần tám giờ, hẳn là anh có thấy ở từng hai trong một căn phòng buồng cửa mở rộng, anh có nhớ không? Có hai người thợ, hay ít nhất anh cũng thấy một trong hai người chứ? Lúc ấy họ đang sơn, anh không chú ý ư? Điều nầy rất quan trọng đối với họ!
- Thợ sơn à? Không, không thấy - Raxkonikov thong thả đáp, tựa như đang lục tìm trong ký ức, trong khi bao nhiêu tinh lực trong người chàng đều căng thẳng lên, trong khi toàn thân chàng đau buốt đến lặng người đi cố đoán xem cái bẫy căng ở chỗ nào, nhỡ ra mình có chỗ nào hớ chăng? - Không, tôi không thấy họ, và tôi cũng không nhớ là có một căn buồng nào mở cửa. Nhưng ở tầng gác thứ tư (giờ thì chàng đã khám phá ra cái bẫy và hân hoan đắc thắng), tôi nhớ là có một công chức đang dọn nhà… trước mặt buồng bà Aliona Ivanovna… Tôi nhớ, cái nầy thì tôi nhớ rõ lắm… có mấy người lính khiêng một chiếc đi-văng, họ ép tôi vào tường… Nhưng mấy người thợ sơn thì không, tôi không nhớ là có họ ở đấy. Và đâu như không hề có một buồng nào mở cửa thì phải. Không, không có.
- Cậu giở cái trò gì thế? - Razumikhin chợt kêu lên, dường như vừa sực tỉnh và hiểu ra. - Nầy, thợ họ quét sơn đúng vào cái ngày xảy ra án mạng, còn cậu nầy đến cách đấy hai hôm kia mà. Cậu hỏi vớ vẫn cái gì thế?
- Chà! mình lại nhầm lẫn rồi! - Porfiri đập trán - Mẹ kiếp, câu chuyện nầy làm mình rối tinh cả óc lên! - Ông ta quay sang Raxkonikov nói tiếp như để xin lỗi. - Cái việc cần biết xem có ai thấy họ trong căn nhà vào quãng tám giờ không nó quan trọng đến nỗi tôi đâm ra tưởng tượng là anh cũng có thể nói cho chúng tôi biết… Tôi thật đến lẫn tất!
- Phải thận trọng hơn một tí chứ - Razumikhin mặt sa sầm xuống.
Mấy câu sau nầy nói ở phòng ngoài. Porfiri Petrovich đưa hai người ra tận cửa một cách hết sức nhà nhặn. Hai người bạn bước ra đường, vẻ mặt lầm lì, cau có, và mấy hước đầu, không ai nói với ai một câu.
Raxkonikov thở ra một tiếng rất dài.
Chú thích:(1) Chỗ ở công cộng của nhân dân (trong chương trình của những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp (1771-1837)
(2) Chiến tranh vĩnh cửu muôn năm (tiếng Pháp trong nguyên văn)
(3) Tức thiên đường (chữ của các văn kiện thần bí giáo
(4) Lazaro là một người chết đi sống lại do phép lạ của Jesus
(3) Tức thiên đường (chữ của các văn kiện thần bí giáo
(4) Lazaro là một người chết đi sống lại do phép lạ của Jesus
Chương 18
- Tớ không tin! Tớ không thể tin được! - Razumikhin lo lắng
nhắc đi nhắc lại trong khi cố hết sức bác bỏ những lý lẽ của Raxkonikov. Họ đã
đến nhà trọ Bakaleyev; bà Punkheria Alekxandrovna và Dunia đợi họ ở đấy đã lâu.
Trong khi hăng say tranh luận, Razumikhin cứ phút phút lại dừng lại ở dọc đường.
Đây là lần đầu tiên họ bàn đến việc ấy một cách không úp mở: chỉ riêng điều đó
thôi cũng đã khiến Razumikhin bối rối và xúc động rồi.
- Cậu không tin thì tuỳ, - Raxkonikov đáp với một nụ cười lạnh lùng và uể oải - Xưa nay cậu vẫn thế: cậu chẳng nhận thấy tí gì, nhưng tôi thì tôi cân nhắc từng chữ một.
- Tính cậu đa nghi nên cậu mới cân nhắc… Hừ… quả thật mình cũng thấy giọng của Porfiri khá lạ kỳ và nhất là cái tên Zamiotov vô lại kia nữa! Cậu nói có lý, quả có một cái gì đây… Nhưng tại sao, tại sao mới được chứ?
- Đêm qua, hẳn đã nghĩ lại.
- Không đời nào, ngược lại ấy chứ? Nếu chúng nó có cái ý nghĩ vô lý đó thì lẽ ra chúng phải cố dùng đủ mọi cách để che nó đi, chúng phải giấu kín con bài của chúng để rồi sẽ bắt chộp… Nhưng đằng nầy… thật là trắng trợn và thiếu trận trọng.
- Nếu chúng nắm được những bằng chứng, bằng chứng thật sự ấy, hay ít nhất cũng là những mối nghi ngờ có chút ít cơ sở, thì quả nhiên chúng sẽ cố gắng giấu kín âm mưu của chúng để mong thu được một kết quả khả quan hơn, hơn nữa chúng đã soát nhà tôi từ lâu rồi kia. Nhưng đằng nầy, chúng lại không có bằng chứng, không có lấy một sự kiện nào cả, toàn là ảo giác, toàn là những mối ngờ vực viển vông, không dựa vào cái quái gì cả, cho nên chúng mới cố dùng cái lối trơ tráo ấy để nhát mình… Mà có thể là hắn điên tiết lên vì không tìm được bằng chứng rồi cáu quá mà buột ra như vậy. Cũng có thể hắn còn có ý định gì nữa đây.
Tôi trông hắn cũng thông minh thì phải. Có thể hắn làm ra vẻ hắn biết để nhát mình… ở đây có một vấn đề tâm lý riêng… Cứ phải tìm cách giải thích những thứ đó cũng ngấy thật. Thôi, kệ nó!
- Mà thật là khả ố, khả ố! Tớ hiểu cậu lắm! Nhưng… bây giờ chúng mình đã nói chuyện thẳng thắn với nhau (và như vậy là rất tốt, tớ mừng lắm), tớ xin thú thật với cậu, không quanh có gì, là tớ đã nhận thấy cái ý nghĩ đó trong bọn chúng từ lâu rồi kia, tất nhiên chỉ mới ở trạng thái phôi thai thôi, nhưng dù chỉ phôi thai cũng đã là quá lắm rồi. Làm sao chúng nó lại dám nghĩ như vậy. Không hiểu cội rễ của nó ẩn ở chỗ nào? Giá cậu biết mình điên ruột lên đến nhường nào Gớm chửa? Một sinh viên nghèo khổ, rạc rài đi vì cảnh túng bấn và chứng ưu uất, chỉ còn một ngày nữa là lăn ra ốm mê man, và có thể là đã chớm bệnh sẵn (cậu chú ý điểm nầy); một người giàu tưởng tượng, đầy tự ái, có ý thức về giá trị của mình, một con người đã từng sống trong xó sáu tháng ròng không nhìn thấy ai; áo quần thì rách bươm, giầy thì không đế, phải đứng trước những tên cảnh sát bẩn thỉu, nghe những lời lẽ xấc xược của chúng; rồi chúng lại bất thần tống cho anh ta một tờ hối phiếu đòi anh ta phải trả tiền cho một viên hội thẩm Sebarov nào đó, lại thêm mùi sơn ướt ngập ngụa trong căn phòng kín mít, với nhiệt độ ba mươi độ Reaumer, ngột ngạt lên vì một đống người; lại phải nghe nói đến vụ ám sát một người mà anh vừa mới đến gặp hôm trước, và tất cả những thứ đó trong khi dạ dày đang rỗng tuếch. Làm sao mà lại không ngất đi được? Ấy thế mà chúng dựa vào đấy, dựa vào tất cả những thứ ấy để nghi ngờ Mẹ kiếp? Tớ hiểu rằng chuyện đó thật đáng bực mình, song Rodia ạ, ở địa vị cậu, tớ sẽ cười vào mặt mũi bọn chúng, hay hơn nữa: tớ sẽ nhổ toẹt vào mặt chúng tất, nhổ mạnh vào, nhổ vung ra vài chục bãi ấy với chúng thì phải đối xử như thế mới được, và chấm dứt đi như vậy với chúng. Nhổ lên mặt chúng đi! Can đảm lên! Thật nhục!
"Kể ra hắn trình bày tình hình cũng giỏi đấy!" - Raxkonikov nghĩ thầm.
- Nhổ lên! Nhưng ngày mai lại hỏi cung rồi! - Chàng nói giọng chua chát - Lẽ nào mình lại đi phân trần với chúng? Hôm qua tự dưng hạ mình trước mặt Zamiotov ở quán rượu như vậy, mình đã bực quá đi rồi!
- Mẹ kiếp Tớ sẽ đích thân đến đằng Porfiri. Tớ sẽ lấy tư cách bà con, vắt cho kỳ ra mới thôi, hắn phải dốc hết ra với tớ mới được. Còn Zamiotov thì…
"À, mãi đến bây giờ hắn mới đoán ra?" - Raxkonikov nghĩ thầm.
- Khoan hẵng - Razumikhin bỗng chộp lấy vai chàng quát lên - Vừa rồi cậu nói một điều sai bét! Tớ đã suy nghĩ rồi: Sai bét! Cậu bảo hắn bẫy cậu ở chỗ nào? Cậu cho rằng hắn nhắc đến hai người thợ là để bẫy cậu hẳn? Nghiền ngẫm một tí xem, nếu chính cậu làm cái việc ấy, thì cậu có dại gì lại đi nói rằng cậu có thấy người ta đang sơn nhà và có thấy mấy người thợ sơn? Ngược lại, cho dù cậu có thấy, cậu cũng sẽ nói không. Ai dại gì đi buộc tội cho mình bao giờ?
- Nếu mình có làm việc ấy, chắc chắn mình sẽ nói là có thấy mấy người thợ và căn buồng - Raxkonikov tiếp tục trả lời, vẻ miễn cương, chán ngấy ra mặt.
- Nhưng sao lại nói những điều có hại cho mình?
- Là bởi vì chỉ có những người quê mùa hoặc những kẻ tập sự không mảy may kinh nghiệm mới bạ đâu chối đấy khi bị hỏi cung! Một người có chút ít trí thông minh và kinh nghiệm chắc chắn sẽ cố gắng nhận hết những sự kiện bề ngoài không chối cãi được, chỉ có điều là hắn sẽ tìm ra những nguyên do khác dàn xếp theo một kiểu riêng, làm cho những sự kiện đó có một ý nghĩa hoàn toàn bất ngờ rồi trình bày chúng dưới một dạng thức khác. Chính Porfiri có thể tính toán là mình sẽ trả lời kiểu ấy và nói là có thấy mấy người thợ, đã làm cho lời khai của mình có vẻ đúng sự thật rồi tìm cách giải thích sau.
- Nhưng nếu thế thì Porfiri sẽ trả lời ngay lập tức với cậu rằng trước hôm đó hai ngày chẳng có thợ thuyền nào ở đấy cả, và như vậy nghĩa là cậu đã đến đấy ngay hôm xảy ra vụ án mạng, lúc tám giờ. Thế là cậu sẽ vào tròng một cách dễ dàng như không!
Thì chính hắn tính như vậy đấy: hắn mong rằng mình sẽ không có thì giờ suy nghĩ và ắt sẽ vội trả lời cho thật có lý và cũng mong rằng mình quên là ngày hôm trước không thể có hai người thợ ở đấy được.
- Sao lại có thể quên chuyện ấy được?
- Không có gì dễ hơn! Chính vì những chi tiết, vô nghĩa đó mà những kẻ tinh khôn dễ vào tròng nhất đấy. Càng tinh khôn thì lại càng ít nghi ngờ rằng người ta dùng một thủ đoạn rất đơn gián để cho mình vào tròng. Muốn lừa được kẻ tối xảo quyệt phải dùng những cách tối đơn giản. Porfiri tuyệt nhiên không khờ như cậu tưởng đâu?
- Thằng cha đê mạt thật.
Raxkonikov không nhịn được cười. Nhưng cũng lúc ấy chàng lấy làm lạ với lòng hăm hở và niềm thích thú của chàng trong lời giải thích vừa rồi: trước đó, chàng đã miễn cưỡng nói chuyện một cách chán ngán ủ ê, chỉ vì một mục đích nhất định và vì không có cách nào khác.
"Mình đã bắt đầu thú vị với một số điểm nào đấy rồi sao?" - chàng nghĩ thầm.
Nhưng hầu như ngay lúc ấy, chàng bỗng thấy bồn chồn tựa hồ một ý nghĩa bất ngờ và đượm lo âu vừa chợt đến với chàng. Cảm giác bồn chồn cứ lớn dần trong lòng chàng. Bấy giờ hai người đã đến trước cổng nhà trọ Bakaleyev.
- Cậu vào một mình đi, - Raxkonikov bỗng nói - mình sẽ trở lại ngay tức khắc.
- Cậu đi đâu? Đến nơi rồi còn gì?
- Mình có tí việc… cần phải làm… Nửa tiếng nữa mình sẽ trở lại… Vào nhà cậu cứ nói thế.
- Tùy cậu muốn làm gì thì làm chứ tớ sẽ đi với cậu!
- Sao, cậu cũng muốn hành hạ mình nữa - Chàng thét lên, giọng giận dữ, chua chát, ánh mắt tràn đầy tuyệt vọng, đến nỗi Razumikhin phải im bặt không dám cưỡng nữa. Anh đứng một lát trên bậc thềm, nhìn Raxkonikov đang bước nhanh về hướng nhà chàng. Rồi anh nghiến răng, nắm chặt tay lại và thề rằng ngày hôm ấy sẽ đến vắt Porfiri ra như một quả chanh, rồi leo lên gác để an ủi bà Punkheria Alekxandrovna đã bắt đầu lo lắng hoảng hốt vì mãi chưa thấy họ đến.
Khi Raxkonikov gần về đến nhà, thái dương chàng vã mồ hôi, chàng thở nặng nhọc. Chàng leo vội lên thang gác, vào căn buồng vẫn để ngỏ và móc ngay cửa lại. Rồi hoảng hốt và điên dại, chàng lao vào góc buồng chỗ có cái lỗ thủng trên giấy dán tường mà trước kia chàng đã dùng làm nơi giấu đồ đạc, thọc tay vào trong và thăm dò kỵ lưỡng lỗ giấu một lát, sờ sẫm tất cả các kẽ, các nếp của tấm gìấy. Không tìm thấy gì, chàng đứng dậy thở một hơi dài. Lúc nãy khi đến trước nhà Bakaeyev, chàng chợt nghĩ là một đồ vật nào đó, một sợi dây chuyền, một chiếc nhẫn, hoặc một mảnh giấy gói đồ có những giòng ghi chú viết tay của mụ già, rất có thể buột ra và lọt vào một kẽ hở nào chăng, rồi, sau nầy, bất thần lộ ra thành một tang chứng không sao chối cãi được.
Chàng đứng yên như đang trầm tư mặc tưởng, và một nụ cười kỳ lạ, tủi nhục, gần như điên rồ thoáng hiện trên môi chàng. Đoạn, chàng cầm lấy mũ và ra khỏi buồng. Ý nghĩ của chàng cứ rối tinh lên. Chàng bước xuống cầu thang và đi ra cổng vẻ tư lự.
- A, ông ta đây rồi! - một giọng ồm ồm kêu lên.
Chàng ngẩng đầu: người gác cổng đứng trên ngưỡng cứa buồng đang trỏ chàng cho một người thấp bé dáng dấp như một người tiểu thương. Người nầy mặc một chiếc áo dài và một chiếc gi-lê đứng xa trông như một mụ đàn bà nhà quê. Đầu hẩn đội một chiếc mũ cát-két cáu bẩn cúi xuống phía trước và cả người hắn trông như gù. Cứ nhìn bộ mặt hom hem và nhăn nheo của hắn, thì hắn cũng đã phải quá năm mươi, đôi mắt hắn nhỏ và hõm sâu vào trong hốc mắt, có một vẻ gì lầm lì, nghiêm nghị và bất mãn.
- Gì vậy? - vừa hỏi Raxkonikov vừa đi về phía người gác cổng.
Người lạ mặt gườm gườm liếc mắt nhìn chàng, chăm chú quan sát chàng một lát, không vội vã, đoạn chậm rãi quay lưng lại, và, không hé răng, hắn rời khỏi cổng đi ra đường.
- Có chuyện gì thế? - Raxkonikov quát lên.
- A đấy, có người đến hỏi thăm xem có một sinh viên trọ ở đây không, lão ta nói tên cậu và tên của bà chủ trọ ra. Vừa lúc ấy cậu đi xuống, tôi chỉ cậu, thế la lão ta bước. Cậu thấy đấy!
Người gác cổng cũng có vẻ hơi ngạc nhiên, song chỉ một tí thôi. Lão suy nghĩ thêm một lát rồi quay lưng lại và chui vào buồng.
Raxkonikov lao theo người lạ mặt và thấy ngay y đang đi dọc bờ đường bên kia, vẫn với bước chân đều đều chậm rãi, mắt dán xuống đất tựa như đang suy nghĩ điều gì. Chỉ một nhoáng sau chàng đuổi kịp, song cứ đi sau lưng y một lát. Cuối cùng chàng tiến lên ngang hàng và nhìn chéo sang mặt y. Người kia nhìn ra chàng ngay. Mắt hắn đưaq nhanh về phía chàng, nhưng rồi lại cúi xuống. Họ đi cạnh nhau như vậy trong khoảng một phút, không ai nói năng gì.
- Ông có hỏi tôi, nơi người gác cổng? - Cuối cùng Raxkonikov hỏi khẽ.
Người lạ mặt không đáp, cũng không nhìn chàng. Cả hai lại im lặng.
- Nầy, sao thế… Ông đến tìm tôi, sao bây giờ lại kín tiếng thế… thế nghĩa là thế nào? Giọng Raxkonikov đứt quãng, lời nói cứ nghẽn lại như không chịu ra khỏi cổ.
Lần nầy, người lạ mặt ngửng đầu lên và nhìn Raxkonikov với đôi mắt gườm gườm, hiểm độc.
- Quân giết người! - y bỗng nói, giọng rất khẽ nhưng rõ ràng và rành rọt
Raxkonikov đi bên cạnh y. Chân chàng bỗng mềm nhũn ra, sống lưng lạnh toát đi và tim như ngừng đập trong chốc lát, họ đi cạnh nhau như thế độ trăm bước, không nói với nhau một lời.
Người kia vẫn không nhìn chàng.
- Nhưng mà ông… sao… ai là kẻ giết người - Raxkonikov thì thầm rất khẽ.
- Chính mày là kẻ giết người, - người kia nói, - giọng càng rành rọt và càng rắn rỏi hơn. Rồi với một nụ cười hằn học và đắc thắng, hắn lại nhìn thẳng vào gương mặt tái nhợt và đôi mắt đờ đẫn ra của Raxkonikov. Họ ra đến một ngã tư đường. Người lạ mặt rẽ sang trái và đi thẳng không ngoái lại.
Raxkonikov đứng sững tại chỗ, mắt nhìn theo người kia một hồi lâu. Chàng thay người lạ mặt đi được dăm chục bước lại ngoảnh đi nhìn chàng vẫn đang đứng yên ở chỗ cũ. Đứng xa như thế không thể nào phân biệt được rõ, song Raxkonikov cũng có cảm giác như người lạ mặt lại nhìn chàng với nụ cười hằn học và đắc thắng lúc nãy.
Bước chậm chạp, lảo đảo trên đôi chân rã rời, Raxkonikov quay trở về và leo lên buồng, người lạnh toát Chàng bỏ mũ đặt lên bàn và đứng im cạnh bàn không nhúc nhích đến mười phút. Rồi, kiệt sức, chàng nằm lên đi-văng, và với một tiếng kêu khe khẽ, duỗi thẳng đôi chân đau như dần. Mắt chàng nhắm nghiền. Chàng nằm như vậy đến nửa tiếng.
Chàng không nghĩ gì hết. Chỉ một vài ý nghĩ hoặc vài mẩu ý nghĩ, những hình ảnh mơ hồ, hiện lên trong trí chàng không trật tự, không mạch lạc, những khuôn mặt mà chàng đã từng thấy xưa kia hồi còn thơ ấu hay đã gặp một lần đâu đó, và lâu nay chàng không bao giờ còn nhớ lại: cái gác chuông nhà thờ V…, một ván bi-a trong quán rượu, và cạnh bàn cờ một viên sĩ quan nào đó, một mùi thuốc xì-gà trong một hiệu bán thuốc lá ở tầng sâu dưới đất, một tiệm giải khát, một, cầu thang tối đen, nước bẩn chảy lênh láng vỏ trứng vứt bừa bãi, và xa xa, có tiếng chuông nhà thờ ngày chủ nhật từ đâu vọng lại. Những hình ánh đó kế tiếp theo nhau trong một cơn lốc quay cuồng. Cũng có một vài hình ảnh làm chàng thích thú và chàng cố cầm giữ lại, song nó lại tan đi, và có một cái gì ở bên trong đè lên bóng vía chàng, tuy không nặng nề lắm… Thỉnh thoảng chàng còn thấy dễ chịu nữa… cái cảm giác ớn lạnh vẫn chưa hết, nhưng hầu như đó cũng là một cảm giác dễ chịu.
Chợt nghe thấy bước chân vội và và giọng nói của Razumikhin, chàng nhắm mắt giả vờ ngủ. Razumikhin mở cửa và đứng một lúc trên ngưỡng cửa. Đoạn anh rón rén bước vào buồng và thận trọng đến cạnh đi-văng. Có tiếng Naxtaxia thì thầm:
- Đừng phá, để cho cậu ấy ngủ cho đẫy giấc đã, rồi sẽ ăn sau.
- Đúng đấy, - Razumikhin đáp.
Cả hai rón rén bước ra và đóng cửa lại. Nửa tiếng nữa trôi qua, Raxkonikov mở mắt ra vả lại duỗi thẳng người trên đi-văng, hai tay bắt chéo dưới đầu.
"Hắn là ai? Con người trồi từ dưới đất lên ấy là ai? Hắn ở đâu và hắn đã thấy được những gì? Hắn đã thấy hết, không còn nghi ngờ gì nữa? Vậy thì hắn đã nấp ở đâu và đứng ở đâu mà quan sát? Sao mãi đến bây giờ hắn mới lộ mặt? Hắn làm thế nào mà thấy được? Có thể nào như thế được chăng? Hừm! - Raxkonikov nghĩ tiếp, người rùng mình buốt lạnh, - và cái hộp tư trang mà Mikolai tìm thấy sau cánh cửa, lẽ nào lại có thể như vậy? Tang chứng? Chỉ một điểm cỏn con mà đem xét kỹ cũng có thể biến thành một tang chứng bằng cỡ cái kim tự tháp Ai-cập. Một con ruồi bay qua, và nó đã nhìn thấy. Có thế như thế được chăng?".
Chàng bỗng ngao ngán nhận thấy thể chất mình đã suy nhược quá đỗi.
"Lẽ ra mình phải biết trước như thế!" - chàng mỉm cười chua chát - mình cũng đã tiên cảm được tâm trạng của mình, thế thì làm sao mình lại dám cầm một cây rìu và nhúng tay vào máu? Lẽ ra mình phải biết trước chuyện đó mới phải… Ơ, nhưng mình đã biết trước rồi đấy chứ! - chàng thì thào, tuyệt vọng.
Đôi lúc chàng lại đứng sững lại trước một ý nghĩ: "Không, những con người ấy không phải được đúc nên như thế nầy. Người chúa tể thực sự, người được phép làm tất cả mọi việc, bắn phá Toulon, tổ chức một vụ thảm sát ở Paris, bỏ quên đạo quân của mình ở Ai Cập, tiêu phí một nửa triệu người trong chiến dịch Moskva và đánh trống lảng bằng một trò chơi chữ ở Vilna (1); con người đó, đến khi chết người ta dựng tượng cho nó, vậy nghĩa là, với nó, mọi việc đều được phép làm. Không, những con người đó có những tấm thân không phải bằng thịt mà bằng đồng!"
Một ý nghĩ khác ở ngoài lề bất chợt hiện đến, suýt làm cho chàng bật cười lên.
"Napoleon, Kim tự tháp, Waterloo, và một mụ già hom hem nhớp nhúa, vợ goá của một viên thư lại, một mụ chủ hiệu cầm đồ ty tiện có một cái rương bọc đỏ đút dưới giường thì có liên quan gì với nhau? Có ai nuốt trôi được chuyện nầy, ngay cả Porfiri Petrovich nữa?
Làm thế nào cho hắn tin được chuyện nầy? Mỹ học sẽ can thiệp vào đây: "Napoleon mà lại bò xuống dưới gầm giường "mụ già" ấy! Chà, chó má thật!"
Thỉnh thoảng chàng cảm thấy như mình đang mê sảng: chàng đã rơi vào tâm trạng khích động của người lên cơn sốt.
"Con mụ già ấy thì chẳng có nghĩa lý gì! - dòng tư tưởng của chàng cuồn cuộn lên từng đợt một - Mụ già ấy… được, thì cứ cho đó là một sai lầm mà vấn đề không phải ở cái mụ ấy! Mụ già chỉ là một cơn bệnh thôi, mình định vượt qua trở ngại thật nhanh… Không phải mình giết một mạng người; mình biết một nguyên lý; cái nguyên lý ấy thì mình đã giết được rồi, nhưng còn vượt qua thì mình chưa vượt được, mình vẫn còn đứng bên nầy… Mình chỉ mới giết được thôi. Mà ngay việc nầy cũng chưa biết cách làm nữa… Nguyên lý? Tại sao vừa qua cái thằng ngốc Razumikhin lại đi sỉ vả bọn xã hội? Họ là những kẻ cần cù, ham buôn ham bán, họ lo đến "cái hạnh phúc chung"… Không cuộc sống đến với tôi chỉ được sống có một lần thôi và không bao giờ trở lại nữa, tôi không muốn chờ đợi "cái hạnh phúc chung". Tôi muốn bản thân tôi sống, không thì thà đừng sống còn hơn. Còn sao nữa? Tôi chỉ không muốn đành lòng đi qua trước một bà mẹ đói khát mà cứ giữ chịt lấy đồng rúp trong túi để chờ đợi cái "hạnh phúc chung". Cứ nói là "Tôi góp một viên gạch vào hạnh phúc chung, cho nên tôi tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn". Ha ha. Vậy thì tại sao các người lại bỏ sót tôi? Đời tôi chỉ có một lần sống, tôi cũng muốn sống cuộc sống của tôi… Về mỹ học ta chỉ là một con rận, không có gì khác hơn - chàng bật cười lên như một thằng điên - Đúng, quá thật ta là một con rận - chàng nghĩ tiếp, bám lấy cái ý tưởng đó một cách hả hê, vùi đầu vào nó, mân mê nó, đùng nó làm trò tiêu khiển, - đúng thế, trước hết là bởi vì lúc nầy ta đang lập luận rằng ta là một con rận, sau nữa là bởi vì trong một tháng ròng ta đã quấy rầy đức Thượng để chí tôn, đã kêu gào người chứng giám cho rằng ta mưu đồ việc ấy không phải vì miếng da của ta, cũng không phải vì sở thích của ta mà vì ta theo đuổi mục đích tuyệt mỹ và cao quý, ha ha! Thứ ba nữa là bởi vì ta đã đặt ra nguyên tắc phải tiến hành công việc hết sức công mmh, phải cân nhắc nặng nhẹ, phải có mức độ và phải chính xác như số học trong tất cả những con rận sống trên thế gian, ta đã chọn con có hại nhất, và khi giết nó, ta đã đinh ninh tự chủ là chỉ lấy của nó vừa đủ chi dùng cho những bước đầu của ta thôi, không hơn không kém (còn lại thì cũng cho tu viện, theo lời di chúc của nó, ha ha). Ta đích thị là một con rận, - chàng nghiến răng kèn kẹt nghĩ tiếp - bởi vì có thể ta là một cái gì còn ti tiện, còn thối tha hơn cả con rận bị giết, bởi vì ta đã linh cảm trước là ta sẽ tự nói như vậy sau khi giết nó! Có gì so sánh được với nỗi khủng khiếp nầy? Ôi, đê tiện, hèn mạt! Ô, giờ ta mới thực hiểu đấng "tiên tri" (2) cười ngựa, vung gươm: Allah (3) đã phán truyền, hãy vâng mệnh và cúi đầu, hỡi "loài sâu bọ đang run rẩy kia!" Đấng "tiên tri" có lý lắm, khi ông ta đặt ở ngang đường mấy khẩu đội đại bác nh - thật cừ và nã vào cả người ngay lẫn kẻ ác (4) mà không thèm giải thích lấy một lời. Ấy vâng mệnh, bởi con sâu run rẩy kia, và đừng có ước muốn vì đó không phải là việc của mày. Ôi? Không đời nào, ta không đời nào có thể tha thứ cho mụ già ấy!
Tóc chàng bết mồ hôi, đôi môi run run của chàng khô nẻ, tia mắt đờ đẫn của chàng đọng lại trên trần nhà.
"Mẹ ta, em ta, ta yêu họ biết nhường nào! Vì đâu mà nay ta lại ghét họ? Phải, ta ghét họ, ta ghét họ với một cảm giác nhục thể và ta không thể chịu được khi họ ở cạnh ta. Lúc nầy ta đến gần mẹ và ôm hôn mẹ, ta còn nhớ ôm hôn mẹ mà lại nghĩ là nếu mẹ biết. Lúc ấy ta có thể nói chuyện đó với mẹ chăng?
Cái đó chỉ tuỳ ở ta thôi… Hừm. Mụ ấy chắc phải y như ta, chàng cô tập trung tư tưởng nghĩ tiếp dường như đang vật lộn với cơn mê sảng đang tràn dần vào người chàng… - Ôi! giờ đây ta mới căm con mụ ấy làm sao! Mụ già? Hẳn là ta sẽ giết hắn một lần nữa nếu hắn sống lại. Tội nghiệp mụ Lizaveta! Sao mụ ta lại về vào lúc ấy? Mà kể cũng lạ thật sao mình lại hầu như không hề nghĩ đến mụ ta thế nhỉ, cứ như thể mình không giết mụ ta ấy Lizaveta. Sonya! Những con người thật đáng thương, thật hiền lành, có đôi mắt dịu dàng Họ đáng mến quá? Sao họ lại không khóc? Sao họ lại không rên rỉ? Họ hy sinh tất cả… họ có một cái nhìn trầm lặng và dỉu dàng… Sonya, Sonya, Sonya dịu hiền!"
Chàng mê man đi; chàng cũng tự lấy làm lạ không nhớ tại sao bỗng dưng lại thấy mình đứng ngoài đường.
Chiều đã xuống. Bóng tối dần dần dày đặc, ánh trăng rằm mỗi lúc một sáng hơn, song khi trời lại ngột ngạt khác thường. Ngoài đường người qua lại đông đúc, nào là thợ thuyền, nào là những người đi làm công đang đi về nhà, nào là những kẻ đi dạo; không khí phảng phất mùi vôi, mùi bụi, mùi nước đọng. Raxkonikov bước đi, buồn bã lo âu: chàng nhớ rất rõ là mình ra khỏi nhà với một ý định nào đấy, mình có một việc gì phải làm gấp, song đích xác việc gì thì chàng quên mất. Chợt chàng dừng lại và thấy bên kia đường, trên vỉa hè có một người đang vẫy tay ra hiệu cho chàng. Chàng băng qua đường đi về phía người kia, nhưng hắn bỗng quay ngoắt lại bỏ đi thẳng dường như không có chuyện gì xảy ra cả, đầu cúi gằm, không ngoái nhìn lại phía sau không có vẻ gì là vừa ra hiệu gọi Raxkonikov cả. "Kìa hay chưa có thực là hắn gọi mình không? - Raxkonikov tự hỏi, tuy nhiên chàng cũng cứ bước theo.
Chàng đi chưa được mươi bước, bỗng nhận ra được hắn và choáng người đi: chính là lão lái buôn lúc nãy, vẫn mặc cái áo dài ấy, vẫn cái lưng gù ấy. Raxkonikov theo hắn cách một quãng xa xa, trống ngực đập thình thình hai người rẽ vào một ngõ hẻm, người lạ mặt vẫn không hề ngoảnh lại. "Hắn có biết là mình đi theo hắn không?" - Raxkonikov nghĩ thầm. Người lạ mặt đi vào cổng một toà nhà lớn. Raxkonikov bước nhanh đến cổng và đưa mắt nhìn xem lão kia có ngoảnh lại nhìn hoặc gọi mình không. Quả thật khi hắn qua hết vòm cổng, vào đến trong sân, bèn quay phắt người lại và dường như vậy tay ra hiệu cho chàng: Raxkonikov liền đi vào cổng, nhưng vào đến sân thì không thấy người kia đâu nữa. Thế nghĩa là hắn đã lên cầu thang gác đầu tiên bên phải. Raxkonikov lao theo. Quả nhiên từ hai tầng gác trên còn nghe thấy tiếng chân bước thong thả và đều đều. Kỳ lạ thay, cái cầu thang trông như quen quen. Đây là chiếc cửa sổ ở tầng thứ nhất: ánh trăng dọi qua tấm cửa kính, buồn bã và huyền bí; và đây là tầng hai. Kìa, đây chính là căn buồng những người thợ sơn làm việc. Sao chàng lại không nhận ra ngay nhỉ? Những bước chân của người đi trước chàng im bặt.
"Thế tức là hắn đã dừng lại hoặc nấp ở đâu đây". Và đây là tầng thứ ba; có nên lên nữa chăng? Xung quanh im lặng quá; chàng thấy rờn rợn. Nhưng rồi chàng vẫn cứ bước lên. Tiếng bước chân của chính chàng làm cho chàng sợ hãi và lo lắng. Trời ơi, sao tối om thế nầy? Người lạ mặt chắc là nấp trong một xó nào gần đâu đấy. A! Cửa buồng trông ra cầu thang mở rộng!
Chàng suy nghĩ một lát, rồi bước vào. Phòng ngoài tối om và vắng tanh, không một bóng người, không một đồ vật, tuồng như người ta đã dọn đi hết. Chàng rón rén bước vào phòng khách, khắp căn phòng ngập trong ánh trăng vằng vặc, mọi vật đều vẫn y nguyên như cũ: mấy chiếc ghế dựa, tấm gương, chiếc đi-văng vàng và những bức tranh đóng khung. Trăng rằm như một quả cầu bằng đồng đỏ đồ sộ nhìn vào cửa sổ. "Chính vì ánh trăng cho nên mới im lặng quá thế nầy, - Raxkonikov thầm nghĩ - chắc là trăng đang gỡ mối một điều bí ẩn gì đây" Chàng dừng lại, đợi chờ; chàng đợi hồi lâu, và vầng trăng càng yên tĩnh bao nhiêu thì tim chàng càng đập mạnh bấy nhiêu, đến nỗi ngực chàng đau nhói lên.
Xung quanh vẫn im phăng phắc. Bỗng một tiếng rắc khô và gọn vang lên, tựa như có ai bẻ một nhánh củi, rồi mọi vật lại chìm vào im lặng. Một con ruồi thức giấc bay lên đâm vào tấm cửa kính và vo ve rền rĩ.
Ngay lúc ấy trong góc, giữa chiếc tủ con và khung cửa sổ, chàng trông thấy cái gì như một chiếc áo choàng phụ nữ treo trên tường. "Sao lại có một chiếc áo choàng ở đây? - chàng nghĩ - Trước kia có đâu?" Chàng bước rất khẽ lại gần và đoán ra rằng có ai đang nấp ở phía sau chàng. Chàng thận trọng giơ tay vén chiếc áo choàng lên thì thấy có một chiếc ghế dựa, và trên ghế một mụ già đang ngồi, người gập hẳn lại, đầu cúi gằm nên chàng không trông thấy mặt nhưng đó chính là mụ ta.
Raxkonikov đứng nhìn mụ một lảt. "Mụ ta sợ", chàng nghĩ, đoạn từ từ rút rìu ra khỏi quai và giáng lên đỉnh sọ mụ già một nhát, rồi một nhát nữa. Nhưng, lạ hay, bị mấy nhát rìu mà mụ cũng không hề nhúc nhích, tưởng chừng như người mụ làm bằng gỗ. Chàng đâm hoảng, cúi gầm gần hơn để nhìn cho kỹ, nhưng đầu mụ lại càng gục thấp xuống. Chàng cúi rạp xuống sát sàn nhà để nhìn mặt mụ từ dưới lên: chàng nhìn mụ già và chết khiếp đi. Mụ già đang ngồi cười nhăn nhở, một trận cười im lặng mà mụ cố giữ hết sức đừng vang lên thành tiếng để chàng khỏi nghe thấy. Bỗng nhiên chàng thấy như cửa buồng ngủ hé mở và ở bên kia cũng có ai cười nói thì thầm. Chàng như điên như dại, lấy hết sức giáng rìu vào đầu mụ ta, song mỗi nhát rìu giáng xuống thì tiếng cười và tiếng thì thầm lại mỗi lúc một to và rõ thêm; còn mụ già thì rũ ra cười ngặt nghẽo. Chàng toan chạy trốn, nhưng phòng ngoài đã đông nghịt những người, cánh cửa cầu, thang đã mở toang và ở đầu cầu thang, dọc các bậc cấp, từ trên xuống dưới lố nhố những người, chỉ thấy lúc nhúc những đầu là đầu. Mọi người đều nhìn chàng, nhưng lại tìm cách giấu mặt và nín lặng chờ đợi… Tim chàng thắt lại, chân chàng không nhấc lên được, tưởng như đã bắt rễ xuống. Chàng muốn kêu lên một tiếng… và tỉnh dậy.
Chàng khó nhọc thở ra một hơi dài, nhưng lạ thay, giấc mơ tuồng như vẫn tiếp diễn: cửa buồng chàng mở rộng và một người chàng không hề quen biết đang đứng trên ngưỡng cửa chăm chú nhìn chàng.
Raxkonikov chưa kịp mở hẳn mắt ra đã vội nhắm ngay lại. Chàng nằm dán sát xuống đi-văng không cựa quậy: "Có phải giấc mơ của mình tiếp diễn hay không?" chàng tự nhủ vả lại khẽ hé mi mắt ra liếc nhìn: người lạ mặt vẫn đứng nguyên chỗ cũ và tiếp tục nhìn chàng.
Bỗng hắn dè dặt bước qua ngưỡng cửa, khép cửa cẩn thận, tiến lại gần bàn, đợi một lát, mắt vẫn không rời Raxkonikov rồi từ từ, nhè nhẹ ngồi lên chiếc ghế dựa trước bàn, cạnh đi-văng. Hắn đặt mũ xuống sàn nhà, cạnh hắn, hai bàn tay đè lên đầu gậy và tỳ cằm lên bàn tay. Rõ ràng là hắn chuẩn bị chờ đợi lâu. Qua đôi mi he hé mở, Raxkonikov thấy người kia hình như cũng đã đứng tuổi; khổ người chắc nịch, mặt để một bộ râu rậm màu hoe nhạt gần như bạc.
Mười phút trôi qua. Trời còn sáng, nhưng chiều đang xuống dần. Trong buồng im phăng phắc. Từ dưới cầu thang cũng không có một tiếng động khẽ nào vọng lên. Chỉ có tiếng vo ve của một con nhặng to, bay loạng choạng húc vào cửa kính. Cuối cùng, tình huống nầy không sao chịu được nữa. Raxkonikov bỗng vùng dậy và ngồi lên đi-văng.
- Nào, nói đi, ông muốn gì?
- À tôi đã biết mà: ông không ngủ mà chỉ giả vờ ngủ thôi, - người lạ mặt buông một câu trả lời kỳ quặc và điềm nhiên cất tiếng cười.
- Xin phép ông được tự giới thiệu: Arkadi Ivanovich Xvidrigailov.
Chú thích:
- Cậu không tin thì tuỳ, - Raxkonikov đáp với một nụ cười lạnh lùng và uể oải - Xưa nay cậu vẫn thế: cậu chẳng nhận thấy tí gì, nhưng tôi thì tôi cân nhắc từng chữ một.
- Tính cậu đa nghi nên cậu mới cân nhắc… Hừ… quả thật mình cũng thấy giọng của Porfiri khá lạ kỳ và nhất là cái tên Zamiotov vô lại kia nữa! Cậu nói có lý, quả có một cái gì đây… Nhưng tại sao, tại sao mới được chứ?
- Đêm qua, hẳn đã nghĩ lại.
- Không đời nào, ngược lại ấy chứ? Nếu chúng nó có cái ý nghĩ vô lý đó thì lẽ ra chúng phải cố dùng đủ mọi cách để che nó đi, chúng phải giấu kín con bài của chúng để rồi sẽ bắt chộp… Nhưng đằng nầy… thật là trắng trợn và thiếu trận trọng.
- Nếu chúng nắm được những bằng chứng, bằng chứng thật sự ấy, hay ít nhất cũng là những mối nghi ngờ có chút ít cơ sở, thì quả nhiên chúng sẽ cố gắng giấu kín âm mưu của chúng để mong thu được một kết quả khả quan hơn, hơn nữa chúng đã soát nhà tôi từ lâu rồi kia. Nhưng đằng nầy, chúng lại không có bằng chứng, không có lấy một sự kiện nào cả, toàn là ảo giác, toàn là những mối ngờ vực viển vông, không dựa vào cái quái gì cả, cho nên chúng mới cố dùng cái lối trơ tráo ấy để nhát mình… Mà có thể là hắn điên tiết lên vì không tìm được bằng chứng rồi cáu quá mà buột ra như vậy. Cũng có thể hắn còn có ý định gì nữa đây.
Tôi trông hắn cũng thông minh thì phải. Có thể hắn làm ra vẻ hắn biết để nhát mình… ở đây có một vấn đề tâm lý riêng… Cứ phải tìm cách giải thích những thứ đó cũng ngấy thật. Thôi, kệ nó!
- Mà thật là khả ố, khả ố! Tớ hiểu cậu lắm! Nhưng… bây giờ chúng mình đã nói chuyện thẳng thắn với nhau (và như vậy là rất tốt, tớ mừng lắm), tớ xin thú thật với cậu, không quanh có gì, là tớ đã nhận thấy cái ý nghĩ đó trong bọn chúng từ lâu rồi kia, tất nhiên chỉ mới ở trạng thái phôi thai thôi, nhưng dù chỉ phôi thai cũng đã là quá lắm rồi. Làm sao chúng nó lại dám nghĩ như vậy. Không hiểu cội rễ của nó ẩn ở chỗ nào? Giá cậu biết mình điên ruột lên đến nhường nào Gớm chửa? Một sinh viên nghèo khổ, rạc rài đi vì cảnh túng bấn và chứng ưu uất, chỉ còn một ngày nữa là lăn ra ốm mê man, và có thể là đã chớm bệnh sẵn (cậu chú ý điểm nầy); một người giàu tưởng tượng, đầy tự ái, có ý thức về giá trị của mình, một con người đã từng sống trong xó sáu tháng ròng không nhìn thấy ai; áo quần thì rách bươm, giầy thì không đế, phải đứng trước những tên cảnh sát bẩn thỉu, nghe những lời lẽ xấc xược của chúng; rồi chúng lại bất thần tống cho anh ta một tờ hối phiếu đòi anh ta phải trả tiền cho một viên hội thẩm Sebarov nào đó, lại thêm mùi sơn ướt ngập ngụa trong căn phòng kín mít, với nhiệt độ ba mươi độ Reaumer, ngột ngạt lên vì một đống người; lại phải nghe nói đến vụ ám sát một người mà anh vừa mới đến gặp hôm trước, và tất cả những thứ đó trong khi dạ dày đang rỗng tuếch. Làm sao mà lại không ngất đi được? Ấy thế mà chúng dựa vào đấy, dựa vào tất cả những thứ ấy để nghi ngờ Mẹ kiếp? Tớ hiểu rằng chuyện đó thật đáng bực mình, song Rodia ạ, ở địa vị cậu, tớ sẽ cười vào mặt mũi bọn chúng, hay hơn nữa: tớ sẽ nhổ toẹt vào mặt chúng tất, nhổ mạnh vào, nhổ vung ra vài chục bãi ấy với chúng thì phải đối xử như thế mới được, và chấm dứt đi như vậy với chúng. Nhổ lên mặt chúng đi! Can đảm lên! Thật nhục!
"Kể ra hắn trình bày tình hình cũng giỏi đấy!" - Raxkonikov nghĩ thầm.
- Nhổ lên! Nhưng ngày mai lại hỏi cung rồi! - Chàng nói giọng chua chát - Lẽ nào mình lại đi phân trần với chúng? Hôm qua tự dưng hạ mình trước mặt Zamiotov ở quán rượu như vậy, mình đã bực quá đi rồi!
- Mẹ kiếp Tớ sẽ đích thân đến đằng Porfiri. Tớ sẽ lấy tư cách bà con, vắt cho kỳ ra mới thôi, hắn phải dốc hết ra với tớ mới được. Còn Zamiotov thì…
"À, mãi đến bây giờ hắn mới đoán ra?" - Raxkonikov nghĩ thầm.
- Khoan hẵng - Razumikhin bỗng chộp lấy vai chàng quát lên - Vừa rồi cậu nói một điều sai bét! Tớ đã suy nghĩ rồi: Sai bét! Cậu bảo hắn bẫy cậu ở chỗ nào? Cậu cho rằng hắn nhắc đến hai người thợ là để bẫy cậu hẳn? Nghiền ngẫm một tí xem, nếu chính cậu làm cái việc ấy, thì cậu có dại gì lại đi nói rằng cậu có thấy người ta đang sơn nhà và có thấy mấy người thợ sơn? Ngược lại, cho dù cậu có thấy, cậu cũng sẽ nói không. Ai dại gì đi buộc tội cho mình bao giờ?
- Nếu mình có làm việc ấy, chắc chắn mình sẽ nói là có thấy mấy người thợ và căn buồng - Raxkonikov tiếp tục trả lời, vẻ miễn cương, chán ngấy ra mặt.
- Nhưng sao lại nói những điều có hại cho mình?
- Là bởi vì chỉ có những người quê mùa hoặc những kẻ tập sự không mảy may kinh nghiệm mới bạ đâu chối đấy khi bị hỏi cung! Một người có chút ít trí thông minh và kinh nghiệm chắc chắn sẽ cố gắng nhận hết những sự kiện bề ngoài không chối cãi được, chỉ có điều là hắn sẽ tìm ra những nguyên do khác dàn xếp theo một kiểu riêng, làm cho những sự kiện đó có một ý nghĩa hoàn toàn bất ngờ rồi trình bày chúng dưới một dạng thức khác. Chính Porfiri có thể tính toán là mình sẽ trả lời kiểu ấy và nói là có thấy mấy người thợ, đã làm cho lời khai của mình có vẻ đúng sự thật rồi tìm cách giải thích sau.
- Nhưng nếu thế thì Porfiri sẽ trả lời ngay lập tức với cậu rằng trước hôm đó hai ngày chẳng có thợ thuyền nào ở đấy cả, và như vậy nghĩa là cậu đã đến đấy ngay hôm xảy ra vụ án mạng, lúc tám giờ. Thế là cậu sẽ vào tròng một cách dễ dàng như không!
Thì chính hắn tính như vậy đấy: hắn mong rằng mình sẽ không có thì giờ suy nghĩ và ắt sẽ vội trả lời cho thật có lý và cũng mong rằng mình quên là ngày hôm trước không thể có hai người thợ ở đấy được.
- Sao lại có thể quên chuyện ấy được?
- Không có gì dễ hơn! Chính vì những chi tiết, vô nghĩa đó mà những kẻ tinh khôn dễ vào tròng nhất đấy. Càng tinh khôn thì lại càng ít nghi ngờ rằng người ta dùng một thủ đoạn rất đơn gián để cho mình vào tròng. Muốn lừa được kẻ tối xảo quyệt phải dùng những cách tối đơn giản. Porfiri tuyệt nhiên không khờ như cậu tưởng đâu?
- Thằng cha đê mạt thật.
Raxkonikov không nhịn được cười. Nhưng cũng lúc ấy chàng lấy làm lạ với lòng hăm hở và niềm thích thú của chàng trong lời giải thích vừa rồi: trước đó, chàng đã miễn cưỡng nói chuyện một cách chán ngán ủ ê, chỉ vì một mục đích nhất định và vì không có cách nào khác.
"Mình đã bắt đầu thú vị với một số điểm nào đấy rồi sao?" - chàng nghĩ thầm.
Nhưng hầu như ngay lúc ấy, chàng bỗng thấy bồn chồn tựa hồ một ý nghĩa bất ngờ và đượm lo âu vừa chợt đến với chàng. Cảm giác bồn chồn cứ lớn dần trong lòng chàng. Bấy giờ hai người đã đến trước cổng nhà trọ Bakaleyev.
- Cậu vào một mình đi, - Raxkonikov bỗng nói - mình sẽ trở lại ngay tức khắc.
- Cậu đi đâu? Đến nơi rồi còn gì?
- Mình có tí việc… cần phải làm… Nửa tiếng nữa mình sẽ trở lại… Vào nhà cậu cứ nói thế.
- Tùy cậu muốn làm gì thì làm chứ tớ sẽ đi với cậu!
- Sao, cậu cũng muốn hành hạ mình nữa - Chàng thét lên, giọng giận dữ, chua chát, ánh mắt tràn đầy tuyệt vọng, đến nỗi Razumikhin phải im bặt không dám cưỡng nữa. Anh đứng một lát trên bậc thềm, nhìn Raxkonikov đang bước nhanh về hướng nhà chàng. Rồi anh nghiến răng, nắm chặt tay lại và thề rằng ngày hôm ấy sẽ đến vắt Porfiri ra như một quả chanh, rồi leo lên gác để an ủi bà Punkheria Alekxandrovna đã bắt đầu lo lắng hoảng hốt vì mãi chưa thấy họ đến.
Khi Raxkonikov gần về đến nhà, thái dương chàng vã mồ hôi, chàng thở nặng nhọc. Chàng leo vội lên thang gác, vào căn buồng vẫn để ngỏ và móc ngay cửa lại. Rồi hoảng hốt và điên dại, chàng lao vào góc buồng chỗ có cái lỗ thủng trên giấy dán tường mà trước kia chàng đã dùng làm nơi giấu đồ đạc, thọc tay vào trong và thăm dò kỵ lưỡng lỗ giấu một lát, sờ sẫm tất cả các kẽ, các nếp của tấm gìấy. Không tìm thấy gì, chàng đứng dậy thở một hơi dài. Lúc nãy khi đến trước nhà Bakaeyev, chàng chợt nghĩ là một đồ vật nào đó, một sợi dây chuyền, một chiếc nhẫn, hoặc một mảnh giấy gói đồ có những giòng ghi chú viết tay của mụ già, rất có thể buột ra và lọt vào một kẽ hở nào chăng, rồi, sau nầy, bất thần lộ ra thành một tang chứng không sao chối cãi được.
Chàng đứng yên như đang trầm tư mặc tưởng, và một nụ cười kỳ lạ, tủi nhục, gần như điên rồ thoáng hiện trên môi chàng. Đoạn, chàng cầm lấy mũ và ra khỏi buồng. Ý nghĩ của chàng cứ rối tinh lên. Chàng bước xuống cầu thang và đi ra cổng vẻ tư lự.
- A, ông ta đây rồi! - một giọng ồm ồm kêu lên.
Chàng ngẩng đầu: người gác cổng đứng trên ngưỡng cứa buồng đang trỏ chàng cho một người thấp bé dáng dấp như một người tiểu thương. Người nầy mặc một chiếc áo dài và một chiếc gi-lê đứng xa trông như một mụ đàn bà nhà quê. Đầu hẩn đội một chiếc mũ cát-két cáu bẩn cúi xuống phía trước và cả người hắn trông như gù. Cứ nhìn bộ mặt hom hem và nhăn nheo của hắn, thì hắn cũng đã phải quá năm mươi, đôi mắt hắn nhỏ và hõm sâu vào trong hốc mắt, có một vẻ gì lầm lì, nghiêm nghị và bất mãn.
- Gì vậy? - vừa hỏi Raxkonikov vừa đi về phía người gác cổng.
Người lạ mặt gườm gườm liếc mắt nhìn chàng, chăm chú quan sát chàng một lát, không vội vã, đoạn chậm rãi quay lưng lại, và, không hé răng, hắn rời khỏi cổng đi ra đường.
- Có chuyện gì thế? - Raxkonikov quát lên.
- A đấy, có người đến hỏi thăm xem có một sinh viên trọ ở đây không, lão ta nói tên cậu và tên của bà chủ trọ ra. Vừa lúc ấy cậu đi xuống, tôi chỉ cậu, thế la lão ta bước. Cậu thấy đấy!
Người gác cổng cũng có vẻ hơi ngạc nhiên, song chỉ một tí thôi. Lão suy nghĩ thêm một lát rồi quay lưng lại và chui vào buồng.
Raxkonikov lao theo người lạ mặt và thấy ngay y đang đi dọc bờ đường bên kia, vẫn với bước chân đều đều chậm rãi, mắt dán xuống đất tựa như đang suy nghĩ điều gì. Chỉ một nhoáng sau chàng đuổi kịp, song cứ đi sau lưng y một lát. Cuối cùng chàng tiến lên ngang hàng và nhìn chéo sang mặt y. Người kia nhìn ra chàng ngay. Mắt hắn đưaq nhanh về phía chàng, nhưng rồi lại cúi xuống. Họ đi cạnh nhau như vậy trong khoảng một phút, không ai nói năng gì.
- Ông có hỏi tôi, nơi người gác cổng? - Cuối cùng Raxkonikov hỏi khẽ.
Người lạ mặt không đáp, cũng không nhìn chàng. Cả hai lại im lặng.
- Nầy, sao thế… Ông đến tìm tôi, sao bây giờ lại kín tiếng thế… thế nghĩa là thế nào? Giọng Raxkonikov đứt quãng, lời nói cứ nghẽn lại như không chịu ra khỏi cổ.
Lần nầy, người lạ mặt ngửng đầu lên và nhìn Raxkonikov với đôi mắt gườm gườm, hiểm độc.
- Quân giết người! - y bỗng nói, giọng rất khẽ nhưng rõ ràng và rành rọt
Raxkonikov đi bên cạnh y. Chân chàng bỗng mềm nhũn ra, sống lưng lạnh toát đi và tim như ngừng đập trong chốc lát, họ đi cạnh nhau như thế độ trăm bước, không nói với nhau một lời.
Người kia vẫn không nhìn chàng.
- Nhưng mà ông… sao… ai là kẻ giết người - Raxkonikov thì thầm rất khẽ.
- Chính mày là kẻ giết người, - người kia nói, - giọng càng rành rọt và càng rắn rỏi hơn. Rồi với một nụ cười hằn học và đắc thắng, hắn lại nhìn thẳng vào gương mặt tái nhợt và đôi mắt đờ đẫn ra của Raxkonikov. Họ ra đến một ngã tư đường. Người lạ mặt rẽ sang trái và đi thẳng không ngoái lại.
Raxkonikov đứng sững tại chỗ, mắt nhìn theo người kia một hồi lâu. Chàng thay người lạ mặt đi được dăm chục bước lại ngoảnh đi nhìn chàng vẫn đang đứng yên ở chỗ cũ. Đứng xa như thế không thể nào phân biệt được rõ, song Raxkonikov cũng có cảm giác như người lạ mặt lại nhìn chàng với nụ cười hằn học và đắc thắng lúc nãy.
Bước chậm chạp, lảo đảo trên đôi chân rã rời, Raxkonikov quay trở về và leo lên buồng, người lạnh toát Chàng bỏ mũ đặt lên bàn và đứng im cạnh bàn không nhúc nhích đến mười phút. Rồi, kiệt sức, chàng nằm lên đi-văng, và với một tiếng kêu khe khẽ, duỗi thẳng đôi chân đau như dần. Mắt chàng nhắm nghiền. Chàng nằm như vậy đến nửa tiếng.
Chàng không nghĩ gì hết. Chỉ một vài ý nghĩ hoặc vài mẩu ý nghĩ, những hình ảnh mơ hồ, hiện lên trong trí chàng không trật tự, không mạch lạc, những khuôn mặt mà chàng đã từng thấy xưa kia hồi còn thơ ấu hay đã gặp một lần đâu đó, và lâu nay chàng không bao giờ còn nhớ lại: cái gác chuông nhà thờ V…, một ván bi-a trong quán rượu, và cạnh bàn cờ một viên sĩ quan nào đó, một mùi thuốc xì-gà trong một hiệu bán thuốc lá ở tầng sâu dưới đất, một tiệm giải khát, một, cầu thang tối đen, nước bẩn chảy lênh láng vỏ trứng vứt bừa bãi, và xa xa, có tiếng chuông nhà thờ ngày chủ nhật từ đâu vọng lại. Những hình ánh đó kế tiếp theo nhau trong một cơn lốc quay cuồng. Cũng có một vài hình ảnh làm chàng thích thú và chàng cố cầm giữ lại, song nó lại tan đi, và có một cái gì ở bên trong đè lên bóng vía chàng, tuy không nặng nề lắm… Thỉnh thoảng chàng còn thấy dễ chịu nữa… cái cảm giác ớn lạnh vẫn chưa hết, nhưng hầu như đó cũng là một cảm giác dễ chịu.
Chợt nghe thấy bước chân vội và và giọng nói của Razumikhin, chàng nhắm mắt giả vờ ngủ. Razumikhin mở cửa và đứng một lúc trên ngưỡng cửa. Đoạn anh rón rén bước vào buồng và thận trọng đến cạnh đi-văng. Có tiếng Naxtaxia thì thầm:
- Đừng phá, để cho cậu ấy ngủ cho đẫy giấc đã, rồi sẽ ăn sau.
- Đúng đấy, - Razumikhin đáp.
Cả hai rón rén bước ra và đóng cửa lại. Nửa tiếng nữa trôi qua, Raxkonikov mở mắt ra vả lại duỗi thẳng người trên đi-văng, hai tay bắt chéo dưới đầu.
"Hắn là ai? Con người trồi từ dưới đất lên ấy là ai? Hắn ở đâu và hắn đã thấy được những gì? Hắn đã thấy hết, không còn nghi ngờ gì nữa? Vậy thì hắn đã nấp ở đâu và đứng ở đâu mà quan sát? Sao mãi đến bây giờ hắn mới lộ mặt? Hắn làm thế nào mà thấy được? Có thể nào như thế được chăng? Hừm! - Raxkonikov nghĩ tiếp, người rùng mình buốt lạnh, - và cái hộp tư trang mà Mikolai tìm thấy sau cánh cửa, lẽ nào lại có thể như vậy? Tang chứng? Chỉ một điểm cỏn con mà đem xét kỹ cũng có thể biến thành một tang chứng bằng cỡ cái kim tự tháp Ai-cập. Một con ruồi bay qua, và nó đã nhìn thấy. Có thế như thế được chăng?".
Chàng bỗng ngao ngán nhận thấy thể chất mình đã suy nhược quá đỗi.
"Lẽ ra mình phải biết trước như thế!" - chàng mỉm cười chua chát - mình cũng đã tiên cảm được tâm trạng của mình, thế thì làm sao mình lại dám cầm một cây rìu và nhúng tay vào máu? Lẽ ra mình phải biết trước chuyện đó mới phải… Ơ, nhưng mình đã biết trước rồi đấy chứ! - chàng thì thào, tuyệt vọng.
Đôi lúc chàng lại đứng sững lại trước một ý nghĩ: "Không, những con người ấy không phải được đúc nên như thế nầy. Người chúa tể thực sự, người được phép làm tất cả mọi việc, bắn phá Toulon, tổ chức một vụ thảm sát ở Paris, bỏ quên đạo quân của mình ở Ai Cập, tiêu phí một nửa triệu người trong chiến dịch Moskva và đánh trống lảng bằng một trò chơi chữ ở Vilna (1); con người đó, đến khi chết người ta dựng tượng cho nó, vậy nghĩa là, với nó, mọi việc đều được phép làm. Không, những con người đó có những tấm thân không phải bằng thịt mà bằng đồng!"
Một ý nghĩ khác ở ngoài lề bất chợt hiện đến, suýt làm cho chàng bật cười lên.
"Napoleon, Kim tự tháp, Waterloo, và một mụ già hom hem nhớp nhúa, vợ goá của một viên thư lại, một mụ chủ hiệu cầm đồ ty tiện có một cái rương bọc đỏ đút dưới giường thì có liên quan gì với nhau? Có ai nuốt trôi được chuyện nầy, ngay cả Porfiri Petrovich nữa?
Làm thế nào cho hắn tin được chuyện nầy? Mỹ học sẽ can thiệp vào đây: "Napoleon mà lại bò xuống dưới gầm giường "mụ già" ấy! Chà, chó má thật!"
Thỉnh thoảng chàng cảm thấy như mình đang mê sảng: chàng đã rơi vào tâm trạng khích động của người lên cơn sốt.
"Con mụ già ấy thì chẳng có nghĩa lý gì! - dòng tư tưởng của chàng cuồn cuộn lên từng đợt một - Mụ già ấy… được, thì cứ cho đó là một sai lầm mà vấn đề không phải ở cái mụ ấy! Mụ già chỉ là một cơn bệnh thôi, mình định vượt qua trở ngại thật nhanh… Không phải mình giết một mạng người; mình biết một nguyên lý; cái nguyên lý ấy thì mình đã giết được rồi, nhưng còn vượt qua thì mình chưa vượt được, mình vẫn còn đứng bên nầy… Mình chỉ mới giết được thôi. Mà ngay việc nầy cũng chưa biết cách làm nữa… Nguyên lý? Tại sao vừa qua cái thằng ngốc Razumikhin lại đi sỉ vả bọn xã hội? Họ là những kẻ cần cù, ham buôn ham bán, họ lo đến "cái hạnh phúc chung"… Không cuộc sống đến với tôi chỉ được sống có một lần thôi và không bao giờ trở lại nữa, tôi không muốn chờ đợi "cái hạnh phúc chung". Tôi muốn bản thân tôi sống, không thì thà đừng sống còn hơn. Còn sao nữa? Tôi chỉ không muốn đành lòng đi qua trước một bà mẹ đói khát mà cứ giữ chịt lấy đồng rúp trong túi để chờ đợi cái "hạnh phúc chung". Cứ nói là "Tôi góp một viên gạch vào hạnh phúc chung, cho nên tôi tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn". Ha ha. Vậy thì tại sao các người lại bỏ sót tôi? Đời tôi chỉ có một lần sống, tôi cũng muốn sống cuộc sống của tôi… Về mỹ học ta chỉ là một con rận, không có gì khác hơn - chàng bật cười lên như một thằng điên - Đúng, quá thật ta là một con rận - chàng nghĩ tiếp, bám lấy cái ý tưởng đó một cách hả hê, vùi đầu vào nó, mân mê nó, đùng nó làm trò tiêu khiển, - đúng thế, trước hết là bởi vì lúc nầy ta đang lập luận rằng ta là một con rận, sau nữa là bởi vì trong một tháng ròng ta đã quấy rầy đức Thượng để chí tôn, đã kêu gào người chứng giám cho rằng ta mưu đồ việc ấy không phải vì miếng da của ta, cũng không phải vì sở thích của ta mà vì ta theo đuổi mục đích tuyệt mỹ và cao quý, ha ha! Thứ ba nữa là bởi vì ta đã đặt ra nguyên tắc phải tiến hành công việc hết sức công mmh, phải cân nhắc nặng nhẹ, phải có mức độ và phải chính xác như số học trong tất cả những con rận sống trên thế gian, ta đã chọn con có hại nhất, và khi giết nó, ta đã đinh ninh tự chủ là chỉ lấy của nó vừa đủ chi dùng cho những bước đầu của ta thôi, không hơn không kém (còn lại thì cũng cho tu viện, theo lời di chúc của nó, ha ha). Ta đích thị là một con rận, - chàng nghiến răng kèn kẹt nghĩ tiếp - bởi vì có thể ta là một cái gì còn ti tiện, còn thối tha hơn cả con rận bị giết, bởi vì ta đã linh cảm trước là ta sẽ tự nói như vậy sau khi giết nó! Có gì so sánh được với nỗi khủng khiếp nầy? Ôi, đê tiện, hèn mạt! Ô, giờ ta mới thực hiểu đấng "tiên tri" (2) cười ngựa, vung gươm: Allah (3) đã phán truyền, hãy vâng mệnh và cúi đầu, hỡi "loài sâu bọ đang run rẩy kia!" Đấng "tiên tri" có lý lắm, khi ông ta đặt ở ngang đường mấy khẩu đội đại bác nh - thật cừ và nã vào cả người ngay lẫn kẻ ác (4) mà không thèm giải thích lấy một lời. Ấy vâng mệnh, bởi con sâu run rẩy kia, và đừng có ước muốn vì đó không phải là việc của mày. Ôi? Không đời nào, ta không đời nào có thể tha thứ cho mụ già ấy!
Tóc chàng bết mồ hôi, đôi môi run run của chàng khô nẻ, tia mắt đờ đẫn của chàng đọng lại trên trần nhà.
"Mẹ ta, em ta, ta yêu họ biết nhường nào! Vì đâu mà nay ta lại ghét họ? Phải, ta ghét họ, ta ghét họ với một cảm giác nhục thể và ta không thể chịu được khi họ ở cạnh ta. Lúc nầy ta đến gần mẹ và ôm hôn mẹ, ta còn nhớ ôm hôn mẹ mà lại nghĩ là nếu mẹ biết. Lúc ấy ta có thể nói chuyện đó với mẹ chăng?
Cái đó chỉ tuỳ ở ta thôi… Hừm. Mụ ấy chắc phải y như ta, chàng cô tập trung tư tưởng nghĩ tiếp dường như đang vật lộn với cơn mê sảng đang tràn dần vào người chàng… - Ôi! giờ đây ta mới căm con mụ ấy làm sao! Mụ già? Hẳn là ta sẽ giết hắn một lần nữa nếu hắn sống lại. Tội nghiệp mụ Lizaveta! Sao mụ ta lại về vào lúc ấy? Mà kể cũng lạ thật sao mình lại hầu như không hề nghĩ đến mụ ta thế nhỉ, cứ như thể mình không giết mụ ta ấy Lizaveta. Sonya! Những con người thật đáng thương, thật hiền lành, có đôi mắt dịu dàng Họ đáng mến quá? Sao họ lại không khóc? Sao họ lại không rên rỉ? Họ hy sinh tất cả… họ có một cái nhìn trầm lặng và dỉu dàng… Sonya, Sonya, Sonya dịu hiền!"
Chàng mê man đi; chàng cũng tự lấy làm lạ không nhớ tại sao bỗng dưng lại thấy mình đứng ngoài đường.
Chiều đã xuống. Bóng tối dần dần dày đặc, ánh trăng rằm mỗi lúc một sáng hơn, song khi trời lại ngột ngạt khác thường. Ngoài đường người qua lại đông đúc, nào là thợ thuyền, nào là những người đi làm công đang đi về nhà, nào là những kẻ đi dạo; không khí phảng phất mùi vôi, mùi bụi, mùi nước đọng. Raxkonikov bước đi, buồn bã lo âu: chàng nhớ rất rõ là mình ra khỏi nhà với một ý định nào đấy, mình có một việc gì phải làm gấp, song đích xác việc gì thì chàng quên mất. Chợt chàng dừng lại và thấy bên kia đường, trên vỉa hè có một người đang vẫy tay ra hiệu cho chàng. Chàng băng qua đường đi về phía người kia, nhưng hắn bỗng quay ngoắt lại bỏ đi thẳng dường như không có chuyện gì xảy ra cả, đầu cúi gằm, không ngoái nhìn lại phía sau không có vẻ gì là vừa ra hiệu gọi Raxkonikov cả. "Kìa hay chưa có thực là hắn gọi mình không? - Raxkonikov tự hỏi, tuy nhiên chàng cũng cứ bước theo.
Chàng đi chưa được mươi bước, bỗng nhận ra được hắn và choáng người đi: chính là lão lái buôn lúc nãy, vẫn mặc cái áo dài ấy, vẫn cái lưng gù ấy. Raxkonikov theo hắn cách một quãng xa xa, trống ngực đập thình thình hai người rẽ vào một ngõ hẻm, người lạ mặt vẫn không hề ngoảnh lại. "Hắn có biết là mình đi theo hắn không?" - Raxkonikov nghĩ thầm. Người lạ mặt đi vào cổng một toà nhà lớn. Raxkonikov bước nhanh đến cổng và đưa mắt nhìn xem lão kia có ngoảnh lại nhìn hoặc gọi mình không. Quả thật khi hắn qua hết vòm cổng, vào đến trong sân, bèn quay phắt người lại và dường như vậy tay ra hiệu cho chàng: Raxkonikov liền đi vào cổng, nhưng vào đến sân thì không thấy người kia đâu nữa. Thế nghĩa là hắn đã lên cầu thang gác đầu tiên bên phải. Raxkonikov lao theo. Quả nhiên từ hai tầng gác trên còn nghe thấy tiếng chân bước thong thả và đều đều. Kỳ lạ thay, cái cầu thang trông như quen quen. Đây là chiếc cửa sổ ở tầng thứ nhất: ánh trăng dọi qua tấm cửa kính, buồn bã và huyền bí; và đây là tầng hai. Kìa, đây chính là căn buồng những người thợ sơn làm việc. Sao chàng lại không nhận ra ngay nhỉ? Những bước chân của người đi trước chàng im bặt.
"Thế tức là hắn đã dừng lại hoặc nấp ở đâu đây". Và đây là tầng thứ ba; có nên lên nữa chăng? Xung quanh im lặng quá; chàng thấy rờn rợn. Nhưng rồi chàng vẫn cứ bước lên. Tiếng bước chân của chính chàng làm cho chàng sợ hãi và lo lắng. Trời ơi, sao tối om thế nầy? Người lạ mặt chắc là nấp trong một xó nào gần đâu đấy. A! Cửa buồng trông ra cầu thang mở rộng!
Chàng suy nghĩ một lát, rồi bước vào. Phòng ngoài tối om và vắng tanh, không một bóng người, không một đồ vật, tuồng như người ta đã dọn đi hết. Chàng rón rén bước vào phòng khách, khắp căn phòng ngập trong ánh trăng vằng vặc, mọi vật đều vẫn y nguyên như cũ: mấy chiếc ghế dựa, tấm gương, chiếc đi-văng vàng và những bức tranh đóng khung. Trăng rằm như một quả cầu bằng đồng đỏ đồ sộ nhìn vào cửa sổ. "Chính vì ánh trăng cho nên mới im lặng quá thế nầy, - Raxkonikov thầm nghĩ - chắc là trăng đang gỡ mối một điều bí ẩn gì đây" Chàng dừng lại, đợi chờ; chàng đợi hồi lâu, và vầng trăng càng yên tĩnh bao nhiêu thì tim chàng càng đập mạnh bấy nhiêu, đến nỗi ngực chàng đau nhói lên.
Xung quanh vẫn im phăng phắc. Bỗng một tiếng rắc khô và gọn vang lên, tựa như có ai bẻ một nhánh củi, rồi mọi vật lại chìm vào im lặng. Một con ruồi thức giấc bay lên đâm vào tấm cửa kính và vo ve rền rĩ.
Ngay lúc ấy trong góc, giữa chiếc tủ con và khung cửa sổ, chàng trông thấy cái gì như một chiếc áo choàng phụ nữ treo trên tường. "Sao lại có một chiếc áo choàng ở đây? - chàng nghĩ - Trước kia có đâu?" Chàng bước rất khẽ lại gần và đoán ra rằng có ai đang nấp ở phía sau chàng. Chàng thận trọng giơ tay vén chiếc áo choàng lên thì thấy có một chiếc ghế dựa, và trên ghế một mụ già đang ngồi, người gập hẳn lại, đầu cúi gằm nên chàng không trông thấy mặt nhưng đó chính là mụ ta.
Raxkonikov đứng nhìn mụ một lảt. "Mụ ta sợ", chàng nghĩ, đoạn từ từ rút rìu ra khỏi quai và giáng lên đỉnh sọ mụ già một nhát, rồi một nhát nữa. Nhưng, lạ hay, bị mấy nhát rìu mà mụ cũng không hề nhúc nhích, tưởng chừng như người mụ làm bằng gỗ. Chàng đâm hoảng, cúi gầm gần hơn để nhìn cho kỹ, nhưng đầu mụ lại càng gục thấp xuống. Chàng cúi rạp xuống sát sàn nhà để nhìn mặt mụ từ dưới lên: chàng nhìn mụ già và chết khiếp đi. Mụ già đang ngồi cười nhăn nhở, một trận cười im lặng mà mụ cố giữ hết sức đừng vang lên thành tiếng để chàng khỏi nghe thấy. Bỗng nhiên chàng thấy như cửa buồng ngủ hé mở và ở bên kia cũng có ai cười nói thì thầm. Chàng như điên như dại, lấy hết sức giáng rìu vào đầu mụ ta, song mỗi nhát rìu giáng xuống thì tiếng cười và tiếng thì thầm lại mỗi lúc một to và rõ thêm; còn mụ già thì rũ ra cười ngặt nghẽo. Chàng toan chạy trốn, nhưng phòng ngoài đã đông nghịt những người, cánh cửa cầu, thang đã mở toang và ở đầu cầu thang, dọc các bậc cấp, từ trên xuống dưới lố nhố những người, chỉ thấy lúc nhúc những đầu là đầu. Mọi người đều nhìn chàng, nhưng lại tìm cách giấu mặt và nín lặng chờ đợi… Tim chàng thắt lại, chân chàng không nhấc lên được, tưởng như đã bắt rễ xuống. Chàng muốn kêu lên một tiếng… và tỉnh dậy.
Chàng khó nhọc thở ra một hơi dài, nhưng lạ thay, giấc mơ tuồng như vẫn tiếp diễn: cửa buồng chàng mở rộng và một người chàng không hề quen biết đang đứng trên ngưỡng cửa chăm chú nhìn chàng.
Raxkonikov chưa kịp mở hẳn mắt ra đã vội nhắm ngay lại. Chàng nằm dán sát xuống đi-văng không cựa quậy: "Có phải giấc mơ của mình tiếp diễn hay không?" chàng tự nhủ vả lại khẽ hé mi mắt ra liếc nhìn: người lạ mặt vẫn đứng nguyên chỗ cũ và tiếp tục nhìn chàng.
Bỗng hắn dè dặt bước qua ngưỡng cửa, khép cửa cẩn thận, tiến lại gần bàn, đợi một lát, mắt vẫn không rời Raxkonikov rồi từ từ, nhè nhẹ ngồi lên chiếc ghế dựa trước bàn, cạnh đi-văng. Hắn đặt mũ xuống sàn nhà, cạnh hắn, hai bàn tay đè lên đầu gậy và tỳ cằm lên bàn tay. Rõ ràng là hắn chuẩn bị chờ đợi lâu. Qua đôi mi he hé mở, Raxkonikov thấy người kia hình như cũng đã đứng tuổi; khổ người chắc nịch, mặt để một bộ râu rậm màu hoe nhạt gần như bạc.
Mười phút trôi qua. Trời còn sáng, nhưng chiều đang xuống dần. Trong buồng im phăng phắc. Từ dưới cầu thang cũng không có một tiếng động khẽ nào vọng lên. Chỉ có tiếng vo ve của một con nhặng to, bay loạng choạng húc vào cửa kính. Cuối cùng, tình huống nầy không sao chịu được nữa. Raxkonikov bỗng vùng dậy và ngồi lên đi-văng.
- Nào, nói đi, ông muốn gì?
- À tôi đã biết mà: ông không ngủ mà chỉ giả vờ ngủ thôi, - người lạ mặt buông một câu trả lời kỳ quặc và điềm nhiên cất tiếng cười.
- Xin phép ông được tự giới thiệu: Arkadi Ivanovich Xvidrigailov.
Chú thích:
(1) Đoạn nầy nhắc tới những hành động của Napoleon
(2) Tức Mohammet Hồi giáo
(3) Thượng đế của Hồi giáo
(4) Ám chỉ một hành động của Napoleon năm 1791
(2) Tức Mohammet Hồi giáo
(3) Thượng đế của Hồi giáo
(4) Ám chỉ một hành động của Napoleon năm 1791
Chương 19
Phải chăng giấc chiêm bao vẫn tiếp tục? - Raxkonikov tự hỏi một
lần nữa. Chàng đưa mắt ngờ vực và e dè nhìn người khách bất ngờ.
- Xvidrigailov? Vô lý! Làm gì có chuyện ấy! - cuối cùng chàng ngỡ ngàng nói to lên.
Hình như khách không mảy may lấy làm lạ vì mấy câu chàng vừa thốt ra.
- Tôi đến gặp ông có hai mục đích: trước hết tôi muốn được làm quen với ông, vì từ lâu tôi đã được nghe nói về ông nhiều điều rất lý thú và rất vinh hạnh cho ông; thứ đến, tôi mong rằng ông sẽ vui lòng giúp tôi một việc có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của em gái ông, Avdotia Romanovna. Nếu tôi cứ thế nầy đến gặp, không có ai gửi gắm gì, thì do một thành kiến cũ, thậm chí tiểu thư cũng không cho tôi vào sân nữa, còn được ông giúp cho thì ngược lại, tôi hy vọng rằng…
- Ông hy vọng hão rồi, - Raxkonikov ngắt lời.
- Xin hỏi, phu nhân và tiểu thư mới lên hôm qua phải không ạ.
Raxkonikov không đáp.
- Hôm qua, tôi biết. Chính tôi cũng mới đến đây được ba hôm nay. Rodion Romanovich ạ, về việc nầy tôi xin nói với ông như sau, tôi không thấy cần phải tự thanh minh, nhưng cũng xin phép hỏi ông câu nầy: thật ra trong tất cả câu chuyện đó, tôi có làm điều gì đặc biệt tội lỗi không, nghĩ là nói một cách không có định kiến gì, chỉ phán đoán theo lương tri?
Raxkonikov vẫn im lặng nhìn hắn.
- Tôi có đeo đuổi một người thiếu nữ không nơi nương tựa, ngay trong nhà tôi, và đã "đưa những lời rủ rê bỉ ổi xúc phạm đến nàng" chứ gì? (Đấy, tôi tự buộc tội trước rồi đấy!) Nhưng chỉ xem ông thử nghĩ rằng tôi cũng là một con người, et nihil humanum(1). Nói tóm lại, tôi cũng có thể bị sa ngã và đem lòng yêu dấu (cái nầy lẽ dĩ nhiên ý chí của ta không thể can thiệp vào được), đấy chỉ xin ông nghĩ cho như vậy là có thể lý giải được mọi việc một cách hết sức tự nhiên. Vấn đề chung quy như sau; tôi là một con quái vật hay chỉ là một nạn nhân? Ấy, nếu tôi là nạn nhân thì sao? Vì trong khi bàn với người tôi yêu đi trốn sang Mỹ hay sang Thuỵ Sĩ có thể là tôi vẫn ấp ủ những tình cảm hết sức tôn quý, lại còn nghĩ đến việc xây đắp hạnh phúc cho cả hai người nữa! Lý trí vốn phụng sự cho tình cảm mà; có lẽ kẻ bị tôi làm hại nhiều hơn cả lại chính là tôi cùng nên, xin ông tin cho như vậy!
- Nhưng vấn đề hoàn toàn không phải ở chỗ ấy! - Raxkonikov bực bội ngắt lời, - chẳng qua ông là một người ghê tởm. Ông đúng hay không đúng cũng thế thôi, cho nên người ta không thèm nhìn mặt ông, người ta xua đuổi ông, thế thì ông bước đi…
Xvidrigailov bỗng cười phá lên.
- Ông nầy thật… thật khó chơi với ông lắm. - hắn vừa nói vừa cất tiếng cười hết sức thẳng thắn, - tôi cũng định mưu mẹo một tí, nhưng ông lại xoáy ngay vào điểm chính.
- Thì ngay khi nói thế ông vẫn mưu mẹo đấy thôi?
- Sao ạ? Sao ạ - Xvidrigailov vừa nhắc đi nhắc lại vừa cười ha hả - thế nầy thì thật là bonne guerre (2) như người ta thường nói, và mưu mẹo của tôi quả cũng là loại mưu mẹo có thể dung thứ được lắm! Nhưng ông cho tôi nói nốt đã; dù sao tôi cũng xin khẳng định lại rằng giá không có câu chuyện xảy ra trong vườn thì sẽ không có gì rầy rà hết. Marfa Petrovna…
- Nghe nói ông cũng đã cho Marfa Petrovna về bên kia thế giới rồi thì phải? - Raxkonikov ngắt lời một cách thô bạo.
- Ông cùng có nghe nói việc nầy à? Mà không nghe sao được… ấy, về câu hỏi nầy quả tình tôi không biết nói sao, tuy lương tâm tôi hoàn toàn trong sạch trong việc nầy. Nghĩa là xin ông chớ nghĩ rằng tôi sợ lôi thôi nầy nọ, mọi việc đều xảy ra một cách bình thường và đúng lẽ: cuộc điều tra y tế chỉ phát hiện ra rằng đây là một cơn động kinh xảy ra vì mới ăn no và uống đến gần một chai rượu vang mà đã đi tắm ngay, ngoài ra không phát hiện được chút gì thêm nữa… Không ạ, đây, trong một thời gian, nhất là trong khi ngồi trên toa xe lửa lên đây, tôi có nghĩ thế nầy: có phải tôi đã có góp phần vào cái… tai nạn nầy không, vì tôi đã làm cho bà ta bị kích thích về tinh thần hay một cái gì như vậy? Nhưng tôi đã đi đến kết luận rằng chắc chắn không thể như vậy được.
Raxkonikov bật cười.
- Việc gì ông phải lo!
- Sao ông lại cười? Ông thử nghĩ xem: tôi đánh có hai roi nhẹ, thậm chí cũng không có lằn nữa… Xin ông đừng cho tôi là vô sỉ; tôi cũng biết rõ tôi làm như vậy là rất bỉ ổi, vân vân; nhưng tôi cũng biết chắc rằng Marfa Petrovna có lẽ cũng lấy làm hài lòng về sự… có thể nói là sự khiếm nhã của tôi. Câu chuyện về em ông đã được khai thác hết nước hết cái. Marfa Petrovna đã phải ngồi nhà đến ba ngày rồi; không còn chuyện gì để mà đem rêu rao trên phố nữa, vả lại bà ta đã làm mọi người phát chán với bức thư ấy rồi (chắc ông đã nghe nói chuyện đọc thư rồi chứ?). Và bỗng nhiên có hai nhát roi ấy như từ trên trời giáng xuống… Trước hết bà ta sai thắng xe, ngựa… ấy là tôi chưa nói đến những trường hợp đàn bà họ rất thích chí khi bị lăng nhục, tuy bề ngoài tỏ ra phẫn uất. Những trường hợp như vậy thì ai cũng có; thậm chí con người ta còn rất thích, rất thích bị lăng nhục nữa, ông có nhận thấy thế không? Nhưng nhất là đàn bà, thậm chỉ có thể nói họ chỉ biết lấy thế làm vui thôi.
Có lúc Raxkoniko đã toan đứng dậy bỏ đi để chấm dứt cuộc gặp gỡ nầy. Nhưng chàng chợt thấy tò mò thế nào ấy, và dường như còn muốn trù tính điều gì nữa, nên lại ngồi yên.
- Ông thích đánh đập lắm à? - chàng hỏi, giọng lơ đãng.
- Không, không thích lắm, - Xvidrigailov điềm nhiên đáp. - Còn như Marfa Petrovna với tôi thì hầu như không bao giờ đánh nhau. Chúng tôi ăn ở với nhau khá hoà thuận và xưa nay bà ta vẫn hài lòng về tôi. Suốt bảy năm trời chung sống tôi chi dùng roi có hai lần (nếu chưa kể một lần thứ ba nữa, nhưng trường hợp nầy lại hơi khó phân xử): lần thứ nhất là hai tháng sau khi cưới, ngay khi vừa về làng, và lần cuối cùng là lần vừa rồi. Chắc ông đã nghĩ tôi là một quái vật, một kẻ thoái hoá, một tên bạo chúa? Hê - hê hê - hê… À nầy, Rodion Romanovich, chắc ông còn nhớ cách đây mấy năm, từ dạo có những lời "sấm truyền ân đức", công chúng và báo chí đã sỉ nhục một anh chàng quý tộc - tôi quên mất tên - dùng roi đánh một mụ người Đức trong toa xe lửa. Ông còn nhớ không? Dạo ấy, hình như đúng vào năm ấy lại xảy ra cái "hành động quái gở của báo Thế kỷ" (ấy, buổi ngâm bài "Đêm Ai-cập" trước công chúng ấy mà, ông nhớ không?) Đôi mắt đen ấy mà, ôi, thời thanh xuân rực rỡ nay còn đâu! Đấy, ý tôi là thế nầy: tôi hoàn toàn không tán đồng cái ông đã đánh mụ người Đức, bởi vì thật ra không có gì… mà tán đồng! Tuy vậy tôi cũng không thể không tuyên bố rằng đôi khi cũng có những "mụ người Đức" làm mình ngứa chân, ngứa tay đến nỗi tôi thiết tưởng không có một người nào, dù tiến bộ đến đâu chăng nữa, lại dám tin chắc mười phần là mình có thể tự chủ được. Dạo ấy không ai nhìn sự việc cho quan điểm ấy, thế mà đây mới chính là một quan điểm nhân đạo, đung thế đấy.
Nói xong, Xvidrigailov đột nhiên cười phá lên. Raxkonikov thấy rõ ngay rằng con người nầy có một chủ định gì dứt khoát trong đầu óc.
- Chắc ông đã mấy ngày liền không nói chuyện với ai? - chàng hỏi.
- Gần như thế. Sao, chắc ông ngạc nhiên khi thấy tôi dễ dãi?
- Không, tôi ngạc nhiên vì thấy ông dễ dãi quá mức kia.
- Vì tôi không mếch lòng trước những câu hỏi thô bỉ của ông chứ gì? Phải thế không? Nhưng… mếch lòng cái gì? Ông hỏi thế nào thì tôi cũng trả lời thế ấy - hắn nói thêm, vẻ chất phác lạ lùng. - Vì tôi hầu như không quan tâm đặc biệt đến một cái gì cả, - hắn nói tiếp, vẻ như trầm ngâm. - Nhất là bây giờ, tôi không có việc gì bận tâm… Vả chăng, ông cũng có quyền nghĩ rằng tôi muốn gây thiện cảm của ông, nhất là vì tôi đang có việc dính dáng đến lm gái ông, như chính tôi đã nói rõ. Nhưng tôi xin nói thật, buồn lắm! Nhất là ba ngày nay, thành thử tôi còn lấy làm mừng được gặp ông nữa… tôi nói thế nầy ông đừng giận. Rodion Romanovich ạ, chính ông tôi trông cùng kỳ quái lắm, chẳng hiểu tại sao. Cũng tùy ông muốn nghi sao thì nghĩ, nhưng hiện nay ở ông to một cái gì đấy không riêng giây phút nầy nầy mà nói chung hiện nay… ấy. Ấy thôi, tôi xin thôi, ông đừng nhăn mặt! Tôi không đến nỗi là con gấu như ông tưởng đâu!
Raxkonikov, gườm gườm nhìn hắn.
- Có lẽ ông cũng chẳng phải là một con gấu. - chàng nói. - Tôi có cảm tưởng ông là người lịch thiệp hay ít nhất khi cần ông cũng biết tỏ ra mình là người tử tế.
- Nhưng tôi có quan tâm gì mấy đến cảm tưởng của ai về tôi đâu. - Xvidrigailov đáp xẵng, giọng hầu như có vẻ khinh bỉ nữa, - cho nên tôi tự hỏi tại sao lại không làm một kẻ hạ lưu: ở khí hậu ta khoác áo hạ lưu cũng thoái mái lắm và, nhất là nếu mình có xu hướng tự nhiên về phía đó - hắn nói thêm đoạn lại cười ha hả.
- Song tôi nghe nói là ở đây ông có nhiều người quen. Vì ông cũng có "ít nhiều thần thế" như người ta thường nói. Nếu vậy thì ông đến tôi để làm gì, nếu không có những mục đích nhất định?
- Ông nói đúng đấy, quá tôi có nhiều người quen, Xvidrigailov tiếp, không trả lời vào điểm chính, - tôi cũng có gặp họ; chả là tôi lang thang ở đây đã ba ngày nay rồi; tôi nhận ra họ, và hình như họ cũng nhận ra tôi. Tôi ăn mặc cũng tươm tất và cũng được xem là một người có máu mặt. Cuộc cải cách điền địa không động chạm gì đến nhà tôi: đất của tôi toàn là rừng và đồng cỏ nuôi gia súc, thu nhập không hề mất chút nào; nhưng… tôi không tìm đến họ; trước đây tôi cũng đã chán ngấy: tôi đến đã ba hôm nay mà vẫn không chào hỏi ai hết… Lại cái thành phổ nầy nữa! Không biết nó cấu tạo theo cái kiểu gì. Ông thử nói tôi nghe xem! Thành phố của bọn thư lại và đủ các loại thầy dòng (3)! Quả trước kia ở đây tôi cũng không nhận xét được nhiều, tám năm trước đây, khi tôi còn chơi bời ở đây. Bây giờ thì tôi chỉ còn mong vào giải phẫu nữa thôi, thật đấy!
- Giải phẫu thế nào?
- Còn về những thứ câu lạc bộ, những tiệm ăn Dussaud, những sòng bi-a và những thứ gọi là tiến bộ của các ông thì thôi, không có tôi ở đây cũng được, - hắn nói tiếp, không để ý đến câu hỏi của Raxkonikov. - Vả lại hơi đâu đi làm cờ bạc bịp mãi?
- Thế ông cũng đã làm cờ bạc bịp đấy à?
- Không thì biết làm thế nào? Chúng tôi có cả một công ty toàn người rất tử tế cả, cách đây tám năm; chúng tôi chơi cho qua thì giờ; ông ạ, toàn những người lịch thiệp, có cả những nhà thơ, nhưng nhà tư bản. Mà nói chung trong xã hội Nga chúng ta thì những kẻ lưu manh lại là những kẻ lịch thiệp nhất - Ông có để ý thấy không? Và ở nông thôn tôi mới đổ đốn ra như thế nầy. Thế nhưng dạo ấy tôi cũng suýt đi tù vì nợ một thằng cha người Hy-lạp ở Niegan. Đến đây Marfa Petrovna xuất hiện, bà ta thương lượng mặc cả với họ rồi chuộc tôi với số tiền ba vạn rúp (Tôi nợ cả thảy bảy vạn). Chúng tôi cưới nhau và bà ta lập tức chở tôi về làng như chở một kho tàng. Bà ta hơn tôi năm tuổi. Yêu tôi lắm. Bảy năm tôi không ra khỏi làng. Và xin ông lưu ý cho rằng suốt đời bà ta cứ giữ cái tờ biên lai ba vạn rúp ấy để đối phó với tôi, thành thử hễ tôi có ý nho nhoe gì một chút là bà ta lập tức cùm tôi lại! Bà ta không từ đâu? Đàn bà là họ kết hợp được tất cả các thứ đó ở trong người.
- Thế giá không có tờ giấy kia, ông sẽ chuồn chứ?
- Tôi không biết nói với ông thế nào đây? Tờ giấy ấy hầu như không bó buộc gì tôi cả. Tôi chẳng muốn đi đâu và chính bà Marfa Petrovna đã hai lần bàn với tôi đi du lịch ra nước ngoài khi thấy tôi buồn chán! Thế cơ đấy! Trước kia tôi cùng có ra nước ngoài, và lần nào tôi cũng phát buồn nôn lên. Cũng không hẳn như thế, nhưng trông thấy những buổi bình mình trên vịnh Napoli, nhìn mặt bể mà buồn buồn thế nào ấy. Khó chịu hơn cả là tự dưng có một cái gì làm cho mình buồn thật? Không, ở trong nước vẫn hơn: ở đây ít nhất chuyện gì cũng có thể đổ lỗi cho kẻ khác và tự thanh minh cho mình. Có lẽ bây giờ đây tôi sẽ sẵn lòng đi thám hiểm Bắc cực, vì J ai le vin mauvais (4), tôi ghét uống rượu lắm, mà ngoài rượu ra thì không còn cách gì nữa. Tôi đã thử. À nầy, nghe nói chủ nhật nầy Berg sẽ biểu diễn bay trên một quả khinh khí cầu rất lớn ở vườn Yuxupov, ai muốn cùng đi chỉ phải trả một số tiền nào đó phải không?
- Sao, ông muốn bay à?
- Tôi ấy à? không… là nói thế… - Xvidrigailov lắp bắp, vẻ đăm chiêu.
"Thật ra hắn muốn cái gì thế không biết" - Raxkonikov tự hỏi.
- Không, tờ giấy ấy không bó buộc tôi, - Xvidrigailov trầm ngâm nói tiếp, - tôi không ra khỏi làng là tự ý tôi. Hơn nữa, cách đây gần một năm, nhân ngày lễ thánh của tôi. Marfa Petrovna đã trao lại tờ giấy cho tôi, lại còn biếu thêm một số tiền khá lớn. Chả bà ấy có một số vốn. "Arkadi Ivanovich, ông thấy tôi tin ông đến thế nào, - Phải, bà ta nói thế đấy! Ông không tin bà ta nói thế à? Ông nên biết là tôi đã trở thành một vị điền chủ khá giỏi giang ở trong các làng quanh vùng người ta biết tôi cả. Tôi lại còn đặt mua sách về nữa. Lúc đầu Marfa Petrovna khuyên khích tôi, nhưng rồi lại sợ tôi đọc nhiều quá mụ người đi.
Hình như bây giờ không có Marfa Petrovna, ông buồn lắm thì phải?
- Tôi ấy à? Có lẽ, có lẽ đúng đấy. À nhân thể… ông có tin ma không?
- Ma gì?
- Ma ấy mà, ma thông thường ấy chứ còn ma gì?
- Thế ông tin à?
- Cũng tin mà cũng không, pour vous phaire (5)… Nghĩa là không hẳn là không…
- Ông có trông thấy hay sao?
Xvidrigailov nhìn chàng, và trong khóe mắt hắn có một cái gì kỳ quái:
- Marfa Petrovna có nhã ý trở về thăm tôi, - hắn nói, mồm méo xệch thành một nụ cười kỳ đị.
- Thăm ông là thế nào?
- Về ba lần rồi. Lân thứ nhất tôi trông thấy bà đúng hôm chôn cất, một giờ sau khi tôi ở nghĩa địa về. Đấy là một hóm trước khi tôi lên đường đến đây, lần thứ hai là hôm kia, ở dọc đường, lúc rạng đông, ở ga MalayaViesta, còn lần thứ ba thì cách đây hai tiếng, trong phòng trọ của tôi; lúc ấy trong phòng chỉ có mình tôi
- Trong khi ông thức à?
- Thức. Cả ba lần tôi đều đang thức cả. Bà ta đến, nói chuyện một lát rồi đi ra cửa. Hình như tôi còn nghe cả tiếng chân của bà ấy nữa.
- Không hiểu sao tôi cũng nghĩ là thế nào ông cũng phải gặp những chuyện như thế! - Raxkonikov bỗng thốt ra và lập tức lấy làm lạ về điều mình vừa nói. Chàng đang xúc động mạnh.
- Thế à? Ông nghĩ như thế à? - Xvidrigailov ngạc nhiên hỏi, - Thật thế đấy, tôi đã bảo là giữa hai chúng ta có một điểm gì giống nhau mà.
- Ông chưa hề nói như thế bao giờ! - Raxkonikov đáp xẵng, giọng tức tối.
- Tôi chưa nói?
- Chưa!
- Thế mà tôi cứ ngỡ là có nói rồi. Lúc nãy khi tôi vào thấy ông nằm nhắm mắt giả vờ ngù, tôi đã tự nhủ: "Đúng hắn đây rồi"
- Đúng hắn đây rồi là thế nào? Ông muốn ám chỉ gì? - Raxkonikov quát lên.
- Ám chỉ cái gì ấy à? Quả tôi cũng không biết là cái gì… - Xvidrigailov lúng túng, vẻ thật thà và hình như còn bối rối nữa, hai người im lặng một lát, giương mắt nhìn nhau.
- Thật là vớ vẩn! - Raxkonikov bực bội kêu lên. - Thế những khi bà ấy đến, bà ấy nói với ông những gì?
- Bà nhà tôi ấy à? Ông thử tưởng tượng xem, nói toàn những chuyện vặt vãnh; con người ta kể cũng lạ thật: tôi lại còn nổi giận lên nữa chứ. Lần thứ nhất bà ấy vào (hôm ấy tôi mệt lắm ông ạ: lễ cầu hồn, rồi kinh yên nghỉ, rồi đưa đám, rồi tiệc tang, xong xuôi đâu đấy tôi mới về buồng làm việc ngồi một mình suy nghĩ) bà ấy bước vào cửa nói: "Ông Arkadi Ivanovich ạ, hôm nay ông bận rộn quá quên lên dây đồng hồ ở phòng ăn rồi đấy". Quả nhiên suốt bảy năm nay, tuần nào tôi cũng lên đây đồng hồ lấy, và mỗi khi tôi quên bà ấy lại nhắc.
Hôm sau tôi lên đường đi Petersburg. Lúc ấy vào khoảng rạng đông, tôi vào ga - suốt đêm qua tôi chỉ ngủ gà, ngủ vịt, mỏi rã rời ra, mắt sưng húp, - tôi gọi cà-phê; chợt thấy Marfa Petrovna đến ngồi cạnh tôi, tay cầm một cỗ bài. "Arkadi Ivanovich ạ, tôi bói cho ông một quẻ xem đi đường có bình an không nhé? Bà ta vốn bói bài rất nghiệm. Tiếc quá, sao lúc ấy tôi lại không bảo bà ta bói cho kia chứ! Tôi hoàng hốt bỏ chạy. Vừa may lúc ấy chuông nhà ga cùng réo lên báo giờ tàu chuyển bánh. Hôm nay vừa ăn trưa xong, một bữa ăn rất tồi tệ mang ở hiệu về, bụng nặng trịch, tôi đang ngồi hút thuốc bỗng thấy Marfa Petrovna vào, trang phục rất chững chạc, mình mặc một chiếc áo dài lụa xanh đuôi dài lướt thướt: "Chào ông Arkadi Ivanovich! Ông thấy chiếc áo nầy thế nào? Amxka cũng không may khéo được thế nầy đâu (Amxka là cô thợ khâu của chúng tôi ở trong làng, xưa vốn là nông nô, có đi học may ở Moskva về; cô bé kháu đáo để)
Marfa Petrovna quay người cho tôi ngắm. Tôi ngắm chiếc áo, rồi nhìn kỹ mặt bà ta, tôi nói: "Marfa Petrovna, chỉ có những chuyện vậy ấy mà bà cũng cất công đến nói với tôi làm gì" - "Ô trời ơi, đến quấy rầy ông cũng không được nữa sao!" Tôi trêu tức: Marfa Petrovna ạ, tôi muốn lấy vợ - "Cái đó thì tuỳ ông thôi. Arkadi Ivanovich ạ; mồ vợ chưa xanh có mà ông đã đi lấy vợ khác ngay thì cũng chẳng có gì vinh hạnh lắm đâu. Và dù ông có chọn được người tốt chăng nữa, tôi cũng biết rằng cả người ấy lẫn ông rồi cũng chẳng ra gì, chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ thôi". Nói đoạn bà ta đi ra và tôi ngỡ chừng như nghe tiếng đuôi áo sột soạt trên sàn. Vô lý thật, phải không?
- Nhưng cũng có thể nãy giờ ông nói dối suốt - Raxkonikov nói.
- Tôi ít khi nói dối, - Xvidrigailov đáp, vẻ trầm ngâm và dường như không để ý đến cái giọng thô lỗ của câu hỏi.
- Thế trước đây ông không bao giờ thấy ma à?
- Có chứ, chỉ thấy một lần thôi cách đây sáu năm. Tôi có thằng gia nô tên là Finka; hắn chết vừa mới chôn xong, thế nhưng tôi quên mất, cứ gọi theo thói quen: "Finka: tẩu đâu!", thế là hắn bước vào và đi thẳng đến cái tủ để cái tẩu của tôi. Tôi ngồi nghĩ: "Hắn trả thù mình đây", vì ngay trước khi chết, hắn với tôi có chuyện xích mích khá to. Tôi mới nói: "Sao mày vào phòng tao mà lại dám mặc cái áo rách cùi tay thế hả, cút ngay, đô vô lại!". Hắn quay ra và không bao giờ đến nữa. Dạo ấy tôi không nói với Marfa Petrovna. Tôi cũng toan làm một buổi lễ cầu hồn cho hắn, nhưng rồi cũng ngường ngượng nên lại thôi.
- Ông đi nhờ bác sĩ khám cho.
- Cái đó thì ông không nói tôi cùng hiểu là tôi có bệnh, tuy không biết bệnh gì; theo tôi thì tôi còn khoẻ gấp năm ông đấy, tôi không muốn hỏi ông có tin là người ta có thể thấy ma không. Tôi muốn hỏi ông có tin là có ma không kia?
- Không, không đời nào tôi tin! - Raxkonikov quát to lên, giọng còn có vẻ hằn học nữa.
- Thường người ta nói thế nào nhỉ? - Xvidrigailov lẩm bẩm như nói một mình, mắt nhìn sang bên cạnh, đầu nghiêng nghiêng. - họ nói: "Anh ốm, vậy thì những cái anh thấy hiện lên chỉ là một giấc mê sảng hư ảo mà thôi". Thế nhưng nói như vậy không được lô gích cho lắm. Tôi đồng ý là chỉ có người ốm mới thấy ma; nhưng điều đó chỉ chứng minh rằng ma chỉ có thể hiện lên cho người ốm trông thấy mà thôi, chứ không hề chứng minh rằng bản thân con ma là không có thật.
- Dĩ nhiên là không! - Raxkonikov bực tức nhấn thêm vào.
- Không à? Ông nghĩ thế à? - Xvidrigailov chậm rãi đưa mắt nhìn chàng, nói tiếp. - Thế nếu suy luận thế nầy thì sao. Ông thử nói hộ tôi: "Ma có thể nói là những mảnh vụn, những mẩu đứt đoạn của những thế giới khác, là yếu tố phôi thai của nó. Người khỏe mạnh thì dĩ nhiên không thấy được, vì người khỏe mạnh là thứ người trần tục nhất cho nên chỉ sống cuộc sống trần tục mà thôi, dễ sống một cách trọn vẹn và có khuôn phép. Thế nhưng hễ ốm một cái, hễ cái trật tự bình thường của cõi trần bị phá vỡ thì lập tức bắt đầu thấy lộ ra cái khả năng tồn tại của một thế giới khác: và càng ốm nặng thì lại càng tiếp xúc nhiều hơn với cái thế giới ấy, thành thử khi người ta chết hẳn tức là người ta bước hẳn sang thế giới khác". Tôi đã suy nghĩ vấn đề nầy từ lâu. Nếu ông tin có cuộc sống vị lai thì cùng có thể tin lối suy luận đó.
- Tôi không tin có cuộc sống vị lai. - Raxkonikov nói.
Xvidrigailov ngồi yên, vẻ tư lự.
- Còn nếu ở bên kia chỉ có loài nhện hay một thứ gì như thế thì sao? - hắn chợt hỏi.
"Thằng cha nầy điên" - Raxkonikov thầm nghĩ.
- Đấy ta vẫn hình dung vĩnh hằng như một ý niệm không thể hiểu được, một cái gì to lớn vô cùng. Nhưng tại sao lại nhất thiết phải to lớn: Thế nhỡ ra, thay cho cái đó anh thứ tưởng tượng một căn buồng nhò xíu như cái buồng tắm ám khói ở nhà quê, góc chăng đầy mạng nhện, đấy cái vĩnh hằng chỉ có thế. Ông ạ, đôi khi tôi vẫn tưởng tượng như thế đấy.
- Thế chả nhẽ, chả nhẽ ông không hình dung thấy cái gì công bằng và có sức an ủi hơn thế sao - Raxkonikov thốt lên với một cảm giác khó chịu.
- Công bằng hơn ư? Biết thế nào được, có lẽ chỉnh như thế là công bằng hơn cũng nên, và nếu phải tôi thì tôi sẽ cố ý làm như vậy đấy ông ạ! - Xvidrigailov đáp, môi nở một nụ cười bâng quơ.
Nghe câu trả lời quái gở nầy, Raxkonikov bỗng thấy người lạnh toát. Xvidrigailov ngẩng dầu, nhìn chàng đăm đăm và bỗng cười phá lên.
- Không, ông thử xét điều nầy xem - hăn nói to - cách đây nửa giờ chúng ta chưa gặp nhau, bây giờ chúng ta đang xem nhau là kẻ thù, giữa hai chúng ta có một vấn đề chưa giải quyết, chúng ta đã gạt cái vấn đề ấy sang một bên và đi vào những chuyện văn chương triết lý như thế đấy? Đấy, tôi nói hai chúng ta cùng hội cùng thuyền cả, có đúng không nào?
- Ông làm ơn, - Raxkonikov bực mình đáp, - xin ông bày giải nhanh lên và cho tôi biết ông có nhã ý đến thăm tôi để làm gì… và… và… tôi đang vội, tôi có việc phải đi ngay bây giờ…
- Vâng, vâng được ạ. Em gái ông, Avdotia Romanovna, sắp lấy ông Lugin Piotr Petrovich phải không?
- Ông không thể đừng đã động gì đến em tôi và đừng nhắc đến tên em tôi ở đây hay sao? Thậm chí tôi cũng không hiểu tại sao ông dám mở miệng nói đến tên em tôi trước mặt tôi, nếu quá thật ông là Xvidrigailov?
- Thì tôi đến đây là để nói chuyện cô ấy, làm sao lại không nhắc được?
- Thôi được, ông nói đi, nhưng phải nhanh lên!
- Tôi tin chắc rằng về cái ông Lugin kia, một người có họ với nhà tôi, ông phải có một ý kiến rõ rệt, nếu ông đã gặp Lugin khoảng nửa giờ đồng hồ hay đã từng nghe ai nói về ông ta một cách trung thực và chính xác ông Lugin không xứng đối với Avdotia Romanovna đâu. Theo tôi, trong việc nầy Avdotia Romanovna hy sinh mình một cách khá hào hiệp và vô tư cho… cho gia đình. Qua tất cả những điều tôi đã được nghe nói về ông, tôi có cảm tưởng rằng về phía ông, ông cùng sẽ rất hài lòng nếu cuộc hôn nhân nầy không thành, miễn là quyền lợi của em không bị xâm phạm. Đến nay được trực tiếp làm quen với ông, tôi lại càng tin chắc như thế.
- Còn về phần ông thì như vậy là rất ngây thơ, xin lỗi, tôi muốn nói là rất trơ tráo.
- Tức ông muốn nói rằng tôi muốn kiếm chắc chứ gì ông đừng lo, Rodion Romanovich ạ, tôi mà muốn kiếm chắc thì đời nào tôi lại nói thẳng ra như thế, tôi có phải là một thằng ngốc đâu. Về vấn đề nầy tôi xin bộc lộ với ông một hiện tượng tâm lý kỳ lạ. Lúc nãy khi thanh minh cho mối tình của tôi đối với Avdotia Romanovna, tôi có nói rằng chính tôi là nạn nhân. Thế thì bây giờ xin ông biết cho rằng tôi không còn cảm thấy yêu đương gì nữa hết, thành thử chính tôi cũng lấy làm lạ, vì thật ra trước kia tôi quả có cảm thấy yêu…
- Vì ăn không ngồi rồi và dâm ô, - Raxkonikov ngắt lời.
- Quả nhiên tôi là người dâm ô và ăn không ngồi rồi. Vả chăng em ông có nhiều ưu thế đến nỗi tôi không thể không chịu một ấn tượng nào đó. Nhưng bây giờ chính tôi thấy đó toàn là chuyện nhảm.
- Ông thấy thế đã lâu chưa?
- Tôi đã nhận thấy từ trước, nhưng đến hôm kia, lúc gần đến Petersbung tôi mới biết chắc. Ngay ở Moskva tôi vẫn còn hình dung là mình đang đi ngỏ lời cầu hôn Avdotia Romanovna và kình địch với ông Lugin.
Tôi ngắt lời thế nầy ông bỏ qua cho, ông làm ơn nói ngắn lại và nói thẳng vào mục đích cuộc đến thăm hôm nay có được không? Tôi đang vội, tôi cần đi có tí việc.
- Rất sẵn sàng. Sau khi đến đây và quyết định đi một chuyến… du lịch, tôi muốn dàn xếp một số việc chuẩn bị cần thiết. Con cái tôi ở lại với bà dì; chúng nó có tài sản của mẹ để lại, không phải trông cậy gì vào tôi cả. Mà tôi cũng có ra mặt bố đâu! Tôi chỉ lấy về phần mình những gì Marfa Petrovna đã biếu tôi năm ngoái. Đối với tôi số tiền đó cũng đủ. Xin ông thứ lỗi cho, tôi đi ngay vào vấn đề đây. Trước khi lên đường đi du lịch - vì chuyến du lịch nầy có lẽ sẽ thực hiện - tôi muốn thanh toán dứt khoát với ông Lugin. Không phải vì tôi ghét bỏ gì ông ta lắm, nhưng chính vì ông ta mà sinh ra chuyện xích mích giữa tôi với Marfa Petrovna, khi tôi được biết rằng bà ta đã dàn xếp nên cuộc hôn nhân nầy. Bây giờ tôi muốn nhờ ông thu xếp cho tôi gặp Avdotia Romanovna để phân trần với cô em - trước mặt ông có lẽ càng tốt - rằng trước hết lấy Lugin không những không có chút lợi lộc gì mà lại còn thiệt thòi to nữa là khác. Rồi sau khi xin cô em tha thứ cho những chuyện rầy rà xảy ra trong thời gian gần đây, tôi sẽ xin phép được biếu cô em một vạn rúp để cho cô em dễ bề cự tuyệt ông Lugin, vì tôi biết chắc rằng cô em cũng vui lòng cự tuyệt ông ta, miễn là có khả năng để làm như vậy.
- Nhưng ông điên rồi, điên thật rồi! - Raxkonikov quát lên, vì kinh ngạc nhiều hơn là vì tức giận. - Sao ông dám ăn nói như thế?
- Tôi cũng biết ông sẽ quát lên; nhưng trước hết, tuy tôi không giàu, song số tiền một vạn rúp ấy nay cũng thừa, nghĩa là tôi hoàn toàn không cần dùng đến.
Avdotia Romanovna mà không nhận thì có lẽ tôi sẽ tiêu phí đi một cách rồ dại hơn nữa, đó là một. Sau nữa là lương tâm tôi hoàn toàn trong sạch, tôi biếu như vậy tuyệt nhiên không có suy tính thiệt hơn gì. Ông có tin hay không thì tỳ, sau nầy ông cũng như Avdotia Romanovna sẽ thấy rõ chẳng qua vì tôi đã làm cho cô em rất đáng kính của ông phải chịu nhiều nỗi lo âu phiền hà thật, cho nên tôi thành thực hối hận và chân thành muốn - không phải là chuộc lỗi hay đền bù lại những chuyện rầy rà nọ, - mà chỉ muốn làm một việc gì có ích cho cô em, bở vì quả tình tôi không phải chỉ có thể làm những việc xấu mà thôi. Ví thử tôi có chút suy tính tư lợi gì thì tôi sẽ không đề nghị biếu cô một vạn rúp, vì chỉ cách đây có năm tuần thôi tôi đã có để nghị biếu nhiều hơn. Hơn nữa, chỉ còn ít lâu, rất chóng thôi; tôi sẽ lấy một người con gái, do đó tất nhiên không còn có thể nghi ngờ gì rằng tôi có ý muốn mua chuộc Avdotia Romanovna. Để kết luận, tôi xin nói rằng nếu lấy ông Lugin, Avdotia Romanovna cũng nhận một số tiền như thế, chỉ có điều là của một người khác mà thôi… Xin ông đừng nổi giận, Rodion Romanovich ạ, ông hãy suy xét một cách điềm tĩnh và bình thản.
Trong khi nói như vậy, chính Xvidrigailov cũng hết sức điềm tĩnh và bình thản.
- Xin ông chấm dứt cho! - Raxkonikov nói. - Dù sao thì như vậy cũng là láo xược một cách không thể dung thứ được.
- Không láo xược tí nào đâu. Cứ như thế thì trên đời nầy con người chỉ có thể làm hại con người mà thôi, không có quyền làm là một chút điều thiện, chỉ vì những hình thức thông tục không đâu. Thật vô lý. Ví thử như tôi chết đi chẳng hạn, và để lại số tiền nầy cho em ông trong di chúc, chả nhẽ lúc bấy giờ cô ta cũng khước từ ư?
- Rất có thể.
- Ồ không đâu. Mà thôi, thế cũng được. Nhưng kể ra có một vạn rúp đôi khi cũng hay. Dù sao tôi cũng xin ông nói lại với Avdotia Romanovna cho.
- Không, tôi sẽ không nói lại đâu.
- Nếu vậy, ông Rodion Romanovich ạ, chính tôi buộc lòng phải tìm cách gặp riêng cô em, tức là phải quấy rầy cô ta.
- Nếu tôi nói lại, thì ông sẽ không tìm cách gặp riêng nữa chứ?
- Quả tình tôi không biết nói thế nào đây. Giá được gặp một lần thì hay lắm.
- Ông đừng hòng.
- Tiếc thật. Vả chăng ông không biết rõ tôi. Có lẽ sau nầy ta sẽ thân nha
- Ông cho rằng chứng ta sẽ thân nhau hơn?
- Sao lại không kia chứ - Xvidrigailov mỉm cười nói đoạn đứng dậy cầm lấy mũ, - không phải tôi muốn phiền ông làm gì, và khi đi đến đây tôi cũng không dám trông mong gì nhiều, tuy sáng nay dung mạo của ông đã gây cho tôi một ấn tượng rất mạnh…
- Sáng nay? Ông trông thấy tôi ở đâu? - Raxkonikov lo lắng hỏi.
- Tình cờ thôi… Tôi cứ có cảm giác là ông có một cái gì giống tôi… Thôi xin ông đừng lo, tôi không hay nhũng nhiễu đâu; với bọn cờ bạc bịp tôi cũng ăn ý lắm, công tước Xvirbey, một quan đại thần có họ xa với tôi, cũng không đến nỗi khó chịu vì tôi, với phu nhân Prilukova, tôi cũng biết viết vào an-bom mấy chữ về bức "Đức Bà" của Raphaen, với Marfa Petrovna cũng đã sống được bảy năm trời không đi đâu, trong nhà Vyazemxki ở Chợ hàng Rơm tôi cùng đã từng nghỉ đêm hồi trước, và có lẽ tôi còn đi khinh khí cầu với Beng nữa.
- Thôi được. Xin hỏi ông đã sắp đi chưa?
- Đi đâu ạ?
- Thì ông vừa nói là đi một chuyến "du lịch" mà.
- Đi du lịch? À phải? Quả thật tôi có nói chuyện với ông về chuyến du lịch… ấy, đấy là một vấn đề rộng lớn… Giá ông biết việc ông đang hỏi là việc gì! - hắn nói thêm đoạn cười to lên một tràng ngắn. - Có thể tôi không đi du lịch mà lại lấy vợ cũng nên; người ta đang làm mối cho tôi một người.
- Ở đây à?
- Vâng.
- Sao mà chóng thế
Nhưng tôi rất muốn được gặp qua Avdotia Romanovna một lần nữa. Tôi tha thiết xin ông như vậy Thôi, chào ông… à phải! Thế mà quên mất! Trong chúc thư Marfa Petrovna có để lại cho cô em ba nghìn rúp. Cái nầy tôi xin cam đoan là đúng. Một tuần lễ trước khi chết, Marfa Petrovna có viết chúc thư, lúc ấy tôi cũng có mặt. Độ hai ba tuần nữa Avdotia Romanovna có thể nhận tiền mặt.
- Ông nói thật đấy chứ?
- Thật đấy Xin ông chuyến lời lại. Thôi, xin chào ông. Tôi trọ cách đây không xa.
Ra cửa, Xvidrigailov vấp phải Razumikhin.
Chú thích:
- Xvidrigailov? Vô lý! Làm gì có chuyện ấy! - cuối cùng chàng ngỡ ngàng nói to lên.
Hình như khách không mảy may lấy làm lạ vì mấy câu chàng vừa thốt ra.
- Tôi đến gặp ông có hai mục đích: trước hết tôi muốn được làm quen với ông, vì từ lâu tôi đã được nghe nói về ông nhiều điều rất lý thú và rất vinh hạnh cho ông; thứ đến, tôi mong rằng ông sẽ vui lòng giúp tôi một việc có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của em gái ông, Avdotia Romanovna. Nếu tôi cứ thế nầy đến gặp, không có ai gửi gắm gì, thì do một thành kiến cũ, thậm chí tiểu thư cũng không cho tôi vào sân nữa, còn được ông giúp cho thì ngược lại, tôi hy vọng rằng…
- Ông hy vọng hão rồi, - Raxkonikov ngắt lời.
- Xin hỏi, phu nhân và tiểu thư mới lên hôm qua phải không ạ.
Raxkonikov không đáp.
- Hôm qua, tôi biết. Chính tôi cũng mới đến đây được ba hôm nay. Rodion Romanovich ạ, về việc nầy tôi xin nói với ông như sau, tôi không thấy cần phải tự thanh minh, nhưng cũng xin phép hỏi ông câu nầy: thật ra trong tất cả câu chuyện đó, tôi có làm điều gì đặc biệt tội lỗi không, nghĩ là nói một cách không có định kiến gì, chỉ phán đoán theo lương tri?
Raxkonikov vẫn im lặng nhìn hắn.
- Tôi có đeo đuổi một người thiếu nữ không nơi nương tựa, ngay trong nhà tôi, và đã "đưa những lời rủ rê bỉ ổi xúc phạm đến nàng" chứ gì? (Đấy, tôi tự buộc tội trước rồi đấy!) Nhưng chỉ xem ông thử nghĩ rằng tôi cũng là một con người, et nihil humanum(1). Nói tóm lại, tôi cũng có thể bị sa ngã và đem lòng yêu dấu (cái nầy lẽ dĩ nhiên ý chí của ta không thể can thiệp vào được), đấy chỉ xin ông nghĩ cho như vậy là có thể lý giải được mọi việc một cách hết sức tự nhiên. Vấn đề chung quy như sau; tôi là một con quái vật hay chỉ là một nạn nhân? Ấy, nếu tôi là nạn nhân thì sao? Vì trong khi bàn với người tôi yêu đi trốn sang Mỹ hay sang Thuỵ Sĩ có thể là tôi vẫn ấp ủ những tình cảm hết sức tôn quý, lại còn nghĩ đến việc xây đắp hạnh phúc cho cả hai người nữa! Lý trí vốn phụng sự cho tình cảm mà; có lẽ kẻ bị tôi làm hại nhiều hơn cả lại chính là tôi cùng nên, xin ông tin cho như vậy!
- Nhưng vấn đề hoàn toàn không phải ở chỗ ấy! - Raxkonikov bực bội ngắt lời, - chẳng qua ông là một người ghê tởm. Ông đúng hay không đúng cũng thế thôi, cho nên người ta không thèm nhìn mặt ông, người ta xua đuổi ông, thế thì ông bước đi…
Xvidrigailov bỗng cười phá lên.
- Ông nầy thật… thật khó chơi với ông lắm. - hắn vừa nói vừa cất tiếng cười hết sức thẳng thắn, - tôi cũng định mưu mẹo một tí, nhưng ông lại xoáy ngay vào điểm chính.
- Thì ngay khi nói thế ông vẫn mưu mẹo đấy thôi?
- Sao ạ? Sao ạ - Xvidrigailov vừa nhắc đi nhắc lại vừa cười ha hả - thế nầy thì thật là bonne guerre (2) như người ta thường nói, và mưu mẹo của tôi quả cũng là loại mưu mẹo có thể dung thứ được lắm! Nhưng ông cho tôi nói nốt đã; dù sao tôi cũng xin khẳng định lại rằng giá không có câu chuyện xảy ra trong vườn thì sẽ không có gì rầy rà hết. Marfa Petrovna…
- Nghe nói ông cũng đã cho Marfa Petrovna về bên kia thế giới rồi thì phải? - Raxkonikov ngắt lời một cách thô bạo.
- Ông cùng có nghe nói việc nầy à? Mà không nghe sao được… ấy, về câu hỏi nầy quả tình tôi không biết nói sao, tuy lương tâm tôi hoàn toàn trong sạch trong việc nầy. Nghĩa là xin ông chớ nghĩ rằng tôi sợ lôi thôi nầy nọ, mọi việc đều xảy ra một cách bình thường và đúng lẽ: cuộc điều tra y tế chỉ phát hiện ra rằng đây là một cơn động kinh xảy ra vì mới ăn no và uống đến gần một chai rượu vang mà đã đi tắm ngay, ngoài ra không phát hiện được chút gì thêm nữa… Không ạ, đây, trong một thời gian, nhất là trong khi ngồi trên toa xe lửa lên đây, tôi có nghĩ thế nầy: có phải tôi đã có góp phần vào cái… tai nạn nầy không, vì tôi đã làm cho bà ta bị kích thích về tinh thần hay một cái gì như vậy? Nhưng tôi đã đi đến kết luận rằng chắc chắn không thể như vậy được.
Raxkonikov bật cười.
- Việc gì ông phải lo!
- Sao ông lại cười? Ông thử nghĩ xem: tôi đánh có hai roi nhẹ, thậm chí cũng không có lằn nữa… Xin ông đừng cho tôi là vô sỉ; tôi cũng biết rõ tôi làm như vậy là rất bỉ ổi, vân vân; nhưng tôi cũng biết chắc rằng Marfa Petrovna có lẽ cũng lấy làm hài lòng về sự… có thể nói là sự khiếm nhã của tôi. Câu chuyện về em ông đã được khai thác hết nước hết cái. Marfa Petrovna đã phải ngồi nhà đến ba ngày rồi; không còn chuyện gì để mà đem rêu rao trên phố nữa, vả lại bà ta đã làm mọi người phát chán với bức thư ấy rồi (chắc ông đã nghe nói chuyện đọc thư rồi chứ?). Và bỗng nhiên có hai nhát roi ấy như từ trên trời giáng xuống… Trước hết bà ta sai thắng xe, ngựa… ấy là tôi chưa nói đến những trường hợp đàn bà họ rất thích chí khi bị lăng nhục, tuy bề ngoài tỏ ra phẫn uất. Những trường hợp như vậy thì ai cũng có; thậm chí con người ta còn rất thích, rất thích bị lăng nhục nữa, ông có nhận thấy thế không? Nhưng nhất là đàn bà, thậm chỉ có thể nói họ chỉ biết lấy thế làm vui thôi.
Có lúc Raxkoniko đã toan đứng dậy bỏ đi để chấm dứt cuộc gặp gỡ nầy. Nhưng chàng chợt thấy tò mò thế nào ấy, và dường như còn muốn trù tính điều gì nữa, nên lại ngồi yên.
- Ông thích đánh đập lắm à? - chàng hỏi, giọng lơ đãng.
- Không, không thích lắm, - Xvidrigailov điềm nhiên đáp. - Còn như Marfa Petrovna với tôi thì hầu như không bao giờ đánh nhau. Chúng tôi ăn ở với nhau khá hoà thuận và xưa nay bà ta vẫn hài lòng về tôi. Suốt bảy năm trời chung sống tôi chi dùng roi có hai lần (nếu chưa kể một lần thứ ba nữa, nhưng trường hợp nầy lại hơi khó phân xử): lần thứ nhất là hai tháng sau khi cưới, ngay khi vừa về làng, và lần cuối cùng là lần vừa rồi. Chắc ông đã nghĩ tôi là một quái vật, một kẻ thoái hoá, một tên bạo chúa? Hê - hê hê - hê… À nầy, Rodion Romanovich, chắc ông còn nhớ cách đây mấy năm, từ dạo có những lời "sấm truyền ân đức", công chúng và báo chí đã sỉ nhục một anh chàng quý tộc - tôi quên mất tên - dùng roi đánh một mụ người Đức trong toa xe lửa. Ông còn nhớ không? Dạo ấy, hình như đúng vào năm ấy lại xảy ra cái "hành động quái gở của báo Thế kỷ" (ấy, buổi ngâm bài "Đêm Ai-cập" trước công chúng ấy mà, ông nhớ không?) Đôi mắt đen ấy mà, ôi, thời thanh xuân rực rỡ nay còn đâu! Đấy, ý tôi là thế nầy: tôi hoàn toàn không tán đồng cái ông đã đánh mụ người Đức, bởi vì thật ra không có gì… mà tán đồng! Tuy vậy tôi cũng không thể không tuyên bố rằng đôi khi cũng có những "mụ người Đức" làm mình ngứa chân, ngứa tay đến nỗi tôi thiết tưởng không có một người nào, dù tiến bộ đến đâu chăng nữa, lại dám tin chắc mười phần là mình có thể tự chủ được. Dạo ấy không ai nhìn sự việc cho quan điểm ấy, thế mà đây mới chính là một quan điểm nhân đạo, đung thế đấy.
Nói xong, Xvidrigailov đột nhiên cười phá lên. Raxkonikov thấy rõ ngay rằng con người nầy có một chủ định gì dứt khoát trong đầu óc.
- Chắc ông đã mấy ngày liền không nói chuyện với ai? - chàng hỏi.
- Gần như thế. Sao, chắc ông ngạc nhiên khi thấy tôi dễ dãi?
- Không, tôi ngạc nhiên vì thấy ông dễ dãi quá mức kia.
- Vì tôi không mếch lòng trước những câu hỏi thô bỉ của ông chứ gì? Phải thế không? Nhưng… mếch lòng cái gì? Ông hỏi thế nào thì tôi cũng trả lời thế ấy - hắn nói thêm, vẻ chất phác lạ lùng. - Vì tôi hầu như không quan tâm đặc biệt đến một cái gì cả, - hắn nói tiếp, vẻ như trầm ngâm. - Nhất là bây giờ, tôi không có việc gì bận tâm… Vả chăng, ông cũng có quyền nghĩ rằng tôi muốn gây thiện cảm của ông, nhất là vì tôi đang có việc dính dáng đến lm gái ông, như chính tôi đã nói rõ. Nhưng tôi xin nói thật, buồn lắm! Nhất là ba ngày nay, thành thử tôi còn lấy làm mừng được gặp ông nữa… tôi nói thế nầy ông đừng giận. Rodion Romanovich ạ, chính ông tôi trông cùng kỳ quái lắm, chẳng hiểu tại sao. Cũng tùy ông muốn nghi sao thì nghĩ, nhưng hiện nay ở ông to một cái gì đấy không riêng giây phút nầy nầy mà nói chung hiện nay… ấy. Ấy thôi, tôi xin thôi, ông đừng nhăn mặt! Tôi không đến nỗi là con gấu như ông tưởng đâu!
Raxkonikov, gườm gườm nhìn hắn.
- Có lẽ ông cũng chẳng phải là một con gấu. - chàng nói. - Tôi có cảm tưởng ông là người lịch thiệp hay ít nhất khi cần ông cũng biết tỏ ra mình là người tử tế.
- Nhưng tôi có quan tâm gì mấy đến cảm tưởng của ai về tôi đâu. - Xvidrigailov đáp xẵng, giọng hầu như có vẻ khinh bỉ nữa, - cho nên tôi tự hỏi tại sao lại không làm một kẻ hạ lưu: ở khí hậu ta khoác áo hạ lưu cũng thoái mái lắm và, nhất là nếu mình có xu hướng tự nhiên về phía đó - hắn nói thêm đoạn lại cười ha hả.
- Song tôi nghe nói là ở đây ông có nhiều người quen. Vì ông cũng có "ít nhiều thần thế" như người ta thường nói. Nếu vậy thì ông đến tôi để làm gì, nếu không có những mục đích nhất định?
- Ông nói đúng đấy, quá tôi có nhiều người quen, Xvidrigailov tiếp, không trả lời vào điểm chính, - tôi cũng có gặp họ; chả là tôi lang thang ở đây đã ba ngày nay rồi; tôi nhận ra họ, và hình như họ cũng nhận ra tôi. Tôi ăn mặc cũng tươm tất và cũng được xem là một người có máu mặt. Cuộc cải cách điền địa không động chạm gì đến nhà tôi: đất của tôi toàn là rừng và đồng cỏ nuôi gia súc, thu nhập không hề mất chút nào; nhưng… tôi không tìm đến họ; trước đây tôi cũng đã chán ngấy: tôi đến đã ba hôm nay mà vẫn không chào hỏi ai hết… Lại cái thành phổ nầy nữa! Không biết nó cấu tạo theo cái kiểu gì. Ông thử nói tôi nghe xem! Thành phố của bọn thư lại và đủ các loại thầy dòng (3)! Quả trước kia ở đây tôi cũng không nhận xét được nhiều, tám năm trước đây, khi tôi còn chơi bời ở đây. Bây giờ thì tôi chỉ còn mong vào giải phẫu nữa thôi, thật đấy!
- Giải phẫu thế nào?
- Còn về những thứ câu lạc bộ, những tiệm ăn Dussaud, những sòng bi-a và những thứ gọi là tiến bộ của các ông thì thôi, không có tôi ở đây cũng được, - hắn nói tiếp, không để ý đến câu hỏi của Raxkonikov. - Vả lại hơi đâu đi làm cờ bạc bịp mãi?
- Thế ông cũng đã làm cờ bạc bịp đấy à?
- Không thì biết làm thế nào? Chúng tôi có cả một công ty toàn người rất tử tế cả, cách đây tám năm; chúng tôi chơi cho qua thì giờ; ông ạ, toàn những người lịch thiệp, có cả những nhà thơ, nhưng nhà tư bản. Mà nói chung trong xã hội Nga chúng ta thì những kẻ lưu manh lại là những kẻ lịch thiệp nhất - Ông có để ý thấy không? Và ở nông thôn tôi mới đổ đốn ra như thế nầy. Thế nhưng dạo ấy tôi cũng suýt đi tù vì nợ một thằng cha người Hy-lạp ở Niegan. Đến đây Marfa Petrovna xuất hiện, bà ta thương lượng mặc cả với họ rồi chuộc tôi với số tiền ba vạn rúp (Tôi nợ cả thảy bảy vạn). Chúng tôi cưới nhau và bà ta lập tức chở tôi về làng như chở một kho tàng. Bà ta hơn tôi năm tuổi. Yêu tôi lắm. Bảy năm tôi không ra khỏi làng. Và xin ông lưu ý cho rằng suốt đời bà ta cứ giữ cái tờ biên lai ba vạn rúp ấy để đối phó với tôi, thành thử hễ tôi có ý nho nhoe gì một chút là bà ta lập tức cùm tôi lại! Bà ta không từ đâu? Đàn bà là họ kết hợp được tất cả các thứ đó ở trong người.
- Thế giá không có tờ giấy kia, ông sẽ chuồn chứ?
- Tôi không biết nói với ông thế nào đây? Tờ giấy ấy hầu như không bó buộc gì tôi cả. Tôi chẳng muốn đi đâu và chính bà Marfa Petrovna đã hai lần bàn với tôi đi du lịch ra nước ngoài khi thấy tôi buồn chán! Thế cơ đấy! Trước kia tôi cùng có ra nước ngoài, và lần nào tôi cũng phát buồn nôn lên. Cũng không hẳn như thế, nhưng trông thấy những buổi bình mình trên vịnh Napoli, nhìn mặt bể mà buồn buồn thế nào ấy. Khó chịu hơn cả là tự dưng có một cái gì làm cho mình buồn thật? Không, ở trong nước vẫn hơn: ở đây ít nhất chuyện gì cũng có thể đổ lỗi cho kẻ khác và tự thanh minh cho mình. Có lẽ bây giờ đây tôi sẽ sẵn lòng đi thám hiểm Bắc cực, vì J ai le vin mauvais (4), tôi ghét uống rượu lắm, mà ngoài rượu ra thì không còn cách gì nữa. Tôi đã thử. À nầy, nghe nói chủ nhật nầy Berg sẽ biểu diễn bay trên một quả khinh khí cầu rất lớn ở vườn Yuxupov, ai muốn cùng đi chỉ phải trả một số tiền nào đó phải không?
- Sao, ông muốn bay à?
- Tôi ấy à? không… là nói thế… - Xvidrigailov lắp bắp, vẻ đăm chiêu.
"Thật ra hắn muốn cái gì thế không biết" - Raxkonikov tự hỏi.
- Không, tờ giấy ấy không bó buộc tôi, - Xvidrigailov trầm ngâm nói tiếp, - tôi không ra khỏi làng là tự ý tôi. Hơn nữa, cách đây gần một năm, nhân ngày lễ thánh của tôi. Marfa Petrovna đã trao lại tờ giấy cho tôi, lại còn biếu thêm một số tiền khá lớn. Chả bà ấy có một số vốn. "Arkadi Ivanovich, ông thấy tôi tin ông đến thế nào, - Phải, bà ta nói thế đấy! Ông không tin bà ta nói thế à? Ông nên biết là tôi đã trở thành một vị điền chủ khá giỏi giang ở trong các làng quanh vùng người ta biết tôi cả. Tôi lại còn đặt mua sách về nữa. Lúc đầu Marfa Petrovna khuyên khích tôi, nhưng rồi lại sợ tôi đọc nhiều quá mụ người đi.
Hình như bây giờ không có Marfa Petrovna, ông buồn lắm thì phải?
- Tôi ấy à? Có lẽ, có lẽ đúng đấy. À nhân thể… ông có tin ma không?
- Ma gì?
- Ma ấy mà, ma thông thường ấy chứ còn ma gì?
- Thế ông tin à?
- Cũng tin mà cũng không, pour vous phaire (5)… Nghĩa là không hẳn là không…
- Ông có trông thấy hay sao?
Xvidrigailov nhìn chàng, và trong khóe mắt hắn có một cái gì kỳ quái:
- Marfa Petrovna có nhã ý trở về thăm tôi, - hắn nói, mồm méo xệch thành một nụ cười kỳ đị.
- Thăm ông là thế nào?
- Về ba lần rồi. Lân thứ nhất tôi trông thấy bà đúng hôm chôn cất, một giờ sau khi tôi ở nghĩa địa về. Đấy là một hóm trước khi tôi lên đường đến đây, lần thứ hai là hôm kia, ở dọc đường, lúc rạng đông, ở ga MalayaViesta, còn lần thứ ba thì cách đây hai tiếng, trong phòng trọ của tôi; lúc ấy trong phòng chỉ có mình tôi
- Trong khi ông thức à?
- Thức. Cả ba lần tôi đều đang thức cả. Bà ta đến, nói chuyện một lát rồi đi ra cửa. Hình như tôi còn nghe cả tiếng chân của bà ấy nữa.
- Không hiểu sao tôi cũng nghĩ là thế nào ông cũng phải gặp những chuyện như thế! - Raxkonikov bỗng thốt ra và lập tức lấy làm lạ về điều mình vừa nói. Chàng đang xúc động mạnh.
- Thế à? Ông nghĩ như thế à? - Xvidrigailov ngạc nhiên hỏi, - Thật thế đấy, tôi đã bảo là giữa hai chúng ta có một điểm gì giống nhau mà.
- Ông chưa hề nói như thế bao giờ! - Raxkonikov đáp xẵng, giọng tức tối.
- Tôi chưa nói?
- Chưa!
- Thế mà tôi cứ ngỡ là có nói rồi. Lúc nãy khi tôi vào thấy ông nằm nhắm mắt giả vờ ngù, tôi đã tự nhủ: "Đúng hắn đây rồi"
- Đúng hắn đây rồi là thế nào? Ông muốn ám chỉ gì? - Raxkonikov quát lên.
- Ám chỉ cái gì ấy à? Quả tôi cũng không biết là cái gì… - Xvidrigailov lúng túng, vẻ thật thà và hình như còn bối rối nữa, hai người im lặng một lát, giương mắt nhìn nhau.
- Thật là vớ vẩn! - Raxkonikov bực bội kêu lên. - Thế những khi bà ấy đến, bà ấy nói với ông những gì?
- Bà nhà tôi ấy à? Ông thử tưởng tượng xem, nói toàn những chuyện vặt vãnh; con người ta kể cũng lạ thật: tôi lại còn nổi giận lên nữa chứ. Lần thứ nhất bà ấy vào (hôm ấy tôi mệt lắm ông ạ: lễ cầu hồn, rồi kinh yên nghỉ, rồi đưa đám, rồi tiệc tang, xong xuôi đâu đấy tôi mới về buồng làm việc ngồi một mình suy nghĩ) bà ấy bước vào cửa nói: "Ông Arkadi Ivanovich ạ, hôm nay ông bận rộn quá quên lên dây đồng hồ ở phòng ăn rồi đấy". Quả nhiên suốt bảy năm nay, tuần nào tôi cũng lên đây đồng hồ lấy, và mỗi khi tôi quên bà ấy lại nhắc.
Hôm sau tôi lên đường đi Petersburg. Lúc ấy vào khoảng rạng đông, tôi vào ga - suốt đêm qua tôi chỉ ngủ gà, ngủ vịt, mỏi rã rời ra, mắt sưng húp, - tôi gọi cà-phê; chợt thấy Marfa Petrovna đến ngồi cạnh tôi, tay cầm một cỗ bài. "Arkadi Ivanovich ạ, tôi bói cho ông một quẻ xem đi đường có bình an không nhé? Bà ta vốn bói bài rất nghiệm. Tiếc quá, sao lúc ấy tôi lại không bảo bà ta bói cho kia chứ! Tôi hoàng hốt bỏ chạy. Vừa may lúc ấy chuông nhà ga cùng réo lên báo giờ tàu chuyển bánh. Hôm nay vừa ăn trưa xong, một bữa ăn rất tồi tệ mang ở hiệu về, bụng nặng trịch, tôi đang ngồi hút thuốc bỗng thấy Marfa Petrovna vào, trang phục rất chững chạc, mình mặc một chiếc áo dài lụa xanh đuôi dài lướt thướt: "Chào ông Arkadi Ivanovich! Ông thấy chiếc áo nầy thế nào? Amxka cũng không may khéo được thế nầy đâu (Amxka là cô thợ khâu của chúng tôi ở trong làng, xưa vốn là nông nô, có đi học may ở Moskva về; cô bé kháu đáo để)
Marfa Petrovna quay người cho tôi ngắm. Tôi ngắm chiếc áo, rồi nhìn kỹ mặt bà ta, tôi nói: "Marfa Petrovna, chỉ có những chuyện vậy ấy mà bà cũng cất công đến nói với tôi làm gì" - "Ô trời ơi, đến quấy rầy ông cũng không được nữa sao!" Tôi trêu tức: Marfa Petrovna ạ, tôi muốn lấy vợ - "Cái đó thì tuỳ ông thôi. Arkadi Ivanovich ạ; mồ vợ chưa xanh có mà ông đã đi lấy vợ khác ngay thì cũng chẳng có gì vinh hạnh lắm đâu. Và dù ông có chọn được người tốt chăng nữa, tôi cũng biết rằng cả người ấy lẫn ông rồi cũng chẳng ra gì, chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ thôi". Nói đoạn bà ta đi ra và tôi ngỡ chừng như nghe tiếng đuôi áo sột soạt trên sàn. Vô lý thật, phải không?
- Nhưng cũng có thể nãy giờ ông nói dối suốt - Raxkonikov nói.
- Tôi ít khi nói dối, - Xvidrigailov đáp, vẻ trầm ngâm và dường như không để ý đến cái giọng thô lỗ của câu hỏi.
- Thế trước đây ông không bao giờ thấy ma à?
- Có chứ, chỉ thấy một lần thôi cách đây sáu năm. Tôi có thằng gia nô tên là Finka; hắn chết vừa mới chôn xong, thế nhưng tôi quên mất, cứ gọi theo thói quen: "Finka: tẩu đâu!", thế là hắn bước vào và đi thẳng đến cái tủ để cái tẩu của tôi. Tôi ngồi nghĩ: "Hắn trả thù mình đây", vì ngay trước khi chết, hắn với tôi có chuyện xích mích khá to. Tôi mới nói: "Sao mày vào phòng tao mà lại dám mặc cái áo rách cùi tay thế hả, cút ngay, đô vô lại!". Hắn quay ra và không bao giờ đến nữa. Dạo ấy tôi không nói với Marfa Petrovna. Tôi cũng toan làm một buổi lễ cầu hồn cho hắn, nhưng rồi cũng ngường ngượng nên lại thôi.
- Ông đi nhờ bác sĩ khám cho.
- Cái đó thì ông không nói tôi cùng hiểu là tôi có bệnh, tuy không biết bệnh gì; theo tôi thì tôi còn khoẻ gấp năm ông đấy, tôi không muốn hỏi ông có tin là người ta có thể thấy ma không. Tôi muốn hỏi ông có tin là có ma không kia?
- Không, không đời nào tôi tin! - Raxkonikov quát to lên, giọng còn có vẻ hằn học nữa.
- Thường người ta nói thế nào nhỉ? - Xvidrigailov lẩm bẩm như nói một mình, mắt nhìn sang bên cạnh, đầu nghiêng nghiêng. - họ nói: "Anh ốm, vậy thì những cái anh thấy hiện lên chỉ là một giấc mê sảng hư ảo mà thôi". Thế nhưng nói như vậy không được lô gích cho lắm. Tôi đồng ý là chỉ có người ốm mới thấy ma; nhưng điều đó chỉ chứng minh rằng ma chỉ có thể hiện lên cho người ốm trông thấy mà thôi, chứ không hề chứng minh rằng bản thân con ma là không có thật.
- Dĩ nhiên là không! - Raxkonikov bực tức nhấn thêm vào.
- Không à? Ông nghĩ thế à? - Xvidrigailov chậm rãi đưa mắt nhìn chàng, nói tiếp. - Thế nếu suy luận thế nầy thì sao. Ông thử nói hộ tôi: "Ma có thể nói là những mảnh vụn, những mẩu đứt đoạn của những thế giới khác, là yếu tố phôi thai của nó. Người khỏe mạnh thì dĩ nhiên không thấy được, vì người khỏe mạnh là thứ người trần tục nhất cho nên chỉ sống cuộc sống trần tục mà thôi, dễ sống một cách trọn vẹn và có khuôn phép. Thế nhưng hễ ốm một cái, hễ cái trật tự bình thường của cõi trần bị phá vỡ thì lập tức bắt đầu thấy lộ ra cái khả năng tồn tại của một thế giới khác: và càng ốm nặng thì lại càng tiếp xúc nhiều hơn với cái thế giới ấy, thành thử khi người ta chết hẳn tức là người ta bước hẳn sang thế giới khác". Tôi đã suy nghĩ vấn đề nầy từ lâu. Nếu ông tin có cuộc sống vị lai thì cùng có thể tin lối suy luận đó.
- Tôi không tin có cuộc sống vị lai. - Raxkonikov nói.
Xvidrigailov ngồi yên, vẻ tư lự.
- Còn nếu ở bên kia chỉ có loài nhện hay một thứ gì như thế thì sao? - hắn chợt hỏi.
"Thằng cha nầy điên" - Raxkonikov thầm nghĩ.
- Đấy ta vẫn hình dung vĩnh hằng như một ý niệm không thể hiểu được, một cái gì to lớn vô cùng. Nhưng tại sao lại nhất thiết phải to lớn: Thế nhỡ ra, thay cho cái đó anh thứ tưởng tượng một căn buồng nhò xíu như cái buồng tắm ám khói ở nhà quê, góc chăng đầy mạng nhện, đấy cái vĩnh hằng chỉ có thế. Ông ạ, đôi khi tôi vẫn tưởng tượng như thế đấy.
- Thế chả nhẽ, chả nhẽ ông không hình dung thấy cái gì công bằng và có sức an ủi hơn thế sao - Raxkonikov thốt lên với một cảm giác khó chịu.
- Công bằng hơn ư? Biết thế nào được, có lẽ chỉnh như thế là công bằng hơn cũng nên, và nếu phải tôi thì tôi sẽ cố ý làm như vậy đấy ông ạ! - Xvidrigailov đáp, môi nở một nụ cười bâng quơ.
Nghe câu trả lời quái gở nầy, Raxkonikov bỗng thấy người lạnh toát. Xvidrigailov ngẩng dầu, nhìn chàng đăm đăm và bỗng cười phá lên.
- Không, ông thử xét điều nầy xem - hăn nói to - cách đây nửa giờ chúng ta chưa gặp nhau, bây giờ chúng ta đang xem nhau là kẻ thù, giữa hai chúng ta có một vấn đề chưa giải quyết, chúng ta đã gạt cái vấn đề ấy sang một bên và đi vào những chuyện văn chương triết lý như thế đấy? Đấy, tôi nói hai chúng ta cùng hội cùng thuyền cả, có đúng không nào?
- Ông làm ơn, - Raxkonikov bực mình đáp, - xin ông bày giải nhanh lên và cho tôi biết ông có nhã ý đến thăm tôi để làm gì… và… và… tôi đang vội, tôi có việc phải đi ngay bây giờ…
- Vâng, vâng được ạ. Em gái ông, Avdotia Romanovna, sắp lấy ông Lugin Piotr Petrovich phải không?
- Ông không thể đừng đã động gì đến em tôi và đừng nhắc đến tên em tôi ở đây hay sao? Thậm chí tôi cũng không hiểu tại sao ông dám mở miệng nói đến tên em tôi trước mặt tôi, nếu quá thật ông là Xvidrigailov?
- Thì tôi đến đây là để nói chuyện cô ấy, làm sao lại không nhắc được?
- Thôi được, ông nói đi, nhưng phải nhanh lên!
- Tôi tin chắc rằng về cái ông Lugin kia, một người có họ với nhà tôi, ông phải có một ý kiến rõ rệt, nếu ông đã gặp Lugin khoảng nửa giờ đồng hồ hay đã từng nghe ai nói về ông ta một cách trung thực và chính xác ông Lugin không xứng đối với Avdotia Romanovna đâu. Theo tôi, trong việc nầy Avdotia Romanovna hy sinh mình một cách khá hào hiệp và vô tư cho… cho gia đình. Qua tất cả những điều tôi đã được nghe nói về ông, tôi có cảm tưởng rằng về phía ông, ông cùng sẽ rất hài lòng nếu cuộc hôn nhân nầy không thành, miễn là quyền lợi của em không bị xâm phạm. Đến nay được trực tiếp làm quen với ông, tôi lại càng tin chắc như thế.
- Còn về phần ông thì như vậy là rất ngây thơ, xin lỗi, tôi muốn nói là rất trơ tráo.
- Tức ông muốn nói rằng tôi muốn kiếm chắc chứ gì ông đừng lo, Rodion Romanovich ạ, tôi mà muốn kiếm chắc thì đời nào tôi lại nói thẳng ra như thế, tôi có phải là một thằng ngốc đâu. Về vấn đề nầy tôi xin bộc lộ với ông một hiện tượng tâm lý kỳ lạ. Lúc nãy khi thanh minh cho mối tình của tôi đối với Avdotia Romanovna, tôi có nói rằng chính tôi là nạn nhân. Thế thì bây giờ xin ông biết cho rằng tôi không còn cảm thấy yêu đương gì nữa hết, thành thử chính tôi cũng lấy làm lạ, vì thật ra trước kia tôi quả có cảm thấy yêu…
- Vì ăn không ngồi rồi và dâm ô, - Raxkonikov ngắt lời.
- Quả nhiên tôi là người dâm ô và ăn không ngồi rồi. Vả chăng em ông có nhiều ưu thế đến nỗi tôi không thể không chịu một ấn tượng nào đó. Nhưng bây giờ chính tôi thấy đó toàn là chuyện nhảm.
- Ông thấy thế đã lâu chưa?
- Tôi đã nhận thấy từ trước, nhưng đến hôm kia, lúc gần đến Petersbung tôi mới biết chắc. Ngay ở Moskva tôi vẫn còn hình dung là mình đang đi ngỏ lời cầu hôn Avdotia Romanovna và kình địch với ông Lugin.
Tôi ngắt lời thế nầy ông bỏ qua cho, ông làm ơn nói ngắn lại và nói thẳng vào mục đích cuộc đến thăm hôm nay có được không? Tôi đang vội, tôi cần đi có tí việc.
- Rất sẵn sàng. Sau khi đến đây và quyết định đi một chuyến… du lịch, tôi muốn dàn xếp một số việc chuẩn bị cần thiết. Con cái tôi ở lại với bà dì; chúng nó có tài sản của mẹ để lại, không phải trông cậy gì vào tôi cả. Mà tôi cũng có ra mặt bố đâu! Tôi chỉ lấy về phần mình những gì Marfa Petrovna đã biếu tôi năm ngoái. Đối với tôi số tiền đó cũng đủ. Xin ông thứ lỗi cho, tôi đi ngay vào vấn đề đây. Trước khi lên đường đi du lịch - vì chuyến du lịch nầy có lẽ sẽ thực hiện - tôi muốn thanh toán dứt khoát với ông Lugin. Không phải vì tôi ghét bỏ gì ông ta lắm, nhưng chính vì ông ta mà sinh ra chuyện xích mích giữa tôi với Marfa Petrovna, khi tôi được biết rằng bà ta đã dàn xếp nên cuộc hôn nhân nầy. Bây giờ tôi muốn nhờ ông thu xếp cho tôi gặp Avdotia Romanovna để phân trần với cô em - trước mặt ông có lẽ càng tốt - rằng trước hết lấy Lugin không những không có chút lợi lộc gì mà lại còn thiệt thòi to nữa là khác. Rồi sau khi xin cô em tha thứ cho những chuyện rầy rà xảy ra trong thời gian gần đây, tôi sẽ xin phép được biếu cô em một vạn rúp để cho cô em dễ bề cự tuyệt ông Lugin, vì tôi biết chắc rằng cô em cũng vui lòng cự tuyệt ông ta, miễn là có khả năng để làm như vậy.
- Nhưng ông điên rồi, điên thật rồi! - Raxkonikov quát lên, vì kinh ngạc nhiều hơn là vì tức giận. - Sao ông dám ăn nói như thế?
- Tôi cũng biết ông sẽ quát lên; nhưng trước hết, tuy tôi không giàu, song số tiền một vạn rúp ấy nay cũng thừa, nghĩa là tôi hoàn toàn không cần dùng đến.
Avdotia Romanovna mà không nhận thì có lẽ tôi sẽ tiêu phí đi một cách rồ dại hơn nữa, đó là một. Sau nữa là lương tâm tôi hoàn toàn trong sạch, tôi biếu như vậy tuyệt nhiên không có suy tính thiệt hơn gì. Ông có tin hay không thì tỳ, sau nầy ông cũng như Avdotia Romanovna sẽ thấy rõ chẳng qua vì tôi đã làm cho cô em rất đáng kính của ông phải chịu nhiều nỗi lo âu phiền hà thật, cho nên tôi thành thực hối hận và chân thành muốn - không phải là chuộc lỗi hay đền bù lại những chuyện rầy rà nọ, - mà chỉ muốn làm một việc gì có ích cho cô em, bở vì quả tình tôi không phải chỉ có thể làm những việc xấu mà thôi. Ví thử tôi có chút suy tính tư lợi gì thì tôi sẽ không đề nghị biếu cô một vạn rúp, vì chỉ cách đây có năm tuần thôi tôi đã có để nghị biếu nhiều hơn. Hơn nữa, chỉ còn ít lâu, rất chóng thôi; tôi sẽ lấy một người con gái, do đó tất nhiên không còn có thể nghi ngờ gì rằng tôi có ý muốn mua chuộc Avdotia Romanovna. Để kết luận, tôi xin nói rằng nếu lấy ông Lugin, Avdotia Romanovna cũng nhận một số tiền như thế, chỉ có điều là của một người khác mà thôi… Xin ông đừng nổi giận, Rodion Romanovich ạ, ông hãy suy xét một cách điềm tĩnh và bình thản.
Trong khi nói như vậy, chính Xvidrigailov cũng hết sức điềm tĩnh và bình thản.
- Xin ông chấm dứt cho! - Raxkonikov nói. - Dù sao thì như vậy cũng là láo xược một cách không thể dung thứ được.
- Không láo xược tí nào đâu. Cứ như thế thì trên đời nầy con người chỉ có thể làm hại con người mà thôi, không có quyền làm là một chút điều thiện, chỉ vì những hình thức thông tục không đâu. Thật vô lý. Ví thử như tôi chết đi chẳng hạn, và để lại số tiền nầy cho em ông trong di chúc, chả nhẽ lúc bấy giờ cô ta cũng khước từ ư?
- Rất có thể.
- Ồ không đâu. Mà thôi, thế cũng được. Nhưng kể ra có một vạn rúp đôi khi cũng hay. Dù sao tôi cũng xin ông nói lại với Avdotia Romanovna cho.
- Không, tôi sẽ không nói lại đâu.
- Nếu vậy, ông Rodion Romanovich ạ, chính tôi buộc lòng phải tìm cách gặp riêng cô em, tức là phải quấy rầy cô ta.
- Nếu tôi nói lại, thì ông sẽ không tìm cách gặp riêng nữa chứ?
- Quả tình tôi không biết nói thế nào đây. Giá được gặp một lần thì hay lắm.
- Ông đừng hòng.
- Tiếc thật. Vả chăng ông không biết rõ tôi. Có lẽ sau nầy ta sẽ thân nha
- Ông cho rằng chứng ta sẽ thân nhau hơn?
- Sao lại không kia chứ - Xvidrigailov mỉm cười nói đoạn đứng dậy cầm lấy mũ, - không phải tôi muốn phiền ông làm gì, và khi đi đến đây tôi cũng không dám trông mong gì nhiều, tuy sáng nay dung mạo của ông đã gây cho tôi một ấn tượng rất mạnh…
- Sáng nay? Ông trông thấy tôi ở đâu? - Raxkonikov lo lắng hỏi.
- Tình cờ thôi… Tôi cứ có cảm giác là ông có một cái gì giống tôi… Thôi xin ông đừng lo, tôi không hay nhũng nhiễu đâu; với bọn cờ bạc bịp tôi cũng ăn ý lắm, công tước Xvirbey, một quan đại thần có họ xa với tôi, cũng không đến nỗi khó chịu vì tôi, với phu nhân Prilukova, tôi cũng biết viết vào an-bom mấy chữ về bức "Đức Bà" của Raphaen, với Marfa Petrovna cũng đã sống được bảy năm trời không đi đâu, trong nhà Vyazemxki ở Chợ hàng Rơm tôi cùng đã từng nghỉ đêm hồi trước, và có lẽ tôi còn đi khinh khí cầu với Beng nữa.
- Thôi được. Xin hỏi ông đã sắp đi chưa?
- Đi đâu ạ?
- Thì ông vừa nói là đi một chuyến "du lịch" mà.
- Đi du lịch? À phải? Quả thật tôi có nói chuyện với ông về chuyến du lịch… ấy, đấy là một vấn đề rộng lớn… Giá ông biết việc ông đang hỏi là việc gì! - hắn nói thêm đoạn cười to lên một tràng ngắn. - Có thể tôi không đi du lịch mà lại lấy vợ cũng nên; người ta đang làm mối cho tôi một người.
- Ở đây à?
- Vâng.
- Sao mà chóng thế
Nhưng tôi rất muốn được gặp qua Avdotia Romanovna một lần nữa. Tôi tha thiết xin ông như vậy Thôi, chào ông… à phải! Thế mà quên mất! Trong chúc thư Marfa Petrovna có để lại cho cô em ba nghìn rúp. Cái nầy tôi xin cam đoan là đúng. Một tuần lễ trước khi chết, Marfa Petrovna có viết chúc thư, lúc ấy tôi cũng có mặt. Độ hai ba tuần nữa Avdotia Romanovna có thể nhận tiền mặt.
- Ông nói thật đấy chứ?
- Thật đấy Xin ông chuyến lời lại. Thôi, xin chào ông. Tôi trọ cách đây không xa.
Ra cửa, Xvidrigailov vấp phải Razumikhin.
Chú thích:
(1) Ý muốn nói "Homo sum et nihil humanum ame alienum
put" (Tôi là một con người và không có thuộc tính nào của con người mà tôi
không có)
(2) "thẳng thắn" hay "khôn khéo" (tiếng Pháp)
(3) Ý muốn ám chỉ đến các đảng phái cách mạng
(4) Rượu vào tôi rất xấu tính (tiếng Pháp)
(5) Để vừa lòng ông
(2) "thẳng thắn" hay "khôn khéo" (tiếng Pháp)
(3) Ý muốn ám chỉ đến các đảng phái cách mạng
(4) Rượu vào tôi rất xấu tính (tiếng Pháp)
(5) Để vừa lòng ông
Chương 20
Đã gần tám giờ; hai người vội vã đến nhà Bakaleyev để tới trước
Lugin.
- Ai thế cậu? - Razumikhin hỏi ngay khi họ ra phố.
- Đó là Xvidrigailov, chính cái lão trang chủ đã làm nhục em tôi khi nó làm gia sư trong nhà lão. Lão ta đeo đuổi nó, thế là Marfa Petrovna vợ lão đuổi nó ra khỏi nhà. Về sau bà ta có xin lỗi nó. Thế rồi bà ta bỗng lăn đùng ra chết. Sáng hay họ nói chuyện là nói về bà ta đấy. Không hiểu sao tôi thấy sợ lão ta lắm. Chôn cất vợ xong, lão lên đây ngay. Lão có vẻ kỳ quặc lắm và hình như đang quyết định một việc gì… Hình như lão có biết một cái gì đây… Phải bảo Dunia coi chừng lão ấy… cái nầy tôi muốn nói với cậu đây, cậu nghe chứ? Coi chừng!
- Liệu lão ấy làm gì được Avdotia Romanovna? Cảm ơn cậu đã nói với mình như thế… ta sẽ đề phòng, đề phòng cho Avdotia Romanovna… Bây giờ lão ở đâu?
- Không biết.
- Sao cậu không hỏi? Chà, tiếc thật! Mà thôi, tớ sẽ tìm ra.
- Cậu trông thấy mặt hắn chứ - Razumikhin hỏi sau một lát im lặng.
- Có trông thấy, có trông thấy hẳn hoi.
- Cậu trông rõ mặt lão ấy chứ? - Raxkonikov hỏi gạn thêm.
- Có chứ, tớ nhớ rất rõ; trong một đám đông hàng nghìn người tớ cũng nhận ra ngay, tớ nhớ mặt dai lắm.
Hai người im lặng.
- Hừm… cái nầy thì… - Raxkonikov lẩm bẩm. - Cậu ạ mình có ý nghĩ là… mình cứ có cảm giác là… đây có lẽ chỉ là mình tưởng tượng ra thôi.
- Cậu nói chuyện gì thế? Tớ chưa hiểu lắm.
- Đấy các cậu đều bảo là mình điên, - Raxkonikov nói tiếp, môi méo xệch thành một nụ cười - bây giờ mình cũng có cảm giác là mình điên thật, và vừa rồi chẳng qua là một bóng ma hiện hình trong cơn mê sảng.
- Cậu nói gì thế?
- Biết đâu đấy! Có thể mình điên thật cũng nên, và tất cả những việc xảy ra mấy hôm nay có lẽ chỉ có trong tưởng tượng của mình…
- Chà, Rodia? Người ta lại làm cậu rối óc lên rồi! Lão ta nói những gì, lão đến có việc gì?
Raxkonikov không trả lời. Razumikhin ngẫm nghĩ một lát.
- Thôi, cậu nghe tớ báo cáo công việc đây, - anh mở đầu. - Tớ có ghé vào cậu, cậu đang ngủ. Sau đó tớ đi ăn cơm chiều rồi đến nhà Porfiri. Zamiotov vẫn ở đấy. Tớ cũng toan nói, nhưng chẳng thành cái gì cả. Không sao nói chuyện thật sự được. Họ có vẻ như không hiểu và không tài nào hiểu được, nhưng cùng chẳng hề bối rối gì. Tớ kéo Porfiri ra cửa sổ và bắt đầu nói, nhưng vẫn chẳng ra sao cả: hắn nhìn một đằng, tớ nhìn một néo. Rốt cục tớ giơ qua đấm lên sát mồm hắn và báo sẽ đấm vỡ óc hắn ra. Hắn chỉ nhìn tớ rồi nhổ toẹt một bãi rồi ra về, đấy chỉ có thế. Thật ngu xuẩn. Zamiotov thì tớ chẳng nói một câu nào. Cậu ạ, tớ cứ nghĩ thế là hỏng bét rồi, nhưng khi đi xuống cầu thang tớ chợt nảy ra một ý nghĩ nó làm tớ nhẹ hắn cả người ra: tại sao tớ với cậu cứ phải lo lắng như vậy? Có gì nguy hiểm cho cậu hay có dính dáng đến cậu cho cam. Đằng nầy có gì đâu? Cậu chẳng có gì dính dáng đến chuyện ấy hết, thế thì cậu cứ kệ mẹ chúng nó; sau nầy ta sẽ cười vào mũi chúng, phải tay tớ thì tớ còn trêu thêm cho chúng rối óc ra nữa ấy. Về sau tha hồ mà xấu hổ! Cậu nhổ toẹt vào; sau nầy sẽ cho chúng một mẻ, còn bây giờ thì cứ, mặc chúng thôi!
- Dĩ nhiên là như thế! - Raxkonikov đáp. "Rồi mai đây cậu sẽ bảo sao?" - chàng nghĩ thầm. Lạ thật, trước nay chưa bao giờ chàng có ý tự hỏi xem Razumikhin sẽ nghĩ gì khi biết sự thật. Nghĩ như vậy, Raxkonikov chảm chú nhìn bạn. Còn như chuyện Razumikhin đến gặp Porfiri thì bây giờ chàng rất ít quan tâm: từ bấy đến nay đã xảy thêm bao nhiêu việc và bao nhiêu việc đã lùi vào hậu cảnh!
Trong hành lang họ chạm trán phải Lugin, ông ta đến đúng tám giờ nhưng còn đang tìm căn buồng trọ của hai mẹ con Dunia, thành thử cả ba người cùng vào một lúc, nhưng không nhìn nhau và không chào nhau. Hai người bạn trẻ vào trước, cờn Piotr Petrovich, để giữ phép lịch sự, nấn ná một lúc trong phòng mắc áo để cởi áo khoác ngoài. Punkheria Alekxandrovna lập tức ra đón ông từ ngoài ngưỡng cửa. Dunia thì chào hỏi anh nàng.
Piotr Petrovich bước vào và cúi chào hai người phụ nữ một cách khá nhã nhặn, tuy vẻbệ vệ còn tăng bội phần. Vả lại trông ông ta cũng có vẻ hơi bàng hoàng, chưa trấn tĩnh lại được. Punkheria Alekxandrovna dường như cũng luống cuống. Bà vội và mời cả ba ông khách ngồi quanh cái bàn tròn, trên có chiếc ấm xamovar đang sôi sùng sục. Dunia và Lugin ngồi đối diện nhau ở hai đầu bàn. Razumikhin và Raxkonikov thì ngồi trước mặt bà Punkheria Alekxandrovna; - Razumikhin ngồi gần Lugin còn Raxkonikov ngồi cạnh em gái.
Họ ngồi im lặng một lát. Piotr Petrovich thong thả rút ra một chiếc mùi soa nhiễu sực mùi nước hoa và xỉ mũi với cái dáng của một người rất có thiện ý nhưng vẫn hơi bị xúc phạm vào phẩm giá và nhất quyết đòi người ta phải phân trần. Khi còn ở phòng ngoài ông ta đã thoáng có ý không cởi áo khoác nữa và bỏ ra về đề trừng phạt một cách đích đáng hai mẹ con Dunia, bắt họ phải nghĩ lại. Nhưng ông ta không dám. Hơn nữa ông ta vốn không thích những tình thế mập mờ, mà lúc nầy thì lại cần phải hiểu cho rõ: nếu người ta đã vi phạm vào điều kiện ông ta đề ra một cách trắng trợn như vậy, tức phải có một cái gì đây, cho nên phải biết rõ thực hư trước đã; sau nầy vẫn còn chán thì giờ trừng phạt, và ông ta chẳng thiếu gì cách.
- Tôi hy vọng rằng vừa qua bà đi đường vẫn được mạnh khoẻ chứa ạ? - Ông ta trịnh trọng nói với Punkheria Alekxandrovna.
- Nhờ ơn Chúa, ông Piotr Petrovich ạ.
- Tôi rất mừng. Còn Avdotia Romanovna cũng không mệt chứ?
- Tôi thì trẻ và khỏe thế nầy nên không mệt, chứ mẹ tôi thì rất khổ - Dunia đáp.
- Biết làm thế nào được; các đường quốc lộ của ta dài lắm. Cái gọi là "nước Nga, mẹ của chúng ta" rộng lớn lắm… Còn tôi thì hôm qua, mặc dầu rất muốn, vẫn không kịp đến đón bà và cô được. Song tôi cũng mong rằng không có gì phiền hà xảy ra cả chứ ạ?
- Ồ có chứ, ông Piotr Petrovich ạ, chúng tôi thật vô cùng bối rối, - Punkheria Alekxandrovna vội trả lời giọng nghe khang khác, - và giả sử hôm qua không phải ông Dmitri Prokofich đến với chúng tôi thì hai mẹ con cũng đến chết mà thôi. Đấy, ông Dmitri Prokofich Razumikhin đấy ạ, - bà nói thêm, giới thiệu anh với Lugin.
- À hôm qua… tôi đã được hân hạnh, - Lugin lắp bắp, mắt liếc nhìn Razumikhin một cách thiếu thiện cảm, rồi cau mày và im bặt.
Nói chung Piotr Petrovich thuộc hạng người có vẻ hết sức nhã nhặn trong khi giao thiệp và cũng tự hào cho mình là nhã nhặn, nhưng hễ có điều gì hơi trái ý một chút là lại hầu như bất giác mất hết những thủ đoạn của mình trong chốc lát và đâm ra giống như những bao bột hơn là giống những trang công tử hoạt bát biết làm cho cử toạ náo nhiệt lên. Mọi người lại im lặng: Raxkonikov thì cứ một mực làm thinh, Avdotia Romanovna thì không muốn nói quá sớm, còn Razumikhin thì chẳng có gì để mà nói, thành thử Punkheria Alekxandrovna lại đâm lo.
- Marfa Petrovna mất rồi, ông có nghe nói không, - bà mở đầu, viện đến cái phương sách tối hậu của mình.
- Có chứ ạ, Tôi đã được biết tin ngay từ đầu và giờ đây cũng xin báo để bà và cô biết rằng Arkadi Ivanovich Xvidrigailov ngay sau khi an táng vợ xong đã hối hả lên Petersburg, ít nhất theo những tin tức chính xác nhất mà tôi đã nhận được là như thế.
- Lên Petersburg? Lên đây? - Duneska lo lắng hỏi lại và đưa mắt nhìn mẹ.
- Đúng thế đấy ạ, và dĩ nhiên không phải không có chủ đích, nếu xét cách ra đi vội vã của ông ta, và nói chung là những việc xảy ra trước đây.
- Trời ơi! Chả nhẽ đến bây giờ mà ông ta vẫn không chịu để cho Duneska yên hay sao? - Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
- Tôi thiết tưởng không có gì đáng lo ngại cho lắm, đối với bà hay Avdotia Romanovna cũng vậy, dĩ nhiên là nếu bà và cô không muốn có quan hệ gì với ông ta. Còn về phần tôi, tôi sẽ theo dõi và sẽ tìm ra chỗ trọ của ông ta…
- Ồ ông Piotr Petrovich, ông không biết chứ vừa rồi nghe ông nói thế tôi sợ quá! - Punkheria Alekxandrovna nói tiếp. - Tôi mới gặp ông ấy có hai lần, thế mà tôi đã thấy sợ ông ta lắm, sợ lắm đấy! Tôi tin chắc là chính vì ông ta mà bà Marfa Petrovna chết.
- Về việc nầy chưa thể kết luận được, tôi có những tin tức chính xác. Tôi thừa nhận rằng có thể ông ta đã xúc tiến cho sự việc xảy ra nhanh hơn, có thể nói là bằng cách lăng nhục để gây một ảnh hưởng tinh thần; nhưng về tư cách và đạo đức của con người ấy thì tôi đồng ý với bà. Tôi không biết bây giờ giờ ông ta có giàu không và bà Marfa Petrovna để lại cho ông được những gì; về điều nầy thì chỉ trong một thời hạn rất ngắn nữa tôi sẽ biết, nhưng dĩ nhiên ở chôn Petersburg nầy mà trong tay lại có sẵn ít tiền thì ông ta sẽ lập tức trở về thói cũ. Đó là một con người hết sức truỵ lạc và chết ngập trong các thói xấu xa, trong hạng trác táng không còn ai bì kịp? Tôi có khá đủ cơ sở để ước đoán rằng Marfa Petrovna, chẳng may đã quá yếu mà chuộc nợ cho ông ta tám năm về trước, lại còn cứu giúp cho ông ta về phương diện khác nữa: chỉ nhờ bà ta đã cố gắng và hy sinh nhiều lắm mới im được ngay từ đầu một vụ tội hình, trong đó có cả tính chất man rợ đầy thú tính lẫn một sự hung ác có thể gọi là quái đản, rất có thể làm cho ông ta đi Sibiri một chuyến. Nếu bà muốn biết, thì con người ấy là như vậy đấy.
- Ô trời ơi! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
Raxkonikov chăm chú lăng nghe.
- Có đúng là ông có những tài liệu đích xác về những việc đó không? - Dunia hỏi, vẻ nghiêm nghị và quả quyết - Đó toàn là những điều bí mật mà bà Marfa Petrovna quá cố đã nói riêng cho tôi biết. Cần nêu rõ rằng về quan điểm tư pháp thì vụ nầy rất mờ ám. Trước kia ở đây có một người đàn bà ngoại quốc tên là Resslich, làm nghề cho vay lãi lặt vặt và một số nghề khác. Hình như bây giờ người đó vẫn ở đây thì phải. Từ lâu ông Xvidrigailov đã có những mối quan hệ rất gần gũi và bí mật với mụ Resslich đó. Ở nhà mụ ta có con bé mười lăm hay chỉ là mười bốn tuổi gì đấy thôi, vừa câm vừa điếc, có bà con với mụ ta, đâu như là cháu họ thì phải. Mụ căm ghét đưa bé ấy vô cùng và luôn mồn chửi mắng nó là đồ ăn hại, thậm chi lại còn đánh đập một cách vô nhân đạo nữa. Một hôm người ta thấy nó treo cổ chết trong một gian nhà kho. Cuộc điều tra xác định rằng đây là một vụ tự sát. Vụ nầy kết thúc sau những thử tục tố tụng thường lệ, nhưng về sau lại có người tố giác rằng đứa bé đã bị Xvidrigailov làm nhục một cách tàn nhẫn. Quả tình tất cả những việc rất mờ ám, người tố giác là một người đàn bà Đức khác, hành tung đồi bại và không có tín nhiệm gì cuối cùng lời tố giác ấy cũng bị dìm đi do những cố gắng chạy chọt và đút lót của bà Marfa Petrovna; mọi việc rốt cục chỉ bó hẹp trong phạm vì đồn đại. Tuy vậy, tiếng đồn nầy cũng được khá nhiều người chú ý đến khi còn ở nhà họ, chắc cô Avdotia Romanovna cũng có nghe nói đến chuyện Philip chết cách đã sáu năm hồi còn chế độ nông nô vì bị hành hạ tàn nhẫn.
- Ngược lại tôi nghe nói rằng tên Philip ấy tự thắt cổ chết.
- Đúng như thế đấy ạ, nhưng chính là sự hành hạ, ức hiếp không ngừng của ông Xvidrigailov đã bức tử hắn, hay nói cho đúng hởn, đã đẩy hắn đến cái xu thế muốn tự tử.
- Tôi không biết việc đó. - Dunia đáp xẵng - tôi chỉ nghe được một chuyện rất là kỳ lạ, nói rằng tên Philip ấy có chứng ưu uất thế nào đấy, hắn là một thứ hiền triết tại gia, người ta nói rằng hắn đọc sách nhiều qúa hoá điên và hắn thắt cổ chỉ là vì những lời chế giễu của ông Xvidrigailov chứ không phải vì đòn vọt của ông ta. Dạo còn ở đấy tôi thấy ông ta đối xử với người nhà tử tế lắm, họ còn quý ông ta nữa, tuy quả thật họ cũng buộc tội cho ông đã gây ra cái chết của Philip.
- Cô Avdotia Romanovna ạ, tôi thấy hình như cô bỗng dưng có xu hướng muốn thanh minh cho ông ta thì phải, - Lugin nhận xét, môi tím lại thành một nụ cười khó hiểu - Quả thật ông ta là một người khôn ngoan và giỏi lấy lòng phụ nữ lắm lắm: bà Marfa Petrovna với cái chết kỳ lạ của bà có thể xem là một dẫn chứng đáng buồn. Tôi chỉ muốn giúp cô và bà cụ thân sinh cô một vài ý kiến để đề phòng những âm mưu mới mà ông ta chắc chắn sẽ tiến hành. Còn về phần tôi thì tôi tin chắc thế nào rồi ông ta cũng vào ngồi tù vì nợ. Bà Marfa Petrovna tuyệt nhiên không bao giờ có ý chia gia tài cho ông ta, vì còn phải lo cho con cái, và nếu có để lại cho ông ta ít nhiều chăng thì cũng chỉ là số tiền tối thiều, tạm bợ, vừa đủ chi dùng, mà với những thói ăn chơi như ông ta thì không đủ tiêu xài trong một năm.
- Ông Piotr Petrovich ạ, - Dunia nói, - xin ông đừng nói đến ông Xvidrigailov nữa. Tôi ngấy lắm rồi.
- Ông ta vừa đến tôi xong, - Raxkonikov bỗng lên tiếng lần đầu tiên.
Ai nấy đều nhớn nhác quay cả về phía chàng. Ngay Piotr Petrovich cũng hồi hộp.
- Cách đây một tiếng rưỡi, trong khi tôi đang ngủ, ông ta vào đánh thức tôi dậy và tự giới thiệu. - Raxkonikov nói tiếp. - Ông ta ăn nói khá hoạt bát vui vẻ, và rất tin rằng tôi sẽ kết thân với ông ta. Ông ta rất muốn gặp em đấy, Dunia ạ, và có nhờ anh làm môi giới cho cuộc gặp mặt đó. Ông ta có đề nghị anh một việc và có cho anh biết rằng bà Marfa Petrovna một tuần trước khi chết có viết chúc thư để cho em ba nghìn rúp, và chỉ trong một thời gian ngắn nữa em sẽ nhận được số tiền ấy.
- Lạy Chúa! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên, tay làm dấu thánh. - Cầu nguyện cho bà ấy đi, Dunia ạ, cầu nguyện cho bà ấy với.
- Sự thật quả đúng thế, - Lugin buột miệng nói.
- Thế rồi sao nữa? - Dunia giục giã.
- Rồi ông ta bảo rằng bản thân ông ta cũng không giàu, toàn bộ gia sản đều để lại cho các con hiện đang ở với bà dì. Sau đó ông ta có nói rằng ông ta trọ cách nhà anh không xa, nhưng ở đâu thì không biết, anh không hỏi…
- Nhưng ông ta muốn bàn gì với Dunia? - Punkheria Alekxandrovna hoảng sợ hỏi. - Ông ta có nói gì với con không?
- Có
- Bàn gì thế?
- Sau con sẽ nói. - Raxkonikov im lặng quay về chén trà.
Piotr Petrovich rút đồng hồ ra xem.
- Tôi cần phải đi có việc, cho nên cũng không làm phiền các vị nữa đâu! - Ông ta nói thêm, vẻ hơi phật ý và rời ghế đứng dậy.
- Ông ở lại tí đã. Piotr Petrovich ạ. - Dunia nói, - vì ông đã định ngồi chơi vơi chúng tôi suốt tối hôm nay kia mà. Hơn nữa trong thư ông lại viết là có việc phải giãi bày với mẹ tôi.
- Đúng thế đấy Avdotia Romanovna ạ. - Piotr Petrovich nói dõng dạc, và lại ngồi xuống ghế, nhưng tay vẫn cầm mũ, - Qua nhiên tôi đã có ý muốn trình bày mấy việc với cô và bà cụ cô lại là những việc rất quan trọng nữa. Nhưng vì anh cô cũng không thể nói lại một số đề nghị của ông Xvidrigailov trước mặt tôi, cho nên tôi cũng không muốn và không thể giải bày… trước mặt người khác… một số điểm tối ư hệ trọng. Hơn nữa lời yêu cầu khẩn thiết và chủ yếu của tôi đã không được thi hành…
Lugin làm ra vẻ mặt chua chát và lặng thinh một cách trang trọng.
- Sở dĩ lời yêu cầu của ông - yêu cầu anh tôi không có mặt trong buổi gặp gỡ nầy - không được thì hành cũng chỉ vì tôi đã một mực khẩn khoản như vậy, - Dunia nói. - Ông có viết rằng ông đã bị anh tôi sỉ nhục; tôi nghĩ rằng việc nầy cần phải làm sáng tỏ ngay và hai người phải hoà giải với nhau. Và nếu anh Rodia quả có xúc phạm đến ông thật, thì anh ấy phải xin lỗi ông, và anh ấy sẽ xin lỗi.
Piotr Petrovich lập tức vững tâm trở lại.
- Cô Avdotia Romanovna ạ, có những lối sỉ nhục mà dù có thiện ý đến đâu cũng không thể quên được. Cái gì cùng có một giới hạn mà nếu vượt qua thì rất nguy hiểm; vì khi đã vượt qua rồi thì không thể quay trở lại được nữa.
- Ý của tôi không hẳn là muốn nói đến chuyện ấy, ông Piotr Petrovich ạ. - Dunia ngắt lời hỏi sốt ruột:
- Xin ông hiểu rõ cho rằng bây giờ, tương lai của chúng ta đều tuỳ ở chỗ việc nầy có được sáng tỏ và dàn xếp ổn thoả chóng vánh hay không. Tôi xin nói thẳng ngay với ông rằng tôi không thể nhìn nhận cách nào khác, và nếu ông có chút nào coi trọng tôi, thì dù có khó khăn thật, chuyện nầy cũng phải chấm dứt ngay hôm nay. Tôi xin nhắc lại rằng nếu anh tôi sai, anh tôi sẽ xin lỗi.
- Tôi là làm lạ ràng cô lại đặt vấn đề như thế, Avdotia Romanovna ạ, - Lugin mỗi lúc một thêm tức tối - Trong khi quý trọng và có thể không ưa một người nào đó trong gia đình cô lắm chứ. Trong khi cầu mong cái diễm phúc được kết hôn với cô, tôi không thể đồng thời lĩnh lấy những nhiệm vụ không ăn khớp với…
- Ồ, ông bỏ cái tính hay mếch lòng ấy đi, Piotr Petrovich ạ. - Dunia bực bội ngắt lời, - Và xin ông hãy là người thông minh và cao thượng như xưa nay tôi vẫn hình dưng ông và đến nay tôi vẫn mong được hình dung như thế. Tôi đã có một lời hứa trọng đại với ông, tôi là vợ chưa cưới của ông; trong việc nầy. Ông có tin tôi hay không thì tuỳ ông, chứ tôi rất đủ khả năng suy xét một cách vô tư. Tôi đứng ra phân xử thế nầy cùng là một việc đột ngột đối với anh tôi cũng như đối với ông. Sau khi đọc bức thư của ông, tôi đã khẩn khoản mời anh tôi đến dự buổi gặp gỡ nầy mà không hề cho anh ấy biết gì về ý định của tôi. Xin ông hiểu cho rằng nếu hai người không hoà giải với nhau, thì tôi đành phải chọn giữa hai người: hoặc là ông, hoặc là anh tôi. chính anh tôi và chính ông, cả hai người đều đặt vấn đề như thế. Tôi không muốn và không có quyền nhầm lẫn khi chọn lựa? Muốn chiều ông, tôi phải đoạn tuyệt với anh tôi; muốn chiều anh tôi, tôi phải đoạn tuyệt với ông. Bây giờ tôi muốn và có thể biết chắc: anh ấy có thật đáng là anh tôi hay không? Còn vẻ phần ông thì ông có coi trọng tôi không, có quý tôi không, ông có đáng là chồng tôi không?
- Avdotia Romanovna ạ, - Lugin nói, giọng khó chịu, - những lời lẽ của cô đối với tôi nó ngụ quá nhiều ý nghĩa, và còn có thể nói nó xúc phạm đến tôi nữa, nếu xét cái cương vị mà tôi đang được hân hạnh đảm đương đối với cô. Chưa nói đến cái lối cân nhắc kỳ quặc và nhục nhã đặt tôi ngang hàng với cái… với người trẻ tuổi xấc xược nầy, những lời lẽ vừa rồi còn ngụ ý rằng tôi không có nghĩa lý gì mấy đối với cô… tôi không thể dung thứ được điều đó trong khi giữa chúng ta có những mối quan hệ và, những cam ước như hiện nay.
- Sao! - Dunia bùng lên, - tôi đặt quyền lợi của ông ngang hàng với tất cả những gì quý giá nhất trong đời tôi, với người mà trước nay tôi vẫn coi như cả cuộc sống của tôi, thế mà ông còn mếch lòng vì tôi đánh giá ông quá thấp ư?
Raxkonikov lặng lẽ mỉm một nụ cười cay độc.
Razumikhin cứ nhấp nhổm ngồi không yên, nhưng Piotr Petrovich như không để đến lời phán bác ấy, ngược lại càng nói ông ta lại càng cáu tiết, giọng càng thêm hống hách như thế đâm ra đắc ý với những lời lẽ của mình.
- Tình yêu đối với người bạn đời tương lai phải vượt lên trên tình thương đối với người anh, - ông ta phát âm từng tiếng một, giọng trịnh trọng, - và dù sao tôi cũng không thể đứng ngang hàng với… Tuy lúc nãy tôi đã nhấn mạnh rằng tôi không muốn và kbông thế giải bày mục đích cuộc đến thăm nầy trước mặt anh cô, bây giờ tôi vẫn thấy cần phân trần với bà cụ thân sinh rất đáng kính của cô một điều tối quan trọng và có liên quan đến phẩm giá của tôi. Hôm qua, con trai bà, - ông ta nói với bà Punkheria Alekxandrovna, - trước mặt ông Razumikhin đây… có phải thế không ạ! Xin lỗi tôi quên mất tên ông, - Lugin nhã nhặn cúi đầu về phía Razumikhin - đã xúc phạm đến tôi bằng cách xuyên tạc những ý nghĩ mà tôi đã trình bày với bà dạo trước trong một buổi nói chuyện riêng bên chén cà phê, cụ thể là theo tôi thì lấy một người con gái nghèo đã từng chịu khổ có lợi cho cuộc sống giữa hai vợ chồng hơn là lấy một người đã quen sống sung túc, vì như vậy tốt hơn về phưong diện luân lý. Con bà đã cố ý khuếch đại ý nghĩa những lời nói của tôi đến mức vô lý, buộc cho tôi có những ý định xấu xa và như chỗ tôi biết thì anh ta đã căn cứ vào một bức thư riêng của bà mà làm như vậy. Tôi sẽ tự xem mình là người có diễm phúc nếu bà có thể cải chính được điều nầy. Được như thế tôi sẽ thấy yên tâm một phần lớn. Xin bà cho biết cụ thể bà đã truyền đạt những câu nói của tôi như thế nào trong bức thư gửi Rodion Romanovich?
- Tôi không nhớ, - bà Punkheria Alekxandrovna luống cuống đáp, - tôi hiểu như thế nào thì tôi truyền đạt lại như thế. Tôi không biết Rodia đã nói lại với ông như thế nào… Có thể nó có cường điệu ít nhiều.
- Nếu bà không gợi ý, thì anh ta không thể cường điệu được.
- Piotr Petrovich ạ, - bà Punkheria Alekxandrovna nghiêm nét mặt nói. - Một bằng chứng tỏ ra rằng tôi với Dunia không hiểu những lời lẽ của ông theo một nghĩa quá xấu, là chúng tôi đang ngồi ở đây.
- Đúng, mẹ ạ! - Dunia tán đồng.
- Thế ra trong việc nầy tôi cũng có lỗi nốt? - Lugin phật ý nói.
- Đây nầy, ông Piotr Petrovich ạ, ông cứ buộc tội mãi Rodion, thế nhưng trong bức thư hồi sáng chính ông cũng đã nói ngoa cho nó đấy thôi, - Punkheria Alekxandrovna vững tâm trở lại, nói thêm.
- Tôi không nhớ là có viết điều gì sai ngoa cả.
- Ông có viết, - Raxkonikov nói rất xẵng, không quay mặt về phía Lugin - là hôm qua tôi đưa tiền cho con gái người bị nạn, trong khi thật ra tôi đưa tiền cho người vợ goá của ông ta chứ không phải cho con gái ông ta. Trước hôm ấy tôi chưa hề trông thấy cô ta bao giờ. Ông viết như vậy để gây xích mích giữa gia đình tôi và muốn thế ông lại còn viết thêm những câu bẩn thỉu về tư cách của một người con gái mà ông không hề biết. Như vậy là nói xấu người ta một cách hèn hạ.
- Xin lỗi ông, - Lugin đáp, người run lên vì tức giận. - sở dĩ trong thư tôi có nói nhiều đến những đức tính và hành vi của ông cũng chỉ vì muốn làm tròn một việc mà mẹ và em ông đã yêu cầu tôi, là kể lại cho họ biết cảm tưởng của tôi đối với ông. Còn về nội dung bức thư tôi viết, thì xin ông cứ thư tìm cho ra một giòng nào không đúng sự thật, nghĩa là ông không tiêu phí hết số tiền ấy, vả trong cái gia đình kia - tức là một gia đình đáng thương - không có những nhân vật đáng khinh bỉ?
- Theo ý tôi thì với tất cả những phẩm giá của ông, ông cũng không bằng ngón tay út của người con gái khốn nạn mà ông dè bỉu.
- Thế nghĩa là ông sẽ không ngần ngại để cho cô ta làm quen với mẹ và em ông?
- Tôi đã làm như thế rồi đấy, ông đã muốn biết, tôi cũng xin nói như vậy. Sáng hôm nay tôi đã để cô ấy ngồi cạnh mẹ tôi và Dunia.
- Rodia! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên Dunia đỏ mặt; Razumikhin cau mày. Lugin mỉm một nụ cười hiểm độc và khinh bỉ.
- Cô cũng thấy đấy, Avdotia Romanovna ạ, - Ông ta nói, - thế nầy thì cô còn bảo hoà giải làm sao được? Bây giờ tôi hy vọng rằng việc nầy thế là đã phân minh và được giải quyết xong xuôi. Còn tôi thì xin cáo lui để khỏi ngăn trở những nỗi vui mừng của cuộc gặp gỡ gia đình cũng như những câu chuyện kín mà các vị đang cần cho nhau biết (ông ta đứng dậy cầm lấy mũ). Nhưng trước khi cáo từ, tôi cũng xin thưa rằng từ rày tôi hy vọng không phải dự những cuộc dàn xếp như thế nầy nữa. Riêng với bà Punkheria Alekxandrovna kính mến, tôi xin đặc biệt khẩn khoán như vậy, nhất là vì bức thư của tôi viết lại gửi cho bà chứ không phải gửi cho ai khác.
Bà Punkheria Alekxandrovna hơi mếch lòng.
- Ông hạch sách chúng tôi đến thế kia à, ông Piotr Petrovich? Dunia đã nói cho ông biết tại sao chúng tôi không làm trọn yêu sách của ông: đó là một thiện ý của nó. Ông viết thư cho tôi cứ như ra lệnh ấy! Có phải bất cứ ý muốn nào của ông cũng đều phải coi là một mệnh lệnh không? Ngược lại, tôi xin nói cho ông biết rằng bây giờ ông phải đối xử với chúng tôi một cách tế nhị và khoan dung mới phải, vì chúng tôi đã tin cậy ông mà bỏ hết để lên đây, cho nên dù ông không hạch sách thì chúng tôi cũng đã nằm trong tay ông rồi.
- Không hẳn thế đâu bà Punkheria Alekxandrovna ạ, nhất là bây giờ đây, khi đã có tin bà Marfa Petrovna để lại ba nghìn rúp: cứ xem cái giọng điệu mà người ta đang dùng với tôi cũng đủ biết tin ấy đến rất đúng lúc, - Lugin nói thêm, giọng cay cú
- Cứ theo lời nhận xét vừa rồi thì quả có thể đoán rằng trước đây ông vẫn trông mong lợi dụng tình cảnh túng bấn của chúng tôi, - Dunia tức giận nói.
- Nhưng bây giờ ít nhất tôi cũng không còn có thể trông mong như vậy được nữa và nhất là tôi không muốn cản trở ông Rodia Romanovich chuyển đạt những lời đề nghị bí mật của ông Arkadi Xvidrigailov mà tôi thấy rõ là có ý nghĩa tối hệ trọng và có lẽ rất thú vị đối với cô.
- Ôi trời ơi! - Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
Razumikhin cứ nhấp nhỏm trên ghế.
- Đến bây giờ mà em vẫn không thấy xấu hổ à, Dunia? - Raxkonikov hỏi.
- Có đấy anh Rodia ạ, - Dunia nói, - Ông Piotr Petrovich xin ông đi khỏi nơi nầy cho! - nàng nói với Lugin, mặt tái mét đi vì tức giận.
Piotr Petrovich hình như không ngờ sự việc lại kết thúc như vậy, ông ta quá tin vào tình cảnh khốn đốn của hai nạn nhân của mình, đến bây giờ ông ta vẫn chưa hiểu ra, ông tái mặt đi, hai môi run bắn lên.
- Cô Avdotia Romanovna ạ, nếu bây giờ tôi bước ra khỏi cửa nầy với những lời tống tiễn như thế, thì xin cô nhớ cho rằng không bao giờ tôi còn quay trở lại nữa. Cô nghĩ cho kỹ đi! Tôi đã nói là làm.
- Trơ tráo đến thế là cùng! - Dunia vụt đứng dậy quát lên - tôi có hề muốn ông quay trở lại đâu kia chứ?
- Sao? Ra thế - ế - ế đấy? - Lugin quát, đến phút cuối cùng vẫn chưa tin là câu chuyện sẽ kết thúc như thế, cho nên đâm ra rối trí hoàn toàn, - À ra thế đấy! Nhưng cô Avdotia Romanovna ạ, xin cô biết chn rằng tôi có thể phản kháng việc nầy.
- Ông có quyền gì mà nói với nó như vậy! - bà Punkheria Alekxandrovna nóng nảy xen vào, - Ông lấy tư cách gì mà phản kháng? Ông tưởng tôi có thể gả con Dunia nhà tôi cho một người như thế sao? Ông đi đi, đi hẳn đi! Chỉ tại chúng tôi tr ót tính một cuộc hôn nhân sai trái như thế, nhất là tôi…
- Nhưng bà Punkheria Alekxandrovna ạ, - Lugin điên tiết lên nói, giọng căm hờn, - bây giờ bà từ bỏ lời bà đã hứa với tôi… và rốt cục dù sao lời hứa ấy đã làm cho tôi phải chịu những khoản chi phí…
Câu cuối cùng nầy ăn nhập với nhân cách của Piotr Petrovich đến nỗi Raxkonikov, nãy giờ tái mặt đi vì tức giận và vì cố sức tự chủ, không sao chịu được nữa và bỗng cười phá lên. Nhưng bà Punkheria Alekxandrovna đã giận điên lên quát:
- Chi phí? Chi phí gì thế? có lê ông muốn nói đến cái rương của chúng tôi chứ gì? Nhưng người đánh xe đã nhận chở không cho ông kia mà. Trời ơi, chúng tôi ràng buộc ông kia đấy! Ông nghĩ lại một chút chứ, ông Piotr Petrovich, chính ông trói chân trói tay chúng tôi lại thì có!
- Thôi đủ rồi mẹ ạ. Con xin mẹ: đủ rồi! - Avdotia Romanovna khẩn khoản. - Piotr Petrovich, xin ông làm ơn đi ngay cho.
- Tôi sẽ đi, chỉ xin nói một câu cuối cùng nữa thôi!
- Ông ta nói thêm, hầu như không còn chút tự chủ nào nữa, - hình như mẹ cô quên bẵng đi rằng tôi đã cam tâm lấy cô mặc dầu những tiếng đồn đại về tư cách của cô đã lan rộng khắp vùng. Tôi đã vì cô mà coi khinh dư luận để phục hồi lại danh giá cho cô, thế thì lẽ ra tôi rất có quyền mong được đền đáp và hơn nữa có quyền đòi hỏi lòng biết ơn của cô… Mãi đến bây giờ tôi mới sáng mắt ra. Bây giờ tôi mới thấy rằng coi khinh dư luận như vậy, tôi đã hành động một cách hết sức nông nổi…
- Hắn muốn người ta bổ đôi đầu hắn ra hay sao thế nhỉ! - Razumikhin quát lên, nhảy chồm dậy, sẵn sàng cho Lugin một bài học.
- Ông là một người độc ác và đê tiện! - Dunia nói.
- Không nói gì nữa hết - Raxkonikov quát lên, tay giữ Razumikhin lại; đoạn tiến đến sát Lugin, chàng nói khẽ, tách rõ từng tiếng;
- Xin ông ra ngay! Không được nói lấy một tiếng nào nữa, nếu không…
Piotr Petrovich nhìn chàng một lát: mặt tái mét và rúm ró lại vì căm giận, rồi quay gót bước ra ngoài. Tât nhiên ít có ai mang theo trong lòng một mối căm thtù sâu cay như mối căm thù của ông ta đối với Raxkonikov bây giờ. Ông ta đổ hết lên đầu chàng và chỉ mỗi mình chàng mà thôi. Có điều đáng chú ý là ngay khi xuống thang gác, ông ta còn tưởng tượng rằng có lẽ cơ sự chưa hẳn đã tuyệt vọng và nếu chỉ kể riêng hai mẹ con thì còn có thể dàn xếp được lắm.
- Ai thế cậu? - Razumikhin hỏi ngay khi họ ra phố.
- Đó là Xvidrigailov, chính cái lão trang chủ đã làm nhục em tôi khi nó làm gia sư trong nhà lão. Lão ta đeo đuổi nó, thế là Marfa Petrovna vợ lão đuổi nó ra khỏi nhà. Về sau bà ta có xin lỗi nó. Thế rồi bà ta bỗng lăn đùng ra chết. Sáng hay họ nói chuyện là nói về bà ta đấy. Không hiểu sao tôi thấy sợ lão ta lắm. Chôn cất vợ xong, lão lên đây ngay. Lão có vẻ kỳ quặc lắm và hình như đang quyết định một việc gì… Hình như lão có biết một cái gì đây… Phải bảo Dunia coi chừng lão ấy… cái nầy tôi muốn nói với cậu đây, cậu nghe chứ? Coi chừng!
- Liệu lão ấy làm gì được Avdotia Romanovna? Cảm ơn cậu đã nói với mình như thế… ta sẽ đề phòng, đề phòng cho Avdotia Romanovna… Bây giờ lão ở đâu?
- Không biết.
- Sao cậu không hỏi? Chà, tiếc thật! Mà thôi, tớ sẽ tìm ra.
- Cậu trông thấy mặt hắn chứ - Razumikhin hỏi sau một lát im lặng.
- Có trông thấy, có trông thấy hẳn hoi.
- Cậu trông rõ mặt lão ấy chứ? - Raxkonikov hỏi gạn thêm.
- Có chứ, tớ nhớ rất rõ; trong một đám đông hàng nghìn người tớ cũng nhận ra ngay, tớ nhớ mặt dai lắm.
Hai người im lặng.
- Hừm… cái nầy thì… - Raxkonikov lẩm bẩm. - Cậu ạ mình có ý nghĩ là… mình cứ có cảm giác là… đây có lẽ chỉ là mình tưởng tượng ra thôi.
- Cậu nói chuyện gì thế? Tớ chưa hiểu lắm.
- Đấy các cậu đều bảo là mình điên, - Raxkonikov nói tiếp, môi méo xệch thành một nụ cười - bây giờ mình cũng có cảm giác là mình điên thật, và vừa rồi chẳng qua là một bóng ma hiện hình trong cơn mê sảng.
- Cậu nói gì thế?
- Biết đâu đấy! Có thể mình điên thật cũng nên, và tất cả những việc xảy ra mấy hôm nay có lẽ chỉ có trong tưởng tượng của mình…
- Chà, Rodia? Người ta lại làm cậu rối óc lên rồi! Lão ta nói những gì, lão đến có việc gì?
Raxkonikov không trả lời. Razumikhin ngẫm nghĩ một lát.
- Thôi, cậu nghe tớ báo cáo công việc đây, - anh mở đầu. - Tớ có ghé vào cậu, cậu đang ngủ. Sau đó tớ đi ăn cơm chiều rồi đến nhà Porfiri. Zamiotov vẫn ở đấy. Tớ cũng toan nói, nhưng chẳng thành cái gì cả. Không sao nói chuyện thật sự được. Họ có vẻ như không hiểu và không tài nào hiểu được, nhưng cùng chẳng hề bối rối gì. Tớ kéo Porfiri ra cửa sổ và bắt đầu nói, nhưng vẫn chẳng ra sao cả: hắn nhìn một đằng, tớ nhìn một néo. Rốt cục tớ giơ qua đấm lên sát mồm hắn và báo sẽ đấm vỡ óc hắn ra. Hắn chỉ nhìn tớ rồi nhổ toẹt một bãi rồi ra về, đấy chỉ có thế. Thật ngu xuẩn. Zamiotov thì tớ chẳng nói một câu nào. Cậu ạ, tớ cứ nghĩ thế là hỏng bét rồi, nhưng khi đi xuống cầu thang tớ chợt nảy ra một ý nghĩ nó làm tớ nhẹ hắn cả người ra: tại sao tớ với cậu cứ phải lo lắng như vậy? Có gì nguy hiểm cho cậu hay có dính dáng đến cậu cho cam. Đằng nầy có gì đâu? Cậu chẳng có gì dính dáng đến chuyện ấy hết, thế thì cậu cứ kệ mẹ chúng nó; sau nầy ta sẽ cười vào mũi chúng, phải tay tớ thì tớ còn trêu thêm cho chúng rối óc ra nữa ấy. Về sau tha hồ mà xấu hổ! Cậu nhổ toẹt vào; sau nầy sẽ cho chúng một mẻ, còn bây giờ thì cứ, mặc chúng thôi!
- Dĩ nhiên là như thế! - Raxkonikov đáp. "Rồi mai đây cậu sẽ bảo sao?" - chàng nghĩ thầm. Lạ thật, trước nay chưa bao giờ chàng có ý tự hỏi xem Razumikhin sẽ nghĩ gì khi biết sự thật. Nghĩ như vậy, Raxkonikov chảm chú nhìn bạn. Còn như chuyện Razumikhin đến gặp Porfiri thì bây giờ chàng rất ít quan tâm: từ bấy đến nay đã xảy thêm bao nhiêu việc và bao nhiêu việc đã lùi vào hậu cảnh!
Trong hành lang họ chạm trán phải Lugin, ông ta đến đúng tám giờ nhưng còn đang tìm căn buồng trọ của hai mẹ con Dunia, thành thử cả ba người cùng vào một lúc, nhưng không nhìn nhau và không chào nhau. Hai người bạn trẻ vào trước, cờn Piotr Petrovich, để giữ phép lịch sự, nấn ná một lúc trong phòng mắc áo để cởi áo khoác ngoài. Punkheria Alekxandrovna lập tức ra đón ông từ ngoài ngưỡng cửa. Dunia thì chào hỏi anh nàng.
Piotr Petrovich bước vào và cúi chào hai người phụ nữ một cách khá nhã nhặn, tuy vẻbệ vệ còn tăng bội phần. Vả lại trông ông ta cũng có vẻ hơi bàng hoàng, chưa trấn tĩnh lại được. Punkheria Alekxandrovna dường như cũng luống cuống. Bà vội và mời cả ba ông khách ngồi quanh cái bàn tròn, trên có chiếc ấm xamovar đang sôi sùng sục. Dunia và Lugin ngồi đối diện nhau ở hai đầu bàn. Razumikhin và Raxkonikov thì ngồi trước mặt bà Punkheria Alekxandrovna; - Razumikhin ngồi gần Lugin còn Raxkonikov ngồi cạnh em gái.
Họ ngồi im lặng một lát. Piotr Petrovich thong thả rút ra một chiếc mùi soa nhiễu sực mùi nước hoa và xỉ mũi với cái dáng của một người rất có thiện ý nhưng vẫn hơi bị xúc phạm vào phẩm giá và nhất quyết đòi người ta phải phân trần. Khi còn ở phòng ngoài ông ta đã thoáng có ý không cởi áo khoác nữa và bỏ ra về đề trừng phạt một cách đích đáng hai mẹ con Dunia, bắt họ phải nghĩ lại. Nhưng ông ta không dám. Hơn nữa ông ta vốn không thích những tình thế mập mờ, mà lúc nầy thì lại cần phải hiểu cho rõ: nếu người ta đã vi phạm vào điều kiện ông ta đề ra một cách trắng trợn như vậy, tức phải có một cái gì đây, cho nên phải biết rõ thực hư trước đã; sau nầy vẫn còn chán thì giờ trừng phạt, và ông ta chẳng thiếu gì cách.
- Tôi hy vọng rằng vừa qua bà đi đường vẫn được mạnh khoẻ chứa ạ? - Ông ta trịnh trọng nói với Punkheria Alekxandrovna.
- Nhờ ơn Chúa, ông Piotr Petrovich ạ.
- Tôi rất mừng. Còn Avdotia Romanovna cũng không mệt chứ?
- Tôi thì trẻ và khỏe thế nầy nên không mệt, chứ mẹ tôi thì rất khổ - Dunia đáp.
- Biết làm thế nào được; các đường quốc lộ của ta dài lắm. Cái gọi là "nước Nga, mẹ của chúng ta" rộng lớn lắm… Còn tôi thì hôm qua, mặc dầu rất muốn, vẫn không kịp đến đón bà và cô được. Song tôi cũng mong rằng không có gì phiền hà xảy ra cả chứ ạ?
- Ồ có chứ, ông Piotr Petrovich ạ, chúng tôi thật vô cùng bối rối, - Punkheria Alekxandrovna vội trả lời giọng nghe khang khác, - và giả sử hôm qua không phải ông Dmitri Prokofich đến với chúng tôi thì hai mẹ con cũng đến chết mà thôi. Đấy, ông Dmitri Prokofich Razumikhin đấy ạ, - bà nói thêm, giới thiệu anh với Lugin.
- À hôm qua… tôi đã được hân hạnh, - Lugin lắp bắp, mắt liếc nhìn Razumikhin một cách thiếu thiện cảm, rồi cau mày và im bặt.
Nói chung Piotr Petrovich thuộc hạng người có vẻ hết sức nhã nhặn trong khi giao thiệp và cũng tự hào cho mình là nhã nhặn, nhưng hễ có điều gì hơi trái ý một chút là lại hầu như bất giác mất hết những thủ đoạn của mình trong chốc lát và đâm ra giống như những bao bột hơn là giống những trang công tử hoạt bát biết làm cho cử toạ náo nhiệt lên. Mọi người lại im lặng: Raxkonikov thì cứ một mực làm thinh, Avdotia Romanovna thì không muốn nói quá sớm, còn Razumikhin thì chẳng có gì để mà nói, thành thử Punkheria Alekxandrovna lại đâm lo.
- Marfa Petrovna mất rồi, ông có nghe nói không, - bà mở đầu, viện đến cái phương sách tối hậu của mình.
- Có chứ ạ, Tôi đã được biết tin ngay từ đầu và giờ đây cũng xin báo để bà và cô biết rằng Arkadi Ivanovich Xvidrigailov ngay sau khi an táng vợ xong đã hối hả lên Petersburg, ít nhất theo những tin tức chính xác nhất mà tôi đã nhận được là như thế.
- Lên Petersburg? Lên đây? - Duneska lo lắng hỏi lại và đưa mắt nhìn mẹ.
- Đúng thế đấy ạ, và dĩ nhiên không phải không có chủ đích, nếu xét cách ra đi vội vã của ông ta, và nói chung là những việc xảy ra trước đây.
- Trời ơi! Chả nhẽ đến bây giờ mà ông ta vẫn không chịu để cho Duneska yên hay sao? - Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
- Tôi thiết tưởng không có gì đáng lo ngại cho lắm, đối với bà hay Avdotia Romanovna cũng vậy, dĩ nhiên là nếu bà và cô không muốn có quan hệ gì với ông ta. Còn về phần tôi, tôi sẽ theo dõi và sẽ tìm ra chỗ trọ của ông ta…
- Ồ ông Piotr Petrovich, ông không biết chứ vừa rồi nghe ông nói thế tôi sợ quá! - Punkheria Alekxandrovna nói tiếp. - Tôi mới gặp ông ấy có hai lần, thế mà tôi đã thấy sợ ông ta lắm, sợ lắm đấy! Tôi tin chắc là chính vì ông ta mà bà Marfa Petrovna chết.
- Về việc nầy chưa thể kết luận được, tôi có những tin tức chính xác. Tôi thừa nhận rằng có thể ông ta đã xúc tiến cho sự việc xảy ra nhanh hơn, có thể nói là bằng cách lăng nhục để gây một ảnh hưởng tinh thần; nhưng về tư cách và đạo đức của con người ấy thì tôi đồng ý với bà. Tôi không biết bây giờ giờ ông ta có giàu không và bà Marfa Petrovna để lại cho ông được những gì; về điều nầy thì chỉ trong một thời hạn rất ngắn nữa tôi sẽ biết, nhưng dĩ nhiên ở chôn Petersburg nầy mà trong tay lại có sẵn ít tiền thì ông ta sẽ lập tức trở về thói cũ. Đó là một con người hết sức truỵ lạc và chết ngập trong các thói xấu xa, trong hạng trác táng không còn ai bì kịp? Tôi có khá đủ cơ sở để ước đoán rằng Marfa Petrovna, chẳng may đã quá yếu mà chuộc nợ cho ông ta tám năm về trước, lại còn cứu giúp cho ông ta về phương diện khác nữa: chỉ nhờ bà ta đã cố gắng và hy sinh nhiều lắm mới im được ngay từ đầu một vụ tội hình, trong đó có cả tính chất man rợ đầy thú tính lẫn một sự hung ác có thể gọi là quái đản, rất có thể làm cho ông ta đi Sibiri một chuyến. Nếu bà muốn biết, thì con người ấy là như vậy đấy.
- Ô trời ơi! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
Raxkonikov chăm chú lăng nghe.
- Có đúng là ông có những tài liệu đích xác về những việc đó không? - Dunia hỏi, vẻ nghiêm nghị và quả quyết - Đó toàn là những điều bí mật mà bà Marfa Petrovna quá cố đã nói riêng cho tôi biết. Cần nêu rõ rằng về quan điểm tư pháp thì vụ nầy rất mờ ám. Trước kia ở đây có một người đàn bà ngoại quốc tên là Resslich, làm nghề cho vay lãi lặt vặt và một số nghề khác. Hình như bây giờ người đó vẫn ở đây thì phải. Từ lâu ông Xvidrigailov đã có những mối quan hệ rất gần gũi và bí mật với mụ Resslich đó. Ở nhà mụ ta có con bé mười lăm hay chỉ là mười bốn tuổi gì đấy thôi, vừa câm vừa điếc, có bà con với mụ ta, đâu như là cháu họ thì phải. Mụ căm ghét đưa bé ấy vô cùng và luôn mồn chửi mắng nó là đồ ăn hại, thậm chi lại còn đánh đập một cách vô nhân đạo nữa. Một hôm người ta thấy nó treo cổ chết trong một gian nhà kho. Cuộc điều tra xác định rằng đây là một vụ tự sát. Vụ nầy kết thúc sau những thử tục tố tụng thường lệ, nhưng về sau lại có người tố giác rằng đứa bé đã bị Xvidrigailov làm nhục một cách tàn nhẫn. Quả tình tất cả những việc rất mờ ám, người tố giác là một người đàn bà Đức khác, hành tung đồi bại và không có tín nhiệm gì cuối cùng lời tố giác ấy cũng bị dìm đi do những cố gắng chạy chọt và đút lót của bà Marfa Petrovna; mọi việc rốt cục chỉ bó hẹp trong phạm vì đồn đại. Tuy vậy, tiếng đồn nầy cũng được khá nhiều người chú ý đến khi còn ở nhà họ, chắc cô Avdotia Romanovna cũng có nghe nói đến chuyện Philip chết cách đã sáu năm hồi còn chế độ nông nô vì bị hành hạ tàn nhẫn.
- Ngược lại tôi nghe nói rằng tên Philip ấy tự thắt cổ chết.
- Đúng như thế đấy ạ, nhưng chính là sự hành hạ, ức hiếp không ngừng của ông Xvidrigailov đã bức tử hắn, hay nói cho đúng hởn, đã đẩy hắn đến cái xu thế muốn tự tử.
- Tôi không biết việc đó. - Dunia đáp xẵng - tôi chỉ nghe được một chuyện rất là kỳ lạ, nói rằng tên Philip ấy có chứng ưu uất thế nào đấy, hắn là một thứ hiền triết tại gia, người ta nói rằng hắn đọc sách nhiều qúa hoá điên và hắn thắt cổ chỉ là vì những lời chế giễu của ông Xvidrigailov chứ không phải vì đòn vọt của ông ta. Dạo còn ở đấy tôi thấy ông ta đối xử với người nhà tử tế lắm, họ còn quý ông ta nữa, tuy quả thật họ cũng buộc tội cho ông đã gây ra cái chết của Philip.
- Cô Avdotia Romanovna ạ, tôi thấy hình như cô bỗng dưng có xu hướng muốn thanh minh cho ông ta thì phải, - Lugin nhận xét, môi tím lại thành một nụ cười khó hiểu - Quả thật ông ta là một người khôn ngoan và giỏi lấy lòng phụ nữ lắm lắm: bà Marfa Petrovna với cái chết kỳ lạ của bà có thể xem là một dẫn chứng đáng buồn. Tôi chỉ muốn giúp cô và bà cụ thân sinh cô một vài ý kiến để đề phòng những âm mưu mới mà ông ta chắc chắn sẽ tiến hành. Còn về phần tôi thì tôi tin chắc thế nào rồi ông ta cũng vào ngồi tù vì nợ. Bà Marfa Petrovna tuyệt nhiên không bao giờ có ý chia gia tài cho ông ta, vì còn phải lo cho con cái, và nếu có để lại cho ông ta ít nhiều chăng thì cũng chỉ là số tiền tối thiều, tạm bợ, vừa đủ chi dùng, mà với những thói ăn chơi như ông ta thì không đủ tiêu xài trong một năm.
- Ông Piotr Petrovich ạ, - Dunia nói, - xin ông đừng nói đến ông Xvidrigailov nữa. Tôi ngấy lắm rồi.
- Ông ta vừa đến tôi xong, - Raxkonikov bỗng lên tiếng lần đầu tiên.
Ai nấy đều nhớn nhác quay cả về phía chàng. Ngay Piotr Petrovich cũng hồi hộp.
- Cách đây một tiếng rưỡi, trong khi tôi đang ngủ, ông ta vào đánh thức tôi dậy và tự giới thiệu. - Raxkonikov nói tiếp. - Ông ta ăn nói khá hoạt bát vui vẻ, và rất tin rằng tôi sẽ kết thân với ông ta. Ông ta rất muốn gặp em đấy, Dunia ạ, và có nhờ anh làm môi giới cho cuộc gặp mặt đó. Ông ta có đề nghị anh một việc và có cho anh biết rằng bà Marfa Petrovna một tuần trước khi chết có viết chúc thư để cho em ba nghìn rúp, và chỉ trong một thời gian ngắn nữa em sẽ nhận được số tiền ấy.
- Lạy Chúa! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên, tay làm dấu thánh. - Cầu nguyện cho bà ấy đi, Dunia ạ, cầu nguyện cho bà ấy với.
- Sự thật quả đúng thế, - Lugin buột miệng nói.
- Thế rồi sao nữa? - Dunia giục giã.
- Rồi ông ta bảo rằng bản thân ông ta cũng không giàu, toàn bộ gia sản đều để lại cho các con hiện đang ở với bà dì. Sau đó ông ta có nói rằng ông ta trọ cách nhà anh không xa, nhưng ở đâu thì không biết, anh không hỏi…
- Nhưng ông ta muốn bàn gì với Dunia? - Punkheria Alekxandrovna hoảng sợ hỏi. - Ông ta có nói gì với con không?
- Có
- Bàn gì thế?
- Sau con sẽ nói. - Raxkonikov im lặng quay về chén trà.
Piotr Petrovich rút đồng hồ ra xem.
- Tôi cần phải đi có việc, cho nên cũng không làm phiền các vị nữa đâu! - Ông ta nói thêm, vẻ hơi phật ý và rời ghế đứng dậy.
- Ông ở lại tí đã. Piotr Petrovich ạ. - Dunia nói, - vì ông đã định ngồi chơi vơi chúng tôi suốt tối hôm nay kia mà. Hơn nữa trong thư ông lại viết là có việc phải giãi bày với mẹ tôi.
- Đúng thế đấy Avdotia Romanovna ạ. - Piotr Petrovich nói dõng dạc, và lại ngồi xuống ghế, nhưng tay vẫn cầm mũ, - Qua nhiên tôi đã có ý muốn trình bày mấy việc với cô và bà cụ cô lại là những việc rất quan trọng nữa. Nhưng vì anh cô cũng không thể nói lại một số đề nghị của ông Xvidrigailov trước mặt tôi, cho nên tôi cũng không muốn và không thể giải bày… trước mặt người khác… một số điểm tối ư hệ trọng. Hơn nữa lời yêu cầu khẩn thiết và chủ yếu của tôi đã không được thi hành…
Lugin làm ra vẻ mặt chua chát và lặng thinh một cách trang trọng.
- Sở dĩ lời yêu cầu của ông - yêu cầu anh tôi không có mặt trong buổi gặp gỡ nầy - không được thì hành cũng chỉ vì tôi đã một mực khẩn khoản như vậy, - Dunia nói. - Ông có viết rằng ông đã bị anh tôi sỉ nhục; tôi nghĩ rằng việc nầy cần phải làm sáng tỏ ngay và hai người phải hoà giải với nhau. Và nếu anh Rodia quả có xúc phạm đến ông thật, thì anh ấy phải xin lỗi ông, và anh ấy sẽ xin lỗi.
Piotr Petrovich lập tức vững tâm trở lại.
- Cô Avdotia Romanovna ạ, có những lối sỉ nhục mà dù có thiện ý đến đâu cũng không thể quên được. Cái gì cùng có một giới hạn mà nếu vượt qua thì rất nguy hiểm; vì khi đã vượt qua rồi thì không thể quay trở lại được nữa.
- Ý của tôi không hẳn là muốn nói đến chuyện ấy, ông Piotr Petrovich ạ. - Dunia ngắt lời hỏi sốt ruột:
- Xin ông hiểu rõ cho rằng bây giờ, tương lai của chúng ta đều tuỳ ở chỗ việc nầy có được sáng tỏ và dàn xếp ổn thoả chóng vánh hay không. Tôi xin nói thẳng ngay với ông rằng tôi không thể nhìn nhận cách nào khác, và nếu ông có chút nào coi trọng tôi, thì dù có khó khăn thật, chuyện nầy cũng phải chấm dứt ngay hôm nay. Tôi xin nhắc lại rằng nếu anh tôi sai, anh tôi sẽ xin lỗi.
- Tôi là làm lạ ràng cô lại đặt vấn đề như thế, Avdotia Romanovna ạ, - Lugin mỗi lúc một thêm tức tối - Trong khi quý trọng và có thể không ưa một người nào đó trong gia đình cô lắm chứ. Trong khi cầu mong cái diễm phúc được kết hôn với cô, tôi không thể đồng thời lĩnh lấy những nhiệm vụ không ăn khớp với…
- Ồ, ông bỏ cái tính hay mếch lòng ấy đi, Piotr Petrovich ạ. - Dunia bực bội ngắt lời, - Và xin ông hãy là người thông minh và cao thượng như xưa nay tôi vẫn hình dưng ông và đến nay tôi vẫn mong được hình dung như thế. Tôi đã có một lời hứa trọng đại với ông, tôi là vợ chưa cưới của ông; trong việc nầy. Ông có tin tôi hay không thì tuỳ ông, chứ tôi rất đủ khả năng suy xét một cách vô tư. Tôi đứng ra phân xử thế nầy cùng là một việc đột ngột đối với anh tôi cũng như đối với ông. Sau khi đọc bức thư của ông, tôi đã khẩn khoản mời anh tôi đến dự buổi gặp gỡ nầy mà không hề cho anh ấy biết gì về ý định của tôi. Xin ông hiểu cho rằng nếu hai người không hoà giải với nhau, thì tôi đành phải chọn giữa hai người: hoặc là ông, hoặc là anh tôi. chính anh tôi và chính ông, cả hai người đều đặt vấn đề như thế. Tôi không muốn và không có quyền nhầm lẫn khi chọn lựa? Muốn chiều ông, tôi phải đoạn tuyệt với anh tôi; muốn chiều anh tôi, tôi phải đoạn tuyệt với ông. Bây giờ tôi muốn và có thể biết chắc: anh ấy có thật đáng là anh tôi hay không? Còn vẻ phần ông thì ông có coi trọng tôi không, có quý tôi không, ông có đáng là chồng tôi không?
- Avdotia Romanovna ạ, - Lugin nói, giọng khó chịu, - những lời lẽ của cô đối với tôi nó ngụ quá nhiều ý nghĩa, và còn có thể nói nó xúc phạm đến tôi nữa, nếu xét cái cương vị mà tôi đang được hân hạnh đảm đương đối với cô. Chưa nói đến cái lối cân nhắc kỳ quặc và nhục nhã đặt tôi ngang hàng với cái… với người trẻ tuổi xấc xược nầy, những lời lẽ vừa rồi còn ngụ ý rằng tôi không có nghĩa lý gì mấy đối với cô… tôi không thể dung thứ được điều đó trong khi giữa chúng ta có những mối quan hệ và, những cam ước như hiện nay.
- Sao! - Dunia bùng lên, - tôi đặt quyền lợi của ông ngang hàng với tất cả những gì quý giá nhất trong đời tôi, với người mà trước nay tôi vẫn coi như cả cuộc sống của tôi, thế mà ông còn mếch lòng vì tôi đánh giá ông quá thấp ư?
Raxkonikov lặng lẽ mỉm một nụ cười cay độc.
Razumikhin cứ nhấp nhổm ngồi không yên, nhưng Piotr Petrovich như không để đến lời phán bác ấy, ngược lại càng nói ông ta lại càng cáu tiết, giọng càng thêm hống hách như thế đâm ra đắc ý với những lời lẽ của mình.
- Tình yêu đối với người bạn đời tương lai phải vượt lên trên tình thương đối với người anh, - ông ta phát âm từng tiếng một, giọng trịnh trọng, - và dù sao tôi cũng không thể đứng ngang hàng với… Tuy lúc nãy tôi đã nhấn mạnh rằng tôi không muốn và kbông thế giải bày mục đích cuộc đến thăm nầy trước mặt anh cô, bây giờ tôi vẫn thấy cần phân trần với bà cụ thân sinh rất đáng kính của cô một điều tối quan trọng và có liên quan đến phẩm giá của tôi. Hôm qua, con trai bà, - ông ta nói với bà Punkheria Alekxandrovna, - trước mặt ông Razumikhin đây… có phải thế không ạ! Xin lỗi tôi quên mất tên ông, - Lugin nhã nhặn cúi đầu về phía Razumikhin - đã xúc phạm đến tôi bằng cách xuyên tạc những ý nghĩ mà tôi đã trình bày với bà dạo trước trong một buổi nói chuyện riêng bên chén cà phê, cụ thể là theo tôi thì lấy một người con gái nghèo đã từng chịu khổ có lợi cho cuộc sống giữa hai vợ chồng hơn là lấy một người đã quen sống sung túc, vì như vậy tốt hơn về phưong diện luân lý. Con bà đã cố ý khuếch đại ý nghĩa những lời nói của tôi đến mức vô lý, buộc cho tôi có những ý định xấu xa và như chỗ tôi biết thì anh ta đã căn cứ vào một bức thư riêng của bà mà làm như vậy. Tôi sẽ tự xem mình là người có diễm phúc nếu bà có thể cải chính được điều nầy. Được như thế tôi sẽ thấy yên tâm một phần lớn. Xin bà cho biết cụ thể bà đã truyền đạt những câu nói của tôi như thế nào trong bức thư gửi Rodion Romanovich?
- Tôi không nhớ, - bà Punkheria Alekxandrovna luống cuống đáp, - tôi hiểu như thế nào thì tôi truyền đạt lại như thế. Tôi không biết Rodia đã nói lại với ông như thế nào… Có thể nó có cường điệu ít nhiều.
- Nếu bà không gợi ý, thì anh ta không thể cường điệu được.
- Piotr Petrovich ạ, - bà Punkheria Alekxandrovna nghiêm nét mặt nói. - Một bằng chứng tỏ ra rằng tôi với Dunia không hiểu những lời lẽ của ông theo một nghĩa quá xấu, là chúng tôi đang ngồi ở đây.
- Đúng, mẹ ạ! - Dunia tán đồng.
- Thế ra trong việc nầy tôi cũng có lỗi nốt? - Lugin phật ý nói.
- Đây nầy, ông Piotr Petrovich ạ, ông cứ buộc tội mãi Rodion, thế nhưng trong bức thư hồi sáng chính ông cũng đã nói ngoa cho nó đấy thôi, - Punkheria Alekxandrovna vững tâm trở lại, nói thêm.
- Tôi không nhớ là có viết điều gì sai ngoa cả.
- Ông có viết, - Raxkonikov nói rất xẵng, không quay mặt về phía Lugin - là hôm qua tôi đưa tiền cho con gái người bị nạn, trong khi thật ra tôi đưa tiền cho người vợ goá của ông ta chứ không phải cho con gái ông ta. Trước hôm ấy tôi chưa hề trông thấy cô ta bao giờ. Ông viết như vậy để gây xích mích giữa gia đình tôi và muốn thế ông lại còn viết thêm những câu bẩn thỉu về tư cách của một người con gái mà ông không hề biết. Như vậy là nói xấu người ta một cách hèn hạ.
- Xin lỗi ông, - Lugin đáp, người run lên vì tức giận. - sở dĩ trong thư tôi có nói nhiều đến những đức tính và hành vi của ông cũng chỉ vì muốn làm tròn một việc mà mẹ và em ông đã yêu cầu tôi, là kể lại cho họ biết cảm tưởng của tôi đối với ông. Còn về nội dung bức thư tôi viết, thì xin ông cứ thư tìm cho ra một giòng nào không đúng sự thật, nghĩa là ông không tiêu phí hết số tiền ấy, vả trong cái gia đình kia - tức là một gia đình đáng thương - không có những nhân vật đáng khinh bỉ?
- Theo ý tôi thì với tất cả những phẩm giá của ông, ông cũng không bằng ngón tay út của người con gái khốn nạn mà ông dè bỉu.
- Thế nghĩa là ông sẽ không ngần ngại để cho cô ta làm quen với mẹ và em ông?
- Tôi đã làm như thế rồi đấy, ông đã muốn biết, tôi cũng xin nói như vậy. Sáng hôm nay tôi đã để cô ấy ngồi cạnh mẹ tôi và Dunia.
- Rodia! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên Dunia đỏ mặt; Razumikhin cau mày. Lugin mỉm một nụ cười hiểm độc và khinh bỉ.
- Cô cũng thấy đấy, Avdotia Romanovna ạ, - Ông ta nói, - thế nầy thì cô còn bảo hoà giải làm sao được? Bây giờ tôi hy vọng rằng việc nầy thế là đã phân minh và được giải quyết xong xuôi. Còn tôi thì xin cáo lui để khỏi ngăn trở những nỗi vui mừng của cuộc gặp gỡ gia đình cũng như những câu chuyện kín mà các vị đang cần cho nhau biết (ông ta đứng dậy cầm lấy mũ). Nhưng trước khi cáo từ, tôi cũng xin thưa rằng từ rày tôi hy vọng không phải dự những cuộc dàn xếp như thế nầy nữa. Riêng với bà Punkheria Alekxandrovna kính mến, tôi xin đặc biệt khẩn khoán như vậy, nhất là vì bức thư của tôi viết lại gửi cho bà chứ không phải gửi cho ai khác.
Bà Punkheria Alekxandrovna hơi mếch lòng.
- Ông hạch sách chúng tôi đến thế kia à, ông Piotr Petrovich? Dunia đã nói cho ông biết tại sao chúng tôi không làm trọn yêu sách của ông: đó là một thiện ý của nó. Ông viết thư cho tôi cứ như ra lệnh ấy! Có phải bất cứ ý muốn nào của ông cũng đều phải coi là một mệnh lệnh không? Ngược lại, tôi xin nói cho ông biết rằng bây giờ ông phải đối xử với chúng tôi một cách tế nhị và khoan dung mới phải, vì chúng tôi đã tin cậy ông mà bỏ hết để lên đây, cho nên dù ông không hạch sách thì chúng tôi cũng đã nằm trong tay ông rồi.
- Không hẳn thế đâu bà Punkheria Alekxandrovna ạ, nhất là bây giờ đây, khi đã có tin bà Marfa Petrovna để lại ba nghìn rúp: cứ xem cái giọng điệu mà người ta đang dùng với tôi cũng đủ biết tin ấy đến rất đúng lúc, - Lugin nói thêm, giọng cay cú
- Cứ theo lời nhận xét vừa rồi thì quả có thể đoán rằng trước đây ông vẫn trông mong lợi dụng tình cảnh túng bấn của chúng tôi, - Dunia tức giận nói.
- Nhưng bây giờ ít nhất tôi cũng không còn có thể trông mong như vậy được nữa và nhất là tôi không muốn cản trở ông Rodia Romanovich chuyển đạt những lời đề nghị bí mật của ông Arkadi Xvidrigailov mà tôi thấy rõ là có ý nghĩa tối hệ trọng và có lẽ rất thú vị đối với cô.
- Ôi trời ơi! - Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
Razumikhin cứ nhấp nhỏm trên ghế.
- Đến bây giờ mà em vẫn không thấy xấu hổ à, Dunia? - Raxkonikov hỏi.
- Có đấy anh Rodia ạ, - Dunia nói, - Ông Piotr Petrovich xin ông đi khỏi nơi nầy cho! - nàng nói với Lugin, mặt tái mét đi vì tức giận.
Piotr Petrovich hình như không ngờ sự việc lại kết thúc như vậy, ông ta quá tin vào tình cảnh khốn đốn của hai nạn nhân của mình, đến bây giờ ông ta vẫn chưa hiểu ra, ông tái mặt đi, hai môi run bắn lên.
- Cô Avdotia Romanovna ạ, nếu bây giờ tôi bước ra khỏi cửa nầy với những lời tống tiễn như thế, thì xin cô nhớ cho rằng không bao giờ tôi còn quay trở lại nữa. Cô nghĩ cho kỹ đi! Tôi đã nói là làm.
- Trơ tráo đến thế là cùng! - Dunia vụt đứng dậy quát lên - tôi có hề muốn ông quay trở lại đâu kia chứ?
- Sao? Ra thế - ế - ế đấy? - Lugin quát, đến phút cuối cùng vẫn chưa tin là câu chuyện sẽ kết thúc như thế, cho nên đâm ra rối trí hoàn toàn, - À ra thế đấy! Nhưng cô Avdotia Romanovna ạ, xin cô biết chn rằng tôi có thể phản kháng việc nầy.
- Ông có quyền gì mà nói với nó như vậy! - bà Punkheria Alekxandrovna nóng nảy xen vào, - Ông lấy tư cách gì mà phản kháng? Ông tưởng tôi có thể gả con Dunia nhà tôi cho một người như thế sao? Ông đi đi, đi hẳn đi! Chỉ tại chúng tôi tr ót tính một cuộc hôn nhân sai trái như thế, nhất là tôi…
- Nhưng bà Punkheria Alekxandrovna ạ, - Lugin điên tiết lên nói, giọng căm hờn, - bây giờ bà từ bỏ lời bà đã hứa với tôi… và rốt cục dù sao lời hứa ấy đã làm cho tôi phải chịu những khoản chi phí…
Câu cuối cùng nầy ăn nhập với nhân cách của Piotr Petrovich đến nỗi Raxkonikov, nãy giờ tái mặt đi vì tức giận và vì cố sức tự chủ, không sao chịu được nữa và bỗng cười phá lên. Nhưng bà Punkheria Alekxandrovna đã giận điên lên quát:
- Chi phí? Chi phí gì thế? có lê ông muốn nói đến cái rương của chúng tôi chứ gì? Nhưng người đánh xe đã nhận chở không cho ông kia mà. Trời ơi, chúng tôi ràng buộc ông kia đấy! Ông nghĩ lại một chút chứ, ông Piotr Petrovich, chính ông trói chân trói tay chúng tôi lại thì có!
- Thôi đủ rồi mẹ ạ. Con xin mẹ: đủ rồi! - Avdotia Romanovna khẩn khoản. - Piotr Petrovich, xin ông làm ơn đi ngay cho.
- Tôi sẽ đi, chỉ xin nói một câu cuối cùng nữa thôi!
- Ông ta nói thêm, hầu như không còn chút tự chủ nào nữa, - hình như mẹ cô quên bẵng đi rằng tôi đã cam tâm lấy cô mặc dầu những tiếng đồn đại về tư cách của cô đã lan rộng khắp vùng. Tôi đã vì cô mà coi khinh dư luận để phục hồi lại danh giá cho cô, thế thì lẽ ra tôi rất có quyền mong được đền đáp và hơn nữa có quyền đòi hỏi lòng biết ơn của cô… Mãi đến bây giờ tôi mới sáng mắt ra. Bây giờ tôi mới thấy rằng coi khinh dư luận như vậy, tôi đã hành động một cách hết sức nông nổi…
- Hắn muốn người ta bổ đôi đầu hắn ra hay sao thế nhỉ! - Razumikhin quát lên, nhảy chồm dậy, sẵn sàng cho Lugin một bài học.
- Ông là một người độc ác và đê tiện! - Dunia nói.
- Không nói gì nữa hết - Raxkonikov quát lên, tay giữ Razumikhin lại; đoạn tiến đến sát Lugin, chàng nói khẽ, tách rõ từng tiếng;
- Xin ông ra ngay! Không được nói lấy một tiếng nào nữa, nếu không…
Piotr Petrovich nhìn chàng một lát: mặt tái mét và rúm ró lại vì căm giận, rồi quay gót bước ra ngoài. Tât nhiên ít có ai mang theo trong lòng một mối căm thtù sâu cay như mối căm thù của ông ta đối với Raxkonikov bây giờ. Ông ta đổ hết lên đầu chàng và chỉ mỗi mình chàng mà thôi. Có điều đáng chú ý là ngay khi xuống thang gác, ông ta còn tưởng tượng rằng có lẽ cơ sự chưa hẳn đã tuyệt vọng và nếu chỉ kể riêng hai mẹ con thì còn có thể dàn xếp được lắm.
Chương 21
Đáng chú ý hơn cả là ngay đến phút cuối cùng Piotr Petrovich
cũng không ngờ câu chuyện sẽ kết thúc như thế. Ông ta đã vững tâm đến cùng, thậm
chí cũng không hề thoáng có ý cho rằng hai người đàn bà cùng khổ và không nơi
nương tựa ấy lại có thể thoát ra ngoài uy lực của mình. Sở dĩ ông ta dám tin chắc
như vậy là vì cái tính huênh hoang và tự tin cao độ mà giá gọi là tính tự hâm mộ
thì đúng hơn cả. Vốn là một người xuất thân chỉ có hai bàn tay trắng, Piotr
Petrovich đã quen tật khâm phục mình, tôn sùng trí thông minh và năng lực của
mình, thậm chí thỉnh thoảng, nhân lúc không có ai, lại còn mê mải ngắm nghía mặt
mình trong gương nữa. Nhưng trên đời cái mà ông ta yêu nhất vả ton sùng nhất là
tiền bạc ông kiếm được bằng công sức và đủ các phương tiền khác: nó đưa ông tên
ngang hàng với những kẻ có địa vị cao hơn ông.
Vừa rồi khi chua chát nhắc lại cho Dunia rằng ông ta đã câm tâm lấy nàng bất chấp những điều nầy tiếng nọ, Piotr Petrovich nói một cách hoàn toàn thành thật và thậm chí lại còn phẫn uất sâu sắc trước sự "vong ân bội nghĩa" đó. Thế nhưng dạo đến dạm hỏi Dunia ông ta đã biết chắc mười phần rằng những lời đồn đại hoàn toàn vô căn cứ ấy đã được bà Marfa Petrovna bác bỏ trước công chúng và đã từ lâu khắp thị trấn không còn ai tin nữa; mọi người đều hăng hái thanh minh cho nàng. Vả chăng ngay bây giờ ông ta cũng sẵn sàng không chối cãi rằng từ dạo ấy ông cũng biết thế. Tuy vậy ông vẫn đánh giá rất cao cái việc làm quả quyết của ông là đã ra tay tế độ đỡ Dunia lên ngang mình, và vẫn coi đó là một kỳ công. Vừa rồi, nói rõ điều nầy ra với Dunia, chính là ông đã nói lên cái ý nghĩ thầm kín mà ông vẫn hằng nâng niu ấp ủ, và ông không hiểu nổi tại sao những người khác lại không hân hoan khâm phục cái kỳ công của mình. Khi đến thăm Raxkonikov, ông đã bước vào phòng chàng với cảm giác của một vị ân nhân sẵn sàng gặt lấy kết quà những ơn huệ mình đã gieo ra và nghe những lời tán tụng hết sức ngọt ngào. Và dĩ nhiên ngay bây giờ đây trong khi bước xuống thang gác, ông cũng coi như mình bị quên ơn và bị xúc phạm đến cùng cực.
Còn như Dunia thì ông ta không thể hiểu được; từ bỏ nàng đối với ông ta là một việc không sao tưởng tượng nổi. Từ lâu, đã mấy năm nay rồi ông ta khoái trá mơ tưởng đến hôn nhân, nhưng vẫn dằn lòng gom góp cho nhiều tiền bạc và chờ đợi. Ông ta say sưa thầm ước một người con gái có đức hạnh và nghèo (nhất định phải nghèo mới được), rất trẻ, rất xinh, cao thượng và có học thức, rất sợ hãi trước những tai hoạ dồn dập đã trải qua và hoàn toàn phục tùng ông ta, một người con gái suốt đời xem ông ta như vị cứu tinh, vị ân nhân của mình, sùng mộ, quỵ luỵ: thán phục ông ta và chỉ mình ông ta mà thôi. Ông đã xây dựng trong tưởng tượng bao nhiêu cảnh thần tiên, bao nhiêu chuyện khoái lạc trên cái đề tài hấp dẫn và vui thú nầy trong những giờ nghỉ ngơi yên tĩnh! Và đây, giấc mơ bao nhiêu năm qua nay đã gần thành sự thực: nhan sắc và học vấn của Avdotia Romanovna đã khiến ông ta kinh ngạc; tình cảm điêu đứng của nàng đã kích thích ông ta đến cùng cực ở nàng còn có một cái gì hơn cả những điều ông hằng mơ ước: một cái gái kiêu kỳ, cương nghị, có đức hạnh, có học thức và thông minh hơn ông ta (ông ta cũng cảm thấy thế, mà lại sẽ đội ơn ông suốt đời một cách tôi mọi vì cái công ơn tế độ của ông, sẽ sùng kính cúi rạp xuống trước mặt ông, còn ông thì sẽ làm vị chúa tể uy quyền vô hạn… Như có chủ ý, trước đấy ít lâu sau một thời gian dài suy xét và chờ đợi, cuối cùng ông đã nhất quyết thay đổi con đường công danh và bước vào một lĩnh vực hoạt động rộng rãi hơn để dần dần leo lên một môi trường xã hội cao hơn mà ông đã từ lâu mơ ước một cách khoái lạc. Tóm lại, ông ta đã quyết định thăm dò Petersburg. Ông ta biết rằng dùng phụ nữ có thể thu lợi rất nhiều. Nhan sắc của một người đàn bà đức hạnh và có học thức có thể tô điểm cho con đường công danh của ông rực rỡ lạ lùng, thu hút kẻ khác đến cạnh ông, tạo nên một áng hào quang quanh ông… thế mà bây giờ tất cả đều đổ sụp tan tành! Cuộc đoạn tuyệt đột ngột và kỳ quái vừa qua giáng xuống đầu ông ta như một tiếng sét. Đó là một trò đùa gì rất quái gở và vô lý! Ông ta chi mới hơi xấc già một tí; thậm chí ông ta cũng chưa kịp bày tỏ cho hết nữa, ông chỉ đùa nhả hơi quá trớn một chút, thế mà cơ sự lại đi đến một kết cục nghiêm trọng như vậy.
Xét cho cùng ông ta cũng yêu Dunia theo một lối riêng, ông ta đã thống trị nàng trong tưởng tượng - thế mà đùng một cái. Không! Mai, ngay từ ngày mai phải khôi phục, uốn nãn lại, hàn gắn lại, và nhất là phải tiêu diệt cái thằng nhóc con xấc láo ấy đi, vì chính nớ gây ra tất cả. Với một cảm giác khó chịu. Ông ta nhớ đến Razumikhin… nhưng chỉ lát sau ông ta yên tâm hắn về mặt nầy: "Một thằng như thế thì đặt ngang hàng với ta thế nào được!" Nhưng người mà ông ta e sợ thật sự chính là Xvidrigailov… Nói tóm lại, còn phải rầy rà nhiều…
- Không, con mới là người có lỗi hơn cả. - Dunia vừa nói vừa ôm hôn mẹ, - vì con ham tiền nên mới đến nỗi thế, nhưng anh ạ, em thề rằng trước đây em không ngờ hắn lại đê hèn đến thế. Nếu em biết rõ hắn từ trước, không có gì có thể phủ dụ em! Anh đừng kết tội em, anh ạ
- Đội ơn Chúa! Đội ơn Chúa! - Punkheria Alekxandrovna lẩm bẩm, vẻ bàng hoàng như chưa hiểu rõ hẳn những việc vừa xảy ra.
Ai nấy đều mừng rỡ, và năm phút sau họ lại còn cười to lên nữa. Chỉ riêng Dunia thỉnh thoảng tái mặt đi và chau mày khi ôn lại việc vừa qua, bà Punkheria Alekxandrovna cũng không ngờ mình sẽ vui mừng thế nầy. Mới sáng nay thôi bà còn hình dung việc cự tuyệt Lugin như một tai hoạ ghê gớm. Nhưng Razumikhin thì hân hoan đến cùng cực. Anh cùng chưa dám biểu lộ hết niềm hân hoan đó ra, nhưng cứ run run như lên cơn sốt, tựa hồ vừa mới cất được một khối sắt nặngơ hàng chục cân đè lên ngực Bây giờ anh có thể hiến dâng cho họ cuộc đời anh, có thể phụng sự họ… Bây giờ thì việc gì mà anh chẳng làm được. Tuy vậy anh lại càng hoảng hốt xua đuôi những ý nghĩ kéo theo và thấy sợ trí tưởng tượng của mình. Chỉ có Raxkonikov vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, vẻ mặt lầm lì và lơ đãng nữa. Chàng là người đã khẩn thiết hơn ai hết đòi phải cự tuyệt Lugin, nhưng bây giờ lại dường như ít quan tâm đến việc vừa xảy ra hơn ai hết. Dunia bất giác nghĩ rằng chàng vẫn giận mình lắm. Bà Punkheria Alekxandrovna sợ sệt đưa mắt nhìn con trai.
- Thế Xvidrigailov nói với anh những gì? - Dunia lại gần anh hỏi.
- À phải! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
Raxkonikov ngẩng đầu lên nói:
- Hắn nhất thiết muốn biếu em một vạn rúp và tỏ ý muốn gặp em một lần nữa trước mặt anh.
- Gặp à! Không đời nào! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên, - mà sao ông ta lại dám nói chuyện biếu xén tiền nong với nó!
Raxkonikov thuật lại một cách hơi khô khan buổi nói chuyện với Xvidrigailov, bỏ qua chuyện oan hồn Marfa Petrovna hiện về để khỏi phải nói lan man, và vì không muốn nói bất cứ chuyện gì ngoài những điều tối cần thiết.
- Thế anh trả lời ra sao? - Dunia hỏi.
- Lúc đầu anh bảo là sẽ không nói lại với em gì hết. Hắn ta mới tuyên bố là sẽ dùng đủ mọi cách để tìm gặp em cho kỳ được. Hắn bảo rằng tình cảm của hắn đối với em ngày trước chỉ là chuyện vớ vẩn và bây giờ hắn không cảm thấy yêu đương gì nữa hết… hắn ta không muốn em lấy Lugin. Nói chung hắn nói năng rất khó chịu.
- Anh thấy ông ấy thế nào, anh Rodia? Cảm tưởng của anh ra sao?
- Thú thật anh cũng không hiểu rõ chút nào. Xin biếu một vạn đồng nhưng lại nói là mình không giàu. Tuyên bố là sẽ đi đâu đấy, nhưng mười phút sau lại quên khuấy là mình có nói đến chuyện ấy. Bỗng dưng lại nói mình muốn lấy vợ và người ta đã mối lái cho mình rồi… Dĩ nhiên hắn có những mục đích gì đấy, có lẽ là những mục đích xấu xa. Nhưng vẫn khó lòng mà giả định rằng hắn ta có thể hành động một cách ngu xuẩn như thế, nếu quả hắn có những ý định đen tối nhằm hại em; nếu thế thì lạ quá… Dĩ nhiên anh đã thay mặt em dứt khoát khước từ số tiền ấy. Nói chung anh thấy hắn ta rất kỳ dị và… thậm chí còn có những dấu hiệu điên rồ nữa. Nhưng có thể anh nhầm; có lẽ đây chỉ là một lối vờ vĩnh. Cái chết của Marfa Petrovna hình như đã gây cho hắn một ấn tượng khá…
- Lạy Chúa cho linh hồn bà được yên nghỉ! - Punkheria Alekxandrovna thốt lên, - mẹ sẽ suốt đời cầu nguyện cho linh hồn bà ta! Dunia ạ, nếu không có ba ngàn rúp ấy thì bây giờ mẹ con ta sẽ ra sao đây! Lạy Chúa, cứ như trên trời rơi xuống ấy! Ồ, Rodia ạ, sáng nay hai mẹ con chỉ còn vẻn vẹn có ba rúp, mẹ với Dunia cứ tính cách đem cầm chiếc đồng hô càng sớm càng tốt để khỏi hỏi tiền của hắn trước khi hắn đưa.
Dunia hình như ngạc nhiên quá đỗi vì lời đề nghị của Xvidrigailov. Nàng cứ đứng yên suy nghĩ hồi lâu.
- Chắc lão ấy đã bày ra một quỷ kế gì ghê gớm lắm đây! - nàng nói thì thầm một mình, người gần như run lên.
Raxkonikov để ý thấy vẻ hốt hoảng quá đáng của nàng.
- Có lẽ anh sẽ còn phải gặp lão nhiều lần nữa - chàng nói với Dunia.
- Ta sẽ theo dõi hắn. Tôi sẽ tìm ra - Razumikhin quả quyết nói. - Tôi sẽ không rời mắt! Rodia cho phép tôi. Lúc nãy anh ấy nói: "Hãy bảo vệ em tôi". Thế cô có cho phép tôi không, cô Avdotia Romanovna?
Dunia mỉm cười và đưa tay ra cho anh, nhưng gương mặt vẫn giữ vẻ lo lắng. Bà Punkheria Alekxandrovna rụt rè đưa mắt nhìn nàng; tuy vậy, số tiền ba nghìn rúp hình như cũng đã làm cho bà yên lòng.
Mười lăm phút sau mọi người đều bàn tán sôi nổi. Ngay cả Raxkonikov, tuy không góp chuyện, cũng chăm chú lắng nghe một lúc. Razumikhin nói rất hùng hồn.
- Việc gì, việc gì bà và cô phải đi đâu! - anh say sưa nói, giọng nhiệt thành, - về cái thị trấn ấy làm gì? Cái chính là ở đây chúng ta đông đủ và rất cần có nhau, cần lắm, xin hiểu cho tôi! Ấy, ít nhất là một thời gian… Còn tôi thì xin bà và cô xem như một người bạn, một người cộng tác, và xin cam đoan rằng chúng ta sẽ mưu toan một việc rất hay. Đây, tôi sẽ trình bày tỉ mỉ cho các vị nghe cả một kế hoạch! Sáng sớm nay, khi chưa có việc gì xảy ra, tôi đã chợt nghĩ ra được. Số là thế nầy: tôi có một ông chú (tôi sẽ xin giới thiệu để các vị làm quen: một ông già rất tốt và rất đáng kính). Ông ta có một nghìn rúp vốn liếng hiện không cần đến vì vẫn sinh sống bằng sổ hưu bổng. Đã hai năm nay chú tôi cứ nài tôi nhận lấy số tiền một nghìn rúp ấy và hàng năm trả lãi sáu phân cho ông ta. Tôi hiểu thừa đi: chẳng qua ông cụ muốn giúp đỡ tôi; nhưng năm ngoái tôi không cần, còn năm nay tôi cứ mong ông ta lên đây và đã quyết định lấy số tiền đó. Ba người sẽ góp thêm vào đây một nghìn rúp nữa, lúc đầu thế là đủ cho công ty chúng ta. Thế ta sẽ làm gì?
Đến đây Razumikhin bắt đầu trình bày dự định của mình và nói đi nói lại rằng hầu hết bọn chủ hiệu sách và nhà xuất bản của ta đều ít hiểu biết về sách vở cho nên thường làm việc xuất bán rất tồi, còn các nhà xuất bản khá thì nói chung sách bán rất chạy và kiếm được khá nhiều lãi. Chính Razumikhin đang mơ ước nghề xuất bản: anh đã hai năm làm việc cho kẻ khác và biết ba thứ tiếng châu Âu khá thạo; tuy cách đây sáu hôm anh có nói với Raxkonikov là tiếng Đức mình "schwach" (1) để cho chàng chịu cầm lấy nữa số trang dịch và ba đồng rúp tạm ứng: hôm ấy anh nói dối, và Raxkonikov cũng biết thế.
- Việc gì, việc gì chúng ta lại bỏ lỡ cơ hội, trong khi chúng ta nắm được một trong những phương tiện chù yếu: chúng ta có vốn riêng? - Razumikhin sôi nối lên. - Dĩ nhiên cần phải bỏ nhiều công sức, thì ta sẽ ra công, sợ gì, cô Avdotia Romanovna, tôi và Rodion… bây giờ có những nhà xuất bản lãi khá to. Và cơ sở chủ yếu của doanh nghiệp là phải nghĩ xem cụ thể cần dịch những gì! Chúng ta sẽ vừa dịch, vừa xuất bản, vừa học với nhau. Bây giờ tôi có thể giúp ích được, vì tôi có kinh nghiệm. Đã gần hai năm nay tôi lặn lội ở các nhà xuấ bản, và biết hết mánh lới của họ, không có gì hóc hiểm lắm đau, thật đấy! Và việc gì, việc gì cờ đến tay lại không phất! Tôi biết hai ba tác phẩm (tôi vẫn giữ bí mật) mà chỉ riêng cái ý đem dịch và xuất bản thôi cung đủ đưa lại mỗi quyển một trăm rúp rồi, riêng có một quyển thì chỉ riêng cái ý đem dịch thôi có trả tôi năm trăm tôi cũng không lấy. Thế mà nếu đem bán với họ thì có lẽ họ còn phân vân đấy nhé, họ đần lắm! Còn về công việc ấn loát, giấy má, phát hành thì cứ giao cho tôi! Tôi thuộc làu ra rồi! Lúc đầu ta sẽ làm nhỏ đã, rồi dần dần làm ăn to hơn. Ít nhất cũng có miếng ăn và dù sao cũng bù được vốn.
Mắt Dunia sáng long lanh.
- Những điều ông vừa nói làm tôi thích quá, Dmitri Prokofich ạ, - nàng nói.
- Tôi thì dĩ nhiên chẳng biết gì về công việc nầy, - bà Punkheria Alekxandrovna tiếp lời. - có lẽ thế mà hay, nhưng cũng chưa biết chừng. Công việc nầy nó mới quá, không biết thế nào. Dĩ nhiên ta phải ở lại đây đã, ít nhất là một thời gian…
Bà đưa mắt nhìn Rodia.
- Anh nghĩ sao hở anh. - Dunia hỏi.
- Anh nghĩ rằng ý của cậu ấy rất hay, - chàng đáp - Dĩ nhiên chưa nên nghĩ quá sơm đến chuyện thành lập một công ty lớn, nhưng quả có thể xuất bản dăm, sáu quyển chắc chắn thành công. Chính anh cũng biết một tác phẩm nhất định bán chạy. Còn về vấn đề cậu ấy có biết công biết việc hay không thì không còn hồ nghĩ gì nữa: cậu ấy thạo lắm. Vả chăng ta còn khối thì giờ bàn thêm!
- Ura! - Razumikhin reo lên - Bây giờ thế nầy, ở đây có một căn nhà riêng ngay trong toà nhà nầy cùng chủ đấy. Đó là một căn riêng biệt, không ăn thông với những buồng ngủ trọ nầy, có đủ bàn ghế, giá phải chăng, có ba phòng. Iìà và cô hãy tạm ở đấy. Đồng hồ thì mai sẽ mang đi cầm và đem tiền lại, rồi mọi việc sẽ ổn. Cái chính là cả ba người có thể ở chung, cả Rodia nữa… Kìa cậu đi đâu thế Rodia?
- Kìa, Rodia, con đã đi rồi sao? - bà Punkheria Alekxandrovna hỏi, vẻ hoảng hốt.
- Lại bỏ đi vào lúc nầy! - Razumikhin kêu lên.
Dunia nhìn anh, vẻ ngạc nhiên và bỡ ngỡ, tay cầm chiếc mũ lưỡi trai, chàng đang sắp sửa bước ra ngoài.
- Cứ như thể các người đem tôi đi chôn hay vĩnh biệt tôi không bằng, - chàng nói, giọng nghe rất quái gở. Chàng tựa hồ như mỉm cười, nhưng không còn gì khác một cụ cười hơn thế nữa. - Mà biết đâu, có thể chúng ta trông thấy mặt nhau lần nầy là lần cuối cùng, - chàng đột nhiên nói thêm.
Hình như chàng nghĩ thầm một mình như thế, nhưng không hiểu sao buột mồm nói to lên.
- Kia con làm sao thế? - Bà cụ kêu lên.
- Anh đi đâu thế Rodia? - Dunia hỏi, giọng nghe rất lạ.
- Tôi cần phải đi, - chàng đáp bâng quơ, như phân vân không muốn nói rõ. Trên gương mặt xanh xao của chàng hiện rõ một quyết tâm dứt khoát.
- Tôi muốn nói… khi đến đây… tôi muốn nói với mẹ… và em Dunia rằng chúng ta nên xa nhau ít lâu thì hơn. Tôi không được khỏe, trong người thấy bứt rứt lắm… sau tôi sẽ đến, chính tôi sẽ tự đến, khi nào… có thể. Tôi nhớ mẹ và em, tôi thương… Xin cứ mặc tôi! Để cho tôi một mình! Tôi đã quyết định như vậy từ trước… Tôi đã quyết định dứt khoát… Dù có phải thế nào chăng nữa… dù tôi có chết hay không, tôi cũng muốn một mình. Xin quên hẳn tôi đi. Như thế tốt hơn… Đừng hỏi han gì tôi. Khi nào cần, tôi sẽ đến… hay mời mẹ và em đến. Có lẽ mọi việc sẽ được cứu vãn! Còn bây giờ, nếu mẹ và em còn yêu tôi, xin đừng tìm tôi nữa… Nếu không, tôi sẽ thù ghét hai người, tôi cảm thấy thế… Thôi xin từ biệt!
- Trời ơi! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
Cả hai mẹ con đều khiếp sợ đến cùng cực; Razumikhin cũng thế.
- Rodia, Rodia! Ta hoà giải với nhau đi, mẹ con mình sẽ lại như trước! - người mẹ đáng thương kêu lên.
Raxkonikov chậm rãi quay đi và chậm rãi bước ra cửa. Dunia bước theo.
- Anh! Sao anh nỡ xử với mẹ như thế! - nàng thì thào, mắt quắc lên vì căm giận.
Chàng gườm gườm nhìn Dunia.
- Không có gì đâu, tôi sẽ đến, tôi sẽ lui tới - chàng lẩm bẩm như không biết rõ mình định nói gì, đoạn bước ra khỏi phòng.
- Thật là ích kỷ, độc ác, táng tận nhân tình! - Dunia kêu lên.
- Anh ấy điên chứ không phải thế đâu! Anh ấy điên rồi! Chã nhẽ cô không thấy hay sao? Chính cô táng tận nhân tình thì có! - Razumikhin ghé sát vào tai nàng thì thầm giọng khẩn khoản, tay xiết chặt tay nàng.
Bà Punkheria Alekxandrovna như người mất hồn.
Razumikhin quay về phía bà nói vội:
- Tôi trở về ngay! - rồi chạy ra ngoài.
Raxkonikov đợi anh ở cuối hành lang.
- Tôi biết là cậu sẽ chạy ra. - chàng nói. - Cậu hãy quay lại với họ và ở lại với họ… Mai cũng thế, và ở lại mãi mài… Tôi… có lẽ tôi sẽ đến, nếu có thể. Từ biệt cậu.
Đoạn chàng bỏ đi, không chìa tay ra cho bạn.
- Nhưng cậu đi đâu mới được chứ? Cậu làm sao thế? Lẽ nào lại như thế… - Razumikhin thảng thốt nói lắp bắp. Raxkonikov dừng lại một lần nữa.
Tôi nói lần nầy là lần cuối cùng: đừng bao giờ hỏi han gì tôi nữa hết. Tôi không biết nói thế nào để trả lời cậu… Đừng đến nhà tôi. Có lẽ tôi sẽ tự đến đây. Cậu để mặc tôi, còn mẹ và em tôi… thì cậu đừng bỏ họ. Cậu hiểu tôi chưa?
Trong hành lang tối om, hai người đứng cạnh một ngọn đèn, họ im lặng nhìn nhau khoảng một phút.
Suốt đời Razumikhin sẽ nhớ mãi phút nầy. Đôi mắt nẩy lửa của Raxkonikov nhìn trừng trừng vào mắt anh, dường như mỗi lúc một xói sâu thêm vào tâm hồn, vào ý thức anh, Razumikhin giật mình. Dường như vừa có một cái gì khủng khiếp vụt qua giữa hai người. Một ý nghĩ nào đó lóe ra như một lời ám dụ: một cái gì ghê gớm, quái gở vụt hiện lên, và cả hai đều hiểu …
Razumikhin tái nhợt đi như một xác chết.
- Bây giờ thì cậu hiểu rồi chứ? - Raxkonikov bỗng lên tiếng, mặt co rúm lại một cách đau đớn… - Cậu quay lại với họ đi, - chàng nói thêm và quay phắt đi ra khỏi nhà…
Bây giờ tôi sẽ không thuật lại những gì đã diễn ra ở buồng bà Punkheria Alekxandrovna tối hôm ấy, những là Razumikhin quay lại an ủi hai mẹ con ra sao, những là anh quả quyết rằng Rodia đang ốm cần phải nghĩ ngơi, rằng chàng nhất định sẽ trở lại, rằng chàng đang bị khủng hoảng tinh thần, không nên khuấy động thêm; những là anh ta sẽ theo dõi chàng, tìm cho chàng một bác sĩ thật giỏi, hay cả một hội đồng bác sĩ nữa…
Nói tóm lại, kê từ tối hôm ấy Razumikhin đã trở thành người con và người anh trong gia đình họ.
Chú thích:
Vừa rồi khi chua chát nhắc lại cho Dunia rằng ông ta đã câm tâm lấy nàng bất chấp những điều nầy tiếng nọ, Piotr Petrovich nói một cách hoàn toàn thành thật và thậm chí lại còn phẫn uất sâu sắc trước sự "vong ân bội nghĩa" đó. Thế nhưng dạo đến dạm hỏi Dunia ông ta đã biết chắc mười phần rằng những lời đồn đại hoàn toàn vô căn cứ ấy đã được bà Marfa Petrovna bác bỏ trước công chúng và đã từ lâu khắp thị trấn không còn ai tin nữa; mọi người đều hăng hái thanh minh cho nàng. Vả chăng ngay bây giờ ông ta cũng sẵn sàng không chối cãi rằng từ dạo ấy ông cũng biết thế. Tuy vậy ông vẫn đánh giá rất cao cái việc làm quả quyết của ông là đã ra tay tế độ đỡ Dunia lên ngang mình, và vẫn coi đó là một kỳ công. Vừa rồi, nói rõ điều nầy ra với Dunia, chính là ông đã nói lên cái ý nghĩ thầm kín mà ông vẫn hằng nâng niu ấp ủ, và ông không hiểu nổi tại sao những người khác lại không hân hoan khâm phục cái kỳ công của mình. Khi đến thăm Raxkonikov, ông đã bước vào phòng chàng với cảm giác của một vị ân nhân sẵn sàng gặt lấy kết quà những ơn huệ mình đã gieo ra và nghe những lời tán tụng hết sức ngọt ngào. Và dĩ nhiên ngay bây giờ đây trong khi bước xuống thang gác, ông cũng coi như mình bị quên ơn và bị xúc phạm đến cùng cực.
Còn như Dunia thì ông ta không thể hiểu được; từ bỏ nàng đối với ông ta là một việc không sao tưởng tượng nổi. Từ lâu, đã mấy năm nay rồi ông ta khoái trá mơ tưởng đến hôn nhân, nhưng vẫn dằn lòng gom góp cho nhiều tiền bạc và chờ đợi. Ông ta say sưa thầm ước một người con gái có đức hạnh và nghèo (nhất định phải nghèo mới được), rất trẻ, rất xinh, cao thượng và có học thức, rất sợ hãi trước những tai hoạ dồn dập đã trải qua và hoàn toàn phục tùng ông ta, một người con gái suốt đời xem ông ta như vị cứu tinh, vị ân nhân của mình, sùng mộ, quỵ luỵ: thán phục ông ta và chỉ mình ông ta mà thôi. Ông đã xây dựng trong tưởng tượng bao nhiêu cảnh thần tiên, bao nhiêu chuyện khoái lạc trên cái đề tài hấp dẫn và vui thú nầy trong những giờ nghỉ ngơi yên tĩnh! Và đây, giấc mơ bao nhiêu năm qua nay đã gần thành sự thực: nhan sắc và học vấn của Avdotia Romanovna đã khiến ông ta kinh ngạc; tình cảm điêu đứng của nàng đã kích thích ông ta đến cùng cực ở nàng còn có một cái gì hơn cả những điều ông hằng mơ ước: một cái gái kiêu kỳ, cương nghị, có đức hạnh, có học thức và thông minh hơn ông ta (ông ta cũng cảm thấy thế, mà lại sẽ đội ơn ông suốt đời một cách tôi mọi vì cái công ơn tế độ của ông, sẽ sùng kính cúi rạp xuống trước mặt ông, còn ông thì sẽ làm vị chúa tể uy quyền vô hạn… Như có chủ ý, trước đấy ít lâu sau một thời gian dài suy xét và chờ đợi, cuối cùng ông đã nhất quyết thay đổi con đường công danh và bước vào một lĩnh vực hoạt động rộng rãi hơn để dần dần leo lên một môi trường xã hội cao hơn mà ông đã từ lâu mơ ước một cách khoái lạc. Tóm lại, ông ta đã quyết định thăm dò Petersburg. Ông ta biết rằng dùng phụ nữ có thể thu lợi rất nhiều. Nhan sắc của một người đàn bà đức hạnh và có học thức có thể tô điểm cho con đường công danh của ông rực rỡ lạ lùng, thu hút kẻ khác đến cạnh ông, tạo nên một áng hào quang quanh ông… thế mà bây giờ tất cả đều đổ sụp tan tành! Cuộc đoạn tuyệt đột ngột và kỳ quái vừa qua giáng xuống đầu ông ta như một tiếng sét. Đó là một trò đùa gì rất quái gở và vô lý! Ông ta chi mới hơi xấc già một tí; thậm chí ông ta cũng chưa kịp bày tỏ cho hết nữa, ông chỉ đùa nhả hơi quá trớn một chút, thế mà cơ sự lại đi đến một kết cục nghiêm trọng như vậy.
Xét cho cùng ông ta cũng yêu Dunia theo một lối riêng, ông ta đã thống trị nàng trong tưởng tượng - thế mà đùng một cái. Không! Mai, ngay từ ngày mai phải khôi phục, uốn nãn lại, hàn gắn lại, và nhất là phải tiêu diệt cái thằng nhóc con xấc láo ấy đi, vì chính nớ gây ra tất cả. Với một cảm giác khó chịu. Ông ta nhớ đến Razumikhin… nhưng chỉ lát sau ông ta yên tâm hắn về mặt nầy: "Một thằng như thế thì đặt ngang hàng với ta thế nào được!" Nhưng người mà ông ta e sợ thật sự chính là Xvidrigailov… Nói tóm lại, còn phải rầy rà nhiều…
- Không, con mới là người có lỗi hơn cả. - Dunia vừa nói vừa ôm hôn mẹ, - vì con ham tiền nên mới đến nỗi thế, nhưng anh ạ, em thề rằng trước đây em không ngờ hắn lại đê hèn đến thế. Nếu em biết rõ hắn từ trước, không có gì có thể phủ dụ em! Anh đừng kết tội em, anh ạ
- Đội ơn Chúa! Đội ơn Chúa! - Punkheria Alekxandrovna lẩm bẩm, vẻ bàng hoàng như chưa hiểu rõ hẳn những việc vừa xảy ra.
Ai nấy đều mừng rỡ, và năm phút sau họ lại còn cười to lên nữa. Chỉ riêng Dunia thỉnh thoảng tái mặt đi và chau mày khi ôn lại việc vừa qua, bà Punkheria Alekxandrovna cũng không ngờ mình sẽ vui mừng thế nầy. Mới sáng nay thôi bà còn hình dung việc cự tuyệt Lugin như một tai hoạ ghê gớm. Nhưng Razumikhin thì hân hoan đến cùng cực. Anh cùng chưa dám biểu lộ hết niềm hân hoan đó ra, nhưng cứ run run như lên cơn sốt, tựa hồ vừa mới cất được một khối sắt nặngơ hàng chục cân đè lên ngực Bây giờ anh có thể hiến dâng cho họ cuộc đời anh, có thể phụng sự họ… Bây giờ thì việc gì mà anh chẳng làm được. Tuy vậy anh lại càng hoảng hốt xua đuôi những ý nghĩ kéo theo và thấy sợ trí tưởng tượng của mình. Chỉ có Raxkonikov vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, vẻ mặt lầm lì và lơ đãng nữa. Chàng là người đã khẩn thiết hơn ai hết đòi phải cự tuyệt Lugin, nhưng bây giờ lại dường như ít quan tâm đến việc vừa xảy ra hơn ai hết. Dunia bất giác nghĩ rằng chàng vẫn giận mình lắm. Bà Punkheria Alekxandrovna sợ sệt đưa mắt nhìn con trai.
- Thế Xvidrigailov nói với anh những gì? - Dunia lại gần anh hỏi.
- À phải! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
Raxkonikov ngẩng đầu lên nói:
- Hắn nhất thiết muốn biếu em một vạn rúp và tỏ ý muốn gặp em một lần nữa trước mặt anh.
- Gặp à! Không đời nào! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên, - mà sao ông ta lại dám nói chuyện biếu xén tiền nong với nó!
Raxkonikov thuật lại một cách hơi khô khan buổi nói chuyện với Xvidrigailov, bỏ qua chuyện oan hồn Marfa Petrovna hiện về để khỏi phải nói lan man, và vì không muốn nói bất cứ chuyện gì ngoài những điều tối cần thiết.
- Thế anh trả lời ra sao? - Dunia hỏi.
- Lúc đầu anh bảo là sẽ không nói lại với em gì hết. Hắn ta mới tuyên bố là sẽ dùng đủ mọi cách để tìm gặp em cho kỳ được. Hắn bảo rằng tình cảm của hắn đối với em ngày trước chỉ là chuyện vớ vẩn và bây giờ hắn không cảm thấy yêu đương gì nữa hết… hắn ta không muốn em lấy Lugin. Nói chung hắn nói năng rất khó chịu.
- Anh thấy ông ấy thế nào, anh Rodia? Cảm tưởng của anh ra sao?
- Thú thật anh cũng không hiểu rõ chút nào. Xin biếu một vạn đồng nhưng lại nói là mình không giàu. Tuyên bố là sẽ đi đâu đấy, nhưng mười phút sau lại quên khuấy là mình có nói đến chuyện ấy. Bỗng dưng lại nói mình muốn lấy vợ và người ta đã mối lái cho mình rồi… Dĩ nhiên hắn có những mục đích gì đấy, có lẽ là những mục đích xấu xa. Nhưng vẫn khó lòng mà giả định rằng hắn ta có thể hành động một cách ngu xuẩn như thế, nếu quả hắn có những ý định đen tối nhằm hại em; nếu thế thì lạ quá… Dĩ nhiên anh đã thay mặt em dứt khoát khước từ số tiền ấy. Nói chung anh thấy hắn ta rất kỳ dị và… thậm chí còn có những dấu hiệu điên rồ nữa. Nhưng có thể anh nhầm; có lẽ đây chỉ là một lối vờ vĩnh. Cái chết của Marfa Petrovna hình như đã gây cho hắn một ấn tượng khá…
- Lạy Chúa cho linh hồn bà được yên nghỉ! - Punkheria Alekxandrovna thốt lên, - mẹ sẽ suốt đời cầu nguyện cho linh hồn bà ta! Dunia ạ, nếu không có ba ngàn rúp ấy thì bây giờ mẹ con ta sẽ ra sao đây! Lạy Chúa, cứ như trên trời rơi xuống ấy! Ồ, Rodia ạ, sáng nay hai mẹ con chỉ còn vẻn vẹn có ba rúp, mẹ với Dunia cứ tính cách đem cầm chiếc đồng hô càng sớm càng tốt để khỏi hỏi tiền của hắn trước khi hắn đưa.
Dunia hình như ngạc nhiên quá đỗi vì lời đề nghị của Xvidrigailov. Nàng cứ đứng yên suy nghĩ hồi lâu.
- Chắc lão ấy đã bày ra một quỷ kế gì ghê gớm lắm đây! - nàng nói thì thầm một mình, người gần như run lên.
Raxkonikov để ý thấy vẻ hốt hoảng quá đáng của nàng.
- Có lẽ anh sẽ còn phải gặp lão nhiều lần nữa - chàng nói với Dunia.
- Ta sẽ theo dõi hắn. Tôi sẽ tìm ra - Razumikhin quả quyết nói. - Tôi sẽ không rời mắt! Rodia cho phép tôi. Lúc nãy anh ấy nói: "Hãy bảo vệ em tôi". Thế cô có cho phép tôi không, cô Avdotia Romanovna?
Dunia mỉm cười và đưa tay ra cho anh, nhưng gương mặt vẫn giữ vẻ lo lắng. Bà Punkheria Alekxandrovna rụt rè đưa mắt nhìn nàng; tuy vậy, số tiền ba nghìn rúp hình như cũng đã làm cho bà yên lòng.
Mười lăm phút sau mọi người đều bàn tán sôi nổi. Ngay cả Raxkonikov, tuy không góp chuyện, cũng chăm chú lắng nghe một lúc. Razumikhin nói rất hùng hồn.
- Việc gì, việc gì bà và cô phải đi đâu! - anh say sưa nói, giọng nhiệt thành, - về cái thị trấn ấy làm gì? Cái chính là ở đây chúng ta đông đủ và rất cần có nhau, cần lắm, xin hiểu cho tôi! Ấy, ít nhất là một thời gian… Còn tôi thì xin bà và cô xem như một người bạn, một người cộng tác, và xin cam đoan rằng chúng ta sẽ mưu toan một việc rất hay. Đây, tôi sẽ trình bày tỉ mỉ cho các vị nghe cả một kế hoạch! Sáng sớm nay, khi chưa có việc gì xảy ra, tôi đã chợt nghĩ ra được. Số là thế nầy: tôi có một ông chú (tôi sẽ xin giới thiệu để các vị làm quen: một ông già rất tốt và rất đáng kính). Ông ta có một nghìn rúp vốn liếng hiện không cần đến vì vẫn sinh sống bằng sổ hưu bổng. Đã hai năm nay chú tôi cứ nài tôi nhận lấy số tiền một nghìn rúp ấy và hàng năm trả lãi sáu phân cho ông ta. Tôi hiểu thừa đi: chẳng qua ông cụ muốn giúp đỡ tôi; nhưng năm ngoái tôi không cần, còn năm nay tôi cứ mong ông ta lên đây và đã quyết định lấy số tiền đó. Ba người sẽ góp thêm vào đây một nghìn rúp nữa, lúc đầu thế là đủ cho công ty chúng ta. Thế ta sẽ làm gì?
Đến đây Razumikhin bắt đầu trình bày dự định của mình và nói đi nói lại rằng hầu hết bọn chủ hiệu sách và nhà xuất bản của ta đều ít hiểu biết về sách vở cho nên thường làm việc xuất bán rất tồi, còn các nhà xuất bản khá thì nói chung sách bán rất chạy và kiếm được khá nhiều lãi. Chính Razumikhin đang mơ ước nghề xuất bản: anh đã hai năm làm việc cho kẻ khác và biết ba thứ tiếng châu Âu khá thạo; tuy cách đây sáu hôm anh có nói với Raxkonikov là tiếng Đức mình "schwach" (1) để cho chàng chịu cầm lấy nữa số trang dịch và ba đồng rúp tạm ứng: hôm ấy anh nói dối, và Raxkonikov cũng biết thế.
- Việc gì, việc gì chúng ta lại bỏ lỡ cơ hội, trong khi chúng ta nắm được một trong những phương tiện chù yếu: chúng ta có vốn riêng? - Razumikhin sôi nối lên. - Dĩ nhiên cần phải bỏ nhiều công sức, thì ta sẽ ra công, sợ gì, cô Avdotia Romanovna, tôi và Rodion… bây giờ có những nhà xuất bản lãi khá to. Và cơ sở chủ yếu của doanh nghiệp là phải nghĩ xem cụ thể cần dịch những gì! Chúng ta sẽ vừa dịch, vừa xuất bản, vừa học với nhau. Bây giờ tôi có thể giúp ích được, vì tôi có kinh nghiệm. Đã gần hai năm nay tôi lặn lội ở các nhà xuấ bản, và biết hết mánh lới của họ, không có gì hóc hiểm lắm đau, thật đấy! Và việc gì, việc gì cờ đến tay lại không phất! Tôi biết hai ba tác phẩm (tôi vẫn giữ bí mật) mà chỉ riêng cái ý đem dịch và xuất bản thôi cung đủ đưa lại mỗi quyển một trăm rúp rồi, riêng có một quyển thì chỉ riêng cái ý đem dịch thôi có trả tôi năm trăm tôi cũng không lấy. Thế mà nếu đem bán với họ thì có lẽ họ còn phân vân đấy nhé, họ đần lắm! Còn về công việc ấn loát, giấy má, phát hành thì cứ giao cho tôi! Tôi thuộc làu ra rồi! Lúc đầu ta sẽ làm nhỏ đã, rồi dần dần làm ăn to hơn. Ít nhất cũng có miếng ăn và dù sao cũng bù được vốn.
Mắt Dunia sáng long lanh.
- Những điều ông vừa nói làm tôi thích quá, Dmitri Prokofich ạ, - nàng nói.
- Tôi thì dĩ nhiên chẳng biết gì về công việc nầy, - bà Punkheria Alekxandrovna tiếp lời. - có lẽ thế mà hay, nhưng cũng chưa biết chừng. Công việc nầy nó mới quá, không biết thế nào. Dĩ nhiên ta phải ở lại đây đã, ít nhất là một thời gian…
Bà đưa mắt nhìn Rodia.
- Anh nghĩ sao hở anh. - Dunia hỏi.
- Anh nghĩ rằng ý của cậu ấy rất hay, - chàng đáp - Dĩ nhiên chưa nên nghĩ quá sơm đến chuyện thành lập một công ty lớn, nhưng quả có thể xuất bản dăm, sáu quyển chắc chắn thành công. Chính anh cũng biết một tác phẩm nhất định bán chạy. Còn về vấn đề cậu ấy có biết công biết việc hay không thì không còn hồ nghĩ gì nữa: cậu ấy thạo lắm. Vả chăng ta còn khối thì giờ bàn thêm!
- Ura! - Razumikhin reo lên - Bây giờ thế nầy, ở đây có một căn nhà riêng ngay trong toà nhà nầy cùng chủ đấy. Đó là một căn riêng biệt, không ăn thông với những buồng ngủ trọ nầy, có đủ bàn ghế, giá phải chăng, có ba phòng. Iìà và cô hãy tạm ở đấy. Đồng hồ thì mai sẽ mang đi cầm và đem tiền lại, rồi mọi việc sẽ ổn. Cái chính là cả ba người có thể ở chung, cả Rodia nữa… Kìa cậu đi đâu thế Rodia?
- Kìa, Rodia, con đã đi rồi sao? - bà Punkheria Alekxandrovna hỏi, vẻ hoảng hốt.
- Lại bỏ đi vào lúc nầy! - Razumikhin kêu lên.
Dunia nhìn anh, vẻ ngạc nhiên và bỡ ngỡ, tay cầm chiếc mũ lưỡi trai, chàng đang sắp sửa bước ra ngoài.
- Cứ như thể các người đem tôi đi chôn hay vĩnh biệt tôi không bằng, - chàng nói, giọng nghe rất quái gở. Chàng tựa hồ như mỉm cười, nhưng không còn gì khác một cụ cười hơn thế nữa. - Mà biết đâu, có thể chúng ta trông thấy mặt nhau lần nầy là lần cuối cùng, - chàng đột nhiên nói thêm.
Hình như chàng nghĩ thầm một mình như thế, nhưng không hiểu sao buột mồm nói to lên.
- Kia con làm sao thế? - Bà cụ kêu lên.
- Anh đi đâu thế Rodia? - Dunia hỏi, giọng nghe rất lạ.
- Tôi cần phải đi, - chàng đáp bâng quơ, như phân vân không muốn nói rõ. Trên gương mặt xanh xao của chàng hiện rõ một quyết tâm dứt khoát.
- Tôi muốn nói… khi đến đây… tôi muốn nói với mẹ… và em Dunia rằng chúng ta nên xa nhau ít lâu thì hơn. Tôi không được khỏe, trong người thấy bứt rứt lắm… sau tôi sẽ đến, chính tôi sẽ tự đến, khi nào… có thể. Tôi nhớ mẹ và em, tôi thương… Xin cứ mặc tôi! Để cho tôi một mình! Tôi đã quyết định như vậy từ trước… Tôi đã quyết định dứt khoát… Dù có phải thế nào chăng nữa… dù tôi có chết hay không, tôi cũng muốn một mình. Xin quên hẳn tôi đi. Như thế tốt hơn… Đừng hỏi han gì tôi. Khi nào cần, tôi sẽ đến… hay mời mẹ và em đến. Có lẽ mọi việc sẽ được cứu vãn! Còn bây giờ, nếu mẹ và em còn yêu tôi, xin đừng tìm tôi nữa… Nếu không, tôi sẽ thù ghét hai người, tôi cảm thấy thế… Thôi xin từ biệt!
- Trời ơi! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
Cả hai mẹ con đều khiếp sợ đến cùng cực; Razumikhin cũng thế.
- Rodia, Rodia! Ta hoà giải với nhau đi, mẹ con mình sẽ lại như trước! - người mẹ đáng thương kêu lên.
Raxkonikov chậm rãi quay đi và chậm rãi bước ra cửa. Dunia bước theo.
- Anh! Sao anh nỡ xử với mẹ như thế! - nàng thì thào, mắt quắc lên vì căm giận.
Chàng gườm gườm nhìn Dunia.
- Không có gì đâu, tôi sẽ đến, tôi sẽ lui tới - chàng lẩm bẩm như không biết rõ mình định nói gì, đoạn bước ra khỏi phòng.
- Thật là ích kỷ, độc ác, táng tận nhân tình! - Dunia kêu lên.
- Anh ấy điên chứ không phải thế đâu! Anh ấy điên rồi! Chã nhẽ cô không thấy hay sao? Chính cô táng tận nhân tình thì có! - Razumikhin ghé sát vào tai nàng thì thầm giọng khẩn khoản, tay xiết chặt tay nàng.
Bà Punkheria Alekxandrovna như người mất hồn.
Razumikhin quay về phía bà nói vội:
- Tôi trở về ngay! - rồi chạy ra ngoài.
Raxkonikov đợi anh ở cuối hành lang.
- Tôi biết là cậu sẽ chạy ra. - chàng nói. - Cậu hãy quay lại với họ và ở lại với họ… Mai cũng thế, và ở lại mãi mài… Tôi… có lẽ tôi sẽ đến, nếu có thể. Từ biệt cậu.
Đoạn chàng bỏ đi, không chìa tay ra cho bạn.
- Nhưng cậu đi đâu mới được chứ? Cậu làm sao thế? Lẽ nào lại như thế… - Razumikhin thảng thốt nói lắp bắp. Raxkonikov dừng lại một lần nữa.
Tôi nói lần nầy là lần cuối cùng: đừng bao giờ hỏi han gì tôi nữa hết. Tôi không biết nói thế nào để trả lời cậu… Đừng đến nhà tôi. Có lẽ tôi sẽ tự đến đây. Cậu để mặc tôi, còn mẹ và em tôi… thì cậu đừng bỏ họ. Cậu hiểu tôi chưa?
Trong hành lang tối om, hai người đứng cạnh một ngọn đèn, họ im lặng nhìn nhau khoảng một phút.
Suốt đời Razumikhin sẽ nhớ mãi phút nầy. Đôi mắt nẩy lửa của Raxkonikov nhìn trừng trừng vào mắt anh, dường như mỗi lúc một xói sâu thêm vào tâm hồn, vào ý thức anh, Razumikhin giật mình. Dường như vừa có một cái gì khủng khiếp vụt qua giữa hai người. Một ý nghĩ nào đó lóe ra như một lời ám dụ: một cái gì ghê gớm, quái gở vụt hiện lên, và cả hai đều hiểu …
Razumikhin tái nhợt đi như một xác chết.
- Bây giờ thì cậu hiểu rồi chứ? - Raxkonikov bỗng lên tiếng, mặt co rúm lại một cách đau đớn… - Cậu quay lại với họ đi, - chàng nói thêm và quay phắt đi ra khỏi nhà…
Bây giờ tôi sẽ không thuật lại những gì đã diễn ra ở buồng bà Punkheria Alekxandrovna tối hôm ấy, những là Razumikhin quay lại an ủi hai mẹ con ra sao, những là anh quả quyết rằng Rodia đang ốm cần phải nghĩ ngơi, rằng chàng nhất định sẽ trở lại, rằng chàng đang bị khủng hoảng tinh thần, không nên khuấy động thêm; những là anh ta sẽ theo dõi chàng, tìm cho chàng một bác sĩ thật giỏi, hay cả một hội đồng bác sĩ nữa…
Nói tóm lại, kê từ tối hôm ấy Razumikhin đã trở thành người con và người anh trong gia đình họ.
Chú thích:
(1) yếu, kém kinh nghiệm
Chương 22
Raxkonikov đi thẳng đến toà nhà lên bờ kênh, nơi Sonya thuê
trọ. Đó là một tòa nhà ba tầng cũ kỹ sơn mau xanh lá cây. Chàng tìm người gác cổng
hỏi thăm và chỉ được những lời chỉ dẫn mơ hồ về chỗ ở ông thợ may Kapernaumov.
Chàng tìm lối vào cửa ở góc sân dẫn vào một cầu thang chật và tối, leo lên gác
ba và bước vào dãy hành lang chạy dọc theo tầng gác, phía trông ra sân. Chàng
đang sờ sẫm đi trong bóng tối, ngỡ ngàng không biết đâu là lối vào nhà ông
Kapernaumov, thì bỗng cách chàng ba bước có một cánh cửa mở ra; chàng bất giác
nắm lấy cánh cửa.
- Ai đấy? - một giọng đàn bà lo lắng hỏi.
- Tôi… tôi đến cô, - Raxkonikov đáp, đoạn bước vào một gian phòng mắc áo nhỏ xíu. Trên một chiếc ghế gãy có đặt một cây nến cắm vào một cái chân bằng đồng móp méo.
- Ông đấy ư! Trời ơi? - Sonya kêu lên khe khẽ và đứng sững ra.
- Vào cô đi lối nào? Lối nầy à?
Và Raxkonikov, cố tránh nhìn Sonya, bước vội vào phòng.
Một phút sau, Sonya cũng cầm nến bước vào, đặt nến xuống và đứng trước mặt chàng, bàng hoàng đến cực độ xúc động không sao tả xiết và có vẻ hoảng hốt vì cuộc đến thăm đột ngột nầy. Bỗng gương mặt xanh xao của nàng đỏ bừng lên, thậm chí mắt nàng còn rơm rớm lệ nữa… Nàng nghẹn ngào, lòng hổ thẹn pha lẫn một cảm giác ngọt ngào… Raxkonikov vội ngoảnh đi và ngồi xuống chiếc ghế đặt cạnh bàn. Chàng đã có đủ thì giờ nhìn lướt qua gian phòng một lượt.
Đó là một gian phòng lớn nhưng thấp lè tè, gian phòng cho thuê duy nhất của gia đình Kapernaumov: có một cánh cửa đóng kín ăn thông với nhà họ, trổ ở bức tường bên trái. Phía đối diện, ở bức tường bên phải, còn có một cánh cửa nữa bao giờ cũng khoá chặt. Bên kia cửa là một căn nhà khác, mang số khác. Phòng của Sonya giống một nơi chứa đồ cũ hình bốn góc xiên xẹo trông rất chướng mắt, bức tường có trổ ba khung cửa sổ nhìn ra bờ kênh cắt gian phòng thành một đường chéo, thành thử một góc phòng nhọn hoắt thụt vào tận đâu đâu nên khi thiếu ánh sáng không thể nhìn thấy gì trong cái xó sâu hoắm ấy được; còn góc kia thì lại tù một cách kỳ quái. Trong cả gian phòng thênh thang hầu như không bày biện gì cả. Trong góc bên phải kê một cái giường; cạnh giường, về phía cửa ra vào, có một chiếc ghế. Cũng sát bức vách có kê giường, ngay bên cánh cửa ăn thông sang buồng bên, đặt một cái bàn gỗ mộc, trên trải một chiếc khăn bàn màu xanh xanh; bên bàn có hai chiếc ghế đan. Sát bức tường đối diện, gần cái góc nhọn, có kê một chiếc tủ ngăn nhỏ bằng gỗ mộc trông như chơ vơ giữa khoáng không. Đồ đạc trong phòng chỉ có thế. Giấy dán tường màu vàng vàng, xơ xác và ám khói, đen xỉn lại ở các góc; chắc mùa đông ở đây ấm thấp và rét mướt lắm. Cảnh nghèo túng đập ngay vào mắt; ngay ở giường ngủ cũng không có rèm che.
Sonya lặng lẽ nhìn người khách đang tự tiện chăm chú xem xét phờng nàng, và cuối cùng bắt đầu sợ run lên như đứng trước một vị quan toà, trước kẻ định đoạt số phận mình.
- Tôi đến muộn… mười một giờ rồi phải không? - chàng hỏi, mất vẫn không ngước lên nhìn nàng.
- Vâng ạ, - Sonya lẩm bẩm. - À phải: đúng đấy ạ! nàng bỗng rối rít lên như đã tìm thấy lối thoát - đồng hồ bên ông chủ nhà mới đánh đấy… tôi có nghe… đúng đấy ạ …
- Tôi đến thăm cô lầnn cuối cùng đây - Raxkonikov nói tiếp lầm lì, mặc dầu chàng đến lần nầy mới là lần thứ nhất - có lẽ tôi không gặp cô nữa.
- Ông… đi xa?
- Tôi chưa biết… mai sẽ rõ.
- Thế mai ông không đến nhà Katerina Ivanovna nữa à? - giọng Sonya run run.
- Chưa biết… Sáng mai sẽ rõ cả… Nhưng tôi đến đây không phải vì việc ấy. Tôi muốn nói với cô một điều… - Chàng ngước đôi mắt đăm chiêu lên nhìn nàng và chợt nhật ra rằng trong khi mình ngồi, nàng vẫn đứng trước mặt.
- Sao cô lại đứng thế… Cô ngồi xuống đi. - chàng nói, giọng bỗng thay đổi hẳn, dịu dàng, ôn tồn.
Nàng ngồi xuống. Chàng nhìn nàng một lát, vẻ ân cần và gần như thương xót.
- Cô gầy quá! Tay cô kìa, cứ trong suốt đi! Ngón tay như ngón tay người chết.
Chàng cầm lấy tay nàng, Sonya mỉm cười yếu ớt.
- Tôi xưa nay vẫn thế, - nàng nói.
- Hồi còn ở nhà cũng thế à?
- Vâng.
- Tất nhiên thôi? - chàng dằn giọng nói, và vẻ mặt, giọng nói của chàng bỗng lại thay đổi hẳn. Chàng đưa mắt nhìn quanh lần nữa.
- Cô thuê phòng nầy của nhà Kapernaumov à?
- Vâng ạ…
- Họ ở bên kia, sau cánh cửa nầy à?
- Vâng… họ cũng ở một căn buồng như thể nầy.
- Cả nhà ở một buồng à?
- Vâng ạ - Tôi mà ở buồng nầy thì ban đêm sợ lắm, - chàng nhận xét, vẻ mặt lầm lầm.
- Gia đình ông chủ rất tốt, họ đối xử tử tế lắm, - Sonya đáp, vẫn có vẻ như chưa trấn tỉnh lại được và chưa hiểu rõ lắm. - Bàn ghế đồ đạc… đều của nhà chủ cả. Họ tốt lắm, trẻ con cũng hay sang tôi chơi…
- Nhà họ nói lắp phải không?
- Vâng ạ… Ông ta vừa nói lắp vừa thọt. Cả bà vợ cũng thế. Không hẳn là nói lắp, nhưng cứ câu được câu mất. Bà ấy tốt lắm. Ông ấy trước kia làm gia nô cho người ta. Con đến bảy đứa… chỉ có đứa đầu nói lắp, còn mấy đứa kia chỉ đau ốm thường thôi… chứ không nói lắp… Thế sao ông biết nhà ấy ạ? - nàng nói thêm, hơi ngạc nhiên.
- Dạo trước ông thân sinh cô có kể hết cho tôi nghe. Về cô ông ta cũng đã kể hết… Cả chuyện cô ra đi lúc sáu giờ rồi gần chín giờ cô trở về, cả chuyện Katerina Ivanovna quỳ bên giường cô.
Sonya luống cuống.
- Hôm nay tôi dường như có gặp, - nàng thì thầm, giọng rụt rè.
- Gặp ai?
- Cha tôi. Tôi đang đi dọc phố gần đây thôi, ở đầu góc phố nầy ấy, khoảng gần mười giờ, chợt thấy ai như cha tôi đi ở phía trước. Có lẽ đúng là cha tôi. Tôi đã định ghé vào Katerina Ivanovna.
- Cô đi dạo à?
- Vâng, - Sonya thì thầm nói ngắc ngứ rồi luống cuống cúi mặt xuống.
- Khi cô còn ở nhà, Katerina Ivanovna đã nhiều lần suýt đánh cô phải không?
- Ồ không, ông nói gì thế, không phải đâu! - Sonya nhìn chàng, vẻ hơi hoảng sợ.
- Thế cô yêu bà ấy à?
- Dì tôi? Sao lại không! - Sonya rên rỉ, giọng đau đớn, hai tay bỗng chắp lại. - Ồ! Ông không… Giá ông biết rõ dì tôi. Dì ấy thật như trẻ con ấy… Dì ấy buồn phiền quá… đâm ra như người loạn óc. Trước kia dì ấy thông minh biết mấy… dì ấy cao thượng quá… tốt quá! Ông không biết gì cả, không biết gì cả… trời ơi?
Sonya nói như tuyệt vọng, lòng xúc động và đau đớn, hai tay vặn vào nhau. Đôi má nhợt nhạt của nàng lại đỏ ửng lên, mặt nàng lộ vẻ đau khổ. Có thể thấy rõ rằng người ta vừa chạm vào một chỗ rất đau trong tâm hồn nàng, và nàng tha thiết muốn bày tỏ, muốn nói lên điều gì đề bênh vực Katerina Ivanovna. Một niềm thương xót không thể nào nguôi được, nếu có thể nói như thế, bỗng hiện rõ trên từng nét mặt của nàng.
- Đánh ư! Sao ông lại nói thế? Trời ơi, dì ấy mà lại đánh tôi! Mà dì ấy có đánh chăng nữa thì đã sao! Thì sao nào? Ông không biết. Ông không biết gì hết… Khổ thân dì ấy quá. Ôi, khổ thân quá! Lại đau ốm… dì ấy tìm công bằng… Dì ấy trong sạch. Dì ấy tin rằng đâu đâu cũng phải có sự công bằng, và đòi hỏi nhu thế… Và dù có bị tra tấn nhục hình dì ấy cũng không đời nào làm một việc không công bằng. Dì ấy không thấy rằng ở đời nầy không thể có công bằng được, nên cứ uất ức… Thật như đứa trẻ, như đứa trẻ. Dì tôi công bằng lắm, công bằng lắm.
- Rồi đây cô sẽ ra sao?
Sonya nhìn chàng có ý hỏi.
- Bây giờ cả nhà trông vào cô. Mà trước kia thì cũng thế, cha cô trong khi say rượu cũng đến xin tiền cô thôi. Nhưng bây giờ cô liệu sao?
- Tôi không biết, - Sonya buồn rầu đáp.
- Họ vẫn ở đằng ấy à?
- Tôi không biết, dì tôi đang nợ tiền thuê nhà.
Nghe nói hôm nay bà chủ nhà báo sẽ đuổi đi, và Katerina Ivanovna nói là không thèm ở lại một phút nào nữa.
- Sao bà ấy gan thế? Trông mong vào cô à?
- Ồ không phải. Ông đừng nói thế… Tôi với dì ấy chỉ là một thôi, - Sonya bỗng lại sôi nổi lên, thậm chí còn bực tức nữa, trông hệt như một con chim bạch yến hay một loài chim nhỏ nào đang nổi giận. - Thì dì tôi còn biết làm thế nào nữa? Làm thế nào, làm thế nào? - Nàng hỏi, giọng nóng nảy và xúc động. - Hôm nay dì đã khóc hết cả nước mắt! Dì ấy loạn trí óc, ông không để ý hay sao? Dì ấy loạn óc đấy, khi thì dì ấy lo cuống lên như đứa trẻ, không biết, ngày mai làm thế nào cho tươm tất, có đủ đồ nhắm và các thứ… Khi thì vặn hai cánh tay vào nhau, khạc ra máu, khóc lóc, rồi bỗng dưng cứ nện đầu vào tường như tuyệt vọng làm liều. Rồi sau đó lại nguôi nguôi. Dì vẫn hy vọng ở ông, dì ấy nói bây giờ ông là người cứu giúp dì ấy, dì ấy sẽ tìm được chỗ vay ít tiền và đem tôi trở về thành phố cũ của dì ấy lập một trường ký túc cho con gái nhà quý tộc, sẽ cho tôi làm giám thị, và sẽ bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống tươi đẹp, dì ấy ôm chầm lấy tôi, hôn tôi, an ủi tôi, dì ấy tin như thế? Tin vào những chuyện hoang đường như thế! Làm sao có thể cãi lại dì ấy được? Thế mà suốt ngày hôm nay dì lau chùi, sửa sang, yếu như thế mà bê cả một thùng nước lớn lên phòng, thở dốc ra ngồi ngã xuống giường; hồi sáng tôi với dì ấy ra chợ mua giầy cho Polenka và Lena, vì giầy chúng rách cả rồi, nhưng không đủ tiền trả, còn thiếu nhiều lắm, thế mà dì ấy đã chọn được hai đôi giầy thật xinh, vì dì ấy có khiếu thẩm mỹ lắm, ông không biết đấy… Thế là dì ấy khóc oà lên trong cửa hiệu, trước mặt những người bán hàng, vì thiếu tiền. Trông dì ấy thương quá!
- Thế thì cô… sống như thế nầy chẳng có gì là lạ. - Raxkonikov nói, môi nở một nụ cười chua chát.
- Thế ông không thấy thương hay sao? Ông không thương à? - Sonya lại bùng lên, - tôi biết ông có bao nhiêu đã đem cho hết dì tôi, tuy chưa thấy dì. Giá ông thấy hết, trời ơi? Và đã bao lần, bao nhiêu lần tôi làm cho dì tôi phải khóc! Mới tuần trước đây thôi! Ôi, tôi thật tệ quá! Chỉ một tuần trước khi cha tôi chết. Tôi tàn nhẫn quá! Mà đã bao nhiêu lần như thế rồi. Suốt ngày hôm nay tôi nhớ lại mà đau lòng quá!
Sonya vặn hai cánh tay trong khi nói, xót xa với những kỷ niệm ấy.
- Thế ra chính cô tàn nhẫn à?
- Phải, chính tôi, chính tôi? Hôm ấy tôi đến nhà, - nàng vừa nói tiếp vừa khóc - cha tôi nói: "Con đọc cho bố nghe một chút. Sonya. Bố nhức đầu lắm, con đọc đi… sách đây" - đó là một quyển sách nhỏ mượn của ông Lebeziatnikov, ông Andrey Xeminovich ấy. Ông ta ở bên cạnh, lúc nào cùng kiếm được những quyển sách thật ngộ nghĩnh. Tôi nói: "Con phải đi đây", tôi không muốn đọc, tôi đến cốt để cho Katerina Ivanovna xem cái cổ áo; số là bà Lizaveta làm nghề buôn đồ cũ có mang lại cho tôi mấy chiếc cổ áo và măng-sét rẻ tiền, nhưng xinh xắn và còn mới, có thêu hoa. Katerina Ivanovna thích lắm, dì ấy đeo vào áo và đứng soi gương, dì ấy thích lắm, thích lắm; dì bảo: "Cho dì, Sonya nhé, dì van Sonya đấy". Dì ấy "van" tôi, vì dì ấy thích quá. Thế nhưng dì ấy có đeo vào đâu? Xin là xin thế thôi, chẳng qua dì ấy sực nhớ lại những ngày vui thuở trước Dì ấy mê mải ngắm nhìn mình trong gương, thế nhưng có còn chiếc áo nào nữa đâu, không còn lấy một chiếc, không còn gì hết, đã mấy năm nay rồi Katerina Ivanovna không bao giờ xin gì ai hết, chính dì ấy có gì cũng đem cho người ta thì có, thế mà lúc ấy dì đã hỏi xin tôi, đủ biết dì ấy thích đến nhường nào! Thế mà tôi tiếc không muốn cho, tôi nói: "Di Katerina Ivanovna, dì đeo vào đâu? Tôi nói thế đấy "đeo vào đâu". Đáng lẽ tôi không được nói như thế! Dì ấy cứ nhìn tôi, dì ấy buồn vì tôi đã từ chối, dì ấy khổ tâm đến nỗi trông tội nghiệp quá chừng… Không phải dì ấy buồn vì mấy chiếc cổ áo đâu, mà vì tôi đã từ chối dì, tôi biết. Ôi! Giá có cách nào chữa lại, xoá bỏ những lời ấy đi… Tôi thật tệ quá! Nhưng nói làm gì… Ông thì ông có cần gì biết!
- Cô có biết bà Lizaveta buôn đồ cũ đấy à?
- Ông cũng biết sao? - Sonya hỏi lại, hơi ngạc nhiên.
- Katerina Ivanovna ho lao rất nặng, chẳng còn sống được bao lâu nữa đâu, - Raxkonikov nói sau một phút im lặng, không trả lời vào câu hỏi.
- Ồ không đâu, không phải đâu! - Và Sonya bất giác nắm lấy hai tay chàng như van xin chàng đừng để cho dì nàng chết.
- Bà ấy chết đi còn hơn.
- Không, sao lại hơn? Không phải thế, hoàn toàn không phải như thế! - nàng hoảng hốt nhắc đi nhắc lại vẻ như không biết mình nói gì.
- Còn các em thì sao? Cô cho chúng đi đâu, nếu không đem về ở với cô?
- Ồ, tôi cũng không biết nữa!… - Sonya kêu lên vẻ hầu như tuyệt vọng, hai tay ôm lấy đầu. Có thể thấy rõ rằng chính nàng cũng đã nghĩ đến điều đó nhiều lần lắm rồi, Raxkonikov chị nhắc lại khiến nàng hoảng sợ một lần nữa thôi.
- Thế nếu trong khi Katerina Ivanovna còn sống, cô sinh bệnh phải vào nhà thương thì sao? - chàng hỏi một cách phũ phàng.
- Ồ, sao ông lại nói thế! Không thể nào như thế được! - Và khuôn mặt Sonya nhăn nhúm lại vì một nỗi kinh hoàng ghê gớm.
- sao lại không thể được? - Raxkonikov cười gằn nói tiếp - Cô có được bảo hiểm đâu! Đến lúc ấy họ sẽ ra sao? Cả nhà sẽ kéo nhau đi lang thang ở ngoài đường, bà ấy sẽ vừa ho vừa xin bố thí và sẽ đập đầu vào tường như hôm ấy, lũ trẻ sẽ khóc. Bà ta sẽ gục xuống, họ sẽ đưa vào đồn cảnh sát, vào nhà thương, bà ta sẽ chết, còn lũ trẻ…
- Ồ không! Chúa không để như vậy? - cuối cùng Sonya thốt ra từ lồng ngực nghẹn ngào. Nàng lắng nghe, nhìn chàng với đôi mắt van lơn, hai tay chắp lại thành một lời cầu khẩn im lặng, như thế mọi sự đều tùy thuộc ở chàng.
Raxkonikov đứng dậy đi đi lại lại trong phòng.
Một phút trôi qua. Sonya đứng im, đầu cúi gầm, hai tay buông thõng, dáng rũ rượi.
- Không dành dụm được à? Không để dành được ít nhiều phòng khi bất trắc hay sao? - Chàng bỗng dừng lại trước mặt Sonya, hỏi.
- Không, - Sonya nói thì thầm. -Dĩ nhiên là không
- Cô đã thử chưa? - chàng nói thêm, giọng gần như ngạo nghễ.
- Thử rồi!
- Và thất bại! Thì dĩ nhiên phải thế! Còn hỏi làm gì?
Chàng lại đi bách bộ trong phòng. Một phút nữa trôi qua.
- Thế không phải ngày nào cô cũng có khách à?
Sonya càng bối rối thêm, mặt nàng lại đỏ bừng lên.
- Không, - nàng gượng gạo trả lời.
- Hẳn Polenka rồi cũng phải thế, - chàng nói đột ngột.
- Không! Không. Không thể được, không! - Sonya thét lên như người tuyệt vọng, tường chừng có ai vừa lấy dao đâm vào người nàng. - Chúa không đời nào để cho một việc ghê tởm như thế xảy ra được.
- Vẫn để xảy ra khối việc như vậy đấy!
- Không? Không! Chúa sẽ che chở cho Polenka, Chúa! - nàng nhắc đi nhắc lại, như người mất hồn.
- Mà có lẽ cũng chẳng làm gì có Chúa hết, - Raxkonikov đáp, vẻ dường như hả hê, rồi nhìn nàng cười phá lên.
Mặt Sonya chợt biến sắc đi một cách khủng khiếp, các thớ thịt trên mặt giật lên từng đợt. Nàng nhìn Raxkonikov với một vẻ oán trách không sao tả nổi, nàng muốn nói điều gì, nhưng không sao nói ra được, chỉ bưng mặt khóc nức nở.
- Cô nói Katerina Ivanovna loạn óc; chính cô cũng loạn óc đấy, - chàng nói sau một lát im lặng.
Khoảng năm phút trôi qua. Chàng vẫn lặng thinh đi đi lại lại không nhìn nàng. Cuối cùng chàng đến cạnh nàng, mắt sáng quắc. Chàng nắm lấy hai vai Sonya và nhìn thẳng vào gương mặt ướt đám nước mắt của nàng. Luồng mắt của chàng khô, sắc, nóng như một tia lửa, môi chàng rung mạnh… bỗng chàng quỳ sụp xuống sàn nhà và hôn lên chân nàng. Sonya hoảng hốt lùi lại như tránh một người điên. Vả quả nhiên trông chàng chẳng khác một người điên thật.
- Ông làm gì thế? Với tôi mà ông lại… thế ư? - Nàng nói lắp bắp, mặt tái đi, và tim nàng bỗng thắt lại đau nhói.
Chàng vụt đứng dậy.
- Không phải tôi cúi lạy em, tôi cúi lạy trước sự thống khổ của loài người. - chàng nói, giọng quái gở, và bỏ ra cửa sổ. - Em nghe đây, - một phút sau chàng quay lại nói thêm - lúc nầy tôi vừa nói với một kẻ kiêu căng là hắn không bằng ngón tay út của em… và hôm nay tôi để em ngồi bên cạnh em gái tôi như vậy là một điều vinh dự đối với nó.
- Ồ sao ông lại nói thế? Lại nói trước mặt em ông? - Sonya hoảng hốt kêu lên, - ngồi với tôi mà là một vinh dự! Nhưng tôi làm gì còn… danh tiết. Trời ơi, sao ông lại nói thế?
- Tôi nói về em như thế, không phải vì em mất danh tiết, vì tội lỗi của em, mà vì nỗi đau khổ vô hạn của em. Em là một người tội lỗi, đầy tội lỗi, đúng như thế, - chàng nói thêm, giọng gần như phấn khởi, - và tội lỗi của em càng nặng hơn nữa là vì em hy sinh, đày doạ mình một cách vô ích. Còn gì khủng khiếp hơn phải sống trong đống bùn nhơ mà em ghê tởm, và đồng thời chính em cũng biết (chỉ cần mở mắt ra thôi) rằng làm như vậy chẳng cứu được ai và chẳng có ích gì cho ai chút nào hết! Em thử nói tôi nghe - chàng nói như nỗi khùng lên - làm sao trong tâm hồn em lại có thể pha lẫn những điều nhơ nhuốc, hèn hạ như vậy với những tình cảm thiêng liêng, trái ngược hẳn lại? Thà đâm đầu xuống sông mà chết cho xong có phải là công bằng hơn, công bằng hơn không biết bao nhiêu mà kể, mà lại khôn ngoan hơn nữa không?
- Thế rồi họ sẽ ra sao? - Sonya hỏi, giọng yếu ớt, mắt nhìn chàng chua xót, nhưng hình như không hề ngạc nhiên về cái ý chàng vừa gợi lên. Raxkonikov nhìn nàng với đôi mắt kỳ dị.
Chàng đã đọc thấy tất cả qua mỗi một cái nhìn của nàng. Thế ra chính nàng cũng đã có ý nghĩ đó. Có lẽ đã nhiều lần trong cơn tuyệt vọng nàng suy nghĩ thật sự đến việc kết liễu ngay một lúc cho xong hết mọi sự, và nàng đã nghĩ một cách chín chắn đến nỗi bây giờ nàng hầu như không lấy làm lạ nữa. Thậm chí nàng cũng không để ý thấy lời lê của chàng tàn nhẫn như vậy, và dĩ nhiên cũng không để ý đến ý nghĩa những lời trách móc và nhất là cách chàng nhìn nỗi ô nhục của nàng, và Raxkonikov cũng thấy rõ như vậy.
Nhưng chàng cũng hoàn toàn hiểu nàng bị giầy vò đau đớn khủng khiếp đến nhường nào khi nghĩ đến tình canh ô nhục của mình. Vậy thì cái gì cho đến nay, cái gì đã có thể ngăn chặn quyết tâm tự vẫn của nàng? Nghĩ đến đây chàng mới hiểu hết được mấy đứa trẻ mồ côi khốn khổ và người đàn bà ho lao dở điên dở dại cứ đập đầu vào tường kia có ý nghĩa như thế nào đối với nàng.
Tuy vậy chàng cũng lại thấy rõ rằng nhân cách của Sonya cũng như nếp giáo dục của nàng không thể nào cho phép nàng sống mãi như vậy. Song chàng vẫn băn khoãn không hiểu tại sao nàng lại có thể sống trong tình trong đó lâu như vậy mà không phải điên, nếu không đủ can đảm tự tử" Dĩ nhiên chàng hiểu rằng tình cảnh của Sonya là một hiện tượng ngẫu nhiên trong xã hội, tuy tiếc thay tuyệt nhiên không phải là một hiện tượng cá biệt và ngoại lệ. Nhưng chính tính chất, ngẫu nhiên ấy, nếp giáo dục ấy và cả quãng đời về trước nữa lẽ ra có thể giết chết nàng ngay từ khi bước những bước đầu trên con đường nhơ nhuốc nầy. Vậy thì cái gì đã nâng đỡ nàng? Hẳn không phải là thói dâm ô truỵ lạc. Rõ ràng cuộc sống ô nhục nầy chỉ chạm đến nàng một cách cơ học; sự truỵ lạc thật sự vẫn chưa thấm chút nào vào lòng nàng: chàng thấy rõ như vậy; nàng đang đứng trước mặt chàng như một cảnh thực…
"Nàng có ba con đường. - chàng thầm nghĩ: - nhảy xuống sông, vào nhà thương điên, hay… hay rốt cục lao mình vào truỵ lạc, trí tuệ u mê đi, tâm hồn sắt lại". Ý nghĩ sau cùng nầy khiến chàng ghê tởm hơn cả, nhưng chàng là một kẻ hoài nghi, chàng còn trẻ tuổi, chàng xa rời cuộc sống, vì vậy chàng tàn nhẫn, cho nên không thể không tin rằng lối thoát sau cùng, tức sự truỵ lạc, là lối thoát dễ có cơ thực hiện hơn cả.
"Nhưng chẳng lẽ lại như thế thật, - chàng ngạc nhiên thầm nghĩ, - chẳng lẽ ngay cả con người vẫn còn giữ được một tâm hồn trong sạch nầy rốt cục cũng sẽ tự giác vươn tới cái hố nhơ bẩn, thối tha ấy? Phải chăng xu thế ấy đã bắt đầu, và sở dĩ nàng còn chịu đựng được cho đến nay chỉ vì dâm ô truỵ lạc đối với nàng không còn ghê tởm mấy nữa? Không, không thể như thế được! - chàng nhẩm kêu lên, như Sonya lúc nãy, - không, sở dĩ cho đến nay nàng vẫn chưa tự tử là vì sợ có tội (1) vì nghĩ đến họ, đến những người ấy. Sở dĩ cho đến nay nàng vẫn chưa điên… Nhưng ai bảo nàng chưa điên? Có thật nàng vẫn tỉnh trí hay không? Có thể nào lại nói năng như nàng? Lẽ nào người tỉnh trí lại suy luận như nàng. Lẽ nào có thể ngồi ngay trên miệng hố thối tha của sự truỵ lạc đang hút mình xuống, mà lại xua tay, bịt tai khi người ta nói đến nguy cơ của mình? Nàng làm sao thế, hay là nàng chờ đợi một phép thần thông? Chắc hắn là như thế. Tất cả những điều đó chẳng phải là những dấu hiệu điên rồ sao?".
Chàng kiên trì giữ lấy ý nghĩ nầy. Lối thoát ấy còn làm chàng hài lòng hơn bất cứ lối thoát nào khác.
Chàng bắt đầu nhìn nàng chăm chú hơn.
- Thế cô hay cầu nguyện Chúa lắm phải không Sonya? - chàng hỏi.
Sonya lặng thinh. Chàng đứng cạnh, đợi nàng trả lời.
- Ví thử không có Chúa, tôi sẽ ra sao? - nàng thì thầm rất nhanh, vẻ cương quyết mắt bỗng sáng lên, nhìn chàng một thoáng, tay xiết mạnh tay chàng.
"Đấy đúng như thế!" - chàng nhĩ.
- Thế Chúa làm gì cho em? - chàng tiếp tục dò xét Sonya. Im lặng hồi lâu, như không trả lời được, lồng ngực yếu đuối của nàng phập phồng vì xúc động.
- Ông im đi! Đừng hỏi nữa ông không xứng đáng! - nàng bỗng kêu lên, nghiêm nghị và giận dữ nhìn chàng.
"Đúng thế thật! Đúng thế thật!" - chàng đinh ninh tự nhủ.
- Chúa làm tất cả! - nàng thì thầlm nói nhanh, mắt lại nhìn xuống.
"Lối thoát đây rồi! Đây chính là cách giải thích lối thoát" - chàng tự nhủ, mắt tò mò nhìn nàng hau háu.
Với một cảm xúc mới mẻ, kỳ lạ, gần như đau đớn, chàng nhìn chăm chăm khuôn mặt xanh xao, gầy gò, với những nét sắc và không đều đặn ấy, đôi mắt xanh dịiu hiền có thể ném ra những tia lửa ấy sáng lên vì một cảm xúc mãnh liệt và khắc khổ, cái thân hình nhỏ bé đang run lên vì uất ức và căm giận, và càng thấy tất cả những cái đó thật kỳ lạ, hầu như vô lý. "Đúng là một kẻ ngây dại, một kẻ dại" (2) - chàng nhẩm đi nhẩm lại. Trên tủ ngăn có một quyển sách. Trong khi đi đi lại lại trong phòng, mỗi lần đi ngang chàng vẫn đé thấy nó. Bây giờ chàng cầm nó lên xem. Đó là pho Tân ước bằng tiếng Nga. Quyển sách đóng bìa da, đã cũ kỹ, nhàu nát.
- Sách ở đâu thế nầy? - Chàng hỏi Sonya đang đứng ở chỗ cũ, cách bàn ba hước.
- Có người đem đến cho tôi. - nàng đáp, vẻ như miễn cưỡng, mắt nhìn phía khác.
- Ai đem đến?
- Bà Lizaveta. Tôi nhờ bà ấy kiếm hộ.
"Lizaveta! Lạ thật!" - chàng nghĩ thầm. Mỗi lúc chàng lại càng có cảm giác là tất cả những gì có liên quan đến Sonya cũng đều lạ lùng, kỳ diệu. Chàng đem sách đến gần ngọn nên và bắt đầu giở xem.
- Đoạn nào có chuyện Lazaro? - chàng hỏi đột ngột.
Sonya vẫn nhìn mãi xuống đất, không đáp. Nàng đứng hơi nghiêng người về phía bàn.
- Chuyện Lazaro sống lại ở chỗ nào? Cô tìm hộ tôi đi, Sonya.
Nàng liếc mắt nhìn chàng.
- Không phải ở đấy đâu, trong thiên Phúc âm thứ tư kia… - nàng thì thầm, vẻ nghiêm nghị, vẫn đứng yên.
- Cô tìm hộ và đọc cho tôi nghe đi, - chàng nói đoạn ngồi xuống, khuỷu chống lên bàn, hai tay nâng cằm, mắt trân trân nhìn sang một bên, lắng tai chờ đợi "Nội ba tuần nữa xin mời cô đến một nơi cách đây bảy dặm(3). Chính ta hình như cũng sẽ đến đấy, nếu không phải là một cái gì còn tệ hơn nữa" - chàng lẩm bẩm một mình.
Sonya ngần ngừ bước lại gần bàn… Nàng chưa tin lắm vào cái ý muốn kỳ quặc của Raxkonikov. Song nàng vẫn cầm lấy sách.
- Chả nhẽ ông chưa đọc à? - nàng hỏi, mắt ngước nhìn chàng qua bàn. Giọng nàng mỗi lúc một thêm nghiêm nghị.
- Đã lâu rồi… Hồi tôi còn đi học. Cô đọc đi.
- Thế ông không nghe đọc ở nhà thờ à?
- Tôi… không đi nhà thờ. Còn cô có hay đi không?
- Kh - không, - Sonya thì thầm, Raxkonikov cười nhạt.
- Tôi hiểu… Thế mai cô cũng không đi làm lễ an táng cha cô à?
- Tôi sẽ đi. Tuần trước tôi cũng có đến… làm lễ cầu hồn.
- Cho ai?
- Cho Lizaveta. Bà ấy bị giết bằng rìu.
Cân não chàng mỗi lúc một thêm khích động. Chàng bắt đầu thấy choáng váng.
- Cô thân với bà Lizaveta à?
- Vâng… Bà ấy tốt lắm… bà ấy đến đây… thỉnh thoảng thôi… đến luôn không tiện. Bà ấy với tôi cùng đọc và nói chuyện. Bây giờ bà ấy đang được chiêm ngưỡng thượng đế.
Âm hưởng những từ như rút trong sách ra nầy gợi lên trong lòng chàng một ấn tượng kỳ lạ. Lại thêm những câu chuyện trò bí mật gì giữa hai người… giữa hai người ngây dại ấy.
"Rồi mình cũng dâm ra ngây dại nốt mất thôi! Một chứng hay hay đấy?" - chàng nghĩ. - Đọc đi! - chàng bỗng quát lên, giọng hạch sách và cáu kỉnh.
Sonya vẫn do dự. Tim nàng đập nạnh. Nàng không dám đọc. Raxkonikov nhìn "người điên khốn nạn" với đôi mắt hầu như đau xót.
- Ông nghe làm gì? Ông có tin đạo đâu? - nàng thì thầm rất khẽ, như nghẹt thở.
- Đọc đi tôi muốn thế! - chàng dằn giọng, - cô đọc cho Lizaveta nghe thì được kia mà?
Sonya giở sách ra và tìm đoạn ấy. Tay nàng run lập cập giọng nàng khần đi. Nàng hai lần toan đọc mà vẫn không phát âm ra được chữ đầu.
"Vậy có một người đau, tên gọi Lazaro, vốn người Béthani(4)…" - cuối cùng nàng đọc lên một cách khó nhọc, nhưng từ chữ thứ năm trở đi, giọng nàng vỡ ra đứt ra như sợi dây đàn quá căng. Hơi thở nàng nghẽn 1ại, ngực nàng tức tối. Raxkonikov hiểu được một phần tại sao Sonya phân vân không muốn đọc cho chàng nghe, và càng hiểu ra, chàng lại càng gắt gỏng và nằng nặc đòi nàng đọc một cách thô bạo. Chàng hiểu quá rõ rằng bây giờ nàng rất khổ tâm khi phải bộc lộ những cảm xúc của mình. Chàng đã hiểu rằng những cảm xúc ấy quả nhiên làm thành điều bí ẩn thật sự của nàng, có lẽ đã từ lâu có lẽ từ hồi nàng mới lớn lên, khi còn ở với gia đình, bên cạnh người cha khốn nạn và người dì ghẻ điên rồ vì đau khổ, bên cạnh mấy đứa trẻ đói khát, giữa những tiếng quát tháo và mắng mỏ tục tằn. Nhưng đồng thời giờ đây chàng đã biết, và biết chắc chắn, rằng tuy nàng thấy bồn chồn và vô cùng sợ hãi trước một điều gì khi bắt đầu đọc, nhưng vẫn háo hức muốn đọc lạ lùng, và đọc cho chàng nghe nhất là bây giờ rồi, "sau nầy dù có thể nào cũng mặc!"… Chàng đọc thấy điều đó trong mắt nàng, chàng hiểu nỗi xúc động hưng phấn của nảng… Nàng cố tự chủ cố nuốt cơn nghẹn ngào dâng lên ngang cổ ngay từ câu đầu, và đọc tiếp chương thứ mười một trong thiên Phúc âm của Thánh Joan. Nàng đọc đến câu thứ 19:
"Có nhiều người Judé đã đến để đặng an ủi Martha và Maria về sự anh chết. Martha nghe Đức Chúa Jésus đến, bèn đi đón Người, nhưng Martha thì ngồi tại nhà. Martha thưa cùng Đức Chúa Jésus rằng: Lạy Chúa, nếu Chúa có lại đây, thì anh con đã chẳng chết. Mà bây giờ con cũng biết mọi điều Người sẽ xin Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời ắt ban cho".
Đến đây nàng lại ngừng đọc, hổ thẹn cảm thấy trước rằng mình sẽ run, giọng mình lại sẽ vỡ.
"Đức Chúa Jésus phán rằng: anh người sẽ sống lại. Martha thưa rằng: Con vẫn biết rằng đến sự sống lại ngày cuối cùng, anh con sẽ sống lại. Đức Chúa Jésus phán rằng: ta là sự sống lại, và là sự sống. Kẻ nào tin ta thì dẫu chết đi rồi, cũng sống lại. Còn ai sống và tin ta thì muốn đời chẳng hề chết. Người tin điều đó chăng? Người thưa rằng…"
Sonya khó nhọc thở lại cho đều, rồi cao giọng đọc tách bạch từng chữ, như đang truyền giảng trước một đám đông tín đồ.
"Đức Chúa, phải, tôi tin chúa là Đấng Christo, con Đức Chúa Trời, là Đấng sẽ đến thế gian".
Nàng toan dừng lại ngước mắt lên nhìn chàng, nhưng lại hối hả ghìm mình lại và đọc tiếp, Raxkonikov ngồi nghe không nhúc nhích, không ngoảnh lại, khuỷu tay vẫn chống lên bàn, mắt nhìn sang một bên, Sonya đã đọc đến câu 32:
"Nhưng Maria, lúc đã tới nơi Đức chúa Jésus đứng, vừa thấy Ngài thì sấp mình xuống chân Ngài mà rằng: Lạy Chúa! Nếu chúa có tại đây, thì anh tôi đã không chết! Đức Chúa Jésus thấy người khóc, và những người Judé đi cùng người cũng khóc, bèn đau lòng cảm động mà phán rằng: các người đã chôn người ở đâu? Chúng thưa rằng: Lạy Chúa, xin hãy lại coi. Đức Chúa Jésus khóc. Người Judé bèn nói rằng: kìa, Người yêu Lazaro là dường nào! Có một vài người trong chúng nói: Người đã mở mắt kẻ mù được, há chẳng có thể cũng làm cho người nầy không chết sao?"
Raxkonikov bồi hồi quay lại nhìn nàng. Phải, đúng như thế! Nàng đã run lên cầm cập trong một cơn sốt thật sự. Chàng đã biết trước như thế. Nàng đã sắp đọc đến những lời nói về cái phép lạ lớn lao, kỳ diệu nhất và một cảm giác hân hoan cao cả tràn ngập lòng nàng. Giọng nàng sang sảng như tiếng chuông, chan chứa một niềm hân hoan đắc thắng, lại càng vang lên mạnh mẽ. Những giòng chữ cứ nhoà đi trước mắt nàng, mắt nàng tốt sầm lại, nhưng nàng đã thuộc lòng những câu đang đọc. Đến câu cuối cùng: "Người đã mở mắt kẻ mù được…" nàng hạ thấp giọng xuống, nhiệt thành diễn đạt ý ngờ vực trách móc và chê bai của những người Judé mù quáng, thiếu lòng tin, mà chỉ một phút nữa, như bị sét đánh sẽ phủ phục xuống khóc và tin… "Cả chàng nữa, chàng cũng là một kẻ mù quáng và thiếu lòng tin, chỉ lát nữa chàng cùng sẽ được nghe và cũng sẽ tin. Phải, phải! Lát nữa thôi, ngay bây giờ" - nàng mơ ước, lòng khấp khởi chờ đợi.
"Bấy giờ, Đức Chúa Jesus lại đau lòng nữa, bèn đến phần mộ: một là một cái hang, trước cửa hang nầy có một phiến đá chặn lại. Đức Chúa Jésus phán rằng: hãy cất phiến đá đi. Martha là em gái ké chết thưa rằng: Lạy Chúa đã có mùi, vì chưng người nằm đó đã bốn ngày rồi".
Nàng nhân thật mạnh hai chữ "bốn ngày".
"Đức Chúa Jésus lại phán: ta há chẳng từng nói với người rằng nếu ngươi tin thì sẽ thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sao? Ấy vậy, họ lăn hòn đá đi khỏi hang kẻ chết đương nằm. Đứa Chúa Jésus bèn nhướng mắt lên trời mà rằng: thưa cha, tôi tạ ơn Cha đã nhận lời tôi. Tôi cũng biết Cha vẫn hằng nhận lời tôi, nhưng tôi nói vậy là vì có đoàn dân nầy đứng quanh đây, ngõ hầu họ tin rằng ấy chính Cha là Đấng đã sai tôi đến. Ngài nói xong, bèn kêu lên một tiếng lớn rằng: "Lazaro! hãy ra". Và kẻ chết đi ra…".
Nàng đọc to lên, giọng trang trọng, nàng run lên và lạnh toát đi, như thể chính mắt nàng trông thấy.
"… chân tay buộc bằng vải liệm và mặt thì phủ khăn. Đức Chúa Jésus phán cùng chúng rằng; hãy mở cho người, và để người đi. Bấy giờ có nhiều người Judé đã đến cùng Maria và thấy sự Đức Chúa Jésus làm, bèn tin Ngài".
Nàng không đọc tiếp, và không thể đọc tiếp nữa; nàng gấp sách lại và nhanh nhẹn rời ghế đứng dậy.
- Tích Lazaro sống lại đến đây là hết, - nàng nói thì thầm, giọng nghiêm khắc, đoạn đứng yên, người quay sang một bên, không dám ngước mắt lên nhìn chàng, dường như có ý e thẹn. Nàng vẫn run như đang cơn sốt. Mẩu nến đã lụi xuống rất lâu trong chiếc đế đèn mó méo, hắt một ánh sáng lù mù lên kẻ sát nhân và cô gái điếm tụ họp một cách kỳ lạ trong gian phòng khốn khổ, trước pho sách vĩnh hằng. Hơn năm phút trôi qua.
- Tôi đến đây để bàn một việc. - Raxkonikov bỗng cau mày nói to lên. Đoạn đứng vậy lại gần Sonya.
Nàng lặng lẽ ngước mắt lên nhìn chàng. Anh mắt chàng khắc khổ lạ thường, phản chiếu một quyết tâm dữ dội.
- Hôm nay tôi đã ruồng bỏ những người thân, - chàng nói - ruồng bó mẹ và em tôi. Bây giờ tôi sẽ không đến với họ nữa. Tôi đã cắt đứt hết mọi liên hệ.
- Tại sao? - Sonya sửng sốt hỏi.
Cuộc gặp gỡ ban sáng với mẹ và em chàng đã để lại trong lòng nàng một ấn tượng phi thường, tuy chính nàng cũng không sao định rõ. Nàng hầu như kinh hãi khi nghe tin chàng đoạn tuyệt với họ.
- Bây giờ tôi chỉ còn có em nữa mà thôi - chàng nói tiếp - Ta cùng đi… rồi đã đến đây. (chúng ta đều là những kẻ bị nguyền rủa, chúng ta hãy cùng đi khỏi nơi nầy. - Mắt chàng sáng long lanh.
"Như người dở điên dở dại!" - đến lượt Sonya thầm nghĩ.
- Đi đâu? - nàng hỏi, giọng khiếp sợ, và bất giác lùi lại.
- Nào tôi có biết? Tôi chỉ biết là ta sẽ cùng đi một đường, tôi biết chắc, thế thôi. Cũng một mục đích!
Nàng nhìn chàng, không hiểu. Nàng chỉ hiểu rằng chàng đau khổ ghê gớm, vô hạn.
- Nếu em nói với họ, sẽ chẳng có ai hiểu gì hết. Chàng nói tiếp. - Còn tôi, tôi đã hiểu, tôi cần có em, cho nên tôi đã đến em.
- Em không hiểu. - Sonya thì thầm.
- Sau nầy em sẽ hiểu. Chẳng phải em cùng đã làm như tôi sao? Em cũng đã vượt qua… em cũng đã cam tâm vượt qua. Em đã tự đầy đoạ thân mình, em đã hãm hại đời… mình (cũng thế thôi), lẽ ra em có thể sống bằng trí tuệ, bằng lương tri, nhưng em lại kết liễu trên khu chợ… Nhưng em không chịu đựng được đâu và nếu em ở một mình em phát điên như tôi. Ngay giờ đây em cũng đã hoàn toàn như người điên; thế thì ta hãy cùng đi trên một con đường! Ta đi đi!
- Tại sao? Tại sao ông lại nói thế! - Sonya nói, lòng xúc động lạ lùng trước những lời lẽ của Raxkonikov.
- Tại sao ư? Tại vì không thể sống mãi như thế nầy tại vì thế đấy! Rốt cục cũng phải suy nghĩ nghiêm túc: và thẳng thắn, chứ không thể kêu khóc như trẻ con rằng Chúa sẽ không để như thế. Nếu mai đây người ta đưa em vào nhà thương thật thì sẽ ra sao? Bà ấy, vừa điên rồ vừa ho lao, chẳng mấy lâu nữa sẽ chết, còn lũ trẻ? Polenka có thể nào không hư hỏng? Chả nhẽ em không trông thấy những đứa trẻ bị mẹ sai đi ăn xin ở cac góc phố? Tôi đã tìm biết những bà mẹ ấy sống ở đâu va hoàn cảnh như thế nào. Ở đây trẻ con không còn là trẻ con được nữa. Có đứa lên bảy đã truỵ lạc, trộm cắp. Thế mà trẻ con là hình ảnh của Chúa Cơ-đốc, vương quốc của Đức Chúa trời là của chúng". Chúa đã phán cho chúng hằng được kính, được yêu, chúng là nhân loại tương lai…
- Thế thì biết làm thế nào, làm thế nào? - Sonya khóc nức nở từng cơn, hai tay vặn vào nhau, nhắc đi nhắc lại.
- Làm thế nào ư? Cắt đứt vĩnh viễn tất cả những gì cần cắt đứt, chỉ có thể thôi; và gánh lấy nỗi khổ?
- Sao? Em không hiểu? Sau nầy em sẽ hiểu… Tự do và quyền lực nhất là quyền lực! Phải có quyền lực đối với lũ sâu bọ run rẩy, đối với cả cái tổ kiến ấy! Đấy là mục đích! Em nhớ lấy! Đó là lời trăn trối của tôi! Có lẽ tôi nói chuyện với em lần nầy là lần cuối cùng. Nếu ngày mai tôi không đến nữa, em sẽ nghe người ta nói hết mọi chuyện. Đến lúc ấy em hãy nhớ những lời nầy. Rồi về sau, qua năm tháng, đến một lúc nào đấy em sẽ hiểu ý nghĩa những lời nầy. Nếu mai tôi còn đến đây, tôi sẽ nói cho em biết ai đã giết Lizaveta. Từ biệt em!
Toàn thân Sonya run lên vì hoảng sợ.
- Thế ra ông biết ai giết? - nàng hỏi, người lạnh toát đi vì sợ hãi, mắt ngơ ngác nhìn chàng.
- Tôi biết và tôi sẽ nói… cho em biết, chỉ mình em thôi! Tôi đã chọn em. Tôi đến em không phải để xin em tha thứ, mà chỉ để nói cho em biết thôi. Tôi đã chọn em từ lâu, ngay từ khi cha em nói chuyện em cho tôi nghe, và khi Lizaveta hãy còn sống, tôi đã nghĩ đến việc nầy. Thôi chào em. Em đừng đưa tay ra. Mai?
Chàng đi ra, Sonya nhìn theo chàng như nhìn một người điên: nhưng chính nàng cũng như điên như dại, và nàng cũng cảm thấy thế. Đầu nàng choáng váng.
"Trời ơi! làm sao người ấy lại biết ai đã giết Lizaveta? Những câu nói ấy nghĩa là gì? Lạ quá! Nhưng đồng thời ý nghĩ ấy vẫn không đến với nàng. Không hế. Không hề…". Ồ, chắc người phải khổ sở vô cùng! Người ấy đã ruồng bỏ mẹ và em, lại sao. Việc gì đã xảy ra? Người ấy định làm gì? Người ấy đã nói với nàng những gì thế? Người ấy hôn chân nàng và nói, nói… phải, người ấy đã nói rõ như thế, là thiếu nàng người ấy không thể sống được… Trời ơi!".
Suốt đêm hôm ấy Sonya sốt và mê sảng. Đôi khi nàng giật mình choàng dậy, khóc, tay vặn vào nhau, có khi lại chìm vào một giấc ngủ li bì của người sốt, và nàng mơ thấy Polenka, Katerina Ivanovna, Lizaveta, buổi đọc Phúc âm và người ấy… chàng, với khuôn mặt xanh xao, đôi mắt nẩy lứa… Chàng hôn chân nàng, khóc… Trời ơi!
Sau cánh cửa bên phải, cánh cửa ngăn phòng Sonya với các phòng ở của bà Gertruda Karlovna Resslich, có một căn buồng trung gian từ lâu bỏ trống mà bà Resslich có ý định cho thuê, trên cổng vào có một tấm biển và trên các tấm kính cửa sổ trông ra bờ kênh có dán những mảnh giấy cho biết rõ ý định đó. Lâu nay Sonya đã quen coi đó là một gian phòng không có người ở. Thế nhưng suốt tối hôm ấy ông Xvidrigailov đã đứng trong phòng ấy ghé sát vào cánh cửa nghe trộm. Khi Raxkonikov đi ra, ông ta đứng ngẫm nghĩ một lát, rón rén trở về buồng mình giáp gian phòng bỏ trống, lấy một chiếc ghế dựa và lặng lẽ đặt vào sát cánh cửa thông sang buồng Sonya. Ông ta thấy cuộc nói chuyện vừa qua rất lý thú và đáng chú ý, nó làm cho ông ta rất hài lòng, hài lòng đến nỗi ông ta đưa chiếc ghế sang để sau nầy, ngay như ngày mai chăng hạn, khỏi phải chồn chân đứng suốt một tiếng đồng hồ; từ rày phải có chỗ ngồi cho thật thoải mái để hưởng một khoái cảm trọn vẹn về đủ mọi phương diện.
Chú thích:
- Ai đấy? - một giọng đàn bà lo lắng hỏi.
- Tôi… tôi đến cô, - Raxkonikov đáp, đoạn bước vào một gian phòng mắc áo nhỏ xíu. Trên một chiếc ghế gãy có đặt một cây nến cắm vào một cái chân bằng đồng móp méo.
- Ông đấy ư! Trời ơi? - Sonya kêu lên khe khẽ và đứng sững ra.
- Vào cô đi lối nào? Lối nầy à?
Và Raxkonikov, cố tránh nhìn Sonya, bước vội vào phòng.
Một phút sau, Sonya cũng cầm nến bước vào, đặt nến xuống và đứng trước mặt chàng, bàng hoàng đến cực độ xúc động không sao tả xiết và có vẻ hoảng hốt vì cuộc đến thăm đột ngột nầy. Bỗng gương mặt xanh xao của nàng đỏ bừng lên, thậm chí mắt nàng còn rơm rớm lệ nữa… Nàng nghẹn ngào, lòng hổ thẹn pha lẫn một cảm giác ngọt ngào… Raxkonikov vội ngoảnh đi và ngồi xuống chiếc ghế đặt cạnh bàn. Chàng đã có đủ thì giờ nhìn lướt qua gian phòng một lượt.
Đó là một gian phòng lớn nhưng thấp lè tè, gian phòng cho thuê duy nhất của gia đình Kapernaumov: có một cánh cửa đóng kín ăn thông với nhà họ, trổ ở bức tường bên trái. Phía đối diện, ở bức tường bên phải, còn có một cánh cửa nữa bao giờ cũng khoá chặt. Bên kia cửa là một căn nhà khác, mang số khác. Phòng của Sonya giống một nơi chứa đồ cũ hình bốn góc xiên xẹo trông rất chướng mắt, bức tường có trổ ba khung cửa sổ nhìn ra bờ kênh cắt gian phòng thành một đường chéo, thành thử một góc phòng nhọn hoắt thụt vào tận đâu đâu nên khi thiếu ánh sáng không thể nhìn thấy gì trong cái xó sâu hoắm ấy được; còn góc kia thì lại tù một cách kỳ quái. Trong cả gian phòng thênh thang hầu như không bày biện gì cả. Trong góc bên phải kê một cái giường; cạnh giường, về phía cửa ra vào, có một chiếc ghế. Cũng sát bức vách có kê giường, ngay bên cánh cửa ăn thông sang buồng bên, đặt một cái bàn gỗ mộc, trên trải một chiếc khăn bàn màu xanh xanh; bên bàn có hai chiếc ghế đan. Sát bức tường đối diện, gần cái góc nhọn, có kê một chiếc tủ ngăn nhỏ bằng gỗ mộc trông như chơ vơ giữa khoáng không. Đồ đạc trong phòng chỉ có thế. Giấy dán tường màu vàng vàng, xơ xác và ám khói, đen xỉn lại ở các góc; chắc mùa đông ở đây ấm thấp và rét mướt lắm. Cảnh nghèo túng đập ngay vào mắt; ngay ở giường ngủ cũng không có rèm che.
Sonya lặng lẽ nhìn người khách đang tự tiện chăm chú xem xét phờng nàng, và cuối cùng bắt đầu sợ run lên như đứng trước một vị quan toà, trước kẻ định đoạt số phận mình.
- Tôi đến muộn… mười một giờ rồi phải không? - chàng hỏi, mất vẫn không ngước lên nhìn nàng.
- Vâng ạ, - Sonya lẩm bẩm. - À phải: đúng đấy ạ! nàng bỗng rối rít lên như đã tìm thấy lối thoát - đồng hồ bên ông chủ nhà mới đánh đấy… tôi có nghe… đúng đấy ạ …
- Tôi đến thăm cô lầnn cuối cùng đây - Raxkonikov nói tiếp lầm lì, mặc dầu chàng đến lần nầy mới là lần thứ nhất - có lẽ tôi không gặp cô nữa.
- Ông… đi xa?
- Tôi chưa biết… mai sẽ rõ.
- Thế mai ông không đến nhà Katerina Ivanovna nữa à? - giọng Sonya run run.
- Chưa biết… Sáng mai sẽ rõ cả… Nhưng tôi đến đây không phải vì việc ấy. Tôi muốn nói với cô một điều… - Chàng ngước đôi mắt đăm chiêu lên nhìn nàng và chợt nhật ra rằng trong khi mình ngồi, nàng vẫn đứng trước mặt.
- Sao cô lại đứng thế… Cô ngồi xuống đi. - chàng nói, giọng bỗng thay đổi hẳn, dịu dàng, ôn tồn.
Nàng ngồi xuống. Chàng nhìn nàng một lát, vẻ ân cần và gần như thương xót.
- Cô gầy quá! Tay cô kìa, cứ trong suốt đi! Ngón tay như ngón tay người chết.
Chàng cầm lấy tay nàng, Sonya mỉm cười yếu ớt.
- Tôi xưa nay vẫn thế, - nàng nói.
- Hồi còn ở nhà cũng thế à?
- Vâng.
- Tất nhiên thôi? - chàng dằn giọng nói, và vẻ mặt, giọng nói của chàng bỗng lại thay đổi hẳn. Chàng đưa mắt nhìn quanh lần nữa.
- Cô thuê phòng nầy của nhà Kapernaumov à?
- Vâng ạ…
- Họ ở bên kia, sau cánh cửa nầy à?
- Vâng… họ cũng ở một căn buồng như thể nầy.
- Cả nhà ở một buồng à?
- Vâng ạ - Tôi mà ở buồng nầy thì ban đêm sợ lắm, - chàng nhận xét, vẻ mặt lầm lầm.
- Gia đình ông chủ rất tốt, họ đối xử tử tế lắm, - Sonya đáp, vẫn có vẻ như chưa trấn tỉnh lại được và chưa hiểu rõ lắm. - Bàn ghế đồ đạc… đều của nhà chủ cả. Họ tốt lắm, trẻ con cũng hay sang tôi chơi…
- Nhà họ nói lắp phải không?
- Vâng ạ… Ông ta vừa nói lắp vừa thọt. Cả bà vợ cũng thế. Không hẳn là nói lắp, nhưng cứ câu được câu mất. Bà ấy tốt lắm. Ông ấy trước kia làm gia nô cho người ta. Con đến bảy đứa… chỉ có đứa đầu nói lắp, còn mấy đứa kia chỉ đau ốm thường thôi… chứ không nói lắp… Thế sao ông biết nhà ấy ạ? - nàng nói thêm, hơi ngạc nhiên.
- Dạo trước ông thân sinh cô có kể hết cho tôi nghe. Về cô ông ta cũng đã kể hết… Cả chuyện cô ra đi lúc sáu giờ rồi gần chín giờ cô trở về, cả chuyện Katerina Ivanovna quỳ bên giường cô.
Sonya luống cuống.
- Hôm nay tôi dường như có gặp, - nàng thì thầm, giọng rụt rè.
- Gặp ai?
- Cha tôi. Tôi đang đi dọc phố gần đây thôi, ở đầu góc phố nầy ấy, khoảng gần mười giờ, chợt thấy ai như cha tôi đi ở phía trước. Có lẽ đúng là cha tôi. Tôi đã định ghé vào Katerina Ivanovna.
- Cô đi dạo à?
- Vâng, - Sonya thì thầm nói ngắc ngứ rồi luống cuống cúi mặt xuống.
- Khi cô còn ở nhà, Katerina Ivanovna đã nhiều lần suýt đánh cô phải không?
- Ồ không, ông nói gì thế, không phải đâu! - Sonya nhìn chàng, vẻ hơi hoảng sợ.
- Thế cô yêu bà ấy à?
- Dì tôi? Sao lại không! - Sonya rên rỉ, giọng đau đớn, hai tay bỗng chắp lại. - Ồ! Ông không… Giá ông biết rõ dì tôi. Dì ấy thật như trẻ con ấy… Dì ấy buồn phiền quá… đâm ra như người loạn óc. Trước kia dì ấy thông minh biết mấy… dì ấy cao thượng quá… tốt quá! Ông không biết gì cả, không biết gì cả… trời ơi?
Sonya nói như tuyệt vọng, lòng xúc động và đau đớn, hai tay vặn vào nhau. Đôi má nhợt nhạt của nàng lại đỏ ửng lên, mặt nàng lộ vẻ đau khổ. Có thể thấy rõ rằng người ta vừa chạm vào một chỗ rất đau trong tâm hồn nàng, và nàng tha thiết muốn bày tỏ, muốn nói lên điều gì đề bênh vực Katerina Ivanovna. Một niềm thương xót không thể nào nguôi được, nếu có thể nói như thế, bỗng hiện rõ trên từng nét mặt của nàng.
- Đánh ư! Sao ông lại nói thế? Trời ơi, dì ấy mà lại đánh tôi! Mà dì ấy có đánh chăng nữa thì đã sao! Thì sao nào? Ông không biết. Ông không biết gì hết… Khổ thân dì ấy quá. Ôi, khổ thân quá! Lại đau ốm… dì ấy tìm công bằng… Dì ấy trong sạch. Dì ấy tin rằng đâu đâu cũng phải có sự công bằng, và đòi hỏi nhu thế… Và dù có bị tra tấn nhục hình dì ấy cũng không đời nào làm một việc không công bằng. Dì ấy không thấy rằng ở đời nầy không thể có công bằng được, nên cứ uất ức… Thật như đứa trẻ, như đứa trẻ. Dì tôi công bằng lắm, công bằng lắm.
- Rồi đây cô sẽ ra sao?
Sonya nhìn chàng có ý hỏi.
- Bây giờ cả nhà trông vào cô. Mà trước kia thì cũng thế, cha cô trong khi say rượu cũng đến xin tiền cô thôi. Nhưng bây giờ cô liệu sao?
- Tôi không biết, - Sonya buồn rầu đáp.
- Họ vẫn ở đằng ấy à?
- Tôi không biết, dì tôi đang nợ tiền thuê nhà.
Nghe nói hôm nay bà chủ nhà báo sẽ đuổi đi, và Katerina Ivanovna nói là không thèm ở lại một phút nào nữa.
- Sao bà ấy gan thế? Trông mong vào cô à?
- Ồ không phải. Ông đừng nói thế… Tôi với dì ấy chỉ là một thôi, - Sonya bỗng lại sôi nổi lên, thậm chí còn bực tức nữa, trông hệt như một con chim bạch yến hay một loài chim nhỏ nào đang nổi giận. - Thì dì tôi còn biết làm thế nào nữa? Làm thế nào, làm thế nào? - Nàng hỏi, giọng nóng nảy và xúc động. - Hôm nay dì đã khóc hết cả nước mắt! Dì ấy loạn trí óc, ông không để ý hay sao? Dì ấy loạn óc đấy, khi thì dì ấy lo cuống lên như đứa trẻ, không biết, ngày mai làm thế nào cho tươm tất, có đủ đồ nhắm và các thứ… Khi thì vặn hai cánh tay vào nhau, khạc ra máu, khóc lóc, rồi bỗng dưng cứ nện đầu vào tường như tuyệt vọng làm liều. Rồi sau đó lại nguôi nguôi. Dì vẫn hy vọng ở ông, dì ấy nói bây giờ ông là người cứu giúp dì ấy, dì ấy sẽ tìm được chỗ vay ít tiền và đem tôi trở về thành phố cũ của dì ấy lập một trường ký túc cho con gái nhà quý tộc, sẽ cho tôi làm giám thị, và sẽ bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống tươi đẹp, dì ấy ôm chầm lấy tôi, hôn tôi, an ủi tôi, dì ấy tin như thế? Tin vào những chuyện hoang đường như thế! Làm sao có thể cãi lại dì ấy được? Thế mà suốt ngày hôm nay dì lau chùi, sửa sang, yếu như thế mà bê cả một thùng nước lớn lên phòng, thở dốc ra ngồi ngã xuống giường; hồi sáng tôi với dì ấy ra chợ mua giầy cho Polenka và Lena, vì giầy chúng rách cả rồi, nhưng không đủ tiền trả, còn thiếu nhiều lắm, thế mà dì ấy đã chọn được hai đôi giầy thật xinh, vì dì ấy có khiếu thẩm mỹ lắm, ông không biết đấy… Thế là dì ấy khóc oà lên trong cửa hiệu, trước mặt những người bán hàng, vì thiếu tiền. Trông dì ấy thương quá!
- Thế thì cô… sống như thế nầy chẳng có gì là lạ. - Raxkonikov nói, môi nở một nụ cười chua chát.
- Thế ông không thấy thương hay sao? Ông không thương à? - Sonya lại bùng lên, - tôi biết ông có bao nhiêu đã đem cho hết dì tôi, tuy chưa thấy dì. Giá ông thấy hết, trời ơi? Và đã bao lần, bao nhiêu lần tôi làm cho dì tôi phải khóc! Mới tuần trước đây thôi! Ôi, tôi thật tệ quá! Chỉ một tuần trước khi cha tôi chết. Tôi tàn nhẫn quá! Mà đã bao nhiêu lần như thế rồi. Suốt ngày hôm nay tôi nhớ lại mà đau lòng quá!
Sonya vặn hai cánh tay trong khi nói, xót xa với những kỷ niệm ấy.
- Thế ra chính cô tàn nhẫn à?
- Phải, chính tôi, chính tôi? Hôm ấy tôi đến nhà, - nàng vừa nói tiếp vừa khóc - cha tôi nói: "Con đọc cho bố nghe một chút. Sonya. Bố nhức đầu lắm, con đọc đi… sách đây" - đó là một quyển sách nhỏ mượn của ông Lebeziatnikov, ông Andrey Xeminovich ấy. Ông ta ở bên cạnh, lúc nào cùng kiếm được những quyển sách thật ngộ nghĩnh. Tôi nói: "Con phải đi đây", tôi không muốn đọc, tôi đến cốt để cho Katerina Ivanovna xem cái cổ áo; số là bà Lizaveta làm nghề buôn đồ cũ có mang lại cho tôi mấy chiếc cổ áo và măng-sét rẻ tiền, nhưng xinh xắn và còn mới, có thêu hoa. Katerina Ivanovna thích lắm, dì ấy đeo vào áo và đứng soi gương, dì ấy thích lắm, thích lắm; dì bảo: "Cho dì, Sonya nhé, dì van Sonya đấy". Dì ấy "van" tôi, vì dì ấy thích quá. Thế nhưng dì ấy có đeo vào đâu? Xin là xin thế thôi, chẳng qua dì ấy sực nhớ lại những ngày vui thuở trước Dì ấy mê mải ngắm nhìn mình trong gương, thế nhưng có còn chiếc áo nào nữa đâu, không còn lấy một chiếc, không còn gì hết, đã mấy năm nay rồi Katerina Ivanovna không bao giờ xin gì ai hết, chính dì ấy có gì cũng đem cho người ta thì có, thế mà lúc ấy dì đã hỏi xin tôi, đủ biết dì ấy thích đến nhường nào! Thế mà tôi tiếc không muốn cho, tôi nói: "Di Katerina Ivanovna, dì đeo vào đâu? Tôi nói thế đấy "đeo vào đâu". Đáng lẽ tôi không được nói như thế! Dì ấy cứ nhìn tôi, dì ấy buồn vì tôi đã từ chối, dì ấy khổ tâm đến nỗi trông tội nghiệp quá chừng… Không phải dì ấy buồn vì mấy chiếc cổ áo đâu, mà vì tôi đã từ chối dì, tôi biết. Ôi! Giá có cách nào chữa lại, xoá bỏ những lời ấy đi… Tôi thật tệ quá! Nhưng nói làm gì… Ông thì ông có cần gì biết!
- Cô có biết bà Lizaveta buôn đồ cũ đấy à?
- Ông cũng biết sao? - Sonya hỏi lại, hơi ngạc nhiên.
- Katerina Ivanovna ho lao rất nặng, chẳng còn sống được bao lâu nữa đâu, - Raxkonikov nói sau một phút im lặng, không trả lời vào câu hỏi.
- Ồ không đâu, không phải đâu! - Và Sonya bất giác nắm lấy hai tay chàng như van xin chàng đừng để cho dì nàng chết.
- Bà ấy chết đi còn hơn.
- Không, sao lại hơn? Không phải thế, hoàn toàn không phải như thế! - nàng hoảng hốt nhắc đi nhắc lại vẻ như không biết mình nói gì.
- Còn các em thì sao? Cô cho chúng đi đâu, nếu không đem về ở với cô?
- Ồ, tôi cũng không biết nữa!… - Sonya kêu lên vẻ hầu như tuyệt vọng, hai tay ôm lấy đầu. Có thể thấy rõ rằng chính nàng cũng đã nghĩ đến điều đó nhiều lần lắm rồi, Raxkonikov chị nhắc lại khiến nàng hoảng sợ một lần nữa thôi.
- Thế nếu trong khi Katerina Ivanovna còn sống, cô sinh bệnh phải vào nhà thương thì sao? - chàng hỏi một cách phũ phàng.
- Ồ, sao ông lại nói thế! Không thể nào như thế được! - Và khuôn mặt Sonya nhăn nhúm lại vì một nỗi kinh hoàng ghê gớm.
- sao lại không thể được? - Raxkonikov cười gằn nói tiếp - Cô có được bảo hiểm đâu! Đến lúc ấy họ sẽ ra sao? Cả nhà sẽ kéo nhau đi lang thang ở ngoài đường, bà ấy sẽ vừa ho vừa xin bố thí và sẽ đập đầu vào tường như hôm ấy, lũ trẻ sẽ khóc. Bà ta sẽ gục xuống, họ sẽ đưa vào đồn cảnh sát, vào nhà thương, bà ta sẽ chết, còn lũ trẻ…
- Ồ không! Chúa không để như vậy? - cuối cùng Sonya thốt ra từ lồng ngực nghẹn ngào. Nàng lắng nghe, nhìn chàng với đôi mắt van lơn, hai tay chắp lại thành một lời cầu khẩn im lặng, như thế mọi sự đều tùy thuộc ở chàng.
Raxkonikov đứng dậy đi đi lại lại trong phòng.
Một phút trôi qua. Sonya đứng im, đầu cúi gầm, hai tay buông thõng, dáng rũ rượi.
- Không dành dụm được à? Không để dành được ít nhiều phòng khi bất trắc hay sao? - Chàng bỗng dừng lại trước mặt Sonya, hỏi.
- Không, - Sonya nói thì thầm. -Dĩ nhiên là không
- Cô đã thử chưa? - chàng nói thêm, giọng gần như ngạo nghễ.
- Thử rồi!
- Và thất bại! Thì dĩ nhiên phải thế! Còn hỏi làm gì?
Chàng lại đi bách bộ trong phòng. Một phút nữa trôi qua.
- Thế không phải ngày nào cô cũng có khách à?
Sonya càng bối rối thêm, mặt nàng lại đỏ bừng lên.
- Không, - nàng gượng gạo trả lời.
- Hẳn Polenka rồi cũng phải thế, - chàng nói đột ngột.
- Không! Không. Không thể được, không! - Sonya thét lên như người tuyệt vọng, tường chừng có ai vừa lấy dao đâm vào người nàng. - Chúa không đời nào để cho một việc ghê tởm như thế xảy ra được.
- Vẫn để xảy ra khối việc như vậy đấy!
- Không? Không! Chúa sẽ che chở cho Polenka, Chúa! - nàng nhắc đi nhắc lại, như người mất hồn.
- Mà có lẽ cũng chẳng làm gì có Chúa hết, - Raxkonikov đáp, vẻ dường như hả hê, rồi nhìn nàng cười phá lên.
Mặt Sonya chợt biến sắc đi một cách khủng khiếp, các thớ thịt trên mặt giật lên từng đợt. Nàng nhìn Raxkonikov với một vẻ oán trách không sao tả nổi, nàng muốn nói điều gì, nhưng không sao nói ra được, chỉ bưng mặt khóc nức nở.
- Cô nói Katerina Ivanovna loạn óc; chính cô cũng loạn óc đấy, - chàng nói sau một lát im lặng.
Khoảng năm phút trôi qua. Chàng vẫn lặng thinh đi đi lại lại không nhìn nàng. Cuối cùng chàng đến cạnh nàng, mắt sáng quắc. Chàng nắm lấy hai vai Sonya và nhìn thẳng vào gương mặt ướt đám nước mắt của nàng. Luồng mắt của chàng khô, sắc, nóng như một tia lửa, môi chàng rung mạnh… bỗng chàng quỳ sụp xuống sàn nhà và hôn lên chân nàng. Sonya hoảng hốt lùi lại như tránh một người điên. Vả quả nhiên trông chàng chẳng khác một người điên thật.
- Ông làm gì thế? Với tôi mà ông lại… thế ư? - Nàng nói lắp bắp, mặt tái đi, và tim nàng bỗng thắt lại đau nhói.
Chàng vụt đứng dậy.
- Không phải tôi cúi lạy em, tôi cúi lạy trước sự thống khổ của loài người. - chàng nói, giọng quái gở, và bỏ ra cửa sổ. - Em nghe đây, - một phút sau chàng quay lại nói thêm - lúc nầy tôi vừa nói với một kẻ kiêu căng là hắn không bằng ngón tay út của em… và hôm nay tôi để em ngồi bên cạnh em gái tôi như vậy là một điều vinh dự đối với nó.
- Ồ sao ông lại nói thế? Lại nói trước mặt em ông? - Sonya hoảng hốt kêu lên, - ngồi với tôi mà là một vinh dự! Nhưng tôi làm gì còn… danh tiết. Trời ơi, sao ông lại nói thế?
- Tôi nói về em như thế, không phải vì em mất danh tiết, vì tội lỗi của em, mà vì nỗi đau khổ vô hạn của em. Em là một người tội lỗi, đầy tội lỗi, đúng như thế, - chàng nói thêm, giọng gần như phấn khởi, - và tội lỗi của em càng nặng hơn nữa là vì em hy sinh, đày doạ mình một cách vô ích. Còn gì khủng khiếp hơn phải sống trong đống bùn nhơ mà em ghê tởm, và đồng thời chính em cũng biết (chỉ cần mở mắt ra thôi) rằng làm như vậy chẳng cứu được ai và chẳng có ích gì cho ai chút nào hết! Em thử nói tôi nghe - chàng nói như nỗi khùng lên - làm sao trong tâm hồn em lại có thể pha lẫn những điều nhơ nhuốc, hèn hạ như vậy với những tình cảm thiêng liêng, trái ngược hẳn lại? Thà đâm đầu xuống sông mà chết cho xong có phải là công bằng hơn, công bằng hơn không biết bao nhiêu mà kể, mà lại khôn ngoan hơn nữa không?
- Thế rồi họ sẽ ra sao? - Sonya hỏi, giọng yếu ớt, mắt nhìn chàng chua xót, nhưng hình như không hề ngạc nhiên về cái ý chàng vừa gợi lên. Raxkonikov nhìn nàng với đôi mắt kỳ dị.
Chàng đã đọc thấy tất cả qua mỗi một cái nhìn của nàng. Thế ra chính nàng cũng đã có ý nghĩ đó. Có lẽ đã nhiều lần trong cơn tuyệt vọng nàng suy nghĩ thật sự đến việc kết liễu ngay một lúc cho xong hết mọi sự, và nàng đã nghĩ một cách chín chắn đến nỗi bây giờ nàng hầu như không lấy làm lạ nữa. Thậm chí nàng cũng không để ý thấy lời lê của chàng tàn nhẫn như vậy, và dĩ nhiên cũng không để ý đến ý nghĩa những lời trách móc và nhất là cách chàng nhìn nỗi ô nhục của nàng, và Raxkonikov cũng thấy rõ như vậy.
Nhưng chàng cũng hoàn toàn hiểu nàng bị giầy vò đau đớn khủng khiếp đến nhường nào khi nghĩ đến tình canh ô nhục của mình. Vậy thì cái gì cho đến nay, cái gì đã có thể ngăn chặn quyết tâm tự vẫn của nàng? Nghĩ đến đây chàng mới hiểu hết được mấy đứa trẻ mồ côi khốn khổ và người đàn bà ho lao dở điên dở dại cứ đập đầu vào tường kia có ý nghĩa như thế nào đối với nàng.
Tuy vậy chàng cũng lại thấy rõ rằng nhân cách của Sonya cũng như nếp giáo dục của nàng không thể nào cho phép nàng sống mãi như vậy. Song chàng vẫn băn khoãn không hiểu tại sao nàng lại có thể sống trong tình trong đó lâu như vậy mà không phải điên, nếu không đủ can đảm tự tử" Dĩ nhiên chàng hiểu rằng tình cảnh của Sonya là một hiện tượng ngẫu nhiên trong xã hội, tuy tiếc thay tuyệt nhiên không phải là một hiện tượng cá biệt và ngoại lệ. Nhưng chính tính chất, ngẫu nhiên ấy, nếp giáo dục ấy và cả quãng đời về trước nữa lẽ ra có thể giết chết nàng ngay từ khi bước những bước đầu trên con đường nhơ nhuốc nầy. Vậy thì cái gì đã nâng đỡ nàng? Hẳn không phải là thói dâm ô truỵ lạc. Rõ ràng cuộc sống ô nhục nầy chỉ chạm đến nàng một cách cơ học; sự truỵ lạc thật sự vẫn chưa thấm chút nào vào lòng nàng: chàng thấy rõ như vậy; nàng đang đứng trước mặt chàng như một cảnh thực…
"Nàng có ba con đường. - chàng thầm nghĩ: - nhảy xuống sông, vào nhà thương điên, hay… hay rốt cục lao mình vào truỵ lạc, trí tuệ u mê đi, tâm hồn sắt lại". Ý nghĩ sau cùng nầy khiến chàng ghê tởm hơn cả, nhưng chàng là một kẻ hoài nghi, chàng còn trẻ tuổi, chàng xa rời cuộc sống, vì vậy chàng tàn nhẫn, cho nên không thể không tin rằng lối thoát sau cùng, tức sự truỵ lạc, là lối thoát dễ có cơ thực hiện hơn cả.
"Nhưng chẳng lẽ lại như thế thật, - chàng ngạc nhiên thầm nghĩ, - chẳng lẽ ngay cả con người vẫn còn giữ được một tâm hồn trong sạch nầy rốt cục cũng sẽ tự giác vươn tới cái hố nhơ bẩn, thối tha ấy? Phải chăng xu thế ấy đã bắt đầu, và sở dĩ nàng còn chịu đựng được cho đến nay chỉ vì dâm ô truỵ lạc đối với nàng không còn ghê tởm mấy nữa? Không, không thể như thế được! - chàng nhẩm kêu lên, như Sonya lúc nãy, - không, sở dĩ cho đến nay nàng vẫn chưa tự tử là vì sợ có tội (1) vì nghĩ đến họ, đến những người ấy. Sở dĩ cho đến nay nàng vẫn chưa điên… Nhưng ai bảo nàng chưa điên? Có thật nàng vẫn tỉnh trí hay không? Có thể nào lại nói năng như nàng? Lẽ nào người tỉnh trí lại suy luận như nàng. Lẽ nào có thể ngồi ngay trên miệng hố thối tha của sự truỵ lạc đang hút mình xuống, mà lại xua tay, bịt tai khi người ta nói đến nguy cơ của mình? Nàng làm sao thế, hay là nàng chờ đợi một phép thần thông? Chắc hắn là như thế. Tất cả những điều đó chẳng phải là những dấu hiệu điên rồ sao?".
Chàng kiên trì giữ lấy ý nghĩ nầy. Lối thoát ấy còn làm chàng hài lòng hơn bất cứ lối thoát nào khác.
Chàng bắt đầu nhìn nàng chăm chú hơn.
- Thế cô hay cầu nguyện Chúa lắm phải không Sonya? - chàng hỏi.
Sonya lặng thinh. Chàng đứng cạnh, đợi nàng trả lời.
- Ví thử không có Chúa, tôi sẽ ra sao? - nàng thì thầm rất nhanh, vẻ cương quyết mắt bỗng sáng lên, nhìn chàng một thoáng, tay xiết mạnh tay chàng.
"Đấy đúng như thế!" - chàng nhĩ.
- Thế Chúa làm gì cho em? - chàng tiếp tục dò xét Sonya. Im lặng hồi lâu, như không trả lời được, lồng ngực yếu đuối của nàng phập phồng vì xúc động.
- Ông im đi! Đừng hỏi nữa ông không xứng đáng! - nàng bỗng kêu lên, nghiêm nghị và giận dữ nhìn chàng.
"Đúng thế thật! Đúng thế thật!" - chàng đinh ninh tự nhủ.
- Chúa làm tất cả! - nàng thì thầlm nói nhanh, mắt lại nhìn xuống.
"Lối thoát đây rồi! Đây chính là cách giải thích lối thoát" - chàng tự nhủ, mắt tò mò nhìn nàng hau háu.
Với một cảm xúc mới mẻ, kỳ lạ, gần như đau đớn, chàng nhìn chăm chăm khuôn mặt xanh xao, gầy gò, với những nét sắc và không đều đặn ấy, đôi mắt xanh dịiu hiền có thể ném ra những tia lửa ấy sáng lên vì một cảm xúc mãnh liệt và khắc khổ, cái thân hình nhỏ bé đang run lên vì uất ức và căm giận, và càng thấy tất cả những cái đó thật kỳ lạ, hầu như vô lý. "Đúng là một kẻ ngây dại, một kẻ dại" (2) - chàng nhẩm đi nhẩm lại. Trên tủ ngăn có một quyển sách. Trong khi đi đi lại lại trong phòng, mỗi lần đi ngang chàng vẫn đé thấy nó. Bây giờ chàng cầm nó lên xem. Đó là pho Tân ước bằng tiếng Nga. Quyển sách đóng bìa da, đã cũ kỹ, nhàu nát.
- Sách ở đâu thế nầy? - Chàng hỏi Sonya đang đứng ở chỗ cũ, cách bàn ba hước.
- Có người đem đến cho tôi. - nàng đáp, vẻ như miễn cưỡng, mắt nhìn phía khác.
- Ai đem đến?
- Bà Lizaveta. Tôi nhờ bà ấy kiếm hộ.
"Lizaveta! Lạ thật!" - chàng nghĩ thầm. Mỗi lúc chàng lại càng có cảm giác là tất cả những gì có liên quan đến Sonya cũng đều lạ lùng, kỳ diệu. Chàng đem sách đến gần ngọn nên và bắt đầu giở xem.
- Đoạn nào có chuyện Lazaro? - chàng hỏi đột ngột.
Sonya vẫn nhìn mãi xuống đất, không đáp. Nàng đứng hơi nghiêng người về phía bàn.
- Chuyện Lazaro sống lại ở chỗ nào? Cô tìm hộ tôi đi, Sonya.
Nàng liếc mắt nhìn chàng.
- Không phải ở đấy đâu, trong thiên Phúc âm thứ tư kia… - nàng thì thầm, vẻ nghiêm nghị, vẫn đứng yên.
- Cô tìm hộ và đọc cho tôi nghe đi, - chàng nói đoạn ngồi xuống, khuỷu chống lên bàn, hai tay nâng cằm, mắt trân trân nhìn sang một bên, lắng tai chờ đợi "Nội ba tuần nữa xin mời cô đến một nơi cách đây bảy dặm(3). Chính ta hình như cũng sẽ đến đấy, nếu không phải là một cái gì còn tệ hơn nữa" - chàng lẩm bẩm một mình.
Sonya ngần ngừ bước lại gần bàn… Nàng chưa tin lắm vào cái ý muốn kỳ quặc của Raxkonikov. Song nàng vẫn cầm lấy sách.
- Chả nhẽ ông chưa đọc à? - nàng hỏi, mắt ngước nhìn chàng qua bàn. Giọng nàng mỗi lúc một thêm nghiêm nghị.
- Đã lâu rồi… Hồi tôi còn đi học. Cô đọc đi.
- Thế ông không nghe đọc ở nhà thờ à?
- Tôi… không đi nhà thờ. Còn cô có hay đi không?
- Kh - không, - Sonya thì thầm, Raxkonikov cười nhạt.
- Tôi hiểu… Thế mai cô cũng không đi làm lễ an táng cha cô à?
- Tôi sẽ đi. Tuần trước tôi cũng có đến… làm lễ cầu hồn.
- Cho ai?
- Cho Lizaveta. Bà ấy bị giết bằng rìu.
Cân não chàng mỗi lúc một thêm khích động. Chàng bắt đầu thấy choáng váng.
- Cô thân với bà Lizaveta à?
- Vâng… Bà ấy tốt lắm… bà ấy đến đây… thỉnh thoảng thôi… đến luôn không tiện. Bà ấy với tôi cùng đọc và nói chuyện. Bây giờ bà ấy đang được chiêm ngưỡng thượng đế.
Âm hưởng những từ như rút trong sách ra nầy gợi lên trong lòng chàng một ấn tượng kỳ lạ. Lại thêm những câu chuyện trò bí mật gì giữa hai người… giữa hai người ngây dại ấy.
"Rồi mình cũng dâm ra ngây dại nốt mất thôi! Một chứng hay hay đấy?" - chàng nghĩ. - Đọc đi! - chàng bỗng quát lên, giọng hạch sách và cáu kỉnh.
Sonya vẫn do dự. Tim nàng đập nạnh. Nàng không dám đọc. Raxkonikov nhìn "người điên khốn nạn" với đôi mắt hầu như đau xót.
- Ông nghe làm gì? Ông có tin đạo đâu? - nàng thì thầm rất khẽ, như nghẹt thở.
- Đọc đi tôi muốn thế! - chàng dằn giọng, - cô đọc cho Lizaveta nghe thì được kia mà?
Sonya giở sách ra và tìm đoạn ấy. Tay nàng run lập cập giọng nàng khần đi. Nàng hai lần toan đọc mà vẫn không phát âm ra được chữ đầu.
"Vậy có một người đau, tên gọi Lazaro, vốn người Béthani(4)…" - cuối cùng nàng đọc lên một cách khó nhọc, nhưng từ chữ thứ năm trở đi, giọng nàng vỡ ra đứt ra như sợi dây đàn quá căng. Hơi thở nàng nghẽn 1ại, ngực nàng tức tối. Raxkonikov hiểu được một phần tại sao Sonya phân vân không muốn đọc cho chàng nghe, và càng hiểu ra, chàng lại càng gắt gỏng và nằng nặc đòi nàng đọc một cách thô bạo. Chàng hiểu quá rõ rằng bây giờ nàng rất khổ tâm khi phải bộc lộ những cảm xúc của mình. Chàng đã hiểu rằng những cảm xúc ấy quả nhiên làm thành điều bí ẩn thật sự của nàng, có lẽ đã từ lâu có lẽ từ hồi nàng mới lớn lên, khi còn ở với gia đình, bên cạnh người cha khốn nạn và người dì ghẻ điên rồ vì đau khổ, bên cạnh mấy đứa trẻ đói khát, giữa những tiếng quát tháo và mắng mỏ tục tằn. Nhưng đồng thời giờ đây chàng đã biết, và biết chắc chắn, rằng tuy nàng thấy bồn chồn và vô cùng sợ hãi trước một điều gì khi bắt đầu đọc, nhưng vẫn háo hức muốn đọc lạ lùng, và đọc cho chàng nghe nhất là bây giờ rồi, "sau nầy dù có thể nào cũng mặc!"… Chàng đọc thấy điều đó trong mắt nàng, chàng hiểu nỗi xúc động hưng phấn của nảng… Nàng cố tự chủ cố nuốt cơn nghẹn ngào dâng lên ngang cổ ngay từ câu đầu, và đọc tiếp chương thứ mười một trong thiên Phúc âm của Thánh Joan. Nàng đọc đến câu thứ 19:
"Có nhiều người Judé đã đến để đặng an ủi Martha và Maria về sự anh chết. Martha nghe Đức Chúa Jésus đến, bèn đi đón Người, nhưng Martha thì ngồi tại nhà. Martha thưa cùng Đức Chúa Jésus rằng: Lạy Chúa, nếu Chúa có lại đây, thì anh con đã chẳng chết. Mà bây giờ con cũng biết mọi điều Người sẽ xin Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời ắt ban cho".
Đến đây nàng lại ngừng đọc, hổ thẹn cảm thấy trước rằng mình sẽ run, giọng mình lại sẽ vỡ.
"Đức Chúa Jésus phán rằng: anh người sẽ sống lại. Martha thưa rằng: Con vẫn biết rằng đến sự sống lại ngày cuối cùng, anh con sẽ sống lại. Đức Chúa Jésus phán rằng: ta là sự sống lại, và là sự sống. Kẻ nào tin ta thì dẫu chết đi rồi, cũng sống lại. Còn ai sống và tin ta thì muốn đời chẳng hề chết. Người tin điều đó chăng? Người thưa rằng…"
Sonya khó nhọc thở lại cho đều, rồi cao giọng đọc tách bạch từng chữ, như đang truyền giảng trước một đám đông tín đồ.
"Đức Chúa, phải, tôi tin chúa là Đấng Christo, con Đức Chúa Trời, là Đấng sẽ đến thế gian".
Nàng toan dừng lại ngước mắt lên nhìn chàng, nhưng lại hối hả ghìm mình lại và đọc tiếp, Raxkonikov ngồi nghe không nhúc nhích, không ngoảnh lại, khuỷu tay vẫn chống lên bàn, mắt nhìn sang một bên, Sonya đã đọc đến câu 32:
"Nhưng Maria, lúc đã tới nơi Đức chúa Jésus đứng, vừa thấy Ngài thì sấp mình xuống chân Ngài mà rằng: Lạy Chúa! Nếu chúa có tại đây, thì anh tôi đã không chết! Đức Chúa Jésus thấy người khóc, và những người Judé đi cùng người cũng khóc, bèn đau lòng cảm động mà phán rằng: các người đã chôn người ở đâu? Chúng thưa rằng: Lạy Chúa, xin hãy lại coi. Đức Chúa Jésus khóc. Người Judé bèn nói rằng: kìa, Người yêu Lazaro là dường nào! Có một vài người trong chúng nói: Người đã mở mắt kẻ mù được, há chẳng có thể cũng làm cho người nầy không chết sao?"
Raxkonikov bồi hồi quay lại nhìn nàng. Phải, đúng như thế! Nàng đã run lên cầm cập trong một cơn sốt thật sự. Chàng đã biết trước như thế. Nàng đã sắp đọc đến những lời nói về cái phép lạ lớn lao, kỳ diệu nhất và một cảm giác hân hoan cao cả tràn ngập lòng nàng. Giọng nàng sang sảng như tiếng chuông, chan chứa một niềm hân hoan đắc thắng, lại càng vang lên mạnh mẽ. Những giòng chữ cứ nhoà đi trước mắt nàng, mắt nàng tốt sầm lại, nhưng nàng đã thuộc lòng những câu đang đọc. Đến câu cuối cùng: "Người đã mở mắt kẻ mù được…" nàng hạ thấp giọng xuống, nhiệt thành diễn đạt ý ngờ vực trách móc và chê bai của những người Judé mù quáng, thiếu lòng tin, mà chỉ một phút nữa, như bị sét đánh sẽ phủ phục xuống khóc và tin… "Cả chàng nữa, chàng cũng là một kẻ mù quáng và thiếu lòng tin, chỉ lát nữa chàng cùng sẽ được nghe và cũng sẽ tin. Phải, phải! Lát nữa thôi, ngay bây giờ" - nàng mơ ước, lòng khấp khởi chờ đợi.
"Bấy giờ, Đức Chúa Jesus lại đau lòng nữa, bèn đến phần mộ: một là một cái hang, trước cửa hang nầy có một phiến đá chặn lại. Đức Chúa Jésus phán rằng: hãy cất phiến đá đi. Martha là em gái ké chết thưa rằng: Lạy Chúa đã có mùi, vì chưng người nằm đó đã bốn ngày rồi".
Nàng nhân thật mạnh hai chữ "bốn ngày".
"Đức Chúa Jésus lại phán: ta há chẳng từng nói với người rằng nếu ngươi tin thì sẽ thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sao? Ấy vậy, họ lăn hòn đá đi khỏi hang kẻ chết đương nằm. Đứa Chúa Jésus bèn nhướng mắt lên trời mà rằng: thưa cha, tôi tạ ơn Cha đã nhận lời tôi. Tôi cũng biết Cha vẫn hằng nhận lời tôi, nhưng tôi nói vậy là vì có đoàn dân nầy đứng quanh đây, ngõ hầu họ tin rằng ấy chính Cha là Đấng đã sai tôi đến. Ngài nói xong, bèn kêu lên một tiếng lớn rằng: "Lazaro! hãy ra". Và kẻ chết đi ra…".
Nàng đọc to lên, giọng trang trọng, nàng run lên và lạnh toát đi, như thể chính mắt nàng trông thấy.
"… chân tay buộc bằng vải liệm và mặt thì phủ khăn. Đức Chúa Jésus phán cùng chúng rằng; hãy mở cho người, và để người đi. Bấy giờ có nhiều người Judé đã đến cùng Maria và thấy sự Đức Chúa Jésus làm, bèn tin Ngài".
Nàng không đọc tiếp, và không thể đọc tiếp nữa; nàng gấp sách lại và nhanh nhẹn rời ghế đứng dậy.
- Tích Lazaro sống lại đến đây là hết, - nàng nói thì thầm, giọng nghiêm khắc, đoạn đứng yên, người quay sang một bên, không dám ngước mắt lên nhìn chàng, dường như có ý e thẹn. Nàng vẫn run như đang cơn sốt. Mẩu nến đã lụi xuống rất lâu trong chiếc đế đèn mó méo, hắt một ánh sáng lù mù lên kẻ sát nhân và cô gái điếm tụ họp một cách kỳ lạ trong gian phòng khốn khổ, trước pho sách vĩnh hằng. Hơn năm phút trôi qua.
- Tôi đến đây để bàn một việc. - Raxkonikov bỗng cau mày nói to lên. Đoạn đứng vậy lại gần Sonya.
Nàng lặng lẽ ngước mắt lên nhìn chàng. Anh mắt chàng khắc khổ lạ thường, phản chiếu một quyết tâm dữ dội.
- Hôm nay tôi đã ruồng bỏ những người thân, - chàng nói - ruồng bó mẹ và em tôi. Bây giờ tôi sẽ không đến với họ nữa. Tôi đã cắt đứt hết mọi liên hệ.
- Tại sao? - Sonya sửng sốt hỏi.
Cuộc gặp gỡ ban sáng với mẹ và em chàng đã để lại trong lòng nàng một ấn tượng phi thường, tuy chính nàng cũng không sao định rõ. Nàng hầu như kinh hãi khi nghe tin chàng đoạn tuyệt với họ.
- Bây giờ tôi chỉ còn có em nữa mà thôi - chàng nói tiếp - Ta cùng đi… rồi đã đến đây. (chúng ta đều là những kẻ bị nguyền rủa, chúng ta hãy cùng đi khỏi nơi nầy. - Mắt chàng sáng long lanh.
"Như người dở điên dở dại!" - đến lượt Sonya thầm nghĩ.
- Đi đâu? - nàng hỏi, giọng khiếp sợ, và bất giác lùi lại.
- Nào tôi có biết? Tôi chỉ biết là ta sẽ cùng đi một đường, tôi biết chắc, thế thôi. Cũng một mục đích!
Nàng nhìn chàng, không hiểu. Nàng chỉ hiểu rằng chàng đau khổ ghê gớm, vô hạn.
- Nếu em nói với họ, sẽ chẳng có ai hiểu gì hết. Chàng nói tiếp. - Còn tôi, tôi đã hiểu, tôi cần có em, cho nên tôi đã đến em.
- Em không hiểu. - Sonya thì thầm.
- Sau nầy em sẽ hiểu. Chẳng phải em cùng đã làm như tôi sao? Em cũng đã vượt qua… em cũng đã cam tâm vượt qua. Em đã tự đầy đoạ thân mình, em đã hãm hại đời… mình (cũng thế thôi), lẽ ra em có thể sống bằng trí tuệ, bằng lương tri, nhưng em lại kết liễu trên khu chợ… Nhưng em không chịu đựng được đâu và nếu em ở một mình em phát điên như tôi. Ngay giờ đây em cũng đã hoàn toàn như người điên; thế thì ta hãy cùng đi trên một con đường! Ta đi đi!
- Tại sao? Tại sao ông lại nói thế! - Sonya nói, lòng xúc động lạ lùng trước những lời lẽ của Raxkonikov.
- Tại sao ư? Tại vì không thể sống mãi như thế nầy tại vì thế đấy! Rốt cục cũng phải suy nghĩ nghiêm túc: và thẳng thắn, chứ không thể kêu khóc như trẻ con rằng Chúa sẽ không để như thế. Nếu mai đây người ta đưa em vào nhà thương thật thì sẽ ra sao? Bà ấy, vừa điên rồ vừa ho lao, chẳng mấy lâu nữa sẽ chết, còn lũ trẻ? Polenka có thể nào không hư hỏng? Chả nhẽ em không trông thấy những đứa trẻ bị mẹ sai đi ăn xin ở cac góc phố? Tôi đã tìm biết những bà mẹ ấy sống ở đâu va hoàn cảnh như thế nào. Ở đây trẻ con không còn là trẻ con được nữa. Có đứa lên bảy đã truỵ lạc, trộm cắp. Thế mà trẻ con là hình ảnh của Chúa Cơ-đốc, vương quốc của Đức Chúa trời là của chúng". Chúa đã phán cho chúng hằng được kính, được yêu, chúng là nhân loại tương lai…
- Thế thì biết làm thế nào, làm thế nào? - Sonya khóc nức nở từng cơn, hai tay vặn vào nhau, nhắc đi nhắc lại.
- Làm thế nào ư? Cắt đứt vĩnh viễn tất cả những gì cần cắt đứt, chỉ có thể thôi; và gánh lấy nỗi khổ?
- Sao? Em không hiểu? Sau nầy em sẽ hiểu… Tự do và quyền lực nhất là quyền lực! Phải có quyền lực đối với lũ sâu bọ run rẩy, đối với cả cái tổ kiến ấy! Đấy là mục đích! Em nhớ lấy! Đó là lời trăn trối của tôi! Có lẽ tôi nói chuyện với em lần nầy là lần cuối cùng. Nếu ngày mai tôi không đến nữa, em sẽ nghe người ta nói hết mọi chuyện. Đến lúc ấy em hãy nhớ những lời nầy. Rồi về sau, qua năm tháng, đến một lúc nào đấy em sẽ hiểu ý nghĩa những lời nầy. Nếu mai tôi còn đến đây, tôi sẽ nói cho em biết ai đã giết Lizaveta. Từ biệt em!
Toàn thân Sonya run lên vì hoảng sợ.
- Thế ra ông biết ai giết? - nàng hỏi, người lạnh toát đi vì sợ hãi, mắt ngơ ngác nhìn chàng.
- Tôi biết và tôi sẽ nói… cho em biết, chỉ mình em thôi! Tôi đã chọn em. Tôi đến em không phải để xin em tha thứ, mà chỉ để nói cho em biết thôi. Tôi đã chọn em từ lâu, ngay từ khi cha em nói chuyện em cho tôi nghe, và khi Lizaveta hãy còn sống, tôi đã nghĩ đến việc nầy. Thôi chào em. Em đừng đưa tay ra. Mai?
Chàng đi ra, Sonya nhìn theo chàng như nhìn một người điên: nhưng chính nàng cũng như điên như dại, và nàng cũng cảm thấy thế. Đầu nàng choáng váng.
"Trời ơi! làm sao người ấy lại biết ai đã giết Lizaveta? Những câu nói ấy nghĩa là gì? Lạ quá! Nhưng đồng thời ý nghĩ ấy vẫn không đến với nàng. Không hế. Không hề…". Ồ, chắc người phải khổ sở vô cùng! Người ấy đã ruồng bỏ mẹ và em, lại sao. Việc gì đã xảy ra? Người ấy định làm gì? Người ấy đã nói với nàng những gì thế? Người ấy hôn chân nàng và nói, nói… phải, người ấy đã nói rõ như thế, là thiếu nàng người ấy không thể sống được… Trời ơi!".
Suốt đêm hôm ấy Sonya sốt và mê sảng. Đôi khi nàng giật mình choàng dậy, khóc, tay vặn vào nhau, có khi lại chìm vào một giấc ngủ li bì của người sốt, và nàng mơ thấy Polenka, Katerina Ivanovna, Lizaveta, buổi đọc Phúc âm và người ấy… chàng, với khuôn mặt xanh xao, đôi mắt nẩy lứa… Chàng hôn chân nàng, khóc… Trời ơi!
Sau cánh cửa bên phải, cánh cửa ngăn phòng Sonya với các phòng ở của bà Gertruda Karlovna Resslich, có một căn buồng trung gian từ lâu bỏ trống mà bà Resslich có ý định cho thuê, trên cổng vào có một tấm biển và trên các tấm kính cửa sổ trông ra bờ kênh có dán những mảnh giấy cho biết rõ ý định đó. Lâu nay Sonya đã quen coi đó là một gian phòng không có người ở. Thế nhưng suốt tối hôm ấy ông Xvidrigailov đã đứng trong phòng ấy ghé sát vào cánh cửa nghe trộm. Khi Raxkonikov đi ra, ông ta đứng ngẫm nghĩ một lát, rón rén trở về buồng mình giáp gian phòng bỏ trống, lấy một chiếc ghế dựa và lặng lẽ đặt vào sát cánh cửa thông sang buồng Sonya. Ông ta thấy cuộc nói chuyện vừa qua rất lý thú và đáng chú ý, nó làm cho ông ta rất hài lòng, hài lòng đến nỗi ông ta đưa chiếc ghế sang để sau nầy, ngay như ngày mai chăng hạn, khỏi phải chồn chân đứng suốt một tiếng đồng hồ; từ rày phải có chỗ ngồi cho thật thoải mái để hưởng một khoái cảm trọn vẹn về đủ mọi phương diện.
Chú thích:
(1) Đối với những người Cơ đốc giáo, tự tử là "trọng tội"
(2) Nguyên văn "jurodivaia" ở Nga có những người ngây dại được những người mê tín coi là "người của Chúa", bản thân họ cũng thường mộ đạo đến mức cuồng si
(3) Cách Petersburg bảy dặm có một nhà thương điên
(4) Những đoạn trích Phúc âm ở đây đều sao theo bản Kinh thánh bằng tiếng Việt của Société biblique britannique et étrangère( Thượng Hải 1925, có sửa lại đôi chút hơi khác với các bản La tinh, Nga và Pháp
(2) Nguyên văn "jurodivaia" ở Nga có những người ngây dại được những người mê tín coi là "người của Chúa", bản thân họ cũng thường mộ đạo đến mức cuồng si
(3) Cách Petersburg bảy dặm có một nhà thương điên
(4) Những đoạn trích Phúc âm ở đây đều sao theo bản Kinh thánh bằng tiếng Việt của Société biblique britannique et étrangère( Thượng Hải 1925, có sửa lại đôi chút hơi khác với các bản La tinh, Nga và Pháp
Chương 23
Sáng hôm sau, đúng mười giờ, khi Raxkonikov bước vào đồn cảnh
sát, đến phòng viên dự thẩm và nhờ vào báo với Porfiri Petrovich là mình đã đến,
chàng phải lấy làm lạ không hiểu sao mãi người ta vẫn chưa tiếp chàng: ít nhất
đến mười phút sau mới có lệnh mời chàng vào. Thế mà chàng cứ dự tính là lẽ ra
chàng vừa đến họ đã vồ ngay lấy chàng mới phải. Trong khi đó chàng vẫn đứng
trong phòng khách, quanh chàng có nhiều người đi lại, toàn là những người chẳng
có vẻ gì chú ý đến chàng cả. Ở phòng sát bên trông giống như một phòng giấy, có
mấy viên thư lại đang ngồi viết và có thể thấy rõ là trong bọn họ không hề có
ai hay biết gì về cái tên Raxkonikov. Chàng đưa mắt lo lắng và ngờ vực dò xét
quanh mình, xem thử đâu đây có một tên lính áp giải nào, một đôi mắt bí mật nào
theo dôi chàng, để chàng khỏi lén đi đâu chăng? Nhưng không hề có một dấu hiệu
nào tương tự: chỉ thấy những viên thư ký quen đang bận bịu với những công việc
lặt vặt và những người không hề để ý đến chàng: bây giờ chàng có muốn đi khắp
các phương trời cũng chẳng ai biết. Mỗi lúc chàng một thêm vững tâm nghĩ rằng nếu
con người bí mật hôm qua, cái bóng ma từ dưới đất trồi lên ấy biết hết và trông
thấy hết, thì lẽ nào người ta lại để cho chàng ung dung đứng đợi như thế nầy?
Và chẳng lẽ người ta lại ngồi yên cho đến mười một giờ đợi đến khi chàng tự
nguyện dẫn xác đến? Thế nghĩa là người ấy chưa tố giác gì, hay… hay chẳng qua
chính hắn cũng chẳng biết gì, chẳng trông thấy gì nốt (mà trông thấy làm sao được
kia chứ!), vậy thì tất cả những việc xảy ra hôm qua chỉ là một ảo ảnh, bị trạng
thái kích động và trí tưởng tượng bệnh tật của chàng phóng đại ra. Giờ đây ôn lại
tất cả những việc ấy và chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu sắp tới, chàng bỗng cảm
thấy mình run, và thậm chí còn thấy giận sôi lên khi nghĩ rằng mình run sợ trước
tên Porfiri Petrovich khả ố. Đối với chàng, điều khủng khiếp nhất là phải gặp lại
con người ấy: chàng căm thù hắn vô cùng, vô hạn, thậm chí còn sợ lòng căm thù ấy
làm cho mình hở miệng mà tiết lộ. Chàng tức giận đến nỗi lập tức thôi run;
chàng sửa soạn bước vào với một vẻ lạnh lùng xấc xược và tự hứa với mình là sẽ
cố lặng thinh, có chú ý nhìn và lăng nghe càng nhiều càng tốt, ít nhất lần nầy
phải thắng cho kỳ được cái bản năng dễ khích động một cách bệnh tật của mình.
Ngay lúc ấy họ gọi chàng vào phòng giấy Porfiri Petrovich.
Porfiri Petrovich đang ngồi một mình trong phòng làm việc. Đó là một gian phòng không lớn mà cũng không nhỏ: trong phòng có một cái bàn viết đặt trước một chiếc đi-văng bọc vải sơn, một cái bàn đựng giấy tờ; một cái tủ đặt trong góc và mấy cái ghế dựa - toàn là những đồ đạc của công sở, bằng gỗ vàng đánh bóng.
Trong một góc, trên bức tường phía sau, hay nói cho đúng hơn là trên tấm gỗ ngăn ở phía sau, có một cánh cửa đóng kín: sau tấm gỗ ấy chắc phải còn những gian khác nữa. Khi Raxkonikov vào, Porfiri Petrovich lập tức khép cánh cửa chàng vừa bước qua, và trong phòng chỉ còn lại hai người. Porfiri Petrovich đón khách một cách hết sức vui vẻ và niềm nở, và chỉ mấy phút sau, Raxkonikov mới nhận thấy một vài dấu hiệu tỏ ra ông ta hơi lúng túng, cứ như thể có ai vừa làm cho ông ta ngạc nhiên một cách đột ngột hay bất chợt thấy ông ta đang làm một việc gì vụng trộm.
- A, anh bạn rất đáng kính! Anh đến sào huyệt chúng tôi rồi… - Porfiri chìa cả hai tay ra nói. - Nào, cậu ngồi đây! Hay có lẽ, anh không thích tôi gọi "anh bạn" hay… "cậu" tout court? (1). Xin anh đừng cho là tôi quá suồng sã… Đây ạ, mời anh ngồi lên chiếc đi-văng nầy.
Raxkonikov ngồi xuống, mắt vẫn chăm chú nhìn Porfiri.
Mấy chữ "đến sào huyệt chúng tôi rồi", cậu xin lỗi về cách xưng hô, hai chữ Pháp "tout court", v.v… đều là những dấu hiệu tiêu biểu. "Chà, hắn chìa cả hai tay ra cho mình, nhưng không đưa tay nào cho mình bắt cả, hắn rụt lại rất đúng lúc" - chàng thoáng nghĩ, lòng nghi ngại. Hai người theo dõi nhau, nhưng hễ hai luồng mắt gặp nhau một cái là nhanh như chớp, họ nhìn ngay sang phía khác.
- Tôi đem mảnh giấy nầy đến… về cái đồng hồ… ấy ạ Viết thế nầy được chưa ạ, hay phải viết lại?
- Cái gì? Giấy à? Được, được… anh đừng bận tâm, thế nầy được rồi, - Porfiri Petrovich nói liến thoắng như đang vội đi đâu, đoạn cầm giấy xem. - Phải đúng thế nầy đây. Không cần gì hơn nữa. - Ông ta vẫn nói liến thoắng, đoạn đặt tờ giấy xuống bàn. Rồi một phút sau, trong khi đã nói sang chuyện khác, ông ta lại cầm lên và đem cất vào bàn đựng giấy.
- Hôm qua hình như ông có nói rằng ông muốn hỏi tôi… chính thức… về quan hệ giữa tôi với người… bị giết? - Raxkonikov mở đầu, - "Sao mình lại nói hình như - ý nghĩ ấy vụt qua óc như một tia chớp. - Mà sao mình lại lo ngại vì đã nói hình như - một ý nghĩ khác lập tức kế theo, nhanh như luồng điện.
Và chàng chợt cảm thấy rằng trong chốc lát, chỉ cần tiếp xúc với Porfiri Petrovich một cái, chỉ cần hai câu nói, hai tia mắt, là tính đa nghi của chàng đã tăng lên đến mức quái dị… và như vậy hết sức nguy hiểm: thần kinh bị khích động, càng thêm hồi hộp. "Nguy to! Nguy to! Ta lại sẽ lỡ lời".
- Vâng - vâng - vâng. Xin anh đừng ngại! Ta còn đủ thì giờ, còn đủ thì giờ, - Porfiri Petrovich lắp bắp.
Ông đi đi lại lại bên bàn viết, nhưng hình như chẳng có mục đích gì cả, khi bước ra cửa sổ, khi lại gần bàn đựng giấy, khi lại đến bàn viết, khi thì cố tránh khóe nhìn ngờ vực của Raxkonikov, khi thì lại dừng phắt tại chỗ nhìn trừng trừng vào mắt chàng. Những lúc ấy trông cái bóng dáng thấp bé, mập mạp và tròn trình của ông ta thật là kỳ quái, cứ như một quả bóng lăn lông lốc khắp phòng, hễ gặp phải tường là bật trở lại.
- Ta còn nhiều thì giờ, còn nhiều thì giờ! Anh có hút thuốc không? Anh có thuốc đấy chứ! Đây, thuốc lá đây - ông vừa nói vừa đưa cho khách một điếu - Anh ạ, tôi tiếp anh ở đây, còn chỗ ở của tôi thì ở ngay bên kia vách… phòng của sở cắt cho tôi đây, còn bây giờ thì tôi tạm thời ở chỗ khác, vì đây đang còn phải sửa sang lại đôi chút. Cũng gần xong rồi… Được Nhà nước cắt cho chỗ ở cùng là một chuyện thú vị, anh nhỉ? Anh nghĩ sao?
- Phải, thú vị lắm, - Raxkonikov đáp, mắt nhìn Porfiri gần như ngạo nghễ.
- Thú vị lắm, thú vị lắm… - Porfiri Petrovich nhắc đi nhắc lại, như chợt nghĩ đến một điều gì khác hẳn, - Phải thú vị lắm! - cuối cùng ông nói to gần như reo lên, dừng phắt lại cách Raxkonikov hai bước và nhìn thẳng vào mặt chàng. Cái lối nhắc đi nhắc lại một cách ngốc ngếch rằng được Nhà nước cắt chỗ ở cho là một chuyện thú vị ấy thật quá tương phàn với cái nhìn nghiêm trang, thâm trầm và bí ẩn của ông ta lúc bấy giờ. Nhưng điều đó lại càng làm cho cơn giận của Raxkonikov sôi sục lên, chàng không sao nén nổi một lời khiêu khích ngạo nghễ và khá liều lĩnh:
- Ông nầy, - chàng bỗng hỏi, mắt nhìn Porfiri gần như xấc xược và tựa hồ cảm thấy khoái lạc với cái vẻ xấc xược ấy hình như có một quy tắc tư pháp, một biện pháp mà các vị dự thẩm đều dùng, là thoạt tiên nói những chuyện xa xôi, những chuyện vặt vãnh không đâu hay thậm chí nói đến một việc nghiêm trang nào ngoài rìa để làm cho người bị hỏi cung vững tâm hay nói cho đúng hơn, xao lãng đi, để ru ngủ sự đề phòng của người rồi đột nhiên giáng lên đỉnh đầu người ta một câu hỏi hết sức bất ngờ và nguy hiểm; có phải thế không? Hình như xưa nay trong cái tập điều lệ, quy chế nhất nhất đều có nhắc đến biện pháp nầy thì phải?
- À thế ra… Ông cho rằng tôi nói đến chuyện phòng phiếc là để thế đấy phỏng? - Nói đoạn Porfiri Petrovich nháy mắt một cái; một vẻ cười cợt ranh mãnh thoáng lướt qua mặt ông ta, những nếp nhăn trên trán lặn đi, hai con mắt ti hí nheo lại, các nét mặt giãn ra rồi ông ta bỗng phá lên cười một thôi dài, rung cả người lên, mắt nhìn thẳng vào mặt Raxkonikov.
Raxkonikov cũng gượng gạo cất tiếng cười, nhưng khi Porfiri thấy chàng cười theo, lại càng cười sặc sụa đến nỗi mặt đỏ tía lên, thì Raxkonikov kinh tởm. Cơ chừng không còn giữ gìn gì được nữa: chàng im bặt, cau mày và quắc mắt căm giận, nhìn không chớp vào mặt Porfiri suốt trận cười dường như cố ý kéo dài vô tận của y. Vả chăng, rõ ràng là cả hai bên đều thiếu thận trọng: hoá ra Porfiri Petrovich đã cười vào mặt khách, trong khi khách phát uất lên vì tiếng cười của ông ta, thế mà ông ta cũng không lấy gì làm ngượng cả. Raxkonikov rất chú ý đến điều nầy: chàng đã hiểu rằng vừa qua Porfiri Petrovich chẳng thấy ngượng chút nào, mà ngược lại, chính chàng có lẽ đã rơi vào tròng; chàng hiểu rằng ở đây hiển nhiên có một chứ ý gì mà chàng không biết, rằng có lẽ mọi việc đã bố trí xong xuôi và chỉ lát nữa sẽ lộ rõ ra, phơi trần ra…
Chàng lập tức đi thẳng vào đề, đứng dậy cầm lấy mũ:
- Porfiri Petrovich, - chàng nói, giọng quả quyết, nhưng cũng để lộ khá rõ sự bực tức. - Hôm qua ông có ngỏ ý muốn tôi đến đây để ông hỏi cung gì đấy. Chàng nhấn mạnh đặc biệt hai tiếng "hỏi cung". Tôi đã đến, và ông cần gì xin cứ hỏi, nếu không xin để tôi về. Tôi đang vội, tôi có tí việc. Tôi cán đến dự lễ an táng người công chức bị ngựa xéo mà ông, cũng có biết … - Chàng nói thêm rồi lập tức phát cáu lên vì đã nói thêm như vậy, rồi sau đó lại càng bực tức hơn nữa vì đã phát cáu lên như thế, - tôi chán ngấy những chuyện nầy rồi. Ông thấy không, ngay từ lâu rồi… và cùng một lần vì thế mà tôi phát ốm, nói tóm lại. - chàng gần như quát lên, vì cảm thấy câu nầy lại càng không đúng chỗ hơn nữa, nói tóm lại: một là ông hỏi tôi đi, hai là để cho tôi về ngay… và nếu có hỏi thì xin hỏi cho đúng thủ tục! Bằng không, tôi sẽ không cho phép; vì vậy, trong khi chờ đợi, xin chào ông, và hiện nay ông với tôi không còn chuyện gì để mà nói nữa…
- Trời ơi Anh làm sao thế? Hỏi anh cái gì mới được chứ" - Porfiri Petrovich kêu lên, lập tức đổi giọng, đổi vẻ mặt và thôi cười ngay trong nháy mắt, - Xin anh đừng lo, anh ạ, - Ông ta nói, giọng vồn vã, rồi lại hùng hục đi bách bộ khắp phòng, xong lại đến mời Raxkonikov ngồi xuống, - còn chán thì giờ anh ạ, còn chán thì giờ, với lại những cái đó toàn là chuyện không đâu cả! Trái lại tôi rất mừng là anh đã đến chỗ chúng tôi. Tôi tiếp anh như tiếp một người khách. Còn về trận cười chết tiệt của tôi thì xin anh bỏ qua cho, Rodion Romanovich ạ. Có đúng tên anh là Rodia Romanovich không nhỉ? Tên ông cụ thân sinh anh là Roman phải không? Thần kinh tôi dễ kích thích lắm, lời nhận xét hóm hỉnh của anh làm tôi buồn cười quá; đôi khi tôi cười cứ rung bắn lên như qua bóng cao su suốt nửa giờ liền… Tôi hay cười lắm. Tạng tôi thế nầy, tôi còn sợ bị bại liệt nữa kia. Nhưng anh ngồi xuống chứ, ai lại thế? Ngồi đi, anh bạn ạ, không tôi lại nghĩ là anh giận…
Raxkonikov im lặng lắng nghe và quan sát, mặt vẫn cau có giận dữ. Tuy vậy chàng cũng ngồi xuống, nhưng tay vẫn không bò mũ.
- Anh bạn Rodion Romanovich ạ, tôi xin nói với anh một điều về bản thân tôi, có thể nói là để anh hiểu rõ đặc tính của tôi, - Porfiri nói tiếp, vẫn đi lại lăng xăng trong phòng và vẫn tránh mắt Raxkonikov như ban nãy. - Anh ạ, tôi là người độc thân, không hay giao thiệp và ít người biết tên, hơn nữa lại là một người hết thời, một người bỏ đi, một người đã mụ mằn đã mốc meo lên rồi và… và… anh có nhận thấy điều nầy không, anh Rodion Romanovich là ở nước ta, nhất là trong các giới Petersbung của chúng ta, nếu hai người thông minh chưa quen lắm nhưng có thể nói là coi trọng nhau, như anh với tôi chẳng hạn, ngồi lại với nhau, thì thường hàng nửa giờ vẫn không tài nào tìm ra một đề tài nói chuyện, - cứ ngồi trơ ra nhìn nhau, ngượng nghịu. Ai ai cũng có đề tài nói chuyện, các bà chẳng hạn… Những giới xã giao thượng đẳng chẳng hạn, bao giờ cũng có chuyện mà nói, cest de rigueur(2), còn hạng người trung lưu như chúng ta thì lại hay ngượng và ít nói… Ấy là tôi nói những người biết nghĩ ấy. Thế thì tại sao, anh thứ nghĩ xem, tại sao lại như thế? Tại chúng ta không quan tâm gì đến các vấn đề xã hội, hay tại chúng ta vốn rất trung thực cho nên không muốn lừa dối nhau, tôi cũng không biết nữa. Hả? Anh nghĩ sao? Kìa, anh để mũ xuống chứ, cứ như anh định đi ngay ấy, quả tình cũng khó coi lắm… Trái lại, tôi rất mừng…
Raxkonikov đặt chiếc mũ lưỡi trai xuống và lặng thinh, vẻ nghiêm trang và cau có, lắng nghe câu chuyện rỗng tuếch và đầu Ngô mình Sở của Porfiri. "Phải hắn định nói chuyện nhảm như thế để làm mình xao nhãng sức chú ý thật chăng?".
- Tôi sẽ không mời anh xơi cà phê đâu, đây không phải chỗ; nhưng tại sao lại không ngồi giải trí lấy dăm phút với bạn bè, - Porfiri nói không ngớt miệng, - Anh ạ, những thứ công vụ nầy nọ, nhưng tôi cứ đi đi lại lại thế nầy anh đừng phật ý nhé; anh bỏ qua cho, anh bạn ạ, tôi rất sợ làm anh phật ý, nhưng tôi không thể thiếu vận động được. Tôi phải ngồi suốt ngày nên cũng muốn đi lại lấy dăm phút… bệnh trĩ mà… tôi vẫn chữa bằng thể dục; nghe nói có những ông tư vấn, những ông tư vấn quốc gia hắn hỏi, và ngay cả những ông tư vấn cơ mật nữa cũng vui lòng nhảy dây; thời buổi khoa học là thế đấy… thế đấy… Còn về những công vụ ở đây, những việc hỏi cung và những thủ tục nầy nọ… ấy, anh vừa có nhã ý nhắc đến chuyện hỏi cung… quả nhiên, anh Rodion Romanovich ạ, xin anh biết cho rằng những cuộc hỏi cung ấy đôi khi còn làm cho người hỏi rối trí hơn cả người bị hỏi nữa kia… Về điều nầy, vừa rồi anh bạn vừa có một nhận xét hoàn toàn đúng đắn, mà lại dí dỏm nữa (thật ra Raxkonikov không hề nhận xét gì như thế cả). Cứ rối tung lên? Phải, rối tung lên! Và trở đi trở lại vẫn chỉ có thế, như cái trống ếch ấy! Sắp cải cách đến nơi, ít nhất cũng mong họ đổi cách gọi cho, hê hê hê! Còn như về cái biện pháp tư pháp của chúng tôi - như anh đã gọi một cách dí dỏm - thì tôi hoàn toàn đồng ý với anh. Thì anh bảo người bị cáo nào, ngay cả tên mu-gích dần độn nhảt cũng thế, người bị cáo nào mà không biết rằng thoạt tiên người ta bắt đầu hỏi những câu vu vơ để ru ngủ mình (theo cách nói rất tài tình của anh) rồi bỗng nhiên bổ thắng vào sọ, bổ thẳng sống rìu, hê hê hê, vào chính giữa sọ, theo cách ẩn dụ rất tài tình của anh hê - hê! Thế ra anh nghĩ rằng tôi nói đến chuyện chỗ ở là muốn… hê - hê? Anh có khiếu châm biếm đấy. Ấy, tôi không làm như thế đâu? À phải, nhân nói đến chuyện nầy lại nhớ đến chuyện kia, vừa rồi anh cũng có nhã ý nhắc đến thủ tục, ấy, thủ tục hỏi cung ấy mà… Nhưng thủ tục là cái gì? Anh ạ, trong nhiều trường hợp thủ tục chỉ là chuyện nhảm. Đôi khi nói chuyện thân mặt như chỗ bạn bè lại có lợi hơn. Thủ tục không mất đi đâu, xin anh cứ yên tâm; nhưng xin hỏi thủ tục thực ra là cái gì? Trong bất cứ trường hợp nào thủ tục cũng không có quyền làm vướng chân người hỏi cung. Công việc của người dự thẩm có thể nói là một thứ nghệ thuật tự do hay một cái gì như thế… hê - hê - hê!
Porfiri Petrovich dừng lại một phút đề thở. Ông ta cứ thế tuôn ra từng tràng những câu rỗng tuếch, vô nghĩa lý, nhưng thỉnh thoảng lại đột ngột chen vào những chữ đầy ần ý rỏi lại lập tức quay ra nói chuyện phiếm. Bây giờ ông ta gần như chạy khắp phòng, hai cẳng chân béo phị bước mỗi lúc một nhanh, mắt nhìn xuống đất, tay phải để sau lưng, tay trái khua lia lịa, làm đủ các thứ cử chỉ không ăn khớp tí nào với lời nói của ông ta. Raxkonikov chợt nhận thay rằng trong khi chạy qua chạy lại trong phòng, có đôi lần hình như ông ta dừng chân bên cánh cửa một khoảnh khắc, có vẻ như nghe ngóng… "Hắn chờ đợi cái gì hay sao thế?".
- Ấy quả nhiên anh nói đúng hoàn toàn đấy, - Porfiri nói tiếp, mắt nhìn Raxkonikov một cách vui vẻ và hồn nhiên lạ thường đến nỗi chàng phải giật mình đề phòng, - Đúng thật đấy, anh có nhã ý chê điều các thủ tục tư pháp một cách thật dí dỏm mà lại rất đúng đắn, hê - hê! Những biện pháp tâm lý học thâm thuỷ của chúng tôi (dĩ nhiên cũng chỉ một số nào thôi) qua nhiên cũng hết sức buồn cười, mà có lẽ lại còn vô ích nữa, nếu nói bị hình thức cản trở. Phải, tôi lại xin nói đến thủ tục: ấy, nếu tôi được giao cho điều tra một vụ nào đấy, và biết rằng, hay nói cho đúng hơn, nghi ngờ rằng người nầy người nọ là thủ phạm… Hình như anh học luật thì phải?
- Vâng, trước kia tôi học luật.
- Ấy thế thì đây là một thí dụ có thể có ích cho anh về sau, nghĩa là anh đừng nghĩ rằng tôi dám lên mặt dạy anh: đã viết được một bài báo về tội ác như thế còn khiến ai dạy! Không đâu; chẳng qua tôi chỉ đánh bạo trình bày một sự kiện, một dẫn chứng nhỏ đấy, chẳng hạn tôi cho rằng người nầy, người kia, người nọ là thủ phạm, thì xin hỏi việc gì tôi lại làm phiền đến họ quá sớm, mặc dầu cứ cho là tôi có bằng chứng dế buộc tội họ đi nữa? Chẳng hạn có người thì phải bắt ngay, nhưng có người thì tính chất lại khác, đúng thế đấy, thế thì việc gì không để cho hắn trong chơi trong thành phố ít lâu? Hê - hê! Ấy, tôi thấy hình như anh chưa thật hiểu, vậy tôi xin nói rõ hơn: chẳng hạn tôi bắt đầu sớm quá, thì như vậy có lẽ tôi đã cho hắn một chỗ dựa tinh thần, có thể nói như thế, hê - hê! Anh cười à? (Raxkonikov không hề có ý muốn cười: chàng mím môi ngồi im, đôi mắt nảy lửa không rời mắt Porfiri Petrovich). Nhưng thật ra nó như thế đấy, nhất là đối với một số người nào đó, vì người ta mỗi người một tính, và chúng tôi chỉ biết dựa vào kinh nghiệm thực tế mà thôi! Vừa rồi anh có nhã ý nhắc đến bằng chứng; thì ta cứ cho là phải có bằng chứng đi, nhưng anh ạ, bằng chứng phần nhiều đều to hai mặt; tôi là một người dự thẩm, nghĩa là một con người yếu đuối, xin nhận như vậy: trong bụng cũng muốn tiến hành điều tra một cách rõ ràng như toán học, cùng muốn kiểm được một bằng chứng hiển nhiên như hai lần hai là bốn! Một bằng chứng trực tiếp, không chối cãi vào đâu được! Nhưng nếu bắt người không đúng lúc, tuy biết đích xác đó chính là thủ phạm, thì như vậy là tự tước bỏ mất phương tiện tiếp tục buộc tội, tại sao? Tại vì làm như vậy tức là đã cho hắn một tình thế xác định, có thể nói như thế, làm cho hắn yên chí và vững tâm, thế là hắn sẽ rụt sâu vào vỏ: hắn sẽ hiểu rằng hắn là một tù nhân. Nghe nói ở Sevaxtopol ngay sau trận Alma, những người có trí tuệ rất lo quân địch đánh vào không biết lúc nào và chiếm ngay Sevaxtopol; nhưng khi thấy quân địch muốn tiến hành một cuộc vây hãm chính quy và bắt đầu xây công sự, thì họ yên tâm và vui mừng không biết bao nhiêu mà kể: như thế nghĩa là ít nhất hai tháng nữa cuộc vây hãm chính quy kia mới kết thúc bằng trận đánh chiếm thành phố? Anh lại cười rồi, lại không tin à? Dĩ nhiên anh cũng đúng. Đúng, đúng! Đó vẫn là những trường hợp cá biệt, tôi cũng nghĩ thế; trường hợp vừa nêu lên là một trường hợp cá biệt đấy! Nhưng anh Rodion Romanvôvich thân mến ạ, trong khi đó cần phải nhận rõ điều nầy: cái trường hợp chung chung mà các, thủ tục và quy tắc tư pháp ghi trong sách vở nhằm giải quyết và vẫn được ứng dụng để giải quyết, lại là một trường hợp không hề có, chính là vì bất cứ vụ án nào cũng là một vụ án mạng chẳng hạn, hễ đã xảy ra trong thực tế thì lập tức chuyển thành một trường hợp hoàn toàn cá biệt và đôi khi không có chút gì giống các vụ trước. Đôi khi có những trường hợp hết sức khôi hài. Ấy, tôi cứ để cho một vị nào đó hoàn toàn tự do: không bắt bớ, không quấy rầy gì cả, nhưng làm thế nào để cho ông ta từng giờ từng phút biết rằng - hay ít nhất cùng nghi ngờ rằng tôi biết hết từ đầu chí cuối, rằng tôi suốt đêm ngày theo dõi ông ta, rình mò ông ta không lơi một phút, tôi cứ để cho ông ta nghi ngờ và lo sợ thường xuyên như thế, xin cam đoan là thế nào ông ta cũng cuống lên, tự dẫn xác đến và có lẽ lại còn hớ hênh để lộ ra một cái gì giống như hai lần hai là bốn, một cái gì có vẻ toán học, ấy thế mới thú chứ. Điều đó có thể xảy ra với một anh mu-gích quê kệch mà cũng có thể xảy ra với một anh em của chúng ta, một con người hiện đại, mà lại có nhiều sở trường về một mặt nào đó nữa, đã từng có trường hợp như thế đấy! Bởi vì, anh bạn thân mến ạ, một điều rất quan trọng là phải hiểu người kia sở trường mặt nào. Lại còn thần kinh nữa, thần kinh nữa chứ, anh quên mất cái nầy! Chả là bây giờ những con người như thế đều đau ốm, dễ khích động! Lại thêm cái chứng sưng mặt nữa, sưng mặt nặng ấy. Và cũng xin nói rằng nhiều khi đó là thứ nguồn quặng đấy. Việc gì tôi lại phải lo vì hắn đi lại tự do trong thành phố? Cứ để cho hắn dạo chơi, tạm thời cứ để cho hắn dạo chơi đã; vì dù sao tôi cũng biết là con mồi của tôi không bao giờ bỏ tôi mà lẩn đi đâu cả kia mà! Vả lại lẩn đi đâu mới được chứ? Hê - hê! Ra nước ngoài à? Một người Hà Lan thì trốn ra nước ngoài, chứ hắn thì không đâu. huống chi tôi vẫn theo dòi và hơn nữa đã có cách đề phòng. Trốn vào những nơi thâm sơn cùng cốc của tổ quốc chăng? Nhưng ở đấy toàn những gã mu-gich Nga chân chính, những gã mu-gích thâm căn cố đế: một người có học như ngày nay thì thà vào ngục còn thích hơn là sống với bọn mu-gích của chúng ta, hề - hề! Vì đối với họ, bọn mu-gích cùng chẳng khác gì người ngoại quốc!
Nhưng những cái đó toàn là chuyện vặt, chuyện bề ngoài. Trốn là thế nào! chỉ là chuyện hình thức, cái chính không phải ở chỗ đó; hắn không trốn không phải chỉ vì không biết trốn đi đâu: hắn không trốn thoát tôi vì những nguyên do tâm lý học kia. Nghe cùng hay đấy chứ nhỉ! Vì một định luật của tự nhiên, hắn không trốn dù có chỗ để mà trốn cũng vậy. Anh đã trông thấy một con bướm trước ngọn nến chưa? Ấy, hắn cứ thế mà luấn quẩn mãi xung quanh tôi như con bướm quay cuồng xung quanh ngọn nến; tự do đối với hắn không còn có gì thú vị nữa, hắn sẽ nghĩ ngợi, rối trí, quằn quại, làm cho mình mắc míu thêm như vưóng vào lưới, tự dày vò mình đến chết đi được! Chưa đủ: chính hắn sẽ chuẩn bị cho tôi một tấn trò toán học gì như kiểu hai lần hai là bốn, miễn là tôi cho hắn một thời gian giải lao cho lâu lâu. Và hắn sẽ quay tròn, quay tròn mãi xung quanh tôi mỗi lúc một gần lại và… hớp! Hắn sẽ chui tọt vác mồm tôi, tôi sẽ nuốt chửng, thú vị thật, hê - hê - hê! Anh không tin à?
Raxkonikov không đáp, chàng ngồi yên, không cử động, mặt tái mét, mắt vẫn chăm chăm nhìn vào mặt Porfiri.
"Bài học hay đấy - chàng nghĩ, người lạnh toát ra. - Bây giờ không còn là cái kiểu mèo vờn chuột như hôm qua nữa. Hắn không dại gì phô trương sức mạnh của hắn ra và… mách nước cho mình một cách vô ích: hắn thông minh hơn thế nhiều… Đây có một mục đích khác. Mục đích gì? A, đừng hòng, ông bạn ạ. Ông doạ dẫm tôi. Ông mưu mẹo với tôi à? Ông không có bằng chứng, và con người hôm qua không hề có. Chẳng qua ông muốn làm tôi rối trí, muốn trêu cho tôi tức lên trước, rồi khi tôi đã khùng lên thì chộp chứ gì? Đừng hòng, hớ rồi! Nhưng sao hắn lại mách nước cho mình đến mức ấy để làm gì? Hắn trông mong vào bộ dây thần kinh ốm yêu của mình chắc. Không đâu, ông bạn ạ đừng hòng, hớ rồi đấy, mặc dầu ông đã có sửa soạn một cái gì đây… Nào, thử xem ông sửa soạn cái gì?"
Và chàng lấy hết sức bình sinh ra chuẩn bị đón lấy cái tai hoạ khủng khiếp và chưa hề hay biết kia.
Nhiều lúc chàng muốn chồm lên bóp cổ Porfiri chết tươi ngay tại chỗ. Từ khi bước vào đây, chàng đã sợ cơn giận đó. Chà ng cảm thấy môi khô lại, tim đậ p thình thình, nước bọt sùi ra mép. Nhưng chàng vẫn quyết im lặng không nói một câu nào khi chưa đến lúc. Chàng hiểu rằng đó là chiến thuật tất nhất ở tình thế chàng, vì làm như vậy không những chàng sẽ không lỡ lời mà trái lại còn làm cho kẻ thù tức tối khi thấy mình lặng thinh, và có lẽ chính hắn còn lỡ lời ra với mình nữa. Ít nhất chàng cũng hy vọng như vậy.
- Không, anh không tin, tôi biết, anh vẫn nghĩ rằng tôi đùa nhảm, - Porfiri nói tiếp, mỗi lúc một vui lên, thích chí cười hềnh hệch luôn mồm và lại bắt đầu chạy loanh quanh trong phòng. - Dĩ nhiên anh nghĩ phải; trời sinh tôi ra người ngợm như thế nầy, thành thứ chỉ gợi lên cho người ta những ý nghĩ hài hước mà thôi; tôi là một thằng hề; nhưng tôi đã nói và xin nhắc lại với anh một lần nữa rằng anh nên bỏ qua cho tôi, một người già cả. Anh Rôđỉôn Romanvôvich ạ. anh hãy còn trẻ, có thể nó; là đang tuổi hoa niên cho nên cũng như toàn thể lớp thanh niên, anh trọng trí tuệ con người hơn cả. Sự sắc sảo nhạy bén của trí tuệ và những sự suy diễn trừu tượng của lý trí quyến rũ anh rất mạnh.
Và như vậy là giống hệt như cái Hofkriegsrat của Áo ngày trước chẳng hạn, trong chừng mực tôi có thể xét đoán qua các biến cố quân sự, trên giấy thì họ đánh tan quân Pháp và bắt Napleon làm tù binh, và trong khi họ ngồi trong phòng giấy mà tính toán với suy diễn một cách vô cùng sắc bén, thì tưởng Mark đã đầu hàng cùng với cả quân đoàn ông ta, hê - hê - hê! Tôi biết, tôi biết anh Rodion Romanovich ạ, anh đang cười tôi, vì tôi là công chức mà cứ thích lấy dẫn chứng trong lịch sử quân sự. Biết làm thế nào được, tôi có cái tật là thích việc quân sự và thích đọc các bản thông báo quân sự chắc hẳn tôi đã chọn sai nghề. Lẽ ra tôi phải đeo đuổi nghiệp quân sự mới phải. Có lẽ cũng chẳng thành một Napoleon đâu, nhưng cũng phải lên đến chức thiếu tá hê - hê - hê? Ấy đấy còn bây giờ, anh bạn thân mến ạ tôi sẽ nói cho anh biết chi tiết việc kia, nghĩa là cái trường hợp cá biệt ấy: thực tế và nhân tính là điều quan trọng, anh ạ, và đôi khi nó làm điên đảo sự tinh toán sáng suốt nhất? Ấy, anh nên tin lời một người già cả tôi nói thật đấy, Rodion Romannovich (trong khi nói nhưvậy, Porfiri Petrovich tuy chỉ vẻn vẹn ba mươi lăm tuổi, nhưng quả nhiên cùng trông như già hẳn đi: ngay cả giọng nói của ông ta cùng thay đổi, người khọm rọm lại), - hơn nữa tôi là người ngay thật… Tôi có phải là người ngay thật không nào? Theo anh thì sao? Hình như ngay thật hẳn hoi chứ còn gì nữa: những chuyện như thế mà tôi cứ nói toang ra cho anh biết, lại không đòi đên bù gì cả. hê - hê ấy thế đấy, tôi xin nói tiếp: trí tuệ sắc sảo là một điều rất quý; đó có thể nói là một sự tô điểm của thiên nhiên và là một nguồn an ủi của cuộc sống, và nó có thể bày ra đủ các trò quỷ thuật đến nỗi một anh dự thẩm tội nghiệp nhiều khi không biết đằng nào mà lần nữa; vả lại hắn ta còn bị trí tưởng tượng của hắn mê hoặc nữa, vì hắn ta cũng là người thôi! Nhưng nhân tính lại cứu trợ cho anh dự thẩm tội nghiệp kia, thế mới chết chứ! Và chính đó là điều mà lớp thanh niên say mê trí tuệ không nghĩ đến, trong khi "bước qua mọi trở lực" (như anh đã nói một cách hết sức sắc sảo và tinh tế). Cứ thử cho rằng hắn lừa dối, - hắn đây tức là con người ấy, cái trường hợp cá biệt, incognito(3) ấy, - mà lừa dối một cách tài tình, khôn ngoan hết sức: có vẻ như sắp đắc thắng đến nơi rồi, hắn bắt đầu khoái trá thưởng thức những kết quả của cái trí tuệ sắc sảo của hắn, thế nhưng đùng một cái đúng vào chỗ thú vị nhất, đúng vào chỗ giật gân nhất, hắn lăn ra bất tỉnh. Thì cứ cho là hắn đang ốm, không khí trong phòng có khi cũng ngột ngạt thật, nhưng dù sao cũng lạ? Dù sao cũng gợi lên một ý! Hắn lừa dối một cách ưu việt, nhưng lại không biết trù liệu đến nhân tính. Hiểm nhất là chỗ ấy đấy. Một lần khác, mải say sưa với cái trí tuệ sắc bén của mình, hắn bắt đầu lòe người đang nghi ngờ hắn, hắn làm như cố ý tái mặt đi để đùa chơi, nhưng hắn tái mặt một cách quá tự nhiên, quá giống nhự thật, thế là lại gợi thêm một ý nữa? Tuy thoạt tiên người kia mắc lỡm thật, nhưng đêm về nghĩ lại, không biết mình có lầm lẫn hớ hênh gì chăng. Ấy cứ mỗi bước lại như thế mãi: Gì nhỉ; hắn bắt đầu đi quá bước, hắn đến những nơi không ai hỏi. hắn, hắn luôn mồm nói đến những chuyện lẽ ra phải im đi, hở ra những câu bóng gió nầy nọ, hề - hề… rồi lại tự dẫn xác đến hỏi: tại sao chưa bắt tôi đi… hề - hê - hê.
Điều đó có thể xảy ra với một con người hết sức sắc sảo một nhà tâm lý học và là một nhà văn. Nhân tính là một tấm gương, một tấm gương trong suốt nhất! Hãy nhìn vào gương mà thưởng ngoạn, thế đấy! Kìa sao anh tái mặt đi thế, Rodion Romanovich, anh ngạt thở à, hay tôi mở cửa sổ ra nhé?
- Ồ xin ông đừng bận tâm, - Raxkonikov nói to lên, rồi bỗng cười ha hả, - Xin ông đừng bận tâm!
Porfiri dừng lại trước mặt chàng, đợi một lát rồi bỗng cười theo. Raxkonikov rời đi-văng đứng dậy, trận cười như lên cơn của chàng đột nhiên ngừng bặt.
- Porfiri Petrovich? - chàng nói to, tách bạch từng tiếng, tuy chân chàng run rấy chỉ chực khuỵu xuống, - bây giờ tôi đã thấy rõ ông nghi tôi giết hai chị em mụ già. Về phần tôi, tôi xin tuyên bố với ông rằng chuyện nầy đã làm tôi phát ngấy lên từ lâu rồi. Nếu ông thấy mình có quyền truy tố tôi trước pháp luật thì cứ truy tố đi; nếu ông thấy cần bắt, thì bắt đi. Nhưng cười vào mặt tôi và hành hạ tôi thì không được đâu, tôi không cho phép ông làm như vậy…
Môi chàng bỗng run lên, mắt chàng lóe lên một ánh căm giận điên cuồng, và giọng nói của chàng, nãy giờ bị kìm hãm, vang lên lanh lảnh.
= Tôi không cho phép ông làm như vậy! - chàng bỗng quát lên, lấy hết sức lực giáng mạnh quả đấm xuống bàn, - Ông nghe ra chưa. Porfiri Petrovich? Tôi không cho phép?
- Ối trời ơi, lại làm sao rồi! - Porfiri Petrovich kêu lên, vẻ hoảng hốt đến cùng cực. - anh! Rodion Romanovich! Kìa cậu! cậu làm sao thế?
- Tôi không cho phép! - Raxkonikov lại quát lên một lần nữa.
- Khẽ chứ anh bạn ạ! Không người ta nghe thấy mất. họ sẽ đến đây! Biết nói với họ ra sao. Anh thử nghĩ xem! - Porfiri Petrovich thì thầm, vẻ hoảng hốt, mặt ghé sát vào mặt Raxkonikov.
- Tôi không cho phép, tôi không cho phép! - Raxkonikov lắp đi lắp lại như cái máy, nhưng bất giác cũng thì thầm rất khẽ.
Porfiri quay phắt đi và chạy ra mở cửa sổ.
- Phải mở ra cho thoáng! Anh uống tí nước, anh bạn ạ, anh vừa lên cơn đấy! - y toan chạy ra cửa sai bưng nước, nhưng vừa may trong góc phòng có một cái bình thuỷ tinh đựng nước lã.
- Anh ạ, uống đi - y vồn vã đem nước lại cho Raxkonikov, nói thì thầm, - may ra sẽ đỡ… - vẻ sợ hãi và ngay cả vẻ thương cảm của Porfiri nữa trông tự nhiên đến nỗi Raxkonikov im bặt và bắt đầu nhìn ông ta với một trí tò mò man dại. Tuy vậy, chàng cũng không uống nước.
Rodion Romanovich! Anh ạ, anh mà cứ thế thì rồi đến phát điên lên mất, tôi cam đoan như vậy, chà! Kìa anh uống đi! Ít nhất cùng uống lấy một ngụm!
Hắn ép chàng cầm cốc nước lên. Như cái máy, chàng nâng cốc đưa lên môi, nhưng chợt trấn tĩnh lại, chàng lại ghê tởm đặt cốc xuống bàn, phải, anh vừa lên cơn một chút đây! Cứ như nầy thì bệnh cũ của anh lại tái phát mất đấy anh bạn ạ, - Porfiri Petrovich nói, ân cần như một người bạn: song vẫn có vẻ hơi hoang mang. - Trời ơi! Anh chẳng biết nương nhẹ mình tí nào cả? Ngay như Dmitri Prokofich hôm qua có đến tôi. - đã đành tính tình tôi cay độc, khó chịu thật đấy, nhưng ai lại vì thế mà suy diễn quá đáng như vậy bao giờ! Trời ơi, hôm qua anh về rồi, Dmitri Prokofich dặn trong khi chúng tôi đang ăn bữa trưa, cậu ấy nói huyên thiên, tôi không chen được một câu nào, chỉ đớ người ra mà nghe; ấy, tôi nghĩ… chà, rõ thật! Có phải anh bảo cậu ấy đến không? Kìa anh ngồi xuống chứ, tôi van anh, anh ngồi xuống chứ!
- Không, tôi không bảo? Nnưng tôi biết Razumikhin có đến ông, và đến để làm gì, - Raxkonikov đáp xẵng.
- Anh biết à?
- Biết. Thế thì sao nào?
- Thì thế nầy, anh Rodion Romanovich ạ, số là tôi còn biết nhiều kỳ công của anh nữa kia; tôi biết hết! Tôi biết chuyện anh đi thuê nhà ra sao, giữa lúc đêm hôm, trời đã tối mịt, anh lại giật chuông, lại nói đến vũng máu, làm cho mấy người thợ và mấy người gác cổng không còn hiểu ra làm sao nữa. Tôi cùng hiểu tâm trạng của anh lắm, tâm trạng lúc bấy giờ ấy… dù sao cứ như thế rồi anh đến phát điên lên mất, thật đấy! Anh loạn óc mất! Lòng căm phẫn của anh sôi sục lên mãnh liệt, một lòng căm phẫn cao quý vì thấy mình bị xúc phạm, lúc đầu là số phận xúc phạm đến anh, kể đến là bọn cảnh sát, thế là anh đâm đầu đến nơi nầy nơi nọ để… có thể nói là để bắt mọi người nói rõ ra và chấm dứt ngay mọi sự, vì những mối nghi ngờ ngu xuẩn ấy đã làm anh phát ngấy lên rồi. Có phải thế không nào? Tôi đoán đúng tâm trạng anh đấy chứ? Nhưng cứ cái lối ấy, anh không những làm cho mình loạn óc lên mà ngay cả Razumikhin nhà ta nữa. Anh cũng làm hắn loạn óc nốt; vì cậu ấy tốt lắm, không thể hiểu được chuyện ấy đâu, chính anh cũng biết đấy. Anh thì có bệnh, cậu ấy thì có đức, và bệnh của anh rốt cục sẽ lây sang cậu ấy… Anh ạ, lúc nào anh bình tâm lại, tôi sẽ kể… kìa anh ngồi xuống chứ, tôi van anh. Anh nghĩ đi một chút, anh trông nhợt hẳn đi; kìa anh ngồi xuống đi.
Raxkonikov ngồi xuống, cơn run đã qua, khắp người chàng nóng hâm hấp. Chàng sững sờ lắng nghe giọng nói của Porfiri Petrovich đang hoảng hốt và ân cần săn sóc chàng. Nhưng chàng không mảy may tin lời ông ta nói, tuy cảm thấy có một xu hướng kỳ lạ muốn tin những lời đó. Những câu nói bất ngờ của Porfiri về chuyện đi thuê nhà làm cho chàng choáng hẳn người đi. "Thế ra hắn biết chuyện ấy rồi ư?" - chàng chợt nghĩ - mà lại đem ra kể với mình!".
- Vâng, trong kinh nghiệm thực tế của chúng tôi đã từng có một trường hợp gần đúng như thế, một trường hợp tâm lý học, bệnh lý học như thế, - Porfiri nói liến thoắng. - Có một người tự gán cho mình tội sát nhân, mà lại gán thế nầy nữa kia: hắn ta dựng ra cả một cảnh tượng hoang đường, đưa ra những bằng chứng, kể lại cặn kẽ từng chi tiết, làm mọi người không biết đằng nào mà lần nữa, để làm gì? Quả tình hắn cũng có can dự vào vụ án mạng nhưng một phần nào thôi, và hoàn toàn không có chủ tâm, đến khi hắn biết là mình vô tình nối giáo cho bọn sát nhân, hắn đâm ra buồn phiền, lo sợ đến nói loạn óc lên, tưởng tượng đủ thứ, rốt cục phát điên hắn hỏi và đinh ninh rằng mình chính là kẻ giết người! Nhưng về sau toà thượng thẩm khám phá ra vụ nầy, người khốn nạn kia được xử trắng án và gửi vào nhà tế bần. May mà có toà thượng thẩm. May thậ - ật, chậc - chậc - chậc! nhưng như thế rồi sẽ ra sao hở anh bạn? Cứ thế có thể lên cơn sốt nóng khi thần kinh đã quá khích động, rồi đang đêm đi giật chuông và hỏi những thuyện máu me! Qua kinh nghiệm tôi đã biết tường tận cái tâm lý đó. Đôi khi nó cứ xui người ta nhảy, từ trên cửa sổ hay trên gác chuông xuống, và cảm giác ấy có một cái gì quyến rũ lạ thường… Chuyện giật chuông cũng thế thôi… Do bệnh tật đấy Rodion Romanovich ạ, do bệnh tật mà ra cả! Anh coi thường bệnh tình của anh quá đấy. Lẽ ra anh phải hỏi ý kiến một ông thầy thuốc có kinh nghiệm, chứ đừng có bám lấy anh chàng béo ấy… Anh mê sảng đấy! Những việc anh làm đều do mê sảng mà ra cả đấy?
Trong phút chốc mọi vật như quay cuồng lên xung quanh Raxkonikov.
"Phải chăng, phải chăng bây giờ hắn vẫn nói dối? - Chàng thoáng nghĩ - Không thể được, không thể được!, - chàng gạt ý nghĩ ấy đi, cảm thấy trước rằng nó sẽ làm mình giận sôi lên, nổi khùng lên, và cơn giận có thể làm mình phát điên được.
- Không phải tôi mê sảng mà làm như vậy đâu, tôi tinh đấy! - chàng quát lên, trong khi cô vận dụng hết sức xét đoán để nhìn sâu vào thủ đoạn của Porfiri - Tôi vẫn tỉnh đấy, vẫn tỉnh đấy! Ông nghe ra chưa? Vâng, tôi nghe, tôi hiểu? Ngay hôm qua anh cũng nói là không mê sảng. Thậm chí còn nhấn mạnh đặc biệt là không mê sảng! Anh nói gì tôi cũng hiểu hết!
Chà!… Anh nghe tôi, anh Rodion Romanovich kính mến của tôi ạ, đây cứ lấy một việc nầy chẳng hạn. Ví thử anh quả là thủ phạm hay có can dự vào cái vụ án chết tiệt nầy thật, thì đời nào anh lại nhấn mạnh rằng mình làm những việc ấy trong lúc hoàn toàn tỉnh táo, chứ không phải trong cơn mê sảng? Mà lại cứ khăng khăng một mực nhấn mạnh đặc biệt vào chỗ đó nữa, - anh thử nghĩ xem, có thể nào như thế được không? Theo tôi thì hoàn toàn ngược lại mới phải. Ví thử anh có ẩn ý gì thì lẽ ra phải quả quyết rằng mình đang mê sảng mới đúng! Có phải thế không nào? Thế chứ gì?
Trong câu hỏi nầy nghe như có một cái gì tinh quái, Raxkonikov né người lùi sát lưng tựa vào chiếc đi-văng để tránh Porfiri Petrovich đang chồm vào chàng, và ngỡ ngàng nhìn trân trân vào mặt hắn.
- Hay như về việc Ruzumikhin chẳng hạn, hôm qua cậu ta đến là tự ý mình hay do anh dặn thế lẽ ra anh phải nói là cậu ta tự ý đến, và giấu chuyện mình có dặn dò đi! Thế nhưng chính anh có giấu đâu! Anh lại còn nhấn mạnh rằng chính mình dặn cậu ta đến!
Raxkonikov không hề nhấn mạnh như thế. Chàng thấy lạnh buốt ở sống lưng.
- Ông cứ dối trá mãi, - chàng nói chạm rãi: giọng u uất môi rúm lại thành một nụ cười đau đớn - Ông lại muốn cho tôi thấy rằng ông biết hết hành tung của tôi, biết trước tất cả những câu trả lời của tôi, - chàng cảm thấy mình không còn đủ sức cân nhắc lời lẽ cho kỹ lưỡng được nữa, - Ông muốn doạ tôi… hay chẳng qua ông nhạo báng tôi…
Chàng vẫn nhìn trừng trừng vào Porfiri trong khi nói, rồi bỗng một cơn giận điên cuồng, vô hạn lại lóe lên trong mắt chàng.
- Chỉ dối trá! - chàng quát lên. - Chính ông cũng biết rất rõ rằng thủ đoạn lợi hại nhất của kẻ phạm tội là cố sức không giấu giếm những điều không giấu giếm được Tôi không tin ông đâu!
- Cái anh nầy ngộ nghĩnh thật! - Porfiri cười hì hì, - không biết đằng nào mà lần nữa; anh có một định kiến gì ăn sâu vào óc ấy. Thế anh không tin tôi à? Tôi thì tôi xin nói với anh rằng anh tin tôi đấy, anh đã tin được một phần tư, nhưng tôi sẽ làm cho anh tin tôi cả bốn phần, vì tôi thành thật mến anh và thành tâm mong điều lành điều tốt cho anh.
Môi Raxkonikov run lên.
- Vâng, tôi mong thế, tôi sẽ nói dứt khoát cho anh biết, - hắn nói tiếp, khẽ cầm lấy cánh tay Raxkonikov ở phía trên khuỷu tay một chút, - tôi xin nói rằng: anh phải coi chừng cơn bệnh. Hơn nữa gia đình anh lại vừa mới đến đây; anh phải nhớ đến họ. Anh nên âu yếm vỗ về cho họ yên lòng mới phải, đằng nầy anh chỉ làm họ lo sợ…
- Việc gì đến ông? Sao ông lại biết? Việc gì ông phải quan tâm đến thế? Thế ra ông theo dòi tôi, và ông muốn cho tôi biết như thế?
- Kìa! Thì chính anh cho tôi biết cả, chứ còn ai! Anh không để ý rằng trong khi nóng nảy anh đã nói cho tôi và cho nhiều người khác biết trước mọi chuyện rồi sao? Dmitri Prokofich Razumikhin hôm qua cũng cho tôi biết nhiều chi tiết rất thú vị. A, vừa rồi anh ngắt lời tôi, chứ tôi muốn nói rằng mặc dầu anh thông minh sắc sảo như thế, nhưng cứ cái tính đa nghi ảy, anh không còn nhìn sự việc một cách tỉnh táo được nữa đâu. Đấy cứ trở lại chuyện cái chuông chẳng hạn, một của quý như thế, một sự kiện như thế (vì đó là cả một sự kiện) mà tôi lại cứ đem ra nói bô bô lên với anh, tôi, một viên dự thẩm! Thế mà anh không thấy gì à? Nếu tôi có ý nghi ngờ anh một mảy may, đời nào tôi lại làm như thế! Trái lại, lúc đầu tôi phải ru ngủ ý đề phòng của anh và giả vờ như không biết việc nầy, để đánh lạc hướng anh rồi đột nhiên, như bổ sống rìu xuống đỉnh sọ (theo lối nói của anh), hỏi đốp vào mặt: "Thưa ngài, thế ngài có nhã ý đến làm gì trong phòng người bị giết lúc mười một giờ tối? Tại sao ngài lại giật chuông? Tại sao ngài lại hỏi đến vũng máu? Tại sao ngài lại lừa mấy người gác cổng và rủ họ lên gặp quận trưởng?". Lẽ ra tôi phải làm như thế mới phải, nếu tôi có chút nào nghi ngờ anh. Lẽ ra phải lấy khẩu cung anh theo đúng thủ tục, ra lệnh khám nhà và có lẽ giam anh nữa…
Đằng nầy tôi lại không làm như thế, nghĩa là tôi không nghi ngờ gì anh! Nhưng anh chẳng thấy gì cả, vì anh mất khả năng nhìn sự việc một cách tinh táo rồi, xin nhắc lại như vậy.
Raxkonikov run bắn cả người lên, thành thử Porfiri Petrovich trông thấy quá rõ.
- Chỉ dối trá! - Chàng quát lên, - tôi không biết chủ ý của ông, nhưng biết là ông nói dối… Lúc nãy ông nói khác hẳn, tôi không nhầm được đâu. Ông nói dối!
- Tôi mà nói dối ư? - Porfiri đáp, hình như đã nổi nóng lên, nhưng vẫn giữ vẻ hết sức tươi cười ngạo nghễ và như thế không hề chấp đến ý kiến của Raxkonikov đối với mình. - Tôi nói dối ư… Thế vừa rồi tôi xử lý với anh như thế nào (tôi, một viên dự thẩm), chính tôi mách rõ cho anh tất cả các phương tiện bào chữa, tôi phân tích cho anh thấy hết cái tâm lý ấy: "Tôi ốm đau tôi mê sảng, lại bị xúc phạm trong một tâm trạng u uất như vậy, lại bọn cảnh binh nhũng nhiễu và vẫn vẫn… Hê - hê - hê! Tuy nhân thể cũng xin nói rằng tất cả những phương tiện bào chữa tâm lý học ấy, những lý do và những lối chống chế ấy hết sức bấp bênh, mà lại có hai mặt; ừ thì nói là "bệnh hoạn, mê sảng, chiêm bao, mơ màng, mất trí nhớ", được cả, nhưng xin hỏi anh, tại sao trong cơn bệnh, trong khi mê sảng anh chỉ mơ thấy những chuyện ấy thôi, chứ không mơ thấy cái gì khác. Có thể mơ thấy nhiều chuyện khác lắm chứ? Có phải không nào? Hê - hê - hê.
Raxkonikov kiêu hãnh và khinh bỉ nhìn hắn.
- Tóm lại, - Chàng nói to và dằn giọng, vừa nói vừa khẽ ẩy Porfiri ra, đứng dậy. - tóm lại, tôi muốn biết ông có công nhận tôi hoàn toàn ở ngoài vòng tình nghi hay không, ông nói đi, ông Porfiri Petrovich, ông hãy nói cho chắc chắn và dứt khoát, và nói nhanh lên, ngay bây giờ!
- Chà, thật là gay go? Chơi với anh gay go thật đấy, - Porfiri kêu lên, vẻ hết sức tươi cười, ranh mãnh, không mảy may bối rối. - Nhưng tại sao anh lại phải biết, anh muốn biết nhiều như thế để làm gì, trong khi người ta chưa hề quấy rầy đến anh. Anh thật như đứa trẻ con: đưa lửa đến đây, nào nào? Tại sao anh lại phải lo lắng đến thế? Tại sao anh lại hỏi chúng tôi những câu như thế? Vì lý do gì? Ha hê - hê - hê?
Một lần nữa. - Raxkonikov như điên như dại quát lên:
- Xin nhắc lại rằng tôi không thể nào chịu được nữa cái…
- Cái tình trạng mập mờ nầy chứ gì? - Porfiri tiếp luôn.
- Đừng có trêu gan tôi! Tôi không chịu đâu… Tôi bảo với ông ta là tôi không chịu! Tôi không thể và không muốn! Ông nghe chưa, nghe chưa? - Chàng lại nện quả đấm lên bàn lần nữa.
- Kìa khẽ chứ, khẽ chứ! Người ta nghe thấy đấy? Tôi xin nói thật cho anh biết, anh liệu hồn. Tôi không đùa đâu! - Porfiri nói thì thầm, nhưng lần nầy trên gương mặt ông ta không còn cái vẻ hốt hoảng và chất phác hơi đàn bà như lúc nãy nữa; trái lại, bây giờ ông ta ra lệnh hẳn hỏi, giọng nghiêm khắc, mày cau lại và dường như gạt phăng một lúc tất cả những thái độ mập mờ bí ẩn trước đây. Nhưng điều đó chỉ thoáng qua trong chóc lát. Đang bàng hoàng, Raxkonikov điên tiết hẳn lên; nhưng lạ thay, chàng lại một lần nữa tuân theo mệnh lệnh nói khẽ, tuy cơn giận điên cuồng của chàng đã lên đến cực điểm.
- Tôi không để cho ông giầy vò tôi đâu! - Chàng thì thào như lúc nãy, trong giây lát đau xót và căm hờn nhận rõ rằng mình không thể không phục tùng mệnh lệnh của hắn, và nghĩ như vậy lại càng điên tiết thêm, - Ông bắt tôi đi, khám xét đi, nhưng xin ông làm đúng thủ tục chứ không được đùa với tôi! Ông không được…
- Thôi anh đừng lo đến thủ tục làm gì - Porfiri ngắt lời với nụ cười ranh mãnh như trước và dường như khoái trá ngắm nghía Raxkonikov, - anh ạ, tôi mời anh đến đây như chỗ người nhà, hoàn toàn đứng trên tình bạn…
- Tôi không thèm cái tình bạn của ông, tôi nhổ toẹt vào! Ông nghe ra chưa? Bây giờ tôi lấy mũ đi về đây. Ấy bây giờ ông nói sao, nếu ông có ý định bắt.
Chàng cầm lấy mũ và đi ra cửa.
- Thế anh không muốn xem trò vui bất ngờ à? - Porfiri cười hềnh hệch, đoạn lại nắm lấy cánh tay chàng ở phía trên khuỷu một chút và giữ chàng lại ở ngưỡng cửa. Hắn mỗi lúc một thêm vui và thêm vẻ cợt nhả ra mặt, khiến Raxkonikov không sao tự chủ được nữa.
- Trò vui gì? Cái gì thế - Chàng dừng phắt lại hỏi và sợ hãi nhìn Porfiri.
- Ấy cái trò vui bất ngờ của tôi nó đang ngồi sau cánh cửa kia, hê - hê - hê! - Hắn giơ ngón tay chỉ cánh cửa đóng kín trên tấm ván ngăn gian phòng ở của hắn.
- Tôi lại còn khóa cửa lại cho nó khỏi trốn đi kia.
- Cái gì thế ở đâu? Cái gì? - Raxkonikov lại gần cánh cửa, toan mở ra, nhưng cửa đã khóa chặt.
- Khóa rồi anh ạ, chìa khoá đây!
Quả nhiên y rút trong túi ra một cái chìa khóa, đưa ra cho chàng xem.
- Mày vẫn nói láo! - Raxkonikov thét lên, không sao ghìm mình được nữa, - mày nói láo, quân xỏ lá!
Chàng lao vào Porfiri. Ông ta lùi ra phía cửa ngoài, nhưng không chút sợ sệt.
- Tao hiểu hết rồi! - Chàng chồm vào người y. - Mày nói láo, mày có trêu tức tao, để tao tiết lộ ra…
- Nhưng còn có cách nào tiết lộ nhiều hơn thế được nữa hả anh bạn, Rodion Romanovich. Anh mất tự chủ rồi còn gì. Đừng có quát tháo! Tôi gọi người vào đây.
- Mày nói láo, chẳng có trò gì đâu! Mày cứ gọi người vào đây! Mày biết tau đau ốm nên muốn khích cho tao điên tiết lên, để tao tiết lộ ra, mưu mô của mày là như thế đấy! Không được, mày cứ thử đưa bằng chứng ra đây xem! Tao hiểu hết rồi! Mày không có bằng chứng nào hết, mày chỉ đoán mò một cách bẩn thỉu, vô lý, như kiểu thằng Zamiotov! Mày biết tính tao, cho nên mày muốn khích cho tao nổi khùng lên, rồi đưa một lũ cố đạo, một lũ nhân chứng ra để làm cho tao hết vía đi chứ gì… Mày đang đợi chúng phỏng? Mày đợi cái gì? Ở đâu? Đưa vào đây xem nào!
- Nhân chứng gì hở anh bạn! Con người ta thật khéo tưởng tượng! Dù có theo thủ tục như anh nói nữa thì làm như thế cũng không được, anh bạn ạ, anh chẳng hiểu công việc tí nào… Nhưng thủ tục không mất đi đâu tự anh sẽ thấy… - Porfiri vừa lẩm bẩm vừa lắng nghe những tiếng động ngoài cửa.
Quả nhiên lúc bây giờ ngay trước cửa vào, ở phòng bên nghe như có tiếng ồn ào.
- À chúng đến đấy phỏng! - Raxkonikov quát lên. - mày cho đi gọi chúng đến chứ gì! Mày đợi chúng chứ gì! Mày trù tính… Nào, thì cho cả lũ vào đây: nhân chứng, đại biểu, mày muốn thứ gì cũng được, nào? Tao sẵn sàng! Sẵn sàng…
Nhưng đến đây xảy ra một biến cố kỳ dị, bất ngờ so với quá trình diễn biến bình thường của sự việc đến nỗi cả Raxkonikov lẫn Porfiri Petrovich đều không sao lường trước được một cách kết thúc như vậy.
Chú thích:
Ngay lúc ấy họ gọi chàng vào phòng giấy Porfiri Petrovich.
Porfiri Petrovich đang ngồi một mình trong phòng làm việc. Đó là một gian phòng không lớn mà cũng không nhỏ: trong phòng có một cái bàn viết đặt trước một chiếc đi-văng bọc vải sơn, một cái bàn đựng giấy tờ; một cái tủ đặt trong góc và mấy cái ghế dựa - toàn là những đồ đạc của công sở, bằng gỗ vàng đánh bóng.
Trong một góc, trên bức tường phía sau, hay nói cho đúng hơn là trên tấm gỗ ngăn ở phía sau, có một cánh cửa đóng kín: sau tấm gỗ ấy chắc phải còn những gian khác nữa. Khi Raxkonikov vào, Porfiri Petrovich lập tức khép cánh cửa chàng vừa bước qua, và trong phòng chỉ còn lại hai người. Porfiri Petrovich đón khách một cách hết sức vui vẻ và niềm nở, và chỉ mấy phút sau, Raxkonikov mới nhận thấy một vài dấu hiệu tỏ ra ông ta hơi lúng túng, cứ như thể có ai vừa làm cho ông ta ngạc nhiên một cách đột ngột hay bất chợt thấy ông ta đang làm một việc gì vụng trộm.
- A, anh bạn rất đáng kính! Anh đến sào huyệt chúng tôi rồi… - Porfiri chìa cả hai tay ra nói. - Nào, cậu ngồi đây! Hay có lẽ, anh không thích tôi gọi "anh bạn" hay… "cậu" tout court? (1). Xin anh đừng cho là tôi quá suồng sã… Đây ạ, mời anh ngồi lên chiếc đi-văng nầy.
Raxkonikov ngồi xuống, mắt vẫn chăm chú nhìn Porfiri.
Mấy chữ "đến sào huyệt chúng tôi rồi", cậu xin lỗi về cách xưng hô, hai chữ Pháp "tout court", v.v… đều là những dấu hiệu tiêu biểu. "Chà, hắn chìa cả hai tay ra cho mình, nhưng không đưa tay nào cho mình bắt cả, hắn rụt lại rất đúng lúc" - chàng thoáng nghĩ, lòng nghi ngại. Hai người theo dõi nhau, nhưng hễ hai luồng mắt gặp nhau một cái là nhanh như chớp, họ nhìn ngay sang phía khác.
- Tôi đem mảnh giấy nầy đến… về cái đồng hồ… ấy ạ Viết thế nầy được chưa ạ, hay phải viết lại?
- Cái gì? Giấy à? Được, được… anh đừng bận tâm, thế nầy được rồi, - Porfiri Petrovich nói liến thoắng như đang vội đi đâu, đoạn cầm giấy xem. - Phải đúng thế nầy đây. Không cần gì hơn nữa. - Ông ta vẫn nói liến thoắng, đoạn đặt tờ giấy xuống bàn. Rồi một phút sau, trong khi đã nói sang chuyện khác, ông ta lại cầm lên và đem cất vào bàn đựng giấy.
- Hôm qua hình như ông có nói rằng ông muốn hỏi tôi… chính thức… về quan hệ giữa tôi với người… bị giết? - Raxkonikov mở đầu, - "Sao mình lại nói hình như - ý nghĩ ấy vụt qua óc như một tia chớp. - Mà sao mình lại lo ngại vì đã nói hình như - một ý nghĩ khác lập tức kế theo, nhanh như luồng điện.
Và chàng chợt cảm thấy rằng trong chốc lát, chỉ cần tiếp xúc với Porfiri Petrovich một cái, chỉ cần hai câu nói, hai tia mắt, là tính đa nghi của chàng đã tăng lên đến mức quái dị… và như vậy hết sức nguy hiểm: thần kinh bị khích động, càng thêm hồi hộp. "Nguy to! Nguy to! Ta lại sẽ lỡ lời".
- Vâng - vâng - vâng. Xin anh đừng ngại! Ta còn đủ thì giờ, còn đủ thì giờ, - Porfiri Petrovich lắp bắp.
Ông đi đi lại lại bên bàn viết, nhưng hình như chẳng có mục đích gì cả, khi bước ra cửa sổ, khi lại gần bàn đựng giấy, khi lại đến bàn viết, khi thì cố tránh khóe nhìn ngờ vực của Raxkonikov, khi thì lại dừng phắt tại chỗ nhìn trừng trừng vào mắt chàng. Những lúc ấy trông cái bóng dáng thấp bé, mập mạp và tròn trình của ông ta thật là kỳ quái, cứ như một quả bóng lăn lông lốc khắp phòng, hễ gặp phải tường là bật trở lại.
- Ta còn nhiều thì giờ, còn nhiều thì giờ! Anh có hút thuốc không? Anh có thuốc đấy chứ! Đây, thuốc lá đây - ông vừa nói vừa đưa cho khách một điếu - Anh ạ, tôi tiếp anh ở đây, còn chỗ ở của tôi thì ở ngay bên kia vách… phòng của sở cắt cho tôi đây, còn bây giờ thì tôi tạm thời ở chỗ khác, vì đây đang còn phải sửa sang lại đôi chút. Cũng gần xong rồi… Được Nhà nước cắt cho chỗ ở cùng là một chuyện thú vị, anh nhỉ? Anh nghĩ sao?
- Phải, thú vị lắm, - Raxkonikov đáp, mắt nhìn Porfiri gần như ngạo nghễ.
- Thú vị lắm, thú vị lắm… - Porfiri Petrovich nhắc đi nhắc lại, như chợt nghĩ đến một điều gì khác hẳn, - Phải thú vị lắm! - cuối cùng ông nói to gần như reo lên, dừng phắt lại cách Raxkonikov hai bước và nhìn thẳng vào mặt chàng. Cái lối nhắc đi nhắc lại một cách ngốc ngếch rằng được Nhà nước cắt chỗ ở cho là một chuyện thú vị ấy thật quá tương phàn với cái nhìn nghiêm trang, thâm trầm và bí ẩn của ông ta lúc bấy giờ. Nhưng điều đó lại càng làm cho cơn giận của Raxkonikov sôi sục lên, chàng không sao nén nổi một lời khiêu khích ngạo nghễ và khá liều lĩnh:
- Ông nầy, - chàng bỗng hỏi, mắt nhìn Porfiri gần như xấc xược và tựa hồ cảm thấy khoái lạc với cái vẻ xấc xược ấy hình như có một quy tắc tư pháp, một biện pháp mà các vị dự thẩm đều dùng, là thoạt tiên nói những chuyện xa xôi, những chuyện vặt vãnh không đâu hay thậm chí nói đến một việc nghiêm trang nào ngoài rìa để làm cho người bị hỏi cung vững tâm hay nói cho đúng hơn, xao lãng đi, để ru ngủ sự đề phòng của người rồi đột nhiên giáng lên đỉnh đầu người ta một câu hỏi hết sức bất ngờ và nguy hiểm; có phải thế không? Hình như xưa nay trong cái tập điều lệ, quy chế nhất nhất đều có nhắc đến biện pháp nầy thì phải?
- À thế ra… Ông cho rằng tôi nói đến chuyện phòng phiếc là để thế đấy phỏng? - Nói đoạn Porfiri Petrovich nháy mắt một cái; một vẻ cười cợt ranh mãnh thoáng lướt qua mặt ông ta, những nếp nhăn trên trán lặn đi, hai con mắt ti hí nheo lại, các nét mặt giãn ra rồi ông ta bỗng phá lên cười một thôi dài, rung cả người lên, mắt nhìn thẳng vào mặt Raxkonikov.
Raxkonikov cũng gượng gạo cất tiếng cười, nhưng khi Porfiri thấy chàng cười theo, lại càng cười sặc sụa đến nỗi mặt đỏ tía lên, thì Raxkonikov kinh tởm. Cơ chừng không còn giữ gìn gì được nữa: chàng im bặt, cau mày và quắc mắt căm giận, nhìn không chớp vào mặt Porfiri suốt trận cười dường như cố ý kéo dài vô tận của y. Vả chăng, rõ ràng là cả hai bên đều thiếu thận trọng: hoá ra Porfiri Petrovich đã cười vào mặt khách, trong khi khách phát uất lên vì tiếng cười của ông ta, thế mà ông ta cũng không lấy gì làm ngượng cả. Raxkonikov rất chú ý đến điều nầy: chàng đã hiểu rằng vừa qua Porfiri Petrovich chẳng thấy ngượng chút nào, mà ngược lại, chính chàng có lẽ đã rơi vào tròng; chàng hiểu rằng ở đây hiển nhiên có một chứ ý gì mà chàng không biết, rằng có lẽ mọi việc đã bố trí xong xuôi và chỉ lát nữa sẽ lộ rõ ra, phơi trần ra…
Chàng lập tức đi thẳng vào đề, đứng dậy cầm lấy mũ:
- Porfiri Petrovich, - chàng nói, giọng quả quyết, nhưng cũng để lộ khá rõ sự bực tức. - Hôm qua ông có ngỏ ý muốn tôi đến đây để ông hỏi cung gì đấy. Chàng nhấn mạnh đặc biệt hai tiếng "hỏi cung". Tôi đã đến, và ông cần gì xin cứ hỏi, nếu không xin để tôi về. Tôi đang vội, tôi có tí việc. Tôi cán đến dự lễ an táng người công chức bị ngựa xéo mà ông, cũng có biết … - Chàng nói thêm rồi lập tức phát cáu lên vì đã nói thêm như vậy, rồi sau đó lại càng bực tức hơn nữa vì đã phát cáu lên như thế, - tôi chán ngấy những chuyện nầy rồi. Ông thấy không, ngay từ lâu rồi… và cùng một lần vì thế mà tôi phát ốm, nói tóm lại. - chàng gần như quát lên, vì cảm thấy câu nầy lại càng không đúng chỗ hơn nữa, nói tóm lại: một là ông hỏi tôi đi, hai là để cho tôi về ngay… và nếu có hỏi thì xin hỏi cho đúng thủ tục! Bằng không, tôi sẽ không cho phép; vì vậy, trong khi chờ đợi, xin chào ông, và hiện nay ông với tôi không còn chuyện gì để mà nói nữa…
- Trời ơi Anh làm sao thế? Hỏi anh cái gì mới được chứ" - Porfiri Petrovich kêu lên, lập tức đổi giọng, đổi vẻ mặt và thôi cười ngay trong nháy mắt, - Xin anh đừng lo, anh ạ, - Ông ta nói, giọng vồn vã, rồi lại hùng hục đi bách bộ khắp phòng, xong lại đến mời Raxkonikov ngồi xuống, - còn chán thì giờ anh ạ, còn chán thì giờ, với lại những cái đó toàn là chuyện không đâu cả! Trái lại tôi rất mừng là anh đã đến chỗ chúng tôi. Tôi tiếp anh như tiếp một người khách. Còn về trận cười chết tiệt của tôi thì xin anh bỏ qua cho, Rodion Romanovich ạ. Có đúng tên anh là Rodia Romanovich không nhỉ? Tên ông cụ thân sinh anh là Roman phải không? Thần kinh tôi dễ kích thích lắm, lời nhận xét hóm hỉnh của anh làm tôi buồn cười quá; đôi khi tôi cười cứ rung bắn lên như qua bóng cao su suốt nửa giờ liền… Tôi hay cười lắm. Tạng tôi thế nầy, tôi còn sợ bị bại liệt nữa kia. Nhưng anh ngồi xuống chứ, ai lại thế? Ngồi đi, anh bạn ạ, không tôi lại nghĩ là anh giận…
Raxkonikov im lặng lắng nghe và quan sát, mặt vẫn cau có giận dữ. Tuy vậy chàng cũng ngồi xuống, nhưng tay vẫn không bò mũ.
- Anh bạn Rodion Romanovich ạ, tôi xin nói với anh một điều về bản thân tôi, có thể nói là để anh hiểu rõ đặc tính của tôi, - Porfiri nói tiếp, vẫn đi lại lăng xăng trong phòng và vẫn tránh mắt Raxkonikov như ban nãy. - Anh ạ, tôi là người độc thân, không hay giao thiệp và ít người biết tên, hơn nữa lại là một người hết thời, một người bỏ đi, một người đã mụ mằn đã mốc meo lên rồi và… và… anh có nhận thấy điều nầy không, anh Rodion Romanovich là ở nước ta, nhất là trong các giới Petersbung của chúng ta, nếu hai người thông minh chưa quen lắm nhưng có thể nói là coi trọng nhau, như anh với tôi chẳng hạn, ngồi lại với nhau, thì thường hàng nửa giờ vẫn không tài nào tìm ra một đề tài nói chuyện, - cứ ngồi trơ ra nhìn nhau, ngượng nghịu. Ai ai cũng có đề tài nói chuyện, các bà chẳng hạn… Những giới xã giao thượng đẳng chẳng hạn, bao giờ cũng có chuyện mà nói, cest de rigueur(2), còn hạng người trung lưu như chúng ta thì lại hay ngượng và ít nói… Ấy là tôi nói những người biết nghĩ ấy. Thế thì tại sao, anh thứ nghĩ xem, tại sao lại như thế? Tại chúng ta không quan tâm gì đến các vấn đề xã hội, hay tại chúng ta vốn rất trung thực cho nên không muốn lừa dối nhau, tôi cũng không biết nữa. Hả? Anh nghĩ sao? Kìa, anh để mũ xuống chứ, cứ như anh định đi ngay ấy, quả tình cũng khó coi lắm… Trái lại, tôi rất mừng…
Raxkonikov đặt chiếc mũ lưỡi trai xuống và lặng thinh, vẻ nghiêm trang và cau có, lắng nghe câu chuyện rỗng tuếch và đầu Ngô mình Sở của Porfiri. "Phải hắn định nói chuyện nhảm như thế để làm mình xao nhãng sức chú ý thật chăng?".
- Tôi sẽ không mời anh xơi cà phê đâu, đây không phải chỗ; nhưng tại sao lại không ngồi giải trí lấy dăm phút với bạn bè, - Porfiri nói không ngớt miệng, - Anh ạ, những thứ công vụ nầy nọ, nhưng tôi cứ đi đi lại lại thế nầy anh đừng phật ý nhé; anh bỏ qua cho, anh bạn ạ, tôi rất sợ làm anh phật ý, nhưng tôi không thể thiếu vận động được. Tôi phải ngồi suốt ngày nên cũng muốn đi lại lấy dăm phút… bệnh trĩ mà… tôi vẫn chữa bằng thể dục; nghe nói có những ông tư vấn, những ông tư vấn quốc gia hắn hỏi, và ngay cả những ông tư vấn cơ mật nữa cũng vui lòng nhảy dây; thời buổi khoa học là thế đấy… thế đấy… Còn về những công vụ ở đây, những việc hỏi cung và những thủ tục nầy nọ… ấy, anh vừa có nhã ý nhắc đến chuyện hỏi cung… quả nhiên, anh Rodion Romanovich ạ, xin anh biết cho rằng những cuộc hỏi cung ấy đôi khi còn làm cho người hỏi rối trí hơn cả người bị hỏi nữa kia… Về điều nầy, vừa rồi anh bạn vừa có một nhận xét hoàn toàn đúng đắn, mà lại dí dỏm nữa (thật ra Raxkonikov không hề nhận xét gì như thế cả). Cứ rối tung lên? Phải, rối tung lên! Và trở đi trở lại vẫn chỉ có thế, như cái trống ếch ấy! Sắp cải cách đến nơi, ít nhất cũng mong họ đổi cách gọi cho, hê hê hê! Còn như về cái biện pháp tư pháp của chúng tôi - như anh đã gọi một cách dí dỏm - thì tôi hoàn toàn đồng ý với anh. Thì anh bảo người bị cáo nào, ngay cả tên mu-gích dần độn nhảt cũng thế, người bị cáo nào mà không biết rằng thoạt tiên người ta bắt đầu hỏi những câu vu vơ để ru ngủ mình (theo cách nói rất tài tình của anh) rồi bỗng nhiên bổ thắng vào sọ, bổ thẳng sống rìu, hê hê hê, vào chính giữa sọ, theo cách ẩn dụ rất tài tình của anh hê - hê! Thế ra anh nghĩ rằng tôi nói đến chuyện chỗ ở là muốn… hê - hê? Anh có khiếu châm biếm đấy. Ấy, tôi không làm như thế đâu? À phải, nhân nói đến chuyện nầy lại nhớ đến chuyện kia, vừa rồi anh cũng có nhã ý nhắc đến thủ tục, ấy, thủ tục hỏi cung ấy mà… Nhưng thủ tục là cái gì? Anh ạ, trong nhiều trường hợp thủ tục chỉ là chuyện nhảm. Đôi khi nói chuyện thân mặt như chỗ bạn bè lại có lợi hơn. Thủ tục không mất đi đâu, xin anh cứ yên tâm; nhưng xin hỏi thủ tục thực ra là cái gì? Trong bất cứ trường hợp nào thủ tục cũng không có quyền làm vướng chân người hỏi cung. Công việc của người dự thẩm có thể nói là một thứ nghệ thuật tự do hay một cái gì như thế… hê - hê - hê!
Porfiri Petrovich dừng lại một phút đề thở. Ông ta cứ thế tuôn ra từng tràng những câu rỗng tuếch, vô nghĩa lý, nhưng thỉnh thoảng lại đột ngột chen vào những chữ đầy ần ý rỏi lại lập tức quay ra nói chuyện phiếm. Bây giờ ông ta gần như chạy khắp phòng, hai cẳng chân béo phị bước mỗi lúc một nhanh, mắt nhìn xuống đất, tay phải để sau lưng, tay trái khua lia lịa, làm đủ các thứ cử chỉ không ăn khớp tí nào với lời nói của ông ta. Raxkonikov chợt nhận thay rằng trong khi chạy qua chạy lại trong phòng, có đôi lần hình như ông ta dừng chân bên cánh cửa một khoảnh khắc, có vẻ như nghe ngóng… "Hắn chờ đợi cái gì hay sao thế?".
- Ấy quả nhiên anh nói đúng hoàn toàn đấy, - Porfiri nói tiếp, mắt nhìn Raxkonikov một cách vui vẻ và hồn nhiên lạ thường đến nỗi chàng phải giật mình đề phòng, - Đúng thật đấy, anh có nhã ý chê điều các thủ tục tư pháp một cách thật dí dỏm mà lại rất đúng đắn, hê - hê! Những biện pháp tâm lý học thâm thuỷ của chúng tôi (dĩ nhiên cũng chỉ một số nào thôi) qua nhiên cũng hết sức buồn cười, mà có lẽ lại còn vô ích nữa, nếu nói bị hình thức cản trở. Phải, tôi lại xin nói đến thủ tục: ấy, nếu tôi được giao cho điều tra một vụ nào đấy, và biết rằng, hay nói cho đúng hơn, nghi ngờ rằng người nầy người nọ là thủ phạm… Hình như anh học luật thì phải?
- Vâng, trước kia tôi học luật.
- Ấy thế thì đây là một thí dụ có thể có ích cho anh về sau, nghĩa là anh đừng nghĩ rằng tôi dám lên mặt dạy anh: đã viết được một bài báo về tội ác như thế còn khiến ai dạy! Không đâu; chẳng qua tôi chỉ đánh bạo trình bày một sự kiện, một dẫn chứng nhỏ đấy, chẳng hạn tôi cho rằng người nầy, người kia, người nọ là thủ phạm, thì xin hỏi việc gì tôi lại làm phiền đến họ quá sớm, mặc dầu cứ cho là tôi có bằng chứng dế buộc tội họ đi nữa? Chẳng hạn có người thì phải bắt ngay, nhưng có người thì tính chất lại khác, đúng thế đấy, thế thì việc gì không để cho hắn trong chơi trong thành phố ít lâu? Hê - hê! Ấy, tôi thấy hình như anh chưa thật hiểu, vậy tôi xin nói rõ hơn: chẳng hạn tôi bắt đầu sớm quá, thì như vậy có lẽ tôi đã cho hắn một chỗ dựa tinh thần, có thể nói như thế, hê - hê! Anh cười à? (Raxkonikov không hề có ý muốn cười: chàng mím môi ngồi im, đôi mắt nảy lửa không rời mắt Porfiri Petrovich). Nhưng thật ra nó như thế đấy, nhất là đối với một số người nào đó, vì người ta mỗi người một tính, và chúng tôi chỉ biết dựa vào kinh nghiệm thực tế mà thôi! Vừa rồi anh có nhã ý nhắc đến bằng chứng; thì ta cứ cho là phải có bằng chứng đi, nhưng anh ạ, bằng chứng phần nhiều đều to hai mặt; tôi là một người dự thẩm, nghĩa là một con người yếu đuối, xin nhận như vậy: trong bụng cũng muốn tiến hành điều tra một cách rõ ràng như toán học, cùng muốn kiểm được một bằng chứng hiển nhiên như hai lần hai là bốn! Một bằng chứng trực tiếp, không chối cãi vào đâu được! Nhưng nếu bắt người không đúng lúc, tuy biết đích xác đó chính là thủ phạm, thì như vậy là tự tước bỏ mất phương tiện tiếp tục buộc tội, tại sao? Tại vì làm như vậy tức là đã cho hắn một tình thế xác định, có thể nói như thế, làm cho hắn yên chí và vững tâm, thế là hắn sẽ rụt sâu vào vỏ: hắn sẽ hiểu rằng hắn là một tù nhân. Nghe nói ở Sevaxtopol ngay sau trận Alma, những người có trí tuệ rất lo quân địch đánh vào không biết lúc nào và chiếm ngay Sevaxtopol; nhưng khi thấy quân địch muốn tiến hành một cuộc vây hãm chính quy và bắt đầu xây công sự, thì họ yên tâm và vui mừng không biết bao nhiêu mà kể: như thế nghĩa là ít nhất hai tháng nữa cuộc vây hãm chính quy kia mới kết thúc bằng trận đánh chiếm thành phố? Anh lại cười rồi, lại không tin à? Dĩ nhiên anh cũng đúng. Đúng, đúng! Đó vẫn là những trường hợp cá biệt, tôi cũng nghĩ thế; trường hợp vừa nêu lên là một trường hợp cá biệt đấy! Nhưng anh Rodion Romanvôvich thân mến ạ, trong khi đó cần phải nhận rõ điều nầy: cái trường hợp chung chung mà các, thủ tục và quy tắc tư pháp ghi trong sách vở nhằm giải quyết và vẫn được ứng dụng để giải quyết, lại là một trường hợp không hề có, chính là vì bất cứ vụ án nào cũng là một vụ án mạng chẳng hạn, hễ đã xảy ra trong thực tế thì lập tức chuyển thành một trường hợp hoàn toàn cá biệt và đôi khi không có chút gì giống các vụ trước. Đôi khi có những trường hợp hết sức khôi hài. Ấy, tôi cứ để cho một vị nào đó hoàn toàn tự do: không bắt bớ, không quấy rầy gì cả, nhưng làm thế nào để cho ông ta từng giờ từng phút biết rằng - hay ít nhất cùng nghi ngờ rằng tôi biết hết từ đầu chí cuối, rằng tôi suốt đêm ngày theo dõi ông ta, rình mò ông ta không lơi một phút, tôi cứ để cho ông ta nghi ngờ và lo sợ thường xuyên như thế, xin cam đoan là thế nào ông ta cũng cuống lên, tự dẫn xác đến và có lẽ lại còn hớ hênh để lộ ra một cái gì giống như hai lần hai là bốn, một cái gì có vẻ toán học, ấy thế mới thú chứ. Điều đó có thể xảy ra với một anh mu-gích quê kệch mà cũng có thể xảy ra với một anh em của chúng ta, một con người hiện đại, mà lại có nhiều sở trường về một mặt nào đó nữa, đã từng có trường hợp như thế đấy! Bởi vì, anh bạn thân mến ạ, một điều rất quan trọng là phải hiểu người kia sở trường mặt nào. Lại còn thần kinh nữa, thần kinh nữa chứ, anh quên mất cái nầy! Chả là bây giờ những con người như thế đều đau ốm, dễ khích động! Lại thêm cái chứng sưng mặt nữa, sưng mặt nặng ấy. Và cũng xin nói rằng nhiều khi đó là thứ nguồn quặng đấy. Việc gì tôi lại phải lo vì hắn đi lại tự do trong thành phố? Cứ để cho hắn dạo chơi, tạm thời cứ để cho hắn dạo chơi đã; vì dù sao tôi cũng biết là con mồi của tôi không bao giờ bỏ tôi mà lẩn đi đâu cả kia mà! Vả lại lẩn đi đâu mới được chứ? Hê - hê! Ra nước ngoài à? Một người Hà Lan thì trốn ra nước ngoài, chứ hắn thì không đâu. huống chi tôi vẫn theo dòi và hơn nữa đã có cách đề phòng. Trốn vào những nơi thâm sơn cùng cốc của tổ quốc chăng? Nhưng ở đấy toàn những gã mu-gich Nga chân chính, những gã mu-gích thâm căn cố đế: một người có học như ngày nay thì thà vào ngục còn thích hơn là sống với bọn mu-gích của chúng ta, hề - hề! Vì đối với họ, bọn mu-gích cùng chẳng khác gì người ngoại quốc!
Nhưng những cái đó toàn là chuyện vặt, chuyện bề ngoài. Trốn là thế nào! chỉ là chuyện hình thức, cái chính không phải ở chỗ đó; hắn không trốn không phải chỉ vì không biết trốn đi đâu: hắn không trốn thoát tôi vì những nguyên do tâm lý học kia. Nghe cùng hay đấy chứ nhỉ! Vì một định luật của tự nhiên, hắn không trốn dù có chỗ để mà trốn cũng vậy. Anh đã trông thấy một con bướm trước ngọn nến chưa? Ấy, hắn cứ thế mà luấn quẩn mãi xung quanh tôi như con bướm quay cuồng xung quanh ngọn nến; tự do đối với hắn không còn có gì thú vị nữa, hắn sẽ nghĩ ngợi, rối trí, quằn quại, làm cho mình mắc míu thêm như vưóng vào lưới, tự dày vò mình đến chết đi được! Chưa đủ: chính hắn sẽ chuẩn bị cho tôi một tấn trò toán học gì như kiểu hai lần hai là bốn, miễn là tôi cho hắn một thời gian giải lao cho lâu lâu. Và hắn sẽ quay tròn, quay tròn mãi xung quanh tôi mỗi lúc một gần lại và… hớp! Hắn sẽ chui tọt vác mồm tôi, tôi sẽ nuốt chửng, thú vị thật, hê - hê - hê! Anh không tin à?
Raxkonikov không đáp, chàng ngồi yên, không cử động, mặt tái mét, mắt vẫn chăm chăm nhìn vào mặt Porfiri.
"Bài học hay đấy - chàng nghĩ, người lạnh toát ra. - Bây giờ không còn là cái kiểu mèo vờn chuột như hôm qua nữa. Hắn không dại gì phô trương sức mạnh của hắn ra và… mách nước cho mình một cách vô ích: hắn thông minh hơn thế nhiều… Đây có một mục đích khác. Mục đích gì? A, đừng hòng, ông bạn ạ. Ông doạ dẫm tôi. Ông mưu mẹo với tôi à? Ông không có bằng chứng, và con người hôm qua không hề có. Chẳng qua ông muốn làm tôi rối trí, muốn trêu cho tôi tức lên trước, rồi khi tôi đã khùng lên thì chộp chứ gì? Đừng hòng, hớ rồi! Nhưng sao hắn lại mách nước cho mình đến mức ấy để làm gì? Hắn trông mong vào bộ dây thần kinh ốm yêu của mình chắc. Không đâu, ông bạn ạ đừng hòng, hớ rồi đấy, mặc dầu ông đã có sửa soạn một cái gì đây… Nào, thử xem ông sửa soạn cái gì?"
Và chàng lấy hết sức bình sinh ra chuẩn bị đón lấy cái tai hoạ khủng khiếp và chưa hề hay biết kia.
Nhiều lúc chàng muốn chồm lên bóp cổ Porfiri chết tươi ngay tại chỗ. Từ khi bước vào đây, chàng đã sợ cơn giận đó. Chà ng cảm thấy môi khô lại, tim đậ p thình thình, nước bọt sùi ra mép. Nhưng chàng vẫn quyết im lặng không nói một câu nào khi chưa đến lúc. Chàng hiểu rằng đó là chiến thuật tất nhất ở tình thế chàng, vì làm như vậy không những chàng sẽ không lỡ lời mà trái lại còn làm cho kẻ thù tức tối khi thấy mình lặng thinh, và có lẽ chính hắn còn lỡ lời ra với mình nữa. Ít nhất chàng cũng hy vọng như vậy.
- Không, anh không tin, tôi biết, anh vẫn nghĩ rằng tôi đùa nhảm, - Porfiri nói tiếp, mỗi lúc một vui lên, thích chí cười hềnh hệch luôn mồm và lại bắt đầu chạy loanh quanh trong phòng. - Dĩ nhiên anh nghĩ phải; trời sinh tôi ra người ngợm như thế nầy, thành thứ chỉ gợi lên cho người ta những ý nghĩ hài hước mà thôi; tôi là một thằng hề; nhưng tôi đã nói và xin nhắc lại với anh một lần nữa rằng anh nên bỏ qua cho tôi, một người già cả. Anh Rôđỉôn Romanvôvich ạ. anh hãy còn trẻ, có thể nó; là đang tuổi hoa niên cho nên cũng như toàn thể lớp thanh niên, anh trọng trí tuệ con người hơn cả. Sự sắc sảo nhạy bén của trí tuệ và những sự suy diễn trừu tượng của lý trí quyến rũ anh rất mạnh.
Và như vậy là giống hệt như cái Hofkriegsrat của Áo ngày trước chẳng hạn, trong chừng mực tôi có thể xét đoán qua các biến cố quân sự, trên giấy thì họ đánh tan quân Pháp và bắt Napleon làm tù binh, và trong khi họ ngồi trong phòng giấy mà tính toán với suy diễn một cách vô cùng sắc bén, thì tưởng Mark đã đầu hàng cùng với cả quân đoàn ông ta, hê - hê - hê! Tôi biết, tôi biết anh Rodion Romanovich ạ, anh đang cười tôi, vì tôi là công chức mà cứ thích lấy dẫn chứng trong lịch sử quân sự. Biết làm thế nào được, tôi có cái tật là thích việc quân sự và thích đọc các bản thông báo quân sự chắc hẳn tôi đã chọn sai nghề. Lẽ ra tôi phải đeo đuổi nghiệp quân sự mới phải. Có lẽ cũng chẳng thành một Napoleon đâu, nhưng cũng phải lên đến chức thiếu tá hê - hê - hê? Ấy đấy còn bây giờ, anh bạn thân mến ạ tôi sẽ nói cho anh biết chi tiết việc kia, nghĩa là cái trường hợp cá biệt ấy: thực tế và nhân tính là điều quan trọng, anh ạ, và đôi khi nó làm điên đảo sự tinh toán sáng suốt nhất? Ấy, anh nên tin lời một người già cả tôi nói thật đấy, Rodion Romannovich (trong khi nói nhưvậy, Porfiri Petrovich tuy chỉ vẻn vẹn ba mươi lăm tuổi, nhưng quả nhiên cùng trông như già hẳn đi: ngay cả giọng nói của ông ta cùng thay đổi, người khọm rọm lại), - hơn nữa tôi là người ngay thật… Tôi có phải là người ngay thật không nào? Theo anh thì sao? Hình như ngay thật hẳn hoi chứ còn gì nữa: những chuyện như thế mà tôi cứ nói toang ra cho anh biết, lại không đòi đên bù gì cả. hê - hê ấy thế đấy, tôi xin nói tiếp: trí tuệ sắc sảo là một điều rất quý; đó có thể nói là một sự tô điểm của thiên nhiên và là một nguồn an ủi của cuộc sống, và nó có thể bày ra đủ các trò quỷ thuật đến nỗi một anh dự thẩm tội nghiệp nhiều khi không biết đằng nào mà lần nữa; vả lại hắn ta còn bị trí tưởng tượng của hắn mê hoặc nữa, vì hắn ta cũng là người thôi! Nhưng nhân tính lại cứu trợ cho anh dự thẩm tội nghiệp kia, thế mới chết chứ! Và chính đó là điều mà lớp thanh niên say mê trí tuệ không nghĩ đến, trong khi "bước qua mọi trở lực" (như anh đã nói một cách hết sức sắc sảo và tinh tế). Cứ thử cho rằng hắn lừa dối, - hắn đây tức là con người ấy, cái trường hợp cá biệt, incognito(3) ấy, - mà lừa dối một cách tài tình, khôn ngoan hết sức: có vẻ như sắp đắc thắng đến nơi rồi, hắn bắt đầu khoái trá thưởng thức những kết quả của cái trí tuệ sắc sảo của hắn, thế nhưng đùng một cái đúng vào chỗ thú vị nhất, đúng vào chỗ giật gân nhất, hắn lăn ra bất tỉnh. Thì cứ cho là hắn đang ốm, không khí trong phòng có khi cũng ngột ngạt thật, nhưng dù sao cũng lạ? Dù sao cũng gợi lên một ý! Hắn lừa dối một cách ưu việt, nhưng lại không biết trù liệu đến nhân tính. Hiểm nhất là chỗ ấy đấy. Một lần khác, mải say sưa với cái trí tuệ sắc bén của mình, hắn bắt đầu lòe người đang nghi ngờ hắn, hắn làm như cố ý tái mặt đi để đùa chơi, nhưng hắn tái mặt một cách quá tự nhiên, quá giống nhự thật, thế là lại gợi thêm một ý nữa? Tuy thoạt tiên người kia mắc lỡm thật, nhưng đêm về nghĩ lại, không biết mình có lầm lẫn hớ hênh gì chăng. Ấy cứ mỗi bước lại như thế mãi: Gì nhỉ; hắn bắt đầu đi quá bước, hắn đến những nơi không ai hỏi. hắn, hắn luôn mồm nói đến những chuyện lẽ ra phải im đi, hở ra những câu bóng gió nầy nọ, hề - hề… rồi lại tự dẫn xác đến hỏi: tại sao chưa bắt tôi đi… hề - hê - hê.
Điều đó có thể xảy ra với một con người hết sức sắc sảo một nhà tâm lý học và là một nhà văn. Nhân tính là một tấm gương, một tấm gương trong suốt nhất! Hãy nhìn vào gương mà thưởng ngoạn, thế đấy! Kìa sao anh tái mặt đi thế, Rodion Romanovich, anh ngạt thở à, hay tôi mở cửa sổ ra nhé?
- Ồ xin ông đừng bận tâm, - Raxkonikov nói to lên, rồi bỗng cười ha hả, - Xin ông đừng bận tâm!
Porfiri dừng lại trước mặt chàng, đợi một lát rồi bỗng cười theo. Raxkonikov rời đi-văng đứng dậy, trận cười như lên cơn của chàng đột nhiên ngừng bặt.
- Porfiri Petrovich? - chàng nói to, tách bạch từng tiếng, tuy chân chàng run rấy chỉ chực khuỵu xuống, - bây giờ tôi đã thấy rõ ông nghi tôi giết hai chị em mụ già. Về phần tôi, tôi xin tuyên bố với ông rằng chuyện nầy đã làm tôi phát ngấy lên từ lâu rồi. Nếu ông thấy mình có quyền truy tố tôi trước pháp luật thì cứ truy tố đi; nếu ông thấy cần bắt, thì bắt đi. Nhưng cười vào mặt tôi và hành hạ tôi thì không được đâu, tôi không cho phép ông làm như vậy…
Môi chàng bỗng run lên, mắt chàng lóe lên một ánh căm giận điên cuồng, và giọng nói của chàng, nãy giờ bị kìm hãm, vang lên lanh lảnh.
= Tôi không cho phép ông làm như vậy! - chàng bỗng quát lên, lấy hết sức lực giáng mạnh quả đấm xuống bàn, - Ông nghe ra chưa. Porfiri Petrovich? Tôi không cho phép?
- Ối trời ơi, lại làm sao rồi! - Porfiri Petrovich kêu lên, vẻ hoảng hốt đến cùng cực. - anh! Rodion Romanovich! Kìa cậu! cậu làm sao thế?
- Tôi không cho phép! - Raxkonikov lại quát lên một lần nữa.
- Khẽ chứ anh bạn ạ! Không người ta nghe thấy mất. họ sẽ đến đây! Biết nói với họ ra sao. Anh thử nghĩ xem! - Porfiri Petrovich thì thầm, vẻ hoảng hốt, mặt ghé sát vào mặt Raxkonikov.
- Tôi không cho phép, tôi không cho phép! - Raxkonikov lắp đi lắp lại như cái máy, nhưng bất giác cũng thì thầm rất khẽ.
Porfiri quay phắt đi và chạy ra mở cửa sổ.
- Phải mở ra cho thoáng! Anh uống tí nước, anh bạn ạ, anh vừa lên cơn đấy! - y toan chạy ra cửa sai bưng nước, nhưng vừa may trong góc phòng có một cái bình thuỷ tinh đựng nước lã.
- Anh ạ, uống đi - y vồn vã đem nước lại cho Raxkonikov, nói thì thầm, - may ra sẽ đỡ… - vẻ sợ hãi và ngay cả vẻ thương cảm của Porfiri nữa trông tự nhiên đến nỗi Raxkonikov im bặt và bắt đầu nhìn ông ta với một trí tò mò man dại. Tuy vậy, chàng cũng không uống nước.
Rodion Romanovich! Anh ạ, anh mà cứ thế thì rồi đến phát điên lên mất, tôi cam đoan như vậy, chà! Kìa anh uống đi! Ít nhất cùng uống lấy một ngụm!
Hắn ép chàng cầm cốc nước lên. Như cái máy, chàng nâng cốc đưa lên môi, nhưng chợt trấn tĩnh lại, chàng lại ghê tởm đặt cốc xuống bàn, phải, anh vừa lên cơn một chút đây! Cứ như nầy thì bệnh cũ của anh lại tái phát mất đấy anh bạn ạ, - Porfiri Petrovich nói, ân cần như một người bạn: song vẫn có vẻ hơi hoang mang. - Trời ơi! Anh chẳng biết nương nhẹ mình tí nào cả? Ngay như Dmitri Prokofich hôm qua có đến tôi. - đã đành tính tình tôi cay độc, khó chịu thật đấy, nhưng ai lại vì thế mà suy diễn quá đáng như vậy bao giờ! Trời ơi, hôm qua anh về rồi, Dmitri Prokofich dặn trong khi chúng tôi đang ăn bữa trưa, cậu ấy nói huyên thiên, tôi không chen được một câu nào, chỉ đớ người ra mà nghe; ấy, tôi nghĩ… chà, rõ thật! Có phải anh bảo cậu ấy đến không? Kìa anh ngồi xuống chứ, tôi van anh, anh ngồi xuống chứ!
- Không, tôi không bảo? Nnưng tôi biết Razumikhin có đến ông, và đến để làm gì, - Raxkonikov đáp xẵng.
- Anh biết à?
- Biết. Thế thì sao nào?
- Thì thế nầy, anh Rodion Romanovich ạ, số là tôi còn biết nhiều kỳ công của anh nữa kia; tôi biết hết! Tôi biết chuyện anh đi thuê nhà ra sao, giữa lúc đêm hôm, trời đã tối mịt, anh lại giật chuông, lại nói đến vũng máu, làm cho mấy người thợ và mấy người gác cổng không còn hiểu ra làm sao nữa. Tôi cùng hiểu tâm trạng của anh lắm, tâm trạng lúc bấy giờ ấy… dù sao cứ như thế rồi anh đến phát điên lên mất, thật đấy! Anh loạn óc mất! Lòng căm phẫn của anh sôi sục lên mãnh liệt, một lòng căm phẫn cao quý vì thấy mình bị xúc phạm, lúc đầu là số phận xúc phạm đến anh, kể đến là bọn cảnh sát, thế là anh đâm đầu đến nơi nầy nơi nọ để… có thể nói là để bắt mọi người nói rõ ra và chấm dứt ngay mọi sự, vì những mối nghi ngờ ngu xuẩn ấy đã làm anh phát ngấy lên rồi. Có phải thế không nào? Tôi đoán đúng tâm trạng anh đấy chứ? Nhưng cứ cái lối ấy, anh không những làm cho mình loạn óc lên mà ngay cả Razumikhin nhà ta nữa. Anh cũng làm hắn loạn óc nốt; vì cậu ấy tốt lắm, không thể hiểu được chuyện ấy đâu, chính anh cũng biết đấy. Anh thì có bệnh, cậu ấy thì có đức, và bệnh của anh rốt cục sẽ lây sang cậu ấy… Anh ạ, lúc nào anh bình tâm lại, tôi sẽ kể… kìa anh ngồi xuống chứ, tôi van anh. Anh nghĩ đi một chút, anh trông nhợt hẳn đi; kìa anh ngồi xuống đi.
Raxkonikov ngồi xuống, cơn run đã qua, khắp người chàng nóng hâm hấp. Chàng sững sờ lắng nghe giọng nói của Porfiri Petrovich đang hoảng hốt và ân cần săn sóc chàng. Nhưng chàng không mảy may tin lời ông ta nói, tuy cảm thấy có một xu hướng kỳ lạ muốn tin những lời đó. Những câu nói bất ngờ của Porfiri về chuyện đi thuê nhà làm cho chàng choáng hẳn người đi. "Thế ra hắn biết chuyện ấy rồi ư?" - chàng chợt nghĩ - mà lại đem ra kể với mình!".
- Vâng, trong kinh nghiệm thực tế của chúng tôi đã từng có một trường hợp gần đúng như thế, một trường hợp tâm lý học, bệnh lý học như thế, - Porfiri nói liến thoắng. - Có một người tự gán cho mình tội sát nhân, mà lại gán thế nầy nữa kia: hắn ta dựng ra cả một cảnh tượng hoang đường, đưa ra những bằng chứng, kể lại cặn kẽ từng chi tiết, làm mọi người không biết đằng nào mà lần nữa, để làm gì? Quả tình hắn cũng có can dự vào vụ án mạng nhưng một phần nào thôi, và hoàn toàn không có chủ tâm, đến khi hắn biết là mình vô tình nối giáo cho bọn sát nhân, hắn đâm ra buồn phiền, lo sợ đến nói loạn óc lên, tưởng tượng đủ thứ, rốt cục phát điên hắn hỏi và đinh ninh rằng mình chính là kẻ giết người! Nhưng về sau toà thượng thẩm khám phá ra vụ nầy, người khốn nạn kia được xử trắng án và gửi vào nhà tế bần. May mà có toà thượng thẩm. May thậ - ật, chậc - chậc - chậc! nhưng như thế rồi sẽ ra sao hở anh bạn? Cứ thế có thể lên cơn sốt nóng khi thần kinh đã quá khích động, rồi đang đêm đi giật chuông và hỏi những thuyện máu me! Qua kinh nghiệm tôi đã biết tường tận cái tâm lý đó. Đôi khi nó cứ xui người ta nhảy, từ trên cửa sổ hay trên gác chuông xuống, và cảm giác ấy có một cái gì quyến rũ lạ thường… Chuyện giật chuông cũng thế thôi… Do bệnh tật đấy Rodion Romanovich ạ, do bệnh tật mà ra cả! Anh coi thường bệnh tình của anh quá đấy. Lẽ ra anh phải hỏi ý kiến một ông thầy thuốc có kinh nghiệm, chứ đừng có bám lấy anh chàng béo ấy… Anh mê sảng đấy! Những việc anh làm đều do mê sảng mà ra cả đấy?
Trong phút chốc mọi vật như quay cuồng lên xung quanh Raxkonikov.
"Phải chăng, phải chăng bây giờ hắn vẫn nói dối? - Chàng thoáng nghĩ - Không thể được, không thể được!, - chàng gạt ý nghĩ ấy đi, cảm thấy trước rằng nó sẽ làm mình giận sôi lên, nổi khùng lên, và cơn giận có thể làm mình phát điên được.
- Không phải tôi mê sảng mà làm như vậy đâu, tôi tinh đấy! - chàng quát lên, trong khi cô vận dụng hết sức xét đoán để nhìn sâu vào thủ đoạn của Porfiri - Tôi vẫn tỉnh đấy, vẫn tỉnh đấy! Ông nghe ra chưa? Vâng, tôi nghe, tôi hiểu? Ngay hôm qua anh cũng nói là không mê sảng. Thậm chí còn nhấn mạnh đặc biệt là không mê sảng! Anh nói gì tôi cũng hiểu hết!
Chà!… Anh nghe tôi, anh Rodion Romanovich kính mến của tôi ạ, đây cứ lấy một việc nầy chẳng hạn. Ví thử anh quả là thủ phạm hay có can dự vào cái vụ án chết tiệt nầy thật, thì đời nào anh lại nhấn mạnh rằng mình làm những việc ấy trong lúc hoàn toàn tỉnh táo, chứ không phải trong cơn mê sảng? Mà lại cứ khăng khăng một mực nhấn mạnh đặc biệt vào chỗ đó nữa, - anh thử nghĩ xem, có thể nào như thế được không? Theo tôi thì hoàn toàn ngược lại mới phải. Ví thử anh có ẩn ý gì thì lẽ ra phải quả quyết rằng mình đang mê sảng mới đúng! Có phải thế không nào? Thế chứ gì?
Trong câu hỏi nầy nghe như có một cái gì tinh quái, Raxkonikov né người lùi sát lưng tựa vào chiếc đi-văng để tránh Porfiri Petrovich đang chồm vào chàng, và ngỡ ngàng nhìn trân trân vào mặt hắn.
- Hay như về việc Ruzumikhin chẳng hạn, hôm qua cậu ta đến là tự ý mình hay do anh dặn thế lẽ ra anh phải nói là cậu ta tự ý đến, và giấu chuyện mình có dặn dò đi! Thế nhưng chính anh có giấu đâu! Anh lại còn nhấn mạnh rằng chính mình dặn cậu ta đến!
Raxkonikov không hề nhấn mạnh như thế. Chàng thấy lạnh buốt ở sống lưng.
- Ông cứ dối trá mãi, - chàng nói chạm rãi: giọng u uất môi rúm lại thành một nụ cười đau đớn - Ông lại muốn cho tôi thấy rằng ông biết hết hành tung của tôi, biết trước tất cả những câu trả lời của tôi, - chàng cảm thấy mình không còn đủ sức cân nhắc lời lẽ cho kỹ lưỡng được nữa, - Ông muốn doạ tôi… hay chẳng qua ông nhạo báng tôi…
Chàng vẫn nhìn trừng trừng vào Porfiri trong khi nói, rồi bỗng một cơn giận điên cuồng, vô hạn lại lóe lên trong mắt chàng.
- Chỉ dối trá! - chàng quát lên. - Chính ông cũng biết rất rõ rằng thủ đoạn lợi hại nhất của kẻ phạm tội là cố sức không giấu giếm những điều không giấu giếm được Tôi không tin ông đâu!
- Cái anh nầy ngộ nghĩnh thật! - Porfiri cười hì hì, - không biết đằng nào mà lần nữa; anh có một định kiến gì ăn sâu vào óc ấy. Thế anh không tin tôi à? Tôi thì tôi xin nói với anh rằng anh tin tôi đấy, anh đã tin được một phần tư, nhưng tôi sẽ làm cho anh tin tôi cả bốn phần, vì tôi thành thật mến anh và thành tâm mong điều lành điều tốt cho anh.
Môi Raxkonikov run lên.
- Vâng, tôi mong thế, tôi sẽ nói dứt khoát cho anh biết, - hắn nói tiếp, khẽ cầm lấy cánh tay Raxkonikov ở phía trên khuỷu tay một chút, - tôi xin nói rằng: anh phải coi chừng cơn bệnh. Hơn nữa gia đình anh lại vừa mới đến đây; anh phải nhớ đến họ. Anh nên âu yếm vỗ về cho họ yên lòng mới phải, đằng nầy anh chỉ làm họ lo sợ…
- Việc gì đến ông? Sao ông lại biết? Việc gì ông phải quan tâm đến thế? Thế ra ông theo dòi tôi, và ông muốn cho tôi biết như thế?
- Kìa! Thì chính anh cho tôi biết cả, chứ còn ai! Anh không để ý rằng trong khi nóng nảy anh đã nói cho tôi và cho nhiều người khác biết trước mọi chuyện rồi sao? Dmitri Prokofich Razumikhin hôm qua cũng cho tôi biết nhiều chi tiết rất thú vị. A, vừa rồi anh ngắt lời tôi, chứ tôi muốn nói rằng mặc dầu anh thông minh sắc sảo như thế, nhưng cứ cái tính đa nghi ảy, anh không còn nhìn sự việc một cách tỉnh táo được nữa đâu. Đấy cứ trở lại chuyện cái chuông chẳng hạn, một của quý như thế, một sự kiện như thế (vì đó là cả một sự kiện) mà tôi lại cứ đem ra nói bô bô lên với anh, tôi, một viên dự thẩm! Thế mà anh không thấy gì à? Nếu tôi có ý nghi ngờ anh một mảy may, đời nào tôi lại làm như thế! Trái lại, lúc đầu tôi phải ru ngủ ý đề phòng của anh và giả vờ như không biết việc nầy, để đánh lạc hướng anh rồi đột nhiên, như bổ sống rìu xuống đỉnh sọ (theo lối nói của anh), hỏi đốp vào mặt: "Thưa ngài, thế ngài có nhã ý đến làm gì trong phòng người bị giết lúc mười một giờ tối? Tại sao ngài lại giật chuông? Tại sao ngài lại hỏi đến vũng máu? Tại sao ngài lại lừa mấy người gác cổng và rủ họ lên gặp quận trưởng?". Lẽ ra tôi phải làm như thế mới phải, nếu tôi có chút nào nghi ngờ anh. Lẽ ra phải lấy khẩu cung anh theo đúng thủ tục, ra lệnh khám nhà và có lẽ giam anh nữa…
Đằng nầy tôi lại không làm như thế, nghĩa là tôi không nghi ngờ gì anh! Nhưng anh chẳng thấy gì cả, vì anh mất khả năng nhìn sự việc một cách tinh táo rồi, xin nhắc lại như vậy.
Raxkonikov run bắn cả người lên, thành thử Porfiri Petrovich trông thấy quá rõ.
- Chỉ dối trá! - Chàng quát lên, - tôi không biết chủ ý của ông, nhưng biết là ông nói dối… Lúc nãy ông nói khác hẳn, tôi không nhầm được đâu. Ông nói dối!
- Tôi mà nói dối ư? - Porfiri đáp, hình như đã nổi nóng lên, nhưng vẫn giữ vẻ hết sức tươi cười ngạo nghễ và như thế không hề chấp đến ý kiến của Raxkonikov đối với mình. - Tôi nói dối ư… Thế vừa rồi tôi xử lý với anh như thế nào (tôi, một viên dự thẩm), chính tôi mách rõ cho anh tất cả các phương tiện bào chữa, tôi phân tích cho anh thấy hết cái tâm lý ấy: "Tôi ốm đau tôi mê sảng, lại bị xúc phạm trong một tâm trạng u uất như vậy, lại bọn cảnh binh nhũng nhiễu và vẫn vẫn… Hê - hê - hê! Tuy nhân thể cũng xin nói rằng tất cả những phương tiện bào chữa tâm lý học ấy, những lý do và những lối chống chế ấy hết sức bấp bênh, mà lại có hai mặt; ừ thì nói là "bệnh hoạn, mê sảng, chiêm bao, mơ màng, mất trí nhớ", được cả, nhưng xin hỏi anh, tại sao trong cơn bệnh, trong khi mê sảng anh chỉ mơ thấy những chuyện ấy thôi, chứ không mơ thấy cái gì khác. Có thể mơ thấy nhiều chuyện khác lắm chứ? Có phải không nào? Hê - hê - hê.
Raxkonikov kiêu hãnh và khinh bỉ nhìn hắn.
- Tóm lại, - Chàng nói to và dằn giọng, vừa nói vừa khẽ ẩy Porfiri ra, đứng dậy. - tóm lại, tôi muốn biết ông có công nhận tôi hoàn toàn ở ngoài vòng tình nghi hay không, ông nói đi, ông Porfiri Petrovich, ông hãy nói cho chắc chắn và dứt khoát, và nói nhanh lên, ngay bây giờ!
- Chà, thật là gay go? Chơi với anh gay go thật đấy, - Porfiri kêu lên, vẻ hết sức tươi cười, ranh mãnh, không mảy may bối rối. - Nhưng tại sao anh lại phải biết, anh muốn biết nhiều như thế để làm gì, trong khi người ta chưa hề quấy rầy đến anh. Anh thật như đứa trẻ con: đưa lửa đến đây, nào nào? Tại sao anh lại phải lo lắng đến thế? Tại sao anh lại hỏi chúng tôi những câu như thế? Vì lý do gì? Ha hê - hê - hê?
Một lần nữa. - Raxkonikov như điên như dại quát lên:
- Xin nhắc lại rằng tôi không thể nào chịu được nữa cái…
- Cái tình trạng mập mờ nầy chứ gì? - Porfiri tiếp luôn.
- Đừng có trêu gan tôi! Tôi không chịu đâu… Tôi bảo với ông ta là tôi không chịu! Tôi không thể và không muốn! Ông nghe chưa, nghe chưa? - Chàng lại nện quả đấm lên bàn lần nữa.
- Kìa khẽ chứ, khẽ chứ! Người ta nghe thấy đấy? Tôi xin nói thật cho anh biết, anh liệu hồn. Tôi không đùa đâu! - Porfiri nói thì thầm, nhưng lần nầy trên gương mặt ông ta không còn cái vẻ hốt hoảng và chất phác hơi đàn bà như lúc nãy nữa; trái lại, bây giờ ông ta ra lệnh hẳn hỏi, giọng nghiêm khắc, mày cau lại và dường như gạt phăng một lúc tất cả những thái độ mập mờ bí ẩn trước đây. Nhưng điều đó chỉ thoáng qua trong chóc lát. Đang bàng hoàng, Raxkonikov điên tiết hẳn lên; nhưng lạ thay, chàng lại một lần nữa tuân theo mệnh lệnh nói khẽ, tuy cơn giận điên cuồng của chàng đã lên đến cực điểm.
- Tôi không để cho ông giầy vò tôi đâu! - Chàng thì thào như lúc nãy, trong giây lát đau xót và căm hờn nhận rõ rằng mình không thể không phục tùng mệnh lệnh của hắn, và nghĩ như vậy lại càng điên tiết thêm, - Ông bắt tôi đi, khám xét đi, nhưng xin ông làm đúng thủ tục chứ không được đùa với tôi! Ông không được…
- Thôi anh đừng lo đến thủ tục làm gì - Porfiri ngắt lời với nụ cười ranh mãnh như trước và dường như khoái trá ngắm nghía Raxkonikov, - anh ạ, tôi mời anh đến đây như chỗ người nhà, hoàn toàn đứng trên tình bạn…
- Tôi không thèm cái tình bạn của ông, tôi nhổ toẹt vào! Ông nghe ra chưa? Bây giờ tôi lấy mũ đi về đây. Ấy bây giờ ông nói sao, nếu ông có ý định bắt.
Chàng cầm lấy mũ và đi ra cửa.
- Thế anh không muốn xem trò vui bất ngờ à? - Porfiri cười hềnh hệch, đoạn lại nắm lấy cánh tay chàng ở phía trên khuỷu một chút và giữ chàng lại ở ngưỡng cửa. Hắn mỗi lúc một thêm vui và thêm vẻ cợt nhả ra mặt, khiến Raxkonikov không sao tự chủ được nữa.
- Trò vui gì? Cái gì thế - Chàng dừng phắt lại hỏi và sợ hãi nhìn Porfiri.
- Ấy cái trò vui bất ngờ của tôi nó đang ngồi sau cánh cửa kia, hê - hê - hê! - Hắn giơ ngón tay chỉ cánh cửa đóng kín trên tấm ván ngăn gian phòng ở của hắn.
- Tôi lại còn khóa cửa lại cho nó khỏi trốn đi kia.
- Cái gì thế ở đâu? Cái gì? - Raxkonikov lại gần cánh cửa, toan mở ra, nhưng cửa đã khóa chặt.
- Khóa rồi anh ạ, chìa khoá đây!
Quả nhiên y rút trong túi ra một cái chìa khóa, đưa ra cho chàng xem.
- Mày vẫn nói láo! - Raxkonikov thét lên, không sao ghìm mình được nữa, - mày nói láo, quân xỏ lá!
Chàng lao vào Porfiri. Ông ta lùi ra phía cửa ngoài, nhưng không chút sợ sệt.
- Tao hiểu hết rồi! - Chàng chồm vào người y. - Mày nói láo, mày có trêu tức tao, để tao tiết lộ ra…
- Nhưng còn có cách nào tiết lộ nhiều hơn thế được nữa hả anh bạn, Rodion Romanovich. Anh mất tự chủ rồi còn gì. Đừng có quát tháo! Tôi gọi người vào đây.
- Mày nói láo, chẳng có trò gì đâu! Mày cứ gọi người vào đây! Mày biết tau đau ốm nên muốn khích cho tao điên tiết lên, để tao tiết lộ ra, mưu mô của mày là như thế đấy! Không được, mày cứ thử đưa bằng chứng ra đây xem! Tao hiểu hết rồi! Mày không có bằng chứng nào hết, mày chỉ đoán mò một cách bẩn thỉu, vô lý, như kiểu thằng Zamiotov! Mày biết tính tao, cho nên mày muốn khích cho tao nổi khùng lên, rồi đưa một lũ cố đạo, một lũ nhân chứng ra để làm cho tao hết vía đi chứ gì… Mày đang đợi chúng phỏng? Mày đợi cái gì? Ở đâu? Đưa vào đây xem nào!
- Nhân chứng gì hở anh bạn! Con người ta thật khéo tưởng tượng! Dù có theo thủ tục như anh nói nữa thì làm như thế cũng không được, anh bạn ạ, anh chẳng hiểu công việc tí nào… Nhưng thủ tục không mất đi đâu tự anh sẽ thấy… - Porfiri vừa lẩm bẩm vừa lắng nghe những tiếng động ngoài cửa.
Quả nhiên lúc bây giờ ngay trước cửa vào, ở phòng bên nghe như có tiếng ồn ào.
- À chúng đến đấy phỏng! - Raxkonikov quát lên. - mày cho đi gọi chúng đến chứ gì! Mày đợi chúng chứ gì! Mày trù tính… Nào, thì cho cả lũ vào đây: nhân chứng, đại biểu, mày muốn thứ gì cũng được, nào? Tao sẵn sàng! Sẵn sàng…
Nhưng đến đây xảy ra một biến cố kỳ dị, bất ngờ so với quá trình diễn biến bình thường của sự việc đến nỗi cả Raxkonikov lẫn Porfiri Petrovich đều không sao lường trước được một cách kết thúc như vậy.
Chú thích:
(1) Gọn lỏn (tiếng Pháp)
(2) Nhất thiết phải như thế (tiếng Pháp)
(3) Ấn danh (tiếng Ý)
(2) Nhất thiết phải như thế (tiếng Pháp)
(3) Ấn danh (tiếng Ý)
Chương 24
Về sau, khi hồi tưởng lại giây phút đó, Raxkonikov hình dung
sự việc xảy ra như sau:
Tiếng ồn ào bên kia cửa ra vào bỗng tăng lên rất nhanh, và cánh cửa mở hé ra.
- Cái gì thế? - Porfiri Petrovich bực tức quát lên. - Ta đã dặn…
Thoạt tiên không có tiếng trả lời, nhưng cũng có thể đoán được là sau cánh cửa có một tốp người, hình như đang cố xô một người ra.
- Kìa, cái gì thế hả? - Porfiri Petrovich hỏi lại, giọng lo lắng.
- Chúng tôi giải tên tù đến, tên Mikolai đấy ạ, - Có tiếng ai đáp.
- Khoan hẵng! Dẫn đi! Đợi đã… Sao lại cho hắn vào đây? Lộn xộn quá chừng! - Porfiri chồm ra cửa quát lên.
- Nhưng hắn… - giọng nói lúc nầy cất lên nhưng rồi bỗng ngừng bặt.
Khoảng hai giây sau nghe có tiếng vật nhau huỳnh huỵch, rồi như có ai đẩy mạnh một người khác ra, rồi một người mặt tái mét bước thẳng vào phòng giấy Porfiri Petrovich.
Thoạt trông, dáng vẻ người ấy rất lạ. Hắn nhìn trân trân phía trước, nhưng tựa như không trông thấy gì cả. Mắt hắn ánh lên một quyết tâm dứt khoát nhưng mặt hắn lại nhợt nhạt như người chết, tưởng chừng như hắn đang bị đưa đi hành hình. Đôi môi trắng bệch của hắn khẽ run run.
Hắn còn rất trẻ, ăn mặc như hạng bình dân, tầm vóc trung bình, người gầy, tóc cắt thành hình cái gáo, nét mặt thanh tú và trông như khô khan. Người bị hắn xô lao vào phòng theo hắn trước tiên và nắm được vai hắn: đó là người lính đi áp giải, nhưng Mikolai quẫy tay một cái khiến hắn phải thả ra một lần nữa.
Một đám người hiếu kỳ xúm xít ngoài cửa. Có mấy người chực len vào. Tất cả những việc kể trên đều diễn ra trong một khoảnh khắc.
- Ra đi đã, chưa đến lúc! Đợi ta gọi hẵng vào chứ? Sao lại dẫn hắn đến sớm thế? - Porfiri Petrovich làu bàu, vẻ bực bội hết sức và dường như cuống quít lên.
Nhưng Mikolai bỗng quỳ xuống.
- Làm cái gì thế? - Porfiri quát, vẻ sửng sốt.
- Tôi có tội! Tôi xin thú! Tôi là kẻ giết người - Mikolai nói, giọng như hơi ngắc ngứ, nhưng khá to.
Mọi người lặng đi trong khoảng mười giây, như thể đều bị cấm khẩu; thậm chí người lính áp giải còn né người ra xa Mikolai, lùi dần về phía cửa và đứng sững ra đấy.
- Cái gì thế? - Porfiri Petrovich trấn tĩnh lại quát Tôi… là kẻ giết người… - Mikolai nhắc lại sau một phút im lặng.
- Sao… mày… Sao… Mày giết ai?
Porfiri Petrovich bối rối ra mặt. Mikolai lại im lặng một giây.
- Tôi giết Aliona Ivanovna và em gái bà ta, Lizaveta Ivanovna, tôi… giết… bằng rìu. Tôi bị quẫn trí… - vẫn quỳ như cũ, hắn nói thêm, rồi lại im bặt.
Porfiri Petrovich đứng yên một lát như suy nghĩ điều gì, nhưng rồi bỗng vùng vằng xua tay đuổi mấy người nhân chứng bất ngờ kia đi. Họ lui ra ngay, và cánh cửa khép lại. Porfiri đưa mắt về phía Raxkonikov đang đứng trong góc phòng ngây dại nhìn Mikolai, toan đi về phía chàng nhưng bỗng dừng lại nhìn chàng một lát rồi lập tức đưa mắt sang phía Mikolai, rồi lại nhìn sang Raxkonikov, rồi lại nhìn Mikolai, rồi đột nhiên như nổi xung lên, lại xông vào hắn.
- Mày đã vội nói chuyện quẫn trí với tao làm gì? - Porfiri quát lên, giọng gần như hằn học. - Tao đã hỏi mày có mù quáng hay không đâu, nói đi: mày giết người hả?
- Tôi là kẻ giết người… tôi xin cũng khai… - Mikolai nói.
- Chà? Mày giết bằng gì?
- Bằng rìu ạ. Tôi đã giấu sẵn.
- Chà! Vội thế! Một mình mày à?
Mikolai không hiểu câu hỏi.
- Một mình mày giết à?
- Một mình tôi. Còn Mitka không có tội tình gì, nó không can dự vào việc nầy.
- Nầy đừng có vội nói chuyện Mitka! Chà!… Thế lúc ấy mày làm thế nào chạy xuống thang gác? Mấy người gác cổng trông thấy cả hai đứa chúng mày kia mà?
- Đó là tôi muốn đánh lạc hướng… cho nên… mới chạy với Mitka, - Mikolai đáp vội, vẻ như đã nhằm sẵn từ trước.
- Thôi, đúng thật rồi! - Porfiri căm giận quát lên, - người ta mớm cho nó cái gì là nó tuôn ra y như thế! - y lẩm bẩm nói một mình: và chợt trông thấy Raxkonikov. Hình như ông ta mải chú ý đến Mikolai đến nỗi trong chốc lát quên bẵng cả Raxkonikov đi. Bây giờ sực nhớ ra và thậm chí còn lộ vẻ bối rối…
- Rodion Romanovich, anh ơi! Xin lỗi anh nhé, - y bước vội về phía chàng, - thế nầy không ổn đâu; xin anh… anh ở đây chẳng có ích lợi gì cả… chính tôi cũng… anh thấy đấy, thật là những chuyện bất ngờ! Xin mời anh…
Rồi cầm tay chàng, Porfiri chỉ ra cửa.
- Hình như ông không ngờ thì phải? - Raxkonikov nói, dĩ nhiên chàng cùng chưa hiểu gì lắm, nhưng đã có đủ thời giờ vững tâm hẳn trở lại.
- Thì anh cũng có ngờ đâu, anh bạn! Kìa tay anh vẫn còn run bắn lên kia kìa, hê hê…
Nhưng anh cũng run đấy thôi, ông Porfiri Petrovich ạ?
- Tôi cũng run. Tôi cũng không ngờ!
Hai người đã ra đến cửa. Porfiri sốt ruột đợi Raxkonikov ra.
- Thế ông không cho tôi xem cái trò bất ngờ kia nữa à? - Raxkonikov hỏi.
- Nói thì ra dáng thế, nhưng răng cứ đánh vào nhau côm cốp, hề hề. Anh có khiếu châm biếm lắm. Thôi, xin chào anh.
- Theo tôi thì xin vĩnh biệt mới đúng.
- Cái đó còn tuỳ ý Chúa, còn tuỳ ý Chúa! - Porfiri lẩm bẩm: môi có rúm lại thành một thứ nụ cười.
Khi đi qua vẫn phòng sở cảnh sát, Raxkonikov nhận thấy có nhiều người chăm chú nhìn chàng. Ở phòng mắc áo trong đám đông chàng kịp nhận ra hai người gác cổng ở nhà ấy. Hai người mà tối hôm kia chàng đã rủ lên quận cảnh sát. Họ đang đứng đợi cái gì không rõ. Nhưng vừa ra đến đầu thang gác, chàng bỗng nghe giọng nói của Porfiri Petrovich léo nhéo ở sau lưng. Ngoảnh lại, chàng thấy y đang chạy theo, thở hổn hển.
- Xin thưa một câu nữa, anh Rodion Romanovich ạ, về tất cả những việc nầy thì xin tùy ý Chúa, nhưng dù sao theo thủ tục sau nầy cùng cần hỏi thêm anh dăm câu… cho nên chúng ta sẽ còn gặp nhau đấy, thế đấy!
Và Porfiri tươi cười dừng lại trước mặt chàng.
- Thế đấy - Y nhắc lại.
Có thế phỏng đoán rằng y còn muốn nói gì nữa, nhưng chẳng hiểu sao không nói ra được.
- Còn tôi thì tôi xin ông bỏ qua cho những chuyện ban nãy, ông Porfiri Petrovich ạ… tôi hơi nóng, - Raxkonikov nói; bấy giờ chàng đã hoàn toàn vững tâm trở lại, đến nỗi cứ muốn lên mặt khiêu khích hắn chơi, một ý muốn không sao cưỡng nổi.
- Không sao, không sao, - Porfiri đáp, vẻ hầu như mừng rỡ… - Chính tôi cũng thế… Tính tôi thật độc địa, rất ân hận, rất ân hận. Đấy, chung ta sẽ còn gặp nhau. Nếu Chúa thuận tình, ta sẽ còn gặp nhau nhiều, còn gặp nhau nhiều?
- Và sẽ biết nhau đến nơi đến chốn? - Raxkonikov đệm thêm.
- Và sẽ biết nhau đến nơi đến chốn, - Porfiri Petrovich tán đồng, và nheo mắt nhìn chàng, vẻ rất nghiêm trang. - Bây giờ anh đi dự lễ thánh?
- Lễ an táng.
- À quên, lễ an táng! Anh chú ý giữ gìn sức khỏe nhé, sức khỏe ấy…
- Còn về phần tôi thì không biết chúc ông thế nào đây! - Raxkonikov đáp, chàng đã bước xuống cầu thang nhưng lại ngoảnh về phía Porfiri, - tôi cũng muốn chúc ông thành công, nhưng ông cũng thấy đấy, chức vụ của ông nó khôi hài quá.
- Sao lại khôi hài? - Porfiri Petrovich lúc bấy giờ đã quay đi, cùng lại lập tức vểnh tai lên.
- Còn sao nữa, đấy như cái thằng Mikolai khốn khổ kia chắc đã bị ông hành hạ giầy vò theo cái kiểu tâm lý học của ông mãi cho đến khi nó chịu nhận mới thôi; chắc suốt đêm suốt ngày ỏng cứ nhắc đi nhắc lại với hắn: "Mày là kẻ giết người, mày là kẻ giết người…" Thế rồi đến bấy giờ hắn chịu nhận, ông lại bắt đầu nhồi vào sọ hắn một bài khác: "Mày nói láo không phải mày là kẻ giết người! Mày không thể là kẻ giết người được. Người ta mớm cho cái gì cũng nói ra y như thế?". Đấy, như thế mà còn bảo cái nghề của ông không khôi hài nữa hay sao?
- Hê - hê - hê? Thế ra anh cũng để ý vừa rồi tôi có nói với Mikolai là "mớm cho cái gì hắn cũng nói" à?
- Sao lại không để ý?
- Hê - hê! Anh sắc sảo lắm, sắc sảo lắm. Cái gì anh cũng nhận thấy hết. Thật là một bộ óc có khiếu châm biếm! Anh đã bấm đúng vào phím hài hước… hê - hê! Nghe nói trong số các nhà văn thì Gogol là người có khiếu ấy nhiều hơn cả phải không?
- Phải, Gogol.
- Phải, Gogol… xin chào, rất mong được gặp ông lại - Xin chào, rất mong được gặp ông lại…
Raxkonikov đi thẳng về nhà. Chàng mệt mỏi và hoang mang đến nỗi về đến nhà, chàng thả mình rơi phịch xuống đi-văng và ngồi thừ ra như thế trong mười lăm phút, chi để cho đỡ mệt và sắp xếp lại được phần nào những ý nghĩ đang rối tung lên trong đầu. Về Mikolai chàng cũng không buồn tìm cách cắt nghĩa xem sao nữa: chàng cảm thấy mình sửng sốt quá chừng, chàng thấy rằng trong những lời thú nhận của Mikolai có một cái gì vô lý, kỳ lạ mà hiện nay chàng không tài nào hiểu nổi. Nhưng những lời thú nhận đó là một việc có thật. Chàng thấy rõ ngay những hiệu quả của việc ấy trước sau rồi người ta cũng phát hiện ra hắn nói dối, và lại sẽ quay sang chàng. Nhưng ít nhất từ giờ cho đến khi ấy chàng cũng được tự do và nhất thiết phải làm một cái gì để tự vệ, vì nguy cơ nầy không sao tránh khỏi.
Nhưng nguy đến mức nào? Tình hình bắt đầu rõ nét ra; khi nhớ lại đại khái cuộc nói chuyện với Porfiri, chàng không khỏi một lần nữa rùng mình khiếp sợ. Dĩ nhiên chàng chưa biết hết chủ tâm của Porfiri, chưa thể hiểu thấu được tất cả những mưu mô của y lúc bấy giờ. Nhưng thủ đoạn của y cũng đã lộ rõ một phần, và dĩ nhiên, hơn ai hết. Raxkonikov hiểu rõ "nước cờ" của Porfiri đáng sợ đến nhường nào. Chí một chút nữa thôi là chàng đã có thể tiết lộ hoàn toàn, lần nầy có bằng chứng hẳn hỏi. Biết rõ cái tâm lý bệnh tật của chàng và ngay từ đầu đã nắm vững và soi thấu vào tim gan chàng. Porfiri đã hành động một cách tuy quá mạnh dạn, nhưng hầu như chắc chắn, không còn nghi ngờ gì nữa, lúc nãy Raxkonikov đã sơ hở quá nhiều, nhưng vẫn chưa đến nỗi tiết lộ những sự việc cụ thể; tất cả vẫn còn là tương đối. Nhưng dù sao, liệu bây giờ chàng có quan niệm được sự việc vừa xảy ra một cách đúng đắn hay không? Liệu chàng có lầm không? Hôm nay Porfiri muốn đưa đến kết quả nào? Cụ thể hắn muốn gì? Có thật là hắn đang chờ đợi một cái gì không?
Ví thử không có Mikolai xuất hiện bất thình lình làm cho cơ sự hỏng bét ra, hai người sẽ chia tay nhau như thế nào?
Porfiri đã để lộ gần hết các nước cờ của ông ta; dĩ nhiên như vậy cũng liều lĩnh, nhưng quả ông ta đã cố để lộ ra; và Raxkonikov có cảm tưởng rằng nếu Porfiri còn biết gì hơn, y cũng sẽ để lộ ra nốt. Cái "trò bất ngờ" ấy là cái gì? Một trò đùa dai chăng? Nó có nghĩa gì không? Nó có thể che giấu một cái gì giổng như một sự kiện, một lời buộc tội có căn cứ không? Con người hôm qua chăng? Hắn biến đi đàng nào? Hôm nay hắn ở đâu? Vì nếu Porfiri có nắm được một cái gì chắc chắn, thì dĩ nhiên cái đó phải có liên quan đến người hôm qua…
Chàng ngồi trên đi-văng, đầu gục xuống, hai khuỷu tay chống lên đầu gối, hai bàn tay bưng lấy mặt. Khắp người chàng vẫn còn run lên từng cơn. Cuối cùng chàng đứng dậy, lấy mũ, nghĩ ngợi một lát và bước ra cửa.
Không hiểu sao chàng cứ có cảm giác là ít nhất ngày hôm nay chàng có thể coi như mình ở ngoài vòng nguy biến. Chàng chợt thấy vui vui trong lòng: chàng muốn đi cho nhanh đến nhà Katerina Ivanovna. Đến dự lễ an táng thì dĩ nhiên là muộn mất rồi, nhưng dự tiệc tang thì còn kịp, và ở đây, chỉ lát nữa, chàng sẽ được gặp Sonya.
Chàng dừng lại suy nghĩ, và một nụ cười yếu ớt hiện lên trên môi chàng.
- Hôm nay! Ngay hôm nay! - Chàng nhẩm đi nhẩm lại một mình, - phải, ngay hôm nay: Phải thế mới được…
Chàng toan mở cửa thì đột nhiên cánh cửa tự nó mở ra. Chàng giật mình nhảy lùi lại. Cánh cửa mở từ từ và nhè nhẹ, và một bóng người bỗng hiện ra: con người hôm qua, con người từ dưới đất trồi lên.
Hắn dừng lại trên ngưỡng cửa, im lặng nhìn Raxkonikov và bước một bước vào phòng. Hắn vẫn y như hôm qua, cũng cái dáng dấp ấy, cũng ăn mặc như thế, nhưng vẻ mặt và khóe mắt của hắn đã thay đổi hắn: hôm nay trông hắn buồn rười rượi; hắn đứng yên một lát rồi buông một tiếng thở dài nặng trĩu. Chỉ thiếu đường hắn áp lòng bàn tay lên má, ngả đầu sang một bên nữa là sẽ trông hệt như một mụ đàn bà.
- Ông muốn gì? - Raxkonikov lặng người đi, hỏi.
Người kia im lặng một lát rồi bỗng cúi xuống gần sát đất chào chàng, ngón đeo nhẫn trên bàn tay phải chạm xuống sàn nhà.
- Ông làm gì thế - Raxkonikov kêu lên.
- Tôi có tội, - hắn đáp khẽ.
- Tội gì?
- Tội đã có ác ý với ông.
Hai người nhìn nhau một lát.
- Hôm ấy tôi bực quá. Hôm ấy ông đến đằng kia, có lẽ là đang say, bảo hai người gác cổng lên quận vả lại hỏi đến vũng máu, tôi rất bực mình khi thấy họ cứ để mặc ông, cho ông là người say rượu. Tôi giận đến nỗi đêm ấy không ngủ được nữa. Chúng tôi nhớ lại địa chỉ của ông, và hôm qua chúng tôi đã đến đây hỏi…
- Ai đến? - Raxkonikov ngắt lời, trong giây lát chàng đã bắt đầu nhớ ra.
- Tức là tôi ấy, tôi đã xúc phạm đến ông.
- Thế ông là người ở trong nhà ấy à?
- Vâng, tôi cùng ở đấy, lúc ấy tôi cùng đứng ở cổng với họ, ông quên rồi sao? Tôi cũng có một cửa hiệu ở đằng ấy, đã lâu. Chúng tôi làm nghề thuộc da lông thú, lĩnh việc về nhà làm… hôm ấy tôi bực nhất…
Và Raxkonikov bỗng nhớ lại rõ mồn một cả cái cảnh ngày hôm kia dưới cổng; chàng nhớ rằng ngoài hai người gác cổng còn có mấy người nữa đứng đấy, trong số đó có cả những người đàn bà. Chàng nhớ lại một giọng nói bảo cứ dẫn thẳng chàng lên quận. Diện mạo người nói câu ấy thì chàng không nhớ và ngay bây giờ chàng cũng không nhận ra, nhưng chàng vẫn còn nhớ là hôm ấy chàng có quay lại trả lời hắn…
Té ra cả cái cơn khiếp sợ ngày hôm qua của chàng chỉ vì thế. Khủng khiếp nhất là nghĩ rằng mình suýt chết, suýt làm hại mình chỉ vì một việc vô nghĩa như vậy. Thế nghĩa là ngoài chuyện đi thuê phòng và hỏi đến vũng máu ra, người kia không thể kể gì nữa cả. Thế nghĩa là Porfiri cũng không nắm được gì, không có gì hết, ngoài cái cơn mê sảng ấy, không có lấy một sự kiện nào ngoài cái tâm lý ấy ra, một căn cứ hai mặt, không có gì chắc chăn. Thế nghĩa là nếu không có sự kiện gì xuất hiện thêm nữa (mà nó không thể xuất hiện được, không được xuất hiện, không được) thì… thì chúng liệu có thể làm gì được chàng? Dù cho chúng có bắt chàng đi nữa, thì chúng lấy bằng cớ ở đâu mà kết tội chàng? Vả như thế cũng có nghĩa là mãi đến giờ, mãi vừa rồi Porfiri mới hiểu chuyện chàng đi "thuê phòng", chứ trước đấy hắn không hề hay biết gì.
- Chính ông đã nói với Porfiri hôm nay… là tôi có đến đằng ấy? - Chàng kêu lên, chợt nẩy ra một ý đột ngột.
- Porfiri nào? viên dự thẩm à?
- Tôi nói đấy. Hai người gác cổng không chịu đi, cho nên tôi đi!
- Hôm nay?
- Tôi đến trước ông có vài phút. Tôi đã nghe họ nói, nghe hết, tôi biết ông ấy hành tội ông như thế nào.
- Ở đâu? Thế nào? Lúc nào?
- Thì ngay ở đấy, sau cánh cửa ngăn ấy; tôi ngồi suốt ở đấy!
- Sao? Thế ra ông là cái "trò vui bất ngờ" ấy đấy phải không? Sao lại có thể như thế được nhỉ? Ông thử nói rõ ra xem?
- Thấy hai người gác cổng không chịu nghe tôi đi lên quận - người kia nói - vì đã muộn rồi, họ nói thế, hơn nữa lại sợ các quan mắng vì không lên báo ngay lúc ấy tôi bực mình quá mất cả ngủ, thế rồi tôi đi dò xem ông ở đâu. Hôm qua tôi đã dò được, thế là sáng hôm nay tôi lên quận. Lần thứ nhất tôi đến thì ông ta đi vắng. Một giờ sau tôi lại đến, thì họ knông tiếp, lần thứ ba họ mới cho vào. Tôi mới kể hết cho ông ta biết, thế là ông ta lồng lộn lên chạy khắp phòng, đấm ngực thùm thụp: "Quân kẻ cướp, chúng mày làm ăn với tao như thế à? Tao mà biết thế thì tao cho lính đến giải hắn về đồn ngay!" Rồi ông ta chạy ra gọi một người nào đến rồi kéo ra một góc nói thầm thì xong lại đến hỏi tôi và chửi vung lên một hồi. Tôi thuật hết lại cho ông ta biết và nói rằng hôm qua, khi tôi nói câu ấy, ông không dám trả lời gì cả và không nhận ra tôi. Ấy thế là ông ta lại chạy lồng lộn, đấm ngực, tức giận điên cuồng, rồi khi có người vào báo là ông đến, ông ta mới bảo tôi ra ngồi sau tấm ván ngăn, ngồi cho yên, có nghe gì cùng không được cựa quạy. Ông ta thân hành ra lấy một chiếc ghế và khoá trái tôi lại, "có lẽ ta sẽ gọi đến anh", ông ấy bảo thế. Và sau khi họ dẫn Mikolai đến. Ông vừa đi được một chút thì ông ấy tha tôi về ngay: "ta sẽ còn gọi anh đến hỏi nữa", ông ấy bảo thế…
- Trong khi ông ở đây, hắn có hỏi Mikolai à?
Ông vừa ra khỏi thì ông ấy cũng dẫn tôi ra luôn, rồi mới bắt đầu hỏi Mikolai.
Người tiểu thương ngừng nói và bỗng lại cúi mình chào, ngón tay chạm xuống sàn.
- Xin ông tha thứ cho tôi đã tố giác, làm hại ông.
- Cháu sẽ tha tội cho ông, - Raxkonikov đáp, và chàng vừa dứt lời thì người kia lại cúi chào một lần nữa, nhưng lần nầy không chào sát đất mà chỉ nghiêng mình thôi, chậm rãi quay đi và bước ra khỏi phòng.
"Toàn những bằng cứ hai mặtt. Bây giờ thì toàn những bằng cứ hai mặt thôi" - Raxkonikov nhẩm đi nhẩm lại, rồi bước ra khỏi phòng, vững tâm hơn bao giờ hết.
"Bây giờ ta sẽ con vật lộn với nhau" - Chàng tự nhủ với một nụ cười hằn học trong khi bước xuống thang gác. Nhưng chàng hằn học là hằn học với bản thân mình, chàng khinh bỉ và hổ thẹn nhớ lại cái thái độ "hèn nhát" của mình.
Tiếng ồn ào bên kia cửa ra vào bỗng tăng lên rất nhanh, và cánh cửa mở hé ra.
- Cái gì thế? - Porfiri Petrovich bực tức quát lên. - Ta đã dặn…
Thoạt tiên không có tiếng trả lời, nhưng cũng có thể đoán được là sau cánh cửa có một tốp người, hình như đang cố xô một người ra.
- Kìa, cái gì thế hả? - Porfiri Petrovich hỏi lại, giọng lo lắng.
- Chúng tôi giải tên tù đến, tên Mikolai đấy ạ, - Có tiếng ai đáp.
- Khoan hẵng! Dẫn đi! Đợi đã… Sao lại cho hắn vào đây? Lộn xộn quá chừng! - Porfiri chồm ra cửa quát lên.
- Nhưng hắn… - giọng nói lúc nầy cất lên nhưng rồi bỗng ngừng bặt.
Khoảng hai giây sau nghe có tiếng vật nhau huỳnh huỵch, rồi như có ai đẩy mạnh một người khác ra, rồi một người mặt tái mét bước thẳng vào phòng giấy Porfiri Petrovich.
Thoạt trông, dáng vẻ người ấy rất lạ. Hắn nhìn trân trân phía trước, nhưng tựa như không trông thấy gì cả. Mắt hắn ánh lên một quyết tâm dứt khoát nhưng mặt hắn lại nhợt nhạt như người chết, tưởng chừng như hắn đang bị đưa đi hành hình. Đôi môi trắng bệch của hắn khẽ run run.
Hắn còn rất trẻ, ăn mặc như hạng bình dân, tầm vóc trung bình, người gầy, tóc cắt thành hình cái gáo, nét mặt thanh tú và trông như khô khan. Người bị hắn xô lao vào phòng theo hắn trước tiên và nắm được vai hắn: đó là người lính đi áp giải, nhưng Mikolai quẫy tay một cái khiến hắn phải thả ra một lần nữa.
Một đám người hiếu kỳ xúm xít ngoài cửa. Có mấy người chực len vào. Tất cả những việc kể trên đều diễn ra trong một khoảnh khắc.
- Ra đi đã, chưa đến lúc! Đợi ta gọi hẵng vào chứ? Sao lại dẫn hắn đến sớm thế? - Porfiri Petrovich làu bàu, vẻ bực bội hết sức và dường như cuống quít lên.
Nhưng Mikolai bỗng quỳ xuống.
- Làm cái gì thế? - Porfiri quát, vẻ sửng sốt.
- Tôi có tội! Tôi xin thú! Tôi là kẻ giết người - Mikolai nói, giọng như hơi ngắc ngứ, nhưng khá to.
Mọi người lặng đi trong khoảng mười giây, như thể đều bị cấm khẩu; thậm chí người lính áp giải còn né người ra xa Mikolai, lùi dần về phía cửa và đứng sững ra đấy.
- Cái gì thế? - Porfiri Petrovich trấn tĩnh lại quát Tôi… là kẻ giết người… - Mikolai nhắc lại sau một phút im lặng.
- Sao… mày… Sao… Mày giết ai?
Porfiri Petrovich bối rối ra mặt. Mikolai lại im lặng một giây.
- Tôi giết Aliona Ivanovna và em gái bà ta, Lizaveta Ivanovna, tôi… giết… bằng rìu. Tôi bị quẫn trí… - vẫn quỳ như cũ, hắn nói thêm, rồi lại im bặt.
Porfiri Petrovich đứng yên một lát như suy nghĩ điều gì, nhưng rồi bỗng vùng vằng xua tay đuổi mấy người nhân chứng bất ngờ kia đi. Họ lui ra ngay, và cánh cửa khép lại. Porfiri đưa mắt về phía Raxkonikov đang đứng trong góc phòng ngây dại nhìn Mikolai, toan đi về phía chàng nhưng bỗng dừng lại nhìn chàng một lát rồi lập tức đưa mắt sang phía Mikolai, rồi lại nhìn sang Raxkonikov, rồi lại nhìn Mikolai, rồi đột nhiên như nổi xung lên, lại xông vào hắn.
- Mày đã vội nói chuyện quẫn trí với tao làm gì? - Porfiri quát lên, giọng gần như hằn học. - Tao đã hỏi mày có mù quáng hay không đâu, nói đi: mày giết người hả?
- Tôi là kẻ giết người… tôi xin cũng khai… - Mikolai nói.
- Chà? Mày giết bằng gì?
- Bằng rìu ạ. Tôi đã giấu sẵn.
- Chà! Vội thế! Một mình mày à?
Mikolai không hiểu câu hỏi.
- Một mình mày giết à?
- Một mình tôi. Còn Mitka không có tội tình gì, nó không can dự vào việc nầy.
- Nầy đừng có vội nói chuyện Mitka! Chà!… Thế lúc ấy mày làm thế nào chạy xuống thang gác? Mấy người gác cổng trông thấy cả hai đứa chúng mày kia mà?
- Đó là tôi muốn đánh lạc hướng… cho nên… mới chạy với Mitka, - Mikolai đáp vội, vẻ như đã nhằm sẵn từ trước.
- Thôi, đúng thật rồi! - Porfiri căm giận quát lên, - người ta mớm cho nó cái gì là nó tuôn ra y như thế! - y lẩm bẩm nói một mình: và chợt trông thấy Raxkonikov. Hình như ông ta mải chú ý đến Mikolai đến nỗi trong chốc lát quên bẵng cả Raxkonikov đi. Bây giờ sực nhớ ra và thậm chí còn lộ vẻ bối rối…
- Rodion Romanovich, anh ơi! Xin lỗi anh nhé, - y bước vội về phía chàng, - thế nầy không ổn đâu; xin anh… anh ở đây chẳng có ích lợi gì cả… chính tôi cũng… anh thấy đấy, thật là những chuyện bất ngờ! Xin mời anh…
Rồi cầm tay chàng, Porfiri chỉ ra cửa.
- Hình như ông không ngờ thì phải? - Raxkonikov nói, dĩ nhiên chàng cùng chưa hiểu gì lắm, nhưng đã có đủ thời giờ vững tâm hẳn trở lại.
- Thì anh cũng có ngờ đâu, anh bạn! Kìa tay anh vẫn còn run bắn lên kia kìa, hê hê…
Nhưng anh cũng run đấy thôi, ông Porfiri Petrovich ạ?
- Tôi cũng run. Tôi cũng không ngờ!
Hai người đã ra đến cửa. Porfiri sốt ruột đợi Raxkonikov ra.
- Thế ông không cho tôi xem cái trò bất ngờ kia nữa à? - Raxkonikov hỏi.
- Nói thì ra dáng thế, nhưng răng cứ đánh vào nhau côm cốp, hề hề. Anh có khiếu châm biếm lắm. Thôi, xin chào anh.
- Theo tôi thì xin vĩnh biệt mới đúng.
- Cái đó còn tuỳ ý Chúa, còn tuỳ ý Chúa! - Porfiri lẩm bẩm: môi có rúm lại thành một thứ nụ cười.
Khi đi qua vẫn phòng sở cảnh sát, Raxkonikov nhận thấy có nhiều người chăm chú nhìn chàng. Ở phòng mắc áo trong đám đông chàng kịp nhận ra hai người gác cổng ở nhà ấy. Hai người mà tối hôm kia chàng đã rủ lên quận cảnh sát. Họ đang đứng đợi cái gì không rõ. Nhưng vừa ra đến đầu thang gác, chàng bỗng nghe giọng nói của Porfiri Petrovich léo nhéo ở sau lưng. Ngoảnh lại, chàng thấy y đang chạy theo, thở hổn hển.
- Xin thưa một câu nữa, anh Rodion Romanovich ạ, về tất cả những việc nầy thì xin tùy ý Chúa, nhưng dù sao theo thủ tục sau nầy cùng cần hỏi thêm anh dăm câu… cho nên chúng ta sẽ còn gặp nhau đấy, thế đấy!
Và Porfiri tươi cười dừng lại trước mặt chàng.
- Thế đấy - Y nhắc lại.
Có thế phỏng đoán rằng y còn muốn nói gì nữa, nhưng chẳng hiểu sao không nói ra được.
- Còn tôi thì tôi xin ông bỏ qua cho những chuyện ban nãy, ông Porfiri Petrovich ạ… tôi hơi nóng, - Raxkonikov nói; bấy giờ chàng đã hoàn toàn vững tâm trở lại, đến nỗi cứ muốn lên mặt khiêu khích hắn chơi, một ý muốn không sao cưỡng nổi.
- Không sao, không sao, - Porfiri đáp, vẻ hầu như mừng rỡ… - Chính tôi cũng thế… Tính tôi thật độc địa, rất ân hận, rất ân hận. Đấy, chung ta sẽ còn gặp nhau. Nếu Chúa thuận tình, ta sẽ còn gặp nhau nhiều, còn gặp nhau nhiều?
- Và sẽ biết nhau đến nơi đến chốn? - Raxkonikov đệm thêm.
- Và sẽ biết nhau đến nơi đến chốn, - Porfiri Petrovich tán đồng, và nheo mắt nhìn chàng, vẻ rất nghiêm trang. - Bây giờ anh đi dự lễ thánh?
- Lễ an táng.
- À quên, lễ an táng! Anh chú ý giữ gìn sức khỏe nhé, sức khỏe ấy…
- Còn về phần tôi thì không biết chúc ông thế nào đây! - Raxkonikov đáp, chàng đã bước xuống cầu thang nhưng lại ngoảnh về phía Porfiri, - tôi cũng muốn chúc ông thành công, nhưng ông cũng thấy đấy, chức vụ của ông nó khôi hài quá.
- Sao lại khôi hài? - Porfiri Petrovich lúc bấy giờ đã quay đi, cùng lại lập tức vểnh tai lên.
- Còn sao nữa, đấy như cái thằng Mikolai khốn khổ kia chắc đã bị ông hành hạ giầy vò theo cái kiểu tâm lý học của ông mãi cho đến khi nó chịu nhận mới thôi; chắc suốt đêm suốt ngày ỏng cứ nhắc đi nhắc lại với hắn: "Mày là kẻ giết người, mày là kẻ giết người…" Thế rồi đến bấy giờ hắn chịu nhận, ông lại bắt đầu nhồi vào sọ hắn một bài khác: "Mày nói láo không phải mày là kẻ giết người! Mày không thể là kẻ giết người được. Người ta mớm cho cái gì cũng nói ra y như thế?". Đấy, như thế mà còn bảo cái nghề của ông không khôi hài nữa hay sao?
- Hê - hê - hê? Thế ra anh cũng để ý vừa rồi tôi có nói với Mikolai là "mớm cho cái gì hắn cũng nói" à?
- Sao lại không để ý?
- Hê - hê! Anh sắc sảo lắm, sắc sảo lắm. Cái gì anh cũng nhận thấy hết. Thật là một bộ óc có khiếu châm biếm! Anh đã bấm đúng vào phím hài hước… hê - hê! Nghe nói trong số các nhà văn thì Gogol là người có khiếu ấy nhiều hơn cả phải không?
- Phải, Gogol.
- Phải, Gogol… xin chào, rất mong được gặp ông lại - Xin chào, rất mong được gặp ông lại…
Raxkonikov đi thẳng về nhà. Chàng mệt mỏi và hoang mang đến nỗi về đến nhà, chàng thả mình rơi phịch xuống đi-văng và ngồi thừ ra như thế trong mười lăm phút, chi để cho đỡ mệt và sắp xếp lại được phần nào những ý nghĩ đang rối tung lên trong đầu. Về Mikolai chàng cũng không buồn tìm cách cắt nghĩa xem sao nữa: chàng cảm thấy mình sửng sốt quá chừng, chàng thấy rằng trong những lời thú nhận của Mikolai có một cái gì vô lý, kỳ lạ mà hiện nay chàng không tài nào hiểu nổi. Nhưng những lời thú nhận đó là một việc có thật. Chàng thấy rõ ngay những hiệu quả của việc ấy trước sau rồi người ta cũng phát hiện ra hắn nói dối, và lại sẽ quay sang chàng. Nhưng ít nhất từ giờ cho đến khi ấy chàng cũng được tự do và nhất thiết phải làm một cái gì để tự vệ, vì nguy cơ nầy không sao tránh khỏi.
Nhưng nguy đến mức nào? Tình hình bắt đầu rõ nét ra; khi nhớ lại đại khái cuộc nói chuyện với Porfiri, chàng không khỏi một lần nữa rùng mình khiếp sợ. Dĩ nhiên chàng chưa biết hết chủ tâm của Porfiri, chưa thể hiểu thấu được tất cả những mưu mô của y lúc bấy giờ. Nhưng thủ đoạn của y cũng đã lộ rõ một phần, và dĩ nhiên, hơn ai hết. Raxkonikov hiểu rõ "nước cờ" của Porfiri đáng sợ đến nhường nào. Chí một chút nữa thôi là chàng đã có thể tiết lộ hoàn toàn, lần nầy có bằng chứng hẳn hỏi. Biết rõ cái tâm lý bệnh tật của chàng và ngay từ đầu đã nắm vững và soi thấu vào tim gan chàng. Porfiri đã hành động một cách tuy quá mạnh dạn, nhưng hầu như chắc chắn, không còn nghi ngờ gì nữa, lúc nãy Raxkonikov đã sơ hở quá nhiều, nhưng vẫn chưa đến nỗi tiết lộ những sự việc cụ thể; tất cả vẫn còn là tương đối. Nhưng dù sao, liệu bây giờ chàng có quan niệm được sự việc vừa xảy ra một cách đúng đắn hay không? Liệu chàng có lầm không? Hôm nay Porfiri muốn đưa đến kết quả nào? Cụ thể hắn muốn gì? Có thật là hắn đang chờ đợi một cái gì không?
Ví thử không có Mikolai xuất hiện bất thình lình làm cho cơ sự hỏng bét ra, hai người sẽ chia tay nhau như thế nào?
Porfiri đã để lộ gần hết các nước cờ của ông ta; dĩ nhiên như vậy cũng liều lĩnh, nhưng quả ông ta đã cố để lộ ra; và Raxkonikov có cảm tưởng rằng nếu Porfiri còn biết gì hơn, y cũng sẽ để lộ ra nốt. Cái "trò bất ngờ" ấy là cái gì? Một trò đùa dai chăng? Nó có nghĩa gì không? Nó có thể che giấu một cái gì giổng như một sự kiện, một lời buộc tội có căn cứ không? Con người hôm qua chăng? Hắn biến đi đàng nào? Hôm nay hắn ở đâu? Vì nếu Porfiri có nắm được một cái gì chắc chắn, thì dĩ nhiên cái đó phải có liên quan đến người hôm qua…
Chàng ngồi trên đi-văng, đầu gục xuống, hai khuỷu tay chống lên đầu gối, hai bàn tay bưng lấy mặt. Khắp người chàng vẫn còn run lên từng cơn. Cuối cùng chàng đứng dậy, lấy mũ, nghĩ ngợi một lát và bước ra cửa.
Không hiểu sao chàng cứ có cảm giác là ít nhất ngày hôm nay chàng có thể coi như mình ở ngoài vòng nguy biến. Chàng chợt thấy vui vui trong lòng: chàng muốn đi cho nhanh đến nhà Katerina Ivanovna. Đến dự lễ an táng thì dĩ nhiên là muộn mất rồi, nhưng dự tiệc tang thì còn kịp, và ở đây, chỉ lát nữa, chàng sẽ được gặp Sonya.
Chàng dừng lại suy nghĩ, và một nụ cười yếu ớt hiện lên trên môi chàng.
- Hôm nay! Ngay hôm nay! - Chàng nhẩm đi nhẩm lại một mình, - phải, ngay hôm nay: Phải thế mới được…
Chàng toan mở cửa thì đột nhiên cánh cửa tự nó mở ra. Chàng giật mình nhảy lùi lại. Cánh cửa mở từ từ và nhè nhẹ, và một bóng người bỗng hiện ra: con người hôm qua, con người từ dưới đất trồi lên.
Hắn dừng lại trên ngưỡng cửa, im lặng nhìn Raxkonikov và bước một bước vào phòng. Hắn vẫn y như hôm qua, cũng cái dáng dấp ấy, cũng ăn mặc như thế, nhưng vẻ mặt và khóe mắt của hắn đã thay đổi hắn: hôm nay trông hắn buồn rười rượi; hắn đứng yên một lát rồi buông một tiếng thở dài nặng trĩu. Chỉ thiếu đường hắn áp lòng bàn tay lên má, ngả đầu sang một bên nữa là sẽ trông hệt như một mụ đàn bà.
- Ông muốn gì? - Raxkonikov lặng người đi, hỏi.
Người kia im lặng một lát rồi bỗng cúi xuống gần sát đất chào chàng, ngón đeo nhẫn trên bàn tay phải chạm xuống sàn nhà.
- Ông làm gì thế - Raxkonikov kêu lên.
- Tôi có tội, - hắn đáp khẽ.
- Tội gì?
- Tội đã có ác ý với ông.
Hai người nhìn nhau một lát.
- Hôm ấy tôi bực quá. Hôm ấy ông đến đằng kia, có lẽ là đang say, bảo hai người gác cổng lên quận vả lại hỏi đến vũng máu, tôi rất bực mình khi thấy họ cứ để mặc ông, cho ông là người say rượu. Tôi giận đến nỗi đêm ấy không ngủ được nữa. Chúng tôi nhớ lại địa chỉ của ông, và hôm qua chúng tôi đã đến đây hỏi…
- Ai đến? - Raxkonikov ngắt lời, trong giây lát chàng đã bắt đầu nhớ ra.
- Tức là tôi ấy, tôi đã xúc phạm đến ông.
- Thế ông là người ở trong nhà ấy à?
- Vâng, tôi cùng ở đấy, lúc ấy tôi cùng đứng ở cổng với họ, ông quên rồi sao? Tôi cũng có một cửa hiệu ở đằng ấy, đã lâu. Chúng tôi làm nghề thuộc da lông thú, lĩnh việc về nhà làm… hôm ấy tôi bực nhất…
Và Raxkonikov bỗng nhớ lại rõ mồn một cả cái cảnh ngày hôm kia dưới cổng; chàng nhớ rằng ngoài hai người gác cổng còn có mấy người nữa đứng đấy, trong số đó có cả những người đàn bà. Chàng nhớ lại một giọng nói bảo cứ dẫn thẳng chàng lên quận. Diện mạo người nói câu ấy thì chàng không nhớ và ngay bây giờ chàng cũng không nhận ra, nhưng chàng vẫn còn nhớ là hôm ấy chàng có quay lại trả lời hắn…
Té ra cả cái cơn khiếp sợ ngày hôm qua của chàng chỉ vì thế. Khủng khiếp nhất là nghĩ rằng mình suýt chết, suýt làm hại mình chỉ vì một việc vô nghĩa như vậy. Thế nghĩa là ngoài chuyện đi thuê phòng và hỏi đến vũng máu ra, người kia không thể kể gì nữa cả. Thế nghĩa là Porfiri cũng không nắm được gì, không có gì hết, ngoài cái cơn mê sảng ấy, không có lấy một sự kiện nào ngoài cái tâm lý ấy ra, một căn cứ hai mặt, không có gì chắc chăn. Thế nghĩa là nếu không có sự kiện gì xuất hiện thêm nữa (mà nó không thể xuất hiện được, không được xuất hiện, không được) thì… thì chúng liệu có thể làm gì được chàng? Dù cho chúng có bắt chàng đi nữa, thì chúng lấy bằng cớ ở đâu mà kết tội chàng? Vả như thế cũng có nghĩa là mãi đến giờ, mãi vừa rồi Porfiri mới hiểu chuyện chàng đi "thuê phòng", chứ trước đấy hắn không hề hay biết gì.
- Chính ông đã nói với Porfiri hôm nay… là tôi có đến đằng ấy? - Chàng kêu lên, chợt nẩy ra một ý đột ngột.
- Porfiri nào? viên dự thẩm à?
- Tôi nói đấy. Hai người gác cổng không chịu đi, cho nên tôi đi!
- Hôm nay?
- Tôi đến trước ông có vài phút. Tôi đã nghe họ nói, nghe hết, tôi biết ông ấy hành tội ông như thế nào.
- Ở đâu? Thế nào? Lúc nào?
- Thì ngay ở đấy, sau cánh cửa ngăn ấy; tôi ngồi suốt ở đấy!
- Sao? Thế ra ông là cái "trò vui bất ngờ" ấy đấy phải không? Sao lại có thể như thế được nhỉ? Ông thử nói rõ ra xem?
- Thấy hai người gác cổng không chịu nghe tôi đi lên quận - người kia nói - vì đã muộn rồi, họ nói thế, hơn nữa lại sợ các quan mắng vì không lên báo ngay lúc ấy tôi bực mình quá mất cả ngủ, thế rồi tôi đi dò xem ông ở đâu. Hôm qua tôi đã dò được, thế là sáng hôm nay tôi lên quận. Lần thứ nhất tôi đến thì ông ta đi vắng. Một giờ sau tôi lại đến, thì họ knông tiếp, lần thứ ba họ mới cho vào. Tôi mới kể hết cho ông ta biết, thế là ông ta lồng lộn lên chạy khắp phòng, đấm ngực thùm thụp: "Quân kẻ cướp, chúng mày làm ăn với tao như thế à? Tao mà biết thế thì tao cho lính đến giải hắn về đồn ngay!" Rồi ông ta chạy ra gọi một người nào đến rồi kéo ra một góc nói thầm thì xong lại đến hỏi tôi và chửi vung lên một hồi. Tôi thuật hết lại cho ông ta biết và nói rằng hôm qua, khi tôi nói câu ấy, ông không dám trả lời gì cả và không nhận ra tôi. Ấy thế là ông ta lại chạy lồng lộn, đấm ngực, tức giận điên cuồng, rồi khi có người vào báo là ông đến, ông ta mới bảo tôi ra ngồi sau tấm ván ngăn, ngồi cho yên, có nghe gì cùng không được cựa quạy. Ông ta thân hành ra lấy một chiếc ghế và khoá trái tôi lại, "có lẽ ta sẽ gọi đến anh", ông ấy bảo thế. Và sau khi họ dẫn Mikolai đến. Ông vừa đi được một chút thì ông ấy tha tôi về ngay: "ta sẽ còn gọi anh đến hỏi nữa", ông ấy bảo thế…
- Trong khi ông ở đây, hắn có hỏi Mikolai à?
Ông vừa ra khỏi thì ông ấy cũng dẫn tôi ra luôn, rồi mới bắt đầu hỏi Mikolai.
Người tiểu thương ngừng nói và bỗng lại cúi mình chào, ngón tay chạm xuống sàn.
- Xin ông tha thứ cho tôi đã tố giác, làm hại ông.
- Cháu sẽ tha tội cho ông, - Raxkonikov đáp, và chàng vừa dứt lời thì người kia lại cúi chào một lần nữa, nhưng lần nầy không chào sát đất mà chỉ nghiêng mình thôi, chậm rãi quay đi và bước ra khỏi phòng.
"Toàn những bằng cứ hai mặtt. Bây giờ thì toàn những bằng cứ hai mặt thôi" - Raxkonikov nhẩm đi nhẩm lại, rồi bước ra khỏi phòng, vững tâm hơn bao giờ hết.
"Bây giờ ta sẽ con vật lộn với nhau" - Chàng tự nhủ với một nụ cười hằn học trong khi bước xuống thang gác. Nhưng chàng hằn học là hằn học với bản thân mình, chàng khinh bỉ và hổ thẹn nhớ lại cái thái độ "hèn nhát" của mình.
Chương 25
Buổi sáng kế theo cuộc giãi bày tai hại đối với Piotr
Petrovich đã diễn ra giữa ông ta với Dunia và Punkheria Alekxandrovna, cũng đã
có tác dụng làm cho ông ta tỉnh ngộ. Ông ta dần dần buộc lòng phải nhận rằng việc
vừa rồi quả là một sự kiện có thật và không sao hoán cái được nữa, mặc dầu ông
ta hết sức khó chịu và vẫn thấy đó là một việc hầu như hoang đường, tuy đã xảy
ra thật, nhưng vẫn vô lý hết sức, không thể nào tưởng tượng được. Lòng tự ái bị
tổn thương cắn rứt tâm can ông suốt đêm hôm ấy như một con rắn độc. Bước xuống
giường, Piotr Petrovich lập tức đến soi gương. Ông ta lo sợ không biết đêm qua
trằn trọc như vậy, mặt mình có vàng võ đi chăng?
Song về mặt nầy thì hiện không có gì đáng lo ngại: nhìn vào cái dung mạo quý phái, trắng trẻo và hơi phát phì ra trong thời gian gần đây, Piotr Petrovich trong chốc lát lại thấy nguôi lòng, tin chắc mình sẽ lại kiếm được ý trung nhân ở một nơi nào khác, có lẽ lại còn tươm hơn ai kia nữa; nhưng chỉ trong khoảnh khắc ông lại sực nhớ ra và nhổ toẹt sang một bên, khiến ông bạn trẻ cùng trọ một phòng là Andrey Xemionovich Lebeziatnikov phải mỉm cười: một nụ cười lặng lẽ nhưng đầy ý nhạo báng. Piotr Petrovich để ý thấy nụ cười và lập tức ghi vào số ký ức. Trong thời gian gần đây ông ta đã ghi vào số ký ức rất nhiều điều về ông bạn trẻ. Lòng căm giận của ông càng tăng gấp bội khi ông chợt nghĩ ra rằng đáng lẽ không nên cho Lebeziatnikov biết những chuyện xảy ra hôm qua. Đó là việc sai lầm thứ hai ông đã vì nóng nảy mà mắc phải trong ngày hôm ấy: trong cơn tức giận ông đã thỏ lộ quá nhiều… Rồi suốt buổi sáng hôm đó, những chuyện bực mình cứ liên tiếp dồn đến. Ngay như ở Nguyên lão viện, công việc ông đang lo toan cũng thất bại. Nhưng người làm ông bực mình nhất là cái lão chủ căn nhà ông đã thuê để chuẩn bị cưới vợ và chịu xuất tiền tu sửa, một lão thợ thủ công người Đức mới giàu lên: lão ta một mực không chịu huỷ bỏ giao kèo và khăng khăng đòi thực hiện từng khoản một, mặc dầu Piotr Petrovich đã giao lại cho lão căn nhà hầu như đã được tu sửa thành một căn nhà mới. Ở cửa hàng đồ gỗ cũng vậy, họ nhất định không chịu trả lại một rúp nào trong số tiền đặt cọc mua hàng, tuy ông chưa chở về nhà lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế nào cả. "Chả nhẽ ta lại ẵm một mụ vợ khác mà cưới để có cơ dùng bàn ghế".
Piotr Petrovich nghiến răng càu nhàu một mình, nhưng cũng lúc ấy một ý nghĩ tuyệt vọng lại thoáng hiện lên: "Nhưng có lẽ nào việc nầy lại hỏng bét không phương cứu chữa? Lẽ nào lại không cố thử một lần nữa xem sao? Hình ảnh quyến rũ của Dunia một lần nữa lại xói vào tim ông ta nhức nhối. Piotr Petrovich đau khổ sống qua giờ phút nầy, và dĩ nhiên nếu giờ đây có thể ước nguyện cho trời tru đất diệt Raxkonikov, ông ta sẽ khấn to lời ước nguyện đó lên ngay lập tức.
"Ngoài ra mình lại còn phạm một sai lầm nữa là không hề đưa tiền cho họ, - Ông nghĩ thầm trong khi buồn rầu trở về phòng Lebeziatnikov - mẹ kiếp, không hiểu sao mình lại đâm ra bùn xỉn thế? Thậm chí mình cũng không biết tính lỗ lãi nữa. Mình trù tính để cho họ túng bấn ít lâu để rồi họ xem mình như một vị cứu tinh, thế mà lại để họ bay biến đi mất! Xì! Không, giá thời gian qua mình thí cho họ độ một nghìn rưỡi đề mua đồ cưới, mua quà cáp, sắm ít hộp đồ tư trang vụn vặt và ít vải vóc hay những của khỉ gì đấy ở hiệu Knop hay hiệu tạp hoá Anh, thì công chuyện sẽ tươm tất hơn… và vững chắc hơn! Họ sẽ không từ khước một cách dễ dàng như thế nầy! Cái hạng người ấy mà đã từ khước thì thế nào cũng tự cho mình có bổn phận trả lại hết các thứ quà cáp và tiền bạc, mà trả thì khó, tiếc lắm! Mà lương tâm cũng không yên: ai lại đi đuổi một người xưa nay vẫn hào phóng và tế nhị như vậy? Hừm! Mình hớ to rồi? Đoạn nghiến răng kèn kẹt một lần nữa, Piotr Petrovich chửi mình là đồ ngốc… chửi thầm, cố nhiên.
Đi đến kết luận đó, ông ta về nhà cau có và hằn học gấp bội so với khi ông ta đi. Những công việc sửa soạn dọn tiệc tang ở nhà Katerina Ivanovna cùng thu hút trí tò mò của ông một phần. Từ hôm qua ông ta đã có nghe phong thanh về bữa tiệc tang nầy; ông lại còn nhớ mường tượng rằng họ có mời ông thì phải; nhưng vì đang mải lo việc riêng nên ông không chú ý gì đến những chuyện ấy ông bèn vội vàng sang hỏi bà Lippevekzen đang lăng xăng bên chiếc bàn đã trải khăn ăn trong khi bà Katerina Ivanovna còn bận ngoài nghĩa địa: thì được biết rằng bữa tiệc tang sẽ tổ chức trọng thế, hầu hết các khách trọ trong nhà đều được mời đến, ngay cả những người không quen người quá cố, cho chí ông Andrey Xemionovich cũng vậy tuy cách đây không lâu ông ta có chuyện xích mích với Katerina Ivanovna, và cuối cùng là chính bản chân ông Piotr Petrovich không những được mời mà lại còn được mong mời thiết tha nữa, vì ông hầu như là vị khách trọng yếu nhất trọ trong nhà nầy. Đến như bà Amalya Ivanovna cũng được mời mọc một cách kính cẩn, bất chấp những chuyện lôi thôi trước đây, cho nên bây giờ bà ta đang lo lắng dọn dẹp, sai bảo như bà chủ nhà, và hầu như cũng cảm thấy thú vị trong việc nầy. Hơn nữa bà ta lại ăn mặc rất sang, tuy là kiểu áo tang nhưng cũng may bằng lụa mới tinh, ren thùa lộng lẫy, và rất lấy làm hãnh diện với cách trang phục đó. Những tin tức thu lượm được gợi cho Piotr Petrovich một ý định, và ông trở về phòng riêng, tức là phòng của Andrey Xemionovich Lebeziatnikov, trong một tâm trạng có phần đăm chiêu tư lự. Số là ông cũng được biết rằng trong các khách khứa được mời đến dự tiệc có cả Raxkonikov.
Andrey Xemionovich suốt buổi sáng hôm ấy ở nhà. Giữa ông ta với Piotr Petrovich đã hình thành những mối quan hệ kỳ lạ, song cũng có phần tự nhiên: Piotr Petrovich khinh miệt và thù ghét ông ta không bỏ đâu cho hết hầu như ngay từ hôm đầu đến ở đât, nhưng mặt khác lại dường như có ý sợ ông ta. Lên Petersburg, Piotr Petrovich đến ở nhà Andrey Xemionovich không phải chỉ vì tính tằn tiện bủn xỉn: hình như đó chính là lý do chủ yếu, nhưng ngoài ra lại còn một lý do khác nữa. Hồi còn tỉnh nhỏ ông ta đã có nghe nói Andrey Xemionovich, người trước kia được ông ta làm giám hộ, là một trong những người thanh niên tiến bộ hăng hái nhất và hơn nữa còn đóng một vai trò quan trọng trong một số tổ chức ly kỳ, gần như huyễn hoặc. Điều đó gieo một ấn tượng khá mạnhvào óc Piotr Petrovich. Tất cả những tập đoàn đó, gồm những kẻ có thế lực, biết nhiều, khinh miệt và lên án mọi người, đã từ lâu gây nên trong lòng Piotr Petrovich một mối sợ hãi đặc biệt song cũng hết sức mơ hồ. Dĩ nhiên, nhất là hồi ở tỉnh nhỏ, ông ta không thể nào có một khái niệm chính xác hay dù chỉ gần đúng thôi cũng vậy, về những việc đại loại như thế. Cũng như mọi người, ông có nghe nói có những đảng phải gọi là tiến bộ, hư vô chủ nghĩa, những phải tố cáo v.v, nhất là ở Petersburg; nhưng cũng như nhiều người khác, ông ta phóng đại và bóp méo ý nghĩa những danh từ nầy đến mức quái gở. Đã mấy năm nay ông ta sợ nhất những vụ tố cáo công khai, và đó chính là điều chủ yếu khiến ông luôn luôn lo lắng quá mức, nhất là khi tính chuyện dọn lên Petersbung hoạt động. Về mặt nầy ông phát hoảng lên như trẻ nhỏ thường phát hoảng. Cách đây mấy năm, hồi còn ở tính nhỏ, khi mới bắt đầu xây dựng sự nghiệp, ông đã gặp hai trường hợp những nhân vật khá quan trọng bị tố cáo công khai một cách tàn nhẫn, lại là những người ông ta vẫn bấu víu, nương tựa. Một trong hai vụ đó kết thúc một cách đặc biệt nhục nhã cho người bị tố cáo, còn vụ kia thì thậm chí đã suýt thành chuyện lôi thôi to. Chính vì thế cho nên Piotr Petrovich đã định hễ đến Petersbung là tìm hiểu ngay tình thế, và nếu cần, phải đón trước và lấy lòng "các thế hệ trẻ". Về mặt nầy ông trông mong vào Andrey Xemionovich và khi đến thăm Raxkonikov chẳng hạn, ông cũng đã tuôn ra được dăm câu học lỏm. Dĩ nhiên chẳng mấy lâu ông ta đã có đủ thì giờ thấy rõ Andrey Xemionovich là một con người hết sức tầm thường và khá ngờ nghệch. Nhưng điều đó không hề mảy may làm cho Piotr Petrovich thay đổi định kiến và vững tâm thêm.
Dù ông có thấy rõ rằng bọn tiến bộ cũng đều là những tay ngốc nghếch cả, thì ông cũng không bớt lo lắng chút nào. Nói cho đúng ra. Ông không hề quan tâm đến những học thuyết, tư tưởng, hệ thống mà Andrey Xemionovich không ngớt nhồi vào tai ông. Ông có một mục đích riêng. Ông chỉ cần biết ngay: càng sớm càng tôi, là tình hình ở đây ra sao? Những con người ấy có thế lực hay không? Bản thân có điều gì đáng sợ không? Nếu ông mưu toan việc nầy việc nọ thì họ có tố cáo hay không, nếu họ tố cáo, thì cụ thể họ sẽ lên án cái gì, và đặc biệt hiện nay họ đang tố cáo cái gì. Thế vẫn chưa đủ: liệu có cách gì ẩn ý với họ và lợi dụng họ, nếu quá họ có thế lực thật? Có cần phải làm như thế không? Chẳng hạn, liệu có thể nhờ chính họ làm trung gian đề ngấm ngầm xây dựng một cái gì trên con đường sự nghiệp không. Nói tóm lại, trước mắt có đến hàng trăm vấn đề.
Andrey Xemionovich là một người công chức khẳng kheo, nước da vàng vọt, người thấp bé, râu và tóc vàng một cách kỳ lạ, rất hãnh diện với bộ ria má tia thành cốt-lét. Hơn nữa ông ta luôn luôn đau mắt. Tính ông ta hơi nhu nhược, nhưng ăn nói thì lại khá chững chạc quả quyết và đôi khi còn rất bạo miệng nữa: lối ăn nói đó bao giờ cũng gây một sự tương phản buồn cười với dáng người loắt choắt của ông ta. Ở nhà bà Amalya Ivanovna ông được liệt vào hạng khách trọ đứng đắn, nghĩa là không rượu chè bê tha và trả tiền nhà sòng phẳng. Tuy có những đức tính đó, Andrey Xemionovich quả nhiên vẫn hơi khờ khạo. Ông ta nhiệt thành hướng theo phái tiến bộ và "các thế hệ trẻ của chúng ta". Đó là một trong vô số những hạng nhãi con quặt quẹo dốt nát, hợm hĩnh và tầm thường làm thành cái lũ ô hợp bao giờ cũng chộp lấy tư tưởng thời thượng nhất để rồi lập tức làm cho nó hoá ra dung tục, biến tất cả thành một thứ biếm hoạ, mặc dầu cũng có khi họ phụng sự những lý tưởng đó một cách hết sức chân thành.
Và chăng, Lebeziatnikov tuy là người rất tốt bụng, nhưng cũng bắt đầu thấy khó chịu với người cùng trọ và là người giám hộ cũ của mình: Piotr Petrovich. Cả hai bên đều đâm ra có ác cảm với nhau như vậy một cách tự phát. Tuy Andrey Xemionovich quả có khờ khạo thật, nhưng dần dần cũng bắt đầu thấy rõ Piotr Petrovich lợi dụng mình và trong thâm tâm vẫn khinh miệt mình, rằng "con người nầy có một cái gì không thật". Andrey Xemionovich đã thử trình bày cho ông ta nghe về hệ thống của Fourier và học thuyết Darwin, nhưng Piotr Petrovich, nhất là ít lâu nay, bắt đầu có thái độ quá ngạo nghễ trong khi nghe, và mấy ngày vừa qua lại còn lên tiếng chửi bới nữa. Số là do bản năng ông ta đã bắt đầu hiểu ra rằng Lebeziatnikov không những là một kẻ tầm thường và ngốc nghếch, mà có lẽ lại còn là một tay khoác lác nữa, và không hề có thế lực gì đáng kể ngay trong tập đoàn của hắn cũng vậy, chẳng qua chỉ được người ta mớm lại cho thôi: hơn nữa, ngay cả cái nghề của hắn ta là nghề tuyên truyền, có lẽ hắn cùng không biết cho đến nơi đến chốn, cho nên thường hay lúng túng quá mức, còn nói gì đến chuyện hắn có thể tố cáo ai. Nhân tiện cũng xin nói qua rằng mươi ngày gần đây, nhất là hồi đầu, Piotr Petrovich vui lòng nhận những lời tâng bốc khá kỳ quặc của Andrey Xemionovich, nghĩa là ông ta lặng thinh không cãi lại khi Andrey Xemionovich gán cho ông cái sẵn sàng góp phần vào việc xây dựng một "công xã" mới sắp tổ chức ở một nơi nào trên phô Mesanxkaya; hay là không cản trở Dunia, nếu ngay trong tháng đầu chung sống, cô ta nảy ra ý bắt nhân tình chẳng hạn; hoặc giả không rửa tội cho con cái sau nầy v.v… và v.v… đại loại như thế. Theo thói thường, Piotr Petrovich không cải chính những đức tính mà người ta gán cho mình, dù nó có kỳ quặc như thế nữa thì ông cũng để yên, vì bất cứ lời tâng bốc nào cũng đều làm cho ông thích thú.
Sáng hôm ấy Piotr Petrovich vừa đi đổi mấy xấp giấy bạc về, đang ngồi trước bàn đếm lại. Andrey Xemionovich, xưa nay hầu như không bao giờ có tiền, đang đi lại trong phòng và vờ làm ra vẻ như nhìn những xấp giấy bạc ấy một cách dửng dưng, thậm chí còn khinh bỉ nữa. Ngược lại, Piotr Petrovich không đời nào có thể tin rằng Andrey Xemionovich thật tình có thể nhìn mớ tiền ấy một cách thản nhiên; về phần mình Andrey Xemionovich lại chua chát nghĩ rằng quả nhiên Piotr Petrovich có thể nghĩ về mình như vậy, có lẽ lại còn hài lòng vì có dịp trêu thêm ông bạn trẻ với mấy xấp giấy bạc bày la liệt trên bàn, nhắc cho ông bạn nhớ đến cái thân phận hẩm hiu của mình và thấy hết sự khác nhau rõ rệt giữa hai người.
Lần nầy Andrey Xemionovich thấy Piotr Petrovich có vẻ cáu bẩn và lơ đãng hơn hẳn mọi khi, tuy ông ta đã bắt vào câu chuyện ưa thích nhất là việc thành lập một "công xã" đặc biệt. Những câu nhận xét và bắt bẻ nhát gừng mà Piotr Petrovich thốt lên trong khi thấy những hòn xâu kêu lách cách trên chiếc bàn tính, lộ rõ ý giễu cợt vô lề và cố tình. Nhưng Andrey Xemionovich vốn là người "nhân đạo", nghĩ rằng tâm trạng Piotr Petrovich là do cuộc đoạn tuyệt với Dunia hôm qua mà ra, và nóng lòng muốn chuyển câu chuyện sang vấn đề ấy; ông ta có những ý kiến rất tiến bộ và có tác dụng tuyên truyền để đem nói về việc nầy, có thể an ủi ông bạn đáng kính, và "chắc chắn" sẽ giúp cho ông ta tiến bộ thêm.
- Ở nhà cái mụ… cái bà quả phụ ấy dọn tiệc tùng gì thế? - Piotr Petrovich bỗng ngắt lời Andrey Xemionovich ở đoạn lý thú nhất.
- Làm như thể ông không biết ấy? Hôm qua tôi đã trình bày cho ông nghe ý kiến của tôi về các thứ lễ nghi ấy rồi mà… Bà ta cũng có mời cả ông nữa, tôi nghe nói thế. Hôm qua chính ông cũng có nói chuyện với bà ta…
- Tôi không thể ngờ cái con mẹ ngốc nghèo kiết ấy lại đem hết số tiền của cái thằng ngốc kia cho ra dọn tiệc. Ngay lúc nãy đi ngang qua nhà mụ, tôi cũng vẫn lấy làm lạ: sửa soạn nhặng xị cả lên, lại có cả rượu riếc nữa! Mụ ta đã mời được mấy người có ma nó biết là hạng người nào! - Piotr Petrovich nói tiếp, luôn luôn đặt câu hỏi và gợi cho Lebeziatnikov nói, hình như đang có một chủ ý gì trong đầu. - Sao? Ông bảo mụ ta mời cả tôi à? - Ông bỗng ngẩng đầu lên hỏi. - Lúc nào? Tôi không nhớ. Dù sao tôi cũng không đến. Tôi đến làm gì? Hôm qua tôi chỉ nhân tiện nói qua với mụ là với tư cách quả phụ của một người công chức đang túng bấn, mụ có thể nhận được một số tiền trợ cấp tạm thời chi dụng trong một năm. Có lẽ vì thế mà mụ ta mời tôi chăng? Hê - hê!
- Tôi cũng không có ý định đến dự, - Lebeziatnikov nói.
- Còn phải nói! Đã thẳng tay đánh người ta còn đến làm gì: cũng ngượng chứ, hê - hê!
- Ai đánh? Đánh ai? - Lebeziatnikov bỗng sửng cồ lên, mặt đỏ gay.
- Thì tháng trước ông đánh cái mụ Katerina Ivanovna chứ còn ai nữa! Hôm qua tôi có nghe nói… Tư tưởng của các ông là thế đấy? Cứ nói bênh vực phụ nữ mãi. Hê - hê - hê!
Và Piotr Petrovich có vẻ như hả dạ, lại bắt tay vào gẩy bàn tính.
- Chỉ là chuyện nhảm, chuyện vu khống! - Lebeziatnikov lồng lên (ông ta rất sợ nhắc đến chuyện nầy) - hoàn toàn không phải như thế! Việc xảy ra khác hẳn… Ông nghe nhầm đấy; chuyện đồn bậy? Hôm ấy tôi chỉ tự vệ mà thôi. Chính mụ ta giương nanh giương vuốt ra xông vào tôi trước… Mụ ta vặt mất của tôi cả một bên ria má… Tôi thiết tưởng người ta có quyền bảo vệ thân thể mình chứ. Hơn nữa tôi không cho phép ai hành hung tôi hết… Nguyên tắc của tôi là như vậy. Vì thế kia là lộng hành. Ông bảo tôi phải làm thế nào: cứ đứng ì ra đấy cho mụ ta đánh à? Tôi chỉ ấy mụ ta ra thôi!
- Hề - hê - hê! - Lugin vẫn cười hằn học.
- Ông gây chuyện với tôi là vì chính ông đang cay cú còn như cái chuyện nhảm ấy thì quyết không dính dáng gì đến vấn đề phụ nữ? Ông hiểu sai rồi; tôi còn nghĩ rằng nếu đã cho là phụ nữ dính dáng với nam giới về mọi phương diện, ngay cả về thể lực nữa, như người ta đã khẳng định, thì trong trường hợp nầy cũng phải bình đẳng chứ. Dĩ nhiên sau đó tôi nghĩ ra rằng kỳ thực không thể đặt vấn đề đó ra, vì ẩu đả là không được rồi, và trong xã hội tương lai không thể có ẩu đã… và dĩ nhiên trong chuyện ẩu đá mà cũng đòi hỏi bình đẳng thì thật chướng, tôi không đến nỗi ngu như thế… tuy vẫn có ẩu đả, nghĩa là sau nầy sẽ không còn, nhưng bây giờ thì vẫn còn… Xì! Quỷ thật! Nói với ông thật khó? Tôi không đến dự tiệc tang không phải vì chuyện ấy Tôi không đến chỉ vì muốn giữ nguyên tắc: để khỏi tham gia vào một hủ tục, chỉ có thế! Vả chăng cũng có thể đến để cười cho vui thế thôi… Nhưng tiếc là không có mấy ông cố đạo. Giá có thì thế nào tôi cũng đến.
- Nghĩa là ông định ngồi vào bàn của người ta mà ăn rồi nhổ vào đĩa và nhổ luôn vào mặt những người đã mời ông ăn chứ gì?
- Tuyệt nhiên không phải là phi nhổ, mà là phản đối! Vì một mục đích tốt. Như vậy tôi có thể gián tiếp góp phần tuyên truyền cho tư tưởng tiến bộ. Mọi người đều có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục tư tưởng tiến bộ, có lẽ càng mạnh càng tốt, tôi sẽ có thể gieo rắc một tư tưởng, một hạt giống. Và từ hạt giống ấy sẽ nẩy ra một sự kiện. Như thế thì có gì xúc phạm đến họ? Lúc đầu họ sẽ mếch lòng nhưng về sau chính họ sẽ thấy là tôi giúp ích cho họ. Đấy như người ta buộc tội cho cô Terebieva (cô ta bây giờ đã vào "công xã") vì khi cô ta bỏ gia đình ra đi và… trao thân cho kẻ khác. Cô ta đã viết thư cho cha mẹ nói là không muốn sống giữa những thành kiến cũ và muốn tự do kết hôn; người ta bảo như thế quá thô bạo đối với cha mẹ, lẽ ra nên nương nhẹ họ, viết cho dịu dàng hơn. Theo tôi thì đó toàn là chuyện nhảm, quyết không cần dịu dàng gì cả, mà trái lại, trái lại, đây chính là nơi cần phản đối thật mạnh. Kìa như bà Varentx chung sống với chồng bảy năm, bỏ hai con lại rồi viết thư nói dứt khoát với chồng: "Tôi đã nhận thức rằng sống với ông tôi không thể có hạnh phúc được. Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho ông đã lừa dối tôi, giấu giếm không cho tôi biết rằng có một cơ cấu xã hội khác mà phương tiện tổ chức là công xã. Cách đây không lâu một con người hào hiệp đã cho tôi biết điều đó, tôi đã trao thân cho người ấy và sẽ cùng người ấy xây dựng công xã. Tôi nói thẳng ra như thế, vì tôi cho rằng lừa dối ông là bất lương. Ông muốn thu xếp cho bản thân như thế nào thì tuỳ ông. Ông đừng hòng kéo tôi trở lại, ông lạc hậu quá rồi. Tôi muốn được hạnh phúc". Đấy, viết loại thư nầy là phải viết như thế!
- Cái cô Terebieva ấy chính là người mà dạo trước ông có nói là đã tự do kết hôn đến lần thứ ba đấy phải không?
- Xét cho đúng ra thì chỉ mới lần thứ hai! Mà dù có đến lần thứ tư, lần thứ mười lăm đi nữa thì cũng có can hệ gì. Và nếu có lúc nào tôi tiếc rằng cha mẹ tôi đã mất đi thì đó chính là lúc nầy, dĩ nhiên. Tôi lại còn có mấy lần mơ ước rằng nếu họ còn sống, tôi sẽ phản kháng cho họ một mẻ ra trò! Tôi sẽ cố ý làm như vậy… Tôi sẽ cho họ biết tay, chà! Tôi sẽ cho họ thấy! Họ sẽ được một mẻ kinh ngạc. Thật tiếc là tôi chẳng còn còn ai!
- Để cho họ kinh ngạc chứ gì? Hê - hê! Thôi được, ông muốn làm gì thì cứ làm: - Piotr Petrovich ngắt lời, - nhưng nầy, ông thử nói tôi nghe một chút: ông có biết con gái người quá cố thì phải, cái cô gầy gầy ấy mà! Những điều họ đồn về cô ta hoàn toàn đúng đấy chứ?
- Thì đã sao? Theo tôi, nghĩa là theo quan điểm riêng của tôi, đó chính là một tình trạng hết sức bình thường của phụ nữ. Sao lại khờng? Nghĩa là distinguons(1). Trong xã hội hiện thời dĩ nhiên nó không phải là bình thường lắm, vì đó là một tình trạng bất đắc dĩ, chứ trong xã hội tương lai thì nó hoàn toàn binh thường, vì đó là một cách sống tự do. Mà ngay bây giờ cô ta cũng có quyền: cô ta đã từng đau khổ, và đó là cái vốn của cô ta, có thể nói là cái tư bản mà cô ta có toàn quyền sử dụng. Dĩ nhiên trong xã hội tương lai sẽ không cần có vốn gì nữa; nhưng vai trò của người gái điếm sẽ được xác định theo một hướng khác, sẽ được xác định một cách công bằng hợp lý. Còn riêng cả nhân Sofia Xemionovna thì hiện nay tôi coi hành vi của cô ta như một sự phản kháng cụ thể và kịch liệt chống lại cơ cấu xã hội và do đó tôi hết sức kính trọng cô ta; thậm chí nhìn cô ta tôi còn thấy hả lòng hả dạ nữa.
- Thế mà người ta kể với tôi rằng ông đuổi cô ta ra khỏi nhà trọ nầy!
Lebeziatnikov nổi khùng lên.
- Đó lại là một lời vu khống - Ông ta thét lên. - Hoàn toàn, hoàn toàn không phải thế? Đó là cái mụ Katerina Ivanovna mụ ấy nói bậy như thế, vì mụ chẳng hiếu gì sất! Mà tôi cũng không hề đeo đuổi cô Sofia Xemionovna. Chẳng qua tôi chi muốn giúp cô ta tiến bộ thôi, một cách hoàn toàn vô tư, nhằm cổ vũ tinh thần phản kháng trong cô ta… Tôi thì tôi chỉ cần sự phản kháng, còn bản thân Sofia Xemionovna thì lẽ tự nhiên không thể trọ ở đây được nữa rồi?
- Ông rủ cô ấy tham gia công xã chứ gì?
- Ông cứ nhạo báng mãi, mà nhạo báng một cách vụng về nhạt nhẽo, xin nói rõ như thế. Ông không hiểu gì hết? Trong công xã không làm gì có những vai trò như thế. Công xã lập ra chính là để đừng có những vai trò như thế nữa. Trong công xã vai trò đó thay đổi hẳn thực chất của nó, và cái gì ở đây là ngu xuẩn thì ở đấy lại là thông minh, cái gì trong hoàn cảnh hiện nay là phi tự nhiên thì trong công xã lại sẽ thành ra hoàn toàn tự nhiên. Tất cả đều tuỳ ở chỗ con người sống trong hoàn cảnh nào và môi trường nào. Tất cả đều do môi trường, bản thân con người chẳng là cái gì hết. Còn đối với Sofia Xemionovna thì cho đến nay tôi vẫn là chỗ thân tình: điều đó là một bằng chứng có thể cho ông thấy rõ rằng cô ta chưa bao giờ xem tôi là một kẻ thù, một người đã xúc phạm đến cô ta. Phải! Ngay bây giờ tôi cũng đang lôi kéo cô ta vào công xã, nhưng trên những cơ sở khác hẳn, khác hẳn! Có gì mà ông cười! Chúng tôi muốn thành lập một công xã riêng, đặc biệt, nhưng trên những cơ sở rộng rãi hơn trước. Chúng tôi cải tiến thêm các (quan điểm của chúng tôi. chúng tôi phủ nhận nhiều hơn! Giá Dobroliubov sòng lại, tôi sẽ tranh luận với ông ta! Còn như Bielinski thì tôi sẽ trị cho một mẻ. Trong khi chờ đợi, tôi tiếp tục giáo dục Sofia Xemionovna. Bản chất cô ta hết sức tốt đẹp!
- Ấy thế là ông lợi dụng cái bản chất tốt đẹp ấy chứ gì? Hê - hê!
- Không, không! Ồ, không Ngược lại ấy chứ?
- Làm gì có chuyện ngược lại! Hê - hê - hê… Nói thế mà nghe được!
- Ông phải tin mới được chứ! Vì lý do gì tôi lại đi che giấu ông, ông thử nói xem! Trái lại, chính tôi cũng lấy làm lạ: đối với tôi cô ta có vẻ trình bạch và cả thẹn đến mức sợ sệt quá mức ấy!
- Còn ông thì dĩ nhiên là ông giáo dục… hê hê! Ông chứng minh cho cô ta thấy rằng e thẹn như thế là ngớ ngẩn chứ gì?
- Hoàn toàn không phải, hoàn toàn không phải như thế! Sao ông lại hiểu chữ giáo dục một cách thô thiển và - nói vô phép - ngu xuẩn như thế? Ông không hiểu gì hết? Trời ơi, ông còn… lạc hậu quá? Chúng tôi đi tìm tự do cho phụ nữ, còn ông thì trong óc chỉ rặt một chuyện ấy… Trong khi gạt hẳn sang một bên vấn đề trinh tiết và tính cả thẹn của phụ nữ, xem đó là những chuyện vô ích, thậm chí là những thành kiến hủ lậu, tôi vẫn hoàn toàn, hoàn toàn dung thứ thái độ e dè của cô ta đối với tôi, vì đó là ý chí, là quyền của cô ta. Dĩ nhiên nếu cô ta tự nói với tôi: "Em thèm khát anh", thì tôi sẽ tự cho mình là người diễm phúc, vì tôi rất thích cô gái nầy; nhưng hiện nay, ít nhất là hiện nay không có ai cư xử với cô ta một cách lễ độ và kính cẩn hơn tôi, không có ai coi trọng nhân phẩm của cô ta hơn tôi… tôi đợi chờ và hy vọng - Chỉ có thế thôi!
- Tốt hơn ông nên tặng cô ta một cái gì, tôi cuộc là ông chưa nghĩ đến việc ấy đấy.
- Ông không hiểu gì hết, tôi đã nói mà! Dĩ nhiên tình cảnh cô ta là như thế, nhưng đây là một vấn đề khác! Khác hẳn! Chẳng qua ông khinh miệt cô ta. Vừa trông thấy một việc mà ông tưởng lầm là đáng khinh, ông đã không chịu nhìn một con người bằng một con mắt nhân đạo nữa. Ông chưa biết bản chất cô ta ra sao! Tôi chỉ bực mình là gần đây cô ta chẳng đọc gì cả và không mượn sách của tôi nữa. Trước kia cô vẫn mượn đấy. Cũng đáng tiếc là mặc dầu cô ta có một tinh thần phản kháng mạnh mẽ và cương quyết, như hành động của cô, ta đã cho thấy một lần, cô ta vẫn dường như ít tính độc lập? Ít sức phủ nhận, cho nên không dứt hẳn được ra khỏi một số thành kiến và… tư tưởng ngu xuẩn. Tuy vậy, có một số vấn đề cô ta hiểu rất rõ. Chẳng hạn, cô ta hiểu rất thấu đáo vấn đề hôn tay, nghĩa là nếu một người đàn ông hôn tay một người đàn bà, tức là đã có một quan niệm bất bình đắng xúc phạm tới phụ nữ. Chúng tôi có thảo luận vấn đề nầy, và tôi đã lập tức truyền đạt lại cho cô ta. Về các hiệp hội công nhân ở Pháp cô ta cũng nghe khá chăm chú. Hiện nay tôi đang giải thích cho cô ta hiểu vấn đề tự do vào phòng người khác trong xã hội tương lai.
- Lại chuyện gì nữa thế?
- Gần đây chúng tôi có thảo luận vấn đề: một thành viên công xã có quyền vào phòng một thành viên khác không, dù là đàn ông hay đàn bà, bất cứ vào lúc nào… rốt cục chúng tôi đã giải quyết là có quyền…
- Thế nếu lúc ấy người kia đang thoả mái những nhu cầu thiết yếu thì sao, hê - hê!
Andrey Xemionovich nổi giận lên.
- Ông thì cứ nói mãi đến những "nhu cầu" chết tiệt ấy! - Ông ta hằn học quát lên, - Chà, tôi thật bực mình vì khi trình bày cho ông nghe quan điểm tôi đã nhắc quá sớm đến những nhu cầu chết tiệt ấy! Mẹ kiếp! Đó là một vấn đề gay go nhất đối với những người như ông, và tệ hơn cả là các ông chưa biết đầu đuôi ra sao đã chế nhạo rồi! Cứ như thể mình đúng lắm ấy! Cứ như thể dáng lấy làm tự hào lắm! Xì! Tôi đã nhiều lần khẳng định rằng đối với những người mới tập tõm thì không có cách nào khác là trình bày vấn đề nầy sau cùng, khi họ đã tin chắc vào hệ thống, khi họ đã có trình độ kha khá và có định hướng. Ấy, ông thử hỏi xem ông thấy có gì đáng thẹn và đáng khinh trong cái hố vệ sinh chẳng hạn? Tôi thì tôi sẵn sàng tiên phong đi dọn bất cứ hố vệ sinh nào! Thậm chí ở đây cũng không có gì là hy sinh cả! Đây chỉ là một công việc, một hoạt động cao quý, hữu ích cho xã hội, không thua kém bất cứ hoạt động nào khác, mà lại còn hơn mọi hoạt động của một Raphaen hay một Puskin nào đó chẳng hạn, vì có ích hơn.
- Và cao quý hơn, cao quý hơn, hê - hê…
- Thế nào là cao quý hơn? Tôi không thể quan niệm rằng từ nay có thể dùng để đánh giá hoạt động của con người được "cao quý hơn", "hào hiệp hơn", toàn là chuyện nhảm nhí, chuyện vô lý, những từ cũ kỹ đầy thành kiến, mà tôi nhất định phủ nhận! Cái gì có ích cho nhân loại thì cái ấy cao quý. Tôi chỉ hiểu có một từ: có ích. Ông muốn cười thì cứ cười, nhưng sự thật nó như thế đấy!
Piotr Petrovich cười ha hà. Ông ta vừa đếm tiền xong và đem cất đi nhưng vẫn còn để lại một phần ở trên bàn, không biết để làm gì. Cái vấn đề "hố vệ sinh" nầy tuy tầm thường như vậy, song cũng đã mấy lần làm cho Piotr Petrovich và ông bạn trẻ xung đột với nhau.
Sở dĩ những cuộc xung đột ấy đâm ra ngớ ngẩn, ngu xuẩn cũng chỉ vì Andrey Xemionovich nổi giận thật sự.
Lugin thì nhân dịp đó để giải khuây, và lúc nầy ông ta đặc biệt thấy muốn trêu gan Lebeziatnikov.
- Chỉ tại hôm qua ông bị thất bại cho nên ông mới cáu kỉnh và nhiễu sự thế! - Cuối cùng Lebeziatnikov thốt lên. Nói chung, tuy có tính "độc lập" và nhiều tinh thần "phản kháng" như vậy, không hiểu sao ông ta vẫn không dám chống chọi với Piotr Petrovich và vẫn giữ một thái độ kính nể hình như đã quen từ mất năm trưức.
- Tốt hơn là ông thử nói xem. - Piotr Petrovich cắt ngang, giọng trịch thượng và bực dọc, - Ông có thể… hay nói cho đúng hơn: có thật ông thân với người con gái nói trên không, và ông có thân với cô ta đến mức có thể mời cô ta vào đây, trong phòng nầy, ngay bây giờ không? Hình như họ ra nghĩa địa giờ đã về cả rồi thì phải… Tôi nghe tiếng họ đi lại rộn rịp lắm… Tôi có việc cần gặp cô ta một tí.
- Nhưng ông gặp làm gì? - Lebeziatnikov ngạc nhiên hỏi.
- Tôi cần gặp thế thôi. Nay mai tôi sẽ đi, cho nên tôi muốn nói cho cô ta biết… Vả chăng cũng xin ông ngồi đây trong khi tôi nói chuyện. Như thế lại còn tốt hơn nữa là khác. Nếu không, có trời biết ông sẽ nghĩ những gì.
- Tôi chẳng nghĩ gì sất… Tôi chỉ hỏi thế thôi, và nếu ông có việc cần, thì không có gì dễ hơn là gọi cô ta lên đây nữa. Tôi xuống ngây đây. Còn tôi thì xin ông tin chắc cho rằng tôi sẽ không làm phiền hai người đâu.
Quả nhiên, chừng năm phút sau Lebeziatnikov trở lại với Sonya. Nàng bước vào với một vẻ ngạc nhiên đến cực độ, vẫn như thường lệ, nàng đâm ra luống cuống. Trong những trường hợp như vậy bao giờ nàng cũng luống cuống, nàng rất sợ những người mới gặp, những cuộc làm quen; trước kia, hồi còn bé đã thế, bây giờ lại càng sợ hơn… Piotr Petrovich tiếp đón nàng một cách "ân cần và lễ độ", song vẫn có một sắc thái thân mật cợt nhả nào đấy. Vả chăng theo ý Piotr Petrovich thì đó là một thái độ rất ổn đáng đối với một người bệ vệ đáng kính như ông ta khi đứng trước một con người trẻ tuổi và cod phần thú vị như vậy.
Ông vội vàng "khuyến khích" cho Sonya vững tâm, mời nàng ngồi trước bàn, đối diện với ông. Sonya ngồi xuống, đưa mắt nhìn quanh - nhìn Lebeziatnikov, nhìn mớ tiền để trên bàn, rồi lại nhìn Piotr Petrovich và không rời mắt ra nữa, như thể mắt nàng đã dán chặt vào ông ta. Lebeziatnikov đi ra phía, cả Piotr Petrovich đứng dậy, ra hiệu cho Sonya cứ ngồi và ra cửa chặn Lebeziatnikov lại.
- Cái thằng Raxkonikov có đấy không? Đến chưa? - Ông ta hỏi thì thầm.
- Raxkonikov đến rồi đấy. Sao? Phải, đến rồi… Mới vừa vào, tôi có trông thấy! Sao?
- Ấy, nếu thế tôi tha thiết xin ông ở lại đây với tôi, đừng để tôi ngồi một mình với cái cô gái nầy. Chuyện thì chẳng có gì, nhưng nhỡ người ta dị nghị nầy nọ. Tôi không muốn Raxkonikov mách lại với họ rằng… Ông có hiểu tôi muốn nói gì không?
- À, tôi hiểu, tôi hiểu! - Lebeziatnikov chợt đoán ra. - Phải, ông có quyền… Dĩ nhiên theo ý riêng tôi thì ông lo ngại như vậy cũng hơi quá, nhưng… dù sao ông cũng có quyền. Tôi ở lại cũng được. Tôi sẽ đứng đây, cạnh cửa sổ, và sẽ không làm phiền ông… Theo tôi thì ông có quyền.
Piotr Petrovich trở lại ngồi trên đi-văng, đối diện với Sonya, chăm chú nhìn nàng, rồi bỗng làm ra mệt vẻ mặt cực kỳ trang trọng, lại có phần nghiêm khắc nửa như muốn nói: "Nầy cô, đừng có nghĩ xằng đấy nhé". Sonya đâm ra luống cuống hẳn hoi.
- Cô Sofia Xemionovna, trước hết xin cô chuyển lời cáo lỗi của tôi cho mẹ cô… Hình như bà Katerina Ivanovna là người thay thế cho mẹ cô phải không ạ?
Piotr Petrovich mở đầu một cách trang trọng nhưng cũng khá ôn tồn. Có thể thấy rõ ông ta có những ý định hết sức thân thiện.
- Vâng ạ, đúng thế đấy ạ, thay cho mẹ tôi đấy ạ, - Sonya đáp hấp tấp và sợ sệt.
- Ấy đã thế thì cô chuyển hộ lời cáo lỗi của tôi, là vì những hoàn canh không tuỳ thuộc ý tôi, tôi buộc lòng phải vẳng mặt trong bữa chén… và trong bữa tiệc tang, tuy mẹ cô đã có nhã ý mời.
- Vâng ạ, tôi sẽ xin nói lại ngay bây giờ, - đoạn Sonya vội vã đứng dậy.
- Nhưng hết ạ, - Piotr Petrovich ngăn nàng lại, miệng mỉm cười, vì thấy nàng ngờ nghệch, lại không biết phép lịch sự, - Cô Sofia Xemionovna thân mến ạ, nếu cô nghĩ rằng chỉ vì một việc nhò mọn chỉ liên quan đến tôi như vậy mà tôi lại dám phiền đến cô và mời một thiếu nữ như cô đến phòng tôi, thì cô quả không biết rõ tôi mấy. Tôi có một mục đích khác.
Sonya hấp tấp ngồi xuống. Những tờ giấy bạc ngũ sắc còn bày ngổn ngang trên bàn lại lấp loáng trước mắt nàng, nhưng nàng vội vã quay mặt đi, ngẩng lên nhìn Piotr Petrovich: nàng chợt thấy rằng nhìn tiền bạc của người khác là một việc tối bất chính, nhất là đối với một người như nàng. Nàng đã toan nhìn vào đôi kính tay gọng vàng của Piotr Petrovich đang cầm ở tay trái và chiếc nhẫn to bản rất đẹp mặt hố phách, đeo ở ngón giữa bàn tay ấy, nhưng rồi nàng lại đột nhiên quay đi, và không biết nhìn đi đâu cho ổn, nàng lại nhìn thẳng vào mắt Piotr Petrovich. Ông ta im lặng một lát, vẻ còn bệ vệ hơn trước nữa, rồi nói tiếp.
- Hôm qua, nhân đi qua nhà, tôi có dịp trao đổi mấy lời với bà Katerina Ivanovna bất hạnh. Chỉ cần hai câu cũng đủ cho tôi thấy rằng bà đang ở trong một tình trạng… phi tự nhiên, nếu có thể nói như thế…
- Vâng ạ… phi tự nhiên, - Sonya vội vã tán đồng.
- Hay nói cho đơn giản, dễ hiểu hơn, là một tình bệnh hoạn.
- Vâng, đơn giản và để… vâng ạ, bệnh hoạn.
- Thế đấy. Cho nên, vì lòng nhân đạo và - à - à… có thể nói là vì lòng trắc ẩn, tôi có ý muốn về phần mình làm một việc gì có ích, vì đã thấy trước số phận khốn đốn không sao tránh khỏi của bà. Mà hình như cả gia đình bây giờ cũng chỉ biết trông vào cô nữa thôi.
- Xin phép ông, - Sonya bỗng đứng dậy, - Cho tôi được hỏi: hình như hôm qua ông có nói chuyện với dì tôi rằng có thể được một số tiền trợ cấp phải không ạ! Vì hôm qua dì tôi có bảo là ông sẽ lo cho dì tôi được hưởng trợ cấp. Có phải thế không ạ?
- Hoàn toàn không phải như thế, và về một phương diện nào đó, lại còn vô lý nữa là khác. Tôi chỉ muốn ám chỉ đến chế độ trợ cấp tạm thời cho quả phụ một công chức chết trong khi thừa hành nhiệm vụ, ấy là nói nếu có người che chở cho. Nhưng hình như ông thân sinh cô không những làm việc chưa đủ thời hạn, mà gần đây lại không làm gì cả nữa. Nói tóm lại, tuy cũng có thể hy vọng đấy, nhưng rất mong manh, vì trong trường hợp nầy thật ra không hề có quyền được trợ cấp, mà trái lại nữa là khác… Thế mà bà ta đã nghĩ đến tiền trợ cấp, hê - hê - hê! Bà ta kể cũng nhanh nhảu nhật!
- Vâng ạ, về số tiền trợ cấp… Vì dì tôi vốn cả tin và tốt bụng, mà người tốt bụng thì cái gì cũng tin, và… và trí óc dì tôi lại như thế… vâng ạ… xin phép ông…, - Sonya nói đoạn lại đứng dậy để đi ra.
- Xin cô ngồi lại, cô chưa nghe hết.
- Vâng ạ, tôi chưa nghe hết, - Sonya lắp bắp.
- Thế thì cô ngồi xuống.
Sonya hết sức lúng túng ngồi xuống, lần nầy là lần thứ ba - Thấy tình cảnh bà ta với lũ con thơ côi cút như vậy tôi… cũng muốn, như tôi đã nói, giúp đỡ phần nào gọi là trong chừng mực có thể, chứ không hơn được. Chẳng hạn có thể tổ chức lạc quyên, hay gọi là xổ số gì đấy trong những trường hợp như thế nầy, những người thân, hay những người lạ có thiện ý muốn giúp đỡ cũng thế, thường làm như vậy. Đây tôi muốn nói với cô chuyện ấy may ra có thể.
- Vâng ạ, được ạ… Xin Chúa ban phúc cho ông đã… - Sonya nói lắp bắp, mắt nhìn Piotr Petrovich đăm đăm.
- Có thể, nhưng… sau ta sẽ bàn, nghĩa là cũng có thể bắt đầu ngay hôm nay. Đến tối ta sẽ gặp nhau bàn bạc và có thể nói là đặt một cơ sở cho việc nầy. Bây giờ tối xin mời cô cứ ghé lại đây. Tôi hy vọng rằng Andrey Xemionovich cũng sẽ… tham dự, nhưng… ở đây có một việc cần phải bàn trước và bàn kỹ. Chính vì thế mà tôi đã phải phiền đến cô, Sofia Xemionovna ạ. Cụ thể là theo tôi, nếu đưa tiền cho bà Katerina Ivanovna thì nguy hiểm không thể làm như thế được. Chính bữa tiệc tang hôm nay cũng chứng tỏ điều đó. Có thể nói là không có lấy một miếng bánh để dành đến ngày mai và… đấy, một đôi giầy cũng không có, thế mà lại mua cả rượu Rom Yamaik, rượu Madera và cả cả-phê nữa thì phải. Khi đi ngang tôi có trông thấy. Đến mai tất cả sẽ đổ lên đầu cô, kể cả việc kiếm miếng bánh qua bữa, thật là vô lý. Cho nên theo ý riêng tôi, cuộc lạc quyên phải tiến hành sao cho bà quả phụ khốn khổ đừng biết là có tiền, mà chỉ có cô biết thôi chẳng hạn. Có đúng không?
- Tôi không biết ạ Chỉ có hôm nay dì tôi mới thế… cả đời chỉ có một lần… dì tôi rất muốn nhắc nhở, cho hương hồn… dì tôi rất thông minh ạ. Vả chăng cũng tuỳ ý ông: tôi sẽ rất, rất… cả nhà sẽ đội ơn ông… Và Chúa sẽ… cả lũ trẻ mồ côi cũng sẽ…
Sonya không nói hết được. Nàng khóc oà lên.
- Được! Thế thì cô lưu ý cho; còn bây giờ xin cô vui lòng nhận tạm cho số tiền nhỏ mọn nầy, của cá nhân tôi gửi để giúp mẹ cô. Tôi thiết tha mong rằng tên tôi sẽ không được nhắc đến. Đấy… vì chính tôi cũng đang có nhiều việc phải lo, nên tôi không thể giúp nhiều hơn.
Và Piotr Petrovich cẩn thận vuốt thẳng một tờ giấy mười rúp, đưa cho Sonya. Sonya đỏ mặt cầm lấy, đứng phắt dậy lẩm bẩm câu gì không rõ và hối hả cúi chào. Piotr Petrovich trang trọng đưa nàng ra cửa. Nàng bước vội ra ngoài, lòng bồi hồi day dứt, và trở về phòng Katerina Ivanovna, hết sức bối rối.
Suốt thời gian hai người nói chuyện, Andrey Xemionovich khi thì đứng ở cửa sổ, khi thì đi bách bộ trong phòng, không muốn phá ngang câu chuyện; khi Sonya đã ra khỏi, ông ta vội đến cạnh Piotr Petrovich và long trọng chìa tay ra:
- Tôi đã nghe hết và trông thấy hết, - Andrey Xemionovich nói, đặc biệt nhấn mạnh hai chữ "trông thấy" - Thật là cao quý, và tôi muốn nói là nhân đạo! Ông muốn tránh cảm ơn, tôi thấy rồi! Và tuỳ theo nguyên tắc tôi thú thật là không thể đồng tình với lối ban ơn cá nhân, vì không những nó không thể tiêu diệt cái ác tận gốc mà còn nuôi dưỡng thêm, tuy vậy tôi cũng không thể không thừa nhận rằng tôi rất thích khi thấy hành động của ông, vâng, vâng, rất thích.
- Chà; chỉ là chuyện vặt! - Piotr Petrovich lẩm bẩm, vẻ hơi bối rối, mắt nhìn Lebeziatnikov có chiều lấm lét.
- Không, không phải là chuyện vặt! Một người đã bị lăng nhục và đang bực bội vì chuyện hôm qua như ông mà, lại có - thể nghĩ đến nỗi khổ của người khác… tuy hành động vừa rồi của ông là một sai, lầm về mặt xã hội, - một người như vậy cũng rất đáng kính phục! Thậm chí tôi không ngờ ông có thể hành động như thế, ông. Piotr Petrovich ạ, hơn nữa là vì những quan niệm của ông… Ồ! quan niệm của ông cản trở ông nhiều quá! Như câu chuyện hôm qua chẳng hạn, đã làm ông xúc động quá đáng. - Ông Andrey Xemionovich thật thà kêu lên, và ông ta lại thấy có thiện cảm với Piotr Petrovich lạ lùng. Mà tại sao, tại sao ông lại nhất thiết phải bám lấy cuộc hôn nhân ấy, cuộc hôn nhân hợp pháp ấy, hở ông Piotr Petrovich rất nhã nhặn, rất cao thượng của tôi? Việc gì ông cứ phải cần đến cái tính chất hợp pháp ấy trong hôn nhân? Ấy. Ông có đánh tôi cũng được, nhưng xin nói rằng tôi rát mừng, rất mừng khi thấy cuộc hôn nhân không thành, Và ông vẫn được tự do, đối với nhân loại, ông vẫn chưa phải, là người bỏ đi? Tôi rất mừng…ông thấy không, tôi đã nói hết ý nghĩ của tôi ra rồi đấy!
- Sở dĩ tôi cần đến hôn nhân hợp pháp như thế là vì tôi không muốn tự do kết hôn như các ông để rồi phải mọc sừng và nuôi con kẻ khác, - Lugin đáp lấy lệ. Ông ta đang mải bận tâm nghĩ một, điều gì lung lắm.
- Con cái à? Ông đề cập đến con cái? - Andrey Xemionovich giật mình như con chiến mã nghe thấy tiếng kèn trại - Con cái là một vấn đề xã hội và là một vấn đề quan trọng vào bậc nhất, tôi đồng ý như thế: nhưng vấn đề con cái phải giải quyết cách khác, thậm chí có một số người hoàn toàn phủ nhận con cái cũng như bất cứ cái gì có dính dáng đến gia đình. Tôi sẽ nói chuyện con cái sau, còn bây giờ, hẵng bàn đến chuyện mọc sừng đã. Xin thú thật đấy là nhược điểm của tôi. Cái danh từ tục tĩu, sặc mùi trại lính, đầy tính chất Puskin nầy thậm chí cũng không thể nào có được trong vốn từ vựng tương lai. Mà sừng là cái gì? Ờ, thật là sai lạc! Sừng nào? Sao lại sừng? Thật là nhảm nhí! Trái lại trong chế độ hôn nhân tự do không thể có chuyện mọc sừng được! Mọc sừng chỉ là hậu quả tự nhiên của bất cứ cuộc hôn nhân hợp phảp nào, có thể nói là một sự chỉnh lý, một sự phản kháng, cho nên hiểu theo nghĩa nầy mỏc sừng không có gì là nhục nhã. Và giả sử tôi sẽ kết hôn một cách hợp pháp - ấy là nói giả dụ một chuyện vô lý như thế - thì tôi sẽ còn lấy làm mừng khi được mang cặp sừng chết tiệt của ông, lúc đó tôi sẽ bảo vợ tôi: "Mình ạ, trước nay tôi chỉ yêu mình, nhưng đến bây giờ thì tôi lại còn kính phục mình nữa, vì mình đã biết "phản kháng". Ông cười à? Chỉ vì ông không đủ sức gạt bỏ các thành kiến cũ? Mẹ kiếp, tôi cũng hiểu nỗi khó chịu của kẻ bị lừa trong hôn nhân hợp pháp; nhưng đó chỉ là cái hậu quả bỉ ổi của một sự việc bỉ ổi, trong đó cả hai người đều bị hạ phẩm giá. Còn đến khi sừng cắm công khai như trong hôn nhân, tự do thì nó không còn nghĩa lý gì nữa và thậm chí không, còn gọi là sừng nữa. Ngược lại, vợ ông có làm như vậy thì cùng chỉ chứng tỏ cho ông thấy rằng bà ta kính trọng ông, cho rằng ông không đời nào đi cản trở hạnh phúc của bà ta, và ông tiến bộ đến mức không nghĩ đến chuyện trả thù chỉ vì bà ta đi lấy chồng khác. Mẹ kiếp, đôi khi tôi mơ ước là nếu tôi đi lấy chồng… Chậc! nếu tôi cưới vợ (theo chế độ hôn nhân tự do hay hợp pháp cũng thế thôi), thì tôi sẽ thân hành dẫn một tình nhản đến cho vợ tôi, nếu vợ tôi mãi không bắt được nhân tình, tôi sẽ nói: "Mình ạ, tôi yêu mình, nhưng tôi lại còn muốn hơn thế nữa: tôi muốn mình kính trọng tôi đấy!" Tôi nói thế có đúng không, có đúng không nào? Piotr Petrovich vừa nghe vừa cười hềnh hệch, nhưng không có vẻ chăm chú lắm. Thậm chí ông cũng chẳng nghe mấy đỗi nữa. Quả nhiên ông ta đang suy nghĩ một điều gì khác, và cuối cùng Lebeziatnikov cũng nhận thấy thế. Thậm chí Piotr Petrovich còn có vẻ bứt rứt, hai tay cứ xoa vào nhau, vẻ mặt tư lự. Tất cả những điều đó, sau nầy Andrey Xemionovich sẽ suy xét và nhớ lại…
Chú thích:
Song về mặt nầy thì hiện không có gì đáng lo ngại: nhìn vào cái dung mạo quý phái, trắng trẻo và hơi phát phì ra trong thời gian gần đây, Piotr Petrovich trong chốc lát lại thấy nguôi lòng, tin chắc mình sẽ lại kiếm được ý trung nhân ở một nơi nào khác, có lẽ lại còn tươm hơn ai kia nữa; nhưng chỉ trong khoảnh khắc ông lại sực nhớ ra và nhổ toẹt sang một bên, khiến ông bạn trẻ cùng trọ một phòng là Andrey Xemionovich Lebeziatnikov phải mỉm cười: một nụ cười lặng lẽ nhưng đầy ý nhạo báng. Piotr Petrovich để ý thấy nụ cười và lập tức ghi vào số ký ức. Trong thời gian gần đây ông ta đã ghi vào số ký ức rất nhiều điều về ông bạn trẻ. Lòng căm giận của ông càng tăng gấp bội khi ông chợt nghĩ ra rằng đáng lẽ không nên cho Lebeziatnikov biết những chuyện xảy ra hôm qua. Đó là việc sai lầm thứ hai ông đã vì nóng nảy mà mắc phải trong ngày hôm ấy: trong cơn tức giận ông đã thỏ lộ quá nhiều… Rồi suốt buổi sáng hôm đó, những chuyện bực mình cứ liên tiếp dồn đến. Ngay như ở Nguyên lão viện, công việc ông đang lo toan cũng thất bại. Nhưng người làm ông bực mình nhất là cái lão chủ căn nhà ông đã thuê để chuẩn bị cưới vợ và chịu xuất tiền tu sửa, một lão thợ thủ công người Đức mới giàu lên: lão ta một mực không chịu huỷ bỏ giao kèo và khăng khăng đòi thực hiện từng khoản một, mặc dầu Piotr Petrovich đã giao lại cho lão căn nhà hầu như đã được tu sửa thành một căn nhà mới. Ở cửa hàng đồ gỗ cũng vậy, họ nhất định không chịu trả lại một rúp nào trong số tiền đặt cọc mua hàng, tuy ông chưa chở về nhà lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế nào cả. "Chả nhẽ ta lại ẵm một mụ vợ khác mà cưới để có cơ dùng bàn ghế".
Piotr Petrovich nghiến răng càu nhàu một mình, nhưng cũng lúc ấy một ý nghĩ tuyệt vọng lại thoáng hiện lên: "Nhưng có lẽ nào việc nầy lại hỏng bét không phương cứu chữa? Lẽ nào lại không cố thử một lần nữa xem sao? Hình ảnh quyến rũ của Dunia một lần nữa lại xói vào tim ông ta nhức nhối. Piotr Petrovich đau khổ sống qua giờ phút nầy, và dĩ nhiên nếu giờ đây có thể ước nguyện cho trời tru đất diệt Raxkonikov, ông ta sẽ khấn to lời ước nguyện đó lên ngay lập tức.
"Ngoài ra mình lại còn phạm một sai lầm nữa là không hề đưa tiền cho họ, - Ông nghĩ thầm trong khi buồn rầu trở về phòng Lebeziatnikov - mẹ kiếp, không hiểu sao mình lại đâm ra bùn xỉn thế? Thậm chí mình cũng không biết tính lỗ lãi nữa. Mình trù tính để cho họ túng bấn ít lâu để rồi họ xem mình như một vị cứu tinh, thế mà lại để họ bay biến đi mất! Xì! Không, giá thời gian qua mình thí cho họ độ một nghìn rưỡi đề mua đồ cưới, mua quà cáp, sắm ít hộp đồ tư trang vụn vặt và ít vải vóc hay những của khỉ gì đấy ở hiệu Knop hay hiệu tạp hoá Anh, thì công chuyện sẽ tươm tất hơn… và vững chắc hơn! Họ sẽ không từ khước một cách dễ dàng như thế nầy! Cái hạng người ấy mà đã từ khước thì thế nào cũng tự cho mình có bổn phận trả lại hết các thứ quà cáp và tiền bạc, mà trả thì khó, tiếc lắm! Mà lương tâm cũng không yên: ai lại đi đuổi một người xưa nay vẫn hào phóng và tế nhị như vậy? Hừm! Mình hớ to rồi? Đoạn nghiến răng kèn kẹt một lần nữa, Piotr Petrovich chửi mình là đồ ngốc… chửi thầm, cố nhiên.
Đi đến kết luận đó, ông ta về nhà cau có và hằn học gấp bội so với khi ông ta đi. Những công việc sửa soạn dọn tiệc tang ở nhà Katerina Ivanovna cùng thu hút trí tò mò của ông một phần. Từ hôm qua ông ta đã có nghe phong thanh về bữa tiệc tang nầy; ông lại còn nhớ mường tượng rằng họ có mời ông thì phải; nhưng vì đang mải lo việc riêng nên ông không chú ý gì đến những chuyện ấy ông bèn vội vàng sang hỏi bà Lippevekzen đang lăng xăng bên chiếc bàn đã trải khăn ăn trong khi bà Katerina Ivanovna còn bận ngoài nghĩa địa: thì được biết rằng bữa tiệc tang sẽ tổ chức trọng thế, hầu hết các khách trọ trong nhà đều được mời đến, ngay cả những người không quen người quá cố, cho chí ông Andrey Xemionovich cũng vậy tuy cách đây không lâu ông ta có chuyện xích mích với Katerina Ivanovna, và cuối cùng là chính bản chân ông Piotr Petrovich không những được mời mà lại còn được mong mời thiết tha nữa, vì ông hầu như là vị khách trọng yếu nhất trọ trong nhà nầy. Đến như bà Amalya Ivanovna cũng được mời mọc một cách kính cẩn, bất chấp những chuyện lôi thôi trước đây, cho nên bây giờ bà ta đang lo lắng dọn dẹp, sai bảo như bà chủ nhà, và hầu như cũng cảm thấy thú vị trong việc nầy. Hơn nữa bà ta lại ăn mặc rất sang, tuy là kiểu áo tang nhưng cũng may bằng lụa mới tinh, ren thùa lộng lẫy, và rất lấy làm hãnh diện với cách trang phục đó. Những tin tức thu lượm được gợi cho Piotr Petrovich một ý định, và ông trở về phòng riêng, tức là phòng của Andrey Xemionovich Lebeziatnikov, trong một tâm trạng có phần đăm chiêu tư lự. Số là ông cũng được biết rằng trong các khách khứa được mời đến dự tiệc có cả Raxkonikov.
Andrey Xemionovich suốt buổi sáng hôm ấy ở nhà. Giữa ông ta với Piotr Petrovich đã hình thành những mối quan hệ kỳ lạ, song cũng có phần tự nhiên: Piotr Petrovich khinh miệt và thù ghét ông ta không bỏ đâu cho hết hầu như ngay từ hôm đầu đến ở đât, nhưng mặt khác lại dường như có ý sợ ông ta. Lên Petersburg, Piotr Petrovich đến ở nhà Andrey Xemionovich không phải chỉ vì tính tằn tiện bủn xỉn: hình như đó chính là lý do chủ yếu, nhưng ngoài ra lại còn một lý do khác nữa. Hồi còn tỉnh nhỏ ông ta đã có nghe nói Andrey Xemionovich, người trước kia được ông ta làm giám hộ, là một trong những người thanh niên tiến bộ hăng hái nhất và hơn nữa còn đóng một vai trò quan trọng trong một số tổ chức ly kỳ, gần như huyễn hoặc. Điều đó gieo một ấn tượng khá mạnhvào óc Piotr Petrovich. Tất cả những tập đoàn đó, gồm những kẻ có thế lực, biết nhiều, khinh miệt và lên án mọi người, đã từ lâu gây nên trong lòng Piotr Petrovich một mối sợ hãi đặc biệt song cũng hết sức mơ hồ. Dĩ nhiên, nhất là hồi ở tỉnh nhỏ, ông ta không thể nào có một khái niệm chính xác hay dù chỉ gần đúng thôi cũng vậy, về những việc đại loại như thế. Cũng như mọi người, ông có nghe nói có những đảng phải gọi là tiến bộ, hư vô chủ nghĩa, những phải tố cáo v.v, nhất là ở Petersburg; nhưng cũng như nhiều người khác, ông ta phóng đại và bóp méo ý nghĩa những danh từ nầy đến mức quái gở. Đã mấy năm nay ông ta sợ nhất những vụ tố cáo công khai, và đó chính là điều chủ yếu khiến ông luôn luôn lo lắng quá mức, nhất là khi tính chuyện dọn lên Petersbung hoạt động. Về mặt nầy ông phát hoảng lên như trẻ nhỏ thường phát hoảng. Cách đây mấy năm, hồi còn ở tính nhỏ, khi mới bắt đầu xây dựng sự nghiệp, ông đã gặp hai trường hợp những nhân vật khá quan trọng bị tố cáo công khai một cách tàn nhẫn, lại là những người ông ta vẫn bấu víu, nương tựa. Một trong hai vụ đó kết thúc một cách đặc biệt nhục nhã cho người bị tố cáo, còn vụ kia thì thậm chí đã suýt thành chuyện lôi thôi to. Chính vì thế cho nên Piotr Petrovich đã định hễ đến Petersbung là tìm hiểu ngay tình thế, và nếu cần, phải đón trước và lấy lòng "các thế hệ trẻ". Về mặt nầy ông trông mong vào Andrey Xemionovich và khi đến thăm Raxkonikov chẳng hạn, ông cũng đã tuôn ra được dăm câu học lỏm. Dĩ nhiên chẳng mấy lâu ông ta đã có đủ thì giờ thấy rõ Andrey Xemionovich là một con người hết sức tầm thường và khá ngờ nghệch. Nhưng điều đó không hề mảy may làm cho Piotr Petrovich thay đổi định kiến và vững tâm thêm.
Dù ông có thấy rõ rằng bọn tiến bộ cũng đều là những tay ngốc nghếch cả, thì ông cũng không bớt lo lắng chút nào. Nói cho đúng ra. Ông không hề quan tâm đến những học thuyết, tư tưởng, hệ thống mà Andrey Xemionovich không ngớt nhồi vào tai ông. Ông có một mục đích riêng. Ông chỉ cần biết ngay: càng sớm càng tôi, là tình hình ở đây ra sao? Những con người ấy có thế lực hay không? Bản thân có điều gì đáng sợ không? Nếu ông mưu toan việc nầy việc nọ thì họ có tố cáo hay không, nếu họ tố cáo, thì cụ thể họ sẽ lên án cái gì, và đặc biệt hiện nay họ đang tố cáo cái gì. Thế vẫn chưa đủ: liệu có cách gì ẩn ý với họ và lợi dụng họ, nếu quá họ có thế lực thật? Có cần phải làm như thế không? Chẳng hạn, liệu có thể nhờ chính họ làm trung gian đề ngấm ngầm xây dựng một cái gì trên con đường sự nghiệp không. Nói tóm lại, trước mắt có đến hàng trăm vấn đề.
Andrey Xemionovich là một người công chức khẳng kheo, nước da vàng vọt, người thấp bé, râu và tóc vàng một cách kỳ lạ, rất hãnh diện với bộ ria má tia thành cốt-lét. Hơn nữa ông ta luôn luôn đau mắt. Tính ông ta hơi nhu nhược, nhưng ăn nói thì lại khá chững chạc quả quyết và đôi khi còn rất bạo miệng nữa: lối ăn nói đó bao giờ cũng gây một sự tương phản buồn cười với dáng người loắt choắt của ông ta. Ở nhà bà Amalya Ivanovna ông được liệt vào hạng khách trọ đứng đắn, nghĩa là không rượu chè bê tha và trả tiền nhà sòng phẳng. Tuy có những đức tính đó, Andrey Xemionovich quả nhiên vẫn hơi khờ khạo. Ông ta nhiệt thành hướng theo phái tiến bộ và "các thế hệ trẻ của chúng ta". Đó là một trong vô số những hạng nhãi con quặt quẹo dốt nát, hợm hĩnh và tầm thường làm thành cái lũ ô hợp bao giờ cũng chộp lấy tư tưởng thời thượng nhất để rồi lập tức làm cho nó hoá ra dung tục, biến tất cả thành một thứ biếm hoạ, mặc dầu cũng có khi họ phụng sự những lý tưởng đó một cách hết sức chân thành.
Và chăng, Lebeziatnikov tuy là người rất tốt bụng, nhưng cũng bắt đầu thấy khó chịu với người cùng trọ và là người giám hộ cũ của mình: Piotr Petrovich. Cả hai bên đều đâm ra có ác cảm với nhau như vậy một cách tự phát. Tuy Andrey Xemionovich quả có khờ khạo thật, nhưng dần dần cũng bắt đầu thấy rõ Piotr Petrovich lợi dụng mình và trong thâm tâm vẫn khinh miệt mình, rằng "con người nầy có một cái gì không thật". Andrey Xemionovich đã thử trình bày cho ông ta nghe về hệ thống của Fourier và học thuyết Darwin, nhưng Piotr Petrovich, nhất là ít lâu nay, bắt đầu có thái độ quá ngạo nghễ trong khi nghe, và mấy ngày vừa qua lại còn lên tiếng chửi bới nữa. Số là do bản năng ông ta đã bắt đầu hiểu ra rằng Lebeziatnikov không những là một kẻ tầm thường và ngốc nghếch, mà có lẽ lại còn là một tay khoác lác nữa, và không hề có thế lực gì đáng kể ngay trong tập đoàn của hắn cũng vậy, chẳng qua chỉ được người ta mớm lại cho thôi: hơn nữa, ngay cả cái nghề của hắn ta là nghề tuyên truyền, có lẽ hắn cùng không biết cho đến nơi đến chốn, cho nên thường hay lúng túng quá mức, còn nói gì đến chuyện hắn có thể tố cáo ai. Nhân tiện cũng xin nói qua rằng mươi ngày gần đây, nhất là hồi đầu, Piotr Petrovich vui lòng nhận những lời tâng bốc khá kỳ quặc của Andrey Xemionovich, nghĩa là ông ta lặng thinh không cãi lại khi Andrey Xemionovich gán cho ông cái sẵn sàng góp phần vào việc xây dựng một "công xã" mới sắp tổ chức ở một nơi nào trên phô Mesanxkaya; hay là không cản trở Dunia, nếu ngay trong tháng đầu chung sống, cô ta nảy ra ý bắt nhân tình chẳng hạn; hoặc giả không rửa tội cho con cái sau nầy v.v… và v.v… đại loại như thế. Theo thói thường, Piotr Petrovich không cải chính những đức tính mà người ta gán cho mình, dù nó có kỳ quặc như thế nữa thì ông cũng để yên, vì bất cứ lời tâng bốc nào cũng đều làm cho ông thích thú.
Sáng hôm ấy Piotr Petrovich vừa đi đổi mấy xấp giấy bạc về, đang ngồi trước bàn đếm lại. Andrey Xemionovich, xưa nay hầu như không bao giờ có tiền, đang đi lại trong phòng và vờ làm ra vẻ như nhìn những xấp giấy bạc ấy một cách dửng dưng, thậm chí còn khinh bỉ nữa. Ngược lại, Piotr Petrovich không đời nào có thể tin rằng Andrey Xemionovich thật tình có thể nhìn mớ tiền ấy một cách thản nhiên; về phần mình Andrey Xemionovich lại chua chát nghĩ rằng quả nhiên Piotr Petrovich có thể nghĩ về mình như vậy, có lẽ lại còn hài lòng vì có dịp trêu thêm ông bạn trẻ với mấy xấp giấy bạc bày la liệt trên bàn, nhắc cho ông bạn nhớ đến cái thân phận hẩm hiu của mình và thấy hết sự khác nhau rõ rệt giữa hai người.
Lần nầy Andrey Xemionovich thấy Piotr Petrovich có vẻ cáu bẩn và lơ đãng hơn hẳn mọi khi, tuy ông ta đã bắt vào câu chuyện ưa thích nhất là việc thành lập một "công xã" đặc biệt. Những câu nhận xét và bắt bẻ nhát gừng mà Piotr Petrovich thốt lên trong khi thấy những hòn xâu kêu lách cách trên chiếc bàn tính, lộ rõ ý giễu cợt vô lề và cố tình. Nhưng Andrey Xemionovich vốn là người "nhân đạo", nghĩ rằng tâm trạng Piotr Petrovich là do cuộc đoạn tuyệt với Dunia hôm qua mà ra, và nóng lòng muốn chuyển câu chuyện sang vấn đề ấy; ông ta có những ý kiến rất tiến bộ và có tác dụng tuyên truyền để đem nói về việc nầy, có thể an ủi ông bạn đáng kính, và "chắc chắn" sẽ giúp cho ông ta tiến bộ thêm.
- Ở nhà cái mụ… cái bà quả phụ ấy dọn tiệc tùng gì thế? - Piotr Petrovich bỗng ngắt lời Andrey Xemionovich ở đoạn lý thú nhất.
- Làm như thể ông không biết ấy? Hôm qua tôi đã trình bày cho ông nghe ý kiến của tôi về các thứ lễ nghi ấy rồi mà… Bà ta cũng có mời cả ông nữa, tôi nghe nói thế. Hôm qua chính ông cũng có nói chuyện với bà ta…
- Tôi không thể ngờ cái con mẹ ngốc nghèo kiết ấy lại đem hết số tiền của cái thằng ngốc kia cho ra dọn tiệc. Ngay lúc nãy đi ngang qua nhà mụ, tôi cũng vẫn lấy làm lạ: sửa soạn nhặng xị cả lên, lại có cả rượu riếc nữa! Mụ ta đã mời được mấy người có ma nó biết là hạng người nào! - Piotr Petrovich nói tiếp, luôn luôn đặt câu hỏi và gợi cho Lebeziatnikov nói, hình như đang có một chủ ý gì trong đầu. - Sao? Ông bảo mụ ta mời cả tôi à? - Ông bỗng ngẩng đầu lên hỏi. - Lúc nào? Tôi không nhớ. Dù sao tôi cũng không đến. Tôi đến làm gì? Hôm qua tôi chỉ nhân tiện nói qua với mụ là với tư cách quả phụ của một người công chức đang túng bấn, mụ có thể nhận được một số tiền trợ cấp tạm thời chi dụng trong một năm. Có lẽ vì thế mà mụ ta mời tôi chăng? Hê - hê!
- Tôi cũng không có ý định đến dự, - Lebeziatnikov nói.
- Còn phải nói! Đã thẳng tay đánh người ta còn đến làm gì: cũng ngượng chứ, hê - hê!
- Ai đánh? Đánh ai? - Lebeziatnikov bỗng sửng cồ lên, mặt đỏ gay.
- Thì tháng trước ông đánh cái mụ Katerina Ivanovna chứ còn ai nữa! Hôm qua tôi có nghe nói… Tư tưởng của các ông là thế đấy? Cứ nói bênh vực phụ nữ mãi. Hê - hê - hê!
Và Piotr Petrovich có vẻ như hả dạ, lại bắt tay vào gẩy bàn tính.
- Chỉ là chuyện nhảm, chuyện vu khống! - Lebeziatnikov lồng lên (ông ta rất sợ nhắc đến chuyện nầy) - hoàn toàn không phải như thế! Việc xảy ra khác hẳn… Ông nghe nhầm đấy; chuyện đồn bậy? Hôm ấy tôi chỉ tự vệ mà thôi. Chính mụ ta giương nanh giương vuốt ra xông vào tôi trước… Mụ ta vặt mất của tôi cả một bên ria má… Tôi thiết tưởng người ta có quyền bảo vệ thân thể mình chứ. Hơn nữa tôi không cho phép ai hành hung tôi hết… Nguyên tắc của tôi là như vậy. Vì thế kia là lộng hành. Ông bảo tôi phải làm thế nào: cứ đứng ì ra đấy cho mụ ta đánh à? Tôi chỉ ấy mụ ta ra thôi!
- Hề - hê - hê! - Lugin vẫn cười hằn học.
- Ông gây chuyện với tôi là vì chính ông đang cay cú còn như cái chuyện nhảm ấy thì quyết không dính dáng gì đến vấn đề phụ nữ? Ông hiểu sai rồi; tôi còn nghĩ rằng nếu đã cho là phụ nữ dính dáng với nam giới về mọi phương diện, ngay cả về thể lực nữa, như người ta đã khẳng định, thì trong trường hợp nầy cũng phải bình đẳng chứ. Dĩ nhiên sau đó tôi nghĩ ra rằng kỳ thực không thể đặt vấn đề đó ra, vì ẩu đả là không được rồi, và trong xã hội tương lai không thể có ẩu đã… và dĩ nhiên trong chuyện ẩu đá mà cũng đòi hỏi bình đẳng thì thật chướng, tôi không đến nỗi ngu như thế… tuy vẫn có ẩu đả, nghĩa là sau nầy sẽ không còn, nhưng bây giờ thì vẫn còn… Xì! Quỷ thật! Nói với ông thật khó? Tôi không đến dự tiệc tang không phải vì chuyện ấy Tôi không đến chỉ vì muốn giữ nguyên tắc: để khỏi tham gia vào một hủ tục, chỉ có thế! Vả chăng cũng có thể đến để cười cho vui thế thôi… Nhưng tiếc là không có mấy ông cố đạo. Giá có thì thế nào tôi cũng đến.
- Nghĩa là ông định ngồi vào bàn của người ta mà ăn rồi nhổ vào đĩa và nhổ luôn vào mặt những người đã mời ông ăn chứ gì?
- Tuyệt nhiên không phải là phi nhổ, mà là phản đối! Vì một mục đích tốt. Như vậy tôi có thể gián tiếp góp phần tuyên truyền cho tư tưởng tiến bộ. Mọi người đều có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục tư tưởng tiến bộ, có lẽ càng mạnh càng tốt, tôi sẽ có thể gieo rắc một tư tưởng, một hạt giống. Và từ hạt giống ấy sẽ nẩy ra một sự kiện. Như thế thì có gì xúc phạm đến họ? Lúc đầu họ sẽ mếch lòng nhưng về sau chính họ sẽ thấy là tôi giúp ích cho họ. Đấy như người ta buộc tội cho cô Terebieva (cô ta bây giờ đã vào "công xã") vì khi cô ta bỏ gia đình ra đi và… trao thân cho kẻ khác. Cô ta đã viết thư cho cha mẹ nói là không muốn sống giữa những thành kiến cũ và muốn tự do kết hôn; người ta bảo như thế quá thô bạo đối với cha mẹ, lẽ ra nên nương nhẹ họ, viết cho dịu dàng hơn. Theo tôi thì đó toàn là chuyện nhảm, quyết không cần dịu dàng gì cả, mà trái lại, trái lại, đây chính là nơi cần phản đối thật mạnh. Kìa như bà Varentx chung sống với chồng bảy năm, bỏ hai con lại rồi viết thư nói dứt khoát với chồng: "Tôi đã nhận thức rằng sống với ông tôi không thể có hạnh phúc được. Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho ông đã lừa dối tôi, giấu giếm không cho tôi biết rằng có một cơ cấu xã hội khác mà phương tiện tổ chức là công xã. Cách đây không lâu một con người hào hiệp đã cho tôi biết điều đó, tôi đã trao thân cho người ấy và sẽ cùng người ấy xây dựng công xã. Tôi nói thẳng ra như thế, vì tôi cho rằng lừa dối ông là bất lương. Ông muốn thu xếp cho bản thân như thế nào thì tuỳ ông. Ông đừng hòng kéo tôi trở lại, ông lạc hậu quá rồi. Tôi muốn được hạnh phúc". Đấy, viết loại thư nầy là phải viết như thế!
- Cái cô Terebieva ấy chính là người mà dạo trước ông có nói là đã tự do kết hôn đến lần thứ ba đấy phải không?
- Xét cho đúng ra thì chỉ mới lần thứ hai! Mà dù có đến lần thứ tư, lần thứ mười lăm đi nữa thì cũng có can hệ gì. Và nếu có lúc nào tôi tiếc rằng cha mẹ tôi đã mất đi thì đó chính là lúc nầy, dĩ nhiên. Tôi lại còn có mấy lần mơ ước rằng nếu họ còn sống, tôi sẽ phản kháng cho họ một mẻ ra trò! Tôi sẽ cố ý làm như vậy… Tôi sẽ cho họ biết tay, chà! Tôi sẽ cho họ thấy! Họ sẽ được một mẻ kinh ngạc. Thật tiếc là tôi chẳng còn còn ai!
- Để cho họ kinh ngạc chứ gì? Hê - hê! Thôi được, ông muốn làm gì thì cứ làm: - Piotr Petrovich ngắt lời, - nhưng nầy, ông thử nói tôi nghe một chút: ông có biết con gái người quá cố thì phải, cái cô gầy gầy ấy mà! Những điều họ đồn về cô ta hoàn toàn đúng đấy chứ?
- Thì đã sao? Theo tôi, nghĩa là theo quan điểm riêng của tôi, đó chính là một tình trạng hết sức bình thường của phụ nữ. Sao lại khờng? Nghĩa là distinguons(1). Trong xã hội hiện thời dĩ nhiên nó không phải là bình thường lắm, vì đó là một tình trạng bất đắc dĩ, chứ trong xã hội tương lai thì nó hoàn toàn binh thường, vì đó là một cách sống tự do. Mà ngay bây giờ cô ta cũng có quyền: cô ta đã từng đau khổ, và đó là cái vốn của cô ta, có thể nói là cái tư bản mà cô ta có toàn quyền sử dụng. Dĩ nhiên trong xã hội tương lai sẽ không cần có vốn gì nữa; nhưng vai trò của người gái điếm sẽ được xác định theo một hướng khác, sẽ được xác định một cách công bằng hợp lý. Còn riêng cả nhân Sofia Xemionovna thì hiện nay tôi coi hành vi của cô ta như một sự phản kháng cụ thể và kịch liệt chống lại cơ cấu xã hội và do đó tôi hết sức kính trọng cô ta; thậm chí nhìn cô ta tôi còn thấy hả lòng hả dạ nữa.
- Thế mà người ta kể với tôi rằng ông đuổi cô ta ra khỏi nhà trọ nầy!
Lebeziatnikov nổi khùng lên.
- Đó lại là một lời vu khống - Ông ta thét lên. - Hoàn toàn, hoàn toàn không phải thế? Đó là cái mụ Katerina Ivanovna mụ ấy nói bậy như thế, vì mụ chẳng hiếu gì sất! Mà tôi cũng không hề đeo đuổi cô Sofia Xemionovna. Chẳng qua tôi chi muốn giúp cô ta tiến bộ thôi, một cách hoàn toàn vô tư, nhằm cổ vũ tinh thần phản kháng trong cô ta… Tôi thì tôi chỉ cần sự phản kháng, còn bản thân Sofia Xemionovna thì lẽ tự nhiên không thể trọ ở đây được nữa rồi?
- Ông rủ cô ấy tham gia công xã chứ gì?
- Ông cứ nhạo báng mãi, mà nhạo báng một cách vụng về nhạt nhẽo, xin nói rõ như thế. Ông không hiểu gì hết? Trong công xã không làm gì có những vai trò như thế. Công xã lập ra chính là để đừng có những vai trò như thế nữa. Trong công xã vai trò đó thay đổi hẳn thực chất của nó, và cái gì ở đây là ngu xuẩn thì ở đấy lại là thông minh, cái gì trong hoàn cảnh hiện nay là phi tự nhiên thì trong công xã lại sẽ thành ra hoàn toàn tự nhiên. Tất cả đều tuỳ ở chỗ con người sống trong hoàn cảnh nào và môi trường nào. Tất cả đều do môi trường, bản thân con người chẳng là cái gì hết. Còn đối với Sofia Xemionovna thì cho đến nay tôi vẫn là chỗ thân tình: điều đó là một bằng chứng có thể cho ông thấy rõ rằng cô ta chưa bao giờ xem tôi là một kẻ thù, một người đã xúc phạm đến cô ta. Phải! Ngay bây giờ tôi cũng đang lôi kéo cô ta vào công xã, nhưng trên những cơ sở khác hẳn, khác hẳn! Có gì mà ông cười! Chúng tôi muốn thành lập một công xã riêng, đặc biệt, nhưng trên những cơ sở rộng rãi hơn trước. Chúng tôi cải tiến thêm các (quan điểm của chúng tôi. chúng tôi phủ nhận nhiều hơn! Giá Dobroliubov sòng lại, tôi sẽ tranh luận với ông ta! Còn như Bielinski thì tôi sẽ trị cho một mẻ. Trong khi chờ đợi, tôi tiếp tục giáo dục Sofia Xemionovna. Bản chất cô ta hết sức tốt đẹp!
- Ấy thế là ông lợi dụng cái bản chất tốt đẹp ấy chứ gì? Hê - hê!
- Không, không! Ồ, không Ngược lại ấy chứ?
- Làm gì có chuyện ngược lại! Hê - hê - hê… Nói thế mà nghe được!
- Ông phải tin mới được chứ! Vì lý do gì tôi lại đi che giấu ông, ông thử nói xem! Trái lại, chính tôi cũng lấy làm lạ: đối với tôi cô ta có vẻ trình bạch và cả thẹn đến mức sợ sệt quá mức ấy!
- Còn ông thì dĩ nhiên là ông giáo dục… hê hê! Ông chứng minh cho cô ta thấy rằng e thẹn như thế là ngớ ngẩn chứ gì?
- Hoàn toàn không phải, hoàn toàn không phải như thế! Sao ông lại hiểu chữ giáo dục một cách thô thiển và - nói vô phép - ngu xuẩn như thế? Ông không hiểu gì hết? Trời ơi, ông còn… lạc hậu quá? Chúng tôi đi tìm tự do cho phụ nữ, còn ông thì trong óc chỉ rặt một chuyện ấy… Trong khi gạt hẳn sang một bên vấn đề trinh tiết và tính cả thẹn của phụ nữ, xem đó là những chuyện vô ích, thậm chí là những thành kiến hủ lậu, tôi vẫn hoàn toàn, hoàn toàn dung thứ thái độ e dè của cô ta đối với tôi, vì đó là ý chí, là quyền của cô ta. Dĩ nhiên nếu cô ta tự nói với tôi: "Em thèm khát anh", thì tôi sẽ tự cho mình là người diễm phúc, vì tôi rất thích cô gái nầy; nhưng hiện nay, ít nhất là hiện nay không có ai cư xử với cô ta một cách lễ độ và kính cẩn hơn tôi, không có ai coi trọng nhân phẩm của cô ta hơn tôi… tôi đợi chờ và hy vọng - Chỉ có thế thôi!
- Tốt hơn ông nên tặng cô ta một cái gì, tôi cuộc là ông chưa nghĩ đến việc ấy đấy.
- Ông không hiểu gì hết, tôi đã nói mà! Dĩ nhiên tình cảnh cô ta là như thế, nhưng đây là một vấn đề khác! Khác hẳn! Chẳng qua ông khinh miệt cô ta. Vừa trông thấy một việc mà ông tưởng lầm là đáng khinh, ông đã không chịu nhìn một con người bằng một con mắt nhân đạo nữa. Ông chưa biết bản chất cô ta ra sao! Tôi chỉ bực mình là gần đây cô ta chẳng đọc gì cả và không mượn sách của tôi nữa. Trước kia cô vẫn mượn đấy. Cũng đáng tiếc là mặc dầu cô ta có một tinh thần phản kháng mạnh mẽ và cương quyết, như hành động của cô, ta đã cho thấy một lần, cô ta vẫn dường như ít tính độc lập? Ít sức phủ nhận, cho nên không dứt hẳn được ra khỏi một số thành kiến và… tư tưởng ngu xuẩn. Tuy vậy, có một số vấn đề cô ta hiểu rất rõ. Chẳng hạn, cô ta hiểu rất thấu đáo vấn đề hôn tay, nghĩa là nếu một người đàn ông hôn tay một người đàn bà, tức là đã có một quan niệm bất bình đắng xúc phạm tới phụ nữ. Chúng tôi có thảo luận vấn đề nầy, và tôi đã lập tức truyền đạt lại cho cô ta. Về các hiệp hội công nhân ở Pháp cô ta cũng nghe khá chăm chú. Hiện nay tôi đang giải thích cho cô ta hiểu vấn đề tự do vào phòng người khác trong xã hội tương lai.
- Lại chuyện gì nữa thế?
- Gần đây chúng tôi có thảo luận vấn đề: một thành viên công xã có quyền vào phòng một thành viên khác không, dù là đàn ông hay đàn bà, bất cứ vào lúc nào… rốt cục chúng tôi đã giải quyết là có quyền…
- Thế nếu lúc ấy người kia đang thoả mái những nhu cầu thiết yếu thì sao, hê - hê!
Andrey Xemionovich nổi giận lên.
- Ông thì cứ nói mãi đến những "nhu cầu" chết tiệt ấy! - Ông ta hằn học quát lên, - Chà, tôi thật bực mình vì khi trình bày cho ông nghe quan điểm tôi đã nhắc quá sớm đến những nhu cầu chết tiệt ấy! Mẹ kiếp! Đó là một vấn đề gay go nhất đối với những người như ông, và tệ hơn cả là các ông chưa biết đầu đuôi ra sao đã chế nhạo rồi! Cứ như thể mình đúng lắm ấy! Cứ như thể dáng lấy làm tự hào lắm! Xì! Tôi đã nhiều lần khẳng định rằng đối với những người mới tập tõm thì không có cách nào khác là trình bày vấn đề nầy sau cùng, khi họ đã tin chắc vào hệ thống, khi họ đã có trình độ kha khá và có định hướng. Ấy, ông thử hỏi xem ông thấy có gì đáng thẹn và đáng khinh trong cái hố vệ sinh chẳng hạn? Tôi thì tôi sẵn sàng tiên phong đi dọn bất cứ hố vệ sinh nào! Thậm chí ở đây cũng không có gì là hy sinh cả! Đây chỉ là một công việc, một hoạt động cao quý, hữu ích cho xã hội, không thua kém bất cứ hoạt động nào khác, mà lại còn hơn mọi hoạt động của một Raphaen hay một Puskin nào đó chẳng hạn, vì có ích hơn.
- Và cao quý hơn, cao quý hơn, hê - hê…
- Thế nào là cao quý hơn? Tôi không thể quan niệm rằng từ nay có thể dùng để đánh giá hoạt động của con người được "cao quý hơn", "hào hiệp hơn", toàn là chuyện nhảm nhí, chuyện vô lý, những từ cũ kỹ đầy thành kiến, mà tôi nhất định phủ nhận! Cái gì có ích cho nhân loại thì cái ấy cao quý. Tôi chỉ hiểu có một từ: có ích. Ông muốn cười thì cứ cười, nhưng sự thật nó như thế đấy!
Piotr Petrovich cười ha hà. Ông ta vừa đếm tiền xong và đem cất đi nhưng vẫn còn để lại một phần ở trên bàn, không biết để làm gì. Cái vấn đề "hố vệ sinh" nầy tuy tầm thường như vậy, song cũng đã mấy lần làm cho Piotr Petrovich và ông bạn trẻ xung đột với nhau.
Sở dĩ những cuộc xung đột ấy đâm ra ngớ ngẩn, ngu xuẩn cũng chỉ vì Andrey Xemionovich nổi giận thật sự.
Lugin thì nhân dịp đó để giải khuây, và lúc nầy ông ta đặc biệt thấy muốn trêu gan Lebeziatnikov.
- Chỉ tại hôm qua ông bị thất bại cho nên ông mới cáu kỉnh và nhiễu sự thế! - Cuối cùng Lebeziatnikov thốt lên. Nói chung, tuy có tính "độc lập" và nhiều tinh thần "phản kháng" như vậy, không hiểu sao ông ta vẫn không dám chống chọi với Piotr Petrovich và vẫn giữ một thái độ kính nể hình như đã quen từ mất năm trưức.
- Tốt hơn là ông thử nói xem. - Piotr Petrovich cắt ngang, giọng trịch thượng và bực dọc, - Ông có thể… hay nói cho đúng hơn: có thật ông thân với người con gái nói trên không, và ông có thân với cô ta đến mức có thể mời cô ta vào đây, trong phòng nầy, ngay bây giờ không? Hình như họ ra nghĩa địa giờ đã về cả rồi thì phải… Tôi nghe tiếng họ đi lại rộn rịp lắm… Tôi có việc cần gặp cô ta một tí.
- Nhưng ông gặp làm gì? - Lebeziatnikov ngạc nhiên hỏi.
- Tôi cần gặp thế thôi. Nay mai tôi sẽ đi, cho nên tôi muốn nói cho cô ta biết… Vả chăng cũng xin ông ngồi đây trong khi tôi nói chuyện. Như thế lại còn tốt hơn nữa là khác. Nếu không, có trời biết ông sẽ nghĩ những gì.
- Tôi chẳng nghĩ gì sất… Tôi chỉ hỏi thế thôi, và nếu ông có việc cần, thì không có gì dễ hơn là gọi cô ta lên đây nữa. Tôi xuống ngây đây. Còn tôi thì xin ông tin chắc cho rằng tôi sẽ không làm phiền hai người đâu.
Quả nhiên, chừng năm phút sau Lebeziatnikov trở lại với Sonya. Nàng bước vào với một vẻ ngạc nhiên đến cực độ, vẫn như thường lệ, nàng đâm ra luống cuống. Trong những trường hợp như vậy bao giờ nàng cũng luống cuống, nàng rất sợ những người mới gặp, những cuộc làm quen; trước kia, hồi còn bé đã thế, bây giờ lại càng sợ hơn… Piotr Petrovich tiếp đón nàng một cách "ân cần và lễ độ", song vẫn có một sắc thái thân mật cợt nhả nào đấy. Vả chăng theo ý Piotr Petrovich thì đó là một thái độ rất ổn đáng đối với một người bệ vệ đáng kính như ông ta khi đứng trước một con người trẻ tuổi và cod phần thú vị như vậy.
Ông vội vàng "khuyến khích" cho Sonya vững tâm, mời nàng ngồi trước bàn, đối diện với ông. Sonya ngồi xuống, đưa mắt nhìn quanh - nhìn Lebeziatnikov, nhìn mớ tiền để trên bàn, rồi lại nhìn Piotr Petrovich và không rời mắt ra nữa, như thể mắt nàng đã dán chặt vào ông ta. Lebeziatnikov đi ra phía, cả Piotr Petrovich đứng dậy, ra hiệu cho Sonya cứ ngồi và ra cửa chặn Lebeziatnikov lại.
- Cái thằng Raxkonikov có đấy không? Đến chưa? - Ông ta hỏi thì thầm.
- Raxkonikov đến rồi đấy. Sao? Phải, đến rồi… Mới vừa vào, tôi có trông thấy! Sao?
- Ấy, nếu thế tôi tha thiết xin ông ở lại đây với tôi, đừng để tôi ngồi một mình với cái cô gái nầy. Chuyện thì chẳng có gì, nhưng nhỡ người ta dị nghị nầy nọ. Tôi không muốn Raxkonikov mách lại với họ rằng… Ông có hiểu tôi muốn nói gì không?
- À, tôi hiểu, tôi hiểu! - Lebeziatnikov chợt đoán ra. - Phải, ông có quyền… Dĩ nhiên theo ý riêng tôi thì ông lo ngại như vậy cũng hơi quá, nhưng… dù sao ông cũng có quyền. Tôi ở lại cũng được. Tôi sẽ đứng đây, cạnh cửa sổ, và sẽ không làm phiền ông… Theo tôi thì ông có quyền.
Piotr Petrovich trở lại ngồi trên đi-văng, đối diện với Sonya, chăm chú nhìn nàng, rồi bỗng làm ra mệt vẻ mặt cực kỳ trang trọng, lại có phần nghiêm khắc nửa như muốn nói: "Nầy cô, đừng có nghĩ xằng đấy nhé". Sonya đâm ra luống cuống hẳn hoi.
- Cô Sofia Xemionovna, trước hết xin cô chuyển lời cáo lỗi của tôi cho mẹ cô… Hình như bà Katerina Ivanovna là người thay thế cho mẹ cô phải không ạ?
Piotr Petrovich mở đầu một cách trang trọng nhưng cũng khá ôn tồn. Có thể thấy rõ ông ta có những ý định hết sức thân thiện.
- Vâng ạ, đúng thế đấy ạ, thay cho mẹ tôi đấy ạ, - Sonya đáp hấp tấp và sợ sệt.
- Ấy đã thế thì cô chuyển hộ lời cáo lỗi của tôi, là vì những hoàn canh không tuỳ thuộc ý tôi, tôi buộc lòng phải vẳng mặt trong bữa chén… và trong bữa tiệc tang, tuy mẹ cô đã có nhã ý mời.
- Vâng ạ, tôi sẽ xin nói lại ngay bây giờ, - đoạn Sonya vội vã đứng dậy.
- Nhưng hết ạ, - Piotr Petrovich ngăn nàng lại, miệng mỉm cười, vì thấy nàng ngờ nghệch, lại không biết phép lịch sự, - Cô Sofia Xemionovna thân mến ạ, nếu cô nghĩ rằng chỉ vì một việc nhò mọn chỉ liên quan đến tôi như vậy mà tôi lại dám phiền đến cô và mời một thiếu nữ như cô đến phòng tôi, thì cô quả không biết rõ tôi mấy. Tôi có một mục đích khác.
Sonya hấp tấp ngồi xuống. Những tờ giấy bạc ngũ sắc còn bày ngổn ngang trên bàn lại lấp loáng trước mắt nàng, nhưng nàng vội vã quay mặt đi, ngẩng lên nhìn Piotr Petrovich: nàng chợt thấy rằng nhìn tiền bạc của người khác là một việc tối bất chính, nhất là đối với một người như nàng. Nàng đã toan nhìn vào đôi kính tay gọng vàng của Piotr Petrovich đang cầm ở tay trái và chiếc nhẫn to bản rất đẹp mặt hố phách, đeo ở ngón giữa bàn tay ấy, nhưng rồi nàng lại đột nhiên quay đi, và không biết nhìn đi đâu cho ổn, nàng lại nhìn thẳng vào mắt Piotr Petrovich. Ông ta im lặng một lát, vẻ còn bệ vệ hơn trước nữa, rồi nói tiếp.
- Hôm qua, nhân đi qua nhà, tôi có dịp trao đổi mấy lời với bà Katerina Ivanovna bất hạnh. Chỉ cần hai câu cũng đủ cho tôi thấy rằng bà đang ở trong một tình trạng… phi tự nhiên, nếu có thể nói như thế…
- Vâng ạ… phi tự nhiên, - Sonya vội vã tán đồng.
- Hay nói cho đơn giản, dễ hiểu hơn, là một tình bệnh hoạn.
- Vâng, đơn giản và để… vâng ạ, bệnh hoạn.
- Thế đấy. Cho nên, vì lòng nhân đạo và - à - à… có thể nói là vì lòng trắc ẩn, tôi có ý muốn về phần mình làm một việc gì có ích, vì đã thấy trước số phận khốn đốn không sao tránh khỏi của bà. Mà hình như cả gia đình bây giờ cũng chỉ biết trông vào cô nữa thôi.
- Xin phép ông, - Sonya bỗng đứng dậy, - Cho tôi được hỏi: hình như hôm qua ông có nói chuyện với dì tôi rằng có thể được một số tiền trợ cấp phải không ạ! Vì hôm qua dì tôi có bảo là ông sẽ lo cho dì tôi được hưởng trợ cấp. Có phải thế không ạ?
- Hoàn toàn không phải như thế, và về một phương diện nào đó, lại còn vô lý nữa là khác. Tôi chỉ muốn ám chỉ đến chế độ trợ cấp tạm thời cho quả phụ một công chức chết trong khi thừa hành nhiệm vụ, ấy là nói nếu có người che chở cho. Nhưng hình như ông thân sinh cô không những làm việc chưa đủ thời hạn, mà gần đây lại không làm gì cả nữa. Nói tóm lại, tuy cũng có thể hy vọng đấy, nhưng rất mong manh, vì trong trường hợp nầy thật ra không hề có quyền được trợ cấp, mà trái lại nữa là khác… Thế mà bà ta đã nghĩ đến tiền trợ cấp, hê - hê - hê! Bà ta kể cũng nhanh nhảu nhật!
- Vâng ạ, về số tiền trợ cấp… Vì dì tôi vốn cả tin và tốt bụng, mà người tốt bụng thì cái gì cũng tin, và… và trí óc dì tôi lại như thế… vâng ạ… xin phép ông…, - Sonya nói đoạn lại đứng dậy để đi ra.
- Xin cô ngồi lại, cô chưa nghe hết.
- Vâng ạ, tôi chưa nghe hết, - Sonya lắp bắp.
- Thế thì cô ngồi xuống.
Sonya hết sức lúng túng ngồi xuống, lần nầy là lần thứ ba - Thấy tình cảnh bà ta với lũ con thơ côi cút như vậy tôi… cũng muốn, như tôi đã nói, giúp đỡ phần nào gọi là trong chừng mực có thể, chứ không hơn được. Chẳng hạn có thể tổ chức lạc quyên, hay gọi là xổ số gì đấy trong những trường hợp như thế nầy, những người thân, hay những người lạ có thiện ý muốn giúp đỡ cũng thế, thường làm như vậy. Đây tôi muốn nói với cô chuyện ấy may ra có thể.
- Vâng ạ, được ạ… Xin Chúa ban phúc cho ông đã… - Sonya nói lắp bắp, mắt nhìn Piotr Petrovich đăm đăm.
- Có thể, nhưng… sau ta sẽ bàn, nghĩa là cũng có thể bắt đầu ngay hôm nay. Đến tối ta sẽ gặp nhau bàn bạc và có thể nói là đặt một cơ sở cho việc nầy. Bây giờ tối xin mời cô cứ ghé lại đây. Tôi hy vọng rằng Andrey Xemionovich cũng sẽ… tham dự, nhưng… ở đây có một việc cần phải bàn trước và bàn kỹ. Chính vì thế mà tôi đã phải phiền đến cô, Sofia Xemionovna ạ. Cụ thể là theo tôi, nếu đưa tiền cho bà Katerina Ivanovna thì nguy hiểm không thể làm như thế được. Chính bữa tiệc tang hôm nay cũng chứng tỏ điều đó. Có thể nói là không có lấy một miếng bánh để dành đến ngày mai và… đấy, một đôi giầy cũng không có, thế mà lại mua cả rượu Rom Yamaik, rượu Madera và cả cả-phê nữa thì phải. Khi đi ngang tôi có trông thấy. Đến mai tất cả sẽ đổ lên đầu cô, kể cả việc kiếm miếng bánh qua bữa, thật là vô lý. Cho nên theo ý riêng tôi, cuộc lạc quyên phải tiến hành sao cho bà quả phụ khốn khổ đừng biết là có tiền, mà chỉ có cô biết thôi chẳng hạn. Có đúng không?
- Tôi không biết ạ Chỉ có hôm nay dì tôi mới thế… cả đời chỉ có một lần… dì tôi rất muốn nhắc nhở, cho hương hồn… dì tôi rất thông minh ạ. Vả chăng cũng tuỳ ý ông: tôi sẽ rất, rất… cả nhà sẽ đội ơn ông… Và Chúa sẽ… cả lũ trẻ mồ côi cũng sẽ…
Sonya không nói hết được. Nàng khóc oà lên.
- Được! Thế thì cô lưu ý cho; còn bây giờ xin cô vui lòng nhận tạm cho số tiền nhỏ mọn nầy, của cá nhân tôi gửi để giúp mẹ cô. Tôi thiết tha mong rằng tên tôi sẽ không được nhắc đến. Đấy… vì chính tôi cũng đang có nhiều việc phải lo, nên tôi không thể giúp nhiều hơn.
Và Piotr Petrovich cẩn thận vuốt thẳng một tờ giấy mười rúp, đưa cho Sonya. Sonya đỏ mặt cầm lấy, đứng phắt dậy lẩm bẩm câu gì không rõ và hối hả cúi chào. Piotr Petrovich trang trọng đưa nàng ra cửa. Nàng bước vội ra ngoài, lòng bồi hồi day dứt, và trở về phòng Katerina Ivanovna, hết sức bối rối.
Suốt thời gian hai người nói chuyện, Andrey Xemionovich khi thì đứng ở cửa sổ, khi thì đi bách bộ trong phòng, không muốn phá ngang câu chuyện; khi Sonya đã ra khỏi, ông ta vội đến cạnh Piotr Petrovich và long trọng chìa tay ra:
- Tôi đã nghe hết và trông thấy hết, - Andrey Xemionovich nói, đặc biệt nhấn mạnh hai chữ "trông thấy" - Thật là cao quý, và tôi muốn nói là nhân đạo! Ông muốn tránh cảm ơn, tôi thấy rồi! Và tuỳ theo nguyên tắc tôi thú thật là không thể đồng tình với lối ban ơn cá nhân, vì không những nó không thể tiêu diệt cái ác tận gốc mà còn nuôi dưỡng thêm, tuy vậy tôi cũng không thể không thừa nhận rằng tôi rất thích khi thấy hành động của ông, vâng, vâng, rất thích.
- Chà; chỉ là chuyện vặt! - Piotr Petrovich lẩm bẩm, vẻ hơi bối rối, mắt nhìn Lebeziatnikov có chiều lấm lét.
- Không, không phải là chuyện vặt! Một người đã bị lăng nhục và đang bực bội vì chuyện hôm qua như ông mà, lại có - thể nghĩ đến nỗi khổ của người khác… tuy hành động vừa rồi của ông là một sai, lầm về mặt xã hội, - một người như vậy cũng rất đáng kính phục! Thậm chí tôi không ngờ ông có thể hành động như thế, ông. Piotr Petrovich ạ, hơn nữa là vì những quan niệm của ông… Ồ! quan niệm của ông cản trở ông nhiều quá! Như câu chuyện hôm qua chẳng hạn, đã làm ông xúc động quá đáng. - Ông Andrey Xemionovich thật thà kêu lên, và ông ta lại thấy có thiện cảm với Piotr Petrovich lạ lùng. Mà tại sao, tại sao ông lại nhất thiết phải bám lấy cuộc hôn nhân ấy, cuộc hôn nhân hợp pháp ấy, hở ông Piotr Petrovich rất nhã nhặn, rất cao thượng của tôi? Việc gì ông cứ phải cần đến cái tính chất hợp pháp ấy trong hôn nhân? Ấy. Ông có đánh tôi cũng được, nhưng xin nói rằng tôi rát mừng, rất mừng khi thấy cuộc hôn nhân không thành, Và ông vẫn được tự do, đối với nhân loại, ông vẫn chưa phải, là người bỏ đi? Tôi rất mừng…ông thấy không, tôi đã nói hết ý nghĩ của tôi ra rồi đấy!
- Sở dĩ tôi cần đến hôn nhân hợp pháp như thế là vì tôi không muốn tự do kết hôn như các ông để rồi phải mọc sừng và nuôi con kẻ khác, - Lugin đáp lấy lệ. Ông ta đang mải bận tâm nghĩ một, điều gì lung lắm.
- Con cái à? Ông đề cập đến con cái? - Andrey Xemionovich giật mình như con chiến mã nghe thấy tiếng kèn trại - Con cái là một vấn đề xã hội và là một vấn đề quan trọng vào bậc nhất, tôi đồng ý như thế: nhưng vấn đề con cái phải giải quyết cách khác, thậm chí có một số người hoàn toàn phủ nhận con cái cũng như bất cứ cái gì có dính dáng đến gia đình. Tôi sẽ nói chuyện con cái sau, còn bây giờ, hẵng bàn đến chuyện mọc sừng đã. Xin thú thật đấy là nhược điểm của tôi. Cái danh từ tục tĩu, sặc mùi trại lính, đầy tính chất Puskin nầy thậm chí cũng không thể nào có được trong vốn từ vựng tương lai. Mà sừng là cái gì? Ờ, thật là sai lạc! Sừng nào? Sao lại sừng? Thật là nhảm nhí! Trái lại trong chế độ hôn nhân tự do không thể có chuyện mọc sừng được! Mọc sừng chỉ là hậu quả tự nhiên của bất cứ cuộc hôn nhân hợp phảp nào, có thể nói là một sự chỉnh lý, một sự phản kháng, cho nên hiểu theo nghĩa nầy mỏc sừng không có gì là nhục nhã. Và giả sử tôi sẽ kết hôn một cách hợp pháp - ấy là nói giả dụ một chuyện vô lý như thế - thì tôi sẽ còn lấy làm mừng khi được mang cặp sừng chết tiệt của ông, lúc đó tôi sẽ bảo vợ tôi: "Mình ạ, trước nay tôi chỉ yêu mình, nhưng đến bây giờ thì tôi lại còn kính phục mình nữa, vì mình đã biết "phản kháng". Ông cười à? Chỉ vì ông không đủ sức gạt bỏ các thành kiến cũ? Mẹ kiếp, tôi cũng hiểu nỗi khó chịu của kẻ bị lừa trong hôn nhân hợp pháp; nhưng đó chỉ là cái hậu quả bỉ ổi của một sự việc bỉ ổi, trong đó cả hai người đều bị hạ phẩm giá. Còn đến khi sừng cắm công khai như trong hôn nhân, tự do thì nó không còn nghĩa lý gì nữa và thậm chí không, còn gọi là sừng nữa. Ngược lại, vợ ông có làm như vậy thì cùng chỉ chứng tỏ cho ông thấy rằng bà ta kính trọng ông, cho rằng ông không đời nào đi cản trở hạnh phúc của bà ta, và ông tiến bộ đến mức không nghĩ đến chuyện trả thù chỉ vì bà ta đi lấy chồng khác. Mẹ kiếp, đôi khi tôi mơ ước là nếu tôi đi lấy chồng… Chậc! nếu tôi cưới vợ (theo chế độ hôn nhân tự do hay hợp pháp cũng thế thôi), thì tôi sẽ thân hành dẫn một tình nhản đến cho vợ tôi, nếu vợ tôi mãi không bắt được nhân tình, tôi sẽ nói: "Mình ạ, tôi yêu mình, nhưng tôi lại còn muốn hơn thế nữa: tôi muốn mình kính trọng tôi đấy!" Tôi nói thế có đúng không, có đúng không nào? Piotr Petrovich vừa nghe vừa cười hềnh hệch, nhưng không có vẻ chăm chú lắm. Thậm chí ông cũng chẳng nghe mấy đỗi nữa. Quả nhiên ông ta đang suy nghĩ một điều gì khác, và cuối cùng Lebeziatnikov cũng nhận thấy thế. Thậm chí Piotr Petrovich còn có vẻ bứt rứt, hai tay cứ xoa vào nhau, vẻ mặt tư lự. Tất cả những điều đó, sau nầy Andrey Xemionovich sẽ suy xét và nhớ lại…
Chú thích:
(1) Ta phải phân biệt (tiếng Pháp)
Chương 26
Khó lòng mà nói cho đúng những nguyên nhân nào đã xui khiến bộ
óc rối loạn của Katerina Ivanovna nảy ra cái ý bày bữa tiệc tang rồ dại nầy. Quả
nhiên, bà ta đã phải tiêu vào đấy gần đến mười rúp trong số hơn hai mươi rúp của
Raxkonikov cho để lo việc chôn cất. Có lẽ Katerina Ivanovna tự cho mình có bổn
phận tỏ lòng sùng kính hương hồn chồng "cho tươm tất", để những người
cùng trọ và nhất là bà Amalya Ivanovna biết rằng chồng bà "không những
không thua kém gì họ, mà lại còn khá hơn nhiều nữa" và trong bọn họ không
ai có quyền được "vênh mặt" lên với ông ta. Có lẽ nguyên nhân chính
trong việc nầy là "tính tự hào của người nghèo" khiến nhiều người đem
hết những đồng cô-pếch cuối cùng còn dành dụm được ra tiêu pha, vào những lễ
nghi bắt buộc cho mọi người trong xã hội, không trừ một ai, cố hết sức làm sao
cho khỏi "thua kém người ta" và để cho người ta khỏi "chê cười".
Cũng rất có thể Katerina Ivanovna muốn chứng tỏ ngay trong dịp nầy, đúng vào giờ
phút nầy, khi tưởng chừng như bà ta đã bị mọi người ruồng bỏ, cho những "kẻ
cùng trọ ti tiện và xấu xa" ấy thấy rằng mình không những "biết cách
sống và biết cách tiếp đãi", mà hơn nữa đã được giáo dục để sống một cuộc
đời khác hẳn, trong một "gia đình quý phái, hơn nữa có thể nói là quý tộc
thượng lưu, gia đình của một vị đại tá", chứ tuyệt nhiên không phải để lau
sàn và đêm đêm giặt quần áo rách cho con. Những cơn tự hào và sĩ diện đến cùng
cực ấy thỉnh thoảng vẫn thấy có ở những người nghèo khổ nhất, khiếp nhược nhất
và đôi khi trở thành một nhu cầu cấp thiết không sao cưỡng được. Hơn nữa,
Katerina Ivanovna lại không phải hạng người dễ khiếp nhược: có những trường hợp
có thể làm cho bà điêu đứng, nhưng làm cho bà khiếp nhược nghĩa là làm cho bà
hoàng sợ phải tuân theo ý mình, thì không thể được. Ngoài ra, Sonya rất có căn
cứ khi nói rằng trí não của bà bắt đầu rối loạn.
Thật ra điều nầy chưa có thể nói một cách dứt khoát và chắc chắn, nhưng gần đây, suốt một năm nay quả nhiên bộ óc khốn khổ của bà đã trải qua quá nhiều cơn thử thách gian truân đến nỗi không thế nào khỏi bị tổn thương ít nhiều: Bệnh ho lao phát triển mạnh: theo lời các bác sĩ, cũng góp phần tác hại đến trí năng. Rượu không có nhiều và cũng không được mấy thứ, rượu Madera không có, chẳng qua người ta phóng đại ra thế. Nhưng dù sao cũng có rượu: có vodka, rượu rhum và rượu Porto, toàn là mạt hạng cả, nhưng cũng đủ dùng. Các món ăn thì ngoài bánh bột gạo cổ truyền ra còn có ba, bốn món (trong đó có cả bánh rán thịt) đều được nấu nướng trong nhà bếp của bà Amalya Ivanovna; ngoài ra người ta còn đặt hai ấm xamovar để dọn trà và rượu Punch sau bữa ăn. Chính Katerina Ivanovna đã thân hành đi mua sắm với một người Ba Lan ốm đói không hiểu tư đầu đến trọ ở nhà bà Lippevekzen, hắn lập tức tự nguyện đi theo giúp đỡ Katerina Ivanovna, suốt ngày hôm qua và sáng hôm nay hắn đầu tắt mặt tối chạy hết nơi nầy đến nơi khác, lưỡi thè ra, và hình như cố sao cho mọi người chú ý đến chi tiết nầy. Động một là hắn bỏ đi tìm cho được đích thân Katerina Ivanovna, chạy mãi ra tận Goxtiny Dvor (1) tìm bà, luôn mồm gọi: "Pani Chorunzhina" (2), rốt cục làm cho bà phát chán ra, tuy lúc đầu bà nói là không có con người "tận tuỵ và hào hiệp" ấy thì bà không biết xoay xở ra sao nữa. Katerina Ivanovna có một tính đặc biệt là hễ gặp bất cứ người nào cũng vội tô điểm ngay cho họ những màu sắc rực rỡ và, tốt đẹp nhất, ca ngợi tâng bốc không tiếc lời, đến nỗi người ta phát ngượng lên, bịa ra những sự việc không hề có để khen ngợi họ, đồng thời lại thành thật và quả quyết tin rằng những sự việc ấy có thật, rồi về sau bỗng tỉnh ngộ ra, bà hắt hủi, phỉ nhổ và xua đuổi con người mà chỉ cách đây mấy tiếng đồng hồ bà dốc lòng sùng bái.
Bẩm sinh bà vốn có tính mau cười, vui vẻ và chan hoà, nhưng vì phải trải qua những tai hoạ và thất bại liên tiếp, bà quay ra mong muốn và khăng khăng đòi hỏi mọi người phải sống cho hoà thuận vui vẻ và không ai được sống cách khác, đòi hỏi đó cực đoan đến nỗi một sự ngang chướng cỏn con nào, một thất bại nhỏ nhặt nào trong cuộc sống cũng lập tức làm cho bà nổi xung lên, và chỉ trong khoảnh khắc, đang ấp ủ những niềm hy vọng và mơ ước tươi đẹp nhất, bà bỗng quay ra nguyền rủa số mệnh, vớ được cái gì cũng xé, cũng vứt tung ra và đập đầu vào tường chan chát. Bây giờ cũng vậy, bà Amalya Ivanovna bỗng dưng đâm ra có một ý nghĩa quan trọng và được Katerina Ivanovna kính trọng khác thường, có lẽ cũng chỉ vì bữa tiệc nầy và vì bà Amalya Ivanovna đã hết lòng tham gia lo việc sửa soạn; bà ta nhận lấy việc bày bàn, kiếm khăn, đĩa v.v… và nấu nướng các món ăn trong nhà bếp của mình. Trong khi ra nghĩa địa, Katerina Ivanovna đã giao cho bà toàn quyền hành động, để cho bà tuỳ tiện liệu lấy.
Quá nhiên, mọi việc đều được chuẩn bị chu đáo: bàn trải khăn khá sạch, các thứ đĩa, cốc, chén, dao, nĩa thì dĩ nhiên rất ô hợp, đủ các kiểu và đủ các cỡ khác nhau, mượn của mỗi nhà mỗi ít, nhưng đến giờ đã định, mọi thứ đã bày biện đầy đủ đâu ra đấy, và Amalya Ivanovna, cảm thấy mình đã làm tròn phận sự một cách vẻ vang, ra đón những người mới về với một vẻ tự hào khá rõ rệt, phục sức sang trọng, đội mũ chụp mới dính dải tang, mình mặc áo dài đen. Vẻ tự hào nầy tuy rất chính đáng, song không hiểu sao không vừa ý bà Katerina Ivanovna: "Cứ như thể không có bà Amalya Ivanovna thì người ta không bày được bàn ấy". Bà cũng không có thiện cảm gì hơn đối với cái mũ chụp mới dính dải tang: "Hay là con mẹ người Đức đần độn nầy đâm ra kiêu hãnh vì bà thương tình mà thuận giúp đỡ bọn khách trọ nghèo hèn tội nghiệp? Thương tình! Thôi xin lỗi! Ông thân sinh Katerina Ivanovna, ngày xưa làm đại tá và suýt lên chức tổng trấn, đã mấy lần mở tiệc thết đến bốn mươi tân khách, và cái hạng như mụ Amalya Ivanovna cha căng chú kiết nào, nói cho đúng hơn, là Amalya Ludvigovna, thì có muốn vào làm bếp cũng đừng hòng…". Tuy vậy. Katerina Ivanovna cũng tự chủ sẽ không để lộ những cảm nghĩ của mình ra quá sớm, tuy bà đã định bụng là hôm nay thế nào cũng phải cho mụ ta một bài học cho mụ biết thân biết phận, nếu không thì có trời biết mụ còn sẽ lên mặt đến thế nào. Trong khi chờ đợi, Katerina Ivanovna chỉ tỏ ra một thái độ lạnh nhạt.
Một chuyện rầy rà khác cũng góp phần làm tăng thêm tâm trạng cáu bẳn của Katerina Ivanovna: trong số những người cùng trọ được mời đến dự đám tang, chỉ có mỗi một mình anh chàng người Ba Lan đã xoay xở thế nào có đủ thì giờ ghé vào nghĩa địa, ngoài ra hầu như không có ai đi cả; còn đến dự tiệc tang thì trong bọn họ chỉ có những người hèn mọn và nghèo khổ nhất, trong đó lại có mấy người ăn mặc không còn ra cái thể thống gì nữa, trông như một lũ ma dại. Còn những người hơi có vai vế, hơi ra dáng một chút thì dường như đều cố tình bảo nhau không đến. Piotr Petrovich Lugin chẳng hạn, có thể nói là người khách trọ oai vệ nhất ở đây, cũng không đến. Ấy thế mà tối hôm qua Katerina Ivanovna đã trót loan báo cho khắp mọi người - nghĩa là Amalya Ivanovna, Polenka, Sonya và anh chàng Ba Lan - biết rằng con người tối cao quý, tối hào hiệp nầy, vốn có tiền của và thế lực khó ai bì kịp xưa kia là bạn ông chồng trước của bà, đã từng được cha bà tiếp đón trong nhà, có hứa là sẽ tìm đủ mọi cách lo cho bà một số lương quả phụ khá cao. Ở đây cũng xin nói rõ rằng sở dĩ Katerina Ivanovna có khoe khoang tiền của và thế lực của người nào, thì đó tuyệt nhiên không phải vì vụ lợi, tính toán riêng tư gì cả, bà khoe khoang như vậy một cách hoàn toàn vô tư có thể nói là để trút bớt nỗi lòng, chì vì cái thú được khen ngợi người ta và làm tăng phẩm giá của người được khen lên. Ngoài Lugin ra, và chắc là vì "noi gương ông ta", còn có "cái tên chó đểu" Lebeziatnikov cũng không đến nốt. "Không biết cái thằng cha nầy cho mình là cái thá gì? Người ta chỉ vì thương tình mà mời hắn đến, và cũng vì hắn ở chung phòng với ông Piotr Petrovich, lại có quen với ông ta, nên không mời không tiện". Lại còn có một bà thuộc hạng lịch duyệt và cô "con gái quá thì" của bà không đến dự: bà nầy tuy mới đến ở nhà bà Lippevekzen trong vòng hai tuần nay, song cùng đã mấy lần kêu ca về những tiếng ồn ào từ căn nhà của gia đình Marmelazov vang lên, nhất là khi ông chồng quá cố đi uỏng rượu say khướt trở về.
Dĩ nhiên Katerina Ivanovna cũng biết thế, vì bà Amalya Ivanovna, cứ mỗi lần chửi nhau với Katerina Ivanovna, và doạ đuổi cả mấy mẹ con ra khỏi nhà, lại rống tướng lên rằng họ quấy rầy "những khách trọ đáng kính mà họ không bén đến gót chân". Giờ đây Katerina Ivanovna có ý mời hai mẹ con bà ta, những kẻ mà bà không "bén đến gót chân", vì một lý do nữa là từ trước đến nay mỗi khi tình cờ gặp nhau, bà kia lại khinh bỉ quay mặt đi - Ấy để cho bà ta biết rằng "nhà nầy cao thượng hơn nhiều, không hề để tâm thù vặt", và để họ thấy rằng Katerina Ivanovna vốn không quen sống trong một tình cảnh như thế nầy. Bà đã định tâm thế nào cũng phải nói đến chuyện nầy trong bữa ăn, cũng như nhắc đến cái chức tổng trấn của ông cụ, và đồng thời cũng dám chỉ rằng khi gặp bà không việc gì phải ngoảnh mặt đi một cách ngu xuẩn như vậy. Lại còn có một ông trung tá to béo không chịu đến (thật ra đó là một đại uý tham mưu giải ngũ), nhưng sau mới biết là ngay từ sáng hôm qua ông ta đã say bí tỉ "chẳng còn chân cẳng đâu mà lê đi nữa". Nói tóm lại, chỉ thấy anh chàng người Ba Lan rồi đến một viên thư lại gầy còm câm như hến, mặc áo đuôi tôm cáu ghét, mặt đầy mụn nhọt, người hôi hám kinh tởm; rồi đến một ông già điếc đặc và gần như mù tịt, ngày trước làm ở một trạm bưu chính nào đấy, trọ ở nhà bà Amalya Ivanovna không biết từ đời nào, do ai nuôi và để làm gì. Lại còn có một lão trung uý về hưu nghiện ngập, thật ra chỉ là một nhân viên quân lương, có một lối cười ông ổng hết sức khả ố, vả lại không mặc gi-lê "có chết người không chứ"! Một lão cha căng chú kiết nào cứ thế ngồi vào bàn, thậm chí cũng chẳng chào hỏi gì Katerina Ivanovna, và cuối cùng là một nhân vật vì không có áo khoác nên định xuất đầu lộ diện trong một cái áo dài mặc ngủ, nhưng cái nầy thì thật quá ư thất lễ, cho nên nhờ những cố gắng của Amalya Ivanovna và anh chàng Ba Lan, hắn đã tị tống cổ ra ngoài. Nhưng anh chàng Ba Lan lại rủ ở đâu đến hai anh chàng Ba Lan nữa, xưa nay chưa từng trọ ở nhà bà Amalya Ivanovna và trong nhà nầy chưa có ai trông thấy mặt bao giờ.
Những điều đó làm cho Katerina Ivanovna hết sức khó chịu. "Thế nầy thì sửa soạn, là dọn cho ai?". Để cho đủ chỗ, người ta đã phải dọn cho mấy đứa trẻ ăn trên một cái hòm đặt ở góc sau, không cho chúng ngồi ở chiếc bàn lớn chưa chi đã choán hết cả phòng. Hai đứa bé ngồi trên chiếc ghế dài, còn Polenka lớn nhất phải trông coi em, cho chúng ăn và chùi mũi cho chúng "cho ra dáng con nhà quý phái". Nói tóm lại, Katerina Ivanovna buộc lòng phải tiếp mọi người một cách long trọng gấp bội và thậm chí với vẻ khỉnh khỉnh nữa. Có một số khách bị bà nhìn một cách, nghiêm khắc đặc biệt và mời ngồi với một giọng trịnh thượng.
Không hiểu sao Katerina Ivanovna cho rằng bà Amalya Ivanovna phải chịu trách nhiệm về những người không đến, cho nên bỗng quay ra ăn nói hết sức khinh xuất với bà ta, khiến bà ta nhận thấy ngay và mếch lòng không sao tả xiết. Một sự khởi đầu như vậy không thể báo hiệu điều gì tốt lành về sau cả. Cuối cùng, mọi người ngồi vào bàn.
Raxkonikov đến gần đúng vào lúc họ từ nghĩa địa trở về, Katerina Ivanovna mừng quýnh lên, trước hết vì chàng là "người có học duy nhất trong cả đám tân khách, và như mọi người đều biết, đang chuẩn bị để hai năm nữa bước lên bục giáo sư ở trường đại học Petersburg", sau nữa là vì thoạt mới vào chàng đã kính cẩn xin lỗi bà ngay, vì đã không đến dự lễ an táng được mặc dầu rất muốn. Bà ta cứ vồ vập lấy chàng, mời chàng ngồi ngay bên tay trái mình (bên phải là bà Amalya Ivanovna), và tuy phải luôn luôn xắng xở trông nom cho người nhà bưng thức ăn cho đúng chỗ và múc đủ cho các tân khách, tuy những cơn ho đau đớn cứ phút phút lại làm bà nghẹt thờ, không nói được hết lời (hình như hai ngày qua bà ho nặng hơn trước rất nhiều), bà vẫn nói chuyện không ngớt với Raxkonikov, vội vã thầm thì bày tò với chàng tất cả những cảm xúc tích tụ lại ttong lòng và nỗi căm phẫn chính dáng của mình khi thấy bữa tiệc tang thất bại; tuy vậy cơn phẫn uất của bà 1uôn luôn xen những tiếng cười hết sức vui vẻ không sao nhịn được, nhằm chế giễu các tân khách quây quanh bàn nhưng chủ yếu là chế giễu đích thân bà chủ nhà.
- Lỗi tại con tu hú nầy cả. Ông hiểu tôi muốn nói ai chứ: nói mụ ấy, mụ ấy đấy! - Katerina Ivanovna bắt đầu trỏ bà chủ nhà cho chàng. - Ông thử nhìn mụ mà xem: mắt mụ đang long lên sòng sọc, mụ biết tôi đang nói chuyện về mụ, nhưng không hiểu nói gì, tức lồi cả mắt lên. Xì, thật như con cú! Ha - ha - ha? - Một cơn ho cắt ngang tiếng cười. - Mụ đội cái mũ chụp ấy để khoe cái gì nhỉ? - Bà lại ho - Ông có để ý thấy không, mụ ta cứ muốn mọi người tưởng mụ ta che chở cho tôi, và mụ đến dự thế nầy là vinh hạnh cho tôi lắm. Tôi tưởng mụ là người tử tế, nhờ mụ mời những khách cho kha khá một chút và phải là những người có quen với nhà tôi, thế mà ông xem, mụ ta mời những ai: toàn một lũ hề ở đâu ấy! Một lũ vô lại ông thử xem cái thằng cha mặt bẩn kia kìa: một thứ sên đi hai chân! Còn mấy thằng Ba Lan kia… ha - ha - ha! - tiếng cười chuyến thành tiếng ho - Chúng chưa từng đến đây bao giờ, từ thuở cha sinh mẹ đẻ tôi chưa bao giờ trông thấy mặt chúng: thế thì xin hỏi ông chúng đến đây làm cái gì? Chúng ngồi cạnh nhau, trông nghiêm chỉnh ra phết.
- Nầy, pane (3) - bà ta bỗng quát gọi một người trong bọn họ. - Pane đã ăn chả rán chưa? Ăn nữa đi, uống bia đi, uống bia đi! Không uống vodka à? Ông xem kìa: hắn đứng phắt dậy chào, ông xem, ông xem chắc là đói meo ra, tội nghiệp! Thôi được cho chúng ăn. Miễn là đừng có làm ồn, ít nhất cũng phải thế… quả tình tôi chỉ sợ cho mấy cái thìa bạc của bà chủ nhà! Amalya Ivanovna? - bà bỗng quay sang bà chủ nhà nói khá to, - nhỡ họ có cuỗm mất thìa của bà thì tôi không chịu trách nhiệm đâu, xin nói trước như vậy! Ha - ha - ha! - Bà cười phá lên một tràng, ngoảnh về phía Raxkonikov hất hàm chỉ bà chủ nhà, rất thích thú với câu nói kháy. - Không hiểu! Lần nầy mụ ta vẫn không hiểu? Cứ ngồi há hốc mồm ra, ông xem như một con cú, thật y như con cú, trên mào có thắt dải ruy băng mới, ha - ha - ha…
Đến đây tiếng cười lại chuyển thành một trận ho dữ dội kéo dài đến năm phút. Một vệt máu dính trên khăn tay, trán toát mồ hôi hột. Bà lặng lẽ đưa cho Raxkonikov xem vệt máu, và chưa kịp thở bà ta lại thì thầm nói với chàng sôi nổi, mà nổi lên những đám đo đỏ:
- Ông thử xem, tôi đã nhờ mụ ta làm một việc có thể nói là hết sức tế nhị, là mời bộ hai mẹ con cái bà thượng lưu kia, ông có hiểu tôi đang nói đến ai không? Ở đây cần phải xử sự thật tinh tế, khéo léo, thế mà mụ đã làm thế nào không biết đến nỗi cái mụ nhà quê ngốc nghếch mới lên tỉnh kia, cái thứ không đáng một trinh mà cũng lên mặt, chỉ vì mụ ta là vợ goá một thằng cha thiếu tá nào đấy lên đây xin lương quả phụ, luồn lọt khắp các công sở, năm mươi tuổi đầu mà còn đánh phấn, thoa son và nhuộm tóc (ai mà chả biết), một thứ người mạt hạng như thế mà mời không thèm đến, thậm chí cũng không thèm cho người đến cáo lỗi, nếu quả không thân hành đến được, thật đến cái lễ độ tối thiểu cũng không biết! Tôi không hiểu tại sao ông Piotr Petrovich cũng không đến. Còn Sonya đâu? À, nó đây rồi, thật là may! Sao Sonya, con đi đâu thế? Đám tang bố mà cũng đến muộn thì lạ thật. Rodion Romanovich, ông cho nó ngồi cạnh với. Chỗ của con đây, Sonyeska… muốn ăn gì thì cứ ăn đi, ăn món cá nấu đông nầy ngon hơn nầy, chả rán sẽ bưng lên ngay. Bọn trẻ có rồi chú. Polenka, đằng ấy có đủ món cho các con không? - Bà ta lại ho một chập, - Thôi được. Lena phải chp ngoan nhé, Kotia đừng có đu đưa hai chân; phải ngồi cho ra dáng con nhà quý phái. Con nói gì Sonyeska?
Sonya vội và chuyển ngay lời cáo lỗi của Piotr Petrovich, cố nói cho thật to để mọi người đều nghe, dùng những lời lẽ thật lịch sự tao nhã, thậm chí, còn cố ý thêm thắt và tô điểm vào nữa. Nàng nói thêm rằng Piotr Petrovich có dặn thưa lại là hễ có dịp ông sẽ đến ngay để nói chuyện riêng về công việc và bàn xem sau nầy có thể làm gì, mưu tính những gì, v.v…
Sonya biết rằng nói như vậy sẽ làm cho Katerina Ivanovna yên lòng và khuây khoả, sẽ mơn trớn lòng tự ái và nhất là sẽ thoả mãn được tính kiêu hãnh của bà. Nàng vội vàng chào Raxkonikov rồi ngồi xuống cạnh chàng và tò mò liếc nhanh về phía chàng. Tuy vậy suốt từ đấy về sau nàng cứ tránh nhìn chàng và tránh nói chuyện với chàng. Nàng lại còn có vẻ lơ đãng nữa, tuy vẫn nhìn vào mặt Katerina Ivanovna để cho bà vui lòng. Nàng cũng như Katerina Ivanovna đều không mặc tang phục, vì không có áo; Sonya đã chọn một chiếc áo nâu, chiếc áo thẫm màu nhất, đem mặc, còn Katerina Ivanovna thì mặc chiếc áo dài độc nhất còn lại, bằng vải in màu xin xỉn có sọc. Những lời nhắn nhủ của Piotr Petrovich được tiếp đón rất niềm nở.
Katerina Ivanovna trang trọng nghe Sonya truyền đạt, rồi vẫn giữ cái vẻ trang trọng ấy, bà hỏi thăm sức khỏe Piotr Petrovich, đoạn quay ngay sang Raxkonikov nói thì thầm, nhưng nghe rất to, rằng quả tình một con người oai vệ và đáng kính như Piotr Petrovich mà rơi vào một "đám người kỳ quặc" như thế nầy thì rất lạ, tuy ông ta rất tận tuỵ với gia đình bà và vốn là bạn cũ của cụ thân sinh bà.
- Cho nên tôi đặc biệt cảm ơn ông, Rodion Romanovich ạ, vì ông đã không khinh rẻ lòng hiếu khách của tôi, ngay trong một hoàn cảnh như thế nầy, - Bà nói khá to, - vả chăng tôi cũng biết rằng chỉ vì thương tình chồng tôi mà ông giữ lời hứa.
Rồi bà ta lại nhìn qua đám khách khứa một lượt, vẻ kiêu hãnh và đường bệ, rồi bỗng tỏ vẻ ân cần đặc biệt hỏi to ông già điếc ngồi bên kia bàn, xem ông ta có muốn ăn thêm thịt rán không, và người ta đã rót rượu Porto cho ông ta chưa. Ông già không đáp và hồi lâu không hiểu người ta hỏi gì mình, tuy những người ngồi cạnh cứ huých vào người ông ta để cười với nhau, ông ta chỉ há móm ngơ ngác nhìn quanh, khiến cho mọi người càng cười già.
- Rõ là đồ ma dại! Xem kìa, xem kìa? Họ đưa hắn đến làm gì thế không biết? Còn như Piotr Petrovich thì xưa nay tôi vẫn tin tưởng? - Katerina Ivanovna nói tiếp với Raxkonikov - và dĩ nhiên ông ta không giống… - Bà quay sang Amalya Ivanovna nói to và xẵng, vẻ nghiêm khắc đến nỗi bà chủ nhà đâm hoảng lên, - không giống cái bọn nạ giòng diêm dúa nhà bà: bọn ấy thì có muốn xin vào nấu bếp ở nhà cha tôi cũng không được đâu. Giá nhà tôi còn sống mà tiếp họ thì thật vinh dự cho họ, vả chăng có tiếp cũng chỉ vì nhà tôi rất thương người đó thôi.
- Vâng ạ. Ông nhà rất hay rượu; ông uống nhiều lắm! - lão nhân viên quân lương về hưu bỗng rống tưởng lên trong khi nốc chén rượu thứ mười hai.
- Sinh thời nhà tôi quả có cái tật ấy, ai cũng biết thế, - Katerina Ivanovna chộp ngay lấy câu nói của lão nhân viên quân lương - nhưng nhà tôi là người hiền lành và cao thượng, biết kính trọng gia đình, biết thương vợ thương con; chỉ phải cái nhà tôi vì tốt bụng mà quá tin những kẻ xấu xa truỵ lạc, bạ ai cũng kết bạn đánh chén, toàn là những hạng không bén đến gót giầy nhà tôi! Rodion Romanovich ạ, ông thử tưởng tượng: khi liệm tôi tìm thấy trong túi nhà tôi một con gà bằng bột ngào đường: say như chết rồi mà vẫn còn nhớ đến con.
- Gà à? Bà nói là một con gà à? - lão nhân viên quân lương kêu lên.
Katerina Ivanovna không thèm đáp. Bà quay ra suy nghĩ điều gì và cất tiếng thở dài.
- Chắc ông cũng nghĩ như mọi người rằng tôi đối xử với nhà tôi quá nghiệt ngã. - bà nói tiếp với Raxkonikov. - Thật ra không phải thế! Ông ấy rất nể tôi, nể lắm! Ông ấy tốt bụng lắm! Nhiều khi tôi thương nhà tôi quá. Có những lúc ông ngồi trong xó nhìn tôi tội nghiệp quá, cũng muốn vỗ về, an ủi ông ấy, nhưng rồi lại nghĩ bụng: "Dịu dàng với ông ta thì ông ta lại chè chén mất thôi", phải nghiêm may ra mới giữ được ít nhiều.
- Vâng, có khi phải túm lấy tóc lôi xềnh xệch ấy, đã nhiều lần rồi đấy, - lão nhân viên quân lương lại rống lên và rót thêm một cốc vodka nữa.
- Không phải chỉ túm tóc mà thôi đâu! - Katerina Ivanovna cắt ngang - Có những thằng ngốc còn phải lấy chổi mà quét ra khỏi nhà ấy. Đây là tôi nói kẻ khác chứ không phải nói nhà tôi đâu.
Những đám đỏ trên má Katerina Ivanovna mỗi lúc một thêm thẫm màu, ngực bà phập phồng. Chỉ thêm chút nữa là bà sẵn sàng gây sự. Có nhiều người cười khúc khích, rõ ràng là họ thích chí lắm. Có mấy người huých lão nhân viên quân lương và nói thì thầm với lão hẳn là muốn xúi bẩy thêm.
- Vậy xin hỏi bà vừa nói, nghĩa là… vừa rồi… bà định ám chỉ… vị nào ở đây?
- Thôi chả cần! Chỉ nhảm! Một mụ đàn bà goá ấy mà! Thôi bỏ qua cho mụ ấy…
- Cho qua! - đoạn lão ta lại nốc rượu.
Raxkonikov im lặng ngồi nghe, trông ông thấy ghê tởm. Chàng chỉ ăn qua loa lấy lệ những thứ atêTina Ivanovna bò vào cho chàng, mà cũng chỉ để bà ta khỏi mếch lòng. Chàng chăm chú nhìn Sonya. Nhưng Sonya bấy giờ mỗi lúc một thêm lo âu và sợ hãi; nàng cũng cảm thấy bữa tiệc sẽ không kết thúc êm thấm, và lo sợ theo dõi thái độ mỗi lúc một thêm cáu gắt của Katerina Ivanovna. Vả lại nàng cũng biết rằng nguyên nhân chính đã làm cho hai người đàn bà mới lên Petersbung từ khước lời mời của Katerina Ivanovna một cách khinh miệt như vậy chính là nàng, Sonya. Chính Amalya Ivanovna có nói với nàng rằng bà mẹ còn lấy làm khó chịu khi nghe mời và hỏi: "Làm sao tôi lại có thể để cho con gái tôi ngồi cùng bàn với cái ngữ ấy?". Sonya cảm thấy Katerina Ivanovna đã biết được việc nầy, và đối với bà, một điều gì xúc phạm đến Sonya còn quan trọng hơn là xúc phạm đến bản thân bà, đến con cái bà, đến cha bà nữa, tóm lại đó là điều sỉ nhục đau đớn nhất đối với Katerina Ivanovna. Sonya lại biết rằng bà sẽ không sao nguôi lòng nếu "chưa nói được cho hai con mẹ nhà quê diêm dúa kia biết rõ chúng đều là v.v…"
Vừa lúc ấy, như cố tình, có một người nào ngồi ở cuối bàn nhờ chuyển đến cho Sonya một cái đĩa trên đặt hai quả tim nặn bằng ruột bánh mì đen có một mũi tên xuyên qua. Katerina Ivanovna lồng lên và lập tức chõ về phía cuối bàn nói to lên rằng kẻ nào vừa làm như vậy hẳn là mục "con lừa say rượu".
Amalya Ivanovna cũng linh cảm thấy có triệu chứng bất thường, đồng thời thái độ khinh khỉnh của Katerina Ivanovna cũng làm cho bà ta bầm gan tím ruột đi. Muốn cho không khí đỡ nặng nề và lái cho khách khứa chú ý sang hướng khác nhân thể cũng để đề cao mình lên trước mặt mọi người, bà ta bỗng dưng bắt vào kể lể rằng một người quen của bà là ông "Karl ở hiệu thuốc" có một đêm đang đi trên xe ngựa thì bỗng "người ténh xe muốn giết ông ta và Karl fan nài xin hắn từng giết, chắp tay khoóc loóc mãi, sộ khiếp fa ti". Katerina Ivanovna cũng mỉm cười, nhưng lại nhận xét ngay rằng Amalya Ivanovna không nên kể chuyện bằng tiếng Nga.
Amalya Ivanovna lại càng thêm tức, và cãi lại rằng ông. "Vater aus Berlin" (4) của bà ta "là một nhân vật rất trọng yếu và hai tay bao giơ cũng thò vào túi quần".
Katerina Ivanovna, tính vốn dễ cười, không sao nén được nữa và cười phá lên như nắc nẻ, đến nỗi Amalya Ivanovna mất hẳn tự chủ.
- Con mẹ mới lố làm sao! - Katerina Ivanovna lại vui vẻ thì thầm với Raxkonikov, - định nói hai tay bỏ túi mà thành ra thò tay móc túi người ta, hi - hi! Và ông có nhận thấy không, ông Rodion Romanovich, tất cả những bọn ngoại quốc ở Petersbung ấy mà, nhất là bọn Đức ở đâu đâu kéo sang ta, đều ngu hơn người mình cả? Ông cũng thấy đấy, ai đời lại đi kể rằng "Karl ở hiệu thuốc sộ khiếp fa ti" (thằng cha thật dát như cáy) và đáng lẽ trói gô thằng đánh xe lại, thì đằng nầy lại "chắp tay khoóc loóc fan xin". Chao ôi, ngốc ơi là ngốc! Thế mà tưởng là cảm động lắm đấy, và cũng không hề ngờ mình ngốc đến thế nào? Theo tôi thì thằng cha mắm muối gạo tiền say be bét kia còn khôn hơn nhiều; ít nhất cũng thấy được rằng hắn đã say mèm, bao nhiêu trí khôn trút vào đấy cốc hết rồi, còn mấy lão kia thì đều ra vẻ nghiêm trang đứng đắn cả… Đấy, mắt mụ ta cứ long lên sòng sọc. Tức lắm! Tức tắm đấy! Ha - ha - ha! - tiếng cười của bà lại chuyển thành một cơn ho.
Vui lên, Katerina Ivanovna mê mải kể hết chuyện nầy đến nọ, và đột nhiên nói rằng với số lương quả phụ xin được bà ta sẽ mở một ký túc xá cho con gái quý tộc ở tình nhà. Bà ta chưa lần nào nói riêng với Raxkonikov về việc nầy, cho nên lập tức say sưa đi vào những chi tiết đầy sức quyến rũ đối với bà. Bà bỗng lấy ở đâu ra một tấm "Bằng khen", chính tấm bằng mà mồ mả ông Marmelazov đã nói chuyện với Raxkonikov dạo trước trong tiệm rượu, khi kể rằng hôm làm lễ tốt nghiệp Katerina Ivanovna đã nhảy điệu khăn san "trước mặt quan tổng trấn và nhiều nhân vật khác". Bây giờ tấm bằng khen ấy hẳn là đang được dùng làm một chứng chỉ tỏ ra rằng Katerina Ivanovna có đủ quyền mở ký túc xá; nhưng nó được để dành chủ yếu là để trị cho "hai con mẹ nhà quê diêm dúa" kia một mẻ ra trò, nếu chúng đến dự tiệc tang, và cho chúng thấy rõ rằng Katerina Ivanovna vốn là con nhà quý phái, "có thể nói là quý tộc thượng lưu vào bậc nhất nữa, là con một quan đại tá, và chắc chắn bà hơn xa những thứ đàn bà chuyên chạy chọt cầu may ở đâu mọc ra nhan nhản trong mấy năm gần đây". Tấm bằng khen lập tức được truyền qua tay các ông khách say mèm, và Katerina Ivanovna cũng cứ để yên, vì trong bằng quá có viết en toutes lettres(5) rằng bà ta là con gái một vị tư vấn hoàng cưng được thưởng huân chương bội tinh, và như vậy tức cũng gần như một vị đại tá.
Bốc đồng lên, Katerina Ivanovna quay ra kể lể dài dòng về đủ các thứ chi tiết nầy nọ trong cuộc sống êm đềm và tươi đẹp sau nầy ở T, nào là mình sẽ mời các giáo viên trung học về dạy trong trường ký túc, nào là trước kia mình học tiếng Pháp với một ông thầy Pháp tên là Mango, một ông già dáng kính nay đang yên dường tuổi già ở T… và chắc chắn sẽ nhận lời đến dạy với một số lương hết sức phải chăng. Cuối cùng bà cũng nhắc đến Sonya: nàng sẽ "cùng về T… với bà để giúp đỡ bà trong mọi việc". Nhưng đến đây ở cuối bàn bỗng có ai phì cười lên. Katerina Ivanovna lập tức cố làm ra vẻ khinh khỉnh không nghe thấy tiếng cười ở cuối bàn, nhưng lại lập tức cố ý cất cao giọng lên, say sưa nói về những năng lực của Sofia Xemionovna, chắc chắn có thể làm người cộng tác đắc lực của bà, nói đến "tính dịu hiền, kiên nhẫn, lòng hy sinh, tâm hồn cao thượng, và học vấn" của nàng, vừa nói vừa vỗ vỗ lên má Sonya, rồi đứng dậy ôm nàng hôn hai lần, rất thắm thiết. Sonya đỏ bừng mặt, còn Katerina Ivanovna thì bỗng khóc oà lên, rồi lại nhận xét ngay rằng mình là "một con mẹ ngốc yếu thần kinh, lại đang lúc hoang mang quá sức", rằng "đã đến lúc phải kết thúc, bây giờ ăn xong rồi, phải dọn trà lên thôi".
Ngay lúc ấy Amalya Ivanovna, trong lòng đã giận sôi lên vì suốt câu chuyện không được góp một câu nào, thậm chí người ta cũng chẳng thèm nghe bà nói nữa, liền đi một, nước liều cuối cùng.
Bà ta giấu vẻ bực dọc, đánh bạo nói với Katerina Ivanovna một điều nhận xét hệ trọng và sâu sắc, là trong trường ký túc tương lai phải chú ý đặc biệt đến áo quần lót của các nữ sinh (die Wasche), phải giữ sao cho nó thật sạch, và "nhất tịn cần phải có một pà (die Dame) rất tốt để trôông nom áo quần cho chu đáo", và thứ đến là phải cấm "các cô con kái trẻ toọc trộm tiểu thuyết pan tệm". Katerina Ivanovna, bấy giờ quả nhiên đang hết sức hoang mang, mệt mỏi và phát chán lên với bữa tiệc, lập tức "cắt ngang" Amalya Ivanovna, nói rằng bà ta chỉ "nói nhảm" và chẳng hiểu gì hết; rằng lo đến áo quần lót (die Wasche) là việc của người quản lý chứ không phải của bà hiệu trưởng một trường ký túc quý phái; còn như chuyện đọc tiểu thuyết thì chỉ nói như vậy thôi cũng đã quá khiếm nhã rồi, và xin bà ta im đi cho. Amalya Ivanovna nổi khùng lên nói rằng bà ta có "thiện ý", bà ta rất muốn "tiều lènh tiều tốt, rằng người ta "mãi không chịu trả tiền nhà (des Geld)" cho bà. Katerina Ivanovna lập tức "trả miếng", nói rằng bà ta nói dối chứ "thiện ý" gì mà thiện vì ngay từ hôm qua, khi thì hài chồng bà còn nằm trẹn bàn, bà ta đã làm tình làm tội về chuyện nhà cửa rồi.
Bà Amalya Ivanovna liền nhật xét một cách rất ăn nhịp với câu trên, là bà ta "tã mồi các pà kia, nhưng họ không tến, vì họ là người quý phái khôông thể tến nhà người khóông quý phái được". Katerina Ivanovna lập tức "nhấn mạnh" rằng một mụ cầu bơ cầu bất như bà ta thì làm gì có tư cách phán đoán thế nào là quý phái thật, thế nào là quý phái giả. Amalya Ivanovna không chịu được nữa, bèn tuyên bố rằng ông "Vater aus Berlin" của bà ta là một người "rốt, rốt quan troọng, khi nào ti hai tay cũng thò fào túi, mồm thở puf!, puf!" và để cho mọi người hình dung thật rõ ông Vater, bà ta đứng phắt dậy, thọc cả hai tay vào túi, phồng má lên, mồm phát ra những âm thanh mơ hồ nghe như puf! puf! làm cho khách khứa cười rộ lên: họ cố ý cười như vậy để khuyến khích bà Amalya Ivanovna, vì biết trước thế nào cũng có một cuộc xung đột. Nhưng thế nầy thì Katerina Ivanovna không còn tài nào chịu được nữa, liền "nhấn mạnh" cho mọi người đều nghe thấy, rằng có thể bà Amalya Ivanovna xưa nay không có Vater gì cả, bà ta chẳng quả là một mụ kiều dân "Phần Lan ở Petersburg", chắc chắn trước đây đi ở nấu bếp cho nhà ai, có lẽ còn tệ hơn thế nữa. Mặt bà Amalya Ivanovna đỏ ửng lên như con tôm luộc, và bà tru tréo lên rằng chính Katerina Ivanovna mới "không hề có Vater" còn bà ta thì có ông "Vater aus Berlin", mặc áo đuôi tôm dài thế nầy nầy, mồm lúc nào cũng puf! puf! puf!.
Katerina Ivanovna khinh bỉ nói rằng dòng dõi của bà thì ai nấy đều biết và ngay trong tấm bằng khen nầy có ghi bằng chữ in rằng cha bà là một quan đại tá; còn như bố bà Amalya Ivanovna (là nói giả dụ như bà ta có bố thật đi nữa) thì chắc hẳn chỉ là một gã kiều dân Phần Lan ở Petersbung làm nghề bán sữa; nhưng đúng hơn cả là bà ta chẳng hề có bố chút nào, vì cho đến nay vẫn không rõ phụ danh bà ta là gì; gọi là Amalya Ivanovna hay Ludvigovna? Đến đấy bà Amalya Ivanovna như điên như dại nện quả đấm lên bàn, rít lên rằng bà ta là Amal Ivan chứ không phải Ludvigovna, rằng cha bà "tên là Johann, trước làm đến chức thị trưởng" còn cha bà Katerina Ivanovna thì "chưa pao giờ làm thị trưởng". Katerina Ivanovna liền đứng dậy, và với một giọng có vẻ bình tĩnh (tuy mặt bà tái mét, ngực phập phồng dữ dội), nói với bà ta rằng nếu một lần nữa bà ta còn "dám cả gan đặt cái ông Vater chết tiệt ấy ngang hàng với cha bà, bà sẽ giật phăng cái mũ chụp kia dẫm nát ra". Nghe thấy thế, Amalya Ivanovna lồng lộn chạy khắp phòng, gân cổ tru tréo lên rằng bà ta là chủ nhà nầy và Katerina Ivanovna phải "cuốn kói ti ngay lệp tíc!", đoạn chẳng hiểu sao lại cuống cuồng chạy đi thu vén các thìa bạc ở trên bàn. Trong phòng huyên náo hẳn lên; trẻ con khóc oà. Sonya chạy ra toan giữ Katerina Ivanovna; nhưng khi Amalya Ivanovna bỗng léo nhéo những gì về cái thẻ vàng, Katerina Ivanovna ẩy Sonya và xông vào Amalya Ivanovna để thực hiện lời hăm doạ lúc nãy về cái mũ chụp. Nhưng vừa lúc ấy cánh cửa vụt mở, và Piotr Petrovich Lugin hiện ra trên ngưỡng cửa. Ông ta đứng yên đảo mắt nhìn qua các khách khứa một lượt, vẻ chăm chú và nghiêm nghị. Katerina Ivanovna đâm bổ về phía ông ta.
Chú thích:
Thật ra điều nầy chưa có thể nói một cách dứt khoát và chắc chắn, nhưng gần đây, suốt một năm nay quả nhiên bộ óc khốn khổ của bà đã trải qua quá nhiều cơn thử thách gian truân đến nỗi không thế nào khỏi bị tổn thương ít nhiều: Bệnh ho lao phát triển mạnh: theo lời các bác sĩ, cũng góp phần tác hại đến trí năng. Rượu không có nhiều và cũng không được mấy thứ, rượu Madera không có, chẳng qua người ta phóng đại ra thế. Nhưng dù sao cũng có rượu: có vodka, rượu rhum và rượu Porto, toàn là mạt hạng cả, nhưng cũng đủ dùng. Các món ăn thì ngoài bánh bột gạo cổ truyền ra còn có ba, bốn món (trong đó có cả bánh rán thịt) đều được nấu nướng trong nhà bếp của bà Amalya Ivanovna; ngoài ra người ta còn đặt hai ấm xamovar để dọn trà và rượu Punch sau bữa ăn. Chính Katerina Ivanovna đã thân hành đi mua sắm với một người Ba Lan ốm đói không hiểu tư đầu đến trọ ở nhà bà Lippevekzen, hắn lập tức tự nguyện đi theo giúp đỡ Katerina Ivanovna, suốt ngày hôm qua và sáng hôm nay hắn đầu tắt mặt tối chạy hết nơi nầy đến nơi khác, lưỡi thè ra, và hình như cố sao cho mọi người chú ý đến chi tiết nầy. Động một là hắn bỏ đi tìm cho được đích thân Katerina Ivanovna, chạy mãi ra tận Goxtiny Dvor (1) tìm bà, luôn mồm gọi: "Pani Chorunzhina" (2), rốt cục làm cho bà phát chán ra, tuy lúc đầu bà nói là không có con người "tận tuỵ và hào hiệp" ấy thì bà không biết xoay xở ra sao nữa. Katerina Ivanovna có một tính đặc biệt là hễ gặp bất cứ người nào cũng vội tô điểm ngay cho họ những màu sắc rực rỡ và, tốt đẹp nhất, ca ngợi tâng bốc không tiếc lời, đến nỗi người ta phát ngượng lên, bịa ra những sự việc không hề có để khen ngợi họ, đồng thời lại thành thật và quả quyết tin rằng những sự việc ấy có thật, rồi về sau bỗng tỉnh ngộ ra, bà hắt hủi, phỉ nhổ và xua đuổi con người mà chỉ cách đây mấy tiếng đồng hồ bà dốc lòng sùng bái.
Bẩm sinh bà vốn có tính mau cười, vui vẻ và chan hoà, nhưng vì phải trải qua những tai hoạ và thất bại liên tiếp, bà quay ra mong muốn và khăng khăng đòi hỏi mọi người phải sống cho hoà thuận vui vẻ và không ai được sống cách khác, đòi hỏi đó cực đoan đến nỗi một sự ngang chướng cỏn con nào, một thất bại nhỏ nhặt nào trong cuộc sống cũng lập tức làm cho bà nổi xung lên, và chỉ trong khoảnh khắc, đang ấp ủ những niềm hy vọng và mơ ước tươi đẹp nhất, bà bỗng quay ra nguyền rủa số mệnh, vớ được cái gì cũng xé, cũng vứt tung ra và đập đầu vào tường chan chát. Bây giờ cũng vậy, bà Amalya Ivanovna bỗng dưng đâm ra có một ý nghĩa quan trọng và được Katerina Ivanovna kính trọng khác thường, có lẽ cũng chỉ vì bữa tiệc nầy và vì bà Amalya Ivanovna đã hết lòng tham gia lo việc sửa soạn; bà ta nhận lấy việc bày bàn, kiếm khăn, đĩa v.v… và nấu nướng các món ăn trong nhà bếp của mình. Trong khi ra nghĩa địa, Katerina Ivanovna đã giao cho bà toàn quyền hành động, để cho bà tuỳ tiện liệu lấy.
Quá nhiên, mọi việc đều được chuẩn bị chu đáo: bàn trải khăn khá sạch, các thứ đĩa, cốc, chén, dao, nĩa thì dĩ nhiên rất ô hợp, đủ các kiểu và đủ các cỡ khác nhau, mượn của mỗi nhà mỗi ít, nhưng đến giờ đã định, mọi thứ đã bày biện đầy đủ đâu ra đấy, và Amalya Ivanovna, cảm thấy mình đã làm tròn phận sự một cách vẻ vang, ra đón những người mới về với một vẻ tự hào khá rõ rệt, phục sức sang trọng, đội mũ chụp mới dính dải tang, mình mặc áo dài đen. Vẻ tự hào nầy tuy rất chính đáng, song không hiểu sao không vừa ý bà Katerina Ivanovna: "Cứ như thể không có bà Amalya Ivanovna thì người ta không bày được bàn ấy". Bà cũng không có thiện cảm gì hơn đối với cái mũ chụp mới dính dải tang: "Hay là con mẹ người Đức đần độn nầy đâm ra kiêu hãnh vì bà thương tình mà thuận giúp đỡ bọn khách trọ nghèo hèn tội nghiệp? Thương tình! Thôi xin lỗi! Ông thân sinh Katerina Ivanovna, ngày xưa làm đại tá và suýt lên chức tổng trấn, đã mấy lần mở tiệc thết đến bốn mươi tân khách, và cái hạng như mụ Amalya Ivanovna cha căng chú kiết nào, nói cho đúng hơn, là Amalya Ludvigovna, thì có muốn vào làm bếp cũng đừng hòng…". Tuy vậy. Katerina Ivanovna cũng tự chủ sẽ không để lộ những cảm nghĩ của mình ra quá sớm, tuy bà đã định bụng là hôm nay thế nào cũng phải cho mụ ta một bài học cho mụ biết thân biết phận, nếu không thì có trời biết mụ còn sẽ lên mặt đến thế nào. Trong khi chờ đợi, Katerina Ivanovna chỉ tỏ ra một thái độ lạnh nhạt.
Một chuyện rầy rà khác cũng góp phần làm tăng thêm tâm trạng cáu bẳn của Katerina Ivanovna: trong số những người cùng trọ được mời đến dự đám tang, chỉ có mỗi một mình anh chàng người Ba Lan đã xoay xở thế nào có đủ thì giờ ghé vào nghĩa địa, ngoài ra hầu như không có ai đi cả; còn đến dự tiệc tang thì trong bọn họ chỉ có những người hèn mọn và nghèo khổ nhất, trong đó lại có mấy người ăn mặc không còn ra cái thể thống gì nữa, trông như một lũ ma dại. Còn những người hơi có vai vế, hơi ra dáng một chút thì dường như đều cố tình bảo nhau không đến. Piotr Petrovich Lugin chẳng hạn, có thể nói là người khách trọ oai vệ nhất ở đây, cũng không đến. Ấy thế mà tối hôm qua Katerina Ivanovna đã trót loan báo cho khắp mọi người - nghĩa là Amalya Ivanovna, Polenka, Sonya và anh chàng Ba Lan - biết rằng con người tối cao quý, tối hào hiệp nầy, vốn có tiền của và thế lực khó ai bì kịp xưa kia là bạn ông chồng trước của bà, đã từng được cha bà tiếp đón trong nhà, có hứa là sẽ tìm đủ mọi cách lo cho bà một số lương quả phụ khá cao. Ở đây cũng xin nói rõ rằng sở dĩ Katerina Ivanovna có khoe khoang tiền của và thế lực của người nào, thì đó tuyệt nhiên không phải vì vụ lợi, tính toán riêng tư gì cả, bà khoe khoang như vậy một cách hoàn toàn vô tư có thể nói là để trút bớt nỗi lòng, chì vì cái thú được khen ngợi người ta và làm tăng phẩm giá của người được khen lên. Ngoài Lugin ra, và chắc là vì "noi gương ông ta", còn có "cái tên chó đểu" Lebeziatnikov cũng không đến nốt. "Không biết cái thằng cha nầy cho mình là cái thá gì? Người ta chỉ vì thương tình mà mời hắn đến, và cũng vì hắn ở chung phòng với ông Piotr Petrovich, lại có quen với ông ta, nên không mời không tiện". Lại còn có một bà thuộc hạng lịch duyệt và cô "con gái quá thì" của bà không đến dự: bà nầy tuy mới đến ở nhà bà Lippevekzen trong vòng hai tuần nay, song cùng đã mấy lần kêu ca về những tiếng ồn ào từ căn nhà của gia đình Marmelazov vang lên, nhất là khi ông chồng quá cố đi uỏng rượu say khướt trở về.
Dĩ nhiên Katerina Ivanovna cũng biết thế, vì bà Amalya Ivanovna, cứ mỗi lần chửi nhau với Katerina Ivanovna, và doạ đuổi cả mấy mẹ con ra khỏi nhà, lại rống tướng lên rằng họ quấy rầy "những khách trọ đáng kính mà họ không bén đến gót chân". Giờ đây Katerina Ivanovna có ý mời hai mẹ con bà ta, những kẻ mà bà không "bén đến gót chân", vì một lý do nữa là từ trước đến nay mỗi khi tình cờ gặp nhau, bà kia lại khinh bỉ quay mặt đi - Ấy để cho bà ta biết rằng "nhà nầy cao thượng hơn nhiều, không hề để tâm thù vặt", và để họ thấy rằng Katerina Ivanovna vốn không quen sống trong một tình cảnh như thế nầy. Bà đã định tâm thế nào cũng phải nói đến chuyện nầy trong bữa ăn, cũng như nhắc đến cái chức tổng trấn của ông cụ, và đồng thời cũng dám chỉ rằng khi gặp bà không việc gì phải ngoảnh mặt đi một cách ngu xuẩn như vậy. Lại còn có một ông trung tá to béo không chịu đến (thật ra đó là một đại uý tham mưu giải ngũ), nhưng sau mới biết là ngay từ sáng hôm qua ông ta đã say bí tỉ "chẳng còn chân cẳng đâu mà lê đi nữa". Nói tóm lại, chỉ thấy anh chàng người Ba Lan rồi đến một viên thư lại gầy còm câm như hến, mặc áo đuôi tôm cáu ghét, mặt đầy mụn nhọt, người hôi hám kinh tởm; rồi đến một ông già điếc đặc và gần như mù tịt, ngày trước làm ở một trạm bưu chính nào đấy, trọ ở nhà bà Amalya Ivanovna không biết từ đời nào, do ai nuôi và để làm gì. Lại còn có một lão trung uý về hưu nghiện ngập, thật ra chỉ là một nhân viên quân lương, có một lối cười ông ổng hết sức khả ố, vả lại không mặc gi-lê "có chết người không chứ"! Một lão cha căng chú kiết nào cứ thế ngồi vào bàn, thậm chí cũng chẳng chào hỏi gì Katerina Ivanovna, và cuối cùng là một nhân vật vì không có áo khoác nên định xuất đầu lộ diện trong một cái áo dài mặc ngủ, nhưng cái nầy thì thật quá ư thất lễ, cho nên nhờ những cố gắng của Amalya Ivanovna và anh chàng Ba Lan, hắn đã tị tống cổ ra ngoài. Nhưng anh chàng Ba Lan lại rủ ở đâu đến hai anh chàng Ba Lan nữa, xưa nay chưa từng trọ ở nhà bà Amalya Ivanovna và trong nhà nầy chưa có ai trông thấy mặt bao giờ.
Những điều đó làm cho Katerina Ivanovna hết sức khó chịu. "Thế nầy thì sửa soạn, là dọn cho ai?". Để cho đủ chỗ, người ta đã phải dọn cho mấy đứa trẻ ăn trên một cái hòm đặt ở góc sau, không cho chúng ngồi ở chiếc bàn lớn chưa chi đã choán hết cả phòng. Hai đứa bé ngồi trên chiếc ghế dài, còn Polenka lớn nhất phải trông coi em, cho chúng ăn và chùi mũi cho chúng "cho ra dáng con nhà quý phái". Nói tóm lại, Katerina Ivanovna buộc lòng phải tiếp mọi người một cách long trọng gấp bội và thậm chí với vẻ khỉnh khỉnh nữa. Có một số khách bị bà nhìn một cách, nghiêm khắc đặc biệt và mời ngồi với một giọng trịnh thượng.
Không hiểu sao Katerina Ivanovna cho rằng bà Amalya Ivanovna phải chịu trách nhiệm về những người không đến, cho nên bỗng quay ra ăn nói hết sức khinh xuất với bà ta, khiến bà ta nhận thấy ngay và mếch lòng không sao tả xiết. Một sự khởi đầu như vậy không thể báo hiệu điều gì tốt lành về sau cả. Cuối cùng, mọi người ngồi vào bàn.
Raxkonikov đến gần đúng vào lúc họ từ nghĩa địa trở về, Katerina Ivanovna mừng quýnh lên, trước hết vì chàng là "người có học duy nhất trong cả đám tân khách, và như mọi người đều biết, đang chuẩn bị để hai năm nữa bước lên bục giáo sư ở trường đại học Petersburg", sau nữa là vì thoạt mới vào chàng đã kính cẩn xin lỗi bà ngay, vì đã không đến dự lễ an táng được mặc dầu rất muốn. Bà ta cứ vồ vập lấy chàng, mời chàng ngồi ngay bên tay trái mình (bên phải là bà Amalya Ivanovna), và tuy phải luôn luôn xắng xở trông nom cho người nhà bưng thức ăn cho đúng chỗ và múc đủ cho các tân khách, tuy những cơn ho đau đớn cứ phút phút lại làm bà nghẹt thờ, không nói được hết lời (hình như hai ngày qua bà ho nặng hơn trước rất nhiều), bà vẫn nói chuyện không ngớt với Raxkonikov, vội vã thầm thì bày tò với chàng tất cả những cảm xúc tích tụ lại ttong lòng và nỗi căm phẫn chính dáng của mình khi thấy bữa tiệc tang thất bại; tuy vậy cơn phẫn uất của bà 1uôn luôn xen những tiếng cười hết sức vui vẻ không sao nhịn được, nhằm chế giễu các tân khách quây quanh bàn nhưng chủ yếu là chế giễu đích thân bà chủ nhà.
- Lỗi tại con tu hú nầy cả. Ông hiểu tôi muốn nói ai chứ: nói mụ ấy, mụ ấy đấy! - Katerina Ivanovna bắt đầu trỏ bà chủ nhà cho chàng. - Ông thử nhìn mụ mà xem: mắt mụ đang long lên sòng sọc, mụ biết tôi đang nói chuyện về mụ, nhưng không hiểu nói gì, tức lồi cả mắt lên. Xì, thật như con cú! Ha - ha - ha? - Một cơn ho cắt ngang tiếng cười. - Mụ đội cái mũ chụp ấy để khoe cái gì nhỉ? - Bà lại ho - Ông có để ý thấy không, mụ ta cứ muốn mọi người tưởng mụ ta che chở cho tôi, và mụ đến dự thế nầy là vinh hạnh cho tôi lắm. Tôi tưởng mụ là người tử tế, nhờ mụ mời những khách cho kha khá một chút và phải là những người có quen với nhà tôi, thế mà ông xem, mụ ta mời những ai: toàn một lũ hề ở đâu ấy! Một lũ vô lại ông thử xem cái thằng cha mặt bẩn kia kìa: một thứ sên đi hai chân! Còn mấy thằng Ba Lan kia… ha - ha - ha! - tiếng cười chuyến thành tiếng ho - Chúng chưa từng đến đây bao giờ, từ thuở cha sinh mẹ đẻ tôi chưa bao giờ trông thấy mặt chúng: thế thì xin hỏi ông chúng đến đây làm cái gì? Chúng ngồi cạnh nhau, trông nghiêm chỉnh ra phết.
- Nầy, pane (3) - bà ta bỗng quát gọi một người trong bọn họ. - Pane đã ăn chả rán chưa? Ăn nữa đi, uống bia đi, uống bia đi! Không uống vodka à? Ông xem kìa: hắn đứng phắt dậy chào, ông xem, ông xem chắc là đói meo ra, tội nghiệp! Thôi được cho chúng ăn. Miễn là đừng có làm ồn, ít nhất cũng phải thế… quả tình tôi chỉ sợ cho mấy cái thìa bạc của bà chủ nhà! Amalya Ivanovna? - bà bỗng quay sang bà chủ nhà nói khá to, - nhỡ họ có cuỗm mất thìa của bà thì tôi không chịu trách nhiệm đâu, xin nói trước như vậy! Ha - ha - ha! - Bà cười phá lên một tràng, ngoảnh về phía Raxkonikov hất hàm chỉ bà chủ nhà, rất thích thú với câu nói kháy. - Không hiểu! Lần nầy mụ ta vẫn không hiểu? Cứ ngồi há hốc mồm ra, ông xem như một con cú, thật y như con cú, trên mào có thắt dải ruy băng mới, ha - ha - ha…
Đến đây tiếng cười lại chuyển thành một trận ho dữ dội kéo dài đến năm phút. Một vệt máu dính trên khăn tay, trán toát mồ hôi hột. Bà lặng lẽ đưa cho Raxkonikov xem vệt máu, và chưa kịp thở bà ta lại thì thầm nói với chàng sôi nổi, mà nổi lên những đám đo đỏ:
- Ông thử xem, tôi đã nhờ mụ ta làm một việc có thể nói là hết sức tế nhị, là mời bộ hai mẹ con cái bà thượng lưu kia, ông có hiểu tôi đang nói đến ai không? Ở đây cần phải xử sự thật tinh tế, khéo léo, thế mà mụ đã làm thế nào không biết đến nỗi cái mụ nhà quê ngốc nghếch mới lên tỉnh kia, cái thứ không đáng một trinh mà cũng lên mặt, chỉ vì mụ ta là vợ goá một thằng cha thiếu tá nào đấy lên đây xin lương quả phụ, luồn lọt khắp các công sở, năm mươi tuổi đầu mà còn đánh phấn, thoa son và nhuộm tóc (ai mà chả biết), một thứ người mạt hạng như thế mà mời không thèm đến, thậm chí cũng không thèm cho người đến cáo lỗi, nếu quả không thân hành đến được, thật đến cái lễ độ tối thiểu cũng không biết! Tôi không hiểu tại sao ông Piotr Petrovich cũng không đến. Còn Sonya đâu? À, nó đây rồi, thật là may! Sao Sonya, con đi đâu thế? Đám tang bố mà cũng đến muộn thì lạ thật. Rodion Romanovich, ông cho nó ngồi cạnh với. Chỗ của con đây, Sonyeska… muốn ăn gì thì cứ ăn đi, ăn món cá nấu đông nầy ngon hơn nầy, chả rán sẽ bưng lên ngay. Bọn trẻ có rồi chú. Polenka, đằng ấy có đủ món cho các con không? - Bà ta lại ho một chập, - Thôi được. Lena phải chp ngoan nhé, Kotia đừng có đu đưa hai chân; phải ngồi cho ra dáng con nhà quý phái. Con nói gì Sonyeska?
Sonya vội và chuyển ngay lời cáo lỗi của Piotr Petrovich, cố nói cho thật to để mọi người đều nghe, dùng những lời lẽ thật lịch sự tao nhã, thậm chí, còn cố ý thêm thắt và tô điểm vào nữa. Nàng nói thêm rằng Piotr Petrovich có dặn thưa lại là hễ có dịp ông sẽ đến ngay để nói chuyện riêng về công việc và bàn xem sau nầy có thể làm gì, mưu tính những gì, v.v…
Sonya biết rằng nói như vậy sẽ làm cho Katerina Ivanovna yên lòng và khuây khoả, sẽ mơn trớn lòng tự ái và nhất là sẽ thoả mãn được tính kiêu hãnh của bà. Nàng vội vàng chào Raxkonikov rồi ngồi xuống cạnh chàng và tò mò liếc nhanh về phía chàng. Tuy vậy suốt từ đấy về sau nàng cứ tránh nhìn chàng và tránh nói chuyện với chàng. Nàng lại còn có vẻ lơ đãng nữa, tuy vẫn nhìn vào mặt Katerina Ivanovna để cho bà vui lòng. Nàng cũng như Katerina Ivanovna đều không mặc tang phục, vì không có áo; Sonya đã chọn một chiếc áo nâu, chiếc áo thẫm màu nhất, đem mặc, còn Katerina Ivanovna thì mặc chiếc áo dài độc nhất còn lại, bằng vải in màu xin xỉn có sọc. Những lời nhắn nhủ của Piotr Petrovich được tiếp đón rất niềm nở.
Katerina Ivanovna trang trọng nghe Sonya truyền đạt, rồi vẫn giữ cái vẻ trang trọng ấy, bà hỏi thăm sức khỏe Piotr Petrovich, đoạn quay ngay sang Raxkonikov nói thì thầm, nhưng nghe rất to, rằng quả tình một con người oai vệ và đáng kính như Piotr Petrovich mà rơi vào một "đám người kỳ quặc" như thế nầy thì rất lạ, tuy ông ta rất tận tuỵ với gia đình bà và vốn là bạn cũ của cụ thân sinh bà.
- Cho nên tôi đặc biệt cảm ơn ông, Rodion Romanovich ạ, vì ông đã không khinh rẻ lòng hiếu khách của tôi, ngay trong một hoàn cảnh như thế nầy, - Bà nói khá to, - vả chăng tôi cũng biết rằng chỉ vì thương tình chồng tôi mà ông giữ lời hứa.
Rồi bà ta lại nhìn qua đám khách khứa một lượt, vẻ kiêu hãnh và đường bệ, rồi bỗng tỏ vẻ ân cần đặc biệt hỏi to ông già điếc ngồi bên kia bàn, xem ông ta có muốn ăn thêm thịt rán không, và người ta đã rót rượu Porto cho ông ta chưa. Ông già không đáp và hồi lâu không hiểu người ta hỏi gì mình, tuy những người ngồi cạnh cứ huých vào người ông ta để cười với nhau, ông ta chỉ há móm ngơ ngác nhìn quanh, khiến cho mọi người càng cười già.
- Rõ là đồ ma dại! Xem kìa, xem kìa? Họ đưa hắn đến làm gì thế không biết? Còn như Piotr Petrovich thì xưa nay tôi vẫn tin tưởng? - Katerina Ivanovna nói tiếp với Raxkonikov - và dĩ nhiên ông ta không giống… - Bà quay sang Amalya Ivanovna nói to và xẵng, vẻ nghiêm khắc đến nỗi bà chủ nhà đâm hoảng lên, - không giống cái bọn nạ giòng diêm dúa nhà bà: bọn ấy thì có muốn xin vào nấu bếp ở nhà cha tôi cũng không được đâu. Giá nhà tôi còn sống mà tiếp họ thì thật vinh dự cho họ, vả chăng có tiếp cũng chỉ vì nhà tôi rất thương người đó thôi.
- Vâng ạ. Ông nhà rất hay rượu; ông uống nhiều lắm! - lão nhân viên quân lương về hưu bỗng rống tưởng lên trong khi nốc chén rượu thứ mười hai.
- Sinh thời nhà tôi quả có cái tật ấy, ai cũng biết thế, - Katerina Ivanovna chộp ngay lấy câu nói của lão nhân viên quân lương - nhưng nhà tôi là người hiền lành và cao thượng, biết kính trọng gia đình, biết thương vợ thương con; chỉ phải cái nhà tôi vì tốt bụng mà quá tin những kẻ xấu xa truỵ lạc, bạ ai cũng kết bạn đánh chén, toàn là những hạng không bén đến gót giầy nhà tôi! Rodion Romanovich ạ, ông thử tưởng tượng: khi liệm tôi tìm thấy trong túi nhà tôi một con gà bằng bột ngào đường: say như chết rồi mà vẫn còn nhớ đến con.
- Gà à? Bà nói là một con gà à? - lão nhân viên quân lương kêu lên.
Katerina Ivanovna không thèm đáp. Bà quay ra suy nghĩ điều gì và cất tiếng thở dài.
- Chắc ông cũng nghĩ như mọi người rằng tôi đối xử với nhà tôi quá nghiệt ngã. - bà nói tiếp với Raxkonikov. - Thật ra không phải thế! Ông ấy rất nể tôi, nể lắm! Ông ấy tốt bụng lắm! Nhiều khi tôi thương nhà tôi quá. Có những lúc ông ngồi trong xó nhìn tôi tội nghiệp quá, cũng muốn vỗ về, an ủi ông ấy, nhưng rồi lại nghĩ bụng: "Dịu dàng với ông ta thì ông ta lại chè chén mất thôi", phải nghiêm may ra mới giữ được ít nhiều.
- Vâng, có khi phải túm lấy tóc lôi xềnh xệch ấy, đã nhiều lần rồi đấy, - lão nhân viên quân lương lại rống lên và rót thêm một cốc vodka nữa.
- Không phải chỉ túm tóc mà thôi đâu! - Katerina Ivanovna cắt ngang - Có những thằng ngốc còn phải lấy chổi mà quét ra khỏi nhà ấy. Đây là tôi nói kẻ khác chứ không phải nói nhà tôi đâu.
Những đám đỏ trên má Katerina Ivanovna mỗi lúc một thêm thẫm màu, ngực bà phập phồng. Chỉ thêm chút nữa là bà sẵn sàng gây sự. Có nhiều người cười khúc khích, rõ ràng là họ thích chí lắm. Có mấy người huých lão nhân viên quân lương và nói thì thầm với lão hẳn là muốn xúi bẩy thêm.
- Vậy xin hỏi bà vừa nói, nghĩa là… vừa rồi… bà định ám chỉ… vị nào ở đây?
- Thôi chả cần! Chỉ nhảm! Một mụ đàn bà goá ấy mà! Thôi bỏ qua cho mụ ấy…
- Cho qua! - đoạn lão ta lại nốc rượu.
Raxkonikov im lặng ngồi nghe, trông ông thấy ghê tởm. Chàng chỉ ăn qua loa lấy lệ những thứ atêTina Ivanovna bò vào cho chàng, mà cũng chỉ để bà ta khỏi mếch lòng. Chàng chăm chú nhìn Sonya. Nhưng Sonya bấy giờ mỗi lúc một thêm lo âu và sợ hãi; nàng cũng cảm thấy bữa tiệc sẽ không kết thúc êm thấm, và lo sợ theo dõi thái độ mỗi lúc một thêm cáu gắt của Katerina Ivanovna. Vả lại nàng cũng biết rằng nguyên nhân chính đã làm cho hai người đàn bà mới lên Petersbung từ khước lời mời của Katerina Ivanovna một cách khinh miệt như vậy chính là nàng, Sonya. Chính Amalya Ivanovna có nói với nàng rằng bà mẹ còn lấy làm khó chịu khi nghe mời và hỏi: "Làm sao tôi lại có thể để cho con gái tôi ngồi cùng bàn với cái ngữ ấy?". Sonya cảm thấy Katerina Ivanovna đã biết được việc nầy, và đối với bà, một điều gì xúc phạm đến Sonya còn quan trọng hơn là xúc phạm đến bản thân bà, đến con cái bà, đến cha bà nữa, tóm lại đó là điều sỉ nhục đau đớn nhất đối với Katerina Ivanovna. Sonya lại biết rằng bà sẽ không sao nguôi lòng nếu "chưa nói được cho hai con mẹ nhà quê diêm dúa kia biết rõ chúng đều là v.v…"
Vừa lúc ấy, như cố tình, có một người nào ngồi ở cuối bàn nhờ chuyển đến cho Sonya một cái đĩa trên đặt hai quả tim nặn bằng ruột bánh mì đen có một mũi tên xuyên qua. Katerina Ivanovna lồng lên và lập tức chõ về phía cuối bàn nói to lên rằng kẻ nào vừa làm như vậy hẳn là mục "con lừa say rượu".
Amalya Ivanovna cũng linh cảm thấy có triệu chứng bất thường, đồng thời thái độ khinh khỉnh của Katerina Ivanovna cũng làm cho bà ta bầm gan tím ruột đi. Muốn cho không khí đỡ nặng nề và lái cho khách khứa chú ý sang hướng khác nhân thể cũng để đề cao mình lên trước mặt mọi người, bà ta bỗng dưng bắt vào kể lể rằng một người quen của bà là ông "Karl ở hiệu thuốc" có một đêm đang đi trên xe ngựa thì bỗng "người ténh xe muốn giết ông ta và Karl fan nài xin hắn từng giết, chắp tay khoóc loóc mãi, sộ khiếp fa ti". Katerina Ivanovna cũng mỉm cười, nhưng lại nhận xét ngay rằng Amalya Ivanovna không nên kể chuyện bằng tiếng Nga.
Amalya Ivanovna lại càng thêm tức, và cãi lại rằng ông. "Vater aus Berlin" (4) của bà ta "là một nhân vật rất trọng yếu và hai tay bao giơ cũng thò vào túi quần".
Katerina Ivanovna, tính vốn dễ cười, không sao nén được nữa và cười phá lên như nắc nẻ, đến nỗi Amalya Ivanovna mất hẳn tự chủ.
- Con mẹ mới lố làm sao! - Katerina Ivanovna lại vui vẻ thì thầm với Raxkonikov, - định nói hai tay bỏ túi mà thành ra thò tay móc túi người ta, hi - hi! Và ông có nhận thấy không, ông Rodion Romanovich, tất cả những bọn ngoại quốc ở Petersbung ấy mà, nhất là bọn Đức ở đâu đâu kéo sang ta, đều ngu hơn người mình cả? Ông cũng thấy đấy, ai đời lại đi kể rằng "Karl ở hiệu thuốc sộ khiếp fa ti" (thằng cha thật dát như cáy) và đáng lẽ trói gô thằng đánh xe lại, thì đằng nầy lại "chắp tay khoóc loóc fan xin". Chao ôi, ngốc ơi là ngốc! Thế mà tưởng là cảm động lắm đấy, và cũng không hề ngờ mình ngốc đến thế nào? Theo tôi thì thằng cha mắm muối gạo tiền say be bét kia còn khôn hơn nhiều; ít nhất cũng thấy được rằng hắn đã say mèm, bao nhiêu trí khôn trút vào đấy cốc hết rồi, còn mấy lão kia thì đều ra vẻ nghiêm trang đứng đắn cả… Đấy, mắt mụ ta cứ long lên sòng sọc. Tức lắm! Tức tắm đấy! Ha - ha - ha! - tiếng cười của bà lại chuyển thành một cơn ho.
Vui lên, Katerina Ivanovna mê mải kể hết chuyện nầy đến nọ, và đột nhiên nói rằng với số lương quả phụ xin được bà ta sẽ mở một ký túc xá cho con gái quý tộc ở tình nhà. Bà ta chưa lần nào nói riêng với Raxkonikov về việc nầy, cho nên lập tức say sưa đi vào những chi tiết đầy sức quyến rũ đối với bà. Bà bỗng lấy ở đâu ra một tấm "Bằng khen", chính tấm bằng mà mồ mả ông Marmelazov đã nói chuyện với Raxkonikov dạo trước trong tiệm rượu, khi kể rằng hôm làm lễ tốt nghiệp Katerina Ivanovna đã nhảy điệu khăn san "trước mặt quan tổng trấn và nhiều nhân vật khác". Bây giờ tấm bằng khen ấy hẳn là đang được dùng làm một chứng chỉ tỏ ra rằng Katerina Ivanovna có đủ quyền mở ký túc xá; nhưng nó được để dành chủ yếu là để trị cho "hai con mẹ nhà quê diêm dúa" kia một mẻ ra trò, nếu chúng đến dự tiệc tang, và cho chúng thấy rõ rằng Katerina Ivanovna vốn là con nhà quý phái, "có thể nói là quý tộc thượng lưu vào bậc nhất nữa, là con một quan đại tá, và chắc chắn bà hơn xa những thứ đàn bà chuyên chạy chọt cầu may ở đâu mọc ra nhan nhản trong mấy năm gần đây". Tấm bằng khen lập tức được truyền qua tay các ông khách say mèm, và Katerina Ivanovna cũng cứ để yên, vì trong bằng quá có viết en toutes lettres(5) rằng bà ta là con gái một vị tư vấn hoàng cưng được thưởng huân chương bội tinh, và như vậy tức cũng gần như một vị đại tá.
Bốc đồng lên, Katerina Ivanovna quay ra kể lể dài dòng về đủ các thứ chi tiết nầy nọ trong cuộc sống êm đềm và tươi đẹp sau nầy ở T, nào là mình sẽ mời các giáo viên trung học về dạy trong trường ký túc, nào là trước kia mình học tiếng Pháp với một ông thầy Pháp tên là Mango, một ông già dáng kính nay đang yên dường tuổi già ở T… và chắc chắn sẽ nhận lời đến dạy với một số lương hết sức phải chăng. Cuối cùng bà cũng nhắc đến Sonya: nàng sẽ "cùng về T… với bà để giúp đỡ bà trong mọi việc". Nhưng đến đây ở cuối bàn bỗng có ai phì cười lên. Katerina Ivanovna lập tức cố làm ra vẻ khinh khỉnh không nghe thấy tiếng cười ở cuối bàn, nhưng lại lập tức cố ý cất cao giọng lên, say sưa nói về những năng lực của Sofia Xemionovna, chắc chắn có thể làm người cộng tác đắc lực của bà, nói đến "tính dịu hiền, kiên nhẫn, lòng hy sinh, tâm hồn cao thượng, và học vấn" của nàng, vừa nói vừa vỗ vỗ lên má Sonya, rồi đứng dậy ôm nàng hôn hai lần, rất thắm thiết. Sonya đỏ bừng mặt, còn Katerina Ivanovna thì bỗng khóc oà lên, rồi lại nhận xét ngay rằng mình là "một con mẹ ngốc yếu thần kinh, lại đang lúc hoang mang quá sức", rằng "đã đến lúc phải kết thúc, bây giờ ăn xong rồi, phải dọn trà lên thôi".
Ngay lúc ấy Amalya Ivanovna, trong lòng đã giận sôi lên vì suốt câu chuyện không được góp một câu nào, thậm chí người ta cũng chẳng thèm nghe bà nói nữa, liền đi một, nước liều cuối cùng.
Bà ta giấu vẻ bực dọc, đánh bạo nói với Katerina Ivanovna một điều nhận xét hệ trọng và sâu sắc, là trong trường ký túc tương lai phải chú ý đặc biệt đến áo quần lót của các nữ sinh (die Wasche), phải giữ sao cho nó thật sạch, và "nhất tịn cần phải có một pà (die Dame) rất tốt để trôông nom áo quần cho chu đáo", và thứ đến là phải cấm "các cô con kái trẻ toọc trộm tiểu thuyết pan tệm". Katerina Ivanovna, bấy giờ quả nhiên đang hết sức hoang mang, mệt mỏi và phát chán lên với bữa tiệc, lập tức "cắt ngang" Amalya Ivanovna, nói rằng bà ta chỉ "nói nhảm" và chẳng hiểu gì hết; rằng lo đến áo quần lót (die Wasche) là việc của người quản lý chứ không phải của bà hiệu trưởng một trường ký túc quý phái; còn như chuyện đọc tiểu thuyết thì chỉ nói như vậy thôi cũng đã quá khiếm nhã rồi, và xin bà ta im đi cho. Amalya Ivanovna nổi khùng lên nói rằng bà ta có "thiện ý", bà ta rất muốn "tiều lènh tiều tốt, rằng người ta "mãi không chịu trả tiền nhà (des Geld)" cho bà. Katerina Ivanovna lập tức "trả miếng", nói rằng bà ta nói dối chứ "thiện ý" gì mà thiện vì ngay từ hôm qua, khi thì hài chồng bà còn nằm trẹn bàn, bà ta đã làm tình làm tội về chuyện nhà cửa rồi.
Bà Amalya Ivanovna liền nhật xét một cách rất ăn nhịp với câu trên, là bà ta "tã mồi các pà kia, nhưng họ không tến, vì họ là người quý phái khôông thể tến nhà người khóông quý phái được". Katerina Ivanovna lập tức "nhấn mạnh" rằng một mụ cầu bơ cầu bất như bà ta thì làm gì có tư cách phán đoán thế nào là quý phái thật, thế nào là quý phái giả. Amalya Ivanovna không chịu được nữa, bèn tuyên bố rằng ông "Vater aus Berlin" của bà ta là một người "rốt, rốt quan troọng, khi nào ti hai tay cũng thò fào túi, mồm thở puf!, puf!" và để cho mọi người hình dung thật rõ ông Vater, bà ta đứng phắt dậy, thọc cả hai tay vào túi, phồng má lên, mồm phát ra những âm thanh mơ hồ nghe như puf! puf! làm cho khách khứa cười rộ lên: họ cố ý cười như vậy để khuyến khích bà Amalya Ivanovna, vì biết trước thế nào cũng có một cuộc xung đột. Nhưng thế nầy thì Katerina Ivanovna không còn tài nào chịu được nữa, liền "nhấn mạnh" cho mọi người đều nghe thấy, rằng có thể bà Amalya Ivanovna xưa nay không có Vater gì cả, bà ta chẳng quả là một mụ kiều dân "Phần Lan ở Petersburg", chắc chắn trước đây đi ở nấu bếp cho nhà ai, có lẽ còn tệ hơn thế nữa. Mặt bà Amalya Ivanovna đỏ ửng lên như con tôm luộc, và bà tru tréo lên rằng chính Katerina Ivanovna mới "không hề có Vater" còn bà ta thì có ông "Vater aus Berlin", mặc áo đuôi tôm dài thế nầy nầy, mồm lúc nào cũng puf! puf! puf!.
Katerina Ivanovna khinh bỉ nói rằng dòng dõi của bà thì ai nấy đều biết và ngay trong tấm bằng khen nầy có ghi bằng chữ in rằng cha bà là một quan đại tá; còn như bố bà Amalya Ivanovna (là nói giả dụ như bà ta có bố thật đi nữa) thì chắc hẳn chỉ là một gã kiều dân Phần Lan ở Petersbung làm nghề bán sữa; nhưng đúng hơn cả là bà ta chẳng hề có bố chút nào, vì cho đến nay vẫn không rõ phụ danh bà ta là gì; gọi là Amalya Ivanovna hay Ludvigovna? Đến đấy bà Amalya Ivanovna như điên như dại nện quả đấm lên bàn, rít lên rằng bà ta là Amal Ivan chứ không phải Ludvigovna, rằng cha bà "tên là Johann, trước làm đến chức thị trưởng" còn cha bà Katerina Ivanovna thì "chưa pao giờ làm thị trưởng". Katerina Ivanovna liền đứng dậy, và với một giọng có vẻ bình tĩnh (tuy mặt bà tái mét, ngực phập phồng dữ dội), nói với bà ta rằng nếu một lần nữa bà ta còn "dám cả gan đặt cái ông Vater chết tiệt ấy ngang hàng với cha bà, bà sẽ giật phăng cái mũ chụp kia dẫm nát ra". Nghe thấy thế, Amalya Ivanovna lồng lộn chạy khắp phòng, gân cổ tru tréo lên rằng bà ta là chủ nhà nầy và Katerina Ivanovna phải "cuốn kói ti ngay lệp tíc!", đoạn chẳng hiểu sao lại cuống cuồng chạy đi thu vén các thìa bạc ở trên bàn. Trong phòng huyên náo hẳn lên; trẻ con khóc oà. Sonya chạy ra toan giữ Katerina Ivanovna; nhưng khi Amalya Ivanovna bỗng léo nhéo những gì về cái thẻ vàng, Katerina Ivanovna ẩy Sonya và xông vào Amalya Ivanovna để thực hiện lời hăm doạ lúc nãy về cái mũ chụp. Nhưng vừa lúc ấy cánh cửa vụt mở, và Piotr Petrovich Lugin hiện ra trên ngưỡng cửa. Ông ta đứng yên đảo mắt nhìn qua các khách khứa một lượt, vẻ chăm chú và nghiêm nghị. Katerina Ivanovna đâm bổ về phía ông ta.
Chú thích:
(1) Một khu buôn bán gồm nhiều cửa hiệu chiếm bốn phố ở
Petersburg
(2) Bà trung uý (tiếng Ba Lan)
(3) Các ông (tiếng Ba Lan)
(4) Ông bố ở Berlin
(5) Rõ ràng, phân minh (tiếng Pháp).
(2) Bà trung uý (tiếng Ba Lan)
(3) Các ông (tiếng Ba Lan)
(4) Ông bố ở Berlin
(5) Rõ ràng, phân minh (tiếng Pháp).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét