Thứ Hai, 30 tháng 3, 2020

Người của giang hồ 1

Người của giang hồ 1
1/ SƠN VƯƠNG
Đề từ về một thế giới của tội ác và sự hỗn loạn
Bạn đọc thân mến!
Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu có bạn đọc nào đó đón nhận cuốn sách này - không như mong muốn của tác giả - với một thái độ thờ ơ, thậm chí là xa lánh. Cũng phải thôi, đa phần độc giả đều là những người lương thiện - như tôi, như bạn - khó có thể bắt họ phải cảm thấy “say mê” khi mà suốt hàng trăm trang sách, những khuôn mặt hiện ra đều là biểu tượng của cái ác, sự điên rồ, liều lĩnh, những hành động được mô tả đều là tội lỗi, gắn liền với những chết chóc, thù hằn và được thể hiện bằng những cuộc tranh giành, đâm chém, thanh trừng lẫn nhau một cách tàn bạo. Tuy nhiên, đó là điều không thể tránh khỏi chứ hoàn toàn không phải là mục đích của tác giả khi đặt bút viết cuốn sách này.
Loài người, trong đó có xã hội mà chúng ta đang sống, tiến dần về phía tương lai văn minh và phát triển với niềm tin “nhân chi sơ tính bản thiện” thì đồng thời loài người cũng phải oằn lưng gánh trĩu và luôn phập phù, cảnh giác với dục vọng “nhân chi sơ tính bản ác”, cố nhiên, cũng nảy sinh trong một bộ phận khác của đời sống xã hội. Cho dù chúng ta ghê sợ, xa lánh và luôn tìm cách chống lại thì cũng phải thừa nhận: cái ác luôn tồn tại, loại trừ hay chối bỏ nó hoàn toàn chỉ là một ước mơ đẹp đẽ nhưng hết sức ngây thơ. Để phấn đấu cho điều đó, không còn cách nào khác, việc đầu tiên là phải nhận diện được cái ác, hiểu về nó một cách tường tận và không ảo tưởng.
Thoạt kỳ thủy, hai tiếng “giang hồ” được dùng để định danh một lớp người phiêu bạt, lấy việc hành hiệp trượng nghĩa, giúp kẻ yếu người cô giành lại sự công bằng làm mục đích; lấy phô diễn tài năng, hơn thua cao thấp - chủ yếu về sức mạnh võ nghệ - làm niềm vui... Với ý nghĩa đó, “giang hồ” được nhìn nhận như một lối sống, một loại tính cách, đẹp và mã thượng. Tuy nhiên, cái đẹp ấy chỉ còn tồn tại trong sách kiếm hiệp đa phần là hư cấu. Theo thời gian, hai tiếng “giang hồ” đã biến chất, tha hóa hẳn. Đến nay, nó chỉ còn lại như một khái niệm về tội lỗi và cái ác, “giang hồ” được hiểu như từ định danh về một thế giới gồm toàn những kẻ sống ngoài vòng pháp luật, kết bè kết đảng và thủ lợi bằng con đường phạm pháp.
Nhưng, việc phân tích các khái niệm không phải là trách nhiệm của chúng tôi. Đó là công việc của các nhà xã hội học. Với cuốn sách này, chúng tôi chỉ muốn khắc họa lại một cách chính xác những khuôn mặt cộm cán nhất của giang hồ miền Nam trong thế kỷ XX. Để bạn đọc tiện theo dõi và nhận diện rõ nét quá trình tha hóa của thế giới giang hồ, những khuôn mặt trong sách được sắp đặt theo đúng trình tự thời gian mà họ sống. Bắt đầu từ Sơn Vương Trương Văn Thoại từ những năm 1930, “người của giang hồ” dù sao vẫn còn giữ được những nét mã thượng, mục đích giang hồ còn đôi chút hướng thượng và trọng nghĩa, ít nhiều vẫn phảng phất đôi nét Từ Hải, Robin Hood - người của tự do. Trượt dài đến “thời hai tay ba đao” của những năm 60-70, “giang hồ” đã hoàn toàn biến chất, trở thành một thế giới ngự trị đầy rẫy những cái ác, ác từ suy nghĩ đến hành động, với những Đại Cathay, Sơn Đảo, Lâm Chín ngón, Điền Khắc Kim, Năm Vĩnh v.v... Từ xuất phát điểm là bạn của dân nghèo, giang hồ đã trở thành tai họa, nỗi ám ảnh đầy đe dọa của lương dân. Yếu tố vụ lợi đã làm tha hóa toàn bộ bản chất của một lớp người. Đến những Năm Cam, Hải “bánh”... cuối thế kỷ XX thì giang hồ đích thị chỉ còn lại những bộ mặt quỷ dữ. Đó là tập hợp những tên tội phạm, những kẻ đâm thuê chém mướn. Dù vậy, giới giang hồ vẫn có những đặc trưng riêng, luật lệ riêng. Khi nói đến giang hồ là nói đến những tên tội phạm - điều đó đúng, nhưng một tên cướp giật, một tên tội phạm móc túi, trộm vặt mà gọi là giang hồ thì chắc chắn là sai.
Cho dù qua mỗi thời kỳ, giới giang hồ mang một đặc điểm hoàn toàn khác nhau thì thế giới ấy vẫn chưa bao giờ biến mất hay đứt đoạn. Sơn Đảo của thời hỗn loạn thập niên 60-70 từng gặp gỡ, bái phục và là một bản sao không hoàn chỉnh của Sơn Vương - rất ngạo thế khinh đời thập niên 1930; Năm Cam, Hải “bánh” hung thần cuối thế kỷ chỉ là một  thứ “âm binh mất ma” học nghề từ những dân chơi trước giải phóng như Đại Cathay, Sơn Đảo và từng cạnh tranh với những đàn em của tên hung thần lề phố này như Huỳnh Tỳ, Lâm Chín ngón... Theo nghĩa đó, cái ác là một khối u ác tính di căn trong đời sống xã hội.
Nếu đầy đủ hơn khi nói về thế giới giang hồ, lẽ ra cuốn sách của chúng tôi phải thêm vào tối thiểu ba nhân vật nữa, đó là “cọp rừng Sác” Lê Văn Viễn những năm 40-60; là “Vua hắc đạo” Tín Mã Nàm những năm 60-70 và Năm Cam, trùm “xã hội đen” cuối thế kỷ.
Bảy Viễn không chỉ là một giang hồ nổi tiếng, ông ta còn là một nhân vật khuấy nên một phần lịch sử, từng tham gia kháng chiến chống Pháp rồi trở mặt đầu Tây, trở thành Thiếu tướng trong quân đội Liên hiệp Pháp, được Bảo Đại giao trách nhiệm cai quản an ninh toàn bộ khu vực Sài Gòn - Gia Định. Đã có không ít cuốn sách viết về nhân vật có tính cách phức tạp và cuộc đời sôi động, đầy bi kịch này. Dưới ngòi bút của nhà văn Nguyên Hùng, Bảy Viễn đã hai lần trở thành nhân vật trung tâm và là chất liệu để tác giả dựng nên hai cuốn sách dày cộm là “Người Bình Xuyên” và “Bảy Viễn - Thủ lĩnh Bình Xuyên”. Nếu không gọi là toàn bộ thì dưới ngòi bút chi tiết của nhà văn Nguyên Hùng, chân dung Lê Văn Viễn cũng đã hiện ra quá đầy đủ. Có viết lại, tư liệu của chúng tôi cũng không thể hơn, chỉ tổ mang tiếng “múa rìu qua mắt thợ”, trong khi xào nấu lại tư liệu lại là điều mà lòng tự trọng của người cầm bút không cho phép.
Ngược lại, với Tín Mã Nàm, trở ngại mà chúng tôi vấp phải là chưa thể thu thập đủ thông tin. Tên thật là Trần Hà Tư, đẳng cấp giang hồ là một Thầu Dậu (đầu gà), nổi tiếng với biệt danh Tín Mã Nàm (con ngựa điên), nhân vật này đã làm mưa làm gió suốt hai thập niên 60-70, thống lĩnh toàn bộ giới tội phạm người Hoa khu vực Chợ Lớn. Có nhiều thông tin cho rằng Tín Mã Nàm chính là kẻ giữ vai trò Hồng Trượng (tức cây gậy đỏ), kẻ đứng thứ hai, vai vế chỉ thua Hoàng Long (Rồng vàng), nắm toàn quyền chỉ huy an ninh trong tổ chức tội phạm Tam Hoàng Hội chi nhánh Sài Gòn - Chợ Lớn, quyền lực đen và mức độ tàn bạo của tên giang hồ này lớn hơn rất nhiều so với tầm hình dung của một người lương thiện. Thế nhưng dù đã gặp được một số người thân quen của hắn thì với đặc tính kín đáo cố hữu của người Hoa, chúng tôi vẫn không thể thu thập được gì chính xác hơn ngoài những câu chuyện truyền miệng đậm chất giai thoại, khó có thể tùy tiện gọi đó là sự thật. Vì thế, dù rất tiếc, một chân dung đầy đủ về nhân vật Tín Mã Nàm vẫn cứ là món nợ mà chúng tôi đành khất lại cùng bạn đọc.
Nhân vật thứ ba, Năm Cam, nếu xét về ảnh hưởng xấu thì thừa đủ để có thể cho vào sách. Tư liệu về y lại càng không thiếu khi đã có hàng ngàn trang báo phô bày trong suốt 2 năm đầu của thế kỷ XXI. Thế nhưng, trong mắt chúng tôi, Năm Cam dù là một tên tội phạm sừng sỏ, dù đầy tội ác nhưng vẫn không đáng được gọi là giang hồ. Điều duy nhất mà Năm Cam làm được, hơn đứt nhiều tên tội phạm khác, là đã mua chuộc được một bộ phận thoái hóa trong bộ máy công quyền ở nhiều cấp. Với thế mạnh này, từ một tên gá bạc nhãi ranh, Năm Cam đã ngoi dần lên trên từng nấc thang của quyền lực tội ác. Thế nhưng, trước sau Năm Cam vẫn bị giới giang hồ xem như một trùm xã hội đen sừng sỏ chứ không hề là một giang hồ có số. Lý do đơn giản, trên con đường ngoi lên, Năm Cam thiếu hẳn ba tiêu chuẩn: bản lĩnh cá nhân, cách chơi đúng luật (đen) và ân uy với đàn em... Xét về cấu trúc, trong giang hồ chỉ có quan hệ đàn anh - đàn em (được phân ngôi tùy theo đẳng cấp, trình độ, bản lĩnh chứ không theo tuổi tác), tuyệt nhiên không có quan hệ chủ - tớ. Với tham vọng biến thành “vua”, Năm Cam đã biến tất cả những kẻ dưới trướng thành đầy tớ khiến chúng chỉ sợ mà phục tùng chứ không nể trọng. Vì thế, Năm Cam chỉ đáng được xem như một tên trùm tội phạm kiểu xã hội đen mà không đáng được coi là “người của giang hồ”.
Ngoài ra, còn một loạt “tên tuổi lớn” khác của giang hồ mà chúng tôi chưa có dịp đề cập, hầu hết đều xuất thân từ Trung Hoa đại lục. Họ là những người có công lớn trong tiến trình hoằng duơng võ học có nguồn gốc Thiếu Lâm vào Việt Nam. Đó là Lương Vũ Tế, tức Nguyên Tế Công Đại sư, ông tổ của Vịnh Xuân quyền Việt Nam; là Trương Tòng Phú, hậu duệ đích tôn 16 đời của Thái cực Võ Đang Trương Tam Phong, Chưởng môn phái Võ Đang tại Chợ Lớn; là Đoàn Tâm ảnh vốn là một áp tiêu lừng danh trên đoạn đường từ núi Côn Luân (Trung Quốc) đến Hồng Kông, sau qua Việt Nam “phong kiếm qui ẩn” trở thành Đại lão võ sư Đoàn Tâm ảnh, Chưởng môn phái Thiếu Lâm Côn Luân (Thủ Đức); là Hạng Văn Giai, nguyên là thiếu tướng, Quân đoàn phó Quân đoàn Vân Nam ly khai của Quốc dân Đảng sau biến cố 1.10.1949, theo nhiều người trước ông từng là Biệt đội trưởng Biệt đội ám sát của Tưởng Giới Thạch, một trong những “tác giả kịch bản” của vụ ám sát Uông Tinh Vệ tại Hà Nội  nổi tiếng thập niên 1930...
Cuộc đời họ đầy sóng gió và bi kịch hẳn sẽ có sức hấp dẫn lớn đối với bạn đọc. Song, ghép chung chân dung họ với chân dung những tên “giang hồ tội phạm” tầm thường e là điều bất nhã và bất kính. Chúng tôi đành phải gác lại và hẹn bạn đọc ở một cuốn sách khác viết riêng về họ, cuốn Giang hồ võ lâm Việt Nam  mà chúng tôi đang thai nghén.
Theo nhận xét của chúng tôi, từ trước đến nay đã có không ít tác giả viết về giang hồ. Nhưng, do mục đích tiếp cận khác nhau nên các tác giả này đều chưa phản ánh đúng chân dung, bản chất và số phận của những kẻ được coi là “người của giang hồ” mà họ đề cập. Trước năm 1975 đã có hàng loạt nhà văn, đứng đầu là nhà văn nổi tiếng Duyên Anh đã cho ra đời hàng loạt cuốn tiểu thuyết thuộc loại “sách xúi con nít đập lộn”. Nhân vật chính của những cuốn sách này thường là những tên bụi đời, du đãng cộm cán sống ngoài lề phố và bất chấp luật lệ. Vì mục đích “vị nghệ thuật”, các nhà văn thế hệ này đã đẩy khoảng cách tâm lý đi quá xa, huyền thoại hóa các nhân vật giang hồ, xem tội lỗi, các trận thư hùng của chúng như những chiến tích. Chịu ảnh hưởng của văn học Phương Tây, kiểu Robin Hood của A. Dumas hay “Thân phận con người” của A.Malraux, những tác giả này đã quá say sưa đề cao chất anh hùng cá nhân của những tên du đãng mà quên mất bản chất đích thực, chúng đích thị là những tên tội phạm. Trong số đó, cuốn Điệu ru nước mắt của Duyên Anh tiêu biểu hơn cả, nhất là khi nó được chuyển thể thành phim Vết thù trên lưng ngựa hoang với bản nhạc nền cùng tên nổi tiếng một thời.
Sau Duyên Anh, một loạt ký giả miền Nam trước giải phóng vẫn mang nặng khuynh hướng huyền thoại hóa, tuy khai thác người thật, việc thật của một lớp giang hồ như Đại Cathay, Lâm Chín ngón, Sơn Đảo... song chủ yếu cũng chỉ khai thác kịch tính của những phi vụ, đẩy các hành động tội phạm của chúng thành một hình thức đối lập, biến những tên tội phạm thành lớp “dân chơi” và “đánh số” chúng theo chuẩn giang hồ chứ không theo những nấc thang đạo đức của xã hội. Chính chủ nghĩa hiện sinh giai đoạn thoái trào du nhập vào miền Nam, chính sự hỗn loạn của xã hội tiêu thụ sống gấp và chết gấp và ý thức phản kháng thời loạn đã tạo nên khuynh hướng này. Bản chất giang hồ có bị (hay được) hiểu sai thì cũng không có gì khó hiểu khi chính các ký giả - tác giả với nhân vật giang hồ của họ đều là bạn bè, quen biết nhau và học đòi nhau. Giữa người nghệ sĩ bế tắc và tên “dân chơi” đập phá ít nhiều cũng có một điểm chung, đó là ý thức bứt phá khỏi các ràng buộc, các định chế của một thứ luật pháp mà họ không tôn trọng; hoặc đơn giản hơn, một ham muốn tự định vị mình. Bằng cách đó, giang hồ được vẽ nên như một thế giới hỗn loạn trong một xã hội hỗn loạn của một thời đại cũng hỗn loạn nốt.
Sau năm 1975, suốt một thời gian dài, đề tài giang hồ, du đãng... hầu như bị quên lãng hoàn toàn trong văn chương, sách vở. May ra, độc giả chỉ còn biết đến các nhân vật của thế giới này trong những bài báo - một thể loại mà tự thân nó, khoảng cách tâm lý đã bị kéo lại quá gần, gần đến mức thiển cận. Nhân vật giang hồ được đề cập hầu như chỉ còn trong phạm vi những thông tin sơ khai của phép cân đối giữa tội lỗi và hình phạt. Không số phận, không tính cách, không được đặt trong phức hợp những bi kịch của cuộc sống, nhân vật giang hồ bị đánh đồng triệt để với hình ảnh tội phạm mà không ai thắc mắc gì đến điểm đặc thù của nó. Thậm chí đã có khi, trên mặt báo, người ta còn né tránh gọi tên những từ định tính như giang hồ, mafia, vì e ngại cách gọi đó sẽ... bôi đen xã hội.
Nói tóm lại, vì nhiều lý do khác nhau vẫn còn thiếu hẳn một cái nhìn đầy đủ, khách quan về một thế giới, một tập hợp người đã hiển nhiên tồn tại trong đời sống, nhất là đời sống ở các đô thị lớn. Vậy thì giang hồ là gì?
Lại một lần nữa, chúng tôi vẫn không muốn “lấn sân” phần việc của các nhà xã hội học. Chỉ xin trả lời vắn tắt: giang hồ là một loại tội phạm có tổ chức, chủ yếu hình thành qua việc xác định “lãnh địa” riêng để hoạt động tội phạm - một hình thức sơ khai của kiểu tội phạm mafia. Nôm na, tất cả mọi người sinh ra đều muốn vượt lên trên chính bản thân mình, luôn khao khát định vị mình trong cuộc đời. Nếu được giáo dục, học hành đầy đủ ở trường học, người ta sẽ trở thành những nhà chuyên môn có ích. Ngược lại, nếu “tốt nghiệp” trường đời, nhiều khả năng người ta sẽ hóa... giang hồ. Như vậy, giang hồ là một thứ “tay nghề cao”, những “nhà chuyên môn” của xã hội lề phố, đời sống lề phố. Nhìn ở một góc độ khác, khát vọng sống, mơ ước vươn lên là những phẩm chất hình thành nên khuynh hướng dấn thân trong mỗi cá nhân. Năng lực hành vi càng lớn, khát vọng dấn thân càng lớn. Đây là một thứ năng lực nội tại, chỉ tăng hay giảm chứ không lệ thuộc hoàn toàn vào tri thức được giáo dục. Khi khát vọng dấn thân tích trữ đủ lượng và bùng nổ thì mẫu người anh hùng cá nhân xuất hiện. Nếu được định hướng đúng, hướng thượng và hướng thiện, đủ chất tri thức, con người anh hùng cá nhân sẽ thăng hoa, thời loạn có thể trở thành nhà cách mạng, thời bình có thể trở thành khoa học gia, nghệ sĩ v.v... Dù không được, không muốn hay không có điều kiện học hành thì trong những cuộc đời tận đáy xã hội, máu anh hùng cá nhân vẫn cứ tồn tại. Được gắn với mục đích lệch lạc, tham vọng ngoi lên lệch lạc, tất yếu nó sẽ biến con người thành một thứ hư vô chủ nghĩa, thiên hẳn về đập phá, chà đạp lên các giá trị chuẩn mực về đạo đức, tinh thần và tác oai tác quái đối với đời sống xã hội. ở mức độ nhẹ hay phạm vi ảnh hưởng hẹp, con người của chủ nghĩa hư vô sẽ biến thành tầng lớp giang hồ, tìm cách thủ lợi bằng các hành vi chống lại luật pháp. Nếu gặp thời loạn, được hà hơi tiếp sức bằng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, bằng đức tin tôn giáo cực đoan, tất yếu chúng sẽ liên kết với nhau để trở thành những tập đoàn giang hồ quốc tế - cha đẻ của chủ nghĩa khủng bố, một vấn nạn đầy đe dọa nguy hiểm mang tính toàn cầu trong thế kỷ XXI.
Cần nói rõ như thế để thấy rằng, giang hồ là một tập hợp tội phạm nguy hiểm, có tổ chức chứ không phải hỗn hợp những hành động tội phạm manh động. Do đó, để tiêu diệt nó, không đơn giản chỉ là việc “chặt ngọn” với hình phạt thật nặng cho những kẻ phạm tội. Ngược lại, cần quan tâm giải quyết vấn nạn giang hồ ngay từ gốc, không để mầm mống tội phạm có điều kiện sinh sôi nảy nở rồi sau đó mới áp dụng hình phạt.
Cốt lõi hình thành, nuôi sống đội ngũ giang hồ, theo chúng tôi, là hai vấn đề có quan hệ hữu cơ: nạn cho vay lãi nặng và việc phân chia lãnh địa để hoạt động phạm tội. Con người, cho dù là người nghèo thì cũng không tránh khỏi những lúc phải đối diện với những biến cố như thiên tai, đau ốm, ma chay... nghĩa là ngay tức thời cần phải có một khoản tiền lớn để giải quyết. Đối với người dân lao động nghèo, đó là một vấn nạn. Tiền mặt: không có, nhà cửa vật dụng thế chấp để vay ngân hàng: không có, tín chấp: không thể. Đó chính là cơ hội tốt để các giác hút kinh khủng của đám cho vay lãi nặng thò ra. Bao nhiêu tiền cũng có, tất nhiên là với lãi suất cắt cổ. Lãi mẹ đẻ lãi con, những vòi bạch tuộc sẽ hút kiệt tất cả những gì người nghèo tích cóp và trói đời họ trong công nợ. Không trả ư: đã có “luật giang hồ”! Nguồn lợi nhuận này là những con số khổng lồ, đủ để nuôi sống cái gọi là giới giang hồ. Nó lớn đến mức việc tranh giành lãnh địa nhằm bảo kê, cho vay lãi nặng thường biến thành những cuộc “chiến tranh lề phố”. Dĩ nhiên, để chuẩn bị cho điều đó thì tất yếu, các băng đảng tội phạm phải hình thành. Đó là lý do vì sao, giới giang hồ quần tụ nhiều ở các khu vực bến cảng, bến tàu xe, các khu chợ đầu mối ở các đô thị lớn - những nơi tập trung đông đúc tầng lớp vô sản, dân lao động nghèo, làm thuê là nghề nghiệp chính. Đó cũng là lý do vì sao trong cuốn sách này xuất hiện thêm hai nhân vật Lý Long Thân (Đường đời trong lòng tay) và Lâm Huê Hồ (Huyền thoại về một gánh ve chai). Cả hai nhân vật này đều không đụng tay đến “dao thớt”, song với nghề cho vay nặng lãi, họ đích thị là những “ông trùm” của giới giang hồ. Đặc biệt là nhân vật Lý Long Thân, toàn bộ quá trình kinh doanh, làm giàu và ngoi lên đều quan hệ mật thiết với hoạt động của các băng đảng tội phạm thuộc giới giang hồ, theo một cách thức sặc mùi giang hồ.
Cuối cùng, để triệt để giải quyết vấn nạn giang hồ, chúng tôi nghĩ ngoài việc nâng cao đời sống nhân dân, tăng cường giáo dục... và nhiều mặt khác, cũng rất cần có một quỹ tín dụng cho người nghèo. Khi lâm vào bí bách, người nghèo - với sự xác nhận của chính quyền địa phương - có thể được vay một khoản nào đó, đủ để trang trải khó khăn đang vấp phải. Hãy tự tin rằng, người nghèo, dù nghèo thì vẫn không thiếu lòng tự trọng, đã vay ắt sẽ trả. Trong trường hợp xấu nhất, nhà nước có thể mất đi 10, 20, 100 triệu, thậm chí một tỉ đồng, nhưng chắc chắn xã hội sẽ bớt đi những danh sách tội phạm dài dằng dặc, khi mà vòi bạch tuộc hút máu dân nghèo của giới giang hồ đã mất chỗ bám. Lúc đó, đời sống của lương dân cũng sẽ bớt phập phù trước những đe dọa, khống chế của bọn tội phạm. ít nhất, chúng ta sẽ bớt đi được một phiên tòa như phiên tòa Năm Cam và đồng bọn với hơn 150 bị cáo mà  một phần ba  trong số đó là những tên giang hồ chuyên cho vay lãi nặng.
Toàn bộ gốc và ngọn của vấn đề, những huyền thoại và bi kịch số phận của “người trong giang hồ” chúng tôi muốn thể hiện qua cuốn sách này thông qua một số chân dung giang hồ cộm cán nhất, những kẻ đã từng được nhiều người biết đến với không ít giai thoại nửa thực nửa hư. Với tiêu chí đó, mục đích văn chương bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Hay hay dở, thích hay không còn tùy vào cách thẩm định của người đọc. Chúng tôi chỉ hy vọng, với những ai quan tâm đến vấn đề giang hồ, cuốn sách sẽ là một nguồn tư liệu ban đầu, một cái nhìn khách quan và gần gũi sự thật để bạn đọc có thể tham khảo.
Hầu hết nội dung chính của cuốn sách này đều đã được đăng tải trên mục “Tư liệu nhiều kỳ” của Báo An ninh thế giới. Vào sách, tác giả chỉ dụng công bổ sung tư liệu và thể hiện lại nó dưới dạng truyện để bạn đọc dễ theo dõi chứ tuyệt đối không có ý định trau chuốt văn chương. Vì thế, nếu những câu chuyện này có thể hấp dẫn được bạn đọc thì đó là do sự hấp dẫn được tạo bởi tự thân những bi kịch số phận của các nhân vật chứ không hề do tác giả cố ý sắp đặt hay dụ dẫn. Toàn bộ tư liệu được trình bày là kết quả thu gom, chắt lọc, kiểm chứng mà chúng tôi tiến hành trong khoảng 10 năm. Những gì thể hiện trong trang sách cũng chính là những gì đã diễn ra trong đời thực. Phần việc duy nhất mà chúng tôi làm là xếp đặt lại cho câu chuyện diễn ra đúng theo trình tự vốn dĩ nó có.
Dù không muốn, tác giả cũng tự biết khiếm khuyết là điều khó tránh.
Mong nhận được sự góp ý của độc giả.
Thành phố Hồ Chí Minh
tháng Mạnh Đông, năm Quý Mùi 2003
Nguyễn Hồng Lam
Quái kiệt Sơn Vương
Với 34 năm ngồi tù, trong đó có 32 năm khổ sai ở Côn Đảo, có lẽ Sơn Vương Trương Văn Thoại là người phải thụ án lâu nhất Việt Nam. Không chỉ có thế, ông còn là một nhà văn được hâm mộ, một tên cướp khét tiếng trượng nghĩa và hào hoa. Cách mạng tháng Tám thành công, ông trở thành Chủ tịch ủy ban hành chính Côn Đảo. Nhưng do những tham vọng phiêu lưu, ông tự biến mình thành lãnh chúa của cái gọi là “Đảo quốc Côn Lôn” để sau đó lại tiếp tục sống hàng chục năm sau song sắt, cho đến tận ngày sức tàn lực kiệt. Có thể nói, cuộc đời Sơn Vương là một lăng kính phản ánh khá trung thực và đậm nét về khí phách cang cường trọng nghĩa, yêu tự do, ý chí quật cường hào sảng của người nông dân Nam Bộ. Quan trọng hơn hết, ông là một nhân chứng sống của nhà tù Côn Đảo suốt hai thời Pháp thuộc và Mỹ - ngụy.
1. Kiếp phong sương ăn quán ngủ đình
Trước khi đổ ra cửa Tiểu, dòng chảy của sông Soài Rạp đột nhiên trở nên mạnh mẽ lạ thường. Từ nhiều đời, người dân làng Bình Nhị (Gò Công) vẫn tự hào bảo nhau: chính dư ba của trận Rạch Gầm - Soài Mút đại phá giặc Xiêm đã tiếp sức cho dòng sông tuôn ra biển lớn. Những câu chuyện truyền miệng hào hùng ấy đã hun đúc thêm cho những người nông dân xứ này một khí phách kiên cường, trượng nghĩa và trọng lẽ công bằng.
ở trong làng, điền chủ Trương Đình Cung Anh là một người danh giá, được trọng vọng. Tuy giàu và có học thức nhưng lòng ông vẫn luôn hướng về phía những người nông dân khốn khổ, luôn sẵn sàng giúp đỡ người nghèo và bênh vực kẻ yếu. Khi đã lớn tuổi, ông làm thêm nghề bốc thuốc Nam giúp dân chúng quanh vùng.
Năm 1909, người con trai thứ năm của vị điền chủ hào hiệp này chào đời. Lần đầu tiên nhìn thấy mặt con, điền chủ Trương Đình Cung Anh đã đứng lặng hồi lâu. Trán rộng, nhân trung sâu, mắt sâu, mũi khoằm, dáng dong dỏng, đứa bé mang tướng mạo một Kim Thánh Thán, hẳn sau này sẽ chọc trời khuấy nước nhưng có lẽ suốt đời lận đận. Ông đặt tên cho con là Trương Văn Thoại.
Ngày thôi nôi, trước vô số đồ chơi được bày trước mặt, cậu bé đã vồ lấy và nắm rất chắc hai tay hai món: một quản bút, một thanh gươm. Nét mặt vị điền chủ rạng lên nhưng ông vẫn không ngăn nổi một thoáng rùng mình lo lắng.
Đến tuổi cắp sách, Thoại tỏ ra thông minh, sức học hơn hẳn bạn bè cùng lớp. Nhưng, chỉ học hết chương trình Cours Supérieur (lớp Nhất tiểu học, khoảng lớp 5 hiện nay) đủ vốn tiếng Pháp để đọc sách Tây, cậu bé đã bỏ ngang, chuyển sang luyện võ và học thêm chữ Hán.
Thời gian còn lại, Truơng Văn Thoại vùi đầu vào sách, đọc toàn kiếm hiệp Tàu và tiểu thuyết Tây viết về những tên cướp nghĩa hiệp, từ Robin Hood của A. Dumas đến Carmen của Merimée. Đặc biệt, Truơng Văn Thoại cực kỳ say mê những cuốn sách của nhà văn bình dân Phú Đức với nhân vật Bách-xi-ma lái... “Khúc Dồi” phóng như bay đuổi theo Hoàng Ngọc ẩn đang cưỡi trên... “Điếu Xì Gà”. Những nhân vật nổi loạn trong sách vở và truyền thống hào sảng, bất khuất của quê hương đã thắp dần lên trong lòng cậu bé một ước mơ cháy bỏng về lẽ công bằng và con đường giúp dân bớt bị bóc lột, hà hiếp. Nhưng giữa khi nước mất, ách đô hộ của thực dân Pháp đè nặng, Thoại chưa đủ sức nhìn thấy con đường sáng, chỉ ngọn lửa tang bồng hồ thỉ trong lòng là ngày một cháy rực lên.
Cuối năm 1925, mới hơn 16 tuổi, Truơng Văn Thoại đã quyết chí bỏ làng lao theo tiếng gọi giang hồ. Anh thanh niên giàu nghĩa khí đã bỏ ra 6 năm trời lăn lộn khắp các ngọn núi Thị Vải, núi ông Trịnh, núi Mây Tào vùng Long Hải, Bà Rịa theo một đại lão sư mai danh ẩn tích học võ và học đạo. Năm 1931, vị Đại lão sư viên tịch, Thoại hạ sơn về Sài Gòn, sống lăn lóc cùng giới thợ thuyền khốn khổ. Anh ở trọ trên căn gác gỗ rộng chừng 20m2 của tiệm may Nam Chấn Hưng ở số 2 đường Lefebre (nay là đường Hồ Tùng Mậu, quận 1). Ông Tư Chiêu, chủ tiệm Nam Chấn Hưng vốn là bạn bè của ông Trương Đình Cung Anh, cha Thoại. Ngoài sách vở, tài sản của Thoại chỉ có thêm một chiếc bao kiểu lính thủy bằng vải kaki. Ban ngày, trải bao bên lề đường, Thoại hành nghề bán sách. Đêm, chắp thêm hai đoạn dây, bao kaki trở thành chiếc võng nóp cho kẻ giang hồ chợp mắt qua đêm.
Những năm đầu thập kỷ 30, lề đường De la Some (Hàm Nghi) được coi là nơi tập trung của đủ hạng người. Trên những tấm đệm bàng 7 tấc, một dãy thầy bói sắp hàng, kính râm che mắt, bộ bài cáu bẩn xếp ngay ngắn trước mặt. Bên cạnh đám thầy bói là các văn nhân, chủ báo, cũng bày “sản phẩm” của mình trên những vuông chiếu trải cạnh lề đường. Trong số những người bán báo đó, Trương Văn Thoại đặc biệt chú ý đến một người: Ông Nguyễn An Ninh, chủ bút tờ La Cloche Fêlée (Tiếng chuông rè) kiêm thủ lĩnh đảng Thanh niên cao vọng, hơn Thoại chẵn 10 tuổi. Cảm phục ý chí và sự nghiệp của Nguyễn An Ninh, Trương Văn Thoại đã dần dần bước vào nghiệp cầm bút, trở thành một cộng sự đắc lực của tờ La Cloche Fêlée và nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Theo chữ Hán, chữ “Thoại” được ghép bởi ba chữ Sơn, Vương và Nhi. Bút danh Sơn Vương được Thoại khai sinh từ đó. Ngoài ra, Thoại còn ký tên khác là Trương Vạn Năng, tự bộc lộ ý chí và tham vọng của mình.
Chẳng bao lâu, tên tuổi Sơn Vương đã khá nổi trong nghề cầm bút. Những bài báo của ông thổi vào công luận một dư âm lạ, đầy màu sắc bình dân và nỗi cảm thông sâu sắc tầng lớp bần cùng.
Khoảng những năm 1932-1933, Sơn Vương Trương Văn Thoại - mới 23 tuổi - đã danh nổi như cồn ở khắp Sài Gòn - Chợ Lớn và vùng lục tỉnh, chủ yếu nhờ những tác phẩm trung thiên tiểu thuyết đăng tải trên báo. Có thể xem Sơn Vương như một người tiên phong có công trong việc cách tân nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Vẫn là tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình, song tác phẩm của Sơn Vương đã có sự thay đổi tiến bộ lớn lao về mặt hình thức. Nhân vật tướng cướp nghĩa hiệp cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo của Sơn Vương đã đoạn tuyệt hẳn với thanh gươm lưng ngựa, thay vào đó là các trang công tử lái xe hơi như bay, bắn súng lục bằng cả hai tay và ném tạc đạn ùng oàng. Đáng kể nhất là ba cuốn: Luật rừng xanh, Chén cơm lạt, và Tướng cướp hào hoa.
Rất đông nhà văn, nhà báo thế hệ sau đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của Sơn Vương, cả về khí phách chống cường quyền, áp bức, ủng hộ dân nghèo lẫn lối hành văn bình dân trong sáng và giản dị. Nhưng ít ai biết rằng, tất cả những nhân vật tướng cướp nghĩa hiệp ấy đều chính là hiện thân của tác giả Sơn Vương. Thay vì tìm tư liệu để viết, Sơn Vương đã tự... tạo ra tư liệu. Trong hơn hai năm, từ 1931-1933, Sơn Vương đã đơn thương độc mã, gây ra hàng chục vụ cướp kinh thiên động địa nhằm vào các phú hộ, địa chủ gian ác khắp các vùng từ Đồng Nai đến Sài Gòn, Long An nhưng tung tích vẫn không hề bị lộ. Người ta chỉ thầm ngưỡng mộ một Sơn Vương - nhà văn - cao gầy dong dỏng nói năng nhỏ nhẹ, thường ngồi trọn buổi sáng bên lề đường với một bộ xá xẩu bằng lụa Tân Châu để bán sách của chính mình.
Giữa năm 1933, Sơn Vương dời địa điểm bán sách sang lề đường Charner (Nguyễn Huệ). Tại đó, ông gặp gỡ và kết nghĩa huynh đệ với một thanh niên tên là Nguyễn Phương Thảo, người sau này nổi danh với cái tên Trung tướng độc nhãn Nguyễn Bình - Tư lệnh các lực lượng quân sự Nam Bộ những năm đầu cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp (1945-1954).
Nguyễn Phương Thảo thua Sơn Vương 6 tuổi, quê ở Yên Phú, Hưng Yên. 17 tuổi, Thảo bỏ dở năm thứ hai trung học xuống Hải Phòng, đáp tàu Pélican của hãng Messagering để “hành phương Nam” lập nghiệp. Vốn khâm phục chất hảo hớn của người Nam Bộ, Thảo đã nhanh chóng làm quen và mê sách của Sơn Vương. Được một người thợ cùng chỗ trọ giới thiệu, anh đã nhanh chóng tìm được tác giả các cuốn truyện yêu thích. Sơn Vương cũng tỏ ra cảm kích trước ý chí giang hồ của người bạn nhỏ tuổi, đồng thời cũng muốn làm quen với một tính cách Bắc nguyên gốc nên tiếp Thảo khá nhiệt tình. Gặp Thảo, Sơn Vương khen:
- Người phương Bắc mến mộ trời Nam, hai mươi năm sau tất có thêm một tay hảo hớn.
Luôn miệng tấm tắc “kỳ ngộ! kỳ ngộ!”, Sơn Vương bỏ dở buổi bán sách kéo Nguyễn Phương Thảo sang một quán Chệt (quán ăn Tàu) ở đường Colonel Grimaud (Phạm Ngũ Lão) để đãi một chầu hủ tiếu xí quách. Đó là lần đầu tiên trong đời, anh thanh niên Nguyễn Phương Thảo biết đến vị cay của rượu. Nhưng Thảo chỉ uống ba ly con, phần còn lại một mình Sơn Vương từ từ nốc cạn.
Mới vào Nam, việc làm chưa có, Nguyễn Phương Thảo ngỏ ý nhờ Sơn Vương tìm giúp. Sau một hồi suy tính, Sơn Vương khuyên người bạn vong niên sang Đa Kao mở tiệm giặt là phục vụ cho đám công chức, thầy thông, thầy ký. Để có vốn cho Thảo mở tiệm, Sơn Vương quyết định đi... cướp, làm một vụ thật đậm...
Để xác định con mồi, Sơn Vương đã ôm chiếc bao lính thủy ra góc đường De la Some, chỗ đối diện Nhà băng Đông Dương ngồi bán sách suốt nhiều buổi. Cuối cùng thì một con mồi lớn cũng đã lọt vào tầm ngắm của Sơn Vương. Cứ vào sáng thứ Sáu của tuần đầu tiên mỗi tháng, René Gaillard, Giám đốc hãng cao su Mimot lại cùng một tài xế và một vệ sĩ phóng chiếc Peugeot đến Ngân hàng Đông Dương để lĩnh bạc về phát lương cho công nhân, số tiền mỗi kỳ lên đến 50.000 đồng. Theo tính toán, Sơn Vương quyết định sẽ chặn xe cướp vali tiền khi tên Giám đốc quay trở về. Ông quyết định rủ Nguyễn Phương Thảo đi theo để biểu diễn cho xem, nhưng lại tuyệt đối lại không nói một câu với “cậu bé” về kế hoạch đã định.
Đầu tháng 7 năm 1933, vụ cướp đã diễn ra đúng như kế hoạch. Sơn Vương “dụ dỗ” được Năm Đường, tài xế của một chủ Tây tham gia vào cuộc. Lợi dụng ông chủ và vợ con về Pháp nghỉ phép, Năm Đường đã “mượn” chiếc Clément Bayard của chủ và thay biển số theo Sơn Vương đi cướp. Xe chở Sơn Vương, Năm Đường và Nguyễn Phương Thảo chạy thẳng theo con đường đất đỏ dẫn về Tân Sơn Nhất (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám). Đến một chiếc cầu nhỏ ở Bà Quẹo, Năm Đường cho xe quay lại, dừng ngay trên cầu, vờ hư xe lúi húi sửa.
15 phút sau, chiếc Peugeot của René Gaillard đã xuất hiện từ xa, cuốn bụi đỏ bay theo mù trời. Đến nơi, thấy cầu bị kẹt, Gaillard tức tối nhảy xuống la hét om sòm. Sơn Vương đầu đội nón nỉ, mang bộ complet trắng, nhàn nhã như một công tử Bạc Liêu ôn tồn tiến lại, nói bằng tiếng Pháp:
- Xin lỗi ông, xe tôi bị panne, ông chờ cho chút xíu.
Đang bực, Gaillard quát:
- Muốn sửa, đẩy qua chỗ khác!
Quát chưa dứt câu, Gaillard đã trợn mắt, bởi Sơn Vương trả lời rất xấc xược:
- Được thôi, phiền ông lại đẩy đi!
Nhưng hắn chưa kịp chửi thề, một họng súng đen ngòm đã xuất hiện ngay trước mặt, kèm theo là tiếng Sơn Vương quát khẽ:
- Giơ tay lên!
Theo phản xạ, cả chủ lẫn tớ trong xe đều giơ tay quá đầu. Điềm nhiên, Sơn Vương tiến lại bên chiếc Peugeot giật lấy cặp tiền vứt vào xe mình cho Nguyễn Phương Thảo giữ. Ông còn tước luôn khẩu súng của tên vệ sĩ và quay lại nói với Gaillard mấy câu nhã nhặn:
- Phiền ông Giám đốc cho mượn đỡ một kỳ lương, tôi đang có việc cần xài.
Sơn Vương vừa nói, vừa vứt luôn khẩu súng trên tay vào xe của Gaillard và nhanh chân tót lên chiếc Clement Bayard giục Năm Đường chạy thẳng.
Sau vài phút hoàn hồn, René Gaillard kịp nhìn lại, mới phát hiện ra rằng khẩu súng mà Sơn Vương “kỷ niệm” chỉ là súng giả. Cáu tiết, hắn quát tài xế phóng xe đuổi theo. Nhưng tốc độ của chiếc Peugeot cũ kỹ không thể đua kịp tốc độ của chiếc Clément đời mới, máy rất mạnh. Đuổi đến Hòa Hưng thì địch thủ đã biến mất tăm dạng, Gaillard đành tiu nghỉu quay xe trở lại. Cách đó không xa lắm, Sơn Vương cũng xách cặp tiền kéo Nguyễn Phương Thảo đang há hốc ngạc nhiên bước xuống, giục Năm Đường đưa xe về rửa và thay biển số. Sơn Vương và Thảo bao nguyên một chiếc xe thổ mộ, giong thẳng về gác trọ phía Sài Gòn.
Vụ cướp táo tợn được đồn lan khắp Sài Gòn chỉ sau đúng một ngày. Dân nghèo được một phen hả dạ, bởi kẻ bị trừng trị là một “thằng Tây” khét tiếng tàn ác. Giới lục lâm Sài Gòn - Lục tỉnh cũng thầm khen tác giả vụ cướp - dù chẳng biết là ai - bạo gan và chơi rất bảnh, khiến tên chủ Tây vừa mất tiền vừa bẽ mặt. Nhưng với Sơn Vương, đó lại là tai họa và là vụ cướp cuối cùng trong cuộc đời ngang dọc.
René Gaillard - kẻ bị hại, vốn cũng xuất thân từ một tên cướp khét tiếng của đảo Corse và nước Pháp. Cùng với tên anh ruột là Charlles Gaillard, hắn đã gây ra hàng chục vụ cướp của giết người. Bị kết án chung thân khổ sai, hai anh em hắn đã tìm cách khoét vách ngục La Santé ở Paris và trốn sang Tân Thế Giới, tiếp tục gây tội ác. Được ít lâu, anh em Gaillard lại bị tóm cổ, thụ án khổ sai chung thân tại nhà ngục La Cayen - địa ngục trần gian của Pháp tại Nam Mỹ. Ngồi tù chưa ấm chỗ, chúng lại vượt ngục trốn vào Hoa Kỳ. Tại đó, René cùng anh tiến hành đánh cướp một xe chở bạc. Lần này, Charlles Gaillard bị bắn chết ngay tại trận. Còn lại một mình với một đống tiền, René Gaillard trốn sang Đông Dương, dùng số tiền ăn cướp được mua cổ phần của đồn điền cao su Terreves Rouges và nghiễm nhiên trở thành Giám đốc hãng cao su Mimot.
Tuy đã giã từ nghề thảo khấu nhưng trong huyết quản Gaillard, máu “đảo Corse” vẫn còn ngùn ngụt. Bị Sơn Vương cướp tiền và bỡn cợt, hắn không chịu nổi. Gaillard tuyên bố: Thưởng 5000 bạc Đông Dương - một phần mười số tiền bị cướp - cho bất cứ ai tìm ra tung tích thủ phạm. Lúc này, Bazin - tên mật thám khét tiếng tàn ác sau này - đang là một cò tập sự ở bót Catinat. Y xua hết mã tà, lính kín dưới quyền ra sức điều tra, lùng sục, quyết giật cho được món tiền 5000 đồng mà Gaillard đã rêu rao.
Vốn thông minh, cáo già, lại rành tâm lý người Việt, Bazin rất quan tâm đến những chi tiết tưởng như nhỏ nhặt. Y nhanh chóng nhận ra rằng, loại xe hơi Clément Bayard, cả Sài Gòn chỉ có không hơn 10 chiếc. Do đó, y liên tục gọi tài xế và chủ nhân của những chiếc xe hơi loại này lên làm “ăng kết”. Bị tra hỏi quá nhiều lần, Năm Đường biết chắc sẽ bị lật tẩy nên hoảng sợ đã ra đầu thú, nộp lại 10.000 đồng được chia sau vụ cướp đồng thời khai ra tên Sơn Vương. Ngày 16 tháng 8 năm 1933, Sơn Vương bị bắt.
Nhận được điện thoại của cò Bazin, tên giang hồ đảo Corse phóng xe tới bót Catinat ngay tức khắc. Được thưởng tiền, Bazin tỏ ra khá biết điều. Y bảo Gaillard:
- Giao nó cho ông một buổi, muốn làm gì thì tùy thích.
Cởi trần, xách roi gân bò vào phòng tra tấn, nơi Sơn Vương đang bị xích hai tay lên trần nhà, Gaillard nhìn đối thủ mảnh khảnh từ chân lên tới đầu và bảo:
- Mày cướp của tao năm vạn, tao tính rẻ, cứ một ngàn đồng tao lấy lại một roi. Mày tính chịu được mấy roi?
Không một chút sợ hãi, Sơn Vương cười và trả lời:
- Ông thích bao nhiêu cứ lấy bấy nhiêu. Bao nhiêu tôi cũng chịu, chỉ sợ ông mệt.
Điên tiết, Gaillard xông vào quật liên tiếp lên người Sơn Vương. Chỉ sau năm roi, chiếc áo lụa của Sơn Vương đã bị xé nát, rách tơi tả. Nhưng Gaillard vẫn không ngừng tay. Sơn Vương oằn oại gồng người vận khí chịu đòn nhưng không hề hé răng kêu rên nửa tiếng. Đến roi thứ 16, Gaillard đã quá mệt, mồ hôi vã ra như tắm. Thấy mình mẩy Sơn Vương đã nát bét, máu tuôn ra như suối, nhưng vẫn không nao núng, Gaillard bèn vứt roi, khen:
- Mày chịu đòn quá giỏi, tao thua. Số roi còn lại, tao cho mày nợ.
Khạc ra một bụm máu, Sơn Vương cười mà miệng sưng vêu, méo xệch:
- Khỏi, ông cứ lấy cho đủ. Nếu thiếu, tôi sẽ đi cướp của những thằng giàu như ông chứ chẳng cần phải vay nợ ai hết, ông nên đánh tiếp đi, kẻo tiếc.
Đến đó, René Gaillard chỉ còn biết phục sát đất. Hắn đổi giọng:
- Ông đúng là gan dạ hơn dân đảo Corse. Tôi kính phục ông. Số còn lại, coi như tôi xóa nợ cho ông hết.
Bỏ ra khỏi phòng, Gaillard nói với Bazin:
- Tao không kiện nữa, thả nó đi!
Bazin ngạc nhiên. Hắn bảo:
- Luật là luật, ông tha nhưng tôi không tha.
Không thuyết phục được Bazin, tên giang hồ đảo Corse tỏ ra khá áy náy với Sơn Vương. Hắn lại quay trở vào. Đứng trước mặt Sơn Vương, hắn hứa:
- Để tỏ lòng kính trọng ông, ngày mở phiên tòa, tôi sẽ không đến dự.
Và hắn đã giữ lời.
Một tháng sau, Sơn Vương bị Tòa tiểu hình kết án năm năm khổ sai và bị đày ra Côn Đảo.
2. 16 tháng 8 - ngày định mệnh
Đến Côn Đảo, Sơn Vương bị tống vào banh II, buồng giam tù thường án. Vụ cướp táo bạo của Sơn Vương khiến đám thường phạm nể phục, dù so với đa số bạn tù, ông ít tuổi hơn nhiều. Lẫn giữa đám đầu trộm đuôi cướp, Sơn Vương nổi trội hơn cả bởi là người có học, thuộc nhiều tích xưa chuyện cũ, lại giỏi tiếng Pháp. Vì vậy, mỗi lần có việc cần đề đạt gì với bọn gác ngục, cả buồng giam đều phải cậy đến Sơn Vương. Sau chưa đầy một tháng, Sơn Vương đã được coi như “sếp” buồng giam. ở các buồng bên cạnh, nhiều chính trị phạm - cả tù Cộng sản lẫn tù Quốc dân Đảng - cũng có nhiều người từng quen biết Sơn Vương trong thời gian viết báo, in sách, đôi người còn tỏ ý ngưỡng mộ. Thấy ông có uy tín với bạn tù, lại nói năng nhỏ nhẹ, cử chỉ đĩnh đạc, bọn gác ngục cũng tỏ ra vì nể.
Cuối năm 1933, giám thị Nguyễn Văn Liễn (Vệ Liễn) quyết định tổ chức một cuộc thi chữ đẹp tại tù Côn Đảo. Kết quả, Sơn Vương giành giải nhất, đẹp hơn cả chữ của các thư ký trên đảo cùng dự thi. Vệ Liễn bèn vận động chúa đảo cho ông ra làm thư ký giúp việc tại Ty Ngân khố của tỉnh đảo Côn Lôn. Kể từ đó, Sơn Vương không phải ngồi xà lim và làm khổ sai nữa. Ban ngày ông lo ghi chép giấy tờ ở Ty Ngân khố, buổi tối dạy bé Nguyễn Thị Kim Hoa, 9 tuổi, con gái Vệ Liễn học đến 9 giờ đêm. Sau đó, ông được cắp chiếu về ngủ cùng chỗ với các nhân viên của Ty Ngân khố.
Lúc mới ra đảo, ngoài Nguyễn An Ninh, Sơn Vương tỏ ra ngưỡng mộ các tù chính trị Quốc dân Đảng. Máu giang hồ của ông bị mê hoặc bởi gương trung liệt của Nguyễn Thái Học, và một số chiến công của đảng này. Nhưng dù ở tù, những người Quốc dân Đảng vẫn thẳng tay khủng bố những người bất đồng chính kiến với họ trong đường lối đấu tranh cách mạng. Trước mắt Sơn Vương, Quốc dân Đảng đã tiến hành một số vụ ám sát, khủng bố ngay tại Côn Đảo chủ yếu nhắm vào tù Cộng sản. Trong khi đó, những người tù Cộng sản, dù rất căm giận vẫn không hề tìm cách trả đũa. Ngược lại, họ vẫn đoàn kết, nhất trí, luôn tìm cách hòa giải những mối bất đồng, cố hàn gắn mối đoàn kết giữa tù Cộng sản và tù Quốc dân Đảng. Thần tượng cũ sụp đổ, lòng ngưỡng mộ của Sơn Vương dần dần dành hết cho số tù là đảng viên Cộng sản. Lợi dụng công việc ở Ty Ngân khố, ông thường tìm cách chuyển giấy, mực vào và giúp những người Cộng sản liên lạc với nhau.
Năm 1936, nền chính trị nước Pháp biến động mạnh. Nội các Léon Blum và phong trào Mặt trận bình dân lên nắm chính quyền, tiến hành hàng loạt cải cách dân chủ ở Đông Dương, trong đó có cả việc đặc xá tù chính trị. Tháng 7 năm 1936, một số tù nhân ở Côn Đảo được phóng thích. Sơn Vương cũng được xét trả về đất liền, tiếp tục thụ hình tại Hà Tiên.
Cạnh nhà tù ở Hà Tiên có một khu bungalow(*) dành cho các ông Tây bà đầm nghỉ mát. Một hôm, tên Giám đốc bungalow người Pháp bị mất 200 đồng. Nghi cho một anh bồi người Việt lấy cắp, hắn đã tự tay tra khảo anh dã man. Anh bồi không nhận bị tên Giám đốc tàn ác đốt đèn cầy và nhỏ sáp nóng vào mũi. Anh bồi chết, dân chúng kéo nhau biểu tình. Trong tù, Sơn Vương đã hô hào tù nhân đập phá khám và la ó dữ dội để ủng hộ. Vì vậy, chủ tỉnh Hà Tiên đã quyết định đày Sơn Vương ra đảo Phú Quốc.
Tội ác của thực dân Pháp đi đâu cũng gặp, tên Tây đoan (quan thuế) kiêm quận trưởng Phú Quốc đã nhiều lần tác oai tác quái ức hiếp dân trên đảo. Biết chuyện, Sơn Vương đã âm thầm thu nhập tài liệu và viết bài, bí mật gửi về cho một số tờ báo ở Sài Gòn. Các báo cử người ra điều tra và đăng bài lên án mạnh mẽ. Tên Tây Đoan khát máu bị đuổi đi nơi khác. Tháng 2 năm 1938, tên quận trưởng mới thay đã đưa trả Sơn Vương về lại Hà Tiên. Ông bị giam giữ thêm 6 tháng, đến ngày 16 tháng 8 năm 1938, trùng ngày trùng tháng với ngày bị bắt, Sơn Vương được thả.
Nhưng, hình như định mệnh đã trói chặt cuộc đời Sơn Vương với ngày 16 tháng 8. Đúng một năm sau, ngày 16 tháng 8 năm 1939, Sơn Vương lại bị tống vào tù. Lần này, ông bị bắt vì một lý do hết sức quái gở. Tại ghi-sê bán vé của một rạp chiếu bóng ở Chợ Lớn, Sơn Vương bị một gã người Việt hung hăng đạp giày đau điếng. Ông đẩy hắn ra, tên này lập tức nhảy vào đánh Sơn Vương. Cáu tiết, ông xô mạnh, tên gây sự bật ngửa ra sau ngã chỏng gọng. Rất không may, kẻ gây sự lại là... sếp mật thám của bót Polo (Chợ Lớn). Bẽ mặt, hắn móc ngay tu huýt cho lên miệng thổi một hồi. Mã tà, lính kín lập tức bu lại, còng Sơn Vương dẫn về.
Xuất thân là một võ sĩ đấm boxe (quyền Anh) có hạng, tên phó cò bót Polo cũng hung hăng không kém gì sếp chánh. Bất cứ ai mới bị bắt, hắn cũng đòi phải... đấu tay đôi. Thông thường, cuộc đấu chỉ dừng lại khi kẻ mới vào đã máu me bê bết và bất tỉnh nhân sự. Vì vậy, người ta gọi hắn bằng biệt danh Cọp Lửa.
Thấy Sơn Vương mảnh khảnh nhưng có vẻ ngang tàng, Cọp Lửa hất hàm hỏi cộc lốc:
- Biết võ không?
Sơn Vương cũng đáp cộc lốc:
- Chịu đòn được.
Cọp Lửa đòi đấu. Sơn Vương nhã nhặn từ chối:
- Đây là bót cò, đâu phải sàn boxe ở hội chợ? Nếu ông cò muốn, tôi đứng cho ông đấm.
Tên cò tức lắm, xông vào ngay. Sơn Vương không đánh trả, chỉ xuống tấn vận nội công chịu đòn. Đấm liên tục 10 phút, Sơn Vương vẫn không nhúc nhích, Cọp Lửa đành ôm hai tay buốt nhức lỉnh sang chỗ khác.
Ra tòa, Sơn Vương bị kết tội du đãng, bị đưa đi giam giữ tại căng Pursat (Campuchia). Nhờ giỏi ăn nói, Sơn Vương xin được một lưỡi cưa, cưa còng và trốn qua Thái Lan. Không bao lâu, ông lại bị bắt khi tìm cách về lại Sài Gòn. Lần này, ông bị kết án 10 năm tù vì tội vượt ngục, bị tống vào phòng 17 bót Catinat, nơi đặt máy chém. Đầu năm 1942, ông bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
3. Những năm sôi động
Giai đoạn 1942-1946, quần đảo - nhà tù Côn Lôn xảy ra rất nhiều biến động. Đặc biệt, quyền cai trị liên tục bị thay đổi. Tháng 9 năm 1942, phát xít Nhật đã cho quân đổ bộ lên đảo lần đầu tiên, nhưng chúng chỉ ở lại ít hôm rồi rút. Ba năm sau, ngày 6.2.1945, tàu chiến Nhật đã chĩa đại bác vào quần đảo, yểm trợ cho một trung đội vũ trang đổ bộ lên, bất chấp sự phản đối của bọn Pháp trên đảo.
Đám lính Nhật đổ bộ tiến hành ngay việc khống chế đài vô tuyến điện và tịch thu toàn bộ radio của bọn Pháp, ra sức tìm cách tiếp xúc với tù nhân, tiếp tế, cung cấp thông tin và truyền bá thuyết Đại Đông á cho đám chính trị phạm thân Nhật. Không dám công khai ngăn cản lính Nhật, lính Pháp đã tìm cách di chuyển nơi làm việc của đám tù thân Nhật, ngăn không cho những cuộc tiếp xúc diễn ra. Bị chúng thẳng tay khủng bố, đánh đập dã man, những tù nhân thân Nhật đã bóng gió bắn tin đe dọa bọn giám thị người Pháp, đồng thời ấm ức chờ gió đổi chiều để có cơ hội trả thù.
Sáng ngày 9.3.1945, thêm hai tàu tuần duyên Nhật lừ lừ tiến vào Côn Đảo. Mặc cho đám lính Pháp ngơ ngác, bọn Nhật đã ngang nhiên chất lên bờ một số thiết bị, khí tài chiến tranh. Xong việc, hai chiếc tàu tuần duyên không những không rút lui, lại còn kê tất cả nòng pháo hướng thẳng vào đất liền. Đánh hơi thấy chuyện chẳng lành, đích thân Tyssery, giám đốc Nhà tù Côn Đảo đã đến trại Nhật, yêu cầu được giải thích. Tên sĩ quan chỉ huy Nhật Bản ngang nhiên trả lời:
- Chúng tôi đưa hàng lên để lắp đặt một trạm vô tuyến.
Đồng thời hắn ra lệnh:
- Mời ông Tyssery ở lại.
Thực chất bọn Nhật muốn giam lỏng Tyssery không cho quay về. Ngay đêm đó, không tốn một phát đạn, Nhật đã tước hết toàn bộ vũ khí của lính Pháp, chiếm giữ trại lính, dinh giám đốc, đài vô tuyến và toàn bộ vị trí phòng thủ trên đảo. Bốn ngày sau, giám đốc Tyssery và viên đại úy chỉ huy lính Pháp ở Côn Lôn được tàu chiến Nhật đưa về đất liền. Quyền cai quản nhà tù, Nhật giao cho phó giám thị Hilaire đồng thời giữ nguyên bộ máy giám thị Pháp - Việt như cũ.
Chỉ sau đó ít hôm, máy bay đồng minh đã tiến hành nhiều đợt oanh kích Côn Đảo. Bom đạn Mỹ đã đánh sập hải đăng hòn Bảy Cạnh, Nhà đèn, Sở lưới và một số cơ sở sản xuất trên đảo, giết chết hàng chục tù nhân đang lao động ở các khu vực này. Một số tù nhân đã lợi dụng lúc tình hình nhốn nháo, thoát ra khỏi vòng rào trại giam. Đám tù thân Nhật trong trại cũng bắt đầu trỗi lên phá phách, gây yêu sách.
Đòi hỏi của chúng đã được bọn Nhật đáp ứng bằng một hành động mị dân: trao quyền chúa đảo cho Lê Văn Trà -  nguyên thư ký của Tyssery, đồng thời tiến hành cái gọi là “lễ trao trả độc lập” và biến quần đảo Côn Lôn (tiếng Pháp: Poulo Condore) thành cái gọi là “Quốc gia tự do Nông dân huynh đệ quần đảo Côn Lôn (Etat libre agricole et fratemel d’ Archipel de Poulo Condore)”. Trong buổi lễ, Lê Văn Trà đã không tiếc lời ca ngợi công lao của quân đội Thiên Hoàng và Thống đốc Minoda. Sau đó, Trà đã công bố đạo dụ của Chính phủ Trần Trọng Kim về việc các chính trị phạm kể từ ngày này được Chính phủ Việt Nam trả lại tự do và được coi như mọi người khác trong nước. Nhưng thực chất, chỉ có 150 tù thân Nhật là được đi lại tự do và được phóng thích sau hai tuần. Những người khác, ngay sau buổi mít tinh đã bị xua trở lại, lại vào khám, tiếp tục bị giam giữ như cũ.
Ngay sau khi thoát cũi sổ lồng, bọn tù thân Nhật đã đi ngay vào cuộc trả thù những cai ngục Pháp - Việt. Chúng cũng thừa cơ hội khủng bố, hành hạ một số tù nhân Cộng sản, tù thường phạm dám công khai phản đối chúng. Để ủng hộ tù Cộng sản, Sơn Vương đã đứng ra vận động một số thường phạm, công khai âm mưu của bọn tù thân Nhật, đồng thời vạch mặt tuyên bố nếu đám này có hành động quá khích, họ sẽ đứng ra chống lại.
Giỏi ăn nói và có uy tín, Sơn Vương đã được khá đông thường phạm có lương tri ủng hộ. Do đó, bọn tù thân Nhật cũng chùn tay, không dám đối xử tàn ác với những bạn tù khác. Mũi nhọn khủng bố của chúng dồn hẳn sang hướng đám cai ngục cũ. Một số gác ngục hung hãn hồi trước như Toustou, Lantali, đã bị đánh trọng thương, phải vào nhà thương Côn Đảo điều trị. Sau này, được những người Cộng sản kiên trì thuyết phục, không ít người trong số họ đã ngả sang chủ trương liên minh giữa những người Cộng sản và các lực lượng dân chủ, tiến bộ chống phát xít, bình tĩnh đối phó với các hành động khiêu khích của đám tù thân Nhật đang được chính quyền bù nhìn dung túng.
Thấy uy tín của khối Đại Đông á đang bị rơi rụng dần, bọn Nhật trên đảo và chính quyền Lê Văn Trà bèn tìm cách đối phó bằng cách thực hiện một số cải cách dân chủ. 8 chiếc ghe bầu được gửi từ đất liền ra để rước đám tù thân Nhật thuộc các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa giáo, Phật giáo về. Trên đảo, Trà cho mở lại trường tiểu học và ra tờ báo “Tiếng nói tự do”. Sợ tù Cộng sản sẽ biến tờ báo thành diễn đàn chống phát xít, Lê Văn Trà đã giao cho Sơn Vương phụ trách. Sau khi nhận chức chủ bút, Sơn Vương đã được đi lại khá tự do. Lấy lý do đảo đã được tự do, tù nhân cần và được quyền biết tin tức, Sơn Vương đã thuyết phục được Lê Văn Trà cho tù nhân được sửa lại một chiếc radio hỏng. Dù không muốn, song Lê Văn Trà cũng không thể phản đối.
Dưới sự chỉ huy của Tôn Đức Thắng - người lính thợ nổi tiếng từng kéo cờ phản chiến trên biển Hắc Hải trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất - một tốp thợ tù đã sửa chữa xong chiếc radio, sau đó sửa luôn được một chiếc canô hỏng. Qua sóng radio, tin cách mạng tháng Tám đã thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập đã khiến cả đảo hồ hởi reo mừng. Bọn gác ngục và bọn thân Nhật bắt đầu co vòi lại không dám lộng hành.
Tối ngày 16.9.1945, tàu Phú Quốc và 32 ghe bầu chở theo 10 tấn gạo tiếp tế của Cách mạng đã cặp bến Cỏ ống. Rạng sáng hôm sau, cờ đỏ sao vàng đã phất phới bay rực cầu tàu Côn Đảo. Tham tá Lê Văn Trà nộp con dấu của nhà tù cho chính quyền Cách mạng.
Sau một tuần lễ sửa chữa, đoàn tàu, thuyền lại quay mũi ra khơi. 1.800 chính trị phạm được giải thoát đưa về đất liền. Đến đầu tháng 12 năm 1945, ủy ban hành chính Nam Bộ lại gửi một đoàn ghe ra Côn Đảo rước tù do đồng chí Văn Cừ làm trưởng đoàn. Ngày 11.12.1945, dưới sự chứng kiến của phái đoàn Văn Cừ, Lê Văn Trà đã đứng ra tổ chức một cuộc bầu cử dân chủ trên đảo. 12 người trong đó có sáu giám thị, sáu tù nhân đã được bầu vào bộ máy chính quyền mới. Ngày 15 tháng 12, ủy ban hành chính mới của Côn Đảo chính thức được công bố, Sơn Vương Trương Văn Thoại chính thức trở thành Chủ tịch ủy ban.
ở cương vị mới mẻ này, Sơn Vương tỏ ra là một vị chủ tịch năng nổ và có khả năng lãnh đạo. Ngay sau khi nhậm chức, Sơn Vương đã sốt sắng bắt tay ngay vào việc tổ chức lại sản xuất, từ thu hoạch lúa, đánh bắt hải sản đến khai thác củi, đá, làm vệ sinh... Ông đã đề ra một số biện pháp khuyến khích lao động như chia một phần thành quả cho người làm ra sản phẩm. Mặt khác, việc lao động sản xuất dưới thời Sơn Vương lãnh đạo được coi như bắt buộc, cả các thành viên ủy ban lẫn các công chức, giám thị cũ cũng phải trực tiếp tham gia. Ông cũng tỏ ra kịp thời và chính xác khi xác định những việc cần làm cấp bách, giao đúng người đúng việc, từ tổ chức một tổ y tế vào núi tìm thuốc trị bệnh đến việc xuất toàn bộ vải vụn trong kho giao cho tổ phụ nữ may quần áo cộc cấp tốc để phát cho một số tù nhân thiếu thốn.
Giai đoạn đầu, uy tín của Sơn Vương khá cao. Khi phái đoàn Văn Cừ đón tù về đất liền, ông đã đồng ý ở lại, tiếp tục cùng chính quyền mới khôi phục cuộc sống và trật tự của đảo, dù trong lòng rất nôn nao mong được trở lại đất liền. Ngoài tinh thần trách nhiệm, việc đồng ý ở lại Côn Đảo của Sơn Vương có một phần níu kéo của một lý do khác: tình yêu. Người tạo ra sức hút mãnh liệt ấy là Lệ Hoa, tức Nguyễn Thị Kim Hoa, con gái của Vệ Liễn và là cô học trò nhỏ tại đảo của Sơn Vương từ hơn 10 năm trước.
Khi Sơn Vương bị đày ra Côn Đảo lần thứ 2 (1942), cô bé học trò 9 tuổi ngày xưa đã trở thành một thiếu nữ 18 tuổi, đẹp rực rỡ, được coi như hoa khôi của Côn Đảo. Có học thức, thích thơ ca, đặc biệt là ngâm vịnh Kiều, Lệ Hoa tỏ ra cảm phục tài năng của huyền thoại Sơn Vương. Lúc này Lệ Hoa cũng đang là một cô giáo tiểu học trên đảo. Cô thường bí mật đem những thắc mắc trong sách vở nhờ Sơn Vương giải thích giúp. Là người có chữ, từng đọc nhiều sách chữ Hán, đối với Sơn Vương, Lệ Hoa hội đủ cả tám tiêu chuẩn của một mỹ nhân, với “hoa diện” (mặt tươi như hoa), “nguyệt thần” (thần thái trong sáng như ánh trăng), “điểu thanh ngôn” (tiếng nói trong trẻo như chim hót), “liễu thái” (dáng dấp mềm mại như nhành liễu), “băng tuyết bì” (da trắng như tuyết), “ngọc cốt” (tinh thần kiên định như viên ngọc), “thu thủy tư” (tâm hồn tĩnh lặng như nước hồ thu) và “thi thư tiên” (có học thức, coi trọng chữ nghĩa). Choáng ngợp trước nhan sắc của cô, Sơn Vương cũng tỏ ra rất hào hứng khi được đáp ứng các thắc mắc. Tình thầy trò, chú cháu ngả dần thành tình yêu, dù Sơn Vương hơn Lệ Hoa 13 tuổi. Nhưng vì cuộc đời vẫn phải náu thân sau song sắt, chí lớn còn lưu nơi đảo vắng, Sơn Vương chỉ còn biết thổ lộ lòng mình qua mấy câu thơ nuối tiếc mà ông bí mật nhờ lính gác gửi tận tay ý trung nhân:
Ước gì kéo được thời gian
Cho tôi trẻ lại, cho nàng già hơn
Khi phụ trách tờ Tiếng nói tự do, Sơn Vương lại sáng tác một bài thơ dài có tựa Vịnh Hai Bà Trưng để thổ lộ lòng mình với Lệ Hoa. Sợ chưa đủ cho người đẹp hiểu thấu tâm tình, ông lại bỏ ra cả ngày trời, dùng chiếc bút máy hiệu Kaolo mang từ đất liền ra tỉ mẩn chép bài thơ dài hơn 400 chữ này lên mặt sau của vỏ một bao diêm và gửi cho Lệ Hoa. Quả nhiên, bức thư tình đọc bằng... kính lúp độc đáo ấy đã khiến trái tim cô hoa khôi chao đảo. Vài ngày sau, cô học trò xưa đã trả lời thầy giáo cũ bằng hai hàng chữ nắn nót:
Sa trường chí nhượng tài trai
Phòng xuân trỗi gót dặm ngoài có em.
Tình cảm đã trở nên sâu đậm, nhưng vẫn đang là một người tù, nên Sơn Vương đành nén lại, chờ đợi. Cuối cùng, ông cũng đã tìm được thời điểm. Khi trở thành Chủ tịch ủy ban hành chính Côn Đảo, Sơn Vương lập tức chỉ định ngay Lệ Hoa làm Hội trưởng Hội phụ nữ của đảo. Từ đây, người tù đã có thể công khai trò chuyện với người yêu mà không sợ sự ngăn cấm của ông bố Vệ Liễn - người gác ngục. 
4. Đảo quốc Côn Lôn và những tham vọng phiêu lưu
Công bằng mà nói, trong thời gian nắm quyền lãnh đạo quần đảo Côn Lôn, Sơn Vương đã làm được khá nhiều điều tốt đẹp, góp phần ổn định cuộc sống và giữ gìn an ninh trật tự trên đảo. Nhưng đó chỉ là giai đoạn đầu, khi những người Cộng sản còn có mặt. Ngay sau khi phái đoàn Văn Cừ trở về đất liền, không còn ai kiềm giữ, bản chất lục lâm thảo khấu, anh hùng cá nhân trong con người Sơn Vương mới thật sự bộc lộ.
Đầu tiên, Sơn Vương cho sửa sang lại phần mộ của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh và tổ chức một lễ tế khá rình rang. Trước bàn thờ mới lập, khói hương nghi ngút, Sơn Vương tuyên bố:
- Từ nay, quần đảo Côn Lôn chính thức trở thành “Quốc gia trung lập dân chúng quần đảo An Ninh” (Etat neutre des Insulaire de L’ Archipel d’ An Ninh).
Đồng thời, ông tự xưng là... Quốc vương của “quốc gia” mới lập. Không ít người trên đảo tỏ ý không phục, Sơn Vương tìm cách giải thích bằng cách tung ra luận điệu:
- Tên tôi là Sơn Vương, có nghĩa là “Vương” của đảo Côn Sơn, mệnh ấy do trời định.
Giải thích xong, Sơn Vương tuyên bố:
- Bất cứ ai chống lại mệnh trời, người đó sẽ bị
trừng trị.
Chưa hết, dù các ban bệ trên đảo đều được thành lập bằng con đường bầu cử, nhưng Sơn Vương vẫn cố tình biến nó thành một thứ triều đình. Mỗi một buổi họp, Sơn Vương chễm chệ trên chiếc ghế bành kê ở thềm cao, bá quan văn võ xếp hai hàng ngồi thấp phía dưới. Trước khi muốn báo cáo, mọi người đều phải tiến ra giữa hai hàng người chắp tay trước mặt Sơn Vương và mở đầu bằng câu: “Thưa thủ lãnh..!”.
Sau ngày 15.12.1945, không còn người tù chính trị nào ở lại, cả đảo chỉ còn lại toàn thường phạm cũ, cho nên triều đình phường tuồng của Sơn Vương không bị ai phản đối. Nhưng, đám lưu manh cũng nhân cơ hội đó ngóc đầu dậy, hành hung sách nhiễu dân chúng trên đảo. Cảnh sát trưởng Nguyễn Thành út vốn xuất thân là một tên du thủ du thực, bị kết án 10 năm khổ sai, đã nhiều lần ngang nhiên vào nhà dân giở trò cướp bóc, trêu ghẹo phụ nữ. Biết chuyện, thay vì đưa út ra kỷ luật công minh, Sơn Vương lại có cách xử sự hết sức quái chiêu và đẫm chất giang hồ. Trước văn võ bá quan, ông thẳng tay giáng cho Nguyễn Thành út một tát tai và ném ra lời thách thức:
- Tôi với anh giao đấu tay đôi. Nếu thắng, anh muốn làm gì mặc sức. Nếu thua, tôi sẽ chặt một cánh tay để anh khỏi làm bậy.
Tự lượng sức không thắng nổi Sơn Vương, Nguyễn Thành út đã dập đầu lạy như tế sao, xin Sơn Vương tha tội. Từ đó, nạn cướp bóc, sách nhiễu dân chúng mới lắng xuống.
Trở thành “quốc vương” của quần đảo, Sơn Vương bắt đầu nghĩ đến việc thực hiện giấc mơ của ông:  cưới Lệ Hoa làm vợ. Ông đặt ra một bài vè tự ca ngợi mình, bắt trẻ con trên đảo hát, coi đó như “Quốc ca Côn Lôn quốc”. Trong đó có câu:
Lệ Hoa đệ nhất Côn Lôn quốc
Trương Vạn Năng tứ hải vô song...
Tình thâm của Sơn Vương, con gái người gác ngục không từ chối. Nhưng Vệ Liễn, cha cô thì vẫn khăng khăng cự tuyệt, không chịu gả con gái cho “tên tù kẻ cướp”. Thuyết phục mãi không được, Sơn Vương đành phải lập kế. Ông cho hàng loạt đàn em thảo đơn tố cáo tội ác của giám thị Nguyễn Văn Liễn đối với tù nhân của chế độ trước. Lá đơn tố cáo với hàng chục chữ ký được đệ trình lên cho “quốc vương” yêu cầu minh xét. Nắm cớ, Sơn Vương sai Cảnh sát trưởng Nguyễn Thành út bắt Vệ Liễn tống giam để “điều tra”.
Cha bị bắt, Lệ Hoa hoảng sợ, vào gặp Sơn Vương khóc lóc, năn nỉ xin thay cha chuộc tội. Chỉ đợi đến đó, Sơn Vương liền sai một tay Hội đồng dân biểu là Nguyễn Văn Đây (Hai Đây) vào khám gặp Vệ Liễn. Hai Đây vạch cho viên cựu giám thị rõ:
- Ông chỉ còn một con đường, gả cô Lệ Hoa cho Sơn Vương, nếu không sẽ chết. Nếu gả con gái, ông nghiễm nhiên đã là nhạc phụ của chúa đảo, tất nhiên không ai dám đụng đến ông, mọi tội lỗi xưa coi như xóa sạch.
Vệ Liễn suy nghĩ hồi lâu, sau đó xin được gặp con gái và đem toàn bộ thiệt hơn hỏi ý Lệ Hoa. Dù trong lòng cờ mở trống giong nhưng Lệ Hoa cũng vờ tỏ ra miễn cưỡng khi gật đầu, không quên kèm theo lệ chảy hai hàng. Cô muốn tỏ rõ một sự hy sinh đành nhận lời bán mình chuộc cha cho thật giống Thúy Kiều, dù trong tim cô không còn mơ ước nào lớn hơn là được làm vợ Sơn Vương.
Ngày 28.2.1946, đám cưới của Sơn Vương - Lệ Hoa được tổ chức. Lúc này, trên đảo còn lại 200 bao gạo, một phần ba trong đó đã mục nát. Sơn Vương cho xuất một phần số gạo mục này ra xay bột làm bánh hỏi, bún, bánh bò rễ tre, nấu rượu và cho bắt heo quay làm tiệc đãi khách. Để xứng đáng với địa vị một quốc vương, ông sai người dọn dẹp, quét vôi trang trí lại ngôi nhà của chúa đảo Hilaire để làm tổ ấm hạnh phúc đón dâu. Chiếc xe Jeep của chúa đảo cũng được sơn lại và kết hoa để làm xe rước dâu. Xe hoa chở cô dâu chú rể chạy lòng vòng khắp đảo suốt cả buổi sáng. Trẻ con trên đảo chạy theo la hét inh ỏi. Trên xe, Sơn Vương liên tục vẫy tay chào đám “thần dân”. Đến tận sáng hôm sau, mọi người vẫn tha hồ ăn uống và nhảy múa. Có lẽ, đây là đám cưới lớn nhất có một không hai ở Côn Đảo.
Khi quyết định tổ chức đám cưới linh đình, Sơn Vương đã gặp không ít lời dị nghị và phản đối. Đang say cả men tình lẫn men quyền lực, ông vẫn bất chấp. Ngay sau hôm hôn lễ, có một người là ông già Quýt đã công khai đứng ra chỉ trích Sơn Vương về hai tội: Thứ nhất, lạm dụng quyền hành để ép hôn Lệ Hoa. Thứ hai, tổ chức đám cưới quá thừa mứa và lãng phí, trong khi lương thực, thực phẩm trên đảo đã cạn kiệt. Đang ngây ngất, Sơn Vương đùng đùng nổi giận sai thủ hạ giết chết ông lão. Ngày 26.3.1946, xác ông già Quýt được phát hiện. Dân chúng trên đảo lập tức kéo nhau đến dinh chúa đảo, gào thét đòi truy tìm và trừng trị kẻ thủ ác. Lúc này, Sơn Vương mới bắt đầu nao núng, đành phải hứa tổ chức điều tra.
Do không được tiếp tế, Côn Đảo bắt đầu phải đối diện với nạn đói, thiếu thuốc men, nhu yếu phẩm nghiêm trọng. Bí thế, Sơn Vương vội cử người về đất liền xin viện trợ. Nhưng chờ mãi, đoàn sứ giả vẫn không quay trở lại. Túng quẫn, đám lưu manh lại bắt đầu lộng hành, tha hồ đào tường khoét vách, bắt cóc tống tiền không sao dẹp hết. Nhiều người dân trên đảo không chịu nổi đã liều lĩnh tự đóng ghe, bè trốn về đất liền. Không quản nổi trật tự, Sơn Vương bèn ban lệnh: ai tự ý bỏ trốn sẽ bị nhốt xà lim chín tháng. Vô ích. Số người bỏ trốn vẫn ngày một tăng. Trong khi đó, radio lại phát ra toàn tin xấu: Pháp đã tái chiếm Nam Kỳ, chiến tranh đã quay trở lại... Côn Đảo đã bị cô lập và viễn cảnh bị Pháp tái chiếm đã không còn xa xôi nữa.
Trong tình cảnh rối ren đó, Lệ Hoa tỏ ra sáng suốt hơn cả. Cô khuyên Sơn Vương: nên về đất liền tham gia kháng chiến hơn là ngồi bó tay chờ Pháp đến nộp mình.
Sơn Vương đồng ý. Ông thảo công văn gửi Chủ tịch ủy ban kháng chiến tỉnh Sóc Trăng Dương Kỳ Hiệp ngỏ ý muốn xin về kháng chiến, đồng thời nhờ ông chủ tịch tạo điều kiện cho sứ giả của Sơn Vương gặp phái đoàn Văn Cừ để bàn tính dọn đường về. Đoàn sứ giả gồm: Trần Phẩm - cựu tù nhân, mã tà 88 Đức và hai thành viên khác (một nam, một nữ) trong ủy ban hành chính Côn Đảo. Vào đất liền, hai tuần sau họ mới trở lại nhưng không bắt được liên lạc. Họ cho biết: trong đất liền, chiến tranh đã lan rộng, quân Pháp đã chiếm được nhiều nơi.
Nóng lòng và hoang mang, Sơn Vương tính nước manh động đánh bài... chuồn! Ngày 20.3.1946, ông cho hạ thủy một chiếc thuyền, dự định cùng Lệ Hoa và một số người tin cẩn bỏ trốn. Nhưng do thuyền đóng vội, vừa xuống nước đã bị sóng đẩy vào bờ đá và đánh vỡ tan nên dự định đã bất thành.
Biết không còn đường rút, ngày 25.3.1946, Sơn Vương đã tập trung dân chúng để nghe ông đọc một bài diễn văn xin nhường quyền cai trị lại cho những người Pháp trên đảo. Nhưng, những người Pháp có mặt đã không nhận. Ông lại phái thêm 3 người về đất liền đi sứ, yêu cầu Pháp tiếp tế lương thực cho Côn Lôn, đồng thời xin cho mình một bộ đồ, 1 súng lục, 1 nón nỉ và 1 xe đạp. Giấc mơ “định bá đồ vương” trong tuyệt vọng đã teo lại thành vài món đồ vặt vãnh, song Sơn Vương cũng không được toại nguyện. Thay vì trả lời, quân Pháp đã tống giam 3 sứ giả của Sơn Vương vào bót Catinat và phái tàu chiến ra tái chiếm Côn Đảo.
Ngày 8.4.1946, đại úy Gimbert chỉ huy ba chiến hạm chở 2 đại đội lính hỗn hợp gồm cả Pháp, Âu - Phi và lính bản xứ tiến vào Côn Đảo theo đường Bãi Nhà Thờ. Mờ sáng, nghe đại bác Pháp bắn lên bãi để dọn đường, Sơn Vương đã dẫn toàn bộ “triều đình” chờ sẵn ở bậc thềm trụ sở để nghênh tiếp. Nhưng, ông không còn đủ thời gian để đọc nốt bài diễn văn cuối cùng của đời mình. Theo lệnh của Gimbert, Sơn Vương và toàn bộ tù thường phạm còn lại (gồm 400 người) đã bị tống giam ngay tức khắc. Riêng Lệ Hoa và gia đình cô, Pháp vẫn cho tự do ở trên đảo.
Khi ba chiến hạm Pháp vừa tiến vào Bãi Nhà Thờ, một tên Việt gian là Đinh Công Thành đã bí mật lẻn ra Sở Muối cung cấp tin tức và dẫn đường cho quân Pháp đổ bộ. Sơn Vương bị tống ngục, tên Thành mượn gió bẻ măng, đứng ra tố cáo ông là phần tử nguy hiểm, cần phải canh gác cẩn thận. Vì vậy, Sơn Vương bị quân tái chiếm đối xử hết sức tàn tệ, suýt nữa bị đem ra hành hình tại chỗ. Nhờ có Lệ Hoa và giám thị Toustou đứng ra xin giúp, ông mới tránh được cái chết đã kề gang tấc.
Vào tù, Sơn Vương lại gặp thêm một đại nạn. Bị ông tát tai sỉ nhục dạo trước, tên lưu manh Nguyễn Thành út nung nấu chờ cơ hội trả thù. Hắn đã không ngần ngại bịa ra chuyện Sơn Vương đang giữ bản đồ kho báu của Gia Long giấu lại trên đảo khi chạy trốn quân Tây Sơn năm 1783. Tưởng thật, chúa đảo Gimbert và tên cò Pellier đã tra tấn Sơn Vương hết sức dã man để bắt ông khai nơi giấu bản đồ. Bị đánh đập quá đau, Sơn Vương đành nhận bừa là có kho báu và vẽ lại một tấm bản đồ ma. Vì tội đó, ông lại bị thêm hàng chục trận đòn dã man khác.
Năm 1947, Sơn Vương bị điệu về Sài Gòn để hầu tòa. Với hai tội danh mới là cưỡng hôn Lệ Hoa và giết ông già Quýt, Sơn Vương phải lĩnh thêm một án tù chung thân khổ sai. Sau đó, ông bị đưa ra lại Côn Đảo để thi hành án, trở thành tù nhân mang thẻ số 313C, giam tại hầm số 8, khu biệt lập, lao 2. Vào tù, ông viết thư cho vợ Vệ Liễn, yêu cầu bà thuyết phục chồng về Sài Gòn làm việc để Lệ Hoa có cơ hội tái giá, và quên hẳn mình. 6 tháng sau, Sơn Vương nhận được thư, một số nhu yếu phẩm và 2000 đồng do Lệ Hoa gửi người quen cầm vào. Sau đó, chim trời cá nước, cả hai bặt tin nhau cho đến tận cuối đời.
Sáu năm sau, ngày 8.8.1953, trong một buổi được ra ngoài lao động, Sơn Vương đã bất ngờ chạm trán với Nguyễn Thành út, kẻ đã vu oan giá họa cho ông trong chuyện “kho vàng”. Lúc này, út đã được bọn gác ngục cho làm “cặp rằng” để hành hạ tù nhân. Máu hận thù sôi lên đẩy Sơn Vương xông tới. Nắm chặt cổ áo tên chó săn đã vu oan giá họa cho mình, Sơn Vương bảo:
- Mày là con chó không đáng sống. Nhưng nếu bây giờ tao giết mày, người ta lại bảo là tao trả thù không quân tử. Thôi thì tao cho mày cơ hội cuối cùng, mày với tao quyết đấu. Muốn chơi bằng thứ vũ khí gì, mày hãy chọn đi.
Không còn đường trốn tránh, Sơn Vương vừa quay lưng, Nguyễn Thành út đã vớ ngay một khúc cây, từ phía sau nhắm thẳng đầu ông bổ xuống. Cú đánh lén không đạt mục đích. Chỉ một cú xoay người Sơn Vương đã tước được vũ khí của tên lưu manh mạt hạng. Thuận tay, ông giáng cho hắn một gậy nằm quay đơ. Vốn căm ghét tên “cặp rằng” tàn ác, các tù nhân khác đã không can thiệp để mặc cho Sơn Vương đập nát thây Nguyễn Thành út. Vì tội mới, Sơn Vương lại phải nhận thêm một án chung thân khổ sai nữa. Theo qui định, án chung thân hồi đó được tính là 32 năm. Tổng cộng, đời Sơn Vương đã 4 lần nhận án gồm 1 lần 5 năm, 1 lần 10 năm và hai án chung thân (32 năm). Tính tổng cộng, ông phải nhận mức án những 79 năm tù.
Mãi cho đến năm 1968, sau đúng 34 năm ngồi tù (từ 1933), Sơn Vương mới được ân xá. Trước đó, năm 1967, tờ Tin Sáng và một số tờ báo đối lập ở Sài Gòn đã liên tục đăng bài điều tra về chế độ hà khắc, phát xít của nhà tù Côn Đảo. Cũng trong năm này, liên minh Thiệu - Kỳ đã đắc cử Tổng thống và Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Để mị dân, Thiệu - Kỳ hứa sẽ tìm hiểu và cải thiện điều kiện sinh hoạt ở Côn Đảo. Biết Sơn Vương ngày xưa từng là một nhân vật khá có tiếng tăm, trong khi hiện tại gần 60 tuổi, đã sức tàn lực kiệt, không còn khả năng gây nguy hại cho bộ máy quyền lực Việt Nam Cộng hòa, Thiệu - Kỳ quyết định giải thoát cho Sơn Vương, hòng lấy lòng dân chúng. Ngày 18.11.1968, ông được phóng thích. Thiệu - Kỳ đã điều hẳn một chiếc trực thăng quân đội bay ra đảo đón ông về.
Trở lại đời thường, Sơn Vương được khá nhiều báo chí thời đó săn đón. Thiên phóng sự Sơn Vương - người tù thế kỷ mà ông cho đăng feilleuton trên một số báo chí chỉ khiến dư luận ồn ào được một thời gian ngắn. Chiến tranh đang ngày một khốc liệt, người dân miền Nam còn nhiều chuyện đáng để quan tâm hơn một số phận Sơn Vương.
Bị cuộc đời quên lãng, Sơn Vương lặng lẽ lui về sống ẩn dật ở một ngôi nhà nhỏ trong con hẻm ngoằn ngoèo, nay là nhà số 137/52 Nguyễn Cư Trinh, quận 1, Tp. Hồ Chí Minh. Tại đó, ông mưu sinh bằng nghề bốc thuốc Nam gia truyền. Căn nhà nhỏ có gác gỗ này do bà Phạm Thị Hoa - người vợ gá nghĩa lúc tuổi đã xế bóng - tậu cho ông. Năm 1978, Sơn Vương ly dị bà Hoa, tiếp tục gá nghĩa với Nguyễn Thị Tám, một người đàn bà thua ông 30 tuổi.
Thỉnh thoảng, một vài người khách, thường là các nhà văn, nhà nghiên cứu sử học, những người có quan tâm đến lịch sử nhà tù Côn Đảo có ghé đến ngôi nhà nhỏ thăm hỏi Sơn Vương. Thời gian còn lại, ông sống trong cô độc, không bạn bè, không gia đình và không cả hồi quang quá khứ. Mỗi lúc có khách, ông già Sơn Vương ngày thường sống âm thầm, lặng lẽ lại tỏ ra hoạt bát hẳn. Trong những lúc hồi tưởng lại thời quá vãng, Sơn Vương thường tỏ ý tiếc nuối bởi thời trai trẻ dọc ngang không gặp được cách mạng, không đem được tài năng nhiệt huyết cống hiến cho dân tộc. Ông thường ngửa mặt than:
- Vì máu anh hùng cá nhân, đời tôi vĩnh viễn chỉ còn lại là huyền sử quá gần tội lỗi, không còn dịp để bước vào chính sử như sở nguyện.
Những lúc như vậy, Sơn Vương thường để khách ngồi lại một mình bên bàn trà, chạy xuống bếp, xách lên một con dao yếm. Vén áo, phơi bụng và vận công, Sơn Vương mạnh tay chém dao bình bịch vào bụng, mặc cho khách trợn mắt, tái mặt vì kinh sợ và thầm phục. Sau đó, khẽ vuốt lại những đường lằn nổi đỏ trên khoang bụng, tay giang hồ tóc bạc lại nở một nụ cười buồn và tự huyễn hoặc mình, rằng:
- Bụng vẫn còn cứng!
Năm 1984, Sơn Vương trở lại quê nhà Gò Công và mất tại đó vào năm 1987.
5. Và cha và con và...
Giữa tháng 8 năm 1999, hơn 12 năm sau ngày Sơn Vương mất, bằng những tư liệu về ông thu thập trong nhiều năm, trên báo An ninh thế giới chúng tôi đã cho đăng một loạt tư liệu nhiều kỳ có tựa là: Quái kiệt Sơn Vương và 32 năm ngồi tù khổ sai Côn Đảo. Chưa thật đầy đủ, song loạt bài cũng đã cung cấp cho người đọc được những nét chính về một nhân vật giang hồ kỳ lạ và khá độc đáo, một hình ảnh mang đậm cá tính phóng khoáng, kiên cường của người Nam Bộ những thập niên đầu của thế kỷ XX. ít nhiều, loạt bài viết cũng có được khá đông đảo bạn đọc đón nhận với thái độ quan tâm thú vị. Một số bạn đọc sau đó còn nhiệt tình giúp chúng tôi tìm thêm tư liệu hình ảnh về nhân vật, hòng hoàn thiện thêm bức chân dung độc đáo và khá lãng mạn của một tay giang hồ quái kiệt.
Một tháng sau ngày loạt bài ra số đầu tiên, tại một căn nhà khang trang trên đường Tân Kỳ Tân Quý, quận Tân Bình, chúng tôi đã may mắn được tiếp xúc và trò chuyện với một bạn đọc hết sức đặc biệt và bất ngờ. Đó là một bà cụ chừng 70 tuổi, dáng vẻ khá lịch lãm, tự tin - phong cách thường gặp ở những tao nhân mặc khách. Trên khuôn mặt của cụ, tuổi tác vẫn chưa xóa hết được dấu vết của một người đàn bà có nhan sắc mặn mà, khi còn trẻ có thể được xem là mỏng mày hay hạt. Rót nước mời chúng tôi, bà cụ tự giới thiệu về mình:
- Tôi là Trương Ngọc Nữ, con gái của nhà văn Sơn Vương Trương Văn Thoại. Tôi vừa về từ Canada được đúng một ngày.
Lời giới thiệu khiến tôi giật mình. Quả thật, người đàn bà ngồi trước mặt tôi giống Sơn Vương như đúc. Cũng khuôn mặt nhỏ, thanh tú, cũng sống mũi cao, vầng trán rộng và đặc biệt là cái miệng với đôi môi luôn mím chặt... So với ảnh Sơn Vương lúc về già, bà Nữ không khác chút nào. Không thể nghi ngờ, song tôi hết sức phân vân, bởi trong quá trình tìm tư liệu về ông kéo dài suốt nhiều năm, tôi chỉ biết chắc một điều là Sơn Vương có khá nhiều vợ nhưng chưa bao giờ nghe ai nhắc đến chuyện tay lãng tử bạc đầu này có một người con. Mối băn khoăn vừa thoáng hiện ra đã lập tức được xua tan bởi dòng hồi ức tuôn như suối của bà Trương Ngọc Nữ...
Khoảng giữa năm 1930, khi vị Đại sư ẩn danh ở núi Ông Trịnh bắt đầu lâm trọng bệnh thì việc học võ và học đạo của Sơn Vương bắt đầu bị gián đoạn. Anh thường hay rời núi về Sài Gòn tìm thuốc cho thầy, sau đó tìm nơi ở trọ để tĩnh tâm bắt đầu theo đòi món nợ văn chương. Chỗ trọ đầu tiên của gã lãng tử là một xóm nhỏ ở xã Nhị Thành, huyện Hóc Môn. Tại đó, Sơn Vương đã trót phải lòng một cô hàng xén. Buổi sáng, cứ đúng giờ Sơn Vương dậy chạy thể dục, luyện công thì đầu xóm, cô thôn nữ cũng dậy sớm để dọn hàng. Thói quen giờ giấc đã xui họ gặp gỡ, phải lòng nhau và lén lút ăn ở với nhau. Trót đa mang một kiếp giang hồ rày đây mai đó, Sơn Vương không lưu lại lâu dài nơi xóm vắng. Ngày rời đi, Sơn Vương không hề chia tay với người yêu, cũng chẳng có lấy một lời thề hẹn hay nhắn nhủ. Thói mai quán chiều lều đã khiến Sơn Vương không hề biết rằng có một giọt máu của anh đang hoài thai trong lòng cô thôn nữ. Khi cô hàng xén trở dạ sinh được một bé gái kháu khỉnh thì Sơn Vương đã bặt tăm cá nước chim trời, không một lần lai hồ cố thổ. Một mình Sơn Vương vô tình nhưng cô thôn nữ thì không. Dù gã người tình không hề quay trở lại, cô vẫn lấy họ của anh để đặt cho con gái cái tên Trương Ngọc Nữ.
Ngọc Nữ càng lớn càng xinh đẹp, giống cha như đúc, được ăn học tử tế đàng hoàng. Sau này, qua lời mẹ kể, cô biết mình có một người cha phiêu bạt từ lâu nhưng hiện ở phương nào thì cô chịu chết. Ngoại trừ cái tên Trương Văn Thoại, cô không biết gì thêm về cha đẻ của mình.
Năm 17 tuổi, Ngọc Nữ bỏ nhà vào bưng theo kháng chiến. Nhờ có học thức, cô nhanh chóng trở thành thư ký của ủy ban Hành chính kháng chiến Nam Bộ, sau đó trở thành thư ký riêng của trung tướng độc nhãn Nguyễn Bình. Thời gian đầu, cô gái trẻ gọi vị tướng bằng chú, không hay biết chú Bình chính là người em kết nghĩa Nguyễn Phương Thảo thời trai trẻ của cha mình. Tướng Nguyễn Bình cũng không mảy may nghĩ đến việc cô thư ký trẻ trung xinh đẹp cạnh mình lại chính là giọt máu rơi của người anh kết nghĩa Sơn Vương. Thời kháng chiến, việc nước ngập đầu, không phải lúc nào người ta cũng có thời gian để nhận ra một mối duyên riêng tư kỳ ngộ, dù nó vẫn tồn tại ngay bên cạnh. Trong những lúc trò chuyện hiếm hoi, cả hai chú cháu cũng chưa bao giờ nhắc đến Sơn Vương.
Có thể coi cô gái Trương Ngọc Nữ là một hình mẫu của típ sinh viên học sinh Sài Gòn xếp bút nghiên theo kháng chiến, đến với cuộc đấu tranh của cả dân tộc bằng cả bầu nhiệt huyết lẫn sự ngây thơ lãng mạn. Sự khắc nghiệt của chiến tranh không hề làm giảm mà ngày một tăng sự kính phục hóa thành ngưỡng mộ trong lòng cô đối với Nguyễn Bình - vị tướng oai hùng và cũng rất hào hoa. Vì thế, trước những lời ngỏ ý gần xa của các anh Vệ quốc đoàn, cán bộ kháng chiến cùng cơ quan hay những người vì công tác thường có dịp ghé ngang khu bộ, cô gái trẻ vẫn không hề lay động. Tất cả tâm trí, tình cảm, cô dành hết để nghĩ về một người, không ai khác chính là vị tướng lớn hơn cô 15 tuổi. Dĩ nhiên, tướng Nguyễn Bình không khó gì mà không nhận ra tấm ân tình mà cô gái trẻ dành trọn cho ông. Trong thâm tâm, vị tướng cũng hết mực cảm mến, thường tỏ ra đặc biệt quan tâm chăm sóc cô nhân viên xinh đẹp. Không biết từ bao giờ, từ chú cháu, hai người đã đổi sang gọi anh, em trìu mến. Nhưng tất cả chỉ dừng lại ở mức độ đó, bởi tướng Nguyễn Bình lúc đó đã có gia đình.
Mối tình câm của cô học sinh thành thị bỏ nhà theo kháng chiến đang vào hồi vô vọng thì Ngọc Nữ nhận được hung tin: tướng Nguyễn Bình hy sinh khi trên đường ra Bắc công tác. Thương nhớ đã khiến lòng cô hóa đá. Từ đó, cô bỏ ngoài tai tất cả mọi lời ong bướm của không biết bao nhiều chàng trai ngưỡng mộ, chỉ khư khư giữ trong lòng mình một hình bóng Nguyễn Bình mà không hề thổ lộ cùng ai. Thỉnh thoảng, để nguôi ngoai thương nhớ, cô lại len lén bày ra một trò mê tín: cầu cơ. Cô tin rằng đó là cách duy nhất để cô có thể tự do được trò chuyện, thổ lộ tâm tình với vị tướng đã khuất mà cô hằng yêu trộm nhớ thầm. Nhiều năm trôi qua, gia tài quí nhất mà cô giữ khư khư - đến tận ngày nay - là cuốn sổ dày chép lại hàng trăm bài thơ - “biên bản” những lần trò chuyện bằng cách cầu cơ giữa cô với linh hồn đã khuất của tướng Nguyễn Bình. Không nói thì ai cũng biết, trong những bài thơ ấy, cô cứ mãi là một Trương Ngọc Nữ vĩnh viễn 17 tuổi.
Năm 1964, khi tuổi thanh xuân đã sắp trôi qua hết, cô mới chịu lập gia đình. Chồng sắp cưới của cô là một kỹ sư hàng không dân dụng làm việc tại phi trường Tân Sơn Nhất. Ngày cưới sắp đến thì báo chí Sài Gòn đua nhau đăng tin: Tội nhân chung thân cấm cố khổ sai Trương Văn Thoại, tức nhà văn kiêm tướng cướp Sơn Vương lừng lẫy một thời sẽ được đưa về Sài Gòn để làm nhân chứng cho một phiên tòa. Đến lúc này, người mẹ của Ngọc Nữ mới cho cô hay Sơn Vương chính là cha đẻ của cô. Chưa kịp mừng vì biết tin cha còn sống, lại biết thêm rằng ông từng là một nhà văn, Trương Ngọc Nữ đã cảm thấy choáng váng và xấu hổ khi phải nhìn nhận mình có một người cha là tên cướp lừng danh. Nhưng tình máu mủ thiêng liêng đã trở thành sự thôi thúc mãnh liệt và không thể cưỡng. Nhờ sự tháo vát của người chồng chưa cưới, Ngọc Nữ đã xin vào được tận buồng giam để lần đầu tiên được biết mặt cha. Tất cả chỉ hai lần gặp mặt, mỗi lần 30 phút. Nước mắt mừng tủi của cuộc hạnh ngộ trùng phùng không san bằng hết được khoảng cách giữa hai cha con. Trừ những người trong nhà, Ngọc Nữ không hề kể cho ai nghe về cuộc gặp gỡ. Trong nhà tù, dù rất muốn, họ vẫn không hề gọi nhau bằng hai tiếng cha, con, chỉ gọi nhau bằng chú, cháu. Sơn Vương xấu hổ không dám xưng cha bởi với con gái ông không hề có ơn dưỡng dục. Ngọc Nữ thì cố chấp không chịu thừa nhận một tướng cướp là cha.
Tình trạng dùng dằng này tiếp tục tái diễn khi Sơn Vương được trả tự do vào năm 1968. Ra tù, Sơn Vương không về sống chung với vợ con mà tiếp tục số phận ăn quán ngủ đình. Vợ cũ của ông, mẹ của Ngọc Nữ đã mất, giữa hai cha con mối ràng buộc máu mủ cũng không làm mặn nồng hơn những tình cảm trước ngày gặp mặt nhau. Đôi lúc, có viếng thăm hay vô tình gặp gỡ, hai cha con vẫn cương quyết giữ cách xưng hô chú, cháu. Sơn Vương thỉnh thoảng cũng có viết cho con gái mấy dòng thư, chủ yếu để giải thích chuyện này chuyện nọ hoặc bày tỏ sự nuối tiếc với con gái. Cũng có khi ông gửi cho con gái một vài bức ảnh của mình nhưng lời đề tặng ở mặt sau lại cố tình ghi chệch đi là “Tặng cháu Ngọc Nữ, theo yêu cầu của cháu” hoặc một lý do gì đó tương tự, cố xóa đi mọi vết tích có thể gúp nhận diện mối quan hệ cha con. Hầu như Ngọc Nữ chẳng bao giờ trả lời thư ông. Nhưng không hiểu sao, tất cả mọi lá thư ấy cô đều cất giữ rất kỹ càng. Có lẽ, dù có bộc lộ hay không thì tình cha con cũng là điều có thật và không thể chối bỏ.
Sau năm 1975, bà Trương Ngọc Nữ theo chồng sang định cư tại Toronto (Canada). Mối liên hệ giữa hai cha con xa cách dần dần. Thậm chí khi Sơn Vương mất cũng phải nhiều tháng sau bà mới biết tin...
Tại Canada, gia đình bà Trương Ngọc Nữ sống tương đối bình lặng nhưng thành đạt. ít nhiều một chút máu văn chương và nghiệp cầm bút của Sơn Vương vẫn còn được lưu truyền trong những hậu duệ của ông đang sinh sôi nảy nở ở xứ người. Một cô con gái bà Ngọc Nữ, tức cháu ngoại Sơn Vương hiện đang là chủ bút của tờ Sài Gòn Toronto, một tờ báo tiếng Việt xuất bản tại Canada. Chính vì mối quan tâm đối với lĩnh vực thông tin báo chí nên dù ở cách xa nửa vòng trái đất, gia đình bà Ngọc Nữ vẫn thường xuyên tiếp xúc được với không ít sách báo từ trong nước gửi sang. Nhờ đó, loạt bài viết của chúng tôi về quái kiệt Sơn Vương đã có dịp khuấy động một chuỗi hồi ức buồn trong tâm hồn họ. Theo lời của bà Trương Ngọc Nữ thì phải đến tận lúc đọc loạt bài viết của chúng tôi, bà mới hiểu rõ được thân thế của người cha đã khuất. Lần đầu tiên bà nhận ra rằng không chỉ là một tướng cướp mà danh xưng chỉ gợi lên một khái niệm tội lỗi hay một sự băng hoại về mặt nhân cách, người cha Sơn Vương của bà còn là một tay hảo hán thực thụ, coi thường và căm giận bạo lực áp bức, đầy lòng nhân ái với người nghèo. Những vụ cướp kinh thiên động địa của ông không phải chỉ để mưu cầu cho riêng bản thân một cuộc sống xa hoa mà hướng nhiều tới mục đích cứu giúp người khốn khó và trừng trị những kẻ nợ máu, làm giàu trên sự bần cùng và xương máu của nhân dân. Quan niệm, việc làm vị nghĩa của Sơn Vương có thể sai lầm về cách thức song rất đáng được trân trọng. Cũng chính vì những việc làm ấy nên ông mới phải giam thân hơn 30 năm trời phía sau song sắt nhà tù, cho nên mới không thể nuôi dạy con cho tròn đạo làm cha, kể cũng không thể trách. Hơn thế nữa, với một người cha như Sơn Vương, bà Ngọc Nữ tự thấy mình còn có thể tự hào, bởi người cha của bà đã ít nhiều dự phần vào lịch sử, hay nói đúng hơn, đã trở thành nhân chứng của một thời... Chưa hết, Sơn Vương còn là anh kết nghĩa của tướng Nguyễn Bình - người đàn ông mà hình bóng đã khắc sâu vào đáy trái tim bà. Chỉ riêng điều đó thôi, với bà Ngọc Nữ cũng đã là tất cả.
Đáng tiếc, hiểu ra thì đã muộn. Người cha mà trong đời bà chưa một lần được gọi tiếng cha đã hóa người thiên cổ, tất cả còn lại chỉ là những giọt nước mắt tiếc nuối.
Không chịu đựng được nỗi dày vò, ngay sau khi đọc xong loạt bài trên báo, bà Ngọc Nữ đã vội bay ngay về Việt Nam để tìm gặp cho bằng được chúng tôi. Qua một người cháu họ - chị Hạnh, nhân viên tín dụng của Ngân hàng Vietcombank - bà Ngọc Nữ đã nhất quyết mời cho bằng được tác giả bài báo tới nhà để bà có thể nói một tiếng cảm ơn, đồng thời để được chia sẻ niềm hạnh phúc được thừa nhận có cha, cho dù hạnh phúc ấy đến với bà đã quá muộn màng.
Dĩ nhiên, là một người cầm bút, không ai có thể thờ ơ với số phận nhân vật của mình. Tôi đã thật sự cảm thấy hạnh phúc khi được trao lại cho bà Ngọc Nữ toàn bộ những hiểu biết, hình ảnh... về Sơn Vương mà tôi đã thu thập được. Không ai xứng đáng giữ những kỉ niệm về một người cha hơn chính một người con. Với tôi, được làm dấu gạch nối cho cuộc chuyển giao đầy ý nghĩa này thật sự là một duyên hạnh ngộ vượt ngoài mong đợi của nghề cầm bút.
Bà Ngọc Nữ cũng không giấu được nỗi xúc động và những giọt nước mắt lăn dài. Lần giở cuốn sổ tay ố vàng chép đầy cả trăm bài thơ, những lần trò chuyện  trong tâm tưởng với vong linh tướng Nguyễn Bình, bà khoe với tôi cả một xấp hình ảnh, thư từ của Sơn Vương mà bà vẫn kẹp ở giữa, được cất giữ cẩn thận suốt mấy chục năm qua. Giữa bề bộn những trang giấy cũ đã đổi màu ấy, tôi nhìn thấy còn có những bản sao giấy chứng minh nhân dân, vài trang bản thảo, một số hình ảnh giấy tờ của Sơn Vương, dăm ba trang báo mà ông là tác giả được cắt rời, thậm chí còn có cả một bản sao tờ phán quyết ly hôn của ông với người vợ thứ ba nữa. Bất cứ thứ gì có liên quan đến người cha, bà Ngọc Nữ đều cóp nhặt, gìn giữ lại như những kỷ vật. Những trang giấy cũ kia với bà là cả một gia tài. Run run lần giở từng mảnh nhỏ, bà khóc.
Theo hiểu biết của tôi, đến tận lúc chết, hiện hữu trên khuôn mặt Sơn Vương vẫn là một ánh nhìn với bờ môi mím chặt đầy khinh bạc. Tin chắc rằng giờ đây, dưới suối vàng, bờ môi ấy sẽ nhoẻn thêm một nụ cười thật hiền lành, thật ấm áp - nụ cười của một người cha khi được nhận mặt con.
2/ LÝ LONG THÂN
Mãi đến sau này, khi đã là một “hoàng đế không ngai” ngự trị cùng lúc trên nhiều “vương quốc” như dệt may, sắt thép, máy nông ngư cụ... Lý Long Thân vẫn là một kẻ có lai lịch bí ẩn đối với mọi người. Ngay bạn bè thân cũng chẳng biết gì về Lý, chỉ nhìn thấy ông ta như một mẫu người tha hương thành đạt, giàu có và đầy quyền lực, có thể khuynh đảo cả một phần nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa. Hơn thế nữa, là một trùm mafia của miền Nam trước ngày giải phóng...
1. Những cuộc “đảo chính từng phần” của gã làm thuê
Hồ sơ của cảnh sát ngụy lập nhiều lần về Lý cũng chỉ sơ sài một vài thông tin cơ bản nhất. Theo đó, Lý Long Thân sinh ngày 27.8.1918, tại Amoy, Phúc Kiến, Trung Quốc. Cha mẹ của Lý, ông Lý Ngọc và bà Trương Thị đều là những nông dân nghèo khó. Đông con nhưng ít ruộng, chật vật lắm ông bà Lý Ngọc mới nuôi nổi anh em Lý bằng cháo kê, xá bấu (củ cải muối)... Tuổi thơ luôn thèm chỉ một bữa no đã đốt lên trong lòng Lý Long Thân khát vọng về một sự đổi đời.
Năm 1938, Lý Long Thân tròn 20 tuổi. Nghe lời bạn bè rủ rê, anh quyết định bỏ xứ đi tha hương lập nghiệp. Thu hết can đảm, Lý nhờ mẹ dẫn đến nhà người chú họ - một tay phú nông trong làng để vay mượn ít tiền làm lộ phí. Thay vì móc hầu bao, người chú họ lại móc ruột móc gan mẹ con gã bằng những câu sỉ nhục:
- Đồ thối thây, ngữ mày thì đi được đến đâu mà học đòi bỏ xứ? Sức dài vai rộng thì làm gì mà phải đói. Về đi! Đừng bước vào đây mà bẩn nhà tao. Nhìn thử xuống chân xem có đi nổi đến đâu không?
Mặt đỏ đến tận mang tai, máu chảy giần giật hoa cả mắt, nhưng Lý vẫn bất giác đưa mắt nhìn xuống. Trong đôi giầy cỏ đã rách nát, những ngón chân đen đúa, móng vàng ệch vì lội bùn đang thò ra ngọ nguậy.
Không thể chịu đựng nổi, Lý kéo mẹ trở về, đi mà như chạy, vấp ngã, xiêu vẹo trên con đường mấp mô mù bụi...
Tối hôm đó, Lý thức trắng đêm. Dưới ánh trăng vằng vặc, gã xoè rộng hai tay, ngó trân trân vào những đường rãnh chạy dọc ngang trên đó, đè cả lên những vết chai sần thô ráp, tự hỏi không biết đời mình rồi sẽ đổ về đâu.
Về đâu thì mặc, nhưng dứt khoát gã phải ra đi. Đằng nào cũng chết, làm trai gã không muốn đời mình chết rũ ở xó quê heo hắt này.
Không tiền, Lý và A Chảy - một người bạn cùng xứ - vừa đi vừa làm thuê, đến giữa năm ấy, cả hai đã có mặt ở cảng Hải Phòng.
Nhưng Hải Phòng không phải là miền đất hứa cho những kẻ tha hương. Mang tiếng là một hải cảng quan trọng, nhịp thở kinh tế của nó vẫn lèo tèo, buôn bán không phát triển. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, nước Pháp - vừa ra khỏi chiến tranh đế quốc chưa lâu - bị tàn phá nặng nề và trở nên kiệt quệ. Vì vậy chính sách của Pháp đối với xứ Đông Dương thuộc địa là tận thu. Than, thiếc, gạo, muối... và nhiều thứ hàng hoá, khoáng sản khác của xứ Việt Nam nghèo nàn cứ nối nhau tuôn xuống Hải Phòng rồi chảy vào giữa những khoang tàu thuỷ đang toang hoác miệng chờ; sau đó được chở về chính quốc mà không hề có một thứ gì hồi âm hay gọi là trao đổi trở lại. Xứ Bắc Kỳ quá nghèo, cuộc sống của người dân chỉ gồm những nhu cầu tối thiểu, đã bị cắt bỏ gần hết, thành thử hàng nhập về cảng hầu như biệt bóng. Nhìn toàn cảnh, Hải Phòng giống như một trạm tiếp hàng cho nước mẹ đại Pháp - khá tham lam và keo kiệt - hơn là thành phố cảng - một cửa ngõ thông thương buôn bán. Nhà máy, công xưởng, rồi bến bãi hầu như không được đầu tư gì mấy, phô ra giữa nắng mưa một vẻ còi cọc, tiều tụỵ. Giả sử không có dòng người Trung Hoa cầu thực inh ỏi gọi tìm nhau trên bến; không có đám du thủ du thực đánh chửi nhau ngoài cảng và không có những gã nhà quê ngờ nghệch bị nẫng mất tay nải đang kêu khóc váng lên phía cầu tàu thì trông Hải Phòng chẳng khác gì một công trường thủ công của châu Âu thế kỷ XVII, XVIII bị bỏ quên  cho đến tận bây giờ. Có điều, châu Âu thì Lý và A Chảy chưa đến, chưa nghe bao giờ, kể cả trong mơ, thế kỷ XVII, XVIII họ cũng chưa từng sống, cho nên những sự so sánh ấy cả hai đều mù tịt. Lý chỉ thấy cái hải cảng xa xôi ở phương Nam cũng chẳng khá gì hơn xứ Amoy của cậu, nghĩa là cũng nghèo khó, lam lũ, không một tí hứa hẹn gì sáng sủa hơn.
Khó khăn lắm hai kẻ tha hương mới lách qua được dòng người chen chúc vội vã, loằng ngoằng những bu gà, rọ lợn, và vô số những bị, những làn để vọt lên đến bờ. Và đứng nhìn nhau. Cái ngỡ ngàng của phút đầu tiên đặt chân lên đất khách quê người không đủ mạnh để xua đi nét lo âu hằn lên trên khuôn mặt họ. Ngó chiếc ống khói phía xa xa đang tuôn lên vòm trời đầy bụi những cụm khói u ám và buồn bã, cả hai cùng khẽ thở dài. Rồi cuộc đời họ cũng như những cụm khói kia thôi, tha hồ cho gió đẩy đưa, lang thang vô định, không biết bao giờ mới được lai hồi cố thổ.
- Mày tính sao, Lý?
Nghe A Chảy hỏi Lý mới sực tỉnh. Gã gãi mái đầu bờm xờm:
- Tao cũng không biết. Nhưng mà về thì không được, hết tiền rồi.
Vừa nói, Lý vừa lần cạp quần. Đếm đi đếm lại bao nhiêu lần, số tiền vẫn là 17 xu, chẳng hơn. Mặt A Chảy thượt ra. Lý cười:
- Kệ! Cứ lên phố rồi tính.
Nhưng A Chảy không muốn tính toán gì thêm. Quá chán nản với bước kiếm tìm vô định, A Chảy quyết định ở lại phụ bán mì với một người quen tình cờ gặp lại khi cả hai lang thang trên phố. Anh ta không muốn kéo dài thêm những hy vọng hão huyền về miền đất hứa, chưa chắc đã có gì tốt đẹp hơn. Còn Lý, nhìn phố cảng chật hẹp và đầy bụi, lại quá đông Hoa kiều tha phương, gã thở dài, lắc đầu. Lại lén trốn xuống tàu, lại làm thuê, Lý lần mò vào được Sài Gòn.
Số phận bắt đầu mỉm cười với Lý Long Thân khi anh ta tìm được bang hội Phúc Kiến ở Chợ Lớn. Cùng kiếp bỏ xứ ra đi, những người Hoa Phúc Kiến đã chia sẻ và cưu mang Lý. Mắt to, sáng, trán rộng, mặt dài, ăn nói lễ phép dù rất thẳng tính, Lý Long Thân lọt vào cặp mắt ưu ái của Bang trưởng Phúc Kiến. Ông bèn bảo lãnh cho Lý được làm công trong hiệu kim hoàn Kim Thành nổi tiếng. Lý tỏ ra rất chăm chỉ, cẩn thận và sáng dạ nên được cả chủ tiệm, người làm công và khách hàng quí mến. Không ai biết, phía sau nụ cười cầu thân với tất cả mọi người là một toan tính mưu mô, đầy thủ đoạn.
Khách đến hiệu vàng Kim Thành toàn là những ông Đốc, bà Tham, những nhà buôn lớn, các tay được bạc... lắm tiền nhiều của, chi tiêu rất hào phóng. Cười rất tươi, Lý Long Thân nhã nhặn cảm ơn và từ chối những món tiền pour-boire lẻ tẻ, nhưng lại đưa ra những gợi ý hấp dẫn về mẫu mã nữ trang, lại sốt sắng chỉ mối, giúp đổi tiền cho khách, để sau đó ăn chặn được một khoản khá hơn nhiều.
Dần dà, Lý trở nên lọc lõi, trở thành một tay môi giới trong việc mua bán vàng và đổi tiền. Nhờ đó, y giàu lên rất nhanh. Khi chủ tiệm Kim Thành nhận ra điều đó thì đã muộn. Ông ta không thể đuổi việc Lý Long Thân vì trong số vốn liếng của hiệu vàng đã có một phần là của Lý hùn, hơn nữa anh ta lại là người nắm các đầu mối hàng quan trọng. Nghiễm nhiên, Lý Long Thân trở thành một đại lý kiêm nhà môi giới của hiệu Kim Thành, ăn hoa hồng.
Vốn thông minh và nhạy bén, Lý nắm bắt kịp thời các thời điểm lên xuống của giá vàng và nhanh chóng bung vốn của Kim Thành ra mua bán. Lời y ăn, lỗ (rất ít khi lỗ) hiệu Kim Thành chịu. Sau năm năm, số vốn của Lý Long Thân cứ không ngừng phình lên. Y trở thành một trong những người có phần hùn lớn nhất của thương hiệu kim hoàn uy tín nhất Đông Dương, từ Sài Gòn - Hà Nội - Viên Chăn đến Nam Vang, với nhãn hiệu in hình quả núi. Đó là cuộc “đảo chính” lần thứ nhất của Lý Long Thân, đưa y từ thân phận một kẻ làm thuê lên hàng ông chủ lớn.
Khi số vốn đã lên đến bạc triệu, Lý bỏ Kim Thành, đứng ra lập Công ty môi giới địa ốc TONG YUAN. Sự quen biết rộng rãi và kinh nghiệm môi giới lúc còn làm cho Kim Thành đã giúp Lý tiến rất nhanh trong nghề mới, thu về bạc vạn mỗi tháng. Từ năm 1943, tiền kiếm được trong nghề môi giới, Lý đem hết vào mua cổ phần của công ty SAVICO - Địa ốc Thương cuộc. Đến năm 1945, cuộc “đảo chính từng phần lần hai” của Lý kết thúc với thắng lợi giòn giã. Với phần hùn chiếm đa số trong vốn pháp định bốn triệu đồng của SAVICO, Lý được bầu làm giám đốc công ty. Ngay lập tức, Lý cho mở rộng thêm mấy chữ “Xuất nhập khẩu” vào sau chức năng “Địa ốc Thương cuộc” của SAVICO, nhằm triệt để khai thác các nguồn lợi kinh tế đang tiềm ẩn trong mối quan hệ dân tộc giữa Hoa kiều Chợ Lớn với Đài Loan, Hồng Công và Đại Lục mà Lý Long Thân là một mắt xích.
Kinh doanh đúng hướng, nhanh nhạy và đầy ắp thủ đoạn, Lý Long Thân giàu lên vùn vụt, trở thành một nhân vật quyền lực trong cộng đồng người Hoa. Y cũng lột xác, vứt toẹt bộ mặt đạo đức siêng năng của một anh chàng làm công ngày nào, phơi bày bản chất độc đoán, tàn nhẫn của một kẻ kinh doanh đầy tham vọng và coi tiền trên hết.
Tháng 12.1947, một nhân viên SAVICO do sơ sót đã làm không đúng ý Lý Long Thân. Nổi giận, Lý đã xông vào đánh người nhân viên này gãy tay. Chưa hả giận, y còn đập cả vỏ chai rượu vào mặt anh ta, gây thương tích nặng. Kết quả: anh nhân viên xấu số phải đi cấp cứu và tàn phế suốt đời. Còn Lý, ngày 30.12.1947 phải ra hầu Toà tiểu hình. Nhờ vung tiền lo lót, Lý Long Thân mới thoát ngồi tù, nhưng bị phạt 500 quan về tội “vô ý gây thương tích”!
Có tiền, Lý Long Thân cũng bắt đầu nổi danh như một tay ăn chơi khét tiếng. Cứ chiều thứ bảy, y lại diện comple trắng, nón nỉ Boosalino đội lệch một bên leo lên một chiếc Peugeot Traction bên cạnh có ba vệ sĩ người Phúc Kiến đi mô tô hộ tống đến nhà hàng Đại La Thiên, sòng bạc Đại Thế Giới ăn chơi đập phá. Nhiều lần cao hứng, ngay trên sàn nhảy, y đã đứng lên tuyên bố “đãi rượu tất cả mọi người”. Tại Đại Thế Giới, Lý Long Thân kết thân với nhiều nhân vật có tên tuổi trong các bang hội Hoa kiều Chợ Lớn như Trương Duy Nhạc, cha con Điển Nam, Nghiệp Sô... Cũng tại đây, Lý Long Thân dần dà làm quen với nhiều vị tai to mặt lớn trong chính quyền, quân đội, trong đó có tướng Bình Xuyên đầu Tây Lê Văn Viễn (Bảy Viễn) cùng hai tên quân sư Lại Hữu Sang và Lại Hữu Tài. Biết thực lực Bảy Viễn còn mạnh, Lý ra sức chiều chuộng lấy lòng “cọp rừng Sác”. Cuối năm 1954, y đã ném ra cửa sổ một lúc 4 triệu đồng để tổ chức một buổi “nhất dạ đế vương” khao Bảy Viễn và một số kẻ chức quyền khác. Tại nhà hàng Đại La Thiên, Lý Long Thân còn độc quyền bao riêng một cô gái nhảy nổi tiếng là Lý Bing Bing - người được coi là Hoa hậu Phúc Kiến của Chợ Lớn. Ngay trong đêm “nhất dạ đế vương”, biết Bảy Viễn thích Bing Bing, Lý Long Thân đã ép cô gái phải ngã vào tay Bảy Viễn. Không dám từ chối “ông trùm” đồng hương và ông “cọp rừng Sác”, cô Hoa hậu đành phải vâng lời. Sáng hôm sau, Lý Long Thân gọi Lý Bing Bing đến, không thèm nhìn mệnh giá, ký ngay một tờ ngân phiếu thưởng cho cô gái. Đám thuộc hạ của cả Lý Long Thân lẫn Bảy Viễn đều trợn mắt vì cử chỉ coi tiền như rác này. Họ biết, mệnh giá nhỏ nhất trong tập ngân phiếu mà Lý mang theo cũng lên đến 50.000 đồng.
Với “đòn độc” này, Lý đã nắm hoàn toàn Bảy Viễn, tô phết thêm cho mình chút oai vệ quyền thế để cạnh tranh trên thương trường, được bảo chứng bằng những họng súng của đám hàng quân Bình Xuyên đầy chất lục lâm thảo khấu.
2. Nâng uy tín trên thương trường nhờ dao súng
Số tiền “khổng lồ” mà Lý Long Thân ném ra chi cho Bảy Viễn và thủ hạ thực ra không thấm vào đâu so với những nguồn lợi vô kể mà y thu được nhờ uy thế của viên tướng Bình Xuyên vốn dĩ võ biền. Về đầu Tây được ít lâu, Bảy Viễn được Pháp giao bảo vệ an ninh tuyến đường Sài Gòn - Vũng Tàu. Ngay lập tức, Lý Long Thân vạch ra một chương trình đồ sộ nhằm khai thác kinh tế trình cho Bảy Viễn: lập hãng xe đò Nghĩa Hiệp độc quyền vận tải tuyến Sài Gòn - Vũng Tàu; xây dựng một loạt nhà hàng khách sạn ở thành phố biển... Thấy lợi, Bảy Viễn cũng tham nhưng y ngần ngừ vì không có vốn. Nghe “cọp rừng Sác” giải bày, Lý Long Thân mỉm cười, bảo:
- Khởi đầu bằng 500 lượng, Thiếu tướng thấy sao?
Bảy Viễn sáng mắt:
- Nếu vậy, tôi và anh coi như đã có hãng xe đò!
Lý tiếp tục vờn ông tướng võ biền óc ít:
- Phần nhà hàng khách sạn, bạn bè tôi ở nhà băng Việt Nam Thương Tín sẽ đứng sau lưng Thiếu tướng.
Chút ngần ngừ của Bảy Viễn biến mất khi hai tên quân sư Tài, Sang cũng góp lời vào. Nói là làm, Lý Long Thân sang ngay cho Bảy Viễn 500 lượng vàng, nhưng dưới danh nghĩa của câu lạc bộ Thanh Sơn của người Hoa Phúc Kiến, đặt trụ sở ở nhà hàng Đồng Khánh.
Khi đã thu thập đủ vốn, Bảy Viễn lại giao lại toàn bộ việc thầu xây cất, mua sắm cho Lý Long Thân. Riêng trong “cú” thầu này, hai hãng TONG YUAN và SAVICO đã thu về cho họ Lý bạc triệu.
Một nguồn lợi khổng lồ khác mà Lý thu được nhờ uy Bảy Viễn là việc khai thác hai sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới. Trước đó, hai sòng bạc này do một “xì thẩu” có máu mặt của người Hoa tên là Lâm Giống cai quản. Với khoảng 300 tay đao dưới trướng, toàn loại đầu trâu mặt ngựa tuyển từ Ma Cao, Hồng Công sang, Lâm Giống tha hồ làm mưa làm gió ở đất Chợ Lớn mà không một ai dám cạnh tranh. Trong một buổi trà dư tửu hậu ở nhà hàng Kim Huê, Giống tuyên bố:
- Khắp Nam kỳ lục tỉnh, may ra chỉ có Bảy Viễn Bình Xuyên mới đáng mặt được Giống này coi là bậc đàn anh.
Lý Long Thân biết Giống nói thật, vì dưới tay Bảy Viễn còn có cả ngàn tay súng và viên tướng đầu Tây còn nắm toàn bộ lực lượng Cảnh sát Quốc gia do Bảo Đại giao phó. Vậy là Lý đút tiền cho Moris Thiên - tay Phòng Nhì nằm cạnh Bảy Viễn - nhờ tên này thuyết phục. Bảy Viễn nghe xong lắc đầu:
- Tiền đâu chịu nổi, riêng thuế đã đến 500 ngàn mỗi ngày cho một nơi. Thằng Giống có cả đống xì thẩu Tàu hỗ trợ, tao đâu có ai!
Lúc này, tên cò mồi Moris Thiên mới tung bài tẩy:
- Ông Bảy thử hỏi ý kiến ông Lý xem sao?
Tất nhiên, Lý Long Thân nhận lời, với điều kiện y bỏ tiền đầu tư, còn Bảy Viễn chịu lấy danh nghĩa Bình Xuyên ra đấu thầu.
Ngay sau đó, Moris Thiên được Bảy Viễn và Lý Long Thân sai đóng vai thuyết khách đến nhà Lâm Giống. Moris Thiên ngỏ ý:
- Bình Xuyên có ý nhận đấu thầu đợt tới ở hai sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới, vừa tiện bảo vệ vừa có cơ sở kinh tài để nuôi quân, nay sai tôi tới thưa lại cùng Lâm xếnh xáng!
Biết mình yếu thế, Lâm Giống đành lặng lẽ rút lui. Riêng từ hai sòng bạc này, trừ thuế và chi phí, Bảy Viễn và Lý Long Thân cũng còn thu lãi tới sáu bảy trăm ngàn mỗi ngày. Vì vậy, mối giao hảo Bảy Viễn và Lý Long Thân ngày càng gắn bó.
Tuy vậy, tham vọng của Lý Long Thân trong việc lợi dụng Bảy Viễn vẫn chưa dừng lại. Qua mặt Bảy Viễn, y lại ném tiền ra mua chuộc được Trần Phước, một tay thân tín của tướng Bình Xuyên để cùng tên này buôn bán thuốc phiện.
Khi Bảy Viễn còn là một tay giang hồ trẻ tuổi chưa thành danh, y là tài xế riêng kiêm cận vệ của ông chủ Trần Phước. Vào thời đó, Trần Phước tỏ ra biệt đãi và thường khích lệ Bảy Viễn:
- Anh Bảy có tướng hổ, lưng gấu, thuộc hàng chọc trời khấy nước chớ đâu phải hạng tầm thường làm tài xế kiếm cơm.
Sau này, khi công thành danh toại, Bảy Viễn tri ân, gọi Trần Phước về cho làm quản lý hai sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới, nắm giữ tay hòm chìa khoá. Lý Long Thân bỏ tiền ra, giao cho Trần Phước mua lại toàn bộ nguồn thuốc phiện của Bảy Viễn với giá rất rẻ. Thuốc phiện từ các nơi được xe quân đội chở về đại bản doanh của Bảy Viễn bên kia cầu chữ Y, sau đó Bảy Viễn lại cho xe riêng chở đến cho Trần Phước cất giấu tại nhà y, số 43 đường Lacaze cạnh Đại Thế Giới. Tại đó, Lý Long Thân kiểm hàng, giao tiền và giao hết số thuốc phiện này cho Mã Tuyên, một đại gia ở Chợ Lớn, tay chân tin cẩn đồng thời là cơ sở kinh tài của anh em Diệm -  Nhu sau này, để Mã Tuyên cung cấp cho mạng lưới nhà hàng, tiệm hút khắp Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn và các tỉnh phụ cận. Hàng chuyển đi, Trần Phước sai các tên Ngô Kiều, Ngô Lâm, Bách Chúng, Bách Kiều... những tên võ sĩ lừng danh từ Hồng Công sang áp tải, tất nhiên cũng bằng xe riêng của “Thiếu tướng Lê Văn Viễn”! Riêng việc giao nhận hàng, họ Lý chỉ đến kiểm tra, còn mọi việc đều do Mã Tuyên trực tiếp tiến hành cho nên Lý Long Thân không để lại dấu vết.
Tốc độ làm giàu của Lý Long Thân trong giai đoạn này quả là chóng mặt, khó ai bì kịp nhưng chủ yếu đều nhờ vào những “cú” làm ăn trong bóng tối. Vì vậy, y nghĩ đến việc “rửa tiền”. Để làm việc đó, y lại tung tiền ra mua chuộc đồng thời nhờ uy thế của Mã Quốc Tuyền - Bang trưởng Phúc Kiến, Điển Nam - Chủ hãng đóng tàu Nam Hoà Hưng kiêm đại lý Hoa kiều tại Sài Gòn - Chợ Lớn và Hồng Cảnh Tùng - Phó Tổng lãnh sự Đài Loan tại miền Nam Việt Nam ép Ban Giám đốc Ngân hàng Việt Nam Thương Tín phải nhận Mã Tuyên vào làm chân “Hoa vụ kinh lý” cho ngân hàng này ở Sài Gòn. Bên cạnh Mã Tuyên, Lý Long Thân đặt thêm một tay túc hạ tin cẩn là Trang Tôn (tức Trang Trinh Nghi) để tiến hành các phi vụ ám muội này. Được Mã Tuyên cấp giấy phép, Trang Tôn liên tục nhận tiền Đông Dương của Lý Long Thân đổi ra tiền franc Pháp, từ tiền Pháp lại đổi ra franc Thụy Sĩ rồi lại dùng franc Thụy Sĩ mua dollar Mỹ. Với loại ngoại tệ này, Lý đem bán lại cho Hoa kiều Chợ Lớn để họ chuyển về Hồng Công, Trung Quốc mua hàng hoặc đầu tư, trả lại cho Lý bằng dollar Hồng Công. Từ dollar Hồng Công, y lại giao cho Trang Tôn đưa vào Ngân hàng Việt Nam Thương Tín đổi lấy tiền Việt. Cách buôn tiền này không những giúp Lý Long Thân xóa dấu vết của các nguồn tài chính phi pháp mà còn giúp y tăng nhanh số vốn ban đầu.
Những năm 1950, giới kinh doanh người Hoa ở Chợ Lớn luôn phập phồng lo sợ sự thay đổi chính sách của chính quyền đối với người Hoa trên đất Sài Gòn - Chợ Lớn. Họ rất ít đầu tư vào các lĩnh vực “ngâm vốn” như bất động sản, kỹ nghệ... mà chủ yếu  kiếm tiền trong lĩnh vực buôn bán, sau đó gửi tiền về Hồng Công, Đài Loan để đầu tư. Vì vậy, buôn tiền là một nghề sinh lãi cực lớn. Nghề này bị đặt ra ngoài vòng pháp luật nên ít kẻ dám làm. Nhờ thế lực hùng mạnh đã nắm trong tay, Lý Long Thân đã độc quyền thao túng nghề kinh doanh béo bở này. Không chỉ rửa tiền cho bản thân, y còn rửa tiền cho rất đông “xì thẩu” Hoa kiều khác ăn hoa hồng tỷ lệ cao. Kết quả: tiền Việt mất giá, trong khi dollar Mỹ và dollar Hồng Công lại tăng giá chóng mặt. Đến thời Diệm - Nhu, chính Ngô Đình Nhu đã chỉ thị cho cơ quan mật vụ (Sở Nghiên cứu chính trị) của Trần Kim Tuyến điều tra để phanh phui trừng trị những tên rửa tiền. Trang Tôn và  hàng loạt tên đàn em khác bị bắt, bị bỏ tù. Tên tuổi Lý Long Thân cũng đầy chật trong các báo cáo của mật vụ ngụy quyền. Tuy nhiên, là một tên cáo già, Lý Long Thân đã xoá hết mọi dấu vết có thể dẫn Cảnh sát Hoạt vụ đến hỏi thăm ngay trong lúc tiến hành các phi vụ. Thêm vào đó, Mã Tuyên - đồng sự và là đàn em tin cẩn nhiều ân oán với Lý Long Thân lại đang là cánh tay kinh tài của Ngô Đình Nhu và Trần Lệ Xuân cho nên đã kịp thời cứu Lý Long Thân nhiều lần ngay trong tình thế đường tơ kẽ tóc. Hồ sơ về Lý Long Thân tuy càng ngày càng dày lên trong Nha Cảnh sát Sài Gòn, nhưng chỉ dừng lại ở mức độ chung chung, đại loại: “Có nghi vấn nhưng thiểm nha chưa thâu thập được bằng chứng cụ thể nào về các tin tức nói trên của đương sự”.
3. Ban ngày doanh nhân, ban đêm kẻ cướp
Ngoài quan hệ thâm giao với Bảy Viễn và Bình Xuyên, Lý Long Thân còn có quan hệ mật thiết gắn liền cùng các phi vụ mờ ám với ba nhân vật Hoa kiều tên tuổi khác, đó là Trương Duy Nhạc và cha con Điển Nam (tự ông Sơ), Nghiệp Sô (tự ông Tích).
Trương Duy Nhạc là chủ tiệm sắt Đức Hiệp Hưng, nổi tiếng giàu có và đầy uy lực. Y có phần hùn đáng kể trong công ty SAVICO của Lý Long Thân. Cha của Trương từng là một Bang trưởng Phúc Kiến đầy quyền thế tại Sài Gòn. Những ngày hàn vi, ngôi nhà số 37Bis, đường Ký Con của Nhạc cũng là nơi mở rộng cửa cho Lý Long Thân vào tá túc. Khác với Lý Long Thân xuất thân nghèo hèn, họ Trương đã liên tục mấy đời là dòng họ danh giá, có học thức và rất giàu có. Cha con Trương Duy Nhạc đều giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh và rất thạo nghề buôn bán lớn.
Khi Lý Long Thân đã trở nên giàu có thì Trương Duy Nhạc cũng nhờ uy của bố giành được vị trí Phó lý sự trưởng bang Phúc Kiến tại Sài Gòn. Đến đây, hai kẻ đầy mưu mô lại càng bắt tay nhau chặt hơn để cùng loại các đối  thủ Hoa kiều khác ra khỏi các mối làm ăn, tranh giành lợi nhuận.
Giữa năm 1955, trước khi rút toàn bộ quân đội về nước chấm dứt vĩnh viễn sự dính líu quân sự ở Việt Nam, Pháp thông báo cho thanh lý các vật dụng nhà binh còn lại với giá rất rẻ. Hoa kiều ở mọi ngành kinh doanh đều đổ xô vào tham gia cuộc đấu giá này. Thấy lợi lớn, Nhạc và Thân cùng nhảy vào. Trương Duy Nhạc nhờ uy bố, Lý Long Thân mượn oai cha con Điển Nam, Nghiệp Sô (bang Quảng Đông) huy động một nguồn vốn rất lớn, tuyên bố sẽ “thầu toàn bộ số vật dụng nhà binh thặng dư” nói trên, bằng cách đi cửa sau không qua đấu giá công khai. Thấy mất phần, các doanh gia tên tuổi người Hoa phản ứng. Lý Long Thân lại tuyên bố:
- Tôi chỉ là người đại diện, còn thầu lô này là ý định của ông Bảy Bình Xuyên.
Mỗi lần đi định giá một lô hàng, Nhạc và Thân lại vứt xe Peugeot ở nhà, leo lên xe cách-cách (xe cam nhông ngắn đuôi) của Bình Xuyên có đầy lính vũ trang và đích thân anh em Tài, Sang ngồi cạnh phóng đến. ở vòng ngoài, cha con Trương Duy Nhạc cũng lịch sự chống ba-toong liên tục “đi thăm hỏi” các vị bang trưởng các bang người Hoa ở Chợ Lớn, ngỏ ý “lấy làm tiếc vì sự bất đồng của anh em” trong vụ “mối hàng cỏn con không đáng là bao” này. Dù rất hậm hực nhưng biết quyền thế của gia đình Trương Duy Nhạc quá mạnh, lại sợ dây dưa với Bình Xuyên nên bang trưởng các bang đều nuốt hận, ra lệnh ngầm cho người của phe mình rút lui khỏi các cuộc đấu giá. Kết quả, Nhạc và Thân độc chiếm quyền khai thác nguồn hàng, thu lãi ròng hơn 5 triệu bạc. Tuy nhiên Lý Long Thân lại khôn khéo lui vào sau, để quyền công khai đấu thầu cho một mình Nhạc. Vì vậy, bao nhiêu oán hận, giới thương nhân Hoa kiều đều trút lên đầu Trương Duy Nhạc và đám Bình Xuyên mà không để ý gì tới Lý Long Thân. Có kẻ còn thề sẽ có ngày “trả thù”.
ít lâu sau, do chủ quan, cậy thế, Trương Duy Nhạc đã phạm sai lầm khi áp phe một lô mủ cao su trị giá 8 triệu đồng mà không thèm lo đủ giấy tờ. Tức khắc, một thương gia tên là Trịnh Công Quý, cũng hoạt động trong ngành kinh doanh nguyên liệu cao su, đứng ra tố cáo Nhạc sang đoạt bất hợp pháp lô hàng này. Chứng cớ rành rành, Nhạc bị tống giam vào Chí Hoà. Lúc này Bình Xuyên cũng bị anh em Diệm - Nhu tận diệt. Thừa cơ, đám Hoa kiều thi nhau gởi đơn tố cáo Nhạc có quan hệ mờ ám với Bình Xuyên. Sợ liên lụy đến thân, Lý Long Thân vội vã bung tiền ra thu xếp với các bang Hoa kiều, lo lót với cảnh sát đồng thời cầu cứu Ngân hàng Việt Nam Thương Tín đứng ra bảo lãnh cho Nhạc. Cha của Nhạc cũng cầu cứu lãnh sự quán Đài Loan gây sức ép với chính quyền Diệm. Nhờ vậy Trương Duy Nhạc mới thoát khỏi hầu toà, vụ việc bị ỉm đi vì “không đủ chứng cớ”.
Mối quan hệ của Lý Long Thân với cha con Điển Nam, Nghiệp Sô cũng khăng khít không kém. Điển Nam cũng là một tay cự phách có quyền lực ngầm cực mạnh trong bang Triều Châu, dưới trướng có gần 3000 người. Chính cha con Điển Nam, Nghiệp Sô đã cùng Lý Long Thân và anh em Lại Hữu Sang, Lại Hữu Tài vận động Bảy Viễn gây áp lực hậu thuẫn để đưa Mã Quốc Tuyền lên làm Bang trưởng Triều Châu, nhằm dễ bề thao túng cộng đồng Hoa kiều, đặc biệt với giới thương nhân trong các vụ làm ăn sau này. Điển Nam còn là một trong những người Hoa ở Chợ Lớn có dính líu nhiều mặt với Quốc dân Đảng ở Đài Loan và ở Đại lục. Y là kẻ phụ trách các hoạt động bí mật đem học sinh Hoa kiều về Đại lục bất hợp pháp, đồng thời là một đại lý chuyển ngân cho Hoa kiều đi Hồng Công, Singapore, Đài Loan... trong đường dây buôn tiền của Lý Long Thân. Nghiệp Sô (tự ông Tích), con của Điển Nam giữ chức Phó lý sự trưởng Phòng thương mại Hoa kiều. Do đó, y đã thu xếp để nhận Lý Long Thân vào chức vụ Lý sự vụ của bộ phận này, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Lý Long Thân hoạt động rửa tiền và chuyển ngân phi pháp.
Vốn dĩ, giới làm ăn Hoa kiều rất tin vào tướng số. Dưới mắt họ, Lý Long Thân có chân mạng đế vương ắt hẳn sau này sẽ là một kẻ có tài kinh bang tế thế có thể lợi dụng được. Vì vậy, cha con Điển Nam, Nghiệp Sô cũng như khá đông tay có máu mặt khác của người Hoa đều không tiếc công của giúp đỡ Lý, đưa y leo dần lên từng nấc thang kinh tế và quyền lực trong bóng tối. Lý Long Thân biết rất rõ mục đích đó của những người đồng hương. Y cũng chờ cơ hội để có thể đáp lễ.
Thời cơ đến với Lý khi cha con Điển Nam, Nghiệp Sô mưu toan chiếm trọn khu đất Tân Địa Lộ đường Armand Roussau (Nguyễn Chí Thanh) để chuẩn bị xây nhà xưởng. Khu đất này có khá đông bà con lao động người Hoa sinh sống. Họ không chịu dời đi dù Điển Nam, Nghiệp Sô tìm mọi cách mua chuộc và dụ dỗ. Tháng 1.1955, cha con Điển Nam sai tay chân đến phá phách, đốt nhà để khủng bố tinh thần nhằm đuổi dân khỏi khu vực này. Không may cho đám côn đồ, trong khu lao động Tân Địa Lộ còn có cả hai anh em Chu Chí Kinh, Chu Chí Vịnh sinh sống. Cả hai đều là những tay giang hồ hảo hán thời hiện đại, rất giỏi võ và luôn sẵn sàng “dọc đàng thấy chuyện bất bằng chẳng tha”. Khi đám côn đồ định ra tay thủ ác, anh em họ Chu đã kịp thời có mặt đánh cho cả bọn chạy tan tác. Cha con Điển Nam tức lắm nhưng dưới trướng không có kẻ nào dám công khai đương đầu với anh em họ Chu. Việc đuổi dân chiếm đất càng khó khăn hơn khi bà con lao động tin tưởng, vừa đùm bọc bảo vệ, vừa nghe lời anh em họ Chu phát đơn kiện cha con Điển Nam, Nghiệp Sô. Chu Chí Kinh còn cùng với em đi khắp vùng Chợ Lớn gặp nhiều vị có thế lực và trọng công bằng của các bang hội Hoa Kiều khác nhờ giúp đỡ để chống lại âm mưu cướp đất. Không ít người vốn ghét các trò bất nghĩa của cha con Điển Nam nên đã nhận lời.
Đúng lúc cha con Điển Nam tưởng phải từ bỏ âm mưu thì Lý Long Thân mời họ đến. Tại văn phòng công ty SAVICO, Lý vạch cho “đối tác” thấy rõ: chỉ có tiêu diệt anh em họ Chu thì mới mong cướp được đất. Lý bảo:
- Việc đó, tôi xin giúp.
Điển Nam hứa:
- Một phần năm khu đất đó sẽ thuộc về ông Lý.
Lý Long Thân từ chối:
- Tôi sẽ còn nhờ Điển tiên sinh nhiều dịp, còn chỗ đất kia, Điển tiên sinh cứ giữ lại cho thêm rộng chỗ.
Nghe lời Lý Long Thân, cha con Điển Nam chấp nhận đưa vụ đất đai ra toà, và bỏ tiền ra lo lót.
Trong khi đó, Lý Long Thân lại mở tiệc chiêu đãi Lê Binh Nghĩa, trưởng Công an xung phong của Bình Xuyên. Tiệc đến cao trào, hai ả xẩm xinh đẹp được Lý gọi ra, một ả nâng chiếc khay có đặt một phong bì dày cộp trao cho Nghĩa, ả kia tiêm thuốc phiện đưa mời tận miệng. Lúc này, Lý Long Thân mới ngỏ lời nhờ vả. Đang ngây ngất vì rượu, vì gái, tiền và khói thuốc phiện, Lê Binh Nghĩa chắp tay:
- Việc của Lý tiên sinh là việc của ông Bảy, việc của ông Bảy thì có chết, tôi cũng không thể chối từ.
Tháng 2.1955, anh em Chu Chí Kinh, Chu Chí Vịnh từ Chợ Lớn đón xe lên Sài Gòn định gặp ông Lương Tế Phi, Phó lý sự trưởng bang Quảng Đông mượn 10.000 đồng để đóng tiền hầu kiện. Khi xe đến dưới chân cầu chữ Y, một toán công an tự xưng là Công an xung phong chặn xe lại, lôi anh em Chu xuống đưa đi. Sau đó, họ không bao giờ xuất hiện nữa. Như rắn mất đầu, số bà con lao động người Hoa đành rời khỏi lô đất Tân Địa Lộ để tránh bị bọn côn đồ cướp phá. Một số người có làm đơn trình bày vụ mất tích của Chu Chí Kinh, Chu Chí Vịnh nhưng không được trả lời. Lý do: họ bảo anh em họ Chu bị bắt cóc thủ tiêu nhưng không có ai đứng ra làm nhân chứng!
4. Làm vua không được, làm giặc không xong...
Thâu tóm xong quyền lực chính trị ở miền Nam, Diệm - Nhu bắt đầu quay sang tấn công tiêu diệt quân đội của các giáo phái. Đầu  tháng 12.1954, Bảy Viễn nhận được thư của Diệm “mời” vào dinh Độc Lập để “thảo luận một số vấn đề quan trọng của quốc gia”. Biết rõ mưu đồ của Diệm - Nhu, Bảy Viễn viện đủ cớ thoái thác không vào. Dỗ ngọt không xong, cuối tháng 12.1954, Diệm nhờ tướng Mỹ O’ Daniel “ném” tối hậu thư cho Bình Xuyên: “Nếu Thiếu tướng không chịu về với quốc gia thì chỉ sau một tuần, quân chính phủ sẽ giải quyết xong vấn đề Bình Xuyên”.
Bị đe dọa, Bảy Viễn nổi khùng văng tục và tuyên bố:
- Bình Xuyên có chiến lược riêng, thích ứng với thiên thời, địa lợi vùng sông nước Nam Bộ, chẳng việc gì phải sợ.
Thấy Bảy Viễn ngoan cố, đầu năm 1955, Diệm ra lệnh đóng cửa hai sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới, nhằm cắt đứt hầu bao nuôi quân của Bình Xuyên. Bảy Viễn quay sang cầu cứu tướng Pháp Paul Ely, nhưng nước Pháp đang sa lầy ở Algerie nên cũng đành làm ngơ cho Diệm thanh toán giáo phái. Không chịu khoanh tay chờ trói, Bảy Viễn lại cho gọi Lý Long Thân bàn bạc kế hoạch: đẩy mạnh phát hành đồng “Phật lăng Bình Xuyên” giao cho Lý Long Thân đổi ra dollar Mỹ hoặc franc Pháp, lấy số ngoại tệ đó mua súng đạn, khí tài và tuyển quân cảm tử để lập các đội khủng bố đối phó với anh em Diệm - Nhu.
Nghe đề nghị, Lý toát mồ hôi hột. Rửa tiền cho Bình Xuyên thì Lý có thể làm được, vì y có mạng lưới chuyển ngân dày đặc, còn các yêu cầu sau, Lý biết dây vào là cầm chắc mang tội chống chính phủ quốc gia, không chết vì ăn đạn cũng khó thoát khỏi tù đầy. Thấy Lý hoảng sợ, anh em Tài, Sang chơi bài ngửa:
- Diệm - Nhu diệt xong Bình Xuyên chắc ông Lý cũng khó thoát khỏi tội chết vì hồ sơ họ đầy ra đó. Còn nếu Bình Xuyên đủ lương thảo, súng đạn cầm cự, mai mốt Quốc trưởng (Bảo Đại) về, ông Lý sẽ là bậc công thần, muốn tự do kinh doanh, Diệm - Nhu cũng không ép nổi. Ông Lý tính sao?
Đã cưỡi lên lưng cọp, muốn xuống cũng không xong, Lý Long Thân đành nhắm mắt gật đầu.
Phải thừa nhận rằng Lý là tay cực kỳ tháo vát. Chỉ sau ít ngày, số tiền “Phật Lăng Bình Xuyên” vừa phát hành, Lý đã tiêu thụ sạch. Có ngoại tệ, Lý cùng Vương Nha Sinh, kẻ phụ trách tuyển quân của Bình Xuyên đi khắp nơi chiêu binh mãi mã. Lý đưa ra mồi nhử: bất cứ người nào tham gia cảm tử quân của Bình Xuyên cũng sẽ được lãnh trước 10.000 đồng và sau đó người nào làm việc đắc lực sẽ có thưởng khác nữa. Thấy có tiền, khá nhiều tên du thủ du thực ở quận 6, quận 8 và vùng Chợ Lớn ào ào xin đăng ký đầu quân. Nhưng cứ cầm tiền xong, chúng lại tìm cách bỏ trốn.
Để trang bị cho đám này, Lý Long Thân lại nhờ mối giao hảo của một số thương nhân Hoa kiều móc nối với phòng nhì Pháp xin mua lại với giá thật rẻ một số súng đạn của quân Pháp ở Việt Nam chưa bị thanh lý hết! Sau đó, y “hợp đồng” với cha con Điển Nam, Nghiệp Sô để hai tên này cho tàu của hãng Nam Hòa Hưng chuyên chở vũ khí, lương thực tiếp tế cho quân Bình Xuyên. Giữa tháng 3.1955, Lý hồ hởi báo với Bảy Viễn:
- Vào cuối tháng này, Thiếu tướng sẽ có thêm 100 khẩu tiểu liên Thompson, M3, M1 và Garrand, 4 khẩu cối 60 ly và khoảng 10.000 viên đạn các loại.
Nhưng, mọi tính toán và hành động của Lý đều không lọt qua được con mắt nghề nghiệp lọc lõi của Lý Kai, chuyên viên á Châu thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, thực chất là một mật vụ tin cẩn của Ngô Đình Nhu. Là một Hoa kiều, Lý Kai cũng có nhiều mối quan hệ khăng khít với cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn, đặc biệt là với số người Hoa Quốc dân Đảng Đài Loan. Trong số đó, không ít kẻ từng bị Lý Long Thân chèn ép trên thương trường nên luôn tìm cách dò xét mọi hành động của Lý để chờ dịp hạ địch thủ. Thông qua những người Hoa này, Lý Kai đã có đủ tài liệu để khép Lý Long Thân vào tội “hoạt động phiến loạn chống chính phủ”.
Đánh hơi thấy nguy hiểm, Lý Long Thân vội vã cầu cứu Bình Xuyên. Đang cần Lý Long Thân để lo vụ mua súng đạn, Bảy Viễn liền ra lệnh cho đội cảm tử của Vương Nha Sinh bắt cóc Lý Kai. Tuy vậy, Lý Long Thân vẫn chưa được yên. Khá đông nhân vật quyền thế trong các bang hội Hoa kiều đều khẳng định: Việc Lý Kai bị bắt cóc có tay Lý Long Thân nhúng vào. Họ dọa tẩy chay và có biện pháp trừng phạt nếu Lý Long Thân không có biện pháp giải cứu cho Lý Kai. Không thể chạy sang yêu cầu Bình Xuyên thả Lý Kai vì như vậy có khác gì thừa nhận mối giao hảo với “quân phiến loạn”, Lý Long Thân bèn tính một “đòn gió”: y cùng Ngô Đắc - một Hoa thương tên tuổi của bang Triều Châu chạy khắp các nơi có thế lực, gõ cửa cả nhà của trùm mật vụ Mai Hữu Xuân yêu cầu có biện pháp giải thoát cho nạn nhân của... chính mình.
Mọi chuyện đang rối như mớ bòng bong thì đêm 29.3.1955, Bình Xuyên bất ngờ nã pháo vào dinh Độc Lập, chủ động tấn công quân chính phủ trước. Chỉ chờ có vậy, Ngô Đình Diệm cho mở ngay chiến dịch Hoàng Diệu “phản công lại”, giao cho Dương Văn Minh - mới được đặc cách lên đại tá - chỉ huy. Suốt năm ngày năm đêm, giao tranh đã xảy ra ác liệt trên dọc tuyến đường Bến Chương Dương, Hàm Tử từ cầu Nhị Thiên Đường, cầu chữ Y và kéo dài xuống tận cầu Tân Thuận. Càng đánh nhau, quân Bình Xuyên càng yếu thế. Bảy Viễn vội thu quân về rừng Sác, lấy miền rừng ngập mặn làm căn cứ để “cầm cự chờ Quốc trưởng Bảo Đại về phán xử”.
Những ngày đó, Lý Long Thân hoang mang cực độ. Y vội vã gom góp tư trang tiền bạc, đóng cửa các văn phòng nhà xưởng nằm yên, vừa run vừa nghe ngóng. Cuối cùng, không thắng nổi sợ hãi, ngày 14.5.1955, Lý Long Thân tính bài chuồn, lấy vé định bay sang Hồng Công chạy trốn. Nhưng máy bay chưa cất cánh, Lý Long Thân đã bị Cảnh sát Hoạt vụ còng tay lôi xuống.
Rất may cho Lý, y là kẻ đứng tên hùn vốn trong khá nhiều đường dây kinh tế của người Hoa. Nếu để y bị Diệm trừng trị, các cơ sở kinh tế ấy cũng bị vạ lây, bị cảnh sát tịch biên hoặc đóng cửa. Vì vậy cha con Điển Nam, Nghiệp Sô, bang trưởng Triều Châu Mã Quốc Tuyền... vội vã đổ tiền ra để chạy tội cho Lý Long Thân. Ngay cả quyền Tổng lãnh sự Đài Loan Trầm Tố Tâm cũng đứng ra bảo lãnh và gây sức ép để Diệm tha Lý. Vì vậy, Lý mới được tại ngoại điều tra. Suốt bốn tháng trời, Lý Long Thân đã đổ tiền như núi để bịt kín tất cả các mối rò rỉ thông tin có thể đưa y ra toà. Đến tháng 9.1955, Lý mới thở phào: Bảy Viễn và hai tên Lại Hữu Sang, Lai Hữu Tài đã được Pháp giải thoát đưa sang Paris lưu vong. Đầu mối quan trọng nhất để buộc tội y đã bị chặt đứt, Lý Long Thân được đình chỉ điều tra. Vừa thoát chết, đầu óc nhanh nhạy của Lý đã nhìn thấy cơ hội làm ăn lớn. Trước mắt Lý, con đường dẫn đến ngôi “vua” đã bắt đầu rộng mở.
5. Ông vua hai ngai
Trong kinh doanh, Lý Long Thân là một kẻ rất nhanh nhạy với thời cuộc, thông minh, táo bạo và cực kỳ thành đạt. Để loại trừ thế độc quyền kinh doanh, lũng đoạn thương nghiệp của giới kinh doanh Hoa kiều, Diệm - Nhu đã ra sắc luật cấm người Hoa kinh doanh một số mặt hàng và không được tham gia vào một số ngành nghề khác, trong đó có vải sợi, sắt thép, máy móc v.v... Không chút đắn đo, Lý Long Thân bèn xin đổi từ quốc tịch Hoa sang quốc tịch Việt, nhằm né tránh sắc luật bất lợi này. Tiếp theo, tháng 3.1959, Lý lại ký quỹ một số tiền rất lớn vào Ngân hàng Việt Nam Thương Tín để được ngân hàng này tiếp nhận vào chức vụ Hoa vụ kinh lý - chuyên trách điều tra tài sản và thu hút vốn của cộng đồng Hoa kiều. Nhờ vậy, Lý có điều kiện thu hút vốn mạnh mẽ, cho ra đời hai công ty VINATEXCO (Việt Nam vải sợi công ty) và VINATEFINCO (Việt Nam vải sợi hoàn tất công ty) vừa sản xuất vừa kinh doanh xuất nhập khẩu, thao túng toàn bộ thị trường vải miền Nam Việt Nam. Riêng tại kho nhiên liệu của Lý ở gần ngã tư Bảy Hiền, hoá chất phục vụ cho ngành dệt nhuộm cũng luôn sẵn sàng cung cấp cho sản xuất trong vòng ba năm liên tục chưa hết. Nghiễm nhiên Lý trở thành một “hoàng đế” ngự trên “vương quốc” may mặc và vải sợi.
Chiến tranh ngày càng lan rộng, vũ khí, khí tài quân sự do Mỹ đổ vào miền Nam cho ngụy quân ngụy quyền ngày càng nhiều. Theo thời cuộc, một phần lớn những trang bị này bị loại bỏ trở thành phế liệu. Đánh hơi thấy nguồn nguyên liệu dồi dào, Lý Long Thân lại đứng ra thành lập nhà máy cán sắt VISACA, độc quyền tận thu nguồn nguyên liệu sắt từ các chiến trường. Với giá thu mua cực rẻ, Lý Long Thân đã có một nguồn nguyên liệu cực tốt và dồi dào để biến thành những sản phẩm xuất khẩu giá trị. Ngay cả thị trường Nhật Bản, Đại Hàn cũng rất chuộng loại thép thành phẩm do VISACA sản xuất cho nên công ty của Lý phát triển vùn vụt. Đến năm 1974, vốn của VISACA đã lên tới con số sáu trăm triệu đồng. Tuy nghiên, nguồn lợi thu được từ chiến tranh là miếng mồi quá lớn nên lắm kẻ có tiền, có quyền thi nhau nhảy vào xâu xé. Vì vậy, trong lĩnh vực sắt thép, phế liệu, dù cực giàu, Lý vẫn chưa thể làm một ông vua tận chiếm mọi quyền hành.
Để mị dân, tránh tiếng biến miền Nam thành thị trường tiêu thụ hàng ế thừa của Mỹ, ngụy quyền Sài Gòn liên tục đưa ra các khẩu hiệu như “chấn hưng kinh tế”, “bình định và phát triển nông thôn”, “cách mạng trong  sản xuất lúa gạo”, “thay sức người bằng sức máy”... Với chiêu bài “ủng hộ chủ trương của chính phủ”, Lý Long Thân liên tiếp cho ra đời thêm hàng chục công ty lớn, nhỏ nhằm nhập khẩu ồ ạt các loại máy móc nông ngư cụ, hàng tiêu dùng cung cấp cho thị trường. Với những khoản tiền đút lót hậu hĩnh, với nguồn tài chính hậu thuẫn cực mạnh từ Ngân hàng Việt Nam Thương Tín, Lý vừa trốn được nhiều khoản thuế lớn, vừa nhanh chóng và khéo léo lọt qua được các rào cản lỏng lẻo của luật pháp để làm giàu. Chỉ riêng một phi vụ nhập máy móc về “phục vụ sản xuất”, Lý đã cùng Nghiệp Sô - Giám đốc điều hành VINATEXCO cấu kết với Huỳnh Văn Lang - Viện trưởng Viện Hối đoái tìm cách trốn thuế khoản tiền lên đến 40 triệu đồng. Lý nhanh chóng trở thành một “vua nông ngư cụ” với 19 kho hàng và hàng chục nhà xưởng rải khắp Sài Gòn - Chợ Lớn. Bất cứ lúc nào, dãy kho nông ngư cụ của Lý ở Phú Thọ Hoà cũng có sẵn hàng trăm chiếc máy cày hiệu Kohler, Kubota vừa nhập cảng từ Nhật Bản. Tại đường Mạc Vân bên kia cầu Sài Gòn, các loại hàng tiêu dùng, phụ tùng xe máy của Lý chất kín trong năm dãy nhà kho đồ sộ. Ngay tại trung tâm thành phố Sài Gòn, tại đường Tôn Thất Đạm, cơ ngơi của Lý cũng chiếm ba dãy nhà là văn phòng của ba công ty lớn: Trường Phát, Quốc Tế Thương Cuộc và Đông Nam á, với giá trị hàng hoá của mỗi công ty từ 300 - 600 triệu đồng cho bất cứ thời điểm nào, đó là chưa kể những hàng hóa là phần hùn của Lý trong khá nhiều công ty khác, trị giá số hàng lớn này ở mỗi nơi cũng lên đến vài trăm triệu.
Để “cai trị” được một tài sản đồ sộ với nhiều ngành nghề khác nhau, tất nhiên một mình Lý Long Thân không thể nào lo xuể. Là người khôn khéo, giỏi nhìn xa trông rộng, Lý Long Thân luôn biết cách tạo ra những liên minh quyền lực chằng chịt và dày đặc nhưng mọi mối đều buộc vào một sợi dây nằm trong tay Lý. ở hai công ty lớn của ngành dệt may thì Lý giữ chức Chủ tịch VINATEFINCO, Phó chủ tịch ở VINATEXCO trong khi một “cánh hẩu” khác là Trương Duy Nhạc làm phó ở công ty thứ nhất và làm chủ tịch ở công ty thứ hai. Riêng chức vụ Giám đốc điều hành VINATEXCO, Lý giao cho Nghiệp Sô - một kẻ thâm giao thừa kinh nghiệm lưu manh nắm giữ.
Khác với truyền thống kinh doanh của người Hoa, thường đưa con em hoặc thân nhân vào nắm giữ các vị trí then chốt của guồng máy làm ăn, Lý Long Thân không làm như vậy. Y từng tuyên bố: “Kẻ nào biết rõ về ta, kẻ ấy thắng ta một nửa”. Do vậy, Lý chủ trương chỉ tuyển các tay chân tin cẩn ở ngoài dòng tộc. Những kẻ này đều quen biết Lý thông qua các phi vụ làm ăn và đều là những tay sừng sỏ. Trong số đó có Châu Trần Tọa, một đồng hương Phúc Kiến hơn Lý năm tuổi. Châu là một thành viên Quốc dân Đảng vào loại “gộc” của Đài Loan, được Diệm cho phép hoạt động trong chi bộ Quốc dân Đảng của Trần Y Lịnh, bí thư cơ quan Đại sứ quán Trung Hoa Dân Quốc tại Sài Gòn. Tọa từng bốn lần sang Đài Loan mừng thọ Tưởng Giới Thạch với tư cách khách mời; từng làm Bang trưởng Phúc Kiến tại Chợ Lớn; từng vượt biên sang Nam Vang tham gia bàn bạc chủ trương với Phái đoàn kinh tế Việt Nam do Quốc dân Đảng tổ chức năm 1958. Nhìn thấy “thiên tài” của Châu Trần Tọa đối với các hoạt động trong bóng tối, Lý Long Thân đã không tiếc tiền của để kéo Châu về dưới trướng. Sau vụ đảo chính Diệm - Nhu (11.1963), Mã Tuyên bị hất khỏi chức vụ Mại bản (compradore) của Ngân hàng Việt Nam Thương Tín, Lý đã xuất 2,5 triệu đồng của VINATEXCO để ký quỹ và vận động công ty Tứ Hải Nguyên xuất thêm 10 triệu đồng bảo lãnh cho Châu Trần Tọa trám vào chức vụ này. Có được Châu Trần Tọa, Lý Long Thân càng tha hồ phù phép để buôn tiền và hợp thức hoá các nguồn tài chính đen để đã giàu càng tiếp tục giàu thêm.
ở mỗi công ty, nhà máy, cửa hàng, ngoài các ban bệ bình thường, Lý Long Thân đều đặt thêm các tai mắt tin cẩn giám sát công việc kinh doanh và tổ chức các chiến dịch, phi vụ trong bóng tối. Thực tế, mọi quyền điều khiển hoạt động kinh doanh, ngân quỹ đều do những kẻ ẩn danh này nắm giữ và báo cáo trực tiếp với Lý Long Thân. Trong khi đó, Lý tuyệt đối không cho con cái tham gia vào việc làm ăn. Hai người con trai lớn là Lee Poon Leung và Lee Sok Wah được Lý gửi vào Đại học Kowloon (Hồng Công) ăn học vì “thời thế đổi thay, không học không làm vua được mãi”.
Một trong những lý do khiến Lý Long Thân chỉ quan hệ làm ăn với người ngoài dòng tộc là để khi cần thiết, vì quyền lợi y có thể “bán đứng” kẻ chung lưng đấu cật mà không hề thương tiếc. Ngày 1.11.1963, anh em Diệm - Nhu bị đảo chính. Trước khi bị bắt, Diệm - Nhu có trốn ở nhà Mã Tuyên ở Chợ Lớn. Anh em Diệm - Nhu bị thanh toán xong, Mã Tuyên cũng bị phe đảo chính truy nã gắt gao, phải trốn chui trốn nhủi. Ngày 6.11, Mã Tuyên trốn được tới nhà Lý Long Thân. Là cánh tay kinh tài của anh em Diệm chắc chắn Mã Tuyên sẽ không còn cơ hội thoát hiểm để tiếp tục làm ăn, cho nên sẽ chẳng còn tác dụng gì với Lý Long Thân. Lựa lời ngọt nhạt, Lý phân tích thiệt hơn và khuyên Mã Tuyên trốn sang Nam Vang. 8 giờ tối, rời khỏi nhà Lý chưa được 300 mét, Mã Tuyên đã bị Cảnh sát chờ sẵn bắt đi. Để tránh tiếng phản bạn và những ánh mắt nghi ngờ từ cộng đồng người Hoa đổ về mình, ngày 26.11.1963, Lý Long Thân làm đơn gởi Đô trưởng Sài Gòn xin bảo lãnh cho Mã Tuyên ra Bệnh viện Grall (nay là Bệnh viện Nhi đồng II) chữa bệnh. Không ai biết Lý chạy chọt thế nào nhưng sau đó, đơn của Lý được chấp thuận. Tại bệnh viện Grall, cuộc thăm hỏi của Lý với Mã Tuyên chỉ diễn ra trong vòng vài phút. Mã Tuyên từ chối không thèm nhìn mặt Lý.
Vụ việc trên cùng với khá nhiều hành vi ám muội khác của Lý bất ngờ bị tuần báo Hành động lôi tuột ra ánh sáng vào tháng 3.1964 trong suốt ba kỳ báo. Uy tín, nhân cách của một “ông vua” bị báo chí quật cho tơi tả. Cáu tiết Lý Long Thân đâm đơn kiện tờ Hành động ra Tòa tiểu hình. Vụ kiện kéo dài gần năm tháng. Cuối cùng “tờ báo cỏn con” không chịu nổi sức ép từ hàng núi tiền do Lý ném ra, đành chịu thất kiện. Lý đưa ra điều kiện: hoặc đính chính hoặc phải “bồi thường danh dự” bằng một số tiền khổng lồ. Để tránh “cái chết” chắc chắn sẽ xảy ra, ngày 26.8.1964, tờ Hành động đành phải đăng bài đính chính.
Công việc kinh doanh càng phát triển, Lý Long Thân càng thường xuyên phải xuất ngoại để mở rộng quan hệ. Mỗi lần xin đi, Lý lại một lần bị điều tra vì trong quá khứ, y có quá nhiều mối quan hệ mờ ám. Một lần nữa, Lý lại vung tiền mua khắp bộ máy ngụy quân ngụy quyền, từ Cảnh sát quận đến Tòa áo đỏ (tòa thượng thẩm). Đồng tiền của Lý phát huy tác dụng khá triệt để: Ngày 13.12.1966, Chư Ngọc Liễn - Phụ tá Tổng ủy viên An ninh đã ký giấy chấp nhận cho Lý Long Thân “bạch hóa hồ sơ”. Kể từ đó, “đương sự Lý Long Thân” trở thành một người “sạch sẽ”, không bị điều tra lôi thôi tốn thì giờ khi đứng đơn xin đi đâu hay làm bất cứ việc gì. Nhưng Lý vẫn chưa thoả mãn. Y lại tiếp tục vung tiền mua chuộc hai viên đại tá ngụy là Trần Văn Lâm - Tổng giám đốc Việt tấn xã và Tạ Văn Đức - sĩ quan Tổng cục tiếp vận Bộ tổng tham mưu để hai viên đại tá này ký giấy “bảo đảm cho bạn tôi, cam đoan chịu mọi trách nhiệm nếu đương sự có hành vi sai trái hoặc vi phạm luật pháp...”. Với sự bảo lãnh của hai viên sĩ quan cao cấp này, Lý Long Thân trở thành một “công dân lương thiện và đáng kính của xã hội”.
6. Nhà tư bản cá mập
Càng giàu có, Lý Long Thân càng ra sức bóc lột công nhân. Thỉnh thoảng để chiều lòng ngụy quân ngụy quyền đang tìm mọi cách bắt lính, Lý lại vô cớ tuyên bố sa thải một số nam công nhân để đẩy họ vào lính. Theo thống kê, trong ba năm 1962 - 1964, vật giá ở Sài Gòn tăng 48%. Cũng trong ba năm đó, công nhân ngành dệt may của Lý phải tăng năng suất lao động lên gần gấp đôi. Công nhân dệt từ chỗ đứng 25 - 30 máy/ người phải tăng lên đứng 50 máy/ người. Chưa hết, khẩu phần ăn của họ còn liên tục bị cắt xén, phòng nghỉ xuống cấp không được tu bổ, điều kiện vệ sinh rất kém. Vậy nhưng suốt ba năm, Lý không hề tăng lương cho công nhân. Vì vậy, ở hai công ty VINATEXCO và VINATEFINCO, đình công đã liên tục xảy ra. Để phá các cuộc đình công, Lý đã sử dụng tên Tô Tấn Phiếu - một chuyên gia phá hoại nội bộ công nhân của Quốc dân Đảng do Châu Trần Tọa tiến cử. Trong khi mức lương giám đốc công ty chỉ 4 - 5.000 đồng/ tháng, Lý đã trả cho Tô Tấn Phiếu tới 8.000, rồi 10.000, sau lên 15.000 đồng/ tháng.
Mỗi lần có nguy cơ nổ ra đình công tại các nhà máy công xưởng của Lý, Tô Tấn Phiếu lại cùng đám cò mồi đàn em tìm cách phát hiện chủ trương đấu tranh, nhận diện người cầm đầu và ban lãnh đạo báo cáo cho Lý. Trong các cuộc đình công, đám cò mồi cố tình gây ẩu đả, đập phá để Lý Long Thân có lý do trừng phạt công nhân, phá rã đấu tranh. Lý thường vu cho những người lãnh đạo là “Cộng sản nằm vùng”, tạo bằng chứng giả để đưa cảnh sát đến xưởng đàn áp bắt bớ.
Nổi tiếng nhất là cuộc đình công đòi tăng lương, chống chủ đuổi công nhân cho ngụy quân chiếm nhà xưởng xảy ra đồng lúc ở cả VINATEXCO và VINATEFINCO, nổ ra ngày 29.12.1963. Theo đúng bài bản, Lý cố tình tránh mặt, chỉ đạo cho giám đốc các xưởng sản suất không nhận thỉnh nguyện thư vì “không đủ thẩm quyền”. Sau bốn ngày đấu tranh, công nhân đã tập hợp được hơn 1000 người đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ khá đông thợ thuyền các giới. Họ bắt giữ Triệu Diêu Đông - Cố vấn kỹ thuật của VINATEXCO và hai xưởng trưởng là Triệu Thọ Mậu và Trang Đinh làm con tin. Bàn ghế, kiện sợi, thùng phi được công nhân ném ra làm chướng ngại vật để chống lại sự đàn áp của cảnh sát do Lý Long Thân mời đến. Đến lúc nay, Lý mới hoảng sợ, hứa sẽ tăng lương nhưng chỉ tăng 4%. Công nhân không nhượng bộ. Ngày 8.1.1964, thêm hơn 1000 thợ của các công ty khác tiếp tục kéo đến ủng hộ và tiếp tế cho công nhân hai công ty đang đấu tranh. Hoảng sợ, Lý Long Thân liền viết đơn đề nghị chính quyền ngụy “dập tắt cuộc bạo loạn do Cộng sản xúi giục và lãnh đạo”.
Ngày 17.1, một đại đội Cảnh sát dã chiến và một tiểu đoàn Quân cảnh trang bị súng ống, hơi cay, dùi cui xông vào VINATEXCO và VINATEFINCO đánh đập công nhân dã man, bắt đi hơn mười người. Liên tiếp những ngày sau, hai nhà máy đều bị cảnh sát bao vây, bắt thêm một số người nữa. Đến 21.1.1964, Lương Đệ, Tăng Bôi và toàn bộ đại diện công nhân đều bị bắt, các nhóm đấu tranh bị cô lập và tan rã trong khi Lý Long Thân vẫn không đáp ứng các yêu sách của họ...
Không chỉ tàn nhẫn với công nhân, Lý Long Thân còn nổi tiếng tàn bạo trong các cuộc cạnh tranh với những nhà doanh nghiệp khác. Ngày 12.5.1974, văn phòng công ty Đại Nam của Lý Long Thân nhận được điện của cơ sở ở nước ngoài báo tin: lúc 6 giờ sáng cùng ngày, tàu Viễn Đông đã rời cảng Stockholm (Thụy Điển) chở về Sài Gòn cho công ty X. 6000 tấn giấy gồm 4000 tấn giấy vở học sinh và 2000 tấn giấy in báo, đồng thời cũng cho biết luôn giá giấy trên thị trường thế giới. Đọc xong bức điện, Lý Long Thân nhanh chóng tính nhẩm ngay ra số lãi sẽ thu được, dù tàu giấy trên... không phải của y, và giấy cũng chưa bao giờ là ngành kinh doanh “mặn mòi” với Lý.
Tức khắc, Lý quyết định nẫng tay trên món lợi. Y ra lệnh cho tất cả các cửa hàng dưới quyền mình hạ giá giấy 10%, riêng khu vực quanh Sài Gòn hạ tới 20%. Vài ngày trước khi tàu Viễn Đông cập bến, Lý lại ra lệnh hạ giá thêm 20% nữa, riêng khu vực cảng hạ tới 30% đồng thời đăng quảng cáo rầm rộ sẽ có hai tàu giấy từ Thụy Điển sắp về Sài Gòn với giấy tốt, giá rẻ. Thông tin của Lý quá ồn ào, giá bán giấy hạ quá đột ngột khiến tất cả các nhà in, các tờ báo, các nhà kinh doanh giấy đều lo ngại không dám tích trữ giấy, cũng không dám mua vào vì sợ không tiêu thụ được. Đích thân chủ công ty X. đi chào mời mua giấy nhưng đến đâu, ông ta cũng chỉ nhận được những cái lắc đầu. Dã man hơn, Lý Long Thân còn chở giấy ra tận cầu cảng, phát không cho những người bán quà bánh, hàng rong mỗi người vài ba thếp trắng tinh. Tàu Viễn Đông về cảng Sài Gòn, ông chủ hãng X. ra đón thấy giấy trắng gói hàng vứt vung vãi xung quanh, ông ta quá sức ngạc nhiên. Hỏi, ông ta được những người bán hàng trả lời:
- Giấy rẻ như cho, không gói quà thì để làm gì?
Tàu Viễn Đông về nằm khan tại cảng suốt mấy ngày vẫn không tìm ra người mua giấy, ông chủ hãng X. ruột gan như muốn lộn tùng phèo. Đã vậy, hè đã đến, các cơ sở tiêu thụ lẻ cũng chẳng quan tâm mấy đến giấy vở vì không biết bán cho ai. Đúng lúc đó, người của công ty Đại Nam đến đặt vấn đề mua trọn số giấy của tàu Viễn Đông, dĩ nhiên là theo biểu giá đã hạ 50%. Lỗ nặng nhưng không bán không xong vì giấy ngoài thị trường càng ngày càng hạ giá, lại thêm tiền neo đậu bến bãi của tàu Viễn Đông càng ngày càng nhiều thêm, nhà tư sản ngành giấy đành phải gật đầu. Đã thua đơn lại thêm thiệt kép, ông ta còn phải chở giấy đến tận kho của Đại Nam mà không được tính thêm một xu tiền cước. Vậy là 6000 tấn giấy nhanh chóng chui vào kho của Lý Long Thân với giá còn rẻ hơn giá gốc, lại không tốn đồng chuyên chở nào. Chỉ dăm ba ngày sau, giá giấy lại dần dần nhích lên. Một số báo chí nhanh nhẩu khám phá ra rằng vụ “hai tàu giấy đang về Sài Gòn” chỉ là tin “bố láo”, lại càng khiến giấy tăng giá, đúng như bài bản mà Lý đã vạch.
Khi hiểu ra toàn bộ cơn sốt tăng, giảm điên khùng giá giấy nói trên đều là trò phù thuỷ của “Vua” Lý Long Thân, nhà tư sản ngành giấy kia chỉ còn biết nước mắt lưng tròng và ngửa mặt than trời. Vụ “chó ăn xương chó” này - như cách gọi của báo chí Sài Gòn thời đó - càng khiến tên tuổi Lý Long Thân lừng lẫy, chứng tỏ quyền lực lũng đoạn kinh tế ghê gớm của y là không đối thủ.
Nhưng, mọi thủ đoạn đều không giúp Lý Long Thân tồn tại được vĩnh viễn. Những binh đoàn quân giải phóng đã tiến thẳng vào Sài Gòn trưa ngày 30.4.1975, quét sạch toàn bộ bộ máy ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn, quét luôn cả mọi tham vọng và thủ đoạn làm giàu bất lương của ông vua không ngai Lý Long Thân.
Biết không còn đất sống cho những thủ đoạn lọc lừa, ngay sau giải phóng, Lý đã cùng sáu người khác mua thuyền vượt biên và bị bắt tại Bến Tre. Và chính lúc đó, mọi quyền hành, mọi thế lực hống hách đều biến mất, Lý trở lại đúng với bản chất một kẻ trọc phú - giàu tiền của nhưng nghèo sĩ khí. Trước khi cánh cửa buồng tạm giam khép lại, Lý đã nước mắt nước mũi chảy dài và gào toáng lên:
- Cho tôi ra, cán bộ ơi, cho tôi ra. Tiền của tôi còn nhiều lắm!
Cũng như nhiều nhà tư sản mại bản khác, sau đợt cải tạo công thương nghiệp, Lý Long Thân đã ra nước ngoài định cư, sống nốt quãng đời còn lại. Hình như ở một góc nào đó trên đất Mỹ xa xôi, ông già Lý Long Thân, đã lẫn đi nhiều, vẫn xoè đôi tay nhìn đường đời đan chằng chịt dọc ngang trên đó và lẩm bẩm:
- Qua mất rồi... Hết tất cả rồi!
3/ LÂM HUÊ HỒ
Đầu húi cua, khuôn mặt gầy và khắc khổ luôn chau lại như kẻ đang lo chạy gạo từng bữa, trông tướng mạo Lâm Huê Hồ chẳng khác nào một anh đạp xích lô đông con vất vả. Bà Huỳnh Hương - vợ Lâm - trông bề ngoài cũng chẳng sang trọng gì hơn. Nhưng bất chấp những nét bần tướng mà số phận áp đặt, Lâm Huê Hồ vẫn là một tỉ phú lừng danh khắp Sài Gòn - Chợ Lớn trước ngày giải phóng, một vua ngân hàng, vua của các vua, trùm chủ nợ của các tỉ phú khét tiếng khác. Độc đáo hơn, được tôn xưng là “vua ngân hàng” nhưng Lâm chưa bao giờ nắm trong tay một ngân hàng nào cả.
Thực ra, nếu có ai nhìn tấm áo sờn bạc, dáng điệu lam lũ của vợ chồng Lâm để đánh đồng họ với những tay ve chai đồng nát thì cũng chưa hẳn đã là sai lầm, bởi đó đích thực là khúc dạo đầu cơ cực của cuộc đời Lâm.
Sinh năm 1923, tại thị trấn Chin Can, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, hơn 20 năm sau sang sinh sống tại Chợ Lớn, Lâm Huê Hồ cũng chỉ có hai bàn tay trắng. Cái nghèo đẩy bạt Lâm Huê Hồ ra khỏi quê hương. Đến khi lấy vợ, Lâm Huê Hồ thậm chí cũng không biết cha mẹ đẻ - ông Lâm Sa và bà Pho Thị ở Trung Hoa lục địa còn sống hay đã chết để báo tin. Huỳnh Hương còn khổ hơn, mồ côi cả cha lẫn mẹ.
Lập luận của Lâm Huê Hồ khi đến với nghề ve chai đồng nát quả là đơn giản:
- Bán bất cứ thứ gì người ta muốn mua, và mua bất cứ thứ gì người ta muốn bán.
Cần mẫn, tằn tiện, sau vài ba năm Lâm đã có một số vốn nho nhỏ. Anh ta quyết định chuyển sang mở tiệm tạp hóa. Chủ trương mới của Lâm là buôn một triệu tiền gạo để có một triệu mốt thì khó nhưng mua chai dầu một đồng đem bán hai đồng thì dễ. Hơn thế nữa, hàng tạp hóa quay đồng vốn nhanh và chẳng bao giờ sợ tồn ế hay bị lỗ. Tiền lời từ tiệm này, Lâm gom góp lại mở thêm tiệm khác để tận thu khách hàng. Đến khoảng năm 1958, Lâm Huê Hồ đã có trong tay một mạng lưới tạp hóa phủ khắp Chợ Lớn. Nhưng vốn kín kẽ, không bao giờ Lâm tiết lộ với ai con số cụ thể mà mình đang nắm.
Khi cuộc sống đã khá phong lưu, Lâm vẫn tiếp tục làm một người mua phế liệu, có điều làm chủ thầu chứ không còn làm vai gánh. Tất cả những thứ vứt đi, Lâm đều mua tất. Anh ta nuôi một đội quân chuyên phân loại, sàng lọc và tân trang phế liệu. Không ít món đồ bỏ, sau khi tân trang Lâm đã bán lại được với tỉ lệ một vốn bốn... chục lời.
Cú làm ăn lớn đầu tiên của Lâm diễn ra vào tháng 7.1956. Tình cờ, Lâm quen biết Ba Phát, một thợ sửa xe đạp ở Thủ Thiêm và được người này dẫn mối đến trung úy Nguyễn Thúc Phụng - Chỉ huy trưởng Hải đoàn 24 (Hải quân) đóng tại Cát Lái. Hải đoàn 24 có một số quân dụng khá lớn đang định thanh lý. Ban đầu, nhìn dáng dấp cò con của Lâm, Phụng ngần ngừ. Với một phong bì khá dày chìa ra đúng lúc, Lâm đã khiến viên trung úy tươi nét mặt, đồng ý bán cho Lâm 30 tấn sắt, 300 kg nhôm và 50 kg đồng phế liệu với giá 40.000 đồng tương đương với giá một chiếc xe hơi loại tốt, giao tiền tận tay ngay lúc nhận hàng. Lâm thuê ba xe tải loại 6 tấn đến chở về kho. Kết quả của chuyến làm ăn: lỗ chổng vó! Chạy đến Thủ Đức, đoàn xe bị nhân viên Nha Quan thuế chặn lại và tịch thu toàn bộ vì không có giấy tờ hợp lệ. Sau hơn 10 ngày bị Bộ Quốc phòng ngụy điều tra, Lâm đành chịu mất thêm 100.000 đồng đóng phạt mới tránh được ngồi tù.
Tuy lỗ nặng nhưng Lâm Huê Hồ không nản lòng. Trong đầu óc nhanh nhạy của Lâm, một hướng làm ăn mới rất béo bở đã mở ra. Giao hết công việc điều hành kinh doanh tạp hóa cho vợ, Lâm Huê Hồ bỏ ra gần ba tháng trời ròng rã đi điều tra chi tiết mọi ngõ ngách của nghề thầu phế liệu quân đội, làm quen, đãi đằng khắp các mối quan chức từ nhân viên quan thuế đến sĩ quan các đơn vị đồn trú có nguồn hàng. Để qua được khâu giấy tờ, Lâm quyết định rủ thêm một vài dân biểu, tướng tá hoặc quan chức các nha, ty hùn hạp. “Tiền bạc, ngộ lo tất” - Lời hứa của Lâm nhanh chóng nhận lại sự đồng ý cộng tác mà anh ta đang chờ đợi.
Tuy vậy, suốt 4 năm liền sau đó, Lâm Huê Hồ vẫn không vội vã. Anh ta chỉ thu mua phế liệu dân dụng, còn phế liệu quân dụng Lâm tự biết rằng chưa đến lúc. Cẩn thận,  nhưng Lâm Huê Hồ vẫn bị thêm hai lần ra tòa đóng phạt nữa, vì tội gian thuế và nhập hàng trái phép. Cũng không đáng là bao, vì lúc này tài khoản của Lâm tại ngân hàng BFC đã lên đến hai triệu đồng, đó là chưa kể hai ngôi nhà ở đường Trần Thanh Cần và Trần Chánh Chiếu cùng với một số xe hơi, xe tải khác trị giá hơn 2 triệu đồng nữa. Lẽ tất nhiên, tên tuổi Lâm Huê Hồ được xếp vào hàng triệu phú.
Tháng 8.1961, Hãng tàu kéo SATAV đăng báo thanh lý tàu Algol vì đã quá hạn sử dụng. Lúc này, tiềm lực của Lâm Huê Hồ đã khá mạnh, ông ta quyết định dự thầu và trúng thầu. Nhưng dự định đưa tàu Algol về cảng Ba Son sửa chữa tân trang của Lâm Huê Hồ không thực hiện được. Sau khi điều tra về Lâm, Nha An ninh quân đội ngụy đã làm công văn gửi các nha, ty khác đề nghị bãi bỏ quyền trúng thầu của Lâm, vì lo ngại ông ta sẽ tiếp tục phạm pháp. Công văn do đại tá Đỗ Mậu, Giám đốc Nha An ninh quân đội ký ngày 29.8.1961, có đoạn: “Nha tôi e rằng nếu đứng chủ một chiếc tàu, y có thể sẽ tái phạm và sẽ buôn hàng quốc cấm trong tương lai”.
Không cam chịu từ bỏ món lợi béo bở, Lâm Huê Hồ một mặt tìm người đứng tên khác để tái thầu, một mặt tìm cách tẩy trắng các tiền sự trong hồ sơ cá nhân. Cho rằng lót tay 100.000 đồng để được giảm giá bán một triệu đồng thì ngu mới không làm, Lâm đã không tiếc tiền đổ ra lo lót. Cuối cùng, chủ thầu Algol không chỉ mang tên mình Lâm mà còn có nhiều sĩ quan cấp tá, nhà buôn khác cũng đứng chung, với mục đích mua tàu để khai thác phế liệu. Mặt khác, hồ sơ về Lâm cũng dễ coi hơn, vì “tuy từng vi phạm tội gian lận thuế thương vụ và Quốc phòng nhưng đương sự đã điều đình với Nha Thuế vụ và Quan thuế đóng phạt đầy đủ”. Do đó, việc Lâm mua tàu làm phế liệu đã được chứng nhận là “không trở ngại về phương diện chính trị”. Cuối cùng, con tàu nằm gọn trong tay Lâm, tuy phần lãi có ít hơn vì phải chia năm xẻ bảy. Thừa thắng xông lên, Lâm Huê Hồ mua luôn một hơi sáu chiếc tàu, cũng của hãng SATAV. Tất nhiên, Lâm chẳng dại gì đem phá chúng ra lấy sắt vụn. Đó chỉ là lý do để được hưởng giá mua ưu đãi. Sau đó Lâm đã huy động vốn, biến 6 con tàu này thành tàu thủy chở hàng. Sợ rằng nếu tự mình khai thác các con tàu thì khó tránh khỏi tội gian lận thương mại, Lâm đem bán chúng ngay với giá khá dễ chịu, nhưng số tiền thu lại vẫn rất khổng lồ. Các vụ mua bán ấy đều né, không sử dụng cái tên Lâm Huê Hồ.
Với số lưng vốn đã đến bạc tỉ, Lâm tiếp tục vươn tay sang thầu phế liệu cho ngành hỏa xa. Gần như toàn bộ đầu máy, toa xe, đường ray và tà vẹt chế tạo từ thời Pháp được thanh lý đều lọt vào tay Lâm. Có lúc, ông ta mua nguyên cả đoàn tàu với giá phế liệu. Nhờ “lại quả” rất hậu hĩnh, Lâm được khá đông nhân viên, quan chức ngành hỏa xa tiếp tay làm ăn trong nhiều năm liên tục. Để có sắt vụn bán cho Lâm hưởng hoa hồng, nhiều đoạn đường sắt còn tốt, nhiều toa xe chưa đến tuổi thanh lý đã bị đám quan chức hỏa xa phao lên bị Việt cộng đặt mìn, bị du kích phá hỏng, cần thay thế và gọi Lâm Huê Hồ cho xe tải tới chở.
Khoảng năm 1963-1964, số lượng vụ việc Việt cộng đặt mìn phá ngành hỏa xa đột ngột tăng vọt khiến An ninh Quân đội ngụy đâm nghi, phải mở cuộc điều tra. Trong khi đó, cùng với nhà thầu Du Khê, ngày 22.12.1964, Lâm Huê Hồ lại trúng thầu toàn bộ phế liệu ngành này. Do vậy, đầu năm 1965, cả hai bị kiểm tra kho bãi phế liệu và điều tra. Rất khôn ngoan, phế liệu mua đến đâu, Lâm bán lại ngay cho các hãng chế biến sắt thép của Lý Long Thân, Hoàng Kim Quy đến đó nên chẳng có dấu vết gì lưu lại để kết tội ông ta. Riêng Du Khê chậm chạp hơn, cả năm 1965 phải liên tục vác chiếu hầu tòa.
Cũng với thủ đoạn như vậy, Lâm Huê Hồ tiếp tục thầu phế liệu cho ngành quân đội, trong đó đồng là loại phế liệu được Lâm quan tâm nhất vì có giá cao hơn cả. Hỗ trợ cho Lâm tích cực nhất để trúng các mối thầu là Vĩnh Lộc - một tướng trẻ đang lên.
Khi Vĩnh Lộc được bổ lên làm Tư lệnh vùng II chiến thuật trấn giữ miền Cao nguyên, tin tức về chiến sự vùng này bỗng nhiên tăng vọt. Pháo binh ngụy ở các căn cứ Đắc Tô, Tân Cảnh, thị xã Kontum được lệnh nã đạn liên hồi kỳ trận vào các tọa độ “nghi có địch quân xuất hiện” ngày một nhiều để “ngăn chặn tầm xa”. Địch quân tổn thất ít hay nhiều e khó thống kê, nhưng số lượng xe tải do Lâm Huê Hồ gửi lên chở vỏ đạn về Sài Gòn thì tăng lên thấy rõ. Tuy nhiên, chuyện xảy ra ở các vùng chiến sự ác liệt quá xa tầm với của cảnh sát và quan thuế nên Lâm Huê Hồ hoàn toàn vô sự, tha hồ đẩy nhanh tốc độ làm giàu lên chóng mặt, mau chóng trở thành một đại tỉ phú khét tiếng của Sài Gòn - Chợ Lớn.
Dù vậy, ngành kinh doanh sắt thép, phế liệu, đặc biệt là phế liệu quân đội, Lâm Huê Hồ vẫn chưa chiếm cứ được ngai vàng để độc quyền khai thác. Nguồn lợi của ngành này quá lớn nên rất nhiều kẻ có máu mặt, trong đó có cả vua vải sợi Lý Long Thân, vua kẽm gai kiêm thượng nghị sĩ Hoàng Kim Quy... cũng xắn tay áo nhảy vào chia phần. Không ít lần, mối hàng của Lâm Huê Hồ đã bị ông nghị Hoàng Kim Quy mượn tay chính quyền và quân đội nẫng mất. Biết mình yếu thế, Lâm Huê Hồ đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Cao thủ hơn, để “dĩ hòa vi quí”, Lâm còn sẵn sàng đứng ra làm nhà cung cấp nguyên liệu sắt cho hãng dây thép gai của Hoàng Kim Quy. Sự nhún mình của Lâm đã khiến đôi bên cùng có lợi, tránh được một cuộc chiến khốc liệt suýt xảy ra giữa hai ông vua trên cùng “vương quốc” phế liệu.
Gần như một thứ tập quán, giới làm ăn Hoa Kiều rất ngại dây dưa với chính quyền, cảnh sát. Những tài xì thẩu làm ăn lớn, có máu mặt cũng ít khi mở trương mục hay vay tiền của các ngân hàng tại Việt Nam. Lý do: tài khoản của họ tại ngân hàng dễ bị phong tỏa khi việc kinh doanh có vấn đề trục trặc. Vay tiền ngân hàng lại phải khai báo tài sản, trình luận chứng kinh doanh... vốn là điều tối kỵ, lỡ có thua lỗ, tài sản dễ bị tịch biên như chơi. Vì vậy, họ chỉ chủ yếu vay mượn qua lại trong cộng đồng, lãi suất dễ chịu hơn, lại đỡ khâu giấy tờ phiền phức. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng có thể tìm ra người có tiền cho vay, còn khi có tiền nhàn rỗi họ cũng chưa chắc đã dám cho vay vì sợ khó đòi. Phát hiện ra điều đó, trong tay lại đang có bạc tỉ, Lâm Huê Hồ quyết định nhảy vào ngành kinh doanh tín dụng, nhưng không mở ngân hàng.
Chính sự nhún nhường trong các vụ áp phe lớn nhỏ trước đây đã tạo cho Lâm uy tín cần thiết để kinh doanh tín dụng. Khi vay tiền của ai, Lâm thường đáo nợ rất đúng hẹn. Ngoài tiền lãi thỏa thuận, Lâm còn giữ mối bằng những khoản lại quả khá hậu hĩnh. Ngược lại, khi có người nhờ vả, Lâm cũng luôn sẵn sàng giúp đỡ mà không đòi hỏi hay đặt điều kiện gì quá đáng. Vì vậy, cả người cần vay tiền lẫn người có tiền dư đều thích tìm đến Lâm. Tại trụ sở của ngân hàng không đăng ký đặt tại 70 Trần Chánh Chiếu và 12 Trần Thanh Cần của Lâm, khách ra vào nườm nượp mỗi ngày. Thủ tục vay rất đơn giản. Khách chỉ cần ký xác nhận vào một cuốn sổ ghi nợ do các thư ký của Lâm đưa tới và cam đoan ngày trả là xong, có thể đếm tiền ra về. Hầu hết cộng đồng người Hoa, từ tiểu thương buôn bán nhỏ cần dăm chục ngàn đồng đến các đại gia cần vài trăm triệu cho một cú áp phe nóng khi tìm đến Lâm bao giờ họ cũng được đáp ứng đầy đủ. Tất nhiên, lãi suất của Lâm luôn thấp hơn lãi vay ngân hàng và tùy đối tượng. Người buôn bán cỏn con, vay ít, Lâm lấy lãi suất thấp, có khi giúp không lãi. Ngược lại, ai cần giật nóng, số lượng lớn, lãi cũng lớn, lên đến 2 - 3% mỗi tháng. Nhưng muốn vay của Lâm dứt khoát phải là những người quen biết của ông ta, nếu không phải có sự giới thiệu bảo lãnh của một người quen biết có máu mặt nào đó. Kể cả các vua như Lý Long Thân, La Thành Nghệ, Trần Thành, Mã Hỷ cũng đều từng là con nợ của Lâm. Tất nhiên, với những người uy tín như Trần Thành - Bang trưởng Chợ Lớn thì lãi suất chỉ tượng trưng độ 1 - 2%, thậm chí có lúc Lâm không lấy lãi. Chính nhờ sự biết điều như vậy nên dù điều kiện dễ dãi, Lâm cũng không bao giờ bị trốn nợ. Chính các con nợ sẽ đi đòi nợ giúp, dù Lâm không nhờ. Khách lỡ thua lỗ hoặc chưa có tiền, họ chỉ việc nhờ một ông bang trưởng nào đó nói với Lâm một câu, sau đó thêm một chữ ký xác nhận tiếp tục vay là đủ, chẳng bao giờ sợ bị xiết nợ hay phải cầm cố cho Lâm cả. Khách đông, lượng tiền mặt của Lâm ở mỗi trụ sở không lúc nào hụt dưới con số 200 triệu.
Để có tiền cho vay, ngoài số vốn có sẵn, Lâm còn được sự hỗ trợ tích cực của Mã Tuyên và Trang Trinh Nghi (Trang Tôn) hai vua rửa tiền của Ngân hàng Việt Nam Thương Tín trong việc huy động vốn nhàn rỗi. Thay nhau làm mại bản và hoa vụ kinh lý cho ngân hàng này, Mã và Trang là người chịu trách nhiệm điều tra tài sản, gọi vốn từ cộng đồng Hoa kiều cho Việt Nam Thương Tín nên họ nắm rất chắc danh sách và khả năng của những doanh nhân người Hoa có tiền dư nhưng không muốn gửi ngân hàng. Bằng nhiều con đường, tất cả số tiền đó đều chảy vào quỹ tín dụng của Lâm Huê Hồ, được Lâm phát tán cho vay lấy lãi. Lâm trở thành một ông vua thực sự, điều tiết gần như toàn bộ thị trường tiền tệ của người Hoa Chợ Lớn - Sài Gòn. Vậy là người Hoa vay của người Hoa, Lâm Huê Hồ hưởng lãi. Có người tháng trước cho Lâm vay, tháng sau cần tiền lại tìm đến Lâm  ký nợ. Lâm vẫn tươi cười, luôn nhã nhặn, nụ cười vẫn khắc khổ và lam lũ, sẵn sàng chiều hết mọi yêu cầu của khách. Không ít người đã tự vay tiền của chính mình, bằng cách ném tiền vào túi phải của Lâm và móc nó ra từ túi trái. Tất nhiên, có một ít “bạc lẻ” đã được rải ra, lót thành con đường tín dụng giữa hai túi áo của họ Lâm.
Dù là chủ nợ của hầu hết các vua, song Lâm vẫn ít giao du hình thức, ít dính líu đến các cuộc tiếp tân tranh cãi chính trị hay thời thế. Nguyên tắc bảo mật cho khách hàng do Lâm đề ra đồng thời cũng bảo mật luôn cho chính tài sản của ông ta. Cũng chính vì dính líu công nợ chằng chịt với nhiều thế lực tai to mặt lớn nên quỹ tín dụng của Lâm tuyệt đối an toàn. Không một đại gia nào dám nghĩ đến việc hạ bệ Lâm Huê Hồ vì ngại phải đụng chạm đến các ông bang trưởng, nghị sĩ, các vua đủ mọi ngành nghề. Tài sản của Lâm cứ thế không ngừng phình lên. Những năm 1970, quyền lực của Lâm được khắp Sài Gòn - Chợ Lớn nể vì qua câu so sánh: “Trần Thành, Lý Long Thân có tiếng, Lâm Huê Hồ có miếng”.
Cuối cùng, chỉ có Lâm Huê Hồ mới hạ bệ được Lâm Huê Hồ.
Sau năm 1975, các vua không ngai vội vã tẩu tán tài sản và vượt biên. Toàn bộ tiền bạc, tài sản đều bị họ bán tống bán tháo để mua vàng. Lâm cũng thế, nhưng không chỉ mua vàng cho riêng mình, Lâm còn tổ chức và đứng đầu một đường dây đại qui mô nhận tiền mua vàng và chuyển sang nước ngoài giúp các đại gia, tỉ phú khác. Lâm phụ trách khâu huy động nguồn tiền, Mã Tuyên mua vàng, Trần Thanh Hà và Trang Trinh Nghi lo việc chuyển vàng lậu sang Hồng Kông. Hoạt động ráo riết của họ khiến giá vàng ở miền Nam tăng với tốc độ chóng mặt, tạo nên cả một quốc nạn chảy máu vàng trầm trọng. Khi đánh hơi được những hoạt động phi pháp ấy sẽ bị bại lộ và trừng trị, Lâm Huê Hồ cùng đồng bọn quyết định đóng thuyền vượt biên. Nhưng cơ quan An ninh cách mạng đã nhanh hơn họ. Ngày 10.9.1975, khi Lâm và đồng bọn đang tập trung tại nhà ông ta ở đường Trần Thanh Cần chuẩn bị xuống tàu thì công an ập vào. Khám nhà, công an thu được hơn 400 lượng vàng giấu trong giẻ rách nhét trên xà nhà và các khuôn gạch thông gió. Lâm cùng toàn bộ bảy kẻ đồng phạm, trong đó có Mã Tuyên, Trần Thanh Hà, Trang Trinh Nghi, Đào Tắc Kinh (vua xăng dầu)... bị bắt. Tiếp tục khám kho của Lâm tại 190 Nguyễn Biểu và 203 Dương Công Trừng, công an tiếp tục thu được mỗi nơi hàng trăm gói giẻ rách quấn vàng bên trong.
Huyền thoại về “vua ngân hàng không có ngân hàng” sụp đổ và kết thúc.
4/ ĐẠI CATHAY
Kẻ cầm tinh con giáp thứ 13
Được coi là mất tích từ 30 năm trước nhưng tên tuổi của Đại Cathay vẫn được lưu truyền và vì nể trong giới giang hồ. Hàng loạt huyền thoại đã được thêu dệt, biến Đại Cathay thành một ông trùm đầy quyền lực, một “vua không ngai” của thế giới tội phạm thời Mỹ - ngụy. Thực chất chiến tích lẫy lừng của hắn chỉ là những cuộc loạn đả, đâm chém nhau dã man của một kẻ coi thường luật pháp. Người hứng chịu đau khổ, không ai khác hơn, chính là những lương dân vô tội. Bài viết này không nhằm mục đích khai thác những chi tiết bạo lực đó, chỉ muốn giúp bạn đọc thấy rõ bản chất tội lỗi của kẻ đứng đầu cái gọi là “Tứ đại giang hồ” (gồm Đại Cathay, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế) từng đua nhau tác oai tác quái một thời.
1. Lai lịch một ông trùm
Ngay cả đám giang hồ cộm cán, đám đàn em tin cẩn cũng không ai biết hắn con ai, tên thật là gì. Chính Đại Cathay cũng... không biết tên thật của mình nốt. Hơn chục lần bị điệu về bót cảnh sát, Đại tự khai cho mình hơn chục lai lịch khác nhau. Theo đó, cha của hắn lúc là Lê Văn Cự, lúc lại là Trần Văn Trự... Mẹ của Đại Cathay cũng khá... nhiều tên, lúc là Hương, lúc là Duyên, sống hay chết thì “có trời mà biết”. Nói tóm lại, như Đại Cathay thường tự nhận, gã là một thằng... con trời có lẽ xuôi tai hơn cả.
Kỳ thực, Đại tuổi Thìn, sinh năm 1940. Theo tìm hiểu của chúng tôi, mẹ của Đại tên gì không rõ, chỉ biết người xung quanh thường gọi là bà Sáu. Còn cha Đại thì chính tên là Lê Văn Cự, vốn cũng là một tay giang hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Sau năm 1945, Hai Cự tham gia kháng chiến, trở thành lính của “Mười ban tự vệ công tác thành”, sau đó bỏ vào chiến khu rừng Sác đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Ba Dương (tức Dương Văn Dương). Đại sinh ra giống cha như đúc nhưng tuổi thơ rất ít được gần cha. Thuở nhỏ, gã sống với cha mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội (nay là Đoàn Văn Bơ, quận 4). Cả cha lẫn mẹ của hắn đều nghèo, làm nghề chẻ củi thuê cho một vựa củi nằm bên kia Cầu Mống, cạnh chợ Cũ, quận 1. Đại thường xuyên trốn học chạy sang chơi với đám trẻ con bụi đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói dù khuôn mặt rất ngầu, tính phóng khoáng, rất “lì đòn”, những đức tính được “thừa kế” đầy đủ từ cha đã giúp Đại nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh mến mộ. Mới 10 tuổi, gã đã thường xuyên luồn lách vào các chợ, sạp hàng xung quanh, ăn trộm dưa, chuối về chia cho chúng bạn.
Cuối năm 1946, ông Hai Cự bị địch bắt trong một lần về công tác nội thành, bị đày ra Côn Đảo và ít lâu sau thì chết. Cha mất, mẹ lấy chồng khác. Bố dượng Đại là một tay máu me cờ bạc lại nghiện thuốc phiện nặng nên gia sản dần dần biến hết. Cáu bẳn vì sinh kế, ông dượng thường nọc đứa con riêng của vợ ra hành hạ để hả cơn bực tức. Không chịu nổi, Đại bỏ học hẳn, sang vườn hoa Cầu Mống đánh giày, bán báo tự nuôi thân. Khu vực làm ăn của Đại là xung quanh ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) - Nguyễn Công Trứ. Tại đó có một rạp chiếu bóng mang bảng hiệu Cathay. Không ngày nào trước cửa rạp hát không xảy ra những vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi đời. Lì lợm và liều lĩnh, Đại cứ lăn xả vào đối thủ liên tục tấn công, dù kẻ đó có cao hơn nửa cái đầu cũng mặc. Trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng, dù tay chân, mặt mũi đầy vết rách bầm. Nghiễm nhiên, hắn trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực trong khu vực. Cũng nghiễm nhiên, gã được quyền ráp thêm “tên đất” vào sau tên cúng cơm để trở thành Đại Cathay, “đại ca” đường Nguyễn Công Trứ. Đó là năm 1954, lúc Đại mới 14 tuổi.
Trở thành “anh chị”, Đại được quyền sống mà không mó tay vào bất cứ việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn em “đi làm” mang tiền về nộp. Mỗi buổi sáng, hàng chục thiếu niên Ba Binh, Ba Tướng, Ba Gà (hỗn danh để gọi đám trẻ du đãng chưa có tên tuổi. Ba Binh: kẻ quân sư, chuyên bày mưu tính kế; Ba Tướng: kẻ thực hiện, thường là những tên trực tiếp đi đánh nhau với các băng nhóm khác; Ba Gà: những tên “thuyết khách”, chuyên đi ngoại giao, thương lượng...) cả trai lẫn gái tụ tập quanh Đại Cathay nhận công việc và địa bàn do hắn cắt cử, sau đó túa đi, chiều lại đem tiền về cho Đại. Được cái, hắn rất hào phóng, Đại Cathay chia hết tiền cho đàn em, chỉ giữ lại cho mình một khoản nhỏ, đủ cà phê, thuốc lá cho ngày kế tiếp. Những đàn em không may bị ế báo, bị mưa ướt thuốc, kẹo phải đền tiền, Đại Cathay cũng không chửi bới, đánh đập như những tên “chăn chíp” tham lam khác mà còn lấy của đứa “trúng mánh” cho thêm. Vì vậy, đàn em rất khoái và chịu nghe lời “anh Đại”. Tình trạng đánh lộn, tranh giành khách trong khu vực của Đại Cathay được dẹp yên.
Nằm ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót Cảnh sát quận Nhì - thường gọi là bót Dân Sinh - nổi tiếng dữ dằn. Rất nhiều lần, sau khi dẫn đàn em đi chinh phạt các khu vực khác hoặc đánh dằn mặt người của các băng nhóm đến giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị các ông cò bót quận Nhì xách tai lôi về bót. Hăm dọa, tát tai, đá đít đủ kiểu, thằng nhóc vẫn trơ trơ không chịu khai tên tuổi những đàn em tham gia ẩu đả, đám mã tà, phú-lít lại đành thả Đại về. Hết thuốc, các ông cò nảy ra đòn độc để trị Đại Cathay, bắt đàn em của Đại đứng xem. Chúng bắt thằng nhóc quỳ giữa sàn nhà, hai ông cò hai bên xốc ngược tay Đại lên, cạy mồm thả vào một con gián sống. Con vật lập tức chui tọt vào cổ họng lao thẳng xuống dạ dày. Ngứa ngáy, kinh tởm và nhột không chịu được, Đại Cathay ói ra mật xanh, mật vàng. Đám Ba Binh, Ba Tướng xung quanh xanh lè mắt, có đứa hét lên ngất xỉu và đái ra quần. Đại Cathay, sau một hồi nôn thốc nôn tháo, bắt đầu trấn tĩnh, lại tiếp tục câm như hến, tuyệt đối không khai. Không còn cách nào khác, các thầy cảnh sát đành tống Đại Cathay vào trại tế bần hoặc Trại giáo hóa  thiếu nhi phạm pháp ở Thủ Đức.
ở miền Nam trước giải phóng, có bốn nơi được coi là “lò đào tạo du đãng”. Nơi thứ nhất là Trại nuôi dạy trẻ mồ côi, cơ nhỡ nằm tại địa điểm nhà hát Hòa Bình hiện nay. Do nằm gần “Việt Nam Quốc Tự” nên sau này, nó được dân giang hồ gọi luôn là Trại “Việt Nam Quốc Tự”. Những đứa trẻ vào đây được cho ăn học, nhưng lại không được quản lý chặt nên những đứa hiếu động tha hồ ra vào, trốn đi trốn lại. Nơi thứ hai, Làng cô nhi Thủ Đức, điều kiện sống khá hơn nhưng vẫn rất lỏng lẻo, tha hồ cho đám tiểu yêu phá phách. Những tên nhóc bất trị nhất, hai trại trên đều không chứa nổi thường bị cảnh sát lùa vào Trại giáo hóa Thủ Đức. Thực chất, đây chỉ là nơi nuôi báo cô đám du thủ du thực, chờ chúng đủ tuổi là đẩy vào quân đội. Nơi thứ tư, Trại tế bần nằm bên kia cầu Trịnh Minh Thế (nay là cầu Tân Thuận), là một Trạm trung chuyển giam giữ những tên lưu manh sắp hết tuổi vị thành niên. Sau nửa tháng bị giam, nếu có người nhà bảo lãnh, đóng phạt, tên tiểu yêu sẽ được cho ra. Nếu không chúng sẽ bị nhốt lại, chờ đủ tuổi là tống vào đội quân “cưỡng bức phục vụ” tức lao công phục vụ chiến trường. Kẻ nào bị liệt vào hạng này coi như cầm chắc cái chết. Ngoài mặt trận, việc của họ là đi trước phát cây, mở đường, đào công sự, trong khi chân không giày dép, hai người chung một sợi dây xích chân, muốn chạy cũng không được, mặc kệ mưa đạn vãi cả trước mặt lẫn sau lưng. Biết trước số phận “bia thịt” của mình nên đám du đãng vào trại tế bần chưa ấm chỗ đã tìm cách trốn. Lọt ra khỏi võng rào các trại, đám nhóc lại lần về với các băng nhóm du đãng, bụi đời.
Thực ra, các trại nói trên đều được mở ra với mục đích tốt đẹp là nuôi dưỡng, chăm sóc và dạy dỗ số trẻ em mồ côi, cơ nhỡ. Điều kiện cơ sở vật chất tuy còn thiếu thốn nhưng các trại cũng thật sự trở thành những mái ấm từ thiện cho những đứa trẻ bất hạnh lớn lên. Không ít người trong số họ đã ăn học thành tài, trở thành kỹ sư, bác sĩ, những công dân lương thiện. Nhưng đối với những tên nhóc tì vô tổ chức, các trại vì quá đông, không đủ sức kiềm giữ, quản lý nên chúng thường xuyên tìm cách trốn, vì không chịu tuân theo kỷ luật và điều kiện sống còn thiếu thốn. Hầu hết đám giang hồ Sài Gòn nổi tiếng sau này đều đã từng qua đủ các trại nói trên. Thuộc hàng vào ra như cơm bữa, Đại Cathay được liệt vào loại “tù con rạ”, để phân biệt với đám “tù con so” mới nhập trại lần đầu. ở các trại, Đại Cathay đã làm quen với những Của Gia Định, Lâm Chín ngón, Hắc Quảy chảy, Hòa áo thun... những chiến hữu đắc lực sau này trên chốn giang hồ.
Mỗi lần vào trại rồi trốn ra, Đại Cathay càng liều lĩnh hơn, kinh nghiệm hơn, càng “tích cực” lao đầu vào những trận thư hùng - vốn là thứ năng khiếu nổi trội hơn cả ở hắn.
Năm 1955, Đại Cathay chuyển sang sinh sống ở khu vực Hãng phân Khánh Hội cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos. Đám trẻ con khu vực này tiếp đón Đại Cathay khá nồng nhiệt bằng những trận hỗn chiến. Một lần nữa, sự lì đòn của Đại lại giành phần thắng. Toàn bộ nhóc tì khu vực Khánh Hội, quanh cầu Ông Lãnh, gồm toàn dân bến tàu, vựa cá, vựa rau cải - vốn có hạng trong nghề dao búa - đều bị Đại Cathay thu phục qui về dưới trướng. Dù giang sơn đã rộng, binh tướng đã nhiều nhưng Đại Cathay vẫn luôn giữ một nét mặt buồn buồn. Bỏ học từ bé, chữ nghĩa trong đầu Đại đã bị gió bụi lề đường thổi bay hết cả. Người thân còn lại duy nhất bên Đại là Phong khùng, vừa là đứa đàn em, vừa là ruột rà cùng mẹ khác cha. Đại hình như là Lê Văn Đại, còn thằng Phong, tên nó có phải là Trần Thanh Phong không, Đại cũng không dám chắc.
Khi Đại Cathay còn là một cậu bé đánh giày thì toàn bộ khu vực Cầu Mống - Dân Sinh - Cầu Ông Lãnh mà dân giang hồ gọi là khu Da Heo, đều do một tay giang hồ nổi tiếng là Tám Lâu cai quản. ở trần, quần dài vắt vai, đi đứng nói năng khụng khiệng, nét mặt luôn đằng đằng sát khí, Tám Lâu bị bà con khu Da Heo coi như một hung thần. Nghề chính là đạp xích lô, nhưng thực chất Tám Lâu là kẻ nhận quyền bảo kê thu thuế toàn bộ khu Da Heo, dưới trướng có hàng chục đàn em. Dưới nệm xích lô, Tám Lâu luôn thủ sẵn “hàng mã” (mã tấu), sẵn sàng vung ra bất cứ lúc nào, với bất cứ ai.
Nhiều lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày dẫn quân đập lộn, Tám Lâu đâm “chịu” Đại Cathay. Thỉnh thoảng ngồi nhậu thấy Đại đi qua, Tám Lâu lại ngoắc vào kê ghế cho ngồi cạnh “mần hơi cho ấm bụng”. Qua những lần nhậu ké đó, Đại Cathay được Tám Lâu giới thiệu như một tay tuổi trẻ tài cao đầy hứa hẹn với đám giang hồ đàn anh: Ba Hội, Cảnh Tượng... Tám Lâu cũng thường đưa Đại đến các khu Lò Heo (cũ), Chánh Hưng, hẻm Hai mươi thước để làm quen với các tay anh chị khu vực khác. Nể tình, Đại Cathay cũng hay ghé đến hẻm 110 Nguyễn Công Trứ để thăm hỏi Tám Lâu.
Tuy hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải thúc thủ trước uy thế của anh em Bé Bún, một trùm giang hồ quận 4, khu vực cạnh Hãng phân nơi Đại Cathay trú ngụ. Cậy đông quân lắm mã (tấu), đám này thường kéo rốc qua Cầu Ông Lãnh, tràn vào “thu thuế” giựt bà con tiểu thương chợ vựa Cầu Muối, Tám Lâu không cản nổi.
Một ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh thở ngắn than dài, nộ khí xung thiên, Đại Cathay đề xuất:
- Anh Tám để đó em lo. Phải cho Bé Bún nằm viện, đám này mới ngán!
Tám Lâu gạt phắt:
- Con nít biết gì? Tao còn thua nó, mày là cái
đinh gỉ!
Tự ái, Đại Cathay bỏ về. Lúc này, đám Ba Binh, Ba Tướng của Đại cũng đã lớn, toàn thanh niên 17, 18 tuổi, lại lăn lộn lề đường nhiều nên cũng khá dày dạn. Nghe lời Đại Cathay, đám này vác dao qua Bến Vân Đồn “chém bậy” vài tay em của Bé Bún để khiêu khích. Điên tiết, Bé Bún hô toàn bộ em út tấn công sang khu Da Heo hỏi tội Tám Lâu. Quân Bé Bún quá đông, khiến Tám Lâu và đám đàn em hoảng hốt, định bỏ chạy. Nhưng vừa qua khỏi Cầu Ông Lãnh, băng Bé Bún đã ôm đầu máu chạy ngược trở lại, kêu la vang trời. Không nói trước với đàn anh nửa câu, Đại Cathay đã âm thầm cho đàn em của mình “trải đệm”, bất ngờ “luộc” băng Bé Bún. Dưới sự chỉ huy của Đại Cathay, đám giang hồ tân binh tả xung hữu đột lăn xả vào chém quân Bé Bún, xộc thẳng sang cả bên kia cầu. Nói là làm, Đại Cathay đã xỉa cho Bé Bún mấy nhát sau đó phải nằm viện thật, không dám bén mảng sang giành mối ở khu Da Heo nữa.
Sau trận hỗn chiến, Tám Lâu đâm ớn “tài ba” của Đại Cathay. Một mặt, Tám Lâu tuyên bố trong khu Da Heo, Đại Cathay có toàn quyền xử sự, mặt khác y lại lo ngay ngáy bị Đại Cathay lấy làm đối thủ. Biết ý, Đại tuyên bố không giành đất, khu Da Heo vẫn của Tám Lâu. Phần Đại, gã chỉ thu thuế các sòng bài, ổ đề, tiệm hút trong khu vực. Tiếp đó, Đại vươn tay bảo kê tất cả các ngành nghề kinh doanh lậu bao gồm xưởng nấu xà phòng, lò mổ heo, lò rượu... trong khu. Có tiền, có quyền, Đại dần dần đã khiến các tay anh chị khác phải dạt ra. Đại Cathay tha hồ ăn chơi và làm mưa làm gió.
Đầu những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong trào hippie bắt đầu thâm nhập vào miền Nam. Các cậu ấm cô chiêu con nhà giàu tuy được ăn học đàng hoàng nhưng cũng học đòi nhau, thường xuyên có mặt ở các nhà hàng, vũ trường, tiệm hút với đủ kiểu quần áo, tóc tai dị hợm. Đại Cathay tuy ít học nhưng cũng không hề kém cạnh các bậc trí... giả trong khoản ăn chơi. Nhẵn mặt ở các nơi đốt tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với một đám sinh viên, kỹ sư, bác sĩ con nhà gia thế, trong đó có anh em Dzách Bửu, Dzì Bửu, Hùng Đầu bò, Hoàng Sayonara (tay này móc classic bản Sayonara rất “não nùng”)... và nhiều văn sĩ, nghệ sĩ khác. Đám nghệ sĩ, trí thức cũng nể Đại Cathay chịu chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm của gã - trông bụi đời, hippi hơn cả. Chính Hoàng Sayonara sau đó đã trở thành quân sư hoạch định chiến lược làm ăn và chinh phạt cho Đại. Nghe lời các quân sư, Đại Cathay đứng ra cùng với Bảy Si, bà Bảy Trà đá mở sòng bài lấy xâu ở khu vực Cầu Muối.
Ban đầu, Đại Cathay không thích mở sòng bài vì dân giàu có đã có các sòng Đại Thế Giới, Kim Chung... mở nữa e không cạnh tranh nổi, Hoàng Sayonara vẽ:
- Không chỉ giàu mới máu me đen đỏ. Các sòng lớn như Kim Chung, Đại Thế Giới toàn dân quí tộc, chức sắc, dân giang hồ, người buôn bán ngại vô. Ta mở sòng vừa vừa kéo khách từ đám này.
Đại Cathay đồng ý. ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy Si (anh vợ Năm Cam - ông trùm sòng bạc sau này) đã có sòng bài sẵn, nhưng khi nghe Đại Cathay đề nghị hùn hạp, Bảy Si cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại nống ra cả lĩnh vực làm huyện đề 40 con chung với Hỏi, trùm khu Cây Da Xà. Hắn mua của Hùng Đầu bò một chiếc Traction - 15, chiều chiều cho đàn em lái đi khắp các ngả đường vứt lên từng xấp “phơi” đề cùng với hàng cọc tiền chở về. Quyền lực được tiền bạc hậu thuẫn khiến Đại Cathay càng thêm uy thế. Đến năm 1962, 1963, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm khét tiếng. Gần như hầu hết nhà hàng, khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2 đều chịu sự bảo kê của Đại. Các vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen Bee, Barcara, Paramouth đều coi hắn như ông chủ đích thực, Đại Cathay và đàn em tha hồ ăn chơi nhảy múa mà không một nơi nào dám viết hóa đơn, thậm chí còn lấy làm vinh hạnh vì được đàn anh chiếu cố.
Nhưng nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu được lại không phải là từ tiền thuế bảo kê. Chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn là những kẻ tình nguyện đóng góp đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả Đại làm hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác. Cả anh em tỉ phú Hoàng Kim Qui (vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người Tàu là những người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy thế của các “vua”, Đại Cathay cũng làm quen, “chơi chịu” được với khá đông nhân vật quyền thế và tên tuổi khác.
Chỉ năm năm sau ngày khởi sự ở khu Da Heo, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm không đối thủ, được toàn giới giang hồ kiêng dè, sợ hãi. Nhưng vẫn còn ba ông trùm “lừng lẫy” khác không ưa gì Đại Cathay, đó là Huỳnh Tỳ, ông trùm khu Lê Lai, Ngô Văn Cái và Ba Thế. Cho rằng Đại “chơi kèo trên”, giành mối, giành đất, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định “hội đồng” diệt Đại. Hai tên giang hồ họp nhau tại vũ trường Aristo (sau này là khách sạn Lê Lai, cạnh khách sạn New World) cùng một giang hồ gộc là Thế Aristo - chủ vũ trường - có thêm Hùng phốc và Luân - hai giang hồ cộm cán khác hỗ trợ, mời Đại Cathay đến “bàn công việc”. Không chút nghi ngờ, Đại Cathay đã bất ngờ bị Thế Aristo đá lộn cổ trở xuống. Bốn kẻ phục kích cũng nhất tề rút dao xông vào chém. Đại Cathay vừa đỡ đòn vừa tìm đường thoát thân, chạy được ra ngoài, mình mẩy đầy thương tích nhưng may không chết. Những vết thương chưa kịp kéo da non, Đại đã đơn thương độc mã giắt dao đi tìm từng tên một trị tội. Cả năm tên đều lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương. Cuối cùng, Tám Lâu phải nhờ Cảnh Tượng, Ba Hội và một số tay đàn anh khác xin lỗi giúp cho năm tên, Đại Cathay mới nguôi giận, đồng ý “hòa giải”. Danh xưng “Tứ đại giang hồ” bắt nguồn từ đó, gồm tên Đại Cathay - kẻ không đối thủ - đứng đầu và ba tên đối thủ của... “không đối thủ” xếp nối theo sau. Thực ra, xếp thứ tự trong “Tứ đại giang hồ” là Ba Thế, một “chiến hữu” rất thân với Đại Cathay chứ không phải là Thế Aristo - kẻ đã từng dự mưu chém Đại. Chi tiết này, ngay trong giới giang hồ cũng nhiều tên nhầm lẫn, vô tình đánh đồng Ba Thế với Thế Aristo, khiến cho huyền thoại về “Tứ đại giang hồ” càng thêm gay cấn, ly kỳ.
2. Đế quốc Đại Cathay
Lẽ ra, với những thành tích bất hảo chồng chất lên nhau, Đại Cathay đã ngồi tù mọt gông từ những năm trước đó. Nhưng xã hội miền Nam đầy nhiễu nhương với bộ máy quan chức được mua bán bằng tiền đã tỏ ra bất lực không trị nổi Đại Cathay và đám du đãng, để mặc kệ cho chúng làm mưa làm gió. Vào thời đó, chức quận trưởng quận 1 trị giá 30 triệu đồng, trong khi lương lính chỉ hơn 300 đồng cho nên những kẻ đương chức chỉ tìm cách vơ vét, làm giàu để bù lại số tiền đã bỏ ra mua lon tước. Cò Ly, quận trưởng quận 1 còn  cố tình dung túng cho Đại Cathay mở sòng bài, hoạt động bảo kê thu thuế. Bù lại, hằng tháng, Đại đều có những khoản riêng béo bở tuồn vào cửa sau cho vợ ông cò. Mỗi chiều thứ bảy, cò Ly và Đại Cathay lại sánh vai nhau bước vào các vũ trường nhà hàng sang trọng ăn chơi, đập phá thâu đêm. Đương nhiên, lương quận trưởng một năm cũng không đủ chi cho một lần nhất dạ đế vương nên ông cò chẳng bao giờ phải nghĩ đến chuyện móc hầu bao.
Có tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết định bành trướng xuống Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông trùm giới Hắc Đạo người Hoa, xưa nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm.
So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của Tín Mã Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều. Dưới thời Diệm - Nhu, toàn bộ hoạt động kinh tài của các bang hội Hoa kiều Chợ Lớn đều có cổ phần của giới Hắc Đạo. Toàn bộ nhà hàng, sòng bạc, tiệm hút... đều do giới này quản lý hoặc hùn hạp. Tuy nhiên, sau đảo chính tháng 11.1963, do tham lam, chính Tín Mã Nàm đã khiến giới Hắc Đạo suy yếu. Bắt tay với khá nhiều tướng lĩnh, chính khách thuộc phe đảo chính, “Con ngựa điên” đã bán đứng một số cơ sở kinh tài của các bang hội cho chính quyền mới, tố họ là “cơ sở kinh tài của Diệm - Nhu”. Mặt khác, Tín Mã Nàm cũng tố cáo và giao nộp cho cảnh sát một loạt tay giang hồ Hoa kiều không ăn cánh với y như Hỏi Phoòng Kin, Sú Hồng, Cọp Chảy, Quầy Thầu Hao, Hắc Quẩy Chảy... nhằm củng cố địa vị “Vua Hắc Đạo” của mình. Vì vậy, Tín Mã Nàm được trung tá Lê Ngọc Trụ - Trưởng ty cảnh sát quận 5 trọng dụng và ưu đãi, trong khi bị nhiều đàn em oán giận và tìm cách trả đũa.
Trong những kẻ oán Tín Mã Nàm có tay tài pán tên Chó, người giúp việc cho Tín Mã Nàm quản lý ngành kinh doanh cờ bạc. Biết được sự chia rẽ đó, Đại Cathay đã sai đàn em dụ hàng tên này. Chó đã bán đứng Tín Mã Nàm, kéo một lượng lớn con bạc nặng ký từ các sòng Đại Thế Giới, Hào Huê... về Cầu Muối cho sòng của Đực Bà Tiều và Bảy Si thuộc quyền Đại Cathay, đồng thời bỏ luôn khu Chợ Lớn về theo Đại Cathay mở mang sòng bạc ở khu Sài Gòn. Biết chuyện, Tín Mã Nàm hạ lệnh cho giới Hắc Đạo:
- Chém bất cứ tên đàn em nào của Đại Cathay bén mảng xuống Chợ Lớn.
Chỉ chờ có thế, suốt 12 tháng trời, Đại Cathay đã liên tục đổ quân tập kích xuống các điểm làm ăn của Tín Mã Nàm ở vùng Chợ Lớn, chém phứa vào bất cứ ai rồi tức tốc bỏ chạy. Người bị chém thường là dân lành, khách chơi, chính vì vậy mà họ đâm sợ các điểm ăn chơi giải trí của Hắc Đạo, không dám lui tới nữa. Vắng khách, thu nhập thấp, đám cô hồn bảo kê của Tín Mã Nàm đành túa ra làm ăn lẻ để gỡ gạc, bất chấp kỷ luật của ông trùm. Nhưng cứ tên Hắc Đạo nào lọt xuống khu Sài Gòn là tên đó bị đàn em của Đại Cathay chặn đánh. Đầu năm 1964, biết phe Hắc Đạo đã hết phong độ, Đại Cathay quyết định đánh trận cuối, Đại dẫn theo 9 tên đàn em “chiến đấu” nhất, trong đó có Ba Thế và Lâm chín ngón đi trên 5 xe Goebel bất thình lình tấn công vào quán cà phê ngay trước rạp Hào Huê đối diện với Đại Thế Giới. Đây là điểm tụ tập của các tay đàn em Tín Mã Nàm vào hai buổi sáng chiều.
Cuộc tập kích thất bại, hai bên đều thiệt hại nặng nề. Nhưng máu liều của Đại Cathay càng được giới giang hồ truyền tụng và vì nể. Tín Mã Nàm cũng lo lắng: nếu cứ để cho Đại Cathay tập kích mãi như vậy, giới Hắc Đạo chỉ còn nước dẹp hết sòng bài, tiệm hút vì không còn ai dám bén mảng. “Con ngựa điên” phải kìm cơn điên, cử người đến mời Đại Cathay lên nhà hàng Đồng Khánh điều đình. Đàn em cố khuyên Đại đừng vào hang cọp, e bị “trải đệm” nhưng Đại Cathay nổi máu yêng hùng, vẫn quyết định nhận lời. Để tài xế ngoài cửa, Đại một mình tay không lên nhà hàng hội kiến với Tín Mã Nàm. Cử chỉ ngang tàng này khiến Tín Mã Nàm thầm phục. Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại Cathay toàn quyền. Phần quận 5, Chợ Lớn, đàn em của Đại được phép hoạt động, với điều kiện không lấn vào những khu vực đã có sẵn người của Hắc Đạo. Riêng các khu vực chợ Sắt, chợ Tân Thành, hẻm “dzách bạc hồ hãn” (hẻm 100), Đại Cathay và đàn em tuyệt đối không được xâm phạm, vì đó là giang sơn riêng của Tín Mã Nàm, nơi vợ bé của y sinh sống.
3. Tiếp tay cho cảnh sát đàn áp tù chính trị
Trong chiến dịch bài trừ du đãng của cảnh sát ngụy năm 1966, cái tên Lê Văn Đại, tức Đại Cathay được liệt vào hàng “gian nhân hiệp đảng” đặc biệt nguy hiểm. Bản phúc trình ngày 15.6.1966 gửi Phó cảnh sát trưởng Trần Văn On có ghi rõ: “Tên Đại Cathay đã sống không nghề nghiệp từ năm 19 tuổi. Y đã kết hợp cùng một số thanh niên cùng tình trạng tổ chức những vụ chém lộn khắp vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Y đã hai lần tổ chức chém người tại khu Dân Sinh và Chợ Lớn. Ngoài ra, y cũng bị chém một lần tại đường Lê Lai. Đặc biệt, số người bị đánh chém cũng như đã chém y đều thuộc thành phần lưu manh du đãng...”. Vì vậy, dù không thu được chứng cứ cụ thể, Đại Cathay vẫn bị điệu ra tòa tiểu hình với tội danh du đãng đặc biệt và bị tống giam 45 ngày vào phòng 24 E, khu ED, trại Chí Hòa.
Khu ED gồm 2 dãy E và D. Dãy E gồm toàn loại anh chị lưu manh, tù hình sự nổi tiếng hung hãn. Dãy D là nơi giam giữ chính trị phạm, bộ đội giải phóng bị bắt... Mục đích của bọn cảnh sát ngụy khi đem giam chung chính trị phạm với đám lưu manh côn đồ là muốn mượn tay bọn đầu trâu mặt ngựa để đàn áp, bức bách tù chính trị. Chúng chọn trong đám lưu manh một số tên hung hãn nhất cho làm tự quản, được quyền giữ chìa khóa phòng giam, chìa khóa hành lang, tùy ý cho tù ra, vô phòng. Cả hai dãy E và D chỉ có một hồ nước lớn, đặt dưới dãy E. Khi đến giờ anh em tù chính trị, ngoài giặt giũ, lấy nước, đám tự quản thường khóa các cửa phòng dãy E lại, đề phòng đám lưu manh tràn sang khiêu khích đánh đập tù chính trị. Ngoài những tên tự quản, không một tù thường phạm nào được phép lai vãng vào giờ nghỉ.
5 giờ chiều ngày 25.8.1966, Đại Cathay đi hầu tòa về. Thay vì về phòng ngồi, hắn nói với Của Gia Định và Ngọc Heo, hai tên tự quản đang ngồi ôm đàn nghêu ngao hát:
- Trời nóng quá, tao tắm một phát.
Sợ đàn anh, hai tên tự quản vội vã lấy xà phòng cho Đại Cathay. Hung hăng, ngổ ngáo, Đại vục luôn cả đầu đầy xà phòng vào xô nước đang hứng của một bác chính trị phạm. Người tù chính trị nhỏ nhẹ trách:
- Nước ít, chú làm vậy coi đặng sao?
Vốn tính côn đồ, Đại tưởng ai cũng sợ mình. Hắn giang tay tát thẳng vào mặt người chính trị phạm và gầm lên:
- Mày biết tao là ai không mà dám cự nự?
Vài ba người tù chính trị khác đứng cạnh đó, dằn lòng không được, xông vào xô Đại Cathay ra. Tay anh chị cộm cán bộc lộ bản chất côn đồ, vừa đấm đá lung tung, vừa la toáng lên:
- Tụi nó đánh tao!
Từ trên lầu, Của Gia Định và Ngọc Heo nhảy vào trợ chiến, xông vào đánh những chính trị phạm này. Không nhịn được nữa, gần 100 chính trị phạm từ lầu 3D kéo ào xuống, nện nhừ tử ba tên du đãng. Mấy trăm tên du đãng bị nhốt trong dãy E náo động, la hét inh ỏi. Không may cho chúng, chìa khóa các phòng đều đang nằm trong người Ngọc Heo nên đành chịu chết, chỉ đứng sau song sắt buồng giam nện thình thình và la ó vang trời.
Ban đầu nghe ồn, tưởng thường phạm đánh chính trị phạm, bọn cai ngục vờ giả điếc, lúc này mới vội vã chạy xuống đưa ba tên du đãng đi cấp cứu. Mặt khác, chúng mở cửa phòng để cho hàng trăm tên thường phạm hung hãn vác hung khí ùa xuống xông vào đánh tù chính trị. Quân ít nhưng đoàn kết, anh em tù chính trị vừa đỡ đòn vừa dìu nhau rút về phòng, khóa chặt cửa cố thủ. Mảnh lu nước, gạch vỡ được cạy lên ném ra, anh em tù chính trị đã khiến không tên du đãng nào lọt vào được dù trong tay chúng có nào cán chổi sắt, gỗ thanh, nào dao...
Tình trạng hỗn loạn kéo dài đến tận đêm. Không những không can thiệp, bọn cai ngục còn cố tình tiếp tay và xúi giục bọn côn đồ. Chúng mở toang cửa dãy D cho bọn côn đồ mặc sức tung hoành, đập phá. 9 giờ tối, bọn giám thị phao lên: Đại Cathay, Của Gia Định, Ngọc Heo đã chết ở bệnh viện. Lập tức, toàn khám Chí Hòa náo động. Bọn lưu manh gom hết đèn cầy thắp sáng đêm hò hét vang trời đòi trả thù. Không nao núng, gần 100 chính trị phạm vẫn đoàn kết bao bọc nhau, cố thủ và đẩy lùi toàn bộ các cuộc tấn công hung hăng của gần 800 tù thường phạm. Đến sáng, khu ED phơi ngổn ngang dưới nắng một cảnh tượng như bãi chiến trường với gạch ngói, mảnh lu, vải rách và khá đông người bị thương của cả hai bên. Lúc này, bọn giám thị mới hoảng hốt, sợ tù hai bên sẽ phá banh khám. Chúng gọi cảnh sát dã chiến vào ốp đám thường phạm vào phòng. Bị kích động, đang say máu, đám thường phạm xông vào đánh luôn cả cảnh sát dã chiến. Hoảng hồn, những tên cai ngục phải cho xe lên bệnh viện chở 3 tên du đãng bị thương về. Khi Đại Cathay, Của Gia Định, Ngọc Heo đầu, tay quấn băng trắng nhăn nhở cười và bước vào, cuộc náo loạn mới chấm dứt. Kỳ thực anh em chính trị phạm chỉ bức xúc vì bị hành hạ nên đánh cảnh cáo chứ không vì thù hằn, không ra đòn nặng. Chính Đại Cathay sau đó cũng phải thừa nhận với đám giang hồ:
- Tụi mình bậy quá. Mấy ổng mà không nương tay, cũng chơi ác như mình thì ba thằng tao tiêu lâu rồi!
4. Du đãng đụng... nhà văn
Học đòi làm sang, Đại Cathay, Phong khùng, Lâm Chín ngón ưa rủ nhau đến “nằm bẹp” bên bàn đèn của tiệm hút Đông Kinh, đường Ngô Tùng Châu, quận 1 (nay là đường Tôn Thất Tùng). Tại đó, Đại làm quen và chơi thân một số dân văn nghệ như Tâm, con trai bà Bút Trà - chủ bút tờ Sài Gòn mới, Duyên Anh (tên thật là Vũ Mộng Long - chủ bút tờ Tuổi Ngọc) và Văn Quang - nhà văn kiêm đại úy tâm lý chiến - những dân chơi tìm “yên sĩ phi lý thuần” (từ lóng, đọc trại chữ in inspiration - cảm hứng) thường trực tại tiệm hút này.
Duyên Anh là một nhà văn khá nổi tiếng chuyên viết sách “xúi con nít đập lộn”. Sau nhiều lần “nằm bẹp” (tai) nghe Đại Cathay kể về cuộc đời du đãng của mình, Duyên Anh nổi hứng làm thơ tặng và đọc cho Đại Cathay nghe, trong đó có  đoạn:
Mái tóc nâu vương niềm đau thương
Quần Blue Jean chung thủy bạc thời gian
Bastos xanh gắn chặt ngón tay vàng
Mái tóc bồng rối loạn nét hồn hoang
... Hè đại lộ Paso dồn dập overnight
Lê gót giày nghiến trầy lưng phố xá...
Thấy nhà văn này có vẻ “khoái giang hồ”, tả mình khá đúng, Đại Cathay ra chiều... cảm động. Để “lấy le”, tỏ ra ta đây “biết chơi”, Đại Cathay thường nèo kéo, rủ rê, bao Duyên Anh ăn nhậu, hút sách trước mặt đàn em tỏ vẻ ta đây hào phóng và biết quí trọng những người “làm nghệ thuật”. Duyên Anh tán dương Đại Cathay:
- Anh mã thượng như một nhân vật bước ra từ trang sách của Francoise Sagan.
Đại Cathay nở phồng cánh mũi, dù chẳng hiểu mô tê gì cả. Lúc về, Đại Cathay quay sang hỏi Lâm Chín ngón:
- Sagan là... ông nào vậy?
Biết đàn anh “bé cái lầm” Lâm Chín ngón vẫn không dám cười, cố tìm cách giải thích cho Đại Cathay hiểu, rằng không phải là “ông” mà là bà Sagan (!) - nhà văn ưa viết về đề tài bụi đời của Pháp, từng đoạt giải Nobel văn học. Nghe xong, Đại Cathay lấp liếm:
- Ông hay bà gì cũng xong, miễn chịu chơi là được. Phải có bả ở đây, tao kêu bà đi nhảy đầm. Viết được về giang hồ, muốn giải gì tao cũng chiều!
Tất nhiên, bà Sagan thì chẳng muốn nhưng Duyên Anh thì có. Sau một thời gian nằm hút chung với Đại Cathay, nhà văn khoái chuyện đập lộn này đã cho ra đời tiểu thuyết “Điệu ru nước mắt” với nhân vật chính lấy từ nguyên mẫu con người và tên Đại. Đọc xong cuốn sách, Đại Cathay bỗng dưng nổi cáu, hắn gầm lên:
- Thằng cha nhà văn này cà chớn, muốn chơi xỏ tao, viết bậy viết bạ. Tao làm đếch gì mà phải lụy đàn bà đến nỗi chết khô cả xác.
Mặc cho đám quân sư có học tốn công giải thích, rằng nhà văn họ có quyền hư cấu, Đại Cathay vẫn hằm hằm ra lệnh cho đàn em tìm Duyên Anh để “luộc”. Mối bang giao không ngờ kết thúc quá bi đát, Duyên Anh sợ vã mồ hôi vội cao chạy xa bay, giông tuốt lên Đà Lạt trốn hơn nửa năm liền. Rất may cho ông ta, cuối năm 1966, Đại Cathay bị cảnh sát tống ra đảo Phú Quốc và mất tích tại đó. Lệnh của hắn đương nhiên bị bãi bỏ. Lúc này, Duyên Anh mới dám quay trở lại Sài Gòn.
Không chỉ Duyên Anh, không ít nhà văn, nhà báo của chế độ cũ sau này cũng cố tình bới móc tìm hiểu cuộc đời, tính cách của Đại Cathay và thổi phồng lên, biến nó thành huyền thoại về một tên du đãng nghĩa hiệp và hào phóng, với những cuộc tình hết sức lâm ly bi ai. Bộ phim và bài hát cùng tên “Vết thù trên lưng ngựa hoang” khá nổi thập niên 1970 là một ví dụ điển hình.
Thực tế, sự "hào phóng", "chịu chơi", "nghĩa hiệp", chỉ là thứ trang sức lòe loẹt mà Đại Cathay cố khoác lên, đánh bóng cho mình. Tại khu Da Heo, Đại thường tỏ ra hào phóng với người nghèo, hay móc tiền quăng cho đám trẻ con đánh giày, bán báo để lấy tiếng. Bù lại, hắn đã dựng nên cả một hệ thống bảo kê, trấn lột đòi “thuế” của rất nhiều hàng quán khắp vùng quận Nhất, quận Nhì, quận Ba Sài Gòn; đã chỉ huy đàn em gây ra hàng chục, cả trăm vụ loạn đả, phá phách đánh chém nhau vô tội vạ mà hậu quả thường chỉ trút lên đầu những người dân thấp cổ, bé họng không hề có thù oán gì với hắn. Và, số tiền “từ thiện” mà Đại Cathay ném cho những đứa trẻ bụi đời trong những cơn cao hứng xem ra chỉ là hạt cát so với hàng núi tiền mà hắn đã quăng ra cùng đàn em hút xách, ăn nhậu, đập phá và bao gái trong những đêm nhất dạ đế vương thác loạn.
5. Giang hồ không có vua
Mỗi lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng lại một phen khiến người đi đường khiếp vía. Như một gã con trời thứ thiệt, Đại Cathay chễm chệ trên băng trước chiếc Mustang mui trần do Năm Công lái, có cả chục tên đàn em phóng xe máy theo sau hộ tống. Xe chạy xả ga, hú còi vô tội vạ khiến mọi người hốt hoảng chạy giạt sang hai bên đường, trong khi đám lưu manh tha hồ vỗ tay cười hô hố. Có lúc cao hứng, Đại Cathay còn thượng cả hai chân ra trước kính xe hoặc thò ra bên cửa hông gõ thùng xe loạn xạ...
Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay khiến những kẻ tai to mặt lớn và cảnh sát ngụy hết sức tức tối, nhiều lần tống cổ Đại vào khám. Nhưng bắt cóc bỏ đĩa, chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam giữ hắn lâu, đành phải thả. Dùng luật không xong, nhiều quan chức ngụy tìm cách mua chuộc hắn.
Biết Đại Cathay đang tuổi quân dịch, viên tướng cao bồi Nguyễn Cao Kỳ - có lẽ do muốn chơi trội - bèn cho gọi tên du đãng đến. Kỳ phủ dụ:
- Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh không thể trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng lính, lại vẫn có quyền hành, muốn đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán. Anh cứ suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được.
Tên du đãng ít học đời nào chịu suy nghĩ những ba ngày. Kỳ chưa dứt Đại Cathay đã trả lời luôn:
- Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố. Phiền nỗi tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho người khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp?
Tướng râu kẽm bầm mặt nhưng vẫn ngọt nhạt:
- Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc gia, danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi đâu thiếu người giỏi.
Đại Cathay vẫn ngổ ngáo:
- Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được...
Sau Nguyễn Cao Kỳ đến lượt tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc Nha cảnh sát Đô thành. Tuyên bố “Đặt giang hồ ra ngoài vòng pháp luật”, tuớng Sáu Lèo cho mở “Trung tâm bài trừ du đãng” đặt ở bên kia cầu Bình Triệu (quận 9) và lập “Biệt đội hình cảnh” nhằm tiêu diệt giang hồ do đại úy Trần Kim Chi làm đội trưởng. Theo lệnh Sáu Lèo, “Biệt đội hình cảnh” được bắn bỏ bất cứ tên giang hồ nào trên đường phố nếu chúng gây án và chống lại cảnh sát. Sau một thời gian hoạt động, “Biệt đội hình cảnh” vẫn chỉ tóm được một số tên du đãng “tép riu”, tướng Sáu Lèo bèn quay sang tìm cách mua chuộc Đại Cathay hòng “dĩ độc trị độc”. Đích thân Mã Sâm Nhơn, phụ tá của tướng Sáu Lèo đến gặp, đưa giấy mời của “ngài” chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan cho Đại Cathay. Cùng một đàn em, Đại Cathay có mặt y hẹn. Nguyễn Ngọc Loan ra giá:
- Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty cảnh sát quận 7. Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh du đãng.
Đại Cathay từ chối:
- Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh liệt.
Nguyễn Ngọc Loan hạ giá:
- Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh phải giải tán băng nhóm, không được lộng hành.
Đại Cathay đồng ý với điều kiện để cho y và đàn em toàn quyền làm ăn và cai quản khu cảng Sài Gòn, Khánh Hội, khu vực chợ vựa Cầu Muối, và hai bên bờ Kinh Tẻ. Thấy tên giang hồ cứng đầu, Nguyễn Ngọc Loan nổi đóa:
- Tôi lệnh cho anh giải tán hết, nếu không giang hồ, du đãng sẽ không còn đất sống!
Đại Cathay trả lời:
- Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng khác được?
Cuộc mặc cả kết thúc. Tiếng tăm Đại Cathay nổi như cồn trong giới giang hồ vì “dám vuốt râu kẽm” tướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối chức tước của Nguyễn Ngọc Loan ban cho. Đại Cathay càng vênh váo hơn. Nhưng, chính bằng sự nổi tiếng ấy, Đại Cathay đã tự ký cho mình bản án tử hình.
Quá ngạo mạn, lại đang là giai đoạn cực thịnh của băng Cathay, Đại vẫn không hề biết điều đó, tiếp tục lộng hành. Không chỉ ngổ ngáo với tướng Sáu Lèo trong công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức viên tướng này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của cái lon chuẩn tướng và trọng trách “Chief” ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan đang nắm giữ.
Vào thời điểm đó, Sài Gòn ngập trong không khí sống gấp và hưởng thụ, không cần biết đến tương lai. Một trong  những mốt thời thượng của các nhà buôn giàu có, các sĩ quan cộng hòa hào hoa, các công tử con nhà gia thế là công khai có nhân tình nhân ngãi hoặc cặp bồ với cave, nghệ sĩ trẻ đẹp. Đường đường là một vị tướng, Nguyễn Ngọc Loan đâu thèm để mắt tới các cô cave, ca sĩ phòng trà bình thường. Người ta thấy “ông tướng độc nhỡn” thường xuyên có mặt tại vũ trường Olympic trên đường Lê Lợi vào mỗi tối thứ 7. Tại đó, Nguyễn Ngọc Loan là chủ nhân của một vưu vật: ca sĩ Phương Dung nổi tiếng xinh đẹp và quý phái, người được mệnh danh là “con nhạn trắng Gò Công”, lấy vũ trường này làm đất biểu diễn. Mỗi lần đến thăm tình nhân, viên tướng xách theo cả chục tên vệ sĩ thuộc hàng thiện xạ, cũng nổi tiếng ngổ ngáo và chịu chơi, phóng xe Jeep bạt mạng với những đường cua cong lề bạt phố, đạp phanh cháy cả mặt đường.
Olympic cũng là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới. Hơn thế nữa, Thủy Tàu - tài pán vũ trường Olympic còn là một “mối” rất khoái Đại Cathay.  Khác với viên tướng và đám lâu la bụi bặm, Đại Cathay thường lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hòa không khí, choáng lộn và êm ru nhẹ nhàng bơi đến cửa vũ trường. Loại xe đó, cả Sài Gòn chỉ có dăm ba chiếc.
So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại và băng Cathay luôn sẵn sàng “xài lớn”, rút tiền chẳng bao giờ đếm, người ngợm cũng “kẻng” hơn, dĩ nhiên là được các em cave  ở đây săn đón nồng nhiệt hơn nhiều. Bị “gác kèo”, đám vệ sĩ tức lắm, nhiều lần hậm hực, nhưng Đại Cathay và đám đàn em vẫn phớt ănglê, coi như “chuyện tép”.
Một tối, Đại và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín ngón và Lành Cầu Muối - một tay cảnh sát ăn “rơ” với giang hồ kéo đến Olympic từ khá sớm. Thấy các đàn anh, đám cave ríu rít túa ra vây lấy bá cổ níu tay, chí chóe cả gian bar trên lầu 2. Cả đám “vui vẻ” mới chừng nửa tiếng, cánh cửa lại xịch mở. Đám vệ sĩ của Sáu Lèo - không có chủ tướng đi cùng - xộc vào, cũng cỡ chục tên. Ngồi chờ cả 15 phút, đám vệ sĩ vẫn không thấy cô cave nào đến săn sóc. Trong khi đó, ở mấy bàn bên vẫn liên tục vọng sang tiếng cấu véo giỡn hớt rúc rích của băng Cathay với đám cave như thể trêu ngươi. Nổi cáu, cả đám vệ sĩ đưa mắt nhìn nhau và đứng bật dậy. Thiếu úy Hải, một tay nổi tiếng thiện xạ tiến sang, đứng đối diện với Hải Súng của băng Cathay, hất hàm:
- Vui vẻ quá, hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi không, coi sao đặng?
Vẫn không buông vai cô “đào nhí”, Hải Súng hất mặt:
- Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu chậm phải uống nước đục, trách gì?
Viên thiếu úy gườm gườm, đưa tay vào bụng đặt lên báng súng:
- Đừng chơi quê tụi này chớ!
- Thì đã sao? - Hải Súng hếch mặt lên. Lúc này băng Cathay và đám cave cũng đã ngưng đùa giỡn, ngẩng lên thủ thế. Được khích lệ, Hải Súng tiếp: - Thịt người tanh không ăn được, đừng dọa nhau, tụi này không thích!
Bị khiêu khích, mắt thiếu úy Hải vằn lên. Hắn xấn xổ chụp lấy tay cô đào nhí kéo về phía mình, tuyên bố:
- Không thích cũng bắt!
Sợ hãi, cô cave thét lên. Không nói không rằng, Hải Súng vớ ngay chai Black and White trên bàn giáng thẳng xuống đầu đối thủ. Phản xạ nhanh, thiếu úy Hải vội buông cô cave nhảy vọt sang một bên và móc súng. Hai băng xông vào nhau. Bàn ghế ly tách bay tứ tán. Đột nhiên, Đại Cathay hét lên:
- Tụi nó chơi súng, rút, tụi bay.
Pằng! Pằng! Pằng! ầm!
Đại chưa dứt câu, dàn đèn pha lê đã rơi ụp xuống sàn, vỡ tung tóe, đồng thời một viên đạn cũng nhằm đầu gối Đại găm tới, xô y gục xuống. Hải Súng vội xô tới xốc Đại lên bỏ chạy. Trong băng chỉ có Hải và Lâm Chín ngón giắt súng theo. Cả hai cũng vội móc ra bắn loạn xạ. Lâm Chín ngón gào lên:
- Anh em rút đi, để tôi lo!
Lúc này, đám cave, bồi bàn đã hoảng hồn bỏ chạy hết. Thủy Tàu khá nhanh trí, vội chạy bổ vào trong sập cầu dao điện. Bóng tối chụp lấy vũ trường đã hỗ trợ cho băng Cathay bỏ chạy. Bị thương, Đại Cathay khó khăn lắm mới được Hải Súng và Ngân Pôcôn dìu được xuống lầu và kéo thẳng ra đường. Lúc này, Lành Cầu Muối cũng vừa vặn trờ chiếc Mustang tới, hốt cả bọn lên xe chạy thẳng. Lâm Chín ngón chạy sau cùng. Sau khi nhả hết đạn, y cũng vội đu cửa sổ phóng xuống đường Tạ Thu Thâu cắm đầu chạy luôn một mạch. Sau lưng, đám vệ sĩ Sáu Lèo vẫn nã đạn theo chíu chíu.
Không thu phục được Đại Cathay, tướng Sáu Lèo đã ra lệnh cho “Biệt đội hình cảnh” bắt, bỏ tù hàng loạt đàn em nhằm cô lập hắn. Núng thế, Đại Cathay đành tìm cách hoãn binh. Một buổi tối, hắn mua nguyên nhà hàng Paramouth mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Khi rượu đã chếnh choáng, Đại Cathay mới ngỏ ý:
- Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh...
Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại ngang tàng không kém gì Đại Cathay, từ chối thẳng thừng:
- Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu.
Nếu là trước đó mười hôm, máu côn đồ của Đại Cathay  sẽ nổi lên ngay. Nhưng đang yếu thế nên Đại vẫn nhũn nhặn:
- ồ, không, không! Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi, còn hôm nay mời đại úy đến là để anh em vui vẻ. Mời đại úy cứ tự nhiên, đêm nay toàn bộ nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm gì.
Viên đại úy không vui vẻ được lâu, cũng chẳng còn thời gian để bận tâm lâu hơn nơi cõi thế. Sau buổi tiệc chỉ nửa tháng, một chiếc xe “be” chở gỗ không rõ xuất xứ đã “bò” ngang qua chiếc xe hơi CV2 của Trần Kim Chi khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ. Đại úy Chi và viên lái xe chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất tăm, “không nhận dạng được biển số”. Giới giang hồ đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại Trần Kim Chi để trả đũa.
6. Trại “Cửu Sừng” và vụ mất tích bí ẩn
Cái chết của đại úy Trần Kim Chi đã đánh dấu chấm than cuối cùng cho cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8.1966, với tội danh “Du đãng đặc biệt”, Đại Cathay lại bị tóm cổ. Cùng với một loạt du đãng khác, ngày 28.11.1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại đảo Phú Quốc.
Gọi là “Trung tâm hướng nghiệp” nhưng chính xác, đây là nơi lưu đày những tên lưu manh ngoại hạng dày thành tích bất hảo nhưng không có chứng cớ để bắt quả tang, do chính Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập nhằm “bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”. Nó chính là một dấu ấn chứng tỏ sự bất lực của luật pháp ngụy quyền.
Trại là những dãy nhà dã chiến thấp lè tè nằm trong vòng rào kẽm gai bịt bùng đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay tại thị trấn Dương Đông. Gọi “hướng nghiệp” cho oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp vặt, đánh mạt chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có việc gì để làm. Một hôm, đang đánh mạt chược, Đại Cathay bảo:
- Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, tụi mình đặt lại tên cho nó đi.
Cả bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng có học đề xuất:
- Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên đó.
Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là “Trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu Sừng”.
Không giống như dự định của tướng Sáu Lèo và cảnh sát ngụy, Trại “Cửu Sừng” chẳng những không “hướng” được chút “nghiệp” nào cho đám đầu trâu mặt ngựa mà ngược lại hoàn toàn. Toàn bộ đám du đãng bị bắt vào đây như Đại Cathay,  Hải Súng, Hòa áo thun, Lâm Chín ngón, Bảy Si, Hỏi Phoòng Kin, Thanh tưa, Quẩy Thầu Hao... sau này đều là những tên giang hồ cộm cán nhất của Sài Gòn - Chợ Lớn, càng ngày càng hung hãn hơn. “Trại Cửu Sừng” như một con dấu chất lượng để đánh giá giang hồ. Tên nào từng ngồi ở “Trại Cửu Sừng” sau này đều trở thành đàn anh, được quyền ăn trên ngồi trốc trên chốn giang hồ.
Ngoài những huyền thoại về nghề đâm chém, Đại Cathay còn nổi tiếng nhờ khoản bồ bịch. Khi mới nổi danh, Đại cưới một cave nổi tiếng của vũ trường La Sarel tên là Thúy, được một đứa con gái. Sau Thúy, Đại lấy Hằng, cashier (thu ngân) của một vũ trường nổi tiếng khác ở Đà Lạt. Được ít lâu, Đại Cathay lại cặp kè với Lệ Hải, một nữ quái kiệt trong giới giang hồ.
Đám dân chơi có thời đồn ầm ĩ lên rằng, Lệ Hải si mê Đại Cathay đến nỗi một ngày chi cho “ông anh” hàng chục lượng vàng để ăn chơi đập phá, nhằm độc chiếm trái tim của tên du đãng ngoại hạng. Thực tế không phải như vậy. Lệ Hải là một cô gái khá ngổ ngáo, một đàn em của Đại Cathay trong nghề bảo kê đâm chém. Quan hệ của Đại Cathay với Lệ Hải chỉ là đàn anh, đàn em, hoàn toàn không có chuyện bồ bịch. Chuyện Lệ Hải chi cho Đại một ngày hàng chục lượng vàng lại càng không có nốt! Nguyên nhân của lời đồn chỉ là do một lần, đang nằm ở tiệm hút Đông Kinh, Đại Cathay ngẫu hứng muốn khoản đãi đám dân chơi một chuyến du hí Đà Lạt. Không mang tiền theo, Đại sai đàn em chạy đi kiếm Lệ Hải, nhà ở gần đó để mượn đỡ. Lệ Hải có mặt ngay tức khắc và đưa cho Đại Cathay mấy chục lượng vàng như yêu cầu. Tất nhiên, được phục vụ đàn anh với Lệ Hải đã là điều diễm phúc, cho nên công đoạn làm giấy ghi nợ hoàn toàn không xảy ra. Vậy là thành lời đồn đại.
Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại Cathay là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), đối diện với vũ trường Olympic. Tân, anh trai cô Nhân là một bạn bàn đèn với Đại Cathay ở tiệm hút Đông Kinh. Sau nhiều lần cùng “nằm bẹp” tâm sự, Tân mời Đại Cathay về nhà chơi. Thấy Đại Cathay khen em gái mình đẹp, tỏ ra khá “mết”, Tân tuyên bố sẵn sàng gả em gái cho bạn. Cô Nhân thuộc loại tiểu thư con nhà giàu, cũng tỏ ra khoái phong cách giang hồ ngổ ngáo của Đại Cathay nên gật đầu. Vậy là nên vợ thành chồng. Đại và Nhân có với nhau một đứa con gái, nhưng rất ít khi Đại sống với vợ con. Lấy câu “bốn bể là nhà”, Đại Cathay suốt ngày lăn lộn ở các vũ trường, tiệm hút và mải mê đâm chém nhau ngoài đường, chẳng mấy đoái hoài tới vợ con. Là một dân chơi thứ thiệt, Nhân cũng mặc kệ, chẳng hề lấy thế làm buồn.
Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở lại Sài Gòn, biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình e khó có ngày về. Cô cùng anh trai vung tiền ra tìm cách cứu Đại Cathay.
Đầu tháng 1.1967, Nhân có mặt trong đoàn thân nhân ra thăm nuôi đám du đãng bị nhốt ở Trại “Cửu Sừng”.  Gặp Đại Cathay cô báo cho chồng biết, đã lo cho xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Đám lính gác sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ sẵn sẽ đưa đám tù ra khơi, có tàu hải quân do Nhân bố trí sẵn rước về đất liền. Để mua chuộc đám lính gác, Nhân đưa cho Đại Cathay một chiếc áo bluson và dặn dò kỹ lưỡng. Nhìn bề ngoài, nó chỉ là một chiếc áo lạnh rẻ tiền, sau lưng có một con rồng ấp quanh bản đồ Việt Nam thêu hai màu, nửa miền Bắc màu đỏ, nửa miền Nam màu vàng. Loại áo này bán nhan nhản dọc các tiệm đường Lê Thánh Tôn, trong chợ Dân Sinh... chủ yếu để đám lính Mỹ sắp hồi hương mua về làm kỷ niệm.
Khi chuyển áo cho Đại Cathay, tên lính canh của trại hướng nghiệp Phú Quốc thấy nó nặng hàng ký nên đâm nghi ngờ. Lần theo lưng áo hắn sờ thấy giữa hai lần vải có hàng chục miếng kim loại mỏng được khâu đầy trong đó. Đoán là vàng, tên lính canh định lôi ra khám xét. Lập tức cái liếc xéo của tên sĩ quan đứng cạnh đã ngăn hắn lại. Tên lính đành trả lại áo cho Đại Cathay mang về phòng.
Theo lời đồn đại của giới giang hồ thì khi về phòng, Đại Cathay đã xé chiếc áo lấy ra đúng 62 lá vàng loại 1 lượng khâu trong đó. Với số vàng này, Đại đã mua chuộc đám cai ngục để chúng bố trí cho lính gác làm ngơ khi Đại bỏ trốn.
Đi theo Đại Cathay có khoảng một chục đàn em trong đó có Xì kíp,  Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hải Súng và Lâm Chín ngón... Đến phút cuối, Đại Cathay nghe theo lời Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín ngón - gã đệ tử thân nhất - ở lại. Đại nói với cả đám:
- Thằng Lâm lóc chóc, dễ làm bể chuyện lắm. Vả lại, chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nó còn trẻ, tội lắm. Chi bằng để nó lại, mình thoát rồi lo cho nó về sau an toàn hơn.
Trước giờ khởi sự, Đại Cathay gọi Lâm Chín ngón đến và bảo:
- Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho mày một lần cuối cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không đừng trách.
Đại đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi đô bình thường do chính tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một ít tân dược để tăng nồng độ. Phê thuốc, Lâm Chín ngón quay ra ngủ say như chết. 12 giờ đêm ngày 7.1.1967, Đại Cathay dẫn đàn em đào thoát ra ngoài.
Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh. Tốp thứ hai, có Đại Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Bất ngờ, khi cả hai tốp vừa vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Đạn vãi như mưa, hỏa châu bắn sáng trời. Tốp thứ nhất, gồm Xì kíp, Hùng Mỏ chuột... bị tóm cổ lại ngay. Đại Cathay và Hải Súng (tức Võ Văn Hải) vội đổi kế hoạch, chạy lên phía Bắc đảo, lần vào khu núi Tượng, nơi có Quân giải phóng hoạt động. Đến đây, không ai còn tận mắt gặp lại Đại Cathay và Hải Súng. Và hàng loạt giai thoại giải thích sự mất tích của hai tên du đãng đầu sỏ bắt đầu xuất hiện.
Giai thoại thứ nhất kể rằng: Đại Cathay đã trốn thoát khỏi đảo, cùng Hải Súng bơi ra tàu Hải quân chờ sẵn. Tàu về đến Cà Mau, bị Quân giải phóng tấn công khi đang tấp vào bãi bí mật. Sau trận đụng độ, Đại Cathay bị Cách mạng bắt sống. Được cảm hóa, anh ta trở thành một Giải phóng quân. Tết Mậu Thân năm 1968, Đại dẫn đầu một tiểu đội Quân giải phóng tấn công vào nội đô Sài Gòn từ hướng Tây và bị bắn ngã trước trại lính dù Hoàng Hoa Thám, gần Ngã tư Bảy Hiền. Một vài tờ báo chuyên săn tin giật gân ở Sài Gòn hồi đó còn chua thêm: “Tìm thấy trong tử thi một hộp quẹt Zippo khắc tên Trần Đại (Đại chuyên dùng loại quẹt Zippo trang bị cho lính Mỹ), một cuốn nhật ký mang tên Đại Cathay, trong đó anh ta kể lại đầy đủ chi tiết về đời du đãng của mình và tự nhận mình là nhân vật chính trong cuốn “Điệu ru nước mắt” của Duyên Anh từng nổi tiếng một thời.”
Tuy nhiên, những chi tiết mà báo chí nêu trên không hề được bất kỳ ai kể cả phía Cách mạng lẫn phía ngụy quân đứng ra xác nhận.
Giai thoại thứ hai nói rằng Đại Cathay đã trốn sang Thái Lan, sống mai danh ẩn tích ở Băng Cốc, đoạn tuyệt hoàn toàn với quá khứ.
Giai thoại thứ ba do Hòa áo thun - cùng ngồi Trại “Cửu Sừng” với Đại Cathay kể lại, có vẻ hợp lý hơn cả. Sau chuyến vượt trại của Đại Cathay ít lâu, Hòa áo thun cũng tìm cách trốn trại khi được ra ngoài lao động. Trong thời gian lẩn trốn ở núi Tượng, Hòa áo thun đã bắt gặp hai ngôi mộ còn khá mới có bia mộ đẽo bằng gỗ mang tên Lê Văn Đại và Võ Văn Hải. Theo lời Hòa, hắn đã hỏi và được một số người ở núi Tượng cho biết: Đại Cathay và Hải Súng vì đói đã xông vào cướp bóc một số nhà xung quanh núi. Vì vậy, chúng bị du kích đang hoạt động ở đây bắn chết.
Chi tiết này được đại đa số giang hồ đã rửa tay gác kiếm xác nhận. Một số còn khẳng định rằng hai ngôi mộ mang tên Đại và Hải là có thật, họ đã từng đến thăm khi có dịp ghé ra Phú Quốc sau ngày giải phóng. Tuy nhiên, hồ sơ về cái chết của hai tên du đãng mà chúng tôi có được lại mang một nguyên nhân khác hẳn.
Biết không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên du đãng làm bẽ mặt, chuẩn tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại Cathay. Khi biết cô Nhân - vợ Đại - đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục... Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám tép riu, còn Đại và Hải, chúng cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng. Sau đó, Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại và Hải, bắn hạ chúng. Khi đi, toán biệt kích dù phải thay quần áo bà ba, đội mũ tai bèo, mang dép râu và sử dụng súng AK.47, giả trang làm Quân giải phóng để đổ vấy cho việc giết Đại Cathay và Hải Súng cho phía Cách mạng. Diệt xong, toán biệt kích dù phải đắp mộ, đề bia tử tế để dễ bề nhận diện và gây dư luận. Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh hoang khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay y đã nổ súng hạ gục Đại Cathay. Khá nhiều người cũng biết rõ ngọn nguồn vụ việc, song trước khi ngụy quyền sụp đổ, không một tờ báo nào dám viết về âm mưu hại địch thủ của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vì vậy, lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay - tên du đãng ngoại hạng.
Vũng Tàu, tháng 9.1999
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 9.2003
Nguyễn Hồng Lam
Theo https://trieuxuan.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát Lời hát giao duyên kể về nỗi niềm cô gái thương thầm chàng trai/ Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát/ ...