Thứ Bảy, 29 tháng 7, 2023

Trần Thị Diễm Châu 1

Trần Thị Diễm Châu 1

CHƯƠNG 1
Những đoạn viết về Sơ Joséphine - Mẹ Bề Trên
để riêng tặng vợ tôi,
và các em Nguyễn Ngọc Yến, Nguyễn Ngọc Minh.
D.A.
Đau khổ cho một người đàn bà không có thời con gái. Hình như thi sĩ Xuân Diệu đã viết thế. Tôi chẳng biết trên đời này có bao nhiêu người đàn bà không có thời con gái. Nhưng tôi là người đàn bà đau khổ của thi sĩ Xuân Diệu.
Cha tôi mất năm tôi mười hai tuổi. Mẹ tôi tái giá chín tháng sau, bất cần những lời chê bai của họ hàng bên nội, bên ngoại. “Từ nay tới này mãn tang chồng, ai dám hứa nuôi hai đứa con tôi?” Mẹ tôi đã thách thức vậy. Và những người chê bai mẹ tôi nín thinh. Ai cũng có thể nói được chuyện tiết hạnh khả phong miễn là đừng bắt họ trả tiền câu chuyện lễ nghĩa của họ.
Chị em tôi có cha dượng. Mẹ tôi theo chồng mới đi gây một hạnh phúc thứ hai ở nơi khác thật xa nơi cha tôi đã chết. Chị em tôi phải chọn một con đường duy nhất. Sống với mẹ. Vì họ hàng bên nội có ai níu kéo chúng tôi đâu. Chúng tôi cùng mẹ, đành làm chuyến phiêu lưu tình cảm mới. Cha dượng tôi kém mẹ tôi tới gần mười tuổi. Ông yêu mẹ tôi kinh khủng. Tôi không hiểu mẹ tôi có cái gì quyến rũ mà lôi kéo nổi một thanh niên vào vòng tay mình? Mẹ tôi chinh phục ông ta hay ông ta chinh phục mẹ tôi. Đó là một câu hỏi, một niềm bí mật cho đến nay tôi chưa khám phá ra. Điều này tôi thấy không cần thiết. Điều cần thiết là sự hòa hợp của sự sống chung không hẹn hò, không ngờ mà có. Cha dượng tôi tỏ ra dễ tình, hào hiệp. Những đứa con của chồng cũ không làm ông chướng mắt. Ông thương yêu chúng tôi như ông thương yêu mẹ chúng tôi. Tôi tự nhủ rằng chúng tôi có phước lắm.
Ngày tháng trôi đi. Cuộc sống chúng tôi phẳng lặng. Tôi nhớ cha tôi song hình như cha tôi chết sớm quá, tình thương yêu cha tôi cho tôi chắc nhiều vô kể, hiềm một nỗi, khi cha tôi còn sống, tôi chưa biết mở cửa tim để tình thương con của cha tôi tràn vào đầy ắp. Niềm nhớ nhung thành thử, đã trở nên mơ hồ. Và ví thử, có cuộc vui kéo dài một đời người, niềm nhớ nhung dễ bị quên lãng. Nhưng chưa có cuộc vui kéo dài đời một người. Mà chỉ có những ngày tháng êm đềm.
Chị em tôi lớn dần. Không thắc mắc gì cả. Mẹ tôi khỏi mất công giải thích. Chị em tôi lo học hành. Tôi học trung học. Em Huy đang ngồi ở lớp nhất. Huy nhiều ưu tư hơn tôi. Nó có vẻ kỵ cha dượng của chúng tôi. Nó lầm lì, ít nói. Con trai mà. Tôi không để ý những cảnh âu yếm giữa mẹ tôi và cha dượng. Huy thì khó chịu ra mặt. Hễ thấy cha dượng vuốt tóc mẹ tôi hay buông những lời bỡn cợt vợ chồng, Huy thường cau mặt. Đôi mắt nó long lanh một cách đáng ngại. Nó vùi đầu học. Học đến phát ốm. Cha dượng tôi săn sóc nó thật chu đáo. Ông bắt nó đi chiếu phổi và tẩm bổ cho nó. Huy biết thân biết phận, nó chống đối cha dượng âm thầm. Ông hiểu nó chống đối, chỉ chép miệng “thằng nhỏ khó tính”. Đấy là câu nói thân mật của ông. Ít khi ông gọi chúng tôi bằng “thằng nhỏ, con nhỏ”. Ông dùng tên chị em tôi và xưng trống không. “Huy, lại bảo cái này”, “A, Châu nhớ chứ!” Ông mặc cảm “cha dượng ít tuổi”. Nghĩ tội nghiệp ông ta. Càng tội nghiệp hơn, khi chị em chúng tôi lớn mau như thổi. Chúng tôi giống hệt hai cây đu đủ sau nhà. Người ta nhìn chúng nó vào cuối mùa đông. Rồi quên bẵng đi... Tới giữa mùa hạ nếu nhìn lại người ta phải ngạc nhiên: “Sao chúng nó mau lớn thế”. Con gái dậy thì có nhiều biến chứng đáng ghét lắm. Thí dụ giọng nói của tôi vô duyên lạ lùng. Nó ồn ồn khàn khàn. Lại hay nói to nữa. Người ta nói vỡ tiếng. Tôi cũng không nhớ đêm nào của mùa Thu, khi trở dậy bỗng thấy đôi má mình phơn phớt hồng. “Trai trứng cá gái má hồng”. Tôi đã mười sáu tuổi rồi. Thân hình tôi đã nảy nở đến nỗi những chiếc áo đang mặc bung cả đường chỉ. Đôi môi tôi mọng ướt. Đôi mắt rộng ra, sâu thăm thẳm. Tóc tôi xanh mướt. Tôi cao vượt và bộ ngực no đầy.
“Con lớn rồi phải coi chừng”. Mẹ tôi dặn tôi thế. Coi chừng cái gì thì mẹ tôi không nói. Sự nảy nở làm tôi khó chịu. Nhất là những ngày cuối tháng. Tôi hiểu thêm đàn bà, con gái có một cái tội. Phải chăng Thượng đế trừng phạt đàn bà, con gái bằng cái tội ghê gớm, nhơ nhớp này vì đại diện của đàn bà là bà E-Và đã xui ông A-Đam ăn quả cấm ở vườn địa đàng? Tội xui dục đàn ông làm bậy đã bị trừng phạt thỏa đáng. Những ngày cuối tháng đúng là những ngày chịu tội của đàn bà, con gái. Mọi việc rồi quen đi hết. Chẳng lưu ý tới thì chẳng có gì quan hệ. Giai đoạn chuyển tiếp từ đứa trẻ thành đứa con gái sớm chấm dứt. Giọng nói của tôi tự nhiên trong trẻo lạ lùng. Nước da tôi thắm đậm. Không còn thiếu một sự thay đổi như trên thân thể tôi. Sự thay đổi làm tôi bận rộn. Tôi phải lo chăm chút mái tóc, làn môi. Bọn học trò con trai nhìn tôi như nhìn một sự lạ. Họ trầm trồ, nhỏ to. Khiến tôi nóng bừng lòng dạ nao nao. Tôi mất công ngắm mình trong gương để nhận rằng mình đã lớn, đã đẹp. Bây giờ ở tâm hồn bỗng có một khoảng trống rỗng. Tôi không còn nhớ cha tôi nữa mà nhớ một cái gì rất xa xôi rất gần gũi. Tôi thiếu một cái gì rất mong manh, rất huyền ảo. Buổi sáng thức giấc nghe tiếng chim hót, nhớ vu vơ. Buổi trưa nằm ngủ giật mình mở mắt, nhớ vu vơ. Buổi tối đắp chăn lên ngực, cô đơn biết mấy, nhớ vu vơ. Nhớ hình ảnh mà mình chưa một lần nhìn thấy.
Dạo này, cha dượng tôi gọi tôi bằng “cô” và xưng “tôi”. Ông không còn tự nhiên trong những câu chuyện thân mật nữa. Thỉnh thoảng ông nhìn trộm tôi. Nếu tôi bắt gặp, ông vờ vĩnh đủ cách để cho tôi hiểu rằng ông nhìn tôi vô tình. Thằng Huy bén nhạy về việc này lắm. Nó bảo tôi “chị phải coi chừng”. Giống hệt mẹ tôi, nó không nói rõ tôi phải coi chừng cái gì. Huy đã đổ trung học. Nó học nhảy. Đáng lẽ học dưới tôi hai lớp, nó lại ngồi cùng lớp tôi. Hai chị em cùng học lớp đệ nhị. Tới tuổi này, trí nhớ của tôi sa sút. Tôi cố thức khuya để học mà học không nhập tâm. Mắt tôi nhìn sách mà linh hồn tôi thoát khỏi cửa sổ, đi chơi miền nhiều hoa bướm. Tuổi dậy thì, ôi cái tuổi dễ ghét lạ. Cái tuổi nó bắt người ta tưởng tượng nhiều chuyện trên trời, cái tuổi hay nghĩ bậy bạ và muốn biết những chuyện của đàn bà. Cố xua đuổi những ý nghĩ nhảm nhí thì nó cố bám ở đầu óc mình. Huy miệt mài học. Nó mắng tôi “Chị định sống đời đời với cha dượng trẻ tuổi tài hoa của chúng ta à?” Huy đã làm tôi xấu hổ. Nó cho tôi coi cuốn sổ nhỏ ghi từng đồng bạc từ ngày mẹ tôi tái giá. “Em sẽ trả món nợ này”. Tôi chớp mắt. Nhưng vẫn không sao học nổi. “Đổ tú tài, em sẽ đi lính tàu bay. Cuộc đời em, em lo liệu được. Còn đời chị, chị lo liệu dần đi. Em sẽ giúp chị. Chị cứ mãi mơ mộng”. Tôi hơi hối hận, tự hứa sẽ trở về dần dần nếp sống học trò những ngày chưa dậy thì. Rồi tôi cũng bớt mơ mộng, bớt thương nhớ vu vơ, cắm cúi vào đèn sách. Cuối năm đó, Huy đậu tú tài. Tôi rớt. Tôi biết vì sao tôi rớt nên chỉ buồn in ít thôi. Mùa hè, tôi đi học thêm Anh văn ở một tư thục chuyên dạy Anh văn. Tôi quen một cô gái nhảy. Các cô tâm sự với tôi rằng các cô đi học Anh ngữ để cho... hợp thời trang.
Tuy thế chưa có một chuyện gì lạ xảy đến với chị em tôi. Huy nóng, “đốt giai đoạn”, nó tìm cách tăng tuổi lớn tự bao giờ. Tôi ngạc nhiên thấy nó đã có thẻ căn cước, dù Huy mới 16 tuổi. Nó mong sớm thoát ly đây. Huy to con, cao lớn nên không ai ngờ nó 18 tuổi. Bây giờ nó học đệ nhất. Còn tôi ngồi lại đệ nhị. Mùa hè qua mau, mùa thu tới. Và chẳng mấy đỗi, mùa thi cũng tới. Huy đậu tú tài hai. Tôi vẫn trượt. Kể từ mùa hè này là mùa thảm khốc trong đời tôi. Huy đăng lính Không quân. Trước khi xách cái túi hành lý nhỏ bước xuống cuộc đời, Huy trao cho cha dượng tôi cuốn sổ tay nó ghi các khoản tiền ông đã xuất ra nuôi nấng cho nó ăn học, nó bảo vài năm nữa nó sẽ về trang trải cả vốn lẫn lãi. Điều này khiến cha dượng tôi hơi buồn. Nhưng ông không hề nhắc nhở. Buổi chiều, Huy rũ tôi đi chơi. Tối nó vào trại nhập ngũ. Chị em tôi tâm sự rất nhiều. Tôi chỉ biết khóc. Huy đi, nhà trống trải vô cùng. Trống trải với riêng tôi. Nó là niềm thương mến còn nguyên vẹn. Mẹ tôi đã lấy chồng, đã có con riêng, với chồng mới, tất nhiên tình mẹ con chúng tôi không thắm thiết nữa. Tôi cảm thấy cô đơn lạc lõng.
Huy đi được năm tháng, tôi bắt đầu yêu một người. Người đó là giáo sư dạy tôi học Việt văn. Cũng vào dịp này, tình bạn của tôi và một cô vũ nữ trở nên thắm thiết. Chúng tôi cùng học Anh văn từ hơn một năm nay và không đứa nào bỏ một buổi học. Chuyện tình của tôi và giáo sư Việt văn nọ kín đáo. Tên anh là Dũng. Rất tình cờ một hôm trả bài luận văn, tôi đọc những giòng chữ “tán tỉnh” của Dũng viết trong khung dành riêng cho “lời phê của giáo sư”. Tôi đã choáng váng mặt mày. Tim tôi đập mạnh, tâm hồn xao xuyến lạ lùng. Trong đời nếu có phút giây nào rung động tuyệt độ, thì chính là phút giây cửa tim mình bị một người lạ mặt hé mở. Hãy tưởng tượng một đêm nằm ngủ trong căn nhà có ma, bất chợt nghe tiếng gió đẩy cửa làm cho tiếng bản lề kêu kèn kẹt. Mình sẽ hồi hộp nín thở, chờ đợi con ma nó hiện lên bóp cổ mình. Tôi đã đợi chờ Dũng bóp cổ tôi.
Một thi sĩ tôi đã quên mất tên đã viết bốn câu thơ tả cái sự bất chợt đến của tình yêu như sau: “Có một sớm con chim xanh tình ái. Vào hồn tôi trong giây phút đăm chiêu. Tôi cảm thấy hồn tôi đau tê tái, Vì từ nay tôi đã biết yêu”.
Tôi yêu Dũng. Chỉ hiểu vậy. Làm sao cắt nghĩa được câu hỏi tại sao yêu dễ dàng thế, tại sao tim mình mềm nhũn bởi những lời tán trên bài luận văn, tại sao những lời tán tỉnh đã không viết bằng giấy màu xanh như muôn ngàn lá thư tình trong cuộc đời này. Thi sĩ Xuân Diệu bảo “Yêu là chết trong lòng một ít”. Rồi lại bảo “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu. Có nghĩa gì đâu một buổi chiều. Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt. Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu....” Thi sĩ Hàn Mặc Tử bảo chỉ có Trời mới giải nghĩa được tình yêu “Ai bảo làm thinh chớ nói nhiều. Để nghe dưới nước đáy hồ reo. Để nghe tơ liễu run trong gió. Và để nghe Trời giải nghĩa yêu”.
Vậy thì hãy làm thinh giùm tôi, đừng hỏi tại sao tôi yêu Dũng.
CHƯƠNG 2
Những ngày yêu nhau là những ngày tuyệt thú. Tình yêu làm ta quên mọi ưu phiền, làm ta hứng khởi nghĩ chuyện tương lai. Nhưng tình yêu làm cô học trò lười biếng hư hỏng. Tôi có thể thức trắng cả đêm viết thư cho Dũng hay viết lăng nhăng kín những trang giấy nháp đầy tên Dũng và tên tôi. Song cố thức để làm xong một bài toán dễ thì không tài nào thức nổi. Tôi cúp cua đi chơi liên miên với Dũng chẳng áy náy gì cả. Ông thầy của tôi không dạy đức dục cho cô học trò đang ngồi cạnh ông ta, đầu ngả vào vai ông ta, đôi mắt khép chặt, linh hồn chới với trong linh hồn ông ta. Dũng, cái tên đẹp quá. Tôi đã học hai năm liền cuốn “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh, đã say mê Dũng của Loan. Hình ảnh một chiến sĩ cách mạng thuộc giai cấp tư sản, tóc lộng bời gió bốn phương, mắt vương khói mơ mộng, chiếc cravate trễ khỏi cổ áo một chút, đi trong gió heo may ở một miền xa xôi, sao mà đẹp thế! Sao mà cảm xúc thế! Tôi đã ước mong làm Loan để một chiều gió mưa nào đó, ngồi chờ Dũng trở về với một vết thương rướm máu để xé manh áo lụa mỡ gà băng bó vết thương cho Dũng. Tôi thường xưng Loan với Dũng. Chàng vuốt tóc tôi, mỉm cười âu yếm. Con trai bây giờ, nghe nói, họ phũ phàng lắm. Hễ nom thấy trái vừa chín là hái liền, nhai ngấu nghiến. Yêu là đòi hỏi xác thịt ngay. Họ bảo con gái thời đại muốn vậy. Yêu kiểu “Hồn Bướm Mơ Tiên”, con gái sẽ “đá” ngay, sẽ chê là một thứ “cả quỷnh”. Quan niệm gì tai ác thế? Tôi nghĩ rằng không lúc nào hơn lúc này, con người thèm mơ mộng, thèm cái không khí thanh cao của chùa Long Giáng chênh vênh trên một ngọn đồi. Trong “Quê Người”, nhà văn Tô Hoài tả một “xen” hẹn hò giữa đôi tình nhân tôi thích lắm, thèm lắm. Chàng Hời sang nhà nàng Ngây. Nàng đang dệt vải giữa ngọn đèn dầu, tiếng thoi kêu lách cách. Chàng không cần gọi không cần huýt sáo. Chàng ném qua khung cửa sổ một bông hoa ngọc lan. Lát sau, mùi hoa lan thơm nức cả gian nhà. Nàng ngừng dệt vải, nhẹ nhàng bước khỏi nhà, ra cầu ao. Đã có chàng ngồi chờ đợi. Còn gì lãng mạn, thanh cao hơn nữa? Ái tình như vậy mới là ái tình ngát hương hương hoa của người Việt Nam. Nhưng những “chất” ái tình thuần túy Việt Nam ấy đã bị lửa đạn chiến tranh đốt cháy rồi, đã bị “chất” ái tình siêu thực, hiện sinh từ phương trời Tây ùa vào làm ngập lụt rồi. Thành thử người ta mới có quan niệm khốn kiếp về tình yêu.
Mười năm trở lại đây, tiểu thuyết Việt Nam không còn những mối tình thơ mộng nữa. Chỉ đầy rẫy những hiếp dâm, và luân phiên nhau làm ái tình thỏa thuận hay cưỡng bức. Cầm tay nhau không mảy may rung động. Cần phải cho tay phiêu lưu khắp thân thể người yêu mới gọi là biết yêu. Nhìn nhau chẳng nhìn vào mắt nhau. Cần phải nhìn da thịt qua làn áo mỏng. Không khí của tiểu thuyết Việt Nam hôm nay là thế đó. Như một cái “mốt” người viết ăn khách, hàng trăm người bắt chước viết theo. Tình tôi và Dũng là mối tình của tiểu thuyết tiền chiến. Một người ngồi chờ một người. Sốt ruột, lo lắng. Gặp nhau trách nhẹ vài lời, cầm tay nhau hứa hẹn buổi hẹn hò sắp tới. Và không đòi hỏi gì nhau hơn là câu nói cũ rích “Anh yêu em, Em yêu anh”. Tôi đã quên Huy, quên cả những lời Huy dặn vì Dũng. Tôi chễnh mãng bỏ việc học hành, chìm đắm trong hạnh phúc tưởng tượng. Dũng sẽ cưới tôi làm vợ. Chàng nói vậy, con gái không mong gì hơn là được yêu và được làm vợ người mình yêu. Giới hạn của mối tình giữa tôi và Dũng là những tia nhìn đắm đuối trong lớp học và những nơi hò hẹn. Tôi chưa dám lại nhà chàng dù biết chàng sống trên căn gác trọ. Tôi cũng chưa dám mời chàng đến nhà tôi. Nhưng một hôm, Dũng đến nhà tôi. Khi chàng về, trận gió nhỏ đã hứa hẹn một cơn bão lớn. Cha dượng tôi tỏ vẻ khó chịu. Chưa bao giờ ông khó chịu với tôi cả. Ông gay gắt hỏi tôi: “Ai đó?” Tôi thản nhiên đáp: “Giáo sư của tôi”. Cha dượng tôi hằn học công kích những ông giáo sư lưu manh dùng học đường làm chỗ tán gái đẹp. Tôi tức phát khóc được. Mẹ tôi vào hùa với cha dượng tôi, cấm chỉ không cho tôi mời Dũng lại nhà. Từ bữa đó, cha dượng tôi có “bổn phận” canh chừng tôi kỹ lưỡng. Ông hỏi han từng ly từng tí những lần tôi rời khỏi nhà.
Tôi có cảm tưởng mình giống một cây ăn trái sắp chín muồi. Còn cha dượng tôi là lão giữ vườn tận tâm. Hơi bần tiện một chút. Dù vậy, trái cây tôi vẫn rớt vào tay người yêu. Tại sao cha dượng tôi “tận tâm” canh gác tôi thế nhỉ? Ông ấy ghen với Dũng. Thi sĩ Nguyễn Bính đã tả tâm lý của một người đàn ông muốn độc quyền môt người đàn bà. “Thế là ghen quá đấy mà thôi. Thế là yêu quá mất rồi. Và nghĩa là cô là tất cả. Cô là tất cả của riêng tôi.” Cha dượng tôi đã yêu tôi, yêu tôi từ lâu và bộc lộ tình yêu đó vào mùa hè. Đúng là mùa hè thảm khốc. Tôi thừa thông minh để nhận biết tình yêu thầm kín của người cha dượng “đẹp trai, trẻ tuổi” của tôi. Tôi hơi buồn cười và não nề khi nghĩ rằng ông ta đã “rấm” tôi từ ngày lấy mẹ tôi. Hay lão giữ vườn tiếc rẻ bông hoa quý nhất trong mảnh vườn bé nhỏ của ông ta? Một nhà văn viết nổi một tác phẩm, quý mến tác phẩm của mình bao nhiêu thì cha dượng tôi quý mến tôi dường ấy. Tôi là tác phẩm của cha dượng tôi. Nói cho đúng, ông đã “nhuận sắc” tác phẩm của cha tôi. Thì ông có bổn phận bảo vệ “bản quyền” chứ!
Một hôm ông bảo tôi:
- Này Châu, tôi muốn sau này cô hoàn toàn hạnh phúc.
Tôi cúi đầu đáp... xả giao:
- Cám ơn... “dượng”.
Ông nhìn tôi. Đôi mắt ông đẹp lạ lùng. Đôi mắt ấy, tự nhiên, tôi thấy nó long lanh một tình thương chân thật.
- Cô lớn rồi cần trang điểm, cần tiêu tiền. Một người có một thời rất thèm tiêu tiền. Nhiều người thèm tiêu tiền mà không có tiền tiêu, dễ dấn thân vào con đường sa đọa, hư hỏng cuộc đời. Tôi không thể để cô hư hỏng được. Tôi đã hứa với mẹ cô là sẽ lo cho chị em cô đến nơi đến chốn.
Giọng ông buồn buồn:
- Cậu Huy cư xử với tôi tàn tệ quá....
Tôi vội chặn trước:
- Em nó còn dại.
Cha dượng tôi gật đầu:
- Cậu ấy nông nổi lắm. Tự cậu ấy chuốc lấy món nợ chứ có ai nhắc nợ nần của cậu ấy. Tôi chả để ý đâu. Nói để cô hiểu là tôi quý mến cô và cậu Huy nhiều.
Ông đưa câu chuyện sang ngả khác:
- Cô là con gái nên cẩn thận hơn cậu Huy. Con trai hư hỏng có thể làm lại cuộc đời. Chứ, con gái đã vấy bùn nhơ thì chỉ còn có cách theo bùn nhơ mà tàn kiếp. Tôi nói cô đừng buồn nhé!
- Dạ, đâu dám buồn “dượng”!
- Tôi không ưa cái thằng “giáo sư” của cô đâu. Tướng nó là tướng phản bội. Nó không chung tình với ai cả. Nếu cô bị nó quyến rũ, cô sẽ khổ đấy.
Ông nói tới đây, bỏ dở chuyện tình của tôi.
- Cô cần mua sắm gì, cứ bảo mẹ đưa tiền cho. Tôi dặn mẹ cô rồi.

Đó là mẫu chuyện “tình cảm” sau những ngày ông giận tôi vì Dũng lại thăm tôi. Người cha dượng “trẻ tuổi đẹp trai” của tôi giảng luân lý như một ông giáo già lu khụ, làm tôi phải xét lại cái sự thông minh của tôi. Tuy thế, tình tôi và Dũng không suy giảm chút nào. Cha dượng tôi càng công kích Dũng tôi càng yêu chàng. Dũng đã lợi dụng chút nào đâu. Ái tình của chúng tôi là thứ ái tình hiếm hoi trong thời đại này. Thứ ái tình cổ lỗ xĩ, hãy còn hẹn hò nhau ở công viên bờ sông, ngồi gần nhau ngửi hương tóc của nhau và ngắm trăng lên hay nghe sóng vỗ vào bờ. Và khi chia tay, hãy còn nhìn quyến luyến, không dám hôn nhau từ biệt. Để đêm về nằm một mình, cả hai đều tiếc đã quên hôn nhau. Không phải là tôi không thèm được hôn. Tôi sẵn sàng hiến dâng đôi môi tôi cho Dũng uống hương tình. Tôi sẵn sàng nằm gọn trong bàn tay của Dũng. Nhưng Dũng đã từ chối mọi sẵn sàng câm nín ấy. Chàng cũng thèm hôn tôi, thèm ôm chặt lấy thân hình nảy nở của tôi. Chàng không dám, sợ tôi khinh bỉ. Tôi không dám dục chàng hôn tôi, ôm tôi, sợ chàng khinh bỉ. Cái sự sợ bị khỉnh bỉ của cả hai đứa đã làm cho mối tình trở nên thanh cao, lãng mạn, thơ mộng. Nhiều nhà văn cho thế là giả dối, giả đạo đức, muốn mà cứ vờ, sống không thực với lòng mình. Đạo đức là gì? Chính là sự thèm muốn nhưng giữ nỗi lòng mình. Nếu trơ trơ trước thèm muốn dục tình thì đâu còn là con người. Và hai tiếng đạo đức đặt ra làm chi cho rờm rà ngôn ngữ.
Tình yêu của chúng tôi xa xôi hơn bằng những buổi đi chơi xa hay ngồi trong rạp chiếu bóng. Vẫn chỉ cầm tay, đặt tay lên vai, hôn nhẹ trên làn tóc. Dũng của tôi đáng là típ người yêu... “cù lần”. Nhưng có một buổi chiều chàng không “cù lần” nữa. Chàng đã dám hôn lên má tôi. Rồi những buổi chiều tiếp theo chàng hôn lên môi tôi. Đã một nhà văn nào diễn tả nỗi cảm giác của người con gái lần đầu tiên được người yêu ôm ghì thể xác, hôn mình say đắm chưa nhỉ? Nụ hôn đầu, biết nói bao giờ mới hết tâm sự. Và, có lẽ, khó diễn tả nên những cuốn sách tôi đã đọc, tôi chỉ thấy các nhà văn viết có vài giòng. Và thế nào cũng có tĩnh từ đê mê, ngất ngây, rạo rực...
Thế thôi nhé, nỗi đê mê, ngất ngây, rạo rực! Xa nữa, mầy sẽ ngập xuống bùn nhơ. Tôi nhủ tôi vậy và đã từ chối nhiều lần, không về nhà Dũng. Tôi phải xét lại thứ tình yêu “Hồn Bướm Mơ Tiên”. Tôi vẫn yêu Dũng tha thiết nhưng không còn coi Dũng như hình ảnh Dũng của Loan, tóc lộng bời gió bốn phương, chiếc cravate trễ khỏi cổ áo một chút, đi trong mùa thu cách mạng. Đừng nên coi người tình của mình là thần tượng. Đừng nên coi ái tình của mình là vật đẹp muôn màu. Như vậy sẽ đỡ sầu một lần tuyệt vọng.
Viết đến đây tôi mới biết tôi chẳng hiểu gì về tôi cả. Vừa ca ngợi người tình của mình xong, vừa nhận xét thật đúng vì cha dượng của mình, đã phủ nhận tất cả. Trước khi yêu nhủ mình rằng hãy để dành chiếc hôn đầu cho đêm tân hôn. Rồi cứ thèm được hôn và phung phí hương tình trên đôi môi mình. Giá Dũng tấn công mạnh, Dũng không sợ mất tôi hay Dũng dọa bỏ nếu tôi không chịu dâng hiến trinh tiết của tôi cho Dũng, chắc chắn là tôi ngã lòng. Nỗi đê mê sẽ đê mê tuyệt đỉnh. Rồi sau đó mình ra sao, nào ai đoán nổi.
Dũng khôn lắm. Chàng biết cách huấn luyện một con thỏ thành một con gấu. Tính nhút nhảt, sự thẹn thùng của đứa con gái mới lớn lên dần dần mất đi khi nó ngồi cạnh tình nhân hay ngả trong lòng tình nhân. Biết Dũng khôn mà tôi cứ yêu chàng. Tình yêu khó giải nghĩa thật.
Cha dượng tôi vẫn theo rõi tôi và Dũng. Tôi không hiểu ông đã gặp Dũng nói gì mà Dũng giận dỗi tôi. Chàng đã tỏ vẻ lãnh đạm tôi một tuần lề liền. Rồi chúng tôi lại gặp nhau. Dũng bảo chắc chắn chúng tôi phải xa nhau vì cha dượng tôi dọa cho tiêu ma sự nghiệp của chàng nếu chàng còn bám sát “con gái của vợ ông”. Vào đúng dịp này mẹ tôi đi sinh em bé. Mẹ tôi nằm ở bảo sanh viện. Tôi bị giới hạn thì giờ hẹn hò Dũng. Cả ngày sau buổi học tôi phải lo cơm nước đi thăm mẹ tôi và săn sóc hai đứa em nhỏ.
Buổi tổi, tôi đang ngồi viết thơ cho Huy, cha dượng tôi tới bàn học, ông hỏi tôi:
- Cô viết thư cho thằng Dũng hả?
Tôi ngạc nhiên. Và không giữ nổi bình tĩnh, tôi đáp bừa:
- Vâng!
Rồi buông bút, xé bức thơ, tôi nói mà muốn khóc:
- Có gì làm phiền “dượng” không?
Ông gật đầu:
- Phiền lắm chứ. Tôi săn sóc cô đâu phải để thằng chó má đó quyến rũ cô. Tôi đã cảnh cáo nó rồi. Nếu nó khăng khăng không nghe lời tôi, tôi sẽ cho nó biết tay.
- “Dượng” định bỏ tù người ta à?
- Thê thảm hơn cả ngồi tù.
- “Dượng” không có quyền cấm tôi yêu thương.
- Tôi không cấm cô yêu thương nhưng cấm cô không được yêu thằng giáo sư Dũng. Tôi đầy rẫy tài liệu về nó. Nó đã làm hàng chục nữ sinh chửa hoang. Cô muốn nghe một nhà báo nói về nó, tôi sẽ dẫn nhà báo đến đây “mở mắt” dùm cô.
Tôi òa lên khóc. Cha dượng của tôi tàn nhẫn quá. Tôi không thể cãi lại ông được. Và đành gục xuống bàn, khóc tức tưởi.
Cha dượng tôi để mặc tôi khóc, ông lượm những mảnh giấy tôi vừa xé nát vất tung dưới nền nhà, chắp lại coi xem tôi viết những gì cho Dũng. Khi tôi ngước đôi mắt đẫm lệ nhìn ông, khuôn mặt ông không đáng ghét như ban nãy nữa. Ông vỗ nhẹ vào vào vai tôi:
- Cô bướng lắm. Sao cô không nói cô viết thơ cho cậu Huy?
Tôi không thèm đáp. Ông lại vỗ nhẹ vai tôi, lần này bàn tay ông đặt hơi lâu trên vai tôi. Tôi rùng mình. Nghĩ đến cảnh nhà vắng người tôi muốn hất tay ông ra, vùng chạy. Bàn tay người cha dượng của tôi như một thỏi nam châm. Và tôi là một khối sắt. “Cô bướng lắm”. Tôi bướng, tôi ngang giống một con cua là cùng. Nhưng con cua đứng trước con ếch, đôi càng của nó cắp lại một cách sợ sệt. Và nó đứng im chờ phút giây nạp mình cho con ếch.
- Châu!
-....
- Cô Châu!
-....
- Cô khinh tôi hả?
Thỏi nam châm bóp khẽ khối sắt của vai tôi, rồi thôi. Sức hút của nó đã biến đi. Tôi nhẹ nhõm cả người.
- Cô có biết tôi thương cô dường nào không?
Tôi vẫn không thèm đáp. Phải chi tôi tự chủ được tôi như Huy. Trách gì cha dượng tôi đã “kỵ” Huy mà chẳng nói thẳng với nó.
- Tôi không muốn cô yêu thằng Dũng. Tôi sẽ đánh vỡ mặt nó ra nếu tôi còn bắt gặp nó đi với cô.
Tôi đưa vạt áo thấm nước mắt:
- “Dượng” ác quá!
Ông cười gằn:
- Tôi ác, đúng đấy, tôi cần ác với một đứa khốn nạn như thằng giáo sư Dũng.
Ông dằn mạnh hai tiếng “giáo sư”. Tôi yếu đuối không tài nào đương đầu nổi cha dượng của tôi. Tôi cũng không tài nào hiểu nổi ông yêu tôi ghen với Dũng hay ông thương tôi thật tình.
- “Dượng” chẳng có quyền gì cả.
- Thật chứ?
Tôi ức hết chịu đựng thấu, nói bừa:
- Thật
Ông khoanh tay trước ngực:
- Cô nhất định gắn bó với thằng Dũng?
Tôi mím môi. Rồi không biết sao, tôi phản ứng bằng cách đứng đậy. Cha dượng của tôi ôm chầm lấy tôi. Tôi giẫy giụa. Đôi tay cha dượng tôi ghì chặt hơn.
- Hễ Châu la lớn, tôi sẽ giết Châu rồi giết mẹ Châu.
Ông mỉm cười. Nụ cười của kẻ đắc chí. Hai con mắt ông ngầu đỏ. Ông thở nhanh và người ông nóng ran. Tôi không đủ thì giờ để ghê tởm ông. Mắt tôi mở căng. Tôi nghĩ đến cha tôi, đến mẹ tôi, đến em Huy, đến Dũng, nước mắt ứa ra.
- Tôi lạy “dượng”, con lạy “dượng”....
Ông dìu tôi đến giường ngủ của tôi, đẩy tôi ngả ngữa trên đệm.
- Được rồi, cô sẽ lấy thằng Dũng. Tôi đâu phải là đắp đập be bờ.
Tôi vùng dậy. “Chị coi chừng”. Lời dặn dò của Huy tự nhiên văng vẳng bên tai tôi. Không thể nào thoát khỏi sự nhục nhã đêm nay. Tôi đành dùng lời lẽ ngoan ngoãn, để làm lương tâm của cha dượng tôi thức giấc.
- Con nghe lời “dượng” rồi, con sẽ bỏ Dũng.
Ông thản nhiên:
- Muộn rồi.
- Con lạy “dượng”.
- Tôi đã làm gì Châu đâu!
- “Dượng” định làm gì con?
- Châu chưa hiểu à?
Cha dượng tôi đẩy nhẹ tôi nằm ngửa như cũ.
- Tôi yêu Châu!
Tôi không sửng sốt. Vì đã có lần tôi ngờ vực lòng tốt của cha dượng tôi: ông “ươm” tôi thật. Hay là, khi thấy bông hoa đẹp quá, người giữ vườn nổi máu ham, muốn thưởng thức trước khi có kẻ khác hái mất.
- Tôi yêu Châu!
- Con là phận con cái mà...
- Châu là con tôi bao giờ? Anh yêu em, anh yêu em...
Ba tiếng “anh yêu em” thoát ra từ cửa miệng người cha dượng của tôi làm tôi lợm giọng. Càng lợm giọng hơn khi tôi tưởng tượng trước ngày lấy mẹ tôi ông đã nói thật nhiều ba bốn tiếng đó. Tôi giống một con chuột nhắt nằm gọn trong móng vuốt của con hổ trong truyện ngụ ngôn ở sách “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” lớp Sơ Đẳng. Con Chuột nhắt đã “xin ông tha tôi làm phúc”. Và nó được tha. Con hổ không thèm ăn thịt nó. Nó nhỏ xíu, ăn không đã đói mà còn bẩn miệng. Còn tôi đứa con gái dậy thì, quyến rũ dễ gì thoát khỏi lòng thèm muốn của cha dượng tôi. Huy biết chuyện xảy ra như vậy, chắc nó sẽ giết cha dượng tôi. Sự khinh bỉ và lợm giọng chẳng giúp tôi giải quyết nổi thảm kịch sắp khởi diễn.
Tôi nhắm mắt, cầu cứu linh hồn cha tôi vô ích. Người đã chết không giúp người còn sống một điều nhỏ mọn. Tôi nghiến răng ken két.
- “Dượng” định hại đời tôi?
Cha dượng tôi không mảy may xúc động. Ông đã tụt dép, leo hẳn lên giường của tôi và không quên tắt ngọn đèn viết trên bàn viết. Bây giờ căn phòng của tôi ngập bóng tối. Thứ bóng tối khốn nạn phủ kín cuộc đời tôi. (bỏ 600 chữ)
Tôi nằm suy tư một chập rồi ngủ thiếp đi. Mãi mười giờ sáng hôm sau tôi mới thức giấc. Thể xác tôi mệt mỏi lạ lùng. Đôi mắt mở ra lại muốn khép lại. Tâm hồn cơ hồ một kẻ đi phiêu lưu, về đến cửa nhà cũ, chán ngán chẳng muốn bước vào. Ánh nắng buổi sớm hắt qua khung cửa sổ hẹp như tố cáo một sự nhơ nhớp trong căn phòng. Tôi rùng mình, vụt ngồi dậy. Dấu vết đau thương là một chấm đỏ loang rộng trên tấm drap trắng muốt. Tấm drap trắng ví như bộ lông trắng của con chim bồ câu. Và chấm đỏ chính là vết bùn nhơ vấy lên bộ lông trắng của nó. Tôi thấy nhức nhối khắp thân thể. Một chiếc nút áo bật tung. Tôi ôm mặt khóc, khóc suốt một ngày một đêm. Cha dượng tôi đã cho tôi uống thuốc ngủ để sự việc xảy ra êm ái như ý ông muốn. Cả ngày hôm đó, ông không gặp tôi. Còn tôi thì nằm đắp chăn trùm kín mít ngủ. Tôi muốn kéo dài dấu bùn nhơ, chưa chịu gột rửa.
CHƯƠNG 3
Nỗi đau đớn càng thầm kín thì càng xót xa, tê tái... Giá kể cho ai nghe nỗi đau đớn của mình, chắc nó sẽ đỡ tê tái, xót xa. Không lẽ đi tâm sự với bạn bè rằng mình đã bị cưỡng hiếp. Đến cái độ tuyệt đỉnh của đau thương, người con gái thường kể lể với mẹ mình để, hoặc được an ủi, hoặc bị mắng mỏ. An ủi hay mắng mỏ vẫn là những liều thuốc rắc quanh cái mụn vừa vỡ mủ. Tôi không thể tâm sự với ai được. Nên nỗi đau đớn đã như lớp màng xang bọc kín trái tim tôi. Còn Dũng đó. Biết Dũng có dang đôi tay đỡ trái sầu đau của chàng không? Tôi soi gương. Thấy mình già đi. Thấy mình đã hết mùa dậy thì, hết thời con gái. Yêu nhau, dâng hết trinh tiết cho người yêu mà khi mộng tan, người con gái còn than tiếc “Chữ trinh đáng giá ngàn vàng. Mà em lỡ để qua làn sóng yêu”. Huống chi tôi, kẻ đã bị ăn cắp tiết trinh. Người lấy tôi làm vợ sau này là người bị ăn cắp. Song chuyện sau này sẽ ra sao tôi đâu dám nghĩ, vì hiện thời tôi đâu thiết sống. Nước da hồng hào của tôi bỗng tái xanh một cách lạ lùng. Cha dượng tôi khuyên tôi nên uống trứng gà tươi. Ông lại gặp tôi, không cần biết tôi khinh bỉ ông dường nào. Một tuần sau tai nạn khủng khiếp của thời con gái của tôi, tôi gặp Dũng. Chàng rũ tôi về nhà. Tôi bằng lòng ngay, không so đo nữa.
Dũng tỏ tình với tôi quyết liệt hơn. Những gì tôi ao ước ở Dũng không còn nữa. Thì ra, đàn ông bao giờ cũng là đàn ông, bao giờ cũng giống nhau nghĩa là “vồ” được con mồi rồi, phải tìm cách hưởng thụ. Dũng không cắn xé tôi ngay. Chàng giống con mèo. Và tôi là con chuột chưa thò đầu khỏi miệng tổ. Con mèo dụ dỗ ngọt ngào làm con chuột tưởng tình thân thiện sẽ bền chặt. Nhưng khi con chuột ló đầu ra, con mèo chộp ngay. Dũng đã đóng kịch thật khéo. Giá như chàng quyết liệt từ đầu, chắc tôi không yêu chàng. Tình đầu như nắng lụa mong manh như những bước chân êm trên lớp cỏ non. Đừng gây lên những tiếng sỏi lạo sạo. Đừng để nắng lửa thiêu đốt tình đầu. Con thỏ còn sợ hãi. (bỏ 240 chữ)
Tôi nhắm mắt chịu cực hình. Vậy là tôi, con Châu bé nhỏ đã “tiếp” hai người đàn ông giữa thời con gái, đầy mộng mơ của nó. Có ai dám ngờ vậy không? Có ai chịu nổi một khối sầu hận như tôi không? Sầu hận mà chẳng dám than thở! Trời đã tặng tôi một hình phạt khe khắt. Cha tôi một đời cần cù, làm ăn lương thiện, có gây ra nghiệp chướng nào đâu. Tại sao tôi khổ cực?
Tôi muốn viết thư cho Huy, kể hết cho nó nghe. Tôi đã viết. Nhưng nước mắt tôi nhỏ xuống khiến giấy thư mềm nhũn. Tôi lại xé đi. Mua cuốn “Trước khi về nhà chồng người con gái nên biết”, đọc xong, tôi lạnh cả linh hồn. Rồi đánh liều tôi ngủ với Dũng nhiều lần, dục chàng cưới tôi. Dũng cưới tôi, số phận tôi chắc được định cư dưới bóng mát của đời chàng. Dũng ầm ừ. Lời hứa ngày nào chàng đã quên rồi. Đàn ông, con trai chúng nó khốn nạn như nhau. Đã khai thác hết mình, chúng nó sẵn sàng cho mình rơi.
Lại gợi ở Dũng một tình thương hại. Tôi không dám nói chuyện cha dượng phá trinh tôi. Mà bịa rằng ông cưỡng bức tôi vì biết tôi đã ngủ với Dũng. Chàng không mảy may xúc động. Tôi đi giữa chiếc cầu chênh vênh, không có tay vịn... Một tháng sau, trong người tôi có sự biến chứng. Những ngày chịu tội cuối tháng tự nhiên biến mất. Theo sách “Trước khi về nhà chồng người con gái nên biết”, đó là triệu chứng của người sắp có thai. Tôi sắp có thai! Chờ vài ngày nữa. Tôi muốn điên lên. Tuần lễ sau ngày cuối tháng thường lệ, tôi chỉ thấy một vài giọt máu. Sách bảo đúng là có thai rồi. Tôi cho Dũng biết tôi đã có thai với chàng và dục chàng cưới tôi. Dũng trở mặt rất nhanh. Bộ mặt thật của chàng đã lộ sau khuôn mặt nhà mô phạm. Chàng trắng trợn từ chối “tác phẩm” của chàng. Dũng bảo “biết đâu không phải là của con dượng em”. Tôi khóc lóc van lạy Dũng. Chàng chai đá trước nỗi nhục nhằn của tôi. Tôi không thèm gặp Dũng nữa. Vì tự ái. Tôi nói với cha dượng tôi. Ông cũng nói cái luận điệu của Dũng. Làm tôi hoang mang. Cái thai trong bụng tôi là của người tình sở khanh hay của tên dâm phu? Như vầy chỉ còn cách tự tử. Tôi mua sẵn thuốc ngủ. Trước giờ quyết định thoát ly cuộc đời, tôi soi mình tôi trong gương. Tôi ngắm tôi rất lâu. Có tiếng nói mơ hồ tự nơi nào vẳng lại “Châu, mày còn trẻ, mày còn đẹp lắm. Mày cần sống để trả thù những đứa gây khốn khổ cho mày”. Tôi thấy tôi bình tĩnh lạ thường. Tôi thấy tôi đẹp lạ lùng. Tôi quăng hai ống thuốc ngủ ra ngoài cửa sổ. Rồi lấy giấy viết thư cho Huy.
Trong giấc ngủ của tôi đêm hôm đó, tôi chiêm bao thật nhiều. Tôi gặp cả người bạn làm nghề vũ nữ thân thiết của tôi. Sáng dậy, tôi tìm tới chị ngay. Chị tên là Hồng. Đi nhảy có biệt hiệu Thu Hồng. Chị lớn hơn tôi sáu, bảy tuổi nên tôi quen gọi chị bằng chị, xưng em. Chị Hồng quý tôi. Chị thường tâm sự với tôi nhiều cảnh vinh nhục của nghề vũ nữ. Tôi đến nhà chị Hồng, trong lúc chị đang ngủ ngon. Cả đêm hành nghề mà. Nhưng chị đã thức vui vẻ tiếp tôi. Tôi khóc lóc kể hết nỗỉ đau lòng cho chị nghe. Chị vỗ vai tôi an ủi tôi.
- Đừng lo, đâu sẽ vào đấy. Chị sẽ lo cho em.
- Còn cái thai trong bụng em?
- Đẩy nó ra.
- Được sao.
- Phá thai dễ ợt. Nhưng em phải thoát ly cái gia đình khốn nạn ấy ngay. Em đến đây sống với chị.
Ngay buổi chiều, chờ lúc cha dượng tôi vắng nhà, tôi đã thu dọn chút ít hành lý, vĩnh biệt căn nhà nơi tôi đã lớn lên, đã chịu đựng nhục nhã ở tuổi con gái. Chị Hồng lo cho tôi đủ thứ. Chị dẫn cho tôi tới một bảo sanh viện nhờ một bà mụ “thử thỏ” cho tôi. Bà mụ quả quyết cái thai nằm trong bụng tôi đã được một tháng. Chị Hồng đưa tôi về. Chị đi mua thuốc và nhờ y tá chích cho tôi. Y tá cam đoan thế nào cũng “băng”. Nhưng đợi cả tuần “nó” vẫn không băng chích thêm vài mũi nữa. Vô ích. Chị Hồng bảo:
- Phải dẫn em đến con mụ ở Hòa Hưng vậy.
- Mụ nào đó, hở chị.
- Con mụ chuyên phá thai cho gái nhảy và gái điếm.
- Có sao không?
- Không sao cả. Dễ dàng hơn một lần sinh đẻ.
- Rồi còn sinh đẻ được không hở chị?
Chị Hồng nhìn tôi. Đôi mắt chị mọng như hai trái hồng chín nhân ái, sáng như hai ngọn đèn yêu thương. Những tia sáng từ đôi mắt chị rọi vào niềm u ẩn của tôi làm cõi lòng băng giá của tôi ấm lên. Tôi chẳng khác gì một đứa con ghẻ, nằm riêng trên một giường đêm đông. Nửa đêm có người đắp lên thân thể mình một tấm chăn. Mình ngủ ngon giấc. Chị Hồng đắp chăn cho tôi. Tôi thấy nắng bên ngoài vẫn còn đẹp lắm tuy sự lo sợ chưa giảm được một phần.
- Còn nghĩ chuyện ấy nữa cơ à! Tương lai mờ mịt, ai biết sau này sẽ ra sao. Qua một khúc sông đã, rồi hãy lo qua khúc sông khác em a!
- Em sợ!
- Ai cũng sợ như em. Chị biết, mọi chuyện sẽ êm thắm. Chị đã một lần phá thai. Hay em giữ chút kỷ niệm nhé? Chị hứa bao bọc em. Có con vui đấy nhưng lớn lên nó sẽ tủi hổ.
- Chị tính giùm em đi!
- Trước sau em phải tự lo lấy đời em. Lo một cuộc đời đã vất vả, lo hai cuộc đời còn vất vả gấp bội. Tùy em đấy.
Tôi suy nghĩ mấy ngày liền. Cuối cùng nhờ chị Hồng dẫn đi phá thai. Thượng đế ơi con không gây tội ác. Thượng đế hãy thương con tha thứ con. Trên mảnh vườn địa đàng, bà E Và xui ông A Đam ăn trái cấm. Dưới trần gian đầy ải của Ngài, bọn đàn ông đã dồn con đi trên nẻo đường cấm của Ngài. Ngài hãy cứu rỗi con.
CHƯƠNG 4
Mụ đàn bà hành nghề phá thai ở trong con ngõ ngoại ô Hòa Hưng. Nhà mụ quay mặt ra ngoài bờ tường nghĩa địa của người Chà. Mụ năm nay chừng bốn chục tuổi. Mụ có vẻ giống một mụ Tú Bà hơn là mụ phá thai. Tóc mụ uốn quăn, chảy xuống vai, Mặt mụ trát đầy phấn. Mụ kẻ mắt như một nữ tài tử lên sân khấu, cổ mụ đeo đầy những bùa, ngải đựng trong những cái túi vải nhỏ. Không khí nhà mụ ghê rợn hơn không khí nhà xác. Trên chiếc bàn nhỏ, bộ bài tây vất bừa bãi. Ở bốn bức tường, dán đầy phù phép. Hương, nến cháy không ngừng ở cái bàn thờ, thờ cái sọ người nặn bằng đất.
Mụ hất hàm hỏi tôi. Giọng mụ lè nhè y hệt giọng mụ phù thủy trong phim hoạt họa của Walt Disney:
- Bị rồi hả?
Chị Hồng trả lời giúp tôi:
- Vâng, bị một tháng.
Mụ mắng chị Hồng xa xả:
- Ai hỏi cô? Tới đây thì câm mồm lại cho tôi làm việc.
Chị Hồng nín thinh. Mụ bĩu môi, rỉa rói tôi:
- Không bị, dễ gì cô ả mò đến xó xỉnh này!
Mụ lấy thuốc lá mồi lửa. Những ngón tay mụ dài và nhuộm đầy thuốc bôi móng tay màu đỏ. Mụ hít thuốc lá, sành sỏi như một dân nghiện hào hoa.
- Mới vào nghề hả?
- Nghề gì ạ!
Mụ chửi tôi:
- Chó đẻ, các cô có hai nghề, nghề nhảy và nghề nằm cho đàn ông nó nhảy lên bụng, chứ còn nghề gì. Ái ố mỹ miều lắm đấy. Đừng nói ngây thơ cụ. Thôi cút đi, tôi không thèm cái thứ cô đâu.
Nước mắt tôi ứa ra. Tôi nghẹn ngào. Muốn dang tay tát con mụ khốn kiếp mà không sao nhắc nổi tay lên. Chị Hồng van xin mụ:
- Thưa chị, em nó mời vào nghề, nó còn dại, chưa biết tính chị.
Mụ gật gù:
- Nói êm lỗ tai đấy.
Mụ chỉ cỗ bài tây bắt tôi lấy mang đưa cho mụ. Mụ ngồi xếp bằng tròn trên chiếc divan. Mụ trang bài lia lịa, rồi bảo tôi:
- Kênh đi!
Chị Hồng giúp tôi:
- Lấy tay trái ngắt đôi cỗ bài ra.
Tôi làm theo lời chị. Mụ lại trang bài thành bốn hàng, mỗi hàng tám quân bài. Mụ chỏ ngón tay vào quân “đầm cơ” ngắm tôi không chớp mắt:
- Cô đây này...
- Dạ.
Mụ nhắc ngón tay, chỏ quân “tây bích” trên đầu quân “đầm cơ”.
- Thằng này già mà dê xồm. Nó đứng cạnh “đầm bích” ý chừng quen biết với mẹ cô.
Mụ chỏ quân “bồi bích” dưới quân “đầm cơ”:
- Thằng này còn trẻ, nước da ngăm ngăm đen.
Mụ gạt tàn thuốc, hít một hơi đẫy đà, thu cỗ bài lại, trang lia lịa. Mụ đưa tôi, bảo đem đặt trên bàn. Mụ nghiến răng ken két:
- Những hai thằng chèn ép đời cô, phải không?
Tôi phục mụ quá, buột miệng khen:
- Dạ đúng, bà đoán trúng hết.
Mụ mỉm cười, nụ cười khiến tôi lạnh cả người:
- Đời em khốn nạn hơn nữa, em ơi! Em phải mua ngải mà dùng. Chị có ngải tốt lắm. Em dùng ngải của chị sẽ hoàn toàn hạnh phúc.
Mụ say sưa quảng cáo bùa ngải của mụ quên hẳn chuyện tôi đến đây nhờ mụ phá thai chứ không phải nhờ mụ tìm hạnh phúc. Chị Hồng nháy mắt. Tôi yên lặng nghe.
- Mỗi lần gặp thằng con trai nào em muốn “chài” nó, em ngậm ngải trong miệng nói chuyện với nó. Rồi em hôn nó. Nó sẽ bị ngải làm mù con tim và trở thành đầy tớ của em. Em bảo nó giết bố nó, nó cũng cầm dao giết bố.

Quảng cáo ngải xong mụ quảng cáo bùa, hổ phù Ai Cập, nước hoa ái tình bí tích Ấn Độ... và hỏi tôi:
- Em mua thứ nào?
Chị Hồng nuốt nước miếng:
- Thưa chị...
Mu mắng át:
- Ai hỏi cô?
Tôi đành lễ phép.
- Thưa chị, em sẽ nhờ chị bán ngải cho em.
Mụ hớn hở. Chị Hồng nhân thể đưa đẩy:
- Em nó còn kẹt tiền. Chị giúp xong vụ này, em nó sẽ mang ơn chị và chị dạy điều gì nó nghe chị điều ấy.
Mụ hơi nheo mắt, dập điếu thuốc đi. Mụ xoa tay:
- Mười ngàn!
Chị Hồng vỗ vai tôi:
- Em nó mới vô nghề, chị thương tình.
Mụ đứng dậy:
- Tám ngàn, đưa trước bốn ngàn không mặc cả nữa. Chiều nay con nhỏ này lại một mình. Thôi giờ xéo đi!
Chị Hồng lôi tôi dậy, chào mụ và bước khỏi nhà mụ. Mắt tôi mờ đi. Con ngõ nhỏ dẫn ra đường Lê văn Duyệt bỗng dài hun hút. Nó hun hút như con đường tôi đang đi xuống cuộc đời. Bên phải tôi là cái nghĩa địa Chà. Bên trái tôi là những căn nhà lụp xụp cư ngụ toàn những con người lạ lùng.
Sự chết không hiểu ra sao nhưng sự sống khốn nạn, cùng cực. Chị Hồng bảo con ngỏ này rặt ma-cô, du đãng đĩ điếm và đôi ba kẻ ngoại khổ như mụ phá thai. Chị Hồng khuyên tôi đừng buồn phiền về thái độ của mụ phá thai. “Ai nó cũng đối xử thế. Dưới mắt nó, đã đến nhờ nó phá thai đều là vũ nữ, đĩ điếm hết”.
Thấy tôi bước lảo đảo, chị dìu tôi đi. Sống ở đời là chịu đựng cay đắng em ạ! Phải nhờ vả ai một chuyện gì, lòng dạ mình xót xa không tả nổi. Chiều nay em cứ đến mụ. Nó sẽ tống nỗi nhục khỏi bụng em. Rồi em tìm lại ý nghĩa của cuộc sống mới. Hai chị em về căn phòng nhỏ ở bin-đinh. Buổi chiều, chị Hồng lại đưa tôi xuống Hòa Hưng. Lần này chị ngồi trong quán nước ngoài lộ chờ tôi. Một mình tôi mang tiền vào nhà mụ. Mụ nằm trên divan hút thuốc. Mặc kệ tôi và ba người con gái khác trông đợi. Phải tới căn nhà con mụ phá thai ở con ngõ nhỏ ngoại ô Hòa Hưng, phải nhìn rõ cách đối xử của mụ với những người con gái khốn nạn mới biết căm thù những thằng sở khanh đưa mình vào hoàn cảnh thê thảm.
Bốn “khách hàng” của mụ, kể cả tôi người nào người ấy ủ rũ. Không có chút dáng dấp nào chứng tỏ ba người kia là vũ nữ hay đĩ điếm. Họ ăn mặc giản dị nhưng đứng đắn. “Tới những con mụ phá thai, diện sang, nó sẽ tìm đủ mọi cách bóc lột tiền của mình”. Chị Hồng nói thế. Ba người kia chắc đã được người giới thiệu mách nước. Ở Saigon có vài ông bác sĩ chuyên phá thai. Các ông này lấy nhiều tiền lắm. Đĩ điếm, vũ nữ nghèo không dám nhờ các ông. Các cô con nhà khả giả, sợ mang tiếng cũng chẳng dám nhờ. Thành thử, tội ác cứ diễn ra ở những nơi tăm tối. Nếu phá thai không phải là một tội ác hay nếu phá thai được xét xử tùy trường hợp, chắc chắn những cái chết tủi nhục, tấm tức, oan uổng do bọn mụ đỡ vườn gây nên sẽ giảm đi rất nhiều. Tôi ngó ba người con gái xa lạ, bắt thương họ lạ lùng. Thương cơ hồ tôi thương tôi. Thượng đế đâu có đày đọa riêng mình. Tôi víu cái cớ đó là niềm an ủi và kiên nhẫn đợi mụ phá thai.
Hút xong ba điếu thuốc, mụ nhổm dây, nhổ một bãi nước miếng, lè nhè.
- Mấy giờ rồi hả?
Tôi đáp:
- Thưa chị bốn giờ rưỡi rồi ạ!
Mụ nhìn tôi, toét miệng cười. Mấy chiếc răng vàng của mụ sao mà khả ố thế! Mụ hắt đầu:
- Mang đủ tiền chưa?
- Dạ đủ.
- Đưa đây.
Tôi móc bóp trao mụ số tiền chị Hồng ứng cho tôi “chữa bệnh”. Mụ đếm từng tờ. Rồi tụt khỏi chiếc divan. Mụ xỏ chân vào đôi dép Nhật, đứng lên:
- Vô trỏng trước đi!
Tôi bước vô nhà trong. Tim đập mạnh. Tay chân run rẩy. Chưa hiểu sự gì sắp xảy ra. Tôi lo lắng vô cùng. Trong nhà mụ tối om chỉ có một ngọn đèn đỏ bé xíu bật sáng trên cái bàn thờ. Lại bàn thờ nữa! Tôi ngồi xuống chiếc ghế nhỏ. Bên ngoài, mụ phá thai đang chửi bới những cô gái đến nhờ vả mụ. Rồi mụ giở trò quãng cảo bùa ngài, nước hoa ái tình, hổ phù Ai Cập lung lạc những cô gái lòng dạ đang rối bời. Nửa tiếng sau, mụ lẹp kẹp bước vào. Mụ bật đèn sáng trưng, kéo cái ri-đô vải, làm hiệu cho tôi theo mụ. Đây là “phòng mạch” của mụ. Đủ kìm, kẹp, bông, băng, an-côn, thuốc đỏ trông phát rụng rời. Mụ bắt tôi cởi quần áo, móc những ngón tay nhọn hoắt của mụ vào... Tôi ớn xương sống run cả thân thể. Mụ nạt nộ:
- Biết sướng, thì phải biết khổ. Giẫy giụa tao đuổi ra à.
Tôi nin lặng. Mụ loay hoay một lát rồi lấy cái ống cao su... Mụ lấy bông, băng cẩn thận để cái ống cao su khỏi tuột. Rồi mụ đổ an-côn xoa tay và liếm mép:
- Xong tám phần. Mặc quần áo về đi, chiều mai tới trả nốt tiền tôi lấy cái ống ra là hoàn toàn.
Chờ tôi mặc quần áo, mụ thân mật vỗ vai tôi:
- Em có phước lắm đó.
- Cám ơn chị.
- Chưa chừng đêm nay nó ra đấy. À, chị có thuốc chữa bệnh mất trinh. Rẻ mạt. Chị thương em lấy mười ngàn thôi. Rồi em cũng phải lấy chồng chứ. Mà không lấy chồng, đứa nào muốn phá trinh mình móc túi nó có dư trăm ngàn em ạ!
Giọng lưỡi mụ khiến tôi phát tởm. Còn đang lụy mụ, đành ậm ừ cho xuôi chuyện. Ra khỏi nhà mụ, tôi bước thật nhanh, tôi muốn xô đuổi hình ảnh quái gở của con mụ phá thai. Nó sống như vậy được ư? Nó vẫy vùng trong nỗi đau khổ của bao nhiêu người đàn bà, con gái như vậy mãi ư? Xã hội thật chó má, nhơ nhớp. Tới lộ, chị Hồng đã neo xe tắc xi đợi tôi, chị mở cửa xe. Tôi leo lên, đóng của đánh rầm. Mặt mày tôi choáng váng. Tôi dựa đầu vào thành đệm xe, nhắm chặt mắt, Chị Hồng nâng đầu tôi, đưa cánh tay chị cho tôi gối.
- Khó chịu lắm hả em?
- Kinh hoảng quá chị ơi!
Chị vỗ về tôi:
- Mai là dứt nợ.
Tôi gục đầu vào vai chị, khóc nức nở. Chị vuốt ve những sợ tóc lòa xòa ở trán tôi:
- Số kiếp mà, em khóc làm gì. Hãy tỉnh táo để lo chống chọi với đời.
Về đến bin-đinh, chị Hồng dìu tôi lên phòng. Tôi để nguyên quần áo, nằm vật xuống giường, thở dồn dập. Tôi mệt nhọc, sợ sệt chẳng thiết sống nữa. Tôi muốn ngủ một giấc dài để khi thức giấc thấy một phép lạ. Nhưng mắt tôi không sao khép nổi. Nỗi hoang vắng cơ hồ những bụi vướng trong đôi mắt tôi làm đôi mắt tôi ứa lệ hoài. Ban đêm, chị Hồng đi làm. Một mình tôi nằm suy nghĩ vẩn vơ. Thỉnh thoảng bị nghe tiếng gõ cửa của một khách làng chơi nhầm phòng. Tiếng gõ cửa nghe chua xót như tiếng nói phụ bạc của người tình. Một đôi lần, nghe rụng rời như tiếng gõ của quỷ sử báo hiệu đã tới giờ mình xuống chầu diêm vương. Hai viên thuốc an thần vô hiệu nghiệm. Tôi lấy thêm viên nữa, mở tủ lạnh uống nốt ly sữa còn thừa. Nằm lơ mơ lúc lâu, quá một giờ khuya tôi ngủ thiếp. Chị Hồng về hồi nào tôi chẳng hay. Một đêm kinh hoàng trôi qua. Tôi thức dậy, đồng hồ đã chỉ mười giờ. Chị Hồng vẫn say sưa ngủ. Việc đầu tiên của tôi là “xem nó đã ra chưa”. Chẳng có một biến chứng gì cả. Tôi ôm mặt khóc rưng rức. Ý định tự tử lại đến với tôi. Lần này mãnh liệt hơn. Tôi khổ quá, tôi đau đớn qua, tôi ê chề nhục nhã quá, tôi yếu đuối quá, tôi sống cũng không thể trả thù những kẻ đã xô tôi xuống vực thẳm.
- Lại khóc rồi...
Chị Hồng đã thức. Tiếng nói của chị êm ái cơ hồ khúc đàn tim. Tôi chợt nhớ một đêm xa xôi lắm, tôi ngồi ôm hàm răng khóc thút thít. Chiếc răng sâu hành hạ tôi. Cha tôi cho tôi uống một viên Aspirine rồi bảo tôi “Con đừng thèm nghĩ tới nó, con nhắm mắt, ngủ là hết đau”. Khi cha tôi tỉnh giấc, thấy tôi ngồi khóc, người trách yêu “Lại khóc rồi...”
Lại khóc rồi. Cha tôi không còn sống, chẳng bao giờ người trách yêu tôi nữa. Từ đó tới nay, tôi mới được chị Hồng nói ba tiếng trìu mến, thiết tha ấy.
- Em muốn chết chị ơi!
- Chỉ dại dột thôi nào... Lại đây với chị.
Tôi xích sang giường chị. Chị vươn tay ôm ngang bụng tôi, níu tôi nằm cạnh chị. Chị thủ thỉ:
- Nó băng chưa?
- Chưa.
- Thế nào nó cũng băng. Con mụ này tài không thua đốc tờ. Nó xấc xược song được việc ra phết. Hồi chị phá, chị còn sốt ruột lo lắng gấp mười em. Mãi ba bốn hôm sau mới thở phào.
Tôi chưa hề hỏi han dĩ vãng của chị Hồng. Cái nguyên do nào đưa đẩy chị làm gái nhảy, tôi chẳng cần biết. Nhiều nhà văn đã viết về gái nhảy. Người yêu gái nhảy thì cho rằng, trước ngày đặt chân trên “pit” của vũ trường, ôm ấp những thằng đàn ông nham nhở, những thằng con trai mặt búng ra sữa, để kiếm tiền sinh sống, những cô gái nhảy đều mang nhiều tâm sự u ẩn. Tâm sự u ẩn đó có thể là bị tình phụ, có thể là sự hy sinh lớn lao cho đàn em ăn học, cho mẹ già chữa bệnh. Người ghét gái nhảy thì cho rằng các cô gái lười biếng, thèm ăn diện, lại có tí nhan sắc, không biết làm gì hơn là làm gái nhảy. Đôi ba người viết phóng sự đặt những vấn đề lớn cho gái nhảy, họ đổ vạ tại chiến tranh, tại hoàn cảnh xã hội và phủ nhận vũ nữ là một cái nghề. Chị Hồng có nỗi cô đơn của chị. Không nghe chị nói tới gia đình chị. Cũng hiếm hoi những tay chơi lai vãng ở căn phòng riêng trên gác hai của cái bin-đinh Núi Trắng này, mặc dù chị Hồng khá đẹp, khá duyên dáng tuy chị ngót 30 tuổi. Chị Hồng rời khỏi vũ trường khó ai đoán chị là gái nhảy. Chị trang điểm đơn sơ. Tôi thích nhất nụ cười của chị. Nó dễ gây cảm tình mà lại hơi kiêu ngạo. Nụ cười của chị giống hệt, nụ cười của Christine Carène trong phim “A Certain smile”. Tôi đã yêu nụ cười của Christine Carène, giờ thì thích nụ cười của chị Hồng. Chị Hồng tốt, chị săn sóc tôi như săn sóc em gái. Thế là đủ, cần gì biết tại sao chị Hồng làm gái nhảy.
Tôi rúc vào nách chị. Chị nghiêng mình quàng nốt một cánh tay, ôm chặt lấy tôi.
- Tội nghiệp em. Biết vậy...
Chị ngừng lại. Tôi hỏi:
- Biết vậy sao, hả chị?
Chị thở dài:
- Giờ thì muộn rồi.
Tôi sốt ruột:
- Chị muốn nói gì?
Chị mơn man những ngón tay mềm trên lưng tôi:
- Biết vậy cứ để em sinh một đứa bé. Rồi chị em mình nuôi nấng nó nên người. Chị không biết em sẽ làm gì nhưng nếu em làm nghề vũ nữ mà có đứa con gửi một chỗ, mỗi chiều Chủ nhật tới thăm nó, lòng bớt cô đơn dường nào...
Tôi ngóc đầu, chống tay vào mang tai, nhìn chị. Đôi mắt chị long lanh. Và hai giòng nước mắt ứa ra..
- Trước chị có một đứa con với một gã sở khanh. Nó chết hai năm nay, em ạ!
Chị nói tiếp:
- Em trót chích thuốc và “làm” rồi, giờ giữ lại sợ sinh ra quái thai. Bề nào cũng phải phá ra. Nhỡ nó lớn lên nó chết, mình thêm một nỗi buồn. Em đừng lo lắng, yên chí, nó phải băng. Thôi, nằm ngủ đi, lát nữa chị em mình đi ăn tiệm.
Buổi chiều tôi xuống Hòa Hưng, chị Hồng vẫn đợi ở ngoài lộ. Mụ phá thai nhận nốt tiền. Mụ gỡ cái ống cao su ra, lắc đầu. Rồi lại đẩy cái ống cao su cũ vào, không thay, không rửa. Mụ băng bó như chiều qua, bảo tôi mai lại mụ gỡ dùm. Tôi bớt sợ so với ngày đầu. Mụ phá thai chưa quên lời hứa giúp tôi cái ngải và “làm lại trinh tiết”.
Nửa đêm, tôi thấy mệt mỏi, khó chịu. Vào buồng tắm xem xét. Tôi mừng khôn tả “Nó băng rồi”. Cái ống cao su bị đẩy ra. Tôi gọi chị Hồng. May mà đêm nay chị về sớm. Chị nói đề phòng tôi có “làm sao”. Chị cuống quýt gỡ cái ống cao su và lấy hết bông gòn mà mụ phá thai quấn ở cái đầu ống cho chạm sát cái thai. Rồi chị tìm “Serviette hygénique”, giúp tôi băng bó. Sáng sớm, tôi bị băng huyết nhiều hơn chị Hồng tưởng. Chị đi kêu y tá đến chích thuốc cầm máu. Tôi mệt nhoài, mặt mày xanh mét. Nhìn nét mặt chị Hồng, tôi phỏng chừng sự nguy hiểm đang đe dọa tôi. Cô y tá của các chị em vũ nữ lo ngại con mụ phá thai làm ẩu, có thể bị “infection” và còn phát sinh nhiều biến chứng khác. Hôm qua tôi có đọc một tờ tuần báo số đặc biệt nói về phá thai. Tôi đã rụng rời không dám đọc hết. Rồi tự trấn tĩnh rằng các nhà y học dọa vậy. Nhưng nghe cô y tá nói cách làm ẩu tả, mất vệ sinh của con mụ phá thai ở con ngõ ngoại ô Hòa Hưng, tôi sợ phát sốt. Tôi sốt ngất đi chị Hồng đã tưởng tôi chết. Không thể nào diễn tả nổi cơn sốt khủng khiếp của một người phá thai khi cái thai bị băng rã. Đó là cơn ác mộng. Cơn ác mộng đánh đai bằng những tên quỷ sứ. Cơn ác mộng qua, tôi bị “hémorragie” dầm dề, liên tiếp sáu, bảy hôm liền. Những mũi thuốc cầm máu vô hiệu nghiệm. Cô y tá nghi ngờ tôi tính sai ngày và có thể bị sót nhau. Cô khuyên tôi nên tới một bác sĩ chuyên môn trị bệnh đàn bà. Bác sĩ xác nhận tôi bị sót nhau. Ông giới thiệu tôi đến một bảo sanh viện nổi tiếng. Tôi nói dối bị xẩy thai, ông không nghi ngờ gì cả.
CHƯƠNG 5
Nỗi thống khổ chưa chịu rời tôi. Một lần xẩy bằng bảy lần sinh. Còn một lần phá thai bằng bao nhiêu lần sinh, bao nhiêu lần xẩy đây? Nếu những ông quan tòa biết rõ sự ê chề, sự nguy hiểm gần đất xa trời của những cô gái bị bọn Sở Khanh lừa gạt rồi trốn tránh trách nhiệm và những cô con gái đáng thương này vì danh dự gia đình phải lén lút đi phá thai, các ông quan tòa sẽ trừng trị bọn Sở Khanh bản án nào cho xứng đáng? Và các nhà luật học sẽ nghĩ được đạo luật gì mới mẻ? Và các nhà đạo đức, các nhà xã hội học còn thóa mạ, lên án những người đi phá thai không? Tôi đến bảo sanh viện đường Duy Tân “nạo” nhau. Hãy hình dung người ta nạo một chất dơ khỏi một thứ đồ đạc. Thì tưởng tượng được nỗi đau đớn của người đàn bà đẻ sót nhau phải đi nạo! Dù đã được chụp thuốc mê, tôi vẫn ngất đi. Ngất vì đau. Tôi la hét, giẫy giụa, chửi bới. Tôi có quen chửi bới đâu. Tôi có nghe nói nhiều người đàn bà bản tính rất hiền hòa, thế mà khi nằm trên giường sinh, vì đau quá, đã chửi bởi văng mạng. Có người réo cả tên chồng mình nguyền rủa. Sau cơn điên đau lịm đó nếu ai kể lại chuyện chửi bới, những người đàn bà đều xấu hổ như nhau. Nhưng đó là sự xấu hổ xen lẫn sự sung sướng. Còn tôi thì đau khổ và xấu xa hoàn toàn. Tôi bị mất khá nhiều máu. Trải qua bao lần “nạo nhau”, tôi như người mất hồn. Bác sĩ bắt tôi nằm dưỡng bệnh hai tuần và ngày nào cũng tiếp huyết thanh cho tôi. Chị Hồng đã lo tiền phòng, tiền thuốc. Chị không nhắc chi tới chuyện đó. Khiến tối càng băn khoăn. Không biết tôi sẽ phải làm gì để đền đáp lòng tốt của chị Hồng.
Hôm tôi sắp rời bảo sanh viện Duy Tân chị Hồng hỏi tôi.
- Em muốn tiếp tục học nữa không?
Tôi chưa kịp trả lời. Thì chị đã nói:
- Chị không còn người thân thích nữa. Chị coi em như em gái chị và có bổn phận phải lo lắng cho em. Chị không lợi dụng em đâu.
Tôi ngắt lời chị:
- Em xin chị đừng nói thế. Em có gì để chị lợi dụng.
Chị cười, nụ cười của chị hôm nay u ẩn lắm. Chị nhìn tôi:
- Có chứ, tình thương của em. Người ta có thể sống bất cần ngày mai, nhưng vẫn cần tình thương trong sự bất cần đó em ạ!
Tôi cúi đầu:
- Em sợ làm chị thất vọng.
Chị cầm tay tôi:
- Chị sợ làm em thất vọng thì đúng hơn. Hiện nay chị có tiền nhưng không giầu đâu. Chị muốn gây dựng cho em một cái gì. Tưởng tượng ngày mai tươi sáng của em, chị sung sướng muốn chết. Lúc ấy, chị tàn tạ rồi. Em sẽ thương chị, săn sóc chị để cho khỏi chết bệnh trong nhà thương thí.
Đôi mắt chị chớp mau:
- Không có viện dưỡng già cho vũ nữ và gái điếm.
Chị thở dài:
- Chị cũng chẳng dám mong làm lại cuộc đời. Chị kể như bỏ đi rồi.
Tôi đặt tay lên vai chị:
- Buồn quá, chị đừng bi quan nữa...
Thật khôi hài. Một người muốn tự tử khuyên một người hãy lạc quan. Chị Hồng siết chặt tay tôi:
- Chị yêu đời chứ. Vì có em...
Chị buông tay tôi ra rồi vuốt ve mái tóc rối của tôi:
- Ông Thái Can làm một bài thơ mà bất cứ một gái nhảy nào có chút học đều thuộc hai câu. Em muốn nghe hai câu đó không?
- Chị đọc đi.
- Chị tặng em nhé!
- Vâng!
“Em nên điểm phấn tô son lại. Ngạo với nhân gian một nụ cười”. Hai câu thơ của thi sĩ Thái Can mà chị Hồng bảo tặng tôi khiến mạch máu trong cơ thể tôi bừng bừng lưu thông. Máu dồn hết về tim. Và trái tim ấm áp. Và tâm hồn xao xuyến vô cùng.
- Em đồng ý không, phải nhìn nhân gian bằng nụ cười ngạo mạn. Và thế là đủ trả thù cuộc đời rồi. Em bằng lòng nhé, em hãy làm vui lòng chị đi! Em vào nội trú, học đỗ tú tài rồi đi dạy học ở một tỉnh lỵ. Chị sẽ theo em đi...
Mùa đông của đời tôi đã qua. Trên những cành cây khẳng khiu, trơ trụi lá, lộc non đã đâm chồi. Tôi vào nội trú của bà Sơ ở đường Lê văn Duyệt. Những buổi tối đứng trên lầu hai của nội trú, nhìn xuống đường, tôi hay nghĩ đến Huy. Tôi vẫn viết thư cho nó và coi như tôi còn ở nhà. Tôi cẩn thận ghi cho nó địa chỉ nội trú, bảo rằng tôi học ở đây, nó gửi thư về đấy cho đỡ phiền phức.

Huy cho tôi biết nó sắp được qua Mỹ học lái máy bay phản lực. Nó là mẫu người muốn tự làm lấy đời mình nên có vẻ khô khan. Nhưng tôi hiểu nó. Hoàn cảnh gia đình tôi đã khiến một thằng con trai như nó mất dần sự mềm yếu tình cảm. Từ ngày tôi bỏ nhà tôi không được tin tức gì cả. Tôi muốn quên trận bão hai tháng trước. Quên đi chứ. Sau cơn bão còn lại gì, còn lại sự hoang tàn. Nếu chẳng hy vọng thì sẽ chết buồn trên đống gạch nát của hoang tàn cô liêu đó. Hôm qua mua tờ báo Văn đọc truyện “Chim hót trong lồng” của Nhật Tiến. Buồn kinh khủng. Quăng tập báo xuống đường và nói khẽ. “Buồn ơi từ giã” Nhưng khó mà giã từ được nỗi buồn có tên tuổi có dấu vết.
Mỗi chiều thứ Bảy, từ hai giờ rưỡi, chỉ Hồng đến nội trú lãnh tôi ra. Hai chị em đã đi chơi trắng cả chiều. Rồi chị Hồng đưa tôi trở lại nội trú, chị đi tới vũ trường. Lần nào cũng vậy, khi cánh cửa nội trú khép kín chị Hồng đứng tần ngần một lúc lâu. Chị bấm chuông kêu tôi ra, dặn thêm một lời “chăm học em nhé”. Bấy giờ chị mới gọi Taxi. Tôi nhìn theo thấy chị Hồng rút khăn mùi xoa, thấm mắt.
Chị Hồng có một tâm sự u ẩn. Tôi đoán thế. Chị đã chả muốn kể thì tôi cũng chả nên đòi hỏi. Những ngày sống ở nội trú thật lặng lẽ và buồn chán. Đi trồng cây hy vọng trên mảnh đất buồn chán kể như đi kiếm thuốc trường sinh ở khu rừng Ban Mê Thuột.
Các bà Sơ ở nội trú này còn trẻ cả. Mẹ Bề Trên cũng chưa già lắm. Mẹ Bề Trên không khe khắt. Các Sơ trẻ thật hồn nhiên. Tối nào các Sơ cũng hòa đàn khiến gái nội trú bớt buồn tẻ, bớt dáng dấp của nội trú. Bà Sơ giám thị quý mến tôi. Tên bà là Joséphine. Sơ Joséphine hay rủ tôi xuống phòng nghe hòa nhạc. Đôi lần, Sơ khuyến khích tôi hát. Các Sơ nội trú phần đông đều đã xuất ngoại du học. Vài người tốt nghiệp ở các đại học Pháp, vài người ở Mỹ. Tôi không hiểu tại sao những Sơ trẻ đẹp, nhiều bằng cấp như thế lại có thể tình nguyện hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Các Sơ đã là nguồn cảm hứng của tôi. Mình nên đi tu? Câu hát vọng cổ thường khi nghe muốn nguyền rủa, lúc này mới thấy hay “Ôi, tu là cõi phúc, tình là dây oan”. Không được đâu, đi tu chẳng phải là trò giải trí cho những người phiền muộn. Hơn nữa, tôi trót mang ơn chị Hồng, tôi cố gắng thực hiện ý muốn của chị. Đàn bà không gia đình ai cũng sợ cảnh đơn độc trong hoàng hôn cuộc đời. Chị Hồng biết lo xa. Tôi sẽ là ngọn lửa, là ánh nắng đầu xuân hong nỗi buồn của chị nếu một mai chị bị hất ra khỏi vũ trường.“Em nên điểm phấn tô son lại. Ngạo với nhân gian một nụ cười”. Tôi không quên hai câu thơ của thi sĩ Thái Can. Và cố xua đuổi sự chán nản. Sự chán nản, Tôn Nữ Thu Hồng gọi là cái mầm khi nhà nữ thi sĩ của chúng ta mắng yêu nó
Mầm chán nản chớ chen vào niên thiếu.
Chớ chen vào sớm quá tội em mà.
Em nghe như thời ấy hãy còn xa.
Em chầm chậm để còn xa mãi mãi.
Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái.
Hoa nồng hương mà trái lắm khi chua.
Cái “thời ấy” của tôi đã qua rồi. Đã qua sau một trận bão thê thảm. Không còn là hoa nữa. Tôi là trái - trái sầu đau. Trái sầu đau Trần thị Diễm Châu. Nhưng chẳng còn thì giờ để oán trách số phận. Số phận tôi ràng buộc số phận chị Hồng. Tôi không có quyền ích kỷ. Nghĩ thế, sự chán nản nguôi dần. Và tôi vùi đầu vào sách vở. Tôi học đến phờ phạc, hốc hác. Sơ Joséphine một hôm, dắt tay tôi ra chiếc ghế đá ở vườn chơi, hỏi tôi:
- Em có có chuyện gì buồn hả?
Tôi chối dài:
- Thưa sơ, em vui vẻ mà.
Sơ Joséphine nhìn tôi bằng đôi mắt ấm áp thương hại.
- Em giấu sao nổi Sơ. Nói dối Chúa phạt đấy.
Sơ Joséphine đặt tay lên vai tôi:
- Sơ thương em lắm, có chuyện gì buồn em cứ kể cho Sơ nghe. Không chịu kể, nỗi buồn nó to dần rồi nó nổ tung vỡ trái tim đó.
Sơ Joséphine mỉm cười. Câu nói đùa của Sơ làm tôi không nhịn được tiếng khúc khích. Bất chợt Sơ tỏ ra quan trọng:
- Cô Hồng không phải chị ruột em.
Tôi giật mình. Chẳng hiểu điều này có vi phạm luật lệ của nội trú không. Sơ Joséphine trấn tĩnh tôi ngay.
- Sơ đọc hồ sơ biết liền, hai người hai họ. Và nơi sinh khác nhau. À, chả sao đâu em ạ! Chắc cô Hồng là chị họ em?
Tôi lắc đầu:
- Em không có họ hàng với chị Hồng. Chị ấy thương em, không muốn em bơ vơ nên gởi em vào đây học hành.
Sơ Joséphine chép miệng:
- Tội nghiệp em. Đó, Sơ nói có sai đâu, em có chuyện buồn.
Rồi Sơ xoa cả bàn tay dịu hiền lên vai tôi:
- Cô Hồng làm nghề gì?
Tôi hãnh điện đáp:
- Thưa Sơ, chị ấy chỉ là một gái nhảy.
- Người như cô Hồng, Chúa sẽ thương xót. Cô ấy theo đạo Thiên Chúa chắc sẽ được lên nước Chúa sau khi rời cõi đời này. Cô ấy là đặc phái viên của Chúa, đem tình thương của Ngài ban phát cho em.
Đôi mắt người nữ tu trở nên huyền ảo lạ lùng. Sơ Joséphine ca ngợi Chúa, ca ngợi các vị Thánh và lâm râm cầu nguyện. Một lát, Sơ lại nhìn tôi mỉm cười:
- Thế là Sơ biết nỗi buồn của em rồi. Lúc nào buồn em hãy cầu nguyện Chúa. Sơ sẽ cho em nhiều sách kinh em đọc. Hễ buồn nãn, đọc Kinh Thánh là nỗi buồn tiêu tan ngay.
Từ bữa đó, Sơ Joséphine chú ý tới tôi nhiều hơn. Tôi được Sơ coi như “đặc khách” và được hưởng nhiều đặc ân. Chẳng hạn, bữa cơm chiều nào toàn cá biển, tôi ăn không được Sơ Joséphine sai người đi mua bánh mì, chả lụa dấm dúi bắt tôi ăn hay mở cổng nội trú, dục tôi qua hàng phở bên đường. Sơ đợi sẵn ở cổng để mở cổng cho tôi và đề phòng nếu Mẹ Bề Trên bắt gặp thì chống chế giúp tôi. Tôi có thêm một tấm mền nữa. Nhưng nhiều đêm “trở nghiêng gối mộng” vẫn thấy gió lạnh lùa vào tận tim. Tôi lại ra đứng ở cửa sổ nhìn xuống đường khuya. Lòng rộn lên một nỗi niềm đau xót hòa lẫn uất nghẹn. Mùa thi năm nay đến thật sớm. Chị Hồng nghỉ làm mấy đêm liền. Sáng chiều chị đưa tôi tới trường thi. Tối chị xin phép Sơ Joséphine cho tôi ăn cơm ngoài rồi mới trả tôi về nội trú. Đến lượt Sơ Joséphine tẩm bổ cho tôi bằng cam tươi. Tôi đã không phụ chị Hồng và Sơ Joséphine. Chúa của Sơ Joséphine đã giúp tôi. Tôi đậu đợt thi viết. Tôi mừng lắm. Chị Hồng còn mừng hơn. Chị đã rớt nước mắt khi nghe người ta xướng danh Trần thị Diễm Châu trong đám đông, buồn vui dâng ngập. Chị xoắn chặt bàn tay tôi nước mắt chảy thành hai hàng trên đôi mả.
- Em đậu rồi, em đậu rồi...
Hạnh phúc của một người là làm cho người khác sung sướng. Hình như đó là triết lý bàng bạc trong các tiểu thuyết của văn hào Léon Tolstoï. Tôi đã làm cho chị Hồng sung sướng tức là tôi đã tìm được hạnh phúc. Cũng như chị Hồng đã tìm được hạnh phúc khi chị gây cho tôi một niềm tin yêu, sung sướng mà chấp nhận cuộc sống nhiều oan nghiệt. Sơ Joséphine khen tôi nức nở. Sơ dắt tôi lên văn phòng hiệu trưởng tức là Mẹ Bề Trên để Mẹ Bề Trên ban lời khen, ban phước lành cho tôi. Chị Hồng luôn miệng “Em đậu rồi, em đậu rồi”. Lúc tôi tỏ ý lo ngại ở đợt thi vấn đáp, chị xua tay:
- Coi như em đỗ, tụi giáo sư hỏi em, toàn là ngưòi chị quen.
Chị không muốn nói “toàn những thằng đã từng ôm chị du dương trên sàn nhảy”.
- Chị đã gửi hết rồi.
Quả như lời chị Hồng, tuần lễ sau tôi vào vấn đáp. Và tôi đã đậu hoàn toàn cái bằng tú tài phần một. Tôi đậu bình. Sơ Joséphine lấy làm hãnh diện vì tôi đã đem sự vẻ vang cho nội trú. Chị Hồng dẫn tôi đi chợ Saigon, sắm cho tôi đủ thứ. Chị muốn gửi tôi lên Đà Lạt dưỡng sức. Tôi đã từ chối sợ xa chị, xa Sơ Joséphine, xa cái chuồng bồ câu nội trú. Lần này con bồ câu mới thật sự tàn kiếp. Sơ Joséphine ngạc nhiên về tôi nhiều lắm. Mùa hè năm ấy tôi “tu” ở nội trú, cái nội trú vắng vẻ vì mọi người về nhà nghỉ hè cả rồi. Còn có mình tôi. Tôi yêu sự cô đơn lạ lùng. Phải chi tôi là một nhà văn. Một nhà văn sống trong nỗi cô đơn chắc sẽ sáng tác được những tác phẩm kỳ diệu. Tiếc quá. Tôi chỉ là tôi, một con bé vừa đậu xong mảnh bằng tú tài một. Các Sơ ở đây đi nghỉ hè gần hết. Mẹ Bề Trên qua Phi Luật Tân, Sơ Joséphine năm ngoái đã sang Nhật, năm nay “tình nguyện” nằm nhà. Tôi trở thành người bạn nhỏ tri kỷ của Sơ. Chúng tôi thường đàn ca vào buổi tôi. Sơ Joséphine kéo vĩ cầm thật hay. Sơ không có những ngón xuất thần của nghệ sĩ, nhưng tiếng đàn của Sơ cũng trang trải lắm. Người nữ tu này trông bề ngoài chẳng vương một chút bụi ưu tư. Thế mà nghe tiếng đàn, tôi tưởng tượng Sơ Joséphine của tôi có tâm sự u ẩn trước khi vào nhà tu. Sơ chơi “Lettres à Élise”, một trong số những bài của Beethoven làm tôi ray rứt tâm hồn. Và tối nào tôi cũng bắt Sơ chơi bài đó. Lúc ngón tay Sơ nắn trên phím đàn, khuôn mặt của Sơ không còn là khuôn mặt một bà phước nữa. Âm nhạc đã đưa Sơ vào thế giới khác.
Không hiểu chơi nhạc cổ điển có phải là cái tội không, mà dứt bản nhạc, Sơ thẫn thờ một lúc lâu rồi nhìn lên hình Chúa đóng đinh treo trên tường. Sơ Joséphine của tôi, làm dấu và lâm râm lời kinh sám hối.
Rồi Sơ ngó tôi đang tròn mắt ngó Sơ, mỉm cười:
- Sơ dạy em một bản thánh ca nhé?
Tôi gật đầu. Sơ Joséphine kéo nhạc ngay. Và Sơ vừa đàn vừa đăm đăm chiêm ngưỡng hình Chúa. Bản nhạc dứt. Sơ Joséphine, có lẽ, đã tạ tội xong, bảo tôi:
- Nào, bắt đầu tập hát.
Tôi chiều Sơ, học thuộc một bài thánh ca tiếng La Tinh. Học thuộc như con vẹt, dù chẳng hiểu ý nghĩa của bài ca.
- Hễ lúc nào buồn khổ, em hát một bài thánh ca, nỗi buồn sẽ tiêu tan. Linh hồn Chúa bàng bạc ở mỗi câu kinh, mỗi lời ca ngôi Chúa, em ạ!
Sơ Josephine lại nói về Chúa, nói về nhân loại trước và sau khi Chúa giáng sinh. Sơ cất cây vĩ cầm vào hộp, kết luận:
- Còn ai trên trái đất khổ hơn Chúa? Ngài bị phản bội, bị hất hủi xua đuổi tàn nhẫn. Ngài bị đóng đinh vào thập tự giá cho đến chết. Mà Ngài vẫn tha thứ, tha thứ cả những đứa đánh đập hành hạ Ngài.
Ý chừng Sơ Joséphine biết trong lòng tôi đang nuôi một mối thù hờn. Nên Sơ mới đem nỗi khổ đau của Chúa kể lể ngầm khuyên tôi nên tha thứ cho những kẻ gây ra bao nỗi oan nghiệt cho tôi. Tôi là con bé hèn mọn, là người. Tôi không phải là Chúa. “Mày cần sống để trả thù cuộc đời”. Câu nói mơ hồ vẳng đến tai tôi hôm tôi định uống hai ống thuốc ngủ quyên sinh. Tôi vẫn còn ghi nhớ hai câu thơ “Em nên điểm phấn tô son lại. Ngạo với nhân gian một nụ cười”.
Không được, tôi cần “ngạo với nhân gian”. Buổi tối hôm khác, Sơ Joséphine hỏi tôi:
- Sao em không về nhà.
- Em không có nhà?
- Ba em đâu?
- Chết rồi, Sơ ạ!
- Má em đâu?
- Đi lấy chồng khảc.
Sơ Joséphine nín lặng, Sơ vỗ nhẹ vai tôi:
- Sơ xin lỗi em nhé!
Từ bữa đó, Sơ Joséphine không hề nhắc nhở tới gia đình tôi. Sơ khen chị Hồng, khen tôi. Và điều làm tôi phải gục đầu vào lòng Sơ khóc nức nở là khi Sơ hứa hẹn sẽ săn sóc tôi đến bao giờ tôi tìm thấy hạnh phúc hoàn toàn bên chồng con, dưới mái nhà ấm cúng, nếu chị Hồng có vì cớ gì xa lánh tôi. Nội trú Hòa Hưng, nơi tôi đang sống, đang hong vết thương, đang trồng cây hy vọng không phải là mảnh đất khô cằn, chán nản. Tôi tự nhủ, hãy gắng sống vui, đời còn dành cho ta nhiều kỳ thú. Và vết thương của ta sẽ có thuốc hạnh phúc làm lành.
CHƯƠNG 6
Mùa hè trôi qua. Nhưng loài ve sầu còn tiếc thương điệu nhạc sầu muộn. Và trên những cây phượng hoa vẫn đỏ thắm. Chưa có gì chứng tỏ mùa thu đã sang. Mưa thì nhiều trận như thác đổ. Tôi nhìn cây phượng trong sân nội trú. Hoa rụng xuống. Những bước chân dẫm lên nhầu nát màu máu. Tình cũ lại thắp lửa ở lòng tôi. “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm hồ dễ đã ai quên”. Ái tình dưới cây bút của thi sĩ bao giờ cũng đẹp. (bỏ 75 chữ)
“Thuở ban đầu lưu luyến” của tôi tuy chả ra gì tuy bị phụ bạc nhưng mỗi lần nhớ lại, lòng tôi vẫn nao nao... Tôi ngắm những cánh hoa phượng nhàu nát, thấy những câu thơ của Nguyễn Bính thật thấm thía.
Anh đã từng đi khắp bốn phương.
Tháng hai anh đã thấy trên đường.
Những hoa gạo đỏ tươi màu máu
Nhầu nát như người lính tử thương.
Anh ạ, tôi buồn không thiết nói.
Cái tình lỡ rụng tự hôm qua,
Một khi tình rụng như hoa rụng.
Màu đỏ lìa tim dạ xót xa...
Cánh tình tôi đã rụng, đã rụng như những cánh phượng nhàu nát dưới những bước chân vô tình. “Hễ lúc nào buồn khổ, em hát một bản thánh ca, nỗi buồn sẽ tiêu tan” - Sơ Joséphine dặn tôi thế. Tôi se sẻ hát bài thánh ca. Tuy chẳng hiểu ý nghĩa của bài ca nhưng điệu nhạc đã xoa êm nỗi buồn của tôi như một điệu ru, ru đứa trẻ thơ ngủ lịm đi trong cơn khóc của nó. Tôi lên đệ nhất. Qua cái cầu tú tài một người học sinh dám nhìn tương lai của mình rồi. Chị Hồng vẫn đến những chiều thứ Bảy. Tôi năn nỉ với chị bớt rủ tôi đi chơi vì năm nay học thêm nhiều môn nhức đầu. Triết lý chẳng hạn, chị Hồng chiều ý tôi. Vậy là những chiều thứ Bảy, hai chị em ngồi trên chiếc ghế đá trong sân nội trú, tâm sự...
- Đậu tú tài hai em định theo phân khoa gì trên đại học.
- Chị muốn em học gì?
- Tùy em chứ?

- Em muốn tặng chị sự định đoạt này.
- Chị không nhận đâu.
- Em bảo em học sư phạm, chị nghĩ sao?
- Đúng ý chị quá!
Chị Hồng reo to. Sung sướng. Tôi hỏi chị:
- Tại sao chị thích em làm cô giáo?
Chị xoa tay:
- Con cái em sẽ đỡ khổ nếu có chuyện gì xảy ra cho em.
Tôi bĩu môi:
- Em không thèm lấy chồng đâu.
Chị Hồng tát khẽ vào má tôi:
- Thôi, tôi xin cô...
Có cái gì vừa sung sướng, vừa chua cay dâng ngập tâm hồn tôi. Tôi chớp mắt thật mau khi chị Hồng nhìn lên trời xanh bao la.
Ba tháng trong niên học đệ nhất là ba tháng ngụp lặn trong mộng ước của tôi và chị Hồng. Rồi một buổi chiều cuối tháng, Sơ Joséphine tay cầm tờ nhật báo, dáng điệu thiểu não tới phòng học tìm tôi. Sơ Joséphine vẫy tay làm hiệu bảo tôi ra khỏi phòng học. Sơ nắm tay tôi, dắt leo lên lầu hai. Căn phòng ngủ của tôi yên lặng. Chỉ có tôi, Sơ Joséphine. Mười cái giường sắt, mùng mền, drap trải, gấp gọn gàng. Hai chúng tôi ngồi trên giường. Tiếng lò-xo kêu kút kít dễ sợ.
- Em phải hứa với Sơ một điều.
Tôi chột dạ.
- Sơ muốn bắt em hứa điều gì?
Sơ Joséphine phân vân giây lát, rồi nói:
- Nếu có chuyện gì không hay xảy tới cho em, em hứa với Sơ là ở đây học hết niên học này nhé! Học đậu tú tài hai rồi đi đâu hãy đi nhé!
Tôi thở phào:
- Em tưởng em có lỗi nặng, em sợ quá.
Sơ Joséphine không mỉm cười như mọi lần. Trên khuôn mặt nhà nữ tu hành ẩn hiện một niềm bí mật. Sơ cuộn tròn tờ nhật bảo thật nhỏ. Sơ móc túi áo chùng trắng lấy ra một viên thuốc nhỏ.
- Em hả miệng ra!
- Chi vậy Sơ?
- Uống một viên thuốc bổ óc.
Tôi hả miệng, Sơ Joséphine ném khẽ viên thuốc. Viên thuốc vào tận cuối lưỡi, Sơ dục.
- Nuốt đi!
Viên thuốc đắng vô cùng. Tôi muốn uống một hớp nước. Không có sẵn. Sơ Joséphine đưa tôi viên kẹo. Thuốc bổ óc sao mà đắng thế! Sơ vất tờ báo cho tôi.
- Em nằm xuống, coi báo nhé. Lát nữa Sơ lên nói chuyện nhiều.
Tôi nằm gối đầu trên gối nhìn lên mùng. Khó hiểu quá. Nghe lời Sơ Joséphine, tôi dở tờ nhật báo Hy Vọng ra. Hàng tít sáu cột ở trang nhất đã đập vào mắt tôi:
GHEN THỜI ĐẠI NGUYÊN TỬ,
MỘT VŨ NỮ BỊ TẠT ÁT-XÍT CHÁY XẠM MẶT MÀY
Đọc xong tin này, tay chân tôi rụng rời. Cái tin làm giờ chót rất vắn tắt. Nhưng tên người vũ nữ và vũ trường nơi người vũ nữ hành nghề đúng là chị Hồng của tôi. Lạy trời còn một người gái nhảy tên trùng với tên chị Hồng. Phái viên của nhật báo Hy vọng hứa hẹn với độc giả ở số báo ngày hôm sau đầy đủ chi tiết và hình ảnh của thủ phạm. Những đứa nào đã “bắt nạt” người vũ nữ yếu đuối, cô thế? Nếu quả thật nạn nhân của vụ ghen tuông bỉ ổi và tàn nhẫn này là chị Hồng của tôi, tôi sẽ phải làm gì? Tôi sẽ ra sao? Tôi nhắm chặt mắt không dám nghĩ thêm. Tờ báo Hy vọng vẫn trải trên ngực tôi. Tôi thiếp đi. Khi tôi tỉnh dậy căn phòng tối om. Nhưng hơi thở đều đặn của những người bạn nội trú cho tôi biết họ đang ngủ vô tư lắm. Sơ Joséphine thương tôi quá. Sơ đã bắt tôi uống viên thuốc an thần để tôi khỏi chiêm bao thấy quỷ sứ. Tiếng đồng hồ phòng dưới lanh lảnh điểm 12 tiếng. Nửa đêm rồi. Từ giờ tới sáng, chắc tôi sẽ mở căng mắt nhìn bóng tối. Tôi cố khép mắt, hy vọng gặp chị Hồng đến thăm tôi trong giấc ngủ chập chờn. Chị Hồng đã đến.
- Em chưa ngủ à?
- Chưa chị ạ! Em sợ ghê, chị có làm sao không?
- Làm sao, chị có làm sao đâu!
Bàn tay mềm mại của chị đặt lên vầng trán nóng hổi đẫm mồ hôi của tôi. Tôi nắm lấy bàn tay chị.
- Em sợ ghê, em sợ ghê ghê là... Em sợ bóng tối.
- Đừng sợ, em! Ngày mai trời lại sáng.
Tôi mở mắt. Chỉ thấy là Sơ Joséphine. Sơ ngồi hẳn trên giường của tôi.
- Em cố ngủ đi.
- Làm sao ngủ được hở Sơ?
- Uống viên thuốc an thần nữa em nhé!
- Em muốn uống hàng trăm viên.
- Dại dột nào.
Tôi chưa buông tay Sơ Joséphine ra.
- Này...
Nước mắt tôi đã chảy xuống hai bên tai.
- Sơ ơi.
Tiếng nói của Sơ Joséphine êm ái lạ thường.
- Gì thế em?
- Nếu chị Hồng của em gặp tai nạn khủng khiếp như thế, em phải làm gì?
- Em hãy cầu nguyện Chúa.
- Chúa sẽ giúp em phép lạ, hở Sơ?
- Chúa giúp em yên ổn tâm hồn, bình tĩnh và biết tha thứ.
- Tha thứ kẻ giết người thân yêu của mình ư?
- Đúng thế em ạ!
- Không được, em phải trả thù cho chị Hồng của em.
- Em trả thù rồi người thân yêu của kẻ thù của em lại tìm cách trả thù thì bao giờ hết oán thù. Chúa dạy rằng...
Tôi hất tay Sơ Joséphine khỏi trán tôi:
- Em không thích nói chuyện nữa. Sơ để em một mình đi.
Sơ Joséphine chẳng hề giận tôi. Sơ dịu dàng hơn và vuốt ve tôi trìu mến hơn:
- Đã chắc đâu chị Hồng em gặp nạn.
Câu này làm tôi tỉnh táo. Tôi hy vọng không có gì xảy ra cho chị Hồng.
- Sao Sơ lại cho em coi tin khủng khiếp đó?
- Để em bớt khủng khiếp nếu...
Sơ Joséphine ngừng lại.
- Em khát nước không?
- Dạ khát khô cả cổ.
- Sơ pha cho em ly nước cam đây, em ngồi dậy uống đi!
Sơ Joséphine đỡ tôi ngồi dậy. Sơ chui khỏi mùng, cúi xuống gầm giường lấy ly nước cam pha sẵn và đậy nắp nhựa.
- Uống đi em...
Tôi cầm ly nước cam, mở nắp, uống ừng ực.
- Ngày mai trời không mưa đâu.
Sơ Joséphine nói một câu vu vơ. Chúng tôi nói chuyện một hồi lâu. Rồi tôi ngủ đi lúc nào chẳng biết. Sáng sau, tôi dậy rất muộn, trễ buổi học. Tôi mới hay, trong ly nước cam lại có thuốc an thần. Sao đời tôi “ly kỳ” thế nhỉ? Thuốc an thần trong ly sữa của cha dượng tôi. Rồi thuốc an thần trong ly nước cam của Sơ Joséphine. Một đàng làm tôi khốn khổ, một đàng làm tôi quên nỗi khốn khổ. Ánh nắng chiếu qua khung cửa sổ. Căn phòng vắng hoe. Mẹ Bề Trên đang bước tới giường tôi. Theo sau là Sơ Joséphine. Tôi nằm im mắt mở thao láo, Mẹ Bề Trên vén mùng và vắt lên. Mẹ sờ tay vào trán tôi.
- Con bớt sốt chưa!
Tôi toan ngồi dậy. Thì Mẹ Bề Trên mỉm cười. Nụ cười nhân ái dường bao!
- Con cứ nằm. Nghỉ một buổi học có hề sao. Con ốm mà... Các Sơ sẽ dạy lại một mình con.
Mẹ Bề Trên kéo chăn đắp qua ngực tôi:
- Con đừng nghĩ ngợi gì cả. Mẹ đã cho người tìm chị con rồi. Nếu chị con có bề chi, nội trú này sẽ là nhà của con. Mẹ sẽ săn sóc con tới nơi tới chốn.
Tôi chỉ biết ứa nước mắt ra. Mẹ Bề Trên lấy bàn tay gạt nước mắt cho tôi.
- Con khóc nhiều sẽ bị đau mắt đấy.
Mẹ Bề Trên bảo Sơ Joséphine:
- Sơ mang sữa cho em uống đi!
Sơ Joséphine vâng dạ lễ phép. Mẹ Bề Trên dặn dò tôi:
- Con đừng ưu tư nữa, có hại cho sức khỏe đấy.
Rồi Mẹ Bề Trên và Sơ Joséphine rời phòng ngủ của chúng tôi. Lát sau Sơ Joséphine bưng sữa và bánh mì kẹp chả quế lên. Sơ cẩn thận mang cả chiếc khăn mặt ướt và ly nước trà đầy.
- Em súc miệng qua loa, lau mặt thôi. Trưa hãy xuống.
Tôi làm những việc mà Sơ Joséphine bảo. Nhưng chỉ uống nổi nửa ly sữa và nhấm nhá chút xíu bánh mì.
- Chiều nay Sơ tới nhà thương.
- Sơ cho em theo với.
- Mẹ Bề Trên cấm em đi. Mẹ cho phép một mình Sơ thôi.
- Thế Sơ nhớ mua tờ báo Hy Vọng.
- Sơ sẽ nhớ. Mà em phải uống cạn ly sữa đi.
Trong lúc tôi bưng ly sữa, nhăn nhó uống Sơ Joséphine lẩm bẩm:
- Chúa đâu nỡ để người có lòng chịu cực hình đó.
Và Sơ Joséphine nhìn tôi, cố tạo ra một nụ cười tin tưởng. Tôi không hiểu sao tôi được ưu ái trong nội trú này thế. Có lẽ, tại tôi bị ngược đãi ở bên ngoài. Thượng đế tạo ra những con người ác đồng thời tạo ra những người lành. Và khổ đau song song với sung sướng. Nếu không có người ác đâu có người lành, không có khổ đau, mình đâu biết sung sướng. Thượng đế ơi, con yếu đuối, mong manh lắm, con chỉ muốn gặp toàn người lành, con chỉ muốn biết toàn nỗi sung sướng. Ngài hãy cho con một lần sung sướng chót. Là gặp chị Hồng của con còn nguyên vẹn khuôn mặt chị Hồng. Rồi sau đó, Ngài đầy đọa con thế nào, con cũng nghiến răng chịu đựng.
Thượng đế không nghe rõ lời van xin của tôi. Buổi chiều, tôi gặp Sơ Joséphine, Sơ không nói nhiều, chỉ buông gọn năm tiếng:
- Tội nghiệp cô Hồng quá!
Năm tiếng đó như năm tiếng sét quật đứt các dây thần kinh trong đầu óc tôi. Tôi hét một tiếng hãi hùng rồi ngất đi. Sơ Joséphine mất công săn sóc tôi. Khi tôi tỉnh dậy, cơn điên kinh hoàng tan biến. Tôi bình tĩnh lạ lùng. Sơ Joséphine lo lắng:
- Em có làm sao không?
- Không sao cả, Sơ ạ! Sơ cho em mượn tờ báo.
Nhật báo Hy Vọng hôm nay tường thuật đầy đủ chi tiết. Một ông công chức cao cấp yêu chị Hồng. Vợ ông ta ghen, thuê người đón ở cửa bin-đinh Núi Trắng, tạt át-xít vào mặt chị Hồng. Bọn giết người mướn gồm năm đứa. Nhà chức trách đã thộp cổ gần hết. Một đứa trong bọn khai ngay. Kẻ chủ mưu là vợ ông công chức cao cấp đã bị biện lý cuộc tống giam. Phái viên của báo Hy Vọng sau khi nói về sức tàn phá của át-xít trên khuôn mặt nạn nhân đã lên án khắt khe hành động ghen tuông này. Và bình luận thêm rằng nạn nhân là nạn nhân của sự lừa gạt ái tình. Báo Hy Vọng hứa hẹn sẽ đăng ảnh hai khuôn mặt trước và sau ngày bi tạt át-xít của nạn nhân và sẽ phỏng vấn nạn nhân để làm sáng tỏ vụ án tình thê thảm.

Tôi đọc xong bài báo, thương chị Hồng khôn tả. Lòng tôi sôi lên một nỗi căm hờn. Kẻ tàn phá hiện tại của chị Hồng là kẻ tàn phá tương lai của tôi. Đêm hôm đó, tôi không ngủ. Một đêm không ngủ, người già đi. Một đêm không ngủ suy nghĩ và căm hờn, người lớn lên, cằn cỗi. Một đêm dài một đời người, dài hơn cả đêm bị cha dượng tôi cưỡng hiếp êm ái. Sáng sau tôi xin phép Mẹ Bề Trên, tới bệnh viện thăm chị Hồng. Mẹ Bề Trên nhìn tôi ái ngại. Cái nhìn đó, giá lúc khác, tôi đã có thể ứa nước mắt. Nhưng hôm nay, tâm hồn tôi đanh lại. Tưởng tượng chất át-xít cháy xèo xèo trên sắt thép và đã cháy chín da thịt chị Hồng, sự mềm yếu bỗng nhiên mất đi. Mẹ Bề Trên an ủi tôi:
- Sự đã rồi, con ạ!
Sự đã rồi. Vâng, sự đã rồi. Mẹ Bề Trên hay Sơ Joséphine hay bất cứ nhà tu hành nào cũng chỉ biết nói vậy. Không lẽ, Mẹ Bề Trên xúi dục tôi đi trả thù! Nhưng, mặc dù nói vậy, Mẹ Bề Trên vẫn không ngăn tôi đi thăm chị Hồng. Mẹ bảo Sơ Joséphine dẫn tôi đi. Mẹ sợ tôi đau đớn quá, dám liều lĩnh hủy hoại đời mình. Sơ Joséphine thở dài:
- Bác sĩ chưa cho phép ai vào phòng chị em cả. Các nhà báo năn nỉ cách mấy, bác sĩ cũng từ chối.
- Em chắc bác sĩ cho vào.
- Sơ đã xin rồi. Bác sĩ nói chị em đang trong cơn hôn mê.
- Liệu chị em sống nổi không?
- Bác sĩ nói có hy vọng.
- Sơ có hỏi thăm về khuôn mặt chị em không?
- Bác sĩ không chịu nói.
Tôi cứ nằng nặc đòi đi thăm chị Hồng. Sơ Josépbine chiều tôi. Hai chúng tôi cùng đến bệnh viện. Ở cửa phòng giải phẫu, nhiều y tá túc trực. Vừa đề phòng người vô, vừa chờ đợi sự tiếp tay với bác sĩ hay chờ đợi sự sai bảo của bác sĩ. Rất đông phóng viên, nhiếp ảnh viên, săn đón tin tức ngoài hành lang. Tôi hỏi thăm một cô y tá:
- Chị em tỉnh chưa hở cô?
Cô y tá lắc đầu. Một phóng viên nghe thấy câu hỏi của tôi, đến cạnh tôi, lịch sự:
-Thưa cô, tôi là phái viên của báo Hy Vọng.
Ông ta nói thật nhỏ như không muốn cho các nhà báo khác nghe rõ.
- Báo Hy Vọng sẽ đứng về phía cô Thu Hồng để bênh vực cô và đòi pháp luật trừng trị kẻ tàn ác.
Tôi chớp mắt:
- Cám ơn ông.
Ông ta nhìn Sơ Joséphine:
- Cô đi cùng bà phước này?
Tôi gật đầu. Ông ta lễ phép:
- Chào Sơ. Thưa Sơ, tôi ở báo Hy Vọng, xin phép Sơ cho tôi được phỏng vấn cô đây (ông ta chỏ tôi) vài câu. Tôi muốn báo Hy Vọng có một bài đặc biệt mà các báo khác không có. Tôi xin lỗi Sơ. Nếu Sơ cho phép, tôi được mời Sơ và cô đây tới cuối hành lang.
Sơ Joséphine hỏi ý tôi. Tôi bằng lòng. Ba người lặng lẽ đi về cuối hành lang. Rồi cẩn thận nghề nghiệp hơn, phái viên báo Hy Vọng mời chúng tôi rẽ sang một hành lang khác. Ông ta bắt đầu.
- Cô là em của cô Thu Hồng.
- Vâng.
Sơ Joséphine ngắt lời tôi:
- Ở trong nội trú. Thế là đủ rồi.
Ông phái viên tiếp tục:
- Gia đình cô?
- Chúng tôi chỉ còn hai chị em.
Ông ta chép miệng:
- Hèn chi từ lúc đầu tới hôm nay, tôi săn tin ở đây chưa hề gặp một thân nhân nào của nạn nhân. Thưa cô, sao mãi hôm nay cô mới tới à.
Sơ Joséphine ứng đáp giùm tôi:
- Mẹ hiệu trưởng sợ em quá xúc động nên không cho em đi vội. Vả lại, như ông nhà báo biết đấy, bác sĩ có cho ai vô đâu.
Phái viên báo Hy Vọng lại hỏi tôi:
- Thưa cô, nhà báo hơi tò mò, nhưng đó là nghề nghiệp, xin cô cho biết quý danh?
Tôi đáp liền:
- Diễm Châu.
Sơ Joséphine nói thêm:
- Nguyễn thị Diễm Châu.
Sơ Joséphine kỹ lưỡng quá. Một chút xíu tôi quên mất chị Hồng họ Nguyễn.
- Cô cho biết cảm tưởng của cô khi hay tin chị cô bị tạt át-xít.
- Như chính tôi bị tạt át-xít.
- Cô có biết rõ mối tình giữa chị cô và ông Trần Thức Thời không?
- Không hề biết.
- Cô nghĩ gì nếu quả tình chị cô phá hạnh phúc của một người đàn bà và mấy đứa con?
- Nghĩ rằng chị tôi đã nuôi tôi ăn học đàng hoàng. Và chỉ nghĩ vậy.
- Nếu ông Trần Thức Thời nói dối chưa vợ con để gieo tai họa cho chị cô, cô nghĩ sao?
- Tôi tởm bọn đàn ông.
- Cô ghê tởm đàn ông?
- Xin lỗi ông, tôi ghê tởm hết bọn đàn ông. Nếu tôi là con trai tôi sẽ...
Tôi nín ngay khi Sơ Joséphine nháy mắt. Ông phái viên của báo Hy Vọng đâu có hiểu rõ cái lý do khiến tôi ghê tởm đàn ông mà cha dượng tôi, Dũng là đối tượng của sự ghê tởm. Ông phái viên níu câu trả lời không đắn đo của tôi, hỏi tôi:
- Cô sẽ làm gì?
Tôi nhìn ông ta:
- Trường hợp ông, ông sẽ làm gì?
Ông phái viên nhật báo Hy Vọng ngó tôi chằm chằm:
- Cô đẹp hơn chị cô...
Đôi má tôi tự nhiên nóng nóng. Chắc là đang ửng hồng. Bây giờ tôi mới để ý khuôn mặt của người phái viên, ông ta còn trẻ. Độ chừng ba mươi tuổi.
Ông ta tự giới thiệu:
-Tôi là Thái Anh, viết văn viết báo. Viết văn bằng tay phải, viết báo tay trái. Khi văn nuôi nổi tôi, tôi bỏ báo. Hiện giờ báo nuôi tôi để tôi viết văn. Tôi theo rõi vụ này, hy vọng sẽ dựng được một cuốn tiểu thuyết xã hội. Có lẽ, cô giúp tôi nhiều. Vì thế, cần quen thân cô hơn.
Sơ Joséphine đã lặng lẽ đi về cửa phòng giải phẫu. Ở hành lang này chỉ còn tôi và nhà văn Thái Anh.
- Ông là tác giả cuốn “CÂY LEO HẠNH PHÚC”?
- Vâng.
- Và cuốn “TRÁI CHÍN RẤM”?
- Vâng, cô đã đọc hết sách của tôi rồi đấy.
- Truyện ông viết buồn lắm. Đọc xong tôi vừa giận ông vừa thích ông. Sao ông tàn nhẫn thế. Ông cứ bắt các nhân vật chết hoài.
Tôi hơi bối rối khi Sơ Joséphine không còn đứng bên tôi.
- À, chưa phải lúc nói chuyện này. Thưa ông, ông đã chứng kiến từ lúc đầu, ông có thể cho tôi biết át-xít có tàn phá khuôn mặt chị tôi không?
Nhà văn Thái Anh đưa tay xoa mặt như che giấu một sự xúc cảm.
Rồi ông ta nói:
- Cô phải hứa với tôi một điều.
Lại thêm một người nữa bắt tôi hứa. Tôi gật đầu:
- Vâng, tôi hứa. Điều gì đó, thưa ông?
- Cô không được hốt hoảng.
- Tôi hiểu rồi, cám ơn ông.
Nhà văn Thái Anh ngậm ngùi:
- Khi một người con gái bị tàn phá nhan sắc, người đó sống khổ sở hơn chết.
Tôi cố mím môi, mà nước mắt vẫn ứa ra. Nhà văn Thái Anh rút mùi-xoa đưa cho tôi:
- Cô thấm nước mắt đi. Nước mắt không phải là phép nhiệm mầu làm khuôn mặt của chị cô đẹp lại như cũ.
- Tôi phải làm gì?.

- Nếu cô tin tôi, tôi sẽ giúp cô bắt bọn tàn nhẫn này đền tội trước pháp luật, đền tội xứng đáng. Báo chí sẽ đứng về chị cô, nhân danh lòng nhân đạo, chống đối mọi hình phạt bất nhân như vụ tạt át-xít. Chúng tôi bắt ông Trần Thức Thời phải lên tiếng. Hiện thời, ông ta cố tình làm ngơ.
- Tôi tin ông.
Tôi bỗng có sự mong ước quái đản là chị Hồng chết đi. Thượng đế ơi, Ngài hãy giải thoát cho chị Hồng, Ngài đừng bắt chị Hồng sống mặt mũi sần sùi như một mặt quái thai. Con lạy Ngài.
Nhà văn Thái Anh nhún vai:
- Tôi xin lỗi cô Châu nhé. Tôi quá sốt sắng nên hơi đa ngôn. Nhưng bằng khả năng, ngòi bút của tôi, tôi sẽ cố gắng phanh phui vụ này đến nơi đến chốn.
Tôi trả ông ta cái khăn mùi-xoa:
- Để làm gì?
Nhà văn Thái Anh, phái viên chuyên điều tra tường thuật những vụ án tình sôi nổi, con người linh hoạt, soi mói ở lúc đầu, bây giờ thẫn thờ, chán nản. Tay trái ông ta mỏi rời rồi chăng? Chỉ còn tay phải, chỉ còn lòng thương của nhà văn thôi chăng? Hay là cả lý trí và tình cảm của nhà báo, nhà văn Thái Anh đều trở nên bất lực trước thảm cảnh này. Ông ta đưa tôi một tấm danh thiếp có ghi cả địa chỉ tòa báo và nhà riêng của ông. Có ghi cả địa chỉ tòa báo và nhà riêng của ông.
Tôi lắc đầu, xua tay:
- Không cần lắm, ông ạ!
Nhà văn Thái Anh bảo tôi:
- Có cứ giữ lấy, thế nào cũng có dịp cô cần đến.
Ông ta nói thêm:
- Thoạt đầu gặp cô, tôi tưởng có một bài báo rất đặc sắc. Nếu tôi viết bài phỏng vấn cô, ông chủ báo Hy Vọng sẽ khen không tiếc lời và các đồng nghiệp của tôi sẽ tức chết mất. Nhưng tôi không viết nữa, tôi không muốn cô đọc nỗi buồn của cô.
Y như pha cuối của phim “Tình du La mã”. Khi anh phái viên Gregory Peck trao tặng Công chúa Audrey Hepburn những bức ảnh “xương máu” của nghề nghiệp. Nhưng anh phái viên kia vì yêu công chúa, vì được hưởng một đêm tuyệt thú của mối tình vương giả giữa công chúa và anh phái viên nghèo nên đã hy sinh quyền lợi và danh vọng của anh. Còn phái viên Thái Anh đối với tôi nào có chút kỷ niệm gì? Tôi nói:
- Cám ơn ông, tôi sẽ nhớ chuyện này.
Hai chúng tôi bước song song trở về chỗ cũ. Từ lúc đó không ai nói với ai lời nào. Sơ Joséphine hỏi bác sĩ. Bác sĩ cho biết vài hôm nữa chị Hồng mới có thể tiếp thân nhân được.
Hai chúng tôi về nội trú. Bữa tối, tôi bỏ ăn. Tôi đứng ở cửa sổ phòng ngủ, nhìn xuống đường. Chợt nhớ tới anh nhà báo viết văn bằng tay phải, tâm hồn tôi nao nao. Nhưng tôi chép miệng, hai tay bóp chặt hai cái song sắt. Đàn ông họ giống nhau hết. Ngọt ngào vừa quen nhau. Rồi sau đó, sau khi đã lột trần truồng mình ra, họ coi mình không hơn gì một con vật. Ai có thể rót mật ong tình yêu vào tim tôi như Dũng. Và ai có thể nói những lời phũ phàng với tôi như Dũng. Hãy đập mạnh một nhát búa cho nát cả vỏ lẫn ruột và bảo trái bồ hòn đắng lắm, ta không thèm ngậm nó.
Tôi cứ đứng, nhìn xe qua lại. Bạn cùng phòng biết tôi có nỗi buồn, họ để mặc tôi. Họ im lặng. Bởi vì vụ tạt át-xít vào mặt chị Hồng là vụ khủng khiếp đang làm dư luận xôn xao. Các nhật báo ở Saigon khai thác vụ này trên trang nhất. Một vài tờ thu thập ý kiến của độc giả, đăng tải lên mặt báo với cả nghề nghiệp, địa vị xã hội và địa chỉ. Đa số lên án đòn ghen tuông bằng át-xít. Những báo khác, nhân vụ ghen này, so sánh các vụ ghen nổi tiếng cổ kim trên thế giới. Một tuần báo phụ nữ còn chụp cả hình căn phòng của chị Hồng ở bin-đinh Núi Trắng. Và chính thức lên tiếng bênh vực chị Hồng.
Niềm đau tủi của kẻ cô thế luôn luôn làm xúc động mọi người. Nào có ích gì nữa? Chị Hồng sống còn khổ hơn chết. Nhà văn Thái Anh đã nói vậy. Tôi đang mong chị Hồng chết. Cả buổi chiều, tôi nằm đọc hết chồng báo. Tôi muốn đọc một bài báo của ông Thái Anh vào chiều mai. Xem ông ta có ý kiến gì. Chiếc xe bò chở đầy rác lọc cọc về ngoại ô. Gần nửa đêm rồi. Tôi phải sống như thế này vài hôm nữa. Vài hôm nữa mới được gặp chị Hồng. Tiếng lọc cọc của đôi bánh sắt lướt trên mặt đường nghe cơ hồ tiếng nứt rạn của tâm tư. Tôi khép cửa sổ, về giường mình.
CHƯƠNG 7
Sơ Joséphine giới thiệu tôi với bác sĩ. Bữa nay, tôi đã thấy nụ cười nở trên môi người y sĩ tận tâm và lo lắng cho người thân yêu của tôi. Thì tôi phỏng chừng, những con chim cú đã bay khỏi ngọn cây me gần phòng chị Hồng. Chị Hồng đã được rời phòng giải phẫu. Chỉ khi nào, làm thuốc, người ta mới đặt chị lên xe đẩy chị đến phòng băng bó.
Tôi và Sơ Joséphine đẩy cửa bước vào. Một hai nhà báo nhanh chân, gạt cô y tá, theo chân chúng tôi vô. Họ chụp ảnh lia lịa. Rối rút ra vội vàng. Chị Hồng nằm trên giường sắt, bất động như một khúc gỗ. Tấm mền trùm kín chị từ chân tới cổ. Mặt chị được băng bó chừa có hai lỗ mũi và một con mắt. Con mắt không bị băng, nhắm kín. Sơ Joséphine nhấc khẽ tấm mền, luồn tay vào, cầm tay chị Hồng. Chị hơi nhúc nhích. Sơ Joséphine ra hiệu cho tôi bằng mắt. Tôi khe khẽ gọi:
- Chị ơi?
Con mắt không bị băng mở dần một cách vất vả. Và khi con mắt ấy gặp ánh mắt của tôi, một giọt lệ ứa ra. Nước mắt tôi cũng ứa ra. Nước mắt Sơ Joséphine cũng ứa ra, Sơ Joséphine nghẹn ngào:
- Cô đau đớn lắm, chúng tôi đau đớn như cô.
Bây giờ, con mắt chị Hồng y hệt một mạch suối. Cô y tá phải lấy bông gòn đắp ở đuôi con mắt chị để nước mắt khỏi chảy xuống vết thương làm xót vết thương. Cô y tá nói nhỏ:
- Cô ấy chưa nói được đâu.
Câu nói của cô y tá ngầm bảo chúng tôi nên về. Vì ở lâu với chị Hồng không có lợi gì mà còn hại cho những vết thương của chị. Chị Hồng xúc động mạnh, có thể, những vết thương sẽ nứt ra. Sơ Joséphine hiểu ý cô y tá, Sơ vỗ vai tôi, kéo tôi ra khỏi phòng. Cửa phòng khép chặt lại. Cô y tá ngồi trên chiếc ghế ngay cửa ra vào để canh chừng các nhà báo và những người tò mò. Tôi hỏi cô:
- Thưa cô, vết thương của chị tôi ra sao?
Cô y tá lắc đầu. Rồi nghĩ sao, cô đáp:
- Tôi chưa biết vì đã gỡ băng ra đâu.
Tôi biết là cô y tá giấu tôi. Chắc chắn vết thương sẽ khủng khiếp lắm. Chúng tôi về nội trú. Từ ngày chị Hồng gặp nạn, tôi bỏ học. Mẹ Bề Trên không rầy. Chỉ có Sơ Joséphine khuyên giải và bảo tôi nên đi học. Tôi đọc báo Hy Vọng, thấy ông Thái Anh nói một luật sư đã tình nguyện lo giúp chị Hồng vụ này dù ông chưa được thân nhân của nạn nhân nhờ vả. Vị luật sư này còn nói, khi chị Hồng có thể nói được, ông sẽ tiếp xúc với chị và bắt tay vào việc. Chị Hồng làm gì có thân nhân? Ông Thái Anh muốn bắn tin cho tôi. Tôi không thể giấu ông ta được nữa. Tôi đi tìm ông Thái Anh ở tòa soạn nhật báo Hy Vọng. Tôi gặp ông ta ngay, khỏi mất công chờ đợi. Ông Thái Anh tiếp tôi rất niềm nở. Ông đã giữ lời hứa với tôi, là không đưa lên báo cuộc phỏng vấn tôi mà ông ta cho rằng sẽ giúp ông ta có bài báo đặc sắc. Tôi thấy ông ta đáng để tôi tín cẩn nên tôi đã nói sự liên hệ giữa tôi và chị Hồng.
Ông Thái Anh tròn đôi mắt:
- Vậy thì nạn nhân càng đáng kính trọng.
Tôi lặp lại:
- Vâng, đáng kính trọng vô cùng.
Ông Thái Anh phân vân một lúc, rồi hỏi tôi:
- Cô quen thân cô Thu Hồng trong trường hợp nào?
Tôi thở khẽ:
- Có cần cho bài báo của ông đâu, thưa ông.
Ông Thái Anh nhả khỏi thuốc:
- Cần cho cuốn tiểu thuyết của tôi.
- Thưa ông, mỗi người có một tâm sự u ẩn không thể kể cho người khác nghe được. Người con gái chỉ có thể kể tâm sự u ẩn của mình cho mẹ mình nghe. Hay một người chị mà mình biết thương yêu mình nhất. Tôi không có chị nên đã kể cho chị Hồng nghe.
- Thưa cô, còn cụ nhà?
- Mẹ tôi đi lấy chồng khác năm tôi còn nhỏ. Ông cứ coi tôi như một đứa bé mồ côi đi lang thang. Và chị Hồng là người đã để phần cơm cho đứa trẻ mồ côi đó.
Ông Thái Anh nhìn tôi không chớp mắt. Tôi lại thấy đôi má tôi nóng ran. Rồi lạnh ngắt khi tôi hình dung con mắt đẫm lệ của chị Hồng. Đàn ông là trái bồ hòn của đàn bà, con gái. Mật ong ở môi ở lưỡi họ nhưng chất đắng ở đáy trái tim họ.
- Tôi đến đây cốt ý cho ông rõ, tôi không phải là em ruột chị Hồng. Kẻo mai này, vị luật sư kéo tôi vào cuộc, sẽ hỏng cho sự bênh vực chị Hồng của ông ta.
- Nếu cô vào cuộc có lợi cho cô Thu Hồng thì cô tính sao?
- Tôi sẽ vào. Đứa bé mồ côi nào mà không mang ơn người đã để phần cơm cho nó.
Tôi cáo lỗi ông Thái Anh, trở về nội trú. Tôi đi bộ. Con đường từ tòa báo Hy Vọng rẽ ra đường Lê văn Duyệt vắng vẻ lạ thường. Hai bên là hai hàng me. Mỗi trận gió, lá me rụng xuống đường cơ hồ một cơn mưa lá me. Tôi nhớ con đường cũ ở trường học ngày xưa. Mỗi buổi chiều cuối thu, tôi đã đi dưới những trận mưa lá me. Lá vướng mắc trên tóc như “công phét ti” trời rắc tặng cô học trò. Hôm nay, lá me cũng vướng đầy trên tóc tôi. Nhưng tôi nghĩ, nó không còn là những “công phét ti” của trời nữa. Mà là những cánh thông điệp khổ đau. Tôi bước nhanh. Nghe lòng dậy lên một điệu nhạc tan tác. Chẳng có “Thương Tình Ca” đâu, bởi vì, tôi đang đi cô độc bởi vì không ai “dìu nhau đi trong phố vắng”. Nói làm sao hết được sự thương tiếc thuở học trò của tôi. Chế Lan Viên viết bài “Bỏ trường mà đi” tuyệt hay. Ông ta bảo khi người học trò giã từ lớp, trường, thầy bạn, bước xuống cái tam cấp ở cửa lớp là người học trò đã thực sự xuống cuộc đời. Tôi chưa thực sự bước xuống cuộc đời, mà tưởng chừng đã bước xuống cuộc đời. Cái tam cấp, những cái tam cấp lên hành lang lớp học ở nội trú, dưới mắt tôi, hình như chỉ xây bằng cát. Tại đôi chân tôi nhẹ hay có Thượng đế nâng người mỗi lần tôi bước lên? Từ ngày chị Hồng gặp nạn, những cái tam cấp bỗng giống những chiếc đèn đường cực sáng. Và tôi là con thiêu thân còn phân vân ngoài tầm chết. Mai này mày sẽ ra sao, hở Châu? Mẹ Bề Trên đã nhiều lần tha thiết: “Con cứ ở đây với mẹ, bao giờ con thật khôn lớn, muốn rời khỏi đây hay muốn sống bên mẹ mãi mãi. Tùy ý của con”. Sơ Joséphine thì “tội nghiệp quá, em Châu...”. Sơ hay nhìn lên trời. “Em xem, những đám mây đen đều sẽ tan biến. Trời còn lại mãi, trong xanh và bao la....”
Tôi chẳng khác công chúa ngủ giữa rừng sau một lời nguyền của bà tiên xấu xí. Đã có những bà tiên hiền lành che chở tôi, mong ngày tôi gặp một hoàng tử đi săn lạc vào khu rừng tôi ngủ và cúi xuống hôn tôi để tôi tỉnh giấc. Mẹ Bề Trên, Sơ Joséphine và các Sơ ở nội trú Hòa Hưng chính là những bà tiên hiền lành trong truyện cổ tích. Buổi tối tôi đã kể hết chuyện tôi cho Sơ Joséphine nghe. Không hiểu sao, Sơ Joséphine lại khóc. Sơ thấm nước mắt, giọng Sơ lạc hẳn đi: “Em khổ đến thế cơ à?” Người nữ tu hành chỉ biết thế là khổ ghê gớm rồi. Tôi chưa bước xa cái nỗi khổ hiện tại của tôi. Chắc nó còn dài lắm. Và nó có cả át xít!
CHƯƠNG 8
Hai hôm liền tôi không ăn được cơm. Khuôn mặt chị Hồng khủng khiếp quá. Cứ nhớ tới là tôi lợm giọng. Mái tóc chị bị át-xít liếm hết không còn một sợi. Ôi, khuôn mặt duyên dáng, dịu hiền ngày xưa, nay sần sùi, lồi lõm như vỏ cam sành. Không, thê thảm hơn, như một tảng đá tổ ong. Phải, đầu chị chính là một tảng đá tổ ong tròn. Hai tai chị còn nguyên. Và mỉa mai thay, đôi mắt chị vẫn còn nguyên. Chỉ bị cháy xém lông mày. Thượng đế độc ác hay hình phạt độc ác. Hay Thượng đế muốn đôi mắt của kẻ khốn nạn được nhìn rõ người thù của mình. Ôi, Thượng đế, nếu ngài trông thấy tảng đá tổ ong tròn là khuôn mặt chị Hồng bây giờ, con tin rằng Ngài đã bắt chị Hồng chết đi. Thà chị Hồng chết đi để kẻ thù của chị sung sướng còn hơn để chị sống lất lây với hình thù quái đản và kẻ thù của chị không yên ổn lương tâm nếu nó còn chút xíu lương tâm hoặc lương tâm của nó sống dậy khi nhìn khuôn mặt chị Hồng bị át-xít tàn phá. Báo chí đăng hình chị Hồng trước và sau ngày bị tạt át-xít. Dưới những bức hình lời chú thích đọc nghe mủi lòng. Dư luận sôi sục công phẫn. Nhà văn Thái Anh đã viết một bài dài về khuôn mặt bị tàn phá của chị Hồng. Không phải là một bài báo nữa. Đó là một bài văn. Không, một bản án buộc tội của công tố viện.
Nhưng, một bài báo chứ trăm ngàn bài báo cũng chẳng ích lợi gì cho chị Hồng. Chị Hồng ngồi trên giường bệnh, trước mắt tôi. Chị không khóc nữa. Hai hôm chị em gặp nhau, chỉ có tôi khóc. Còn chị đôi mắt lờ đờ mà tôi tưởng chừng đục ngầu thù hận. Câu đầu tiên chị hỏi tôi là “Em vẫn đi học đều đấy chứ?” Tôi mơ hồ nghe tiếng Sơ Joséphine trả lời “Vâng, em Châu vẫn đi học”. Tội nghiệp Sơ Joséphine, tối về chắc Sơ phải xưng tội với Chúa. Hôm nay một mình tôi ngồi trong phòng chị. Các nhà báo được bác sĩ cho phép phỏng vấn và chụp hình chị Hồng. Tôi chờ đợi những câu hỏi ác nghiệt của nhà báo, chờ đợi những lời thăm hỏi, an ủi của đồng nghiệp chị Hồng, chờ đợi vị luật sư tình nguyện bênh vực chị tiếp xúc với chị khá lâu. Rồi mới tâm sự cùng chị. Chị Hồng ít nói. Chị không nhắc tới giấc mơ của chị nữa. Nhưng chị bảo tôi rằng “Em không sợ bơ vơ đâu. Sẽ có tiền cho em học đến khi em làm cô giáo”.
Nỗi buồn kéo dài, kéo dài như những ngày mưa bão rớt. Cho đến ngày tòa án xử xong vụ này. Chị Hồng được bồi thường món tiền khá. Bọn chủ mưu và đồng lõa vào tù. Ông Trần Thức Thời không sao cả.
Thế là chấm dứt. Trên cửa miệng của người đời, chỉ còn lưu lại một bài học ghen tuông “Coi chừng, kẻo bị át xít tạt vào mặt”. Và chỉ có thế. Lòng thương, sự xúc động bị cuốn theo nhịp quay cuồng của cuộc sống. Chị Hồng về ở căn phòng cũ tại bin-đinh Núi Trắng. Vào một ngày cuối thu, chị Hồng đưa cho tôi món tiền bồi thường vụ hủy diệt nhan sắc của chị. Tôi từ chối. Chị Hồng không ép buộc tôi. Ngay đêm đó, không dặn dò, không giăng dối, chị Hồng cắt mạch máu, tự tử. Báo chí lại có dịp làm rùm beng. Không ai biết trước khi quyết đinh dùng lưỡi dao cạo cắt đứt mạch máu ở cổ tay trái mình, người vũ nữ khốn nạn đó có soi hình mình trong gương có tương tư vũ trường với sàn nhảy, đèn màu và nhạc dậm dật? Và không ai biết, nàng có nhớ những vòng tay đã dìu mình trong điệu nhạc “blues” có nhớ những mối tình phù phiếm? Đó là những câu hỏi các ông nhà báo. Tôi thì tôi biết chị Hồng tiếc thương những gì quý giá hơn, dù chị chết rồi, tôi chẳng hiểu thêm cuộc đời riêng của chị. Chôn cất chị xong, tôi xin rời nội trú. Mẹ Bề Trên hỏi tôi:
- Con đi đâu?
- Con chưa biết đi đâu cả.
- Vậy con cứ ở đây.
- Con không dám làm phiền Mẹ.
Mẹ Bề Trên khẽ lắc đầu. Đôi mắt Mẹ sao mà to thế. To thế để thu nhận mọi nỗi khốn khó của người đời và ban phát tình thương.
- Con chưa làm phiền Mẹ đâu.
Không muốn tôi phân trần, Mẹ nói tiếp:
- Chị Hồng gửi nội trú một món tiền, em ở đây cả đời cũng được.
Chị Hồng ơi! Chị chu tất quá. Nước mắt tôi ứa ra. Con gái dễ khóc mà. Tôi đã hứa tôi không khóc. Chị Hồng chết rồi, chị vẫn làm tôi phải khóc.
Giọng Mẹ Bề Trên êm ái và ngầm khuyên tôi nhớ lời chị Hồng:
- Con phải ở đây.
- Rồi con đi đâu?
- Rồi con đi dạy học, con có gia đình, có hạnh phúc.
- Chị con bị người ta giết chết?
- Lỗi tại cuộc đời nhiều oán hờn, con ạ!
- Con hưởng hạnh phúc trên nấm mộ chị con trên cái chết thê thảm của chị con ư?
- Nhiều người chết đi cho người còn sống tìm thấy hạnh phúc.
Mẹ Bề Trên nâng cây thánh giá có hình Chúa bị đóng đinh máu chảy ở tay, ở chân và đầu rũ về phía trước. Cây thánh giá treo trước ngực Mẹ:
- Như Chúa chẳng hạn. Chúa đã tình nguyện chết khổ sở, đau đớn cho nhân loại sống hạnh phúc.
Cứ nghe Mẹ Bề Trên nói là tôi hết muốn rời nội trú. Tiếng “Chúa” từ đôi môi mẹ nở ra nghe kỳ diệu lạ lùng. “Chu...u... a... uá”. Mẹ Bề Trên đã nhắc tới Chúa bằng âm thanh đó mà tôi đoán chắc, trên thế giới, những con chiên của Chúa và ngay cả Đức Giáo Hoàng, đấng thay mặt Chúa chăn bầy chiên của ngài cũng không thể có tiếng “Chu...u...a...úa” thiên thần như tiếng “Chúa” của Mẹ Bề Trên.
Tôi ở tại nội trú Hòa Hưng. Người bạn tâm sự của tôi, luôn luôn là Sơ Joséphine. Nhưng lòng tôi không yên ổn nữa. Nỗi vui hôm nghe kết quả thi tú tài một chẳng bao giờ xảy ra kể từ đây. Chị Hồng đã chết. Còn ai mắt đẫm lệ bóp chặt tay tôi “Em đậu rồi, em đậu rồi...”? Khuôn mặt đá tổ ong của chị Hồng, những kẻ chủ mưu vụ tạt át-xít, ông Trần Thức Thời. Cha dượng tôi, Dũng. Đó là những kẻ phá vỡ tuổi con gái, phá vỡ hạnh phúc của chị Hồng và tôi. Họ là kẻ thù của tôi. Chúa ơi, lạy Ngài thương xót con. Con không phải là Ngài, không bằng cái móng tay của Ngài. Tôi phải trả thù bọn đàn ông khốn kiếp bằng mọi giá. Giữa mùa đông năm ấy, chờ dịp Mẹ Bề Trên qua La Mã, tôi xin thoát ly nội trú. Sơ Joséphine không nói được tiếng “Chúa” kỳ diệu như Mẹ Bề Trên. Nên đã không giữ được tôi. Sơ bảo tôi.
- Em ra ngoài bơ vơ, cần có tiền, nội trú trao món tiền cho em.
Tôi lắc đầu:
- Em không nhận cả đâu. Em lấy chút xíu thôi. Còn gửi lại nội trú. Khi nào cần, em sẽ về xin.
Sơ Joséphine vuốt má tôi:
- Em nhớ đấy nhé! Cổng nội trú vẫn mở rộng chờ em. Chừng nào bên ngoài làm em buồn khổ em cứ trở về. À nhớ đọc kinh trước khi ngủ để ngủ khỏi giật mình, nhớ hát thánh ca mỗi lần buồn cho nỗi buồn tan biến...
Tôi nắm chặt tay Sơ Joséphine:
- Em sẽ nhớ.
Sơ Joséphine tặng tôi một cây Thánh giá nhỏ và rất nhiều hình Chúa. Sơ xách giùm tôi chiếc va-li ra cổng. Tôi gọi tắc xi. Xe đi được một quãng ngoái lại, tôi còn thấy Sơ Joséphine nhìn theo vẫy khẽ bàn tay xinh xắn.
Giã từ nội trú. Giã từ căn nhà đầy tình thương. Giã từ bóng mát cây dừa trong sa mạc cát cháy. Tôi bùi ngùi, đau xót. Nhưng nước mắt không còn ứa ra nữa. Tôi bảo người tài xế chạy tới bin-đinh Núi Trắng. Căn phòng chị Hồng chưa ai dám mướn. Người quản lý quen tôi. Ông ta hỏi tôi.
- Bây giờ đến lượt cô ở đây?
Câu hỏi có nhiều ý nghĩa. Tôi đáp:
- Vâng đến lượt tôi.
Người quản lý xách chiếc va-li của tôi. Tôi theo ông ta lên phòng chị Hồng đã sống cô độc, đã chết đau tủi ở đó. Bước chân qua những bậc thang tôi nghĩ tới bài văn của Chế Lan Viên mà tưởng như đang bước xuống cái tam cấp ở cửa lớp học. Hôm nay tôi mới thực sự bước xuống cuộc đời.
CHƯƠNG 9
Căn phòng của chị Hồng vẫn như cũ. Chưa có gì thay đổi cả. Đồ đạc của chị sắm, còn nguyên. “Chúng tôi cố ý chờ cô tới” Ông quản lý bảo tôi vậy. “Nếu một tháng nữa, không có người thân của cô Hồng đến nhận đồ đạc của cô ấy, chúng tôi sẽ giao trả nhà chức trách, nay cô tới rồi, chúng tôi đỡ phiền. Cô tính ở đây lâu không?” Tôi đáp “Chắc tôi ở lâu”. Ông quản lý nhìn tôi bằng đôi mắt soi mói nhưng ăm ắp cảm tình. Ông khuyên tôi “Cô đẹp hơn chị cô, cô phải coi chừng. Hồng nhan đa truân cô ơi!”. Tôi mỉm cười. Thoáng thấy trong gương nụ cười của mình kiêu ngạo quá. “Em nên điểm phấn tô son lại. Ngạo với nhân gian một nụ cười”.
Ngay chiều hôm đó một người bạn thân, nổi tiếng ngổ ngáo của chị Hồng, cùng ở bin-đinh Núi Trắng, cùng ở lầu hai, sang thăm tôi. Chị này trẻ như tôi, thường gọi chị Hồng bằng chị xưng em. Tên chị là Hải. Vũ trường quen kêu chị cái biệt danh Hồ Hải. Chị Hồ Hải mến tôi lắm. Chị là một nhân chứng hùng hồn những lần đứng cạnh chị Hồng trước vành móng ngựa. Chị đã lớn tiếng chửi ông Trần Thức Thời và vợ ông ta, lạc ra ngoài phạm vi người chứng. Đến nỗi ông chánh án phải gõ bàn hoài. Chị thân mật kêu tôi là mày xưng tao. Tôi thì vẫn kêu chị là chị, xưng tên tôi.
- Mày nhất định bỏ học, hả Châu?
- Vâng, Châu học không vô nữa, chị ạ!
- Mày định nhào vào vũ trường?
- Nên không chị?
Chị Hồ Hải rút một điếu thuốc lá Con Mèo, chị móc bật lửa, bật lửa, bật lia lịa. Chị mồi thuốc thật sành điệu. Khói thuốc tỏa ra. Điếu thuốc lá kẹp giữa hai ngón tay thon dài, móng bôi sơn hồng nhạt, trông quyến rũ lạ lùng:
- Mày hít không?
- Châu không biết hút thuốc lá.
- Phải tập đi chứ?
- Châu sợ ho.
Chị Hồ Hải cười như nắc nẻ:
- Cha chả, muốn làm vũ nữ mà sợ ho. Mày phải biết uống rượu, phải để móng tay dài, vót cho nhọn mà bấm vào da thịt bọn đàn ông chó đẻ.
Ngôn ngữ của chị Hồ Hải khác xa ngôn ngữ của chị Hồng, ngôn ngữ ở nội trú Hòa Hưng.
- Với những thằng như thằng cha Trần Thức Thời thì nên lột da, róc xương nó, Châu ạ! Tao biết mày thương chị Hồng mày mới bỏ rơi tương lai của mày. Có hai cách trả thù. Trả thù trực tiếp và trả thù gián tiếp. Tao nghĩ, bọn mình nên trả thù trực tiếp, nghĩa là làm cho bọn đàn ông tan cửa, nát nhà, bắt chúng nó đâm giết nhau trước mắt mình.
Chị Hồ Hải nói không cho tôi nói. Giọng chị chứa đầy hận thù. Chẳng phải là hôm nay, những ngày tôi còn ở với chị Hồng, chị Hồ Hải đã chửi đời thậm tệ. Chị Hồng bảo tôi “con đó nó cũng có nỗi đau đớn giống em. Nhà nó khá giả ra phết. Nó học trường đầm hẳn hoi. Giờ nó ‘điên’ rồi”.
- Này Châu, tao sắp giải nghệ gái nhảy. Tao muốn làm nữ chúa rằn ri. Hôm qua, một thằng kép của tao bô trai kinh khủng, con ông Bộ trưởng đấy nhé, nó đưa tao tới sòng hít thuốc phiện. Tao hít một điếu mà giờ hãy còn tởm. Thằng kép của tao dám mang súng lục của ông via nó đi dọa thiên hạ. Nó mết tao, tao cá với mày là tao bảo nó bắn ai là nó bắn.
Chị Hồ Hải búng tàn thuốc lá:
- Nông nổi như tao với mày thì chỉ nên khuấy bẩn cuộc đời. Chị Hồng chị ấy còn lý tưởng quá. Ối dào, vũ nữ về già, hai ống thuốc ngủ là ổn rồi. Tương lai cái con tiều.
Chị Hồ Hải búng mẩu thuốc lá bọc giấy màu da cam. Chị đẩy cái ruột hộp thuốc Con Mèo, rút điếu mới cắm lên môi nhẫy son. Chị lại mời tôi:
- Hít một điếu đi, Châu! Thuốc này nhẹ mà. Thuốc của đàn bà đấy. Vũ nữ ưa hút Salem hay là loại thuốc đầu lọc của Mỹ. Tao khoái hít Rothman đầu lọc nhưng thấy Con Mèo tao yêu quá. Mình là mèo đêm hít thuốc Con Mèo đúng điệu rồi. Mày tập hít đi. Mới đầu thở ra. Dần dần nuốt khói, nhả đằng mũi. Lâu ngày nuốt khói, nhả bằng miệng lại hít đằng mũi rồi lại nhả ra. Cho đến khi khói ám đầy phổi.
Chị Hồ Hải mồi lửa. Chị hít một hơi đầy, nhả khỏi bằng mũi:
- Chắc các bà Sơ ở nội trú hay nói chuyện Chúa với mày lắm nhỉ? Tao không tin Chúa đâu. Chúa của các bà Sơ độc xui dại mình. “Hễ đứa nào tát con má bên phải, con chìa má bên trái cho nó tát thêm”. Ối dào, sức mấy mà để cho nó tát thêm. Tao ấy à, đứa nào tát tao, tao tát lại nó gấp ba lần. Chị Hồng bị tạt át-xít, sao Chúa không tạo cho chị ấy khuôn mặt khác?
Tôi chợt quên những lời dịu dàng của Mẹ Bề Trên, của Sơ Joséphine. Tiếng “Chúa” từ cửa miệng chị Hồ Hải nghe như tiếng dao cạo trên cật nứa.
- Mày là mày chứ mày có phải là bà Sơ đâu. Nếu mày không tát kẻ tát mày, thì đi tu đi, Châu ạ!
Tôi chìa tay xin điếu thuốc. Chị Hồ Hải nhếch mép cười:
- Ờ, vậy mới được. Mai tao mượn kèn hát về dạy mày nhót. Tuần lễ sau là mày nhót như điên. Đẹp như mày, khỏi cần nghệ thuật. Những thằng rúc vào vũ trường chỉ cần gái đẹp để ôm chứ cần chó gì nghệ thuật. Gặp đứa thích nghệ thuật, nó quay một bản Valse là mệt đứ đừ.
Chị bật lửa. Tôi mồi thuốc. Tôi hít mạnh quá, khói lọt vào cổ họng, ho sặc sụa, ho văng cả điếu thuốc xuống sàn phòng. Chị Hồ Hải cười khúc khích:
- Tao trước cũng ho như mày. À thôi, để tao mua thuốc Kool cho mày hít. Thuốc này nhẹ, lại có chất bạc hà hít khỏi cả bệnh ho.
Cơn sặc khói thuốc làm tôi chảy nước mắt, nước mũi. Khi tỉnh táo, chị Hồ Hải bảo tôi:
- Rút kinh nghiệm chị Hồng, bọn chúng tao bây giờ, đứa nào có tí sắc đẹp đều cặp bồ với một thằng du đãng. Mày biết để làm gì không? Để nó làm vệ sĩ cho mình. Mỗi tháng chỉ cho nó vài ghim, ban cho nó vài bài Slow, thí cho nó một cái hôn hứa hẹn tình yêu lâu dài. Và nó sẽ đâm nát những con mụ có chồng yêu gái nhảy, nếu những con mụ này giở trò đánh ghen. Mình trẻ đẹp, đi nhót kiếm ăn hay gặp khứa cắc ké nó ếm, thiệt tích-kê lắm mày ơi! Vệ sĩ của mình nó sẽ đuổi bọn khứa ếm đi...
Tôi lạc vào một thế giới khác. Thế giới của chị Hồ Hải.
- Mỗi khi tao “bắt” được một thằng Thúc Sinh, tao làm cho gia đình nó điêu đứng, khốn nạn. Bọn đàn ông nó thương chó gì gái nhảy. Mình cũng dại chó gì mà thương chúng nó.
Chị Hồ Hải nói thật nhiều. Tôi không mấy ngạc nhiên về những câu chuyện trầy trụa của chị.
Khi người ta quá khổ đau, người ta sẽ trở thành một thiện nhân hay một ác nhân. Chị Hồ Hải chỉ là đàn bà. Chị không chịu đựng nổi như chị Hồng. Thì chị có quyền ác, dù chỉ ác khẩu.
- Tao nói là tao làm à... Khôn sống mống chết. Tao nghĩ giá mày mà trở thành nữ chúa rằn ri, cuộc đời sẽ vấy nhiều máu lắm đấy.
Chị ngó tôi, lắc đầu:
- Nhưng mày còn ngờ nghệch quá. Tao sợ gặp một thằng đẹp trai, học giỏi con nhà giàu láng như khướu, mày sẽ ngả vào vòng tay nó mất thôi Châu ạ!
Tôi cười. Chị hỏi tôi:
- Mày cười cái gì?
Tôi nhặt điếu thuốc Con Mèo lên, kẹp giữa hai ngón tay:
- Chị cho Châu xin tí lửa.
Chị Hồ Hải nheo mắt:
- Cha chả, tao phải cho mày thật nhiều lửa.
Chị bật lửa, tôi mồi thuốc. Lần này không ho sặc nữa. Tôi hít khói rồi nhả ra ngay. Chị Hồ Hải gật gù:
- Có đường lắm.
Chị ngả lưng vào thành ghế, hai chân ghếch lên chiếc bàn thấp:
- Có nhiều thằng con trai đã nghĩ rằng, trước khi lấy vợ, chúng nó phải thưởng thức đủ một trăm đứa con gái. Nghĩa là chúng nó làm đau khổ, tan tác cho một trăm đứa con gái. Trong một trăm đứa thế nào cũng có vài đứa tự tử, chửa hoang và đi làm điếm làm gái nhảy. Tại sao tao và mày không dám nghĩ rằng trước khi lấy chồng, chúng ta phải gây điêu đứng cho đủ một trăm thằng con trai? Mày nghĩ sao?
Điếu thuốc Con Mèo đã cháy tới quá nửa. Tôi cúi đầu, nhìn đôi chân mỏng manh của mình.
- Châu chưa biết nghĩ sao cả.
Chị Hồ Hải nhăn mặt:
- Trời ơi, đến bao giờ mày mới nghĩ. Chưa biết nghĩ sao thì mày cứ ở nội trú quách cho xong.
Chị hất đầu. Mái tóc chị tung lên phía trước:
- Mày biết con Ngọc Salem không?
- Không.
- Biết con Ánh Đakao không?
- Không?
- Mày chẳng biết cái con tiều gì. Ngọc Salem là con bé ma chê quỷ hờn mà nó cầm đầu một tụi du đãng. Ánh Đa Kao gây sóng gió khắp Sàigòn. Chỉ tại chúng nó ngu dốt nên thời chúng nó ngắn ngủi. Thú thật, tao muốn mày gây sóng gió lắm. Mày mới mẻ chứ tao cũ kỹ quá rồi. Tao cho mày hay, chị Hồng là con nhà tử tế, chị ấy bị một thằng chủ báo làm hỏng đời. Nó chủ trương độc thân nên dù nó biết chị Hồng có con với nó, nó nhất định không lấy chị Hồng. Nó chỉ cấp dưỡng hàng tháng chút tiền còm “bồi thường” trinh tiết năm bảy chục ngàn gì đó và thỉnh thoảng buồn, nó mon men tới nhà chị Hồng giải buồn. Chị Hồng mang tiếng chửa hoang, bị gia đình từ bỏ. Tên chị ấy hồi chưa làm gái nhảy là Hoa.
Tự nhiên tôi nhìn thấy chị Hồng đang đứng trước mặt tôi với khuôn mặt thê thảm đá tổ ong.
- Thằng chủ báo giờ nó ở đâu?
- Nó vẫn là chủ báo. Nó lại giữ mục giải đáp tâm tình. Mày thù nó à?
- Mai chị nhớ mượn kèn hát về nhé!
- Đắc co... Tao khuyên mày nên đi học vài thế võ nhu đạo để phòng thân. Đàn ông chúng nó nham nhở vô cùng. Chưa làm gì được chúng mà đã để chúng làm mình thì chán mớ đời!
Chị Hồ Hải nện mạnh gót chân lên mặt bàn:
- Phải chi đàn bà, con gái đều có nhu đạo cả, thì làm quái gì có những vụ hiếp dâm. Tao cứ ân hận mãi, giá tao biết nhu đạo từ ngày tao còn đi học, đời tao đâu có rách bươm như bây giờ.
Đôi mắt người gái nhảy bất cần đời lại có phút rưng rưng bóng mây kỷ niệm. Phút giây nhớ nhung ấy không kéo dài thêm, chị Hồ Hải co đôi chân về chiếc ghế. Chị liệng mẩu thuốc, hai tay bó gối y hệt một con mèo.
- Này Châu!
- Gì hả chi?
- Mày đừng chị chị, Châu Châu nữa, đã khăn gói quả mướp về đây, tao thừa biết con đường đi của mày rồi. Tao đi con đường này trước mày nên hiểu hết chỗ nào gài mìn, chỗ nào có hầm chông. Nếu mày cứ khách sáo ẩm ương, tao chê chê mày đó.
- Chị bảo Châu phải làm gì?
Chi Hồ Hải nín thinh. Tôi biết chị không thích lối xưng hô của tôi. Chị ấy mà chê tôi, có lẽ tôi bơ vơ thật.
- Mày bảo tao phải làm gì?
Chị Hồ Hải buông đôi tay. Đôi chân chị, lần này duỗi dài trên mặt bàn rất thoải mái.
- Mày thông minh lắm, Châu ạ! Mày xứng đáng làm đại diện cho kẻ thù của đàn ông. Việc mày phải làm trước hết là học cách tàn nhẫn.
- Với đàn ông?
- Chứ với ai? Chương trình của chúng ta sẽ thực hiện từ từ. Đốt giai đoạn là hỏng bét. Mày cần có ít “miếng” nhu đạo đã.
Sáng hôm sau, chị Hồ Hải bỏ ngủ. Chị dẫn tôi tới một lớp dạy nhu đạo của người Nhật. Người Nhật này sang Việt Nam từ năm một ngàn chín trăm bốn mươi. Ông ta ở trong đạo quân xâm lăng của Nhật Hoàng. Khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, người Nhật này không chịu về nước, ông ta căm thù bọn da trắng. Và đã theo Việt Minh kháng chiến chống Tây. Rồi Việt Minh không chống Tây nữa, ông ta chán nản, bỏ Việt Minh, vào Sàigòn mở lớp dạy nhu đạo. Ông ta là một sĩ quan có học. Ông đối xử với tôi rất tử tế. Ông ta không dạy riêng ai mà bằng lòng dạy riêng tôi. Những lần tập võ xong, ông cho tôi vào phòng tắm riêng của ông tắm rửa, thay quần áo. Rồi ông mời tôi ở lại uống trà với ông. Tôi đã đọc trên mặt tạp chí một bài của một văn sĩ Nhật viết về nghệ thuật uống trà. Với người Nhật, trong ly trà còn chứa đựng cả tinh hoa của nền triết học Đông phương. Uống một ly trà là thưởng thức công trình thu góp tinh hoa của mấy nghìn năm. Mà uống trà với người Nhật, phải là người được họ quý mến. (bỏ 90 chữ)
Lần đầu tiên ngồi uống trà với ông, ông hỏi tôi:
- Tại sao cô đi học nhu đạo?
Tôi cho ông hiểu rõ mục đích của tôi. Ông ta cỏ vẻ hài lòng, ông dạy tôi như một sư phụ dạy một môn đệ nối nghiệp. Nên chỉ cần một tháng, võ nghệ của tôi bằng người học một năm. Tôi thôi học. Ông dặn rằng, nếu rảnh, cứ tới ông dạy thêm hoặc uống trà với ông.
Chị Hồ Hải vui thích lắm. Chị gật gù:
- Để tao xem “võ công” của mày đến độ nào?
Một buổi chiều, tôi đang nằm nghe nhạc, có tiếng gõ cửa quen thuộc như tiếng gõ cửa của chị Hồ Hải. Tôi chạy ra mở cửa. Không phải chị Hồ Hải mà là một thanh niên. Hắn ăn mặc lố lăng. Mặt mũi hắn trông phát sợ. Hắn đẩy mạnh cửa, bước vào phòng tôi. Hắn khóa trái cửa và rút chìa khóa đút vào túi quần. Hắn cười hềnh hệch:
- Cô là Châu hả?
- Phải, anh muốn gì?
- Muốn ngủ với cô!
Tôi giận phát run lên:
- Anh cút ngay ra khỏi phòng tôi.
Hắn càng nham nhở.
- Vô dễ thì ra cũng dễ chứ, cưng ơi!
Hắn nhào tới chỗ tôi đứng, toan ôm tôi. Tôi biểu diễn một miếng nhu đạo nhập môn, hắn ngã sóng soài trên nền phòng. Chị Hồ Hải nói đúng. Không có nhu đạo, chắc tôi lại bị thằng khốn kiếp này hãm hại tôi rồi. Tôi chờ hắn đứng lên sẽ bồi thêm hắn một đòn nữa. Nhưng hắn nằm yên. Và có tiếng réo ở ngoài cửa:
- Tao đây, Hải đây...
Thằng khốn kiếp móc túi ném trả tôi chiếc chìa khóa. Tôi lượm lên, chạy ra mở cửa. Chị Hồ Hải vỗ vai tôi:
- Khá quá, tuần sau đi nhót được rồi...
Thằng thanh niên vừa hỗn láo với tôi lồm cồm bò dậy. Chị Hồ Hải quát:
- Cút đi, chú nhỏ.
Hắn chuồn mất. Chị Hồ Hải liệng cho tôi một “tút” thuốc lá Kool.
- Tặng mày đó, từ nay tao gọi mày là Châu Kool.
Tôi hất đầu:
- Thằng vừa rồi?
Chị Hồ Hải nhún vai:
- Một du đãng tép riu, nó là đàn em của thằng vệ sĩ của tao. Tao bắt nó qua phòng mày để mày “thử lửa”. Có kinh nghiệm rồi nhé! Giờ những thằng đàn ông nham nhở hết lòng cưỡng hiếp mày. Mày mua sẵn sợi dây mà xỏ vào mũi chúng nó.
Hai chúng tôi cùng cười. Tôi bóc thuốc lá. Gói thuốc trình bày thật đẹp mắt. Thuốc Kool êm nhẹ hơn thuốc Con Mèo. Khói tỏa xanh nhạt quyến rũ lạ lùng. Màu khói thuốc lá ấy đã che phủ trên đứa con gái Trần thị Diễm Châu. Cũng màu khói thuốc lá ấy, biệt danh Châu Kool viết đè lên cơ hồ vệt khói phi cơ phản lực vượt bức tường âm thanh đã đè lên nền trời xanh bao la...
- Tao đã chọn cho mày một con mồi, Châu ạ. Châu Kool ạ!
- Đứa nào?
- Thằng chủ báo. Nó đẹp trai, bay bướm, tán hay lắm. Liệu mày xỏ mũi nó được không?
- Để xem.

Tôi chủ quan vô cùng. Nhưng thốt khỏi miệng “để xem”, tôi bỗng e ngại. Không dễ dàng gì cho kẻ tự tin ở đấu trường tình ái. Nhất cho kẻ tự tin mà còn đần độn như tôi.
- Tao phải bầy mưu kế mày mới thắng nổi nó.
Từ hôm đó, những tiếng gõ cửa ban đêm không còn làm tôi hồi hộp run sợ nữa. Tôi đã trở thành hoa khôi ở bin-đinh Núi Trắng. Bin-đinh này có nhiều nhà báo, nhà văn cư ngụ. Không hiểu vô tình hay cố ý, nhà văn Thái Anh cũng khuân hành lý tới đây đóng đô sau tôi một tháng.
Và, cũng không hiểu vô tình hay cố ý, bản nhạc đầu tiên tôi nhảy ở vũ trường Thiên Thai lại là bản nhạc nhảy với nhà văn Thái Anh. Ông ta giả vờ không nhận ra tôi. Tuy thế, ông rất lịch sự. Mãi tới khi dìu tôi trở về bàn, ông ta mới thở dài:
- Cô rời nội trú rồi à?
Tôi thản nhiên:
- Vâng. Có gì làm phiền ông không?
Ông ta không đáp, hỏi tôi:
- Cô uống gì? Cái xanh hay cái đỏ?
Tôi hơi bối rối. Vội rút một điếu thuốc Kool:
- Ông có lửa không?
Ông ta móc bật lửa, quẹt cho tôi mồi thuốc. Vũ trường mờ mờ ánh đèn. Đốm lửa của nhà văn Thái Anh tỏa ra một vùng sáng nhỏ đủ để tôi nhìn rõ khuôn mặt khắc khổ của ông ta.
- Cô lại hút thuốc nữa?
- Vâng. Có gì làm phiền ông không?
- Giọng của cô không phải là giọng gái nhảy? Làm gái nhảy không có quyền gọi khách bằng ông. Cô phải “anh em” ngọt xớt và chấp thuận sự lả lơi của khách. Tôi nghĩ, nơi thích hợp với cô vẫn là nội trú Hòa Hưng.
Tôi ngạc nhiên:
- Sao ông biết nội trú Hòa Hưng?
Ông ta nhếch mép cười:
- Vì tôi là nhà báo. Mẹ Bề Trên vừa ở La Mã về. Mẹ thương cô lắm. Ma Sơ Joséphine hết lời. Cô có thương Sơ Joséphine không?
Tôi thấy một cái gì vừa nao nao vừa bực tức. Định đứng dậy đi chỗ khác. Thì nhà văn Thái Anh:
- Tôi “mua” cô trọn đêm nay rồi. Cô nhảy đẹp lắm nhưng đôi chân cô nên nhảy ở nội cỏ. Nhảy ở cái “pit” này e đôi chân cô sẽ dính bùn nhơ.
Tự dưng tôi cười lớn:
- Triết lý của ông nên để dạy những cô nữ sinh đệ lục trên tờ báo của ông. Tôi lớn rồi, vả lại, ông chẳng hiểu gì tôi cả.
Nhà văn Thái Anh khoanh hai tay, đặt trên mặt bàn:

- Tôi chẳng hiểu gì thật. Cô thay đổi quá nhiều. Sơ Joséphine mà không giữ nổi cô thì tôi giữ sao nổi. Tôi sẽ về trong vài phút nữa. Tôi muốn nói để cô hiểu tại sao tôi theo dõi cô. Cô Châu ạ, tôi yêu cô. Tiếc rằng tôi có việc đi xa lâu quá, khi trở về cô đã đổi thay tất cả.
Ông ta đứng dậy. Tôi không thèm nói thêm. Nhưng tôi ngồi yên nhìn theo bóng dáng ông ta bước khỏi cái bóng tối chập chờn của vũ trường.
Ở sàn nhảy, người ta đang ôm ấp nhau, nhúc nhích một chút. Và tiếng kèn Saxo của người Phi Luật Tân rền rĩ khúc nhạc “Blues”. Tiếng nhạc xoáy vào tâm hồn tôi. Lời ca đay nghiến từng khúc ruột tôi “Em đi vào cuộc đời, vào một chiều mưa rơi... Không giã từ một lời. Từ em đi vào đời, sầu mọc trong hồn tôi... Tôi ngồi nhìn lá rơi, em buồn không em ơi...” Giọng cô ca sĩ Phi Luật Tân vút lên, lúc trầm lắng xuống. Tôi như người lên cơn sốt vừa nóng xong đã lạnh toát rồi. Khi bản nhạc dứt tôi mới hoàn hồn. Chị Hồ Hải le te chạy tới bàn tôi. Thấy tôi ngồi thẫn thờ chị hỏi:
- Kép “độc” đâu rồi?
- Bỏ về.
- Sao mày “tha” nó? Mụ cai gà bảo nó “bao” mày trọn đêm mà...
- Người quen đấy.
- Tình nhân cũ muốn đưa người yêu về con đường cũ hả?
- Gần như vậy!
- Mày nao lòng à? Ối dào sức mấy mà nghe lời đường mật của chúng nó. “Típ” nào đấy?
- Nhà văn.
- Chà chả, nhà văn thì hót vào thùng rác, sáng mai phu hốt rác sẽ xúc chúng nó đi. Nhà văn nhà báo là bọn đểu nhất. Ngồi yên đây nhé, tao kêu thằng công tử Bạc Liêu cho mày sai phái nó.
Tôi rùng mình:
- Thôi.
Chị Hồ Hải bĩu môi:
- Tình xưa nổi dậy hả?
Tôi đưa tay vuốt mặt:
- Tao đã yêu nó đâu. Nhưng tao mệt rồi, tao muốn về ngủ đây.
Chị Hồ Hải vỗ về tôi:
- Ngày đầu đứa nào cũng “chóng mặt”, mai mày sẽ quen Châu Kool ạ!
Tôi bỏ về trước. Bin-đinh Núi Trắng im vắng. Mười hai giờ tới một giờ khuya nó mới sôi động. Nhà văn Thái Anh đứng hút thuốc lá ở hành lang cửa phòng tôi. Ông ta ném mẩu thuốc lá xuống dưới sân.
- Cô về sớm thế?
Tôi tra chìa khóa vào ổ khóa:
- Tại ông đấy.
Ông ta bước gần tôi:
- Cô mời tôi vào phòng cô uống ly rượu nhé!
Tôi lạnh lùng:
- Rất tiếc không có rượu.
Nhà văn Thái Anh chộp lấy cánh tay tôi. Tôi vẫn rung động. Rung động như lần Dũng nắm tay tôi, nâng lên và ấp vào má chàng. Tôi không còn nhớ nổi một miếng võ nhu đạo. Giống hệt một cao thủ trong truyện kiếm hiệp gặp lão quái Đinh Xuân Thu tặng ngón “Hóa Công đại pháp”, tôi đang bị Thái Anh làm tiêu tan võ nghệ.
- Châu!
- Gì?
- Em phải nghe lời anh.

Tôi muốn giật tay khỏi tay Thái Anh, nhưng lại muốn được chàng siết chặt hơn. Tôi chợt hiểu mình không thể nào tàn nhẫn được dù cuộc đời đã quá tàn nhẫn với mình. Ai đem phân chất tâm trạng tôi giùm tôi lúc này nhỉ? Tôi lại quên phứt những lời của Hồ Hải. Đàn ông đâu có chó má, vì, ít ra, đàn ông còn có một người như Thái Anh.
- Anh buông tôi ra.
- Anh không buông.
- Tôi sẽ quật anh ngã ngay.
- Em cứ quật anh đi, dùng miếng nhu đạo ác nhất quăng anh xuống sân để anh chết phọt óc. Chết để khỏi nhìn em ngụp lặn trong bùn nhơ.
Người tôi run lên, trái tim đập mạnh và đôi tay mềm nhũn. Thái Anh ôm lấy tôi. Chàng ôm nhẹ và đặt một nụ hôn lên vầng trán của tôi.
- Anh biết, bao giờ em vẫn là em.
Chàng dìu tôi vào phòng, bật đèn sáng trưng. Chúng tôi đã nói với nhau tới nửa đêm. Khi Hồ Hải ở vũ trường về, đèn trong phòng tôi đã tắt ngóm. Hồ Hải gõ cửa. Tôi lặng im. Chúng tôi thì thầm bên gối “Thầm thì như ai ngồi dưới đó, nghe ra ý vị và thơ ngây”. Đêm hôm ấy mới thật là đêm thoải mái cả tâm hồn lẫn thể xác.
CHƯƠNG 10
Chúng tôi giã biệt bin-đinh Núi Trắng lúc mọi người đang ngủ say sưa. Tôi có viết cho ông quản lý một bức thư, gửi ông đồ đạc mà tôi chưa thể mang ngay được. Tôi không dám gặp Hồ Hải, sợ nàng chửi bới và phá đám. Xuân Diệu có bốn câu thơ thật hay “Cô hạnh phúc, gớm tôi chờ cô mãi. Xây dựng cô sứt mẻ những bàn tay. Trầy bả vai nhỏ máu những lông mày. Nhưng cô đến cả vừng trời hiển hiện”. Tôi không hiểu hạnh phúc của Xuân Diệu là thứ hạnh phúc gì, bởi vì, những câu thơ này Xuân Diệu sáng tác trong kháng chiến. Thi sĩ là Thượng đế. Thơ họ viết ra như lời phán của Thượng đế. Mỗi người có một tâm sự. Và mỗi người đều có quyền gửi tâm sự mình vào lời thơ của thi sĩ. Thi sĩ không bắt mình phải có tâm sự giống họ. Vậy nên, dù hạnh phúc của tôi là hạnh phúc tình yêu, tôi vẫn có thể gửi cái hạnh phúc đó vào thơ Xuân Diệu. Vâng, đúng thế, tôi đã “trầy bả vai nhỏ máu những lông mày”, để, hôm nay, được thành vợ của Thái Anh.
Chúng tôi hưởng tuần trăng mật ở Đà Lạt. Ôi! Những buổi chiều lạnh ở Đà Lạt. Đó là giòng thời gian triền miên sung sướng. Chúng tôi thường khoác vai nhau đi trong sương mờ. Chàng bảo sương mờ là sương tình ái. Lạy chúa, Ngài đừng làm tan lớp sương của con. Con muốn đi mãi trong lớp sương tình ái rồi chết ở trong đó. Im lặng đi bên hồ Xuân Hương trong lớp sương tình ái, mới thấy rõ “Đà Lạt trong mơ” của Hàn Mạc Tử. “Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều. Để nghe dưới nước đáy hồ reo, để nghe tơ liễu run trong gió. Và để nghe trời giải nghĩa Yêu”. Tuy biết thế mà những người yêu nhau, cứ thích nói, nói thật nhiều.
Lấy nhau vào mùa cuối mùa đông, sang đầu mùa hạ, tôi có mang. Nếu lần có mang trước tôi lo sợ thế nào thì lần có mang này, tôi sung sướng thế ấy. Làm người yêu, con gái không thích ôm nỗi hoang mang trong dạ. Chứ, làm vợ, ai chẳng thích ôm tương lai? Tôi và chàng đã vẽ vời biết bao mộng ước. Trên khuôn vải rộng quá cỡ, hai chúng tôi thay phiên nhau đắp từng tảng sơn dầu đủ màu sắc.
- Anh định đặt tên con là gì?
- Một tên thật xấu xí.
- Sao lạ vậy?
- Để sau này nó đừng chọn nghề viết văn. Anh thấy những thằng làm nghề viết lách nổi tiếng và cực khổ đều có những cái tên đẹp cả.
- Em không chịu đâu.
- Thế em định đặt tên con là gì?
- Vũ.
- Vũ có vẻ vũ phu quá!
- Nhảm nào, con trai tên Vũ hay hay là.
- Con gái thì sao?
- Con gái em muốn con có cái răng khểnh và đôi má lúm đồng tiền.
- Vậy nhớ đặt tên nó là Liên, em nhé!
- Nhưng anh bằng lòng đặt tên con trai là Vũ cơ.
- Em muốn là trời muốn mà.
Khi bụng tôi bắt đầu lớn, phải khoác áo “blouse”, Thái Anh làm việc chăm chỉ hơn. Chàng viết thêm hai cái “phơi ơ tông” cho hai tờ nhật báo lá cải, ký tên khác. Chàng bảo “Tiền này bỏ ngân hàng cho con đầu lòng học đến nơi đến chốn. Chỉ cần lo cho một đứa thôi. Rồi nó sẽ lo cho em nó”. Chàng đang hút thuốc lá thơm, bỏ hút và thay bằng thuốc lá đen. “Hút thuốc thơm tốn lắm”. Những bận chàng đắp tảng sơn màu lên khung vải tương lai, như vậy, tôi chỉ muốn ôm lấy chàng, cắn nát da thịt chàng.
Đêm đêm, lúc cả hai cùng tỉnh giấc, tôi thường cầm tay chàng đặt lên bụng tôi:
- Anh xem nó có giẫy mạnh không?
- Mạnh quá, khéo không thằng này về sau làm loạn mất.
- Đốt anh đi... Chỉ nói nhảm! Con Liên răng khểnh của người ta mà...
- Đâu có, thằng Vũ đấy.
- Con Liên.
- Thằng Vũ.
- Con Liên cơ...
- Ừ thì con Liên.
- Nó đạp đau bụng em quá, em bắt đền anh đấy.
- Tại em chứ!
- Tại em cái gì?
- Ai bảo em... lấy anh!
- Ai bảo anh ôm chầm lấy người ta và thách người ta quật chết...
Chúng tôi cười khúc khích. Hạnh phức là thế đấy. Sơ Joséphine nói đúng ghê “Những đám mây đen sẽ tan đi trời còn lại mãi, trong xanh và bao la...” Tôi muốn, khi đứa con đầu lòng ra đời, vợ chồng tôi sẽ ẵm nó tới nội trú Hòa Hưng, xin lỗi Mẹ Bề Trên và bảo với Sơ Joséphine rằng: “Sơ ơi, trời còn lại mãi, dù trời rất nhiều lần có mây đen”.

Ngày tháng êm đềm trôi. Chàng viết văn, viết báo. Tôi ngồi nhìn chàng suy nghĩ và ký thác trên những trang giấy. Phải tận mắt nhìn nhà văn sáng tác cô đơn trong đêm vắng mới hiểu nỗi vất vả, khổ đau của họ. Tàn thuốc lá bừa bãi. Một đoạn bí là vài điếu thuốc cháy liên tiếp. Viết hì hục cả đêm để độc giả đọc trong vài phút. Đọc xong hoặc khen, hoặc chê. Chê hay khen, tôi thấy đều bất nhẫn cả. Phải kính trọng các nhà văn. Vì họ là những người, dù viết văn tồi tệ đang âm thầm xây dựng một cuộc đời lý tưởng hơn chúng ta đang sống.
Vâng, phải thấy rõ nét mặt đau khổ của nhà văn vò võ suốt đêm trải tâm sự mình lên những trang giấy mới biết oán ghét những con diều hâu, những con kên kên văn nghệ. Có nhiều đêm thức giấc, tôi chờ Thái Anh viết xong, tôi pha cho chàng một ly nước cam, bắt chàng uống cạn một hơi, rồi hỏi:
- Tại sao anh chọn nghề viết lách?
- Anh đâu có chọn.
- Cha anh bắt anh viết à?
- Không, cơm áo! Em biết ông Lê Xuyên chứ? Tác giả “Chú Tư Cầu” đang đăng ở nhật báo Sài Gòn Mai ấy mà... Trước ông ta hoạt động chính trị. Bị tù. Rồi ra khám, ông ta đang đi lang thang trên vỉa hè đường Tự Do, gặp người bạn quen níu vào tòa soạn Sài Gòn Mai bảo viết giùm cái tiểu thuyết đồng quê miền Nam có tí kháng chiến. Thế là ông Lê Xuyên trở thành nhà văn nổi tiếng.
- Còn anh?
- Anh xuống đời sớm quá. Lại tứ cố vô thân. Anh từng nhịn đói hai ba ngày giữa Sàigòn no ấm, từng làm đủ thứ nghề. Anh gặp nhiều bất hạnh mà nỗi bất hạnh chẳng biết nói cho ai nghe. Anh tập tành ký thác vào một câu chuyện ngắn, gửi đăng báo. Nhà báo nhắn tin anh tới nhận tiền nhuận bút, mời anh cộng tác. Từ đó, anh sống nghề văn. Cuộc đời nó đẩy con người ta tới những khúc rẽ ly kỳ không ngờ nổi. Hồi mới lớn, anh chỉ mơ ước làm chủ một tiệm bán sách và bán nhạc.
- Bây giờ anh thích thú công việc viết lách lắm, hở anh?
- Cũng chẳng thích lắm. Nhưng văn chương nó đãi ngộ mình, nó giúp mình sống đỡ chật vật nên mình phải chăm chút nó. Mỗi ngày mỗi viết khổ sở vô cùng. Anh muốn có một cửa hiệu bán sách đủ nuôi chúng ta, hàng năm cố viết chừng vài chục trang giấy thì mới nổi tiếng được. Viết văn như anh chả khác gì em thổi cơm. Chúng mình sắp có con ước vọng đành gửi vào con. Văn chương anh dẫu có mang tiếng máy nước, cỏ rác, mạt hạng, anh cũng không cần. Bởi vì, anh sinh ra đời đâu phải để viết văn.
Chàng thở than thế. Thế mà vẫn viết đêm viết ngày. Chúng tôi sống thảnh thơi, không một chút ưu tư. Tôi biết Thái Anh cũng như các nhà văn khác. Là chàng rất sợ sự bực mình. Nhà văn có thể sáng tác trong nỗi đau khổ, trong niềm thúc phọc áo cơm, trong căm hờn, nhưng không thể sáng tác trong sự bực mình được. Nên tôi cố tránh, không để Thái Anh phải bực mình. Chàng viết xong, tôi đọc ngay và luôn luôn khen hay. Bất cứ một bài văn bài báo nào của Thái Anh tôi cũng đọc, cũng khen. Đến nỗi, có hôm chàng đã chớp mắt thật lâu, nói thật nhỏ, thật tin tưởng:
- Anh viết đã nhiều song chưa hề viết cho anh. Nhờ em khuyến khích, anh hứa sẽ viết cho anh, cho con chúng ta một cuốn sách bằng cả tâm hồn anh.
Khung vải rộng của chúng tôi mỗi ngày lại thêm một tảng sơn dầu. Hạnh phúc đã neo ở bến lòng tôi. Thái Anh không hỏi han về dĩ vãng của tôi. Tôi thì nghĩ chắc Sơ Joséphine đã kể hết với chàng. Nên chẳng muốn khơi đống tro tàn kỷ niệm. Cái thai trong bụng tôi đã được sáu tháng. Thượng đế ơi, con muốn có một đứa con. Nó sẽ là nhịp cầu bắc ngang con sông hanh phúc. Để con và chồng con đi cho vững và khỏi sợ đắm thuyền khi qua sông đầy sóng gió.
Tay chàng vẫn đặt lên bụng tôi vào những đêm cả hai cùng thức giẩc.
- Nó giẫy mạnh quá anh ạ!
- Nó đòi ra ngoài chơi đấy mà...
- Nhảm nào, ra ngoài bây giờ nó èo ọt chết. Nó sẽ giống “Trái chín rấm” của anh mất thôi.
- Nó phải khác anh, khác xa anh. Nó sẽ không làm cái nghề viết lách khốn nạn này.
- Anh muốn con làm gì?
- Buôn bán.
- Kỳ vậy?
- Buôn bán là nghề tự do nhất miễn là chỉ cần đủ sống. Thích thì mở cửa, không thích thì đóng cửa, đi giang hồ vặt.
- Em lại muốn viết văn!
- Anh xin em.
- Tại sao anh thù hằn nghề viết văn?
- Vì nó đầy đọa anh. Viết văn để mà viết văn thôi thì nên viết. Còn viết văn để sinh sống thì không nên. Dính tới cơm áo là tủi nhục. Vắt tim óc đổi cơm áo còn nhục ngàn lần.

Tôi không hỏi thêm nghề nghiệp của Thái Anh nữa. Nhà văn luôn luôn bất mãn và không hài lòng những gì mình đã tạo ra. Khi một nhà văn hài lòng tác phẩm của mình, một là, ông ta đã chín mùi danh vọng, gần đất xa trời rồi, hai là ông ta đã đào sẵn cái huyệt sâu để tự chôn vùi ông ta. Tôi hơi tự hào một chút về sự hiểu biết của tôi. Có gì đâu, hồi học đệ nhị ban văn chương, thầy giáo tôi đã khuyên tôi nên đọc bất cứ loại sách báo nào, kể cả những tờ báo lá cải. Thầy Việt văn của tôi là cụ Nghiêm Toản. Tôi học cụ trước rồi mới học “Giáo sư” Dũng. Cụ Toản vào lớp, nếu hứng thú, cụ có thể kể hết những truyện lẩm cẩm ở những tờ báo bình dân như Saigon Mới, Tiếng Chuông. Cụ còn đọc thuộc cả những cái rao vặt ngộ nghĩnh. Tôi nghe lời cụ, đọc hết các tạp chí, tuần báo Việt ngữ. Những gì tôi biết tôi đều đọc ở các tạp chí, tuần báo Việt ngữ. Vì hình như, những gì các tác giả Việt Nam viết ra, họ đều đọc qua ở báo chí ngoại quốc. Tôi chưa đủ sinh ngữ để đọc các chiều hướng tư tưởng ngoại quốc, phải đọc lại qua những nhà biên khảo Việt Nam, đó cũng là một điều bất lợi. Thái Anh ghét nghề viết văn nhưng không ghét tôi. Thế là đủ, cần gì phải đòi hỏi thêm. Con sông hạnh phúc êm lặng, gây sóng gió làm chi để phải sợ đắm thuyền. Tới tháng thứ bảy, tôi bị băng huyết. Thái Anh lo lắng vô cùng. Chàng chở tôi tới một bảo sanh viện. May quá không phải là bảo sanh viện Duy Tân. Tôi nghĩ tới lần phá thai, tới những bài báo trong tờ tuần báo Đàn Bà số đặc biệt về nạn phá thai mà rụng rời. Tại sao sau này chị Hồng không có con? Tại sao Hồ Hải không có con? Tại sao nhiều ả giang hồ, nhiều vũ nữ không có con? Chắc nó chịu hậu quả tai hại của một lần phá thai?
Nước mắt tôi ứa ra khi bác sĩ cho biết cái thai trong bụng tôi hỏng rồi. Trận băng huyết này tàn nhẫn, khốc liệt. Cây cầu tôi đang xây qua giòng sông hạnh phúc bị bão tố đánh đổ gục. Tôi câm nín, Thái Anh xót xa. Tôi lại chịu đau đớn như lần trước. Đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Dù Thái Anh an ủi tôi, tôi vẫn thấy tủi hổ. Hai tháng sau tôi lành mạnh. Tới tháng thứ năm, tôi lại có mang.
- Em yên chí lần này anh không nói “độc địa” đâu. Miệng anh ác quá.
- Không phải tại anh.
- Tại anh mà.
- Không phải tại anh.
Tôi muốn nói hết cho Thái Anh hiểu rằng không phải tại anh ta. Tại tôi, tại cuộc đời đã hại tôi. Thượng đế ôi, Thượng đế, Ngài chê bỏ con rồi chăng?
Tôi lại càng thấm thía cái chân giá trị của hạnh phúc trong thơ Xuân Diệu“Cô hạnh phúc, gớm tôi chờ cô mãi. Xây dựng cô sứt mẻ những bàn tay. Trầy bả vai nhỏ máu những lông mày...” Hạnh phúc đang chơi ú tim với tôi. Nó như một bóng râm và tôi là một con đường nhựa dưới ánh nắng thiêu đốt. Nó êm ái đến với tôi khoảnh khắc rồi vội vàng rời tôi y hệt bóng nắng trải nhẹ trên đường nhựa, chưa kịp làm nguội sức nóng đã bị lột đi. Vì vậy chắc không đúng lắm đâu. Vì cái bóng râm của Thái Anh vẫn còn đó, vẫn tỏa rộng che mát cho tôi. Chàng thận trọng đưa tôi vào nhà thương Grall, mua “carnet” thăm thai cho tôi hàng tháng. Những mũi thuốc bổ chích mỗi ngày, những viên thuốc, những lời khuyên dặn, đều do Thái Anh làm lấy. Tôi đọc kinh, hát thánh ca thầm thì theo Sơ Joséphine dặn. Nỗi hoang mang cũng bớt đôi phần. Từ ngày rời nội trú, tôi không được gặp Mẹ Bề Trên và Sơ Joséphine. Tôi muốn đến thăm hai người tôi kính mến. Nhưng lại tự hứa để mình bồng con lại, chắc là Mẹ Bề Trên và Sơ Joséphine sẽ vui lắm đấy. Những người tu hành không thiết cái hạnh phúc riêng mình song rất thiết tha với hạnh phúc của người khác. Thấy người ngoài cửa nhà tu có hạnh phúc là người tu hành sung sướng rồi, là người tu hành biết mình ở gần Chúa, gần Phật. Đi tu không phải chỉ để tụng kinh gõ mõ hay cầu nguyện cho mình đắc đạo. Mà là để xoa dịu vết thương đau cho chúng sinh, chỉ cho chúng sinh biết lối đi vào hạnh phúc. Tôi nghĩ Sơ Joséphine đã làm những điều ấy.
Tôi chẳng thèm nghĩ vẩn vơ về những bài báo trong số đặc biệt “phá thai” của tuần báo Đàn Bà nữa.
CHƯƠNG 11
Cái thai lớn dần trong bụng tôi. Lại có những đêm chúng tôi bàn chuyện tương lai.
- Anh ạ!
- Gì em?
- Thôi, con trai không đặt tên là Vũ nữa.
- Thế đặt tên gì?
- Tìm một cái tên thật xấu xí đi anh.
- Đất sét nhé!
- Kỳ cục chết.
- Tèo nhé!
- Quê quá!
- Thế đặt tên là gì?
- Em muốn đặt tên là Hạnh.
- Ờ, tên Hạnh lót chữ Hữu đi. Hữu Hạnh là có hạnh phúc. Còn con gái?
- Không đặt tên là Liên nữa, tên này em có cảm tưởng nó mơ hồ lắm nó không ở với chúng mình lâu đâu. Nó đến rồi nó đi. Bắt chợt nó lại đến và mất hút tăm tích, để mình mong nhớ nó hoài...
Thái Anh ngẩn ngơ chẳng hiểu tôi muốn nói gì. Nhưng chàng cứ đồng ý.
- Em định đặt tên con gái là Phượng tên của Sơ Joséphine đấy.
Chàng bằng lòng luôn luôn. Những câu chuyện của đôi vợ chồng son trẻ chung quanh đứa con đầu lòng sắp ra đời thì nhiều vô kể. Nói làm sao hết được. Thái Anh vẫn hì hục viết, vẫn bất mãn những gì chàng đã viết. Chàng muốn thoát khỏi hoàn cảnh hiện tại, vươn cao hơn, đi xa hơn để viết nổi một cuốn tiểu thuyết ra hồn. Nhưng hình như hoàn cảnh hiện tại đối với Thái Anh là một cái thòng lọng. Càng cựa quậy thoát ra, nó càng thắt chặt. Chàng thường bảo tôi, viết lách bây giờ khó lắm.
Độc giả chê trách nhà văn cứ quanh quẩn ở những lối mòn cũ kỹ. Sống trong lửa đạn mà can đảm viết lách những mối tình phù phiếm của lớp dân thành phố. Những người không viết tiểu thuyết ái tình phù phiếm thì lại cho những tư tưởng mới mẻ, quái đản vào tác phẩm của mình. Và họ bị kết tội là lớp nhà văn hoài nghi. Độc giả đòi hỏi sự thật trong sáng tác. Độc giả muốn sự thật quanh đời sống hàng ngày của chúng ta phải được nhà văn lọc lựa, biến thành tiểu thuyết vì không dễ gì lúc nào người ta cũng phơi bầy sự thật nguyên hình của sự thật. Nhưng nhà văn viết gì? Ngoài cái bàn, xấp giấy, cái bút còn có hàng rào kẽm gai trên đó, những con cú, những con kên kên đang chờ đợi mổ nát bấy sự thật, mổ nát bấy chân-thiện-mỹ trong những tác phẩm của nhà văn. Nỗi cô đơn của lớp nhà văn hôm nay là thế. Càng cô đơn hơn, khi độc giả không hiểu giùm nỗi cô đơn của nhà văn. (bỏ 71 chữ)
Thái Anh muốn bẻ bút. Thường thường một nhà văn đã “tới” đã chín muồi danh vọng, họ đều bẻ bút không viết nữa. Viết thêm sẽ bị tiêu ma sự nghiệp, Thái Anh chưa có tí danh vọng nào! Chàng muốn bẻ bút chỉ vì song song với văn chương còn có kiểm tục văn chương. Vì tôi, vì còn tương lai của tôi, Thái Anh phải tiếp tục những tiểu thuyết máy nước, cỏ rác đăng tải trên các nhật báo. Chàng phải tiếp tục “ngủ với điếm” để sinh ra những đứa con hoang.
Tôi lại thấy thương Thái Anh gấp bội, thương những nhà văn Việt Nam nghèo khổ, rất sợ “bệnh hoa liễu” mà cứ phải “ngủ với điếm” để có áo cơm cho gia đình. Tôi hay an ủi Thái Anh:
- Anh đừng buồn, sinh con xong, em học thi nốt tú tài rồi hoặc em theo sư phạm hoặc em theo văn khoa, lấy vài chứng chỉ xong em sẽ đi dạy để anh khỏi sinh ra những “đứa con hoang”.
Thái Anh lắc đầu.
- Em nghĩ xa xôi quá.
Tôi nắm lấy tay chàng:
- Để anh có thì giờ viết cho anh.

Đôi mắt Thái Anh, bỗng dưng ánh lên một niềm tin tưởng:
- Rồi một ngày nào đó, cái ao bùn văn chương lắng lại, trong suốt, người ta có thể đứng trên bờ nhìn rõ từng con cá vàng, từng con tôm, con tép, bấy giờ sẽ là lúc anh viết cho anh. Chúng ta có chấp nhận cuộc sống hiện tại đâu. Không một nhà văn nào chấp nhận cuộc sống hiện tại cả. Vì thế, họ mới tạo ra những cuộc đời thật thơ mộng trong tác phẩm của họ. Khi cây bút chưa rời tay anh, anh vẫn có quyền phong mình làm anh hùng và nhốt bọn vua chúa vào ngục tù. Anh sẽ cho bọn vua chúa làm những thằng hề đốn mạt. Và nhà văn các anh làm những hiệp sĩ mã thượng.
Giọng Thái Anh trở nên kênh kiệu. Tôi biết khi ấy men văn nghệ đã thấm vào tận tủy chàng. Nỗi nhục nhằn nghề nghiệp biến đi nhường chỗ cho niềm kiêu hãnh. Một trăm nhà văn thì chín mươi chín người rưỡi kiêu hãnh. Kiêu hãnh ngầm, kiêu hãnh ra mặt. Không kiêu hãnh chắc khó mà sáng tác nổi, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại. Xin đừng bắt một nhà văn phải khiêm tốn khi ta muốn đọc những tác phẩm hay của họ. Họ kiêu hãnh nhưng niềm kiêu hãnh của họ đáng yêu và chẳng bao giờ làm hại người khác. Thế là được rồi.
Thái Anh nằm xuống cạnh tôi. Chàng vuổt ve bàn tay tôi.
- Em ạ!
- Thưa anh, em nghe đây.
- Anh vẫn thích hình ảnh một ông Trạng “vinh quy về làng”. Kẻ sĩ thời xưa được trọng vọng quá. Em có thuộc bài thơ “Quan Trạng” của Nguyễn Bính không?
Tôi thuộc bài thơ này. Nó nhẹ nhàng và man mác như ca dao.
Quan trạng đi bốn lọng vàng,
Cờ treo tám phía qua làng trang nghiêm.
Mọi người hớn hở ra xem,
Chỉ duy có một cô em hơi buồn.
Từ ngày cô chửa thành hôn,
Từ ngày anh khóa hãy còn hàn vi.
Thế rồi vua mở khoa thi,
Thế rồi quan trạng vinh quy qua làng...
Thi sĩ Nguyễn Bính chắc là người hoài cổ nhất. Ông ta đã dệt ra cả giấc mơ “vinh quy về làng” cho lái đò.
Hôm qua chở chiếc thuyền này,
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều.
Để tôi mơ mãi mơ nhiều,
Tước đay se võng nhuộm điều ta đi.
Tưng bừng vua mở khoa thi,
Tôi đỗ quan trạng vinh quy qua làng.
Võng anh đi trước võng nàng,
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.
Đồn rằng đám cưới cô to,
Nhà trai thuê chín chiếc đò đón dâu.
Nhà gái ăn chín nghìn cau.,
Tiền treo tiền cưới chừng đâu chín nghìn.
Lang thang tôi dạm bán thuyền,
Có người trả chín quan tiền lại thôi...
Tôi kề miệng vào Thái Anh, nhỏ nhẹ:
- Em thuộc.
Thái Anh mỉm cười.
- Anh sẽ viết một cái tiểu thuyết thơ mộng như nỗi buồn của “cô em” đứng nép ở gốc cây nhìn quan Trạng vinh quy qua làng. Em bằng lòng không?
- Bằng lòng chứ.
Chúng tỏi nói chuyện văn chương suốt buổi. Chàng không phàn nàn “đẻ con hoang với điếm”. Tôi cũng chẳng còn sợ Thượng đế chê bỏ nữa. Vì, dưới mắt tôi bây giờ. Thượng đế chính là chàng.
Qua tháng thứ bảy, không thấy một biến chứng gì, tôi mừng lắm. Tôi ăn nhiều, ngủ khỏe. Cái thai nảy nở khiến da bụng tôi mỏng ra. Trên lớp da bụng, rất nhiều vết như những vết mụn dài vừa ăn da non. Đôi vú tôi căng muốn xé tung ngực áo mỏng. Chắc đã có sữa rồi đây. Con ơi, con hãy ra đời bình yên như quê hương mình không có bom đạn, con nhé! Mẹ sẽ nuôi con bằng sữa mẹ. Mẹ thuộc nhiều ca dao lắm, mẹ sẽ ru con bằng những hơi thở của tổ tiên ta. Mẹ tình nguyện làm lớp da thú chịu đựng những mũi tên tủi nhục để con khôn lớn, không bị ảm ảnh bởi những chuyện căm hờn. Con ơi, con hãy ra đời bình yên... Tới tháng thứ tám, tôi đã có thể nghĩ chuyện may tã lót, áo quần cho con thơ.
Những buổi trưa nồng, tôi thường nằm trên ghế đu, mơ mộng rồi thiu thỉu ngủ. Thái Anh đang viết hay hút thuốc đã phải ngưng lại, ngắm giấc ngủ của tôi. Và đợi tôi thức giấc, chàng bảo “Không có gì đẹp bằng cái dáng điệu mệt mỏi của người đàn bà chửa sắp tới ngày sinh. Cũng không có gì đẹp bằng giấc ngủ trưa nồng của đàn bà chửa. Sự mệt mỏi ướp trong nỗi sung sướng. Và em ngủ như thế đấy, Châu ạ!” Dù đã là vợ của Thái Anh, được chàng tán tỉnh, tôi vẫn thấy thèn thẹn. Chàng lại bảo “Có một thứ màu mà dù đại danh họa như Michel Ange sống dậy cũng không tài nào pha màu nổi. Đó là màu má của con gái khi thẹn thùng”. Nhưng, những lời tán tỉnh vợ của Thái Anh, đột nhiên, mất hẳn vào một buổi tối cái thai trong bụng tôi sang đầu tháng chín.
Chàng về khuya, quần áo luộm thuộm, cravate trễ khỏi cổ, đầu tóc rối bù. Chàng say bí tỉ, trong tay còn cầm chai Johnnie Walker mới uống cạn một nửa. Chàng bật đèn sáng trưng căn phòng, lải nhải những lời nguyền rủa vu vơ. Chàng ngồi gục đầu trên bàn viết. Tôi đoán chừng chàng gặp anh em, vui vẻ quá nên đã uống quá độ. Sáng mai tỉnh rượu, chàng sẽ hối hận cho mà coi. Tôi mang khăn ướt tới lau mặt giùm chàng. Chàng phũ phàng, hắt tay tôi ra và quát:
- Khỏi cần, để tôi yên.

Tôi không ngạc nhiên đâu. Những người say rượu đều giống nhau. Lúc say không ai nhận ra mình, ra người thân yêu quanh mình. Lúc say người ta vượt cuộc đời thực tại, sống với ảo mộng hay ác mộng. Tôi đã học thơ văn của Cao Bá Quát, Tản Đà. Và hiểu rẳng khi sầu đau lên cơn sốt tột độ, những con người bất mãn thường dùng rượu tiêu sầu để dám coi cuộc đời như lớp mây trôi để dám coi công danh sự nghiệp như chiếc lá vèo bay.
- Anh uống nhiều quá.
- Mặc kệ tôi.
Chàng ngẩng đầu lên, dùng răng mở nút chai rượu và dốc vào miệng ừng ực. Thái Anh đã mềm môi rồi. Chàng uất ức một điều gì chăng? (bỏ 7 chữ) Những con kên kên văn nghệ? Hoặc buồn nản vì văn chương không thoát ly khỏi cái cảm hứng tầm thường? Tôi thương Thái Anh, nước mắt ứa ra. Nỗi ưu tư của các nhà văn nghệ, có lẽ, là nỗi ưu tư lớn lao nhất. Nhiều người muốn vươn lên mà lượng sức mình không vươn lên nổi đã tự tử hay bẻ bút, vùi đầu trong rượu chè bê tha. Một đôi người phát điên vì mất nửa đời người cúc cung văn nghệ nhưng văn nghệ cứ ngoảnh mặt đi, chẳng thèm ngó ngàng tới. Buồn thay, ngoài những con người thiết tha với văn nghệ, lại còn có cả những con người dùng văn nghệ làm dáng, làm cảnh cho cuộc đời họ. Thêm vào nữa là bọn con buôn văn nghệ, bọn kên kên rỉa rói tim óc của nhà văn, bằng cách cho mướn và thuê tiểu thuyết!
- Anh đừng uống nữa.
- Đã bảo mặc kệ tôi.
- Anh say bét, nói nhảm rồi đó
Chàng dậm chân hét lớn:
- Câm mồm đi, mặc cha tao, tao muốn làm gì thì làm!
Bây giờ thì tôi ngạc nhiên. Chàng có thể “mày tao” với tôi ư? Chàng vũ phu đến thế rồi ư? Tôi nhớ câu nói miệt thị của Hồ Hải: “Nhà văn thì hót rào thùng rác, sáng mai phu hốt rác sẽ xúc chúng nó đi. Nhà văn, nhà báo là bọn đểu nhất”. Tôi chỉ còn tự an ủi “chấp chi với người say rượu”.
Tôi đứng, trân trân nhìn chàng bằng ánh mắt van xin:
- Em tắt đèn đi ngủ nhé!
Chàng nín thinh. Tôi nhắc lại:
- Em tắt đèn đi ngủ nhé!
Chàng mím môi:
- Đi ngủ thì cứ đi ngủ, việc gì phải tắt đèn.
Câu nói đó khiến tôi suy nghĩ. Thái Anh không say. Chàng giận tôi điều gì, mượn rượu để đay nghiến tôi. Tại sao chàng có thể “trẻ con” đến thế? Vợ chồng chung sống với nhau đã lâu, tức tối nhau thì nói thẳng với nhau. Cần chi phải bầy trò khúc mắc cho khó xử. Tôi nín thinh, về giường ngủ. Thái Anh lặng lẽ uống và hút thuốc. Đặc biệt là chàng hút thuốc thơm sau ngót một năm hút thuốc đen. Chàng uống đến khi say mềm, gục đầu trên bàn ngáy khò khò và điếu thuốc cháy dang dở rớt khỏi tay. Tôi bụng mang dạ chửa, không thể dìu chàng tới giường được, đành để chàng ngủ gục. Tôi lấy chăn khoác kín người chàng. Đêm hôm đó, tôi không khép mắt nổi. Gần sáng mới thiếp đi. Lúc tỉnh dậy, ánh nắng đã chiếu vào phòng. Và Thái Anh biến từ lúc nào. Tôi linh cảm, dưới con sông hạnh phúc đã có sóng ngầm. Nếu một mai, sóng gió nổi trên mặt sông, số phận con-thuyền-mỏng-manh-tôi sẽ ra sao? Con thuyền mất Thái Anh là mất người lèo lái. Chắc chắn nó sẽ lật úp và tôi sẽ chới với giữa giòng. May ra, vớ đưọc cái bè chuối, ngoi ngóp vào bờ. Để sống sót. Để hối hận. Để chở thêm sầu đau. “Những đám mây đen sẽ tan, nhưng trời còn lại mãi, trong xanh và bao la”. Tôi mơ hồ nghe tiếng Sơ Joséphine. Tôi nhớ, có hôm, Hồ Hải đã bảo tôi “Tao à. Coi như chị đã sang sông đắm đò”. Cuộc đời “coi như sang sông đắm đò” thì còn gì là cuộc đời. Tôi không tin Thái Anh sẽ cho đắm con đò chàng và tôi đang lênh đênh trên giòng sông cuộc đời.
Cả ngày, Thái Anh không về. Cả đêm, Thái Anh vẫn không về. Tôi sống phập phồng, lo âu. Giá không có cái thai sắp sinh thì dễ giải quyết biết mấy. Hôm sau nữa, tôi tới nhật báo Hy Vọng. Người ta bảo Thái Anh đi làm phóng sự ở ngoài Trung. Tôi sống hắt hiu sầu muộn và lo sợ. Bất chợt nửa đêm trở dạ, một mình tôi xoay sở ra sao? Tôi oán trách Thái Anh nhiều, không dám nhớ lại những lời mật ong chàng đã thủ thỉ rót vào tai tôi. Nếu tôi có tội, hình phạt chàng xử tôi tàn nhẫn vô cùng. Tôi chỉ biết khóc, khóc ngày, khóc đêm.
Một tuần lễ quạnh hiu trôi đi. Khi đôi mắt tôi đã sưng húp, thì Thái Anh trở về với hình ảnh tiều tụy của đêm say rượu. Tôi lầm. Người bỏ nhà đi, lúc trở về thường mang theo một trời hối hận. Tôi săn đón:
- Anh mới ở Trung về?
Chàng đáp cộc lốc:
- Ở sòng thuốc phiện!
Tôi rụng rời. Thái Anh bê tha thế này ư?
- Anh hút thuốc phiện?
- Chứ sao, phiền cô lắm à?
Nước mắt tôi ứa ra. Sao tôi mau nước mắt vậy? Thượng đế không ban hạnh phúc cho tôi mà chỉ tặng cho tôi một giòng suối nước mắt không bao giờ cạn.
- Anh có điều gì buồn, anh cứ nói ra, việc chi phải tự đầy đọa mình như thế?
Chàng tìm chiếc ghế, vác tới trước tủ áo. Chàng leo lên, lấy chiếc va-li, phủi bụi. Rồi mở tủ xếp quần áo,
- Anh bỏ em chăng?
- Tôi muốn đi xa.
- Em sắp sinh nở, anh nên nghĩ lại.
- Cô tự lo lấy.
- Nếu em tự lo lấy được, đâu phải cầu xin anh.
Tôi giữ chặt tay Thái Anh. Chàng hắt tay tôi ra, đẩy tôi ngã ngửa trên giường.
- Anh giận gì em?
- Cô tự hiểu.
- Em chẳng hiểu chi cả.
Thái Anh quay lại mỉa mai:
- Thế hả? Cô đừng giả vờ, cô đóng kịch giỏi quá. Tôi chán vở kịch của cô rồi.
Tôi sững sờ:
- Em đã đóng kich với anh?
Chàng trề môi:
- Đóng kịch xuất chúng. Tôi mà còn bị cô lừa bịp.
Tôi đã hiểu chuyện rồi. Tự nhiên mặt mũi tôi tối tăm lại. Tôi úp mặt vào đôi tay:
- Tưởng Sơ Joséphine đã nói hết với anh.
Chàng gầm lên:
- Không đứa nào nói cả. Chúng nó toa rập với nhau, bịp bợm tao.
Tôi giận Thái Anh lắm. Nhưng cố bình tĩnh:
- Anh nên ăn nói cho tử tế. Ít ra anh cũng là nhà văn. Mày tao chi tớ để dành cho bọn vô học.
Chàng câm lặng. Tôi nói:
- Về cuộc đời tôi, những gì anh đã biết, anh cứ kể ra, thiếu sót, tôi bổ khuyết thêm. Anh nên nhớ rằng tôi chưa làm đĩ!
Thái Anh tiếp tục xếp quần áo vào va-li. Tôi đã ra ngồi ở ghế để có chỗ dựa lưng thoải mái.
- Anh không cần đi đâu cả. Nhà này nhà của anh. Tất cả đồ đạc đều của anh. Tôi sẽ đi khỏi đây. Tôi sẽ sinh đẻ và bóp chết đứa nhỏ.
Chàng không mảy may xúc động. Tôi tưới thêm dầu:
- Vì nó không nên sống để biết bố nó là một thằng hèn hạ, đê tiện.
Thái Anh xé rách chiếc sơ-mi trong tay chàng:
- Mày bảo ai đê tiện?
Tôi bình tĩnh:

- Anh dám hành hạ tôi không? Nếu không tôi khỏi thèm trả lời, tự anh, chắc anh đã hiểu.
Chàng lại câm lặng. Tôi nằn nì:
- Anh ngồi vào bàn, ta nói chuyện tử tế. Tôi hứa với anh xong câu chuyện tôi sẽ bỏ rơi anh, dù anh có lạy tôi, tôi cũng bỏ anh. Anh chưa biết hết về tôi, dù anh đã cướp giật trọn vẹn tình cảm của tôi và phóng uế lên thể xác tôi.
Thái Anh rửng rưng. Tôi chụp cái gạt tàn thuốc lá, ném mạnh vào tường. Tiếng thủy tinh vỡ nghe rờn rợn. Thái Anh hùng hổ, bước tới. Và gieo phịch cả thân hình xuống ghế. Nhà văn Thái Anh của tôi đấy. Có lẽ, chàng giống hệt một nhân vật đê tiện nhất trong tiểu thuyết của chàng.
- Cô nói đi!
- Tôi đoán đã có kẻ xúc xiểm tôi với anh.
- Không ai xúc xiểm cô cả. Họ chỉ nói sự thật về cô.
- Họ đã nói gì?
- Nói rằng cô sống với cha dượng, cô “chài” cha dượng cô. Cô ngủ với cha dượng cô. Mẹ cô ghen đánh đuổi cô.
Tôi gật gù ra dáng thích thú, tuy lòng tôi đang đau như cắt, đau hơn hai lần nạo nhau:
- Rồi sao nữa?
- Rồi cô “chài” thằng Dũng, xập xí xập ngầu, toan tặng nó “tác phẩm” không phải của nó. Cô ôm gót chân nó, van lạy nó nhưng nó vẫn đá cô đi.
- Ai đã nói với anh?
- Thằng Dũng.
Tôi thản nhiên hỏi:
- Anh cho tôi xin điếu thuốc.
Không hiểu nghĩ sao, Thái Anh vất gói thuốc cho tôi. Lạ lùng quá, đó là thuốc Kool chưa lột, còn nguyên vẹn. Tôi xé miếng giấy bạc nhỏ, rút ra một điếu, ngậm lên môi:
- Anh cho tôi xin chút lửa.
Thái Anh quăng cái bật lửa. Tôi bắt lấy sành sỏi như tay chơi. Tôi mồi thuốc, hít một hơi đầy, nhả khói:
- Thằng Dũng là bạn anh à?
- Phải.
- Tôi cá với anh cho bạc triệu nó cũng không dám gặp tôi. Anh làm ơn nhắn với nó rằng tôi bảo nó là thằng đốn mạt, sẽ có ngày tôi tìm nó rạch mặt nó ra. Tôi mới xuống đời, và mới gặp hai nhà trí thức là nó và anh. Tôi thấy, anh cũng giống nó.
Chàng thẫn thờ giọng chàng lạc đi:
- Sự thật không phải vậy, hở em?
Tôi căng mắt nhìn Thái Anh:
- Anh không xứng đáng biết sự thật... Anh cứ hiểu sự thật như thằng Dũng nói với anh. Phải, sự thật là thế đó. Hơi phũ phàng và tàn nhẫn. Con bạn tôi đã nói “nhà văn là bọn đểu, đáng hót vào thùng rác”. Anh đáng hót vào thùng rác. Anh diễn tả lòng cao thượng của anh trong tiểu thuyết thì ghê gớm lắm, nhưng sống với anh mới thấy trái tim thật của anh.
Thái Anh cúi gầm mặt. Bất chợt, chàng đập mạnh tay lên mặt bàn.
- Cô nhục mạ tôi hả?
Tôi lắc đầu:
- Tôi không nhục mạ riêng anh đâu. Mà nhục mạ chung những thằng viết tiểu thuyết. Đọc các anh, độc giả tưởng lòng các anh trang trải, rộng lớn lắm. Các anh sẵn sàng chở muôn ngàn nỗi đau thương của kẻ khác vào lòng các anh. Các anh đã dệt những mối tình thơ mộng giữa một con đĩ với một nhà văn. Các anh chống bất công, nguyền rủa những kẻ bạc tình, phản bội. Các anh tự phong các anh là những người quân tử và chửi bới người đời là những kẻ vị kỷ hẹp hòi đê tiện. Nếu không có hôm nay, tôi vẫn sống trong ảo mộng, tưởng anh là thần là thánh. Thật ra anh là...
Thái Anh dằn giọng:
- Cô nói tiếp đi!
Tôi đứng dậy:
- Phải dùng hai tiếng “chó đẻ” mới cực tả nổi sự khinh bỉ anh. Tôi bỏ rơi anh chứ không phải anh bỏ rơi tôi. Sau này, nếu tôi có lấy người khác, anh đừng bắt chước thằng Dũng mà bảo rằng anh đuổi tôi đi nhé!
Thái Anh cũng đã đứng dậy, nắm lấy tay tôi:
- Em đi đâu?
Tôi hất tay Thái Anh ra:

- Tôi trở về thế giới của tôi. Giữa chúng ta thế là hết. Tôi nhiều tự ái lắm. Anh có thể hỏi thằng Dũng thì biết. Khi anh đã dùng những tiếng “chài” “đá” miệt thị tôi, dẫu tôi có đoán trước được con đường chông gai đang chờ đợi tôi, tôi vẫn không còn can đảm sống chung với anh nữa. Tôi quen chịu đựng đau khổ, ê chề rồi. Tôi sẽ làm những đứa gieo oan nghiệt vào đời tôi đau khổ ê chề như tôi.
Thái Anh đưa tay lên bóp trán:
- Vợ chồng cãi nhau là chuyện thường.
Tôi cười nửa miệng:
- Chúng ta đâu có cãi nhau. Anh khinh bỉ tôi, tôi ghê tởm anh. Tôi trót chửi anh là đồ chó đẻ mà còn âu yếm anh được ư? Sống như vậy ngượng quá, thà là xa nhau để anh hối hận, để tôi tiếc nhớ có lẽ đẹp hơn. Bây giờ anh có thể để cái gương trên bàn viết của anh. Mỗi khi viết lách, anh soi hình anh, soi tâm hồn anh, nhìn cho đúng mà viết.
Tôi mỉa mai:
- Rồi anh sẽ nổi tiếng!
Thái Anh bước tới bàn viết. Chàng vồ lấy tập bản thảo, xé nát:
- Anh sẽ làm lại tất cả. Em đừng bỏ anh.
Tôi nói:
- Đàn ông thường giống nhau ở một điểm hèn hạ. Các anh cho thiên hạ mọc sừng hay phá trinh một người con gái trước khi người con gái đi lấy chồng thì các anh đắc chí khoe khoang và độc địa cố tình nói cho kẻ bị cắm sừng, kẻ đến sau biết “chiến thắng” của các anh, khiến hạnh phúc của họ tan nát. Còn chính bản thân các anh khi thấy mình là kẻ đến sau, kẻ bị cắm sừng thì các anh lấy làm nhục nhã, đau đớn. Tôi đã xao xuyến tâm hồn lần đầu tiên gặp anh. Bây giờ thì không còn xao xuyến bất cứ một lời chân thành nào của anh nữa. Tôi thấy lòng anh hẹp lắm, chẳng thể chở nổi cuộc đời nhiều sầu muộn của tôi. Ta nên chia tay.
- Anh quá nông nổi.
- Tôi cũng quá nông nổi, quá nông nổi và nhiều tình cảm nên khổ lên khổ xuống. Phải chi đêm thứ nhất bước chân vào vũ trường, tôi cự tuyệt anh, đuổi anh khỏi cửa phòng tôi, thì đâu đến nỗi chịu nhục. Tôi bị nhiều người làm khổ nhưng chỉ có mình anh phỉ nhổ tôi.
- Anh quá ghen vì quá yêu em.
- Không phải anh ghen mà là anh quá hèn. Ví dù, sự thật như thằng Dũng nói, anh cũng chẳng nên đối xử với tôi cạn tầu ráo máng vậy. Tôi biết anh đã chán tôi rồi, anh bày trò để dễ đẩy tôi khỏi đời anh.
Thái Anh dậm chân la hét:
- Không phải thế.
Tôi nhún vai, lạnh lùng:
- Tôi muốn phải thế.
Đôi mắt Thái Anh ngầu đỏ. Chàng buông thõng hai tay:
- Thôi được, em muốn bỏ rơi anh cũng được. Em cứ đi đi rồi sẽ thấy hậu quả của lòng tự ái đặt không đúng chỗ của em. Nhưng anh xin em một điều, một ân huệ.
Tôi sững sờ, nhìn Thái Anh tiều tụy đang đứng trước mặt tôi. Chàng nói:
- Em không là đàn ông nên không hiểu nỗi đau đớn của đàn ông. Anh chỉ là người. Là người thì nhất định phải có nhiều cái hèn vây quanh cái đẹp. Em sống lâu với Sơ Joséphine, bên Mẹ Bề Trên nên em bắt mọi người phải giống Sơ Joséphine. Nếu em khăng khăng giữ lối sống đó, suốt đời em khổ sở.
Giọng Thái Anh đầy cảm xúc. Khiến tôi bối rối. Tôi lại bối rối rồi.
- Anh muốn Châu cho anh một ân huệ gì?
- Em kể chuyện cho anh nghe.
- Để anh viết tiểu thuyết?
- Không, để anh biết rõ sự thật mà thương em nhiều hơn.
- Rồi sau đó?
- Tùy em định đoạt.
- Được, Châu sẽ nói cho anh nghe.
Chúng tôi cùng ngồi xuống ghế. Tôi cầm gói thuốc Kool liệng qua cửa sổ.
- Đáng lẽ em đã là Châu Kool, anh chặt tiếng Kool rời tiếng Châu. Đời em bắt đầu như thế này...
Tôi kể hết cho Thái Anh nghe, không thiếu một chi tiết nhỏ. Từ hình ảnh người cha dượng, hình ảnh “Giáo sư” Dũng đến hình ảnh con mụ phá thai trong hẻm ngoại ô Hòa Hưng.
Thái Anh ngồi yên, không nhúc nhích. Khi tôi thở dài kết luận “Như thế đó...”, tôi thấy hai giọt nước mắt từ đuôi hai con mắt Thái Anh chảy dài xuống má. Thái Anh lấy cánh tay áo quệt ngang mắt. Chàng lặng lẽ đứng lên chẳng nói thêm một lời. Chàng ra chỗ đặt chiếc va-li, lôi quần áo, xếp, mắc và tủ.
- Anh sẽ tính chuyện với thằng Dũng.
Tôi không nói năng gì, ngồi trơ trơ như một pho tượng. Thái Anh sửa soạn một lúc rồi bỏ đi. Tôi cũng chẳng hỏi chàng đi đâu. Buổi tối hôm đó chàng không về.
Hôm sau một người bạn của Thái Anh ở nhật báo Hy Vọng tới tìm tôi cho biết Thái Anh đã đánh “giáo sư” Dũng vỡ đầu tại vũ trường Hồng Ngọc. Và, khi chàng ra khỏi vũ trường, chàng bị một nhóm du đãng vây kín, dùng đòn hội chợ đánh đến chết. Xác chàng đã được chở tới bệnh viện. Người bạn của Thái Anh kể dứt thì tôi ôm bụng nhăn nhó. Tôi nhờ anh chở tôi đến một bảo sanh viện.
CHƯƠNG 12
Khi tôi mở mắt, nhìn thấy rõ cô y tá đang ngồi canh chừng chai huyết thanh tiếp vào mạch máu tôi, tôi mới biết mình còn sống. Thuốc mê đã mất hiệu lực nhưng nó vẫn làm tôi mơ mơ màng màng rất khó chịu. Những gì đã xảy ra, những gì vừa xảy ra? Tôi cố mở mắt nghiêng bên trái, nghiêng bên phải, quan sát căn phòng. Căn phòng có máy lạnh và rộng lắm so với những phòng bệnh tôi đã tới nằm.
Cô y tá dịu dàng nói:
- Thưa bà, bà đừng cựa quậy e “chạy” mạch máu.
Tôi hỏi cô:
- Con trai hay con gái, hở cô?
Cô y tá rạng rỡ khuôn mặt:
- Bà tỉnh rồi, xin mừng bà. Thưa bà, bà sinh em trai. Em ngộ hết sức, cân nặng ba ký tư.
Tôi ngạc nhiên:
- Cô bảo tôi tỉnh, chắc vài giờ trước tôi ngất xỉu à?
Cô y tá đáp:

- Thưa bà, bà sinh không vất vả lắm, máu mất rất ít. Nhưng bác sĩ lạ lùng là sau đó, bà bị hỗn loạn tinh thần như một người bệnh thần kinh. Bác sĩ thử chụp thuốc mê cho bà xem khi tỉnh dậy, tâm thần bà ra sao.
Tôi nhắm chặt mắt:
- Cám ơn cô, tôi không sao cả.
Cô y tá dặn dò:
- Thưa bà, bác sĩ ra lệnh cho tôi...
Tôi cướp lời cô:
- Tôi hiểu, cấm không được suy nghĩ vẩn vơ.
Hai chúng tôi không nói năng gì với nhau nữa. Cô y tá ấp chiếc khăn lạnh lên mặt tôi. Khăn lạnh làm tôi bớt khó chịu. Cô y tá cho tôi hai viên thuốc, một màu đỏ, một màu trắng. Lúc chai huyết thanh cạn, cô y tá rút cái kim tiêm dài và to khỏi mạch máu giữa cánh tay tôi ra thì thuốc an thần vừa ngấm vào tim tôi. Tôi không hiểu những chuyện gì đã xảy ra, sau đó. Đến gần tối, tôi lại thức. Phòng tôi đóng kín cửa. Tôi vươn tay lên thành giường, chụp cái chuông điện, bấm liên tiếp mấy hồi. Cô y tá đẩy cửa phòng, bước vào. Không phải cô y tá buổi sáng. Nhưng cử chỉ nhẹ nhàng, lời lẽ dịu dàng thì vẫn như cô y tá buổi sáng. Cô đặt tay lên trán tôi:
- Thưa bà, bà cần gì?
- Cô cho tôi đi tiểu.
- Bà cứ nằm nguyên. Tôi lấy bô cho bà tiểu. Một lát nữa, bác sĩ sẽ tới thăm bà.
Cô y tá giúp tôi công việc tầm thường đó xong xuôi, vui vẻ:
- Bà cần sai tôi gì nữa?
- Cô cho tôi uống nước.
Cô y tá rót nước vô cái ấm nhỏ có vòi dài. Cô đặt miệng vòi vào miệng tôi. Và tôi uống nước. Cô y tá đưa đẩy chuyện:
- Em bé kháu quá. Thưa bà, bà bớt mệt chưa ạ?
- Cám ơn cô, tôi khá rồi.
Cô y tá rời phòng kéo kín cửa. Cô không quên bật ngọn đèn ngủ cho đỡ tối và đỡ chói mắt tôi. Tôi khá rồi. Tôi khá rồi nghĩa là tôi có thể suy nghĩ vẩn vơ. Trước hết tôi suy nghĩ cái chết dễ dàng đến buồn cười của Thái Anh. Tôi là đứa con gái nặng tình cảm, không hiểu sao với cái chết của Thái Anh, tôi chẳng xúc động chút nào. Tôi thấy Thái Anh chết có vẻ.... hề quá. Một người nặng suy tưởng, yêu si mê cuồng dại tưởng vượt trên mọi thường tình rồi để lộ cái hèn thường tình, rồi hối hận, rồi đi làm người hùng rửa nhục cho vợ mình, rồi bị đánh chết. Đúng là cái chết hề trên sân khấu cải lương do nhà đạo diễn hạng bét tạo ra. Phải chi Thái Anh chết vì danh dự của tôi trước khi nhục mạ tôi. Thì cái chết của chàng đẹp biết dường nào. Thì cái chết của chàng sẽ xoáy thêm một lỗ hổng trong tim tôi như cái chết của chị Hồng đã xoáy vào tim tôi. Tự chàng, chàng đập nát hạnh phúc của chàng, đập nát hạnh phúc của tôi và tự hủy đời chàng. Giá Thái Anh không chết, tôi cũng không lấy chàng nữa. Tôi luôn luôn sống bằng mộng tưởng. Yêu Dũng, tôi tưởng tượng Dũng là Dũng của Loan, Dũng “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh, tóc lộng bời gió bốn phương, cravate trễ khỏi cổ, đôi mắt chứa cả ước vọng của hai mươi mấy triệu người, đi trong bóng tối cách mạng. Rồi Dũng của Loan biến mất, chỉ còn ở tôi một thứ Dũng yêu có thủ đoạn và “đá” người yêu không xót thương. Lấy Thái Anh, tôi tưởng tượng Thái Anh là nhân vật phi thường trong tiểu thuyết của chàng, bao dung, đại lượng, dám ngồi trên dư luận, dám đặt gót giầy lên những lời đồn đại.
Rồi thấy Thái Anh là Thái Anh đầy đủ mặt trái, mặt phải. Nỗi đau đớn của tôi triền miên chính là vì tôi thích lãng mạn hóa cuộc đời. Tôi muốn cái gì cũng đẹp như tôi vẽ vời, thêu dệt. Và bởi vậy, khi nhận ra điều mình ấp ủ không đúng như ý mình thêu dệt, tôi chán nản ngay. Và dám bỏ rơi không thèm thương tiếc. “Coi như chị đã qua sông đắm đò” - câu thơ trong bài “Lỡ Bước Sang Ngang” của Nguyễn Bính được Hồ Hải dùng làm triết lý sống cho mình thế là đúng. Hãy coi như đắm đò rồi có bị đắm đò chắc chắn không hối hận gì cả. Nhưng dù Thái Anh không còn là người lý tưởng của tôi thì ít ra chàng cũng đã là người sống chung với tôi cả tâm hồn lẫn thể xác một đoạn đời. Chàng còn gửi tôi một bổn phận. Đó là đứa con của chúng tôi.
Cửa phòng mở. Không phải bác sĩ tới thăm mà là những người ở nhật báo Hy Vọng. Người bạn thân của Thái Anh, người đã tưởng tôi quá xúc động tin Thái Anh chết đến nỗi cái thai ra sớm trước ngày bác sĩ ở Grall tính toán, giới thiệu ông chủ nhiệm với tôi. Và lần lượt giới thiệu ông chủ bút, ông thư ký tòa soạn. Ông chủ nhiệm đặt một gói nho lên bàn. Ông buồn rầu nói:
- Anh Thái Anh mất rồi, chúng tôi có bổn phận lo cho chị và cháu. Xin chị đừng lo nghĩ gì! Số phận đã định đoạt thế, mình có lo nghĩ cũng chẳng làm sống được người chết.
Tôi mệt mỏi nói:
- Cám ơn các ông.

Ông chủ nhiệm nhật báo Hy Vọng không muốn làm phiền tôi. Ông chúc tôi sớm lấy lại sức và ra về. Còn một mình người bạn thân của Thái Anh ở lại. Anh ta có bút hiệu Thanh Triều. Thanh Triều thường tới nhà chúng tôi ăn cơm, uống trà và bàn việc văn học, nghệ thuật. Anh ra rất ngưỡng mộ Thái Anh, chỉ ao ước viết hay bằng Thái Anh. Vì thế, không bao giờ anh ta bằng Thái Anh cả. Hình như, André Gide có một câu thuộc loại “hoa thơm cỏ lạ” rằng “Bạn hãy nghĩ bạn sẽ hơn người khác và đừng nghĩ sẽ bằng người khác”. Thanh Triều chưa biết câu này chăng? Nên anh ta đã dại dột phục sát đất một người đi chung với anh một đường. Nhưng tôi không để ý chuyện này lắm. Thanh Triều là người bạn tốt của chúng tôi. Vậy đủ rồi. Anh ta kéo ghế gần đầu giường tôi khẽ hỏi:
- Chị thấy trong người thế nào?
Tôi đáp:
- Hơi khó chịu vì thuốc mê còn phảng phất.
Thanh Triều muốn nói gì mà chưa dám nói. Tôi biết, anh cố tránh chuyện Thái Anh bị đánh chết. Với tôi, lần này, sự đau khổ đã đóng băng, phải có ánh nắng thiêu đốt, tảng băng mới rã nổi. Tôi bảo Thanh Triều:
- Tôi không mệt lắm đâu anh ạ!
Thanh Triều cầm con dao ở cái kệ để nước và thức ăn lặt vặt, hỏi tôi:
- Chị dùng mấy trái nho nhé!
- Vâng.
Anh ta lấy nho, lột vỏ, bửa đôi, gẩy hạt ra và bỏ dùm vào miệng tôi:
- Chị đã thấy cháu chưa?
- Chưa anh ạ!
- Cháu kháu khỉnh quá.
- Cám ơn anh.
- Chị định đặt tên cháu là gì?
- Tôi chưa nghĩ tới.
- Chị định gửi cháu ở đây hay đem về nhà nuôi cháu?
- Tôi cũng chưa nghĩ tới.
- Thưa chị, báo Hy Vọng sẽ đỡ đầu cháu bé. Ông chủ nhiệm cam kết với chúng tôi rằng, cháu sẽ được báo Hy Vọng săn sóc tới khi cháu học thành tài. Ngày mai, báo Hy Vọng sẽ mở một trương mục cho cháu bé và mỗi tháng sẽ gửi thêm tiền vô đó. Chị cần đặt tên cho cháu đi.
- Anh để thong thả giùm.
- Nếu chị gửi cháu ở đây thì tốt nhất, bằng chị muốn đem cháu về, chúng tôi sẽ lo giúp chị một bà vú.
- Tôi tự lo cho cháu được, khỏi cần làm phiền báo Hy Vọng.
Thanh Triều nói:
- Tôi biết, dù anh đã thiệt mạng, chị vẫn còn giận anh. Nhưng chị nên biết, trước khi đi tìm thằng Dũng, anh có gặp tôi ngỏ ý hối hận vô cùng.
Tôi ngoắt tay:
- Chuyện này, anh đừng nhắc tới nữa. Tôi sẽ mệt lắm. Vả lại tôi không thích nghe thêm.
Thanh Triều hiểu ý, đứng dậy, chào tôi và ra khỏi phòng. Anh ta hẹn mai sẽ tới. Sau đó, bác sĩ đến thăm tôi. Ông vẫn khuyên tôi đừng suy nghĩ vớ vẩn. Rồi chích thuốc và cho tôi uống thuốc an thần. Suốt một tuần, nằn nì cách mấy, bác sĩ cũng không cho ẵm đứa nhỏ đến để tôi biết mặt mũi nó. Ông sợ tôi nổi cơn bóp cổ đứa nhỏ chết chăng? Trong cơn tức giận, tôi đã dọa Thái Anh là sẽ bóp cổ đứa hài nhi. Nhưng giờ này, tôi cô đơn quá. Tôi muốn nựng nịu con tôi. Mỗi ngày Thanh Triều thăm tôi hai lần. Anh ta không nói chuyện Thái Anh, không nói chuyện gì cả ngoài đứa nhỏ. Tôi đặt tên cho cháu là Hữu. Giá cháu là con gái, tôi đã đặt tên cháu là Mai. Tôi ao ước cháu là con gái để mai này, khi nó biết nó “thiếu một cái gì rất mong manh, rất huyền ảo; buổi sáng thức giấc nghe chim hót, nhớ vu vơ; buổi trưa nằm ngủ giật mình mở mắt, nhớ vu vơ; buổi chiều ngắm nắng hoàng hôn, nhớ vu vơ; buổi tối đắp chăn lên ngực cô đơn biết mấy, nhớ vu vơ; nhớ hình ảnh mà mình chưa một lần nhìn thấy” như thuở dậy thì của tôi ngày xưa, tôi sẽ bảo nó “con lớn rồi phải coi chừng”. Và tôi sẽ không giống mẹ tôi, không giống Huy, tôi bắt nó ghi chép đầy đủ những điều nó “phải coi chừng”. Như thế, nó sẽ mất nhiều mơ mộng, nhiều lý thú, nhưng, chắc chắn, nó bớt khổ đau. Thanh Triều lo giùm giấy khai sinh cho tôi. Tôi lấy Thái Anh không có giá thú nên con tôi kể như đứa con ngoại hôn. Thanh Triều dè dặt hỏi tôi:
- Có ghi tên bố cháu không?
- Có chứ. Anh nhớ ghi nghề nghiệp của bố cháu. Nó sẽ hãnh diện có người bố làm nghề viết văn dù văn nghiệp của bố nó chưa đạt tới và dù bố nó coi cái văn nghiệp đó, như đứa con hoang ngủ với điếm.
Thanh Triều tròn xoe mắt. Tôi nói:
- Anh đừng ngạc nhiên. Bố nó có lỗi với tôi chứ không có lỗi với nó. Cháu nó sẽ đau khổ nếu sau này thấy ở khai sinh thấy mình là... con hoang.
Thanh Triều chớp mắt:
- Chị lo xa xôi quá.
Nửa tháng sau, tôi rời bảo sanh viện. Cháu nhỏ gửi nuôi ở đó. Tôi về căn nhà cũ, nơi tôi và Thái Anh đã sống để nghe lòng mình vỡ rơi từng mảnh nhỏ.
Thanh Triều kiếm dùm tôi một người giúp việc đã đứng tuổi. Như vậy căn nhà bớt trống trải. Tôi hy vọng, nay mai còn có cả tiếng trẻ con khóc, tiếng võng kẽo kẹt, tiếng ru xa vắng. Thật chưa bao giờ tôi hoang mang như bây giờ. Vòng đai âu yếm mỗi lúc một nhỏ dần, cao lên và kín mít, khiến tôi khó thoát ra khỏi để mưu tính ý định của tôi. Phải chi không có Thanh Triều và báo Hy Vọng. Đời tôi, hình như, chỉ dệt bằng những ước muốn. Phải chi thiên hạ bỏ rơi tôi nhỉ?
Về nhà được hai ngày, tôi lên một cơn sốt dữ dội. Người giúp việc lo cuống quýt. Chị ta đắp cho tôi hai cái mền thật dày mà tôi vẫn lạnh ngắt. Cơn sốt kéo dài chừng mười lăm phút. Sau đó, người tôi bỗng nóng hổi. Chị Bảy - tên người giúp việc của tôi - tưởng tôi bị trúng gió. Chị ta lấy dầu hôi, cạo gió khắp lưng tôi. Hôm sau, vào buổi chiều đúng giấc hôm trước, tôi lại sốt. Sốt tung người lên. Chị Bảy đè chặt tôi mà cơn sốt tàn nhẫn vẫn làm chị xóc cơ hồ cỗ xe đi trên con đường gập ghềnh. Tôi đánh đu với nỗi chết mười lăm phút. Khi cơn sốt tạm biệt tôi thì Thanh Triều đến. Anh ta chở tôi tới bảo sanh viện. Bác sĩ bắt tôi nằm trị bệnh.
Tôi nằm ở bệnh viện uống thuốc sốt rét lu bù. Nhưng không hết sốt, bác sĩ cho uống các thứ thuốc trụ sinh, để hy vọng rằng, nếu nhau còn sót, thuốc trụ sinh sẽ làm nó thối nát và băng ra. Bác sĩ ở bảo sanh viện không nói với tôi chuyện ông nghi ngờ nhau sót. Đó là tự ái nghề nghiệp. Mỗi ngày một cơn sốt, chắc tôi sẽ chết dần chết mòn mất. Thanh Triều đưa tôi về nhà và dẫn tôi đi một bác sĩ chuyên môn khác. Ông này quả quyết tôi bị sót nhau. Nhau còn sót đã gây nên những cơn sốt khủng khiếp. Uống loại thuốc ký-ninh chỉ tổ sốt thêm và bải hoải tâm thần. Tôi nghĩ tới lần nạo nhau trước, rụng rời.
Tôi nhất định không nạo nhau, dù những cơn sốt có làm cho tôi chết.

Thanh Triều đưa tôi đến nữ bác sĩ ở đường Trương Công Định: bà Nguyễn văn Ái. Bác sĩ Ái khám bệnh, vỗ bụng tôi và quả quyết tôi không bị sót nhau. Thuốc trụ sinh đã làm tôi sốt khốn khổ. Không thèm dùng bất cứ thứ thuốc gì nữa, hoặc chỉ nên uống thuốc bổ, sẽ hết sốt. Đi đổi gió ở miền biển càng tốt. Tôi nghe lời bác sĩ Ái. Quả nhiên cơn sốt giã từ tôi. Tôi khỏi bệnh, suốt đời nhớ ơn bác sĩ Nguyễn văn Ái. Hình như bác sĩ Ái có cho tôi cái đơn mua thuốc bổ và bà chỉ lấy sáu chục bạc.
Mấy tuần sau, tôi lại sức. Cháu Hữu vẫn gửi ở bảo sanh viện. Ngày hai lần, tôi đến thăm cháu. Rồi tôi nhờ Thanh Triều công việc thăm cháu thường nhật. Tôi và chị Bảy ra Nha Trang. Tôi ra miền cát trắng, tưởng để hong vết thương. Nhưng, cuối năm nắng rất hiếm. Mùa này là mùa biển động. Khách sạn tôi cư ngụ nằm sát bờ biển. Tôi ở tầng lầu, ngày đêm nghe đại dương nổi giận. Mặt biển vẫn phẳng phiu sao những tiếng gầm nghe sợ hãi thế! Tôi không dám ở đây chờ mùa xuân sang. Chúng tôi bỏ Nha Trang.
Biết bao giờ mới gặp Mẹ Bề Trên và Sơ Joséphine được? Còn Huy nữa. Chắc nó đã ở Mỹ về rồi. Tôi nhất định không thèm nhờ vả nhật báo Hy Vọng. Chị Hồng cho tôi món tiền khá lớn, tôi gửi nội trú Hòa Hưng và vẫn chưa hề nghĩ tới chuyện xin lấy ra. Tôi còn trẻ, còn đẹp, “Gái một con trông mòn con mắt”. Tôi soi gương quả thật tôi còn đẹp. “Em nên điểm phấn tô son lại. Ngạo với nhân gian một nụ cười”. Phải ngạo mạn với cuộc đời chứ. Sinh ra đời đâu để chịu đựng nhục nhằn, tủi cực. Hình ảnh chị Hồng hiện rõ ràng trong đôi mắt tôi. Hình ảnh chị với khuôn mặt đá tổ ong. Chứ không phải hình ảnh chị với khuôn mặt đẫm lệ hôm ở trường thi. Tôi muốn đi tìm Hồ Hải. Ta cứ dấn thân vào cuộc đời dù có bị uống tận cùng đau khổ.
CHƯƠNG 13
Tôi âm thầm trở lại bin-đinh Núi Trắng. Tôi đến nhà Thái Anh vỏn vẹn một chiếc valise thì giờ bỏ đi cũng vỏn vẹn một chiếc valise. Hành lý nhẹ bẵng. Có lẽ, yêu thương đã rụng rơi hết. Tôi mướn một căn nhà nhỏ ở miệt Tân Định để chị Bảy vừa có thể sống chung với con cái chị vừa chăm nuôi con tôi. Thanh Triều không hề biết việc tôi đi, đem cả cháu Hữu rời bảo sanh viện. Căn nhà của Thái Anh, đồ đạc của chàng sắm, sẽ có thân nhân của chàng đến “tiếp thu”.
Với tôi, Thái Anh chỉ còn là một kỷ niệm không vui không buồn. Đừng nói dối lòng mình là mình hối hận, tiếc nhớ. Hãy nói thật, dù nói thật với người chết. Rằng, Thái Anh, tôi giận anh, chính anh đẩy tôi vào con đường mà anh đã lôi tôi ra. Tôi mất cắp dần những rung động của thanh niên. Tuổi trẻ tôi nham nhở, méo mó què quặt. Sự tàn nhẫn xâm chiếm tâm hồn mình thật dễ dàng. Nhất là trong thời đại hiện nay.
Tin tôi trở lại bin-đinh Núi Trắng sau ngót hai năm bỏ đi “theo tiếng gọi của ái tình” làm chấn động dư luận... bin-đinh. Không hiểu có phải là định mệnh hay không, mà căn phòng cũ của chị Hồng đã có người đến ở, nhưng vừa mới dọn đi. Và tôi lại về ở đây, về ở với những kỷ niệm xót xa của mình. Ông quản lý cho khênh tủ lạnh và các đồ lặt vặt của chị Hồng ngày xưa lên phòng. Hồ Hải sang gặp tôi ngay. Nàng ngó tôi chằm chằm, cười tít mắt:
- Cha chả, con bé càng đi xa trở về càng đẹp. Lần này về chừng bao lâu đi lại hả Châu Kool?
Tôi không đáp câu hỏi của Hồ Hải ngay. Mà búng ngón tay tách một cái:
- Cho tao một điếu thuốc.
Hồ Hải gật gù:
- Coi bộ mày từng trải quá rồi nhi?
Hồ Hải móc túi quần “jean”, ném cho tôi gói thuốc “Con Mèo” và hộp quẹt. Tôi đẩy cái ruột hộp thuốc, rút một điếu, quẹt lửa, mồi thuốc. Hồ Hải lại hỏi:
- Mày bỏ thuốc Kool rồi à?
- Chưa.
- Sao hút “Con Mèo”
- Vì sắp làm mèo đêm. Nói đùa đấy. Tao quên mua thuốc. Dạo này mày nhót ở đâu?
- Mỹ Lệ.
- Tiệm mới à?
- Ừ.
- Còn cần thợ nhảy không?
- Đang đói người đẹp như mày.
Tôi nhả làn khói, nhìn lên và trả lời câu đầu tiên của Hồ Hải:
- Tao về với thế giới bin-đinh lần này hơi lâu. Tao hy vọng sẽ không đi đâu nữa.
- Hình như mày đã nói câu này một lần rồi.
- Thì tao mới nói có một lần.
- Chắc mày lại bị bọn đàn ông chơi xỏ hả?
- Không đúng hẳn vậy đâu.
- Một mối tình cao thượng chứ gì!

- Chàng yêu nàng. Nàng dấn thân vào vũ trường. Chàng lôi nàng ra khỏi vũng bùn nhơ. Hai người lấy nhau. Rồi một hôm xấu trời, chàng muốn bỏ nàng, bèn nghĩ rằng đã nhiều đứa ôm nàng. Và chàng giả vờ ghen. Rồi hạnh phúc tan vỡ.
Hồ Hải phá ra cười:
- Tao lạ gì chuyện này vì tao đã là nạn nhân.
Tôi không hỏi mà Hồ Hải khai vanh vách:
- Trước tao bị giọng lưỡi của một thằng họa sĩ phỉnh phờ. Tao phát tởm bọn văn nghệ sĩ. Trái đất chết hết đàn ông mới phải lấy bọn văn nghệ sĩ, cái bọn chó đẻ, cứ tưởng mình là ông Trời. Thực ra chúng nó bé như con kiến. Thằng nhà báo của mày có khác chút nào không? Mấy tháng trước có thằng nhà báo bị du đãng đánh chết. Tao khoái quá.
Hồ Hải thích ăn nói thật tàn nhẫn. Nàng ghét thủ thỉ tâm tình. Tôi quen tính nết của Hồ Hải cũng bắt chước nàng nói năng cái giọng điệu của nàng.
Tôi không coi Thái Anh như Dũng nên chẳng muốn kể chuyện Thái Anh và những ngày sống phẳng lặng bên chàng.
- Bọn nào giết thằng nhà báo đó?
- Bọn Cầu Muối.
- Nó thù gì thằng nhà báo?
- Bọn nó được thuê tiền đánh mướn.
- Ai thuê bọn nó?
- Nghe thằng vệ sĩ của tao nó bảo thằng giáo sư nào đó tao quên mẹ nó tên rồi.
Chắc là Dũng đã thuê du đãng đánh chết Thái Anh. Tôi dập điếu thuốc lá:
- Mày phải dợt lại cho tao.
- Dợt cái gì?
- Nhót và chai đá như mày.
- Ô kê.
- Tuần sau tao đi làm với mày. Có lẽ phải gây sóng gió cho đỡ buồn.
- Đúng rồi, tao cũng đang gây sóng gió đây. Tao sùy bọn du đãng nhà giầu cho chúng nó hăm he giết nhau, vui đáo để. Tao tin rằng mày mới đủ thớ xúi dục chúng nó hạ sát lẫn nhau. Bắt con cái bọn Bộ trưởng giết nhau, thanh toán nhau, còn gì vui hơn. Tao vào phòng tao cho mày nghỉ nhé? Cần hút thuốc Kool tao bảo tụi nhỏ đi mua giùm!
- Cần, tao cần hút.
- Thấy mày dạn dầy, tao mừng lắm.
Hồ Hải rời phòng tôi. Nàng đóng rầm cửa lại. Cái chốt sắt ăn chặt vào ổ khóa như vết thù của nàng hằn rõ trên da trời. Như nỗi sầu của tôi đậm nét ở tâm hồn. Tôi đã dạn dầy rồi chăng? Có thể lắm. Hồ Hải nhận xét không sai đâu, dẫu chưa dạn dầy thì cũng sắp dạn dầy. Mà dạn dầy đã sao.
Tuần lễ sau, tôi đi nhảy ở Mỹ Lệ. Những sự rụt rè của buổi đầu hai năm về trước đã biến mất. Hồ Hải truyền cho tôi thật nhiều thủ đoạn, tiếp tay chủ tiệm bóc lột dân hào hoa. Chị cai gà nhắm toàn bọn công tử bán trời không văn tự, đem tôi ra “trình diện”. Tôi bỗng trở thành thứ vũ nữ đắt giá, muốn được nhảy với tôi, khách nhảy phải “com măng” trước. Tôi bắt đầu làm khổ bọn đàn ông ngu xuẩn bằng cách cho họ ăn hy vọng. Anh nào tôi cũng hứa yêu đương hết.
Người ta sẽ vất vả vô cùng khi đi tìm đường lên thiên đàng. Nhưng dễ dàng vô cùng nếu người ta muốn tìm đường xuống địa ngục. Xuống địa ngục, có khi, khỏi cần tìm đường. Đã sẵn sứ giả của diêm vương mời mọc mình. Tôi không dám nghĩ Hồ Hải là sứ giả diêm vương. Mà nghĩ rằng cuộc đời đã chơi cái trò đánh dấu đường lối của thằng Petit Poucet. Và tôi đành theo những viên sỏi oan nghiệt, bước chân vào vũ trường làm gái nhảy.
Chẳng phải học cách dạn dầy đâu. Cứ sống đi, một ngày nào đó, mình sẽ nhận ra đám mây đen dạn dầy phủ kín đời mình. “Coi như chị đã sang sông đắm đò”. Nếu Huy có trách móc tôi, tôi sẽ nói với nó như thế. Nó sẽ thương tôi. Thì tôi lại bảo “Em ơi, em ở lại nhà. Vườn dâu em đốn mẹ già em thương. Mẹ già một nắng hai sương. Chị đi một bước trăm đường xót xa.”. Chưa bao giờ tôi thấy bài “Lỡ Bước Sang Ngang” của Nguyễn Bính hay thế. Hai câu “Năm xưa, đêm ấy, giường này, Nghiến răng, nhắm mắt, cau mày, cực chưa” thật đúng với tâm sự của tôi đêm tôi bị cha dượng hãm hiếp êm ái.
Đời tôi, có lẽ, đã vận đúng vào hai bài thơ “Lỡ Bước Sang Ngang” và “Mộng Tan” của thi sĩ Nguyễn Bính.
Anh ơi, mộng đã tan rồi
Mộng tan theo nước, nước trôi lạnh lùng.
Nước trôi còn có khi ngừng,
Mông tan, tan cả cõi lòng em tan.
Kể từ lỡ bước sang ngang,
Đi theo tiếng gọi trên đường ái ân.
Tưởng rằng mộng đó tan gần,
Ai dè mộng đó tan dần giấc mơ.
Nào ai biết được mà ngờ,
Con người thế đó lại là Sở Khanh....
Khi mộng ước đã tan, đã trôi theo giòng nước, mình bằng lòng trôi theo giòng nước, mình bằng lòng trôi theo cùng với bèo rác. Tôi không phàn nàn, hối hận. Thái Anh đã nói đúng. Làm gái nhảy là phải chấp nhận sự cợt nhã của khách. Phải để khách “em em, anh anh”, cấu véo, sờ mó.
Tôi đã cười thành tiếng khi những thằng công tử mặt búng ra sữa, ôm chặt tôi trong những bản Slow và thầm thì bên tai tôi “Anh yêu em, anh yêu em. Em có yêu anh không”. Đấy là sinh hoạt ở vũ trường.
Ở bin-đinh Núi Trắng tẻ nhạt hơn. Vì không có ly cốc chạm nhau, không có âm nhạc dậm dặt, không có những nụ cười khả ố. Tôi ăn cơm xách. Ngày hai bữa, người xách cơm đem “gà-men” để trước cửa, lấy “gà-men” bữa trước về. Cánh cửa hé mở, một cánh tay thò ra, lôi cái “gà-men” cơm, thức ăn vào.
Những buổi chiều mưa, nhìn những cánh tay thò ra kéo những cái “gà-men” vào, tôi chán nản cùng cực. Nhưng những người độc thân ở bin-đinh đã sống như vậy đó. Phải nhìn cái “gà-men” cơm để gần cửa phòng dầu dãi cả đêm, vì chủ phòng cao hứng đi chơi quên về, mới cực tả được sự lười biếng, nham nhở của đời sống ở bin-đinh. Thế mà tôi đang sống ở bin-đinh.
Chiều nay trời mưa to. Hồ Hải không đi chơi phố với kép. Nàng sang phòng tôi tán gẫu. Lần đầu tiên từ ngày quen nhau, Hồ Hải mới nói với tôi một câu đơ đỡ dạn dầy.
- Tự nhiên tao buồn quá mày ạ. Tao nhớ nhung thèm khát một điều gì mà tao cũng không biết nữa.

Hồ Hải ngồi gọn lỏn trong chiếc ghế xa-lông. Mười ngón tay móng dài nhọn hoắt, bôi sơn đỏ chói. Trông nàng y hệt con mèo cái vừa đẻ. Mười ngón tay đó chả biết đã bóp cổ bao nhiêu đàn ông, con trai? Điếu thuốc “Con Mèo” ngậm giữa làn môi, đôi mắt trở nên hiền lành mơ mộng. Hồ Hải nhìn lên trần nhà. Rồi bỗng nàng duỗi dài chân, đặt thoải mái trên mặt bàn nhỏ. Nàng dập điếu thuốc, đưa hai tay xoa mắt:
- Tao già rồi, mày nhỉ?
Một tiếng sét nổ tung trên nền trời bên ngoài? Không, tiếng sét nổ tung trong tâm hồn tôi. Đến hôm nào tôi sẽ vuốt mặt nói với người bạn “Tao già rồi, mày nhỉ”? Buồn chết người đi được, cái câu than già của Hồ Hải. Tôi an ủi nàng:
- Mày còn trẻ mà.
- Không, tao già rồi. Bọn nhãi búng ra sữa không mết tao là tao biết tao già rồi. Giá biết mình chóng già, hồi còn trẻ tao làm loạn tung cuộc đời cho đã. Son phấn nhiều, thức đêm lắm, chóng già quá mày nhỉ?
- Thì mày làm ít đi.
- Đi làm thì chán, không đi làm thì nhớ. Bọn nhà văn chúng nó cứ ví chúng nó với gái nhảy và điếm là cái khỉ gì? Chắc chúng nó cũng có nỗi rời rã như tao.
- Thê thảm hơn.
- Sao mày biết?
- Vì tao đã làm vợ một thằng nhà văn. Nó viết lách mà nó bảo nó ngủ với điếm. Tiểu thuyết của nó xuất bản nó bảo con hoang ngủ với điếm.
- Ối dào, bọn nó giả dối. Này Châu Kool...
- Gì?
- Mày lộng lẫy thật.
- Bỏ đi mày.
- Không, mày đẹp quá, tao là con trai chắc tao mê mệt mày. Tung hoành đi, để mai mốt già như tao chỉ còn khứa già mời mọc.
- Tung hoành cái gì?
- Cho tụi đàn ông, con trai thanh toán nhau đi. Làm nữ chúa rằn ri oai hơn là gái nhảy. Tụi nó gây cho mình nhiều nỗi khốn khổ. Thì mình phải trả thù chứ.
- Để tao nghĩ đã.
- Tao cho mày hay, mỗi đêm mày mỗi già đi một chút đấy. Rán nghĩ cho lẹ đi! Nghe đồn có thằng con út thằng Bộ trưởng L. trồng cây si mày hả?
- Không phải, thằng oắt, con ngài Phó tổng thống, nó cứ đòi tao làm chị nó.
- Mày đòi làm mẹ nó đi. Mày lơn bố nó rồi cho bố nó rớt để bố nó nổi giận xem sao. Hay là thằng oắt sẽ ghen với bố nó, giết bố nó. Vậy là “giông tố” nổi ầm ầm. Xã hội vui đáo để. Bọn nhà văn sẽ có vô số đề tài viết tiểu thuyết.
- Hay đấy.
- Hay lắm chứ. Rồi mày sai thằng oắt xách súng phóng xe đi tống tiền mua hột xoàn cho mày đeo. Mày lơn thằng khác. Chúng nó giành giật mày, đâm chém nhau, ngoạn mục vô cùng.
- Tuyệt, tuyệt, tao phải thực hiện kế hoạch của mày mới được.
- Cho đỡ buồn mà.
- Nhưng tao muốn cho thằng già giám đốc sở X. tan hoang cửa nhà đã.
- Nên lắm.
- Nó hứa tối nay tặng tao một cái nhẫn kim cương.
- Mày hứa gì với nó?
- Tao hứa sẽ ngủ với nó!
Hồ Hải phá ra cười. Chất mơ mộng trong đôi mắt nàng tan biến. Chỉ còn lại chất ranh mãnh. Hồ Hải rút điếu thuốc mới, mồi lửa:
- Coi chừng ăn át-xít.
Tôi nói:
- Khỏi lo, tao đã có bốn đứa to xác như “gorille” tình nguyện làm vệ sĩ rồi.
- Mày khôn hơn chị Hồng.
- Để sống lâu trả thù cho chị Hồng chứ. À, tao sẽ sai thằng oắt xách súng hỏi tội bọn thằng Trần Thức Thời. Cả nó nữa.
- Thằng oắt sẽ hả hê lắm. Nó chỉ chờ mày sai nó thôi.
Câu chuyện xoay chung quanh vấn đề trả thù đời. Hồ Hải say sưa nói cơ hồ như một vị linh mục giảng kinh thánh cho con chiên nghe. Tôi đã ngụp lặn trong nỗi say sưa của Hồ Hải. Cái triết lý sống “Coi như chị đã sang sông đắm đò” của Hồ Hải hấp dẫn vô cùng. Tôi còn gì nữa mà phải gìn giữ?.
Gia Định, 7/1/1967
Duyên Anh
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Hoàng hôn có nắng Nhà văn trẻ Hoàng Thị Trúc Ly vừa được bầu chọn làm hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Chị sinh ngày 24.5.198...