Chương 1
I. Hôm qua mặt nước êm ả như một lớp thủy tinh, cả hôm nay cũng
vậy. Đợt khí hậu nóng mùa thu trên đảo mới dịu và ấm làm sao! Nhưng không có
ánh mặt trời.
Đã nhiều năm nay tôi mới biết một sự an bình như vậy. Hai
mươi hoặc ba mươi năm, có lẽ; hay có lẽ đó là một cuộc đời khác. Nhưng đôi khi
tôi cảm nhận được nó, chắc vậy rồi, vì lúc này tôi đang đi rong khắp chốn, ngâm
nga nho nhỏ một giai điệu nhạc; lang thang trong niềm hoan lạc, yêu từng sợi
rơm, từng hòn đá, và thấy như thể chúng cũng quan tâm đáp trả lại tôi.
Trong lúc đi trên lối mòn hoang ngập cỏ, băng qua cánh rừng,
tim tôi run rẩy vì một niềm vui siêu thoát. Tôi nhớ lại một địa điểm ở vùng bờ
phía đông biển Caspian, nơi có lần tôi đã đứng. Mọi thứ ở đây đều giống hệt vậy,
với mặt nước tĩnh lặng, trầm trọng và xám màu thép như lúc này. Tôi bước qua
cánh rừng, xúc động tận tâm can, và rưng rưng nước mắt chỉ vì niềm vui tuyệt đối,
và luôn tự nhủ với mình: Thượng đế ở trên cao. Xin có mặt ở đây lần nữa…
Như thể tôi đã có mặt ở đó trước kia.
Cũng có lẽ tôi từng có mặt ở đó, đến từ một thời gian và vùng
đất khác, nơi rừng cây và những con đường mòn cũng y hệt thế này. Có lẽ tôi lúc
đó tôi là một cụm hoa, ở giữa khu rừng, hay có lẽ là một con bọ cánh cứng, ngụ
cư trong một cây keo nào đó.
Và giờ đây tôi đã tới chốn này. Có lẽ tôi từng là một con
chim và đã bay suốt chặng đường xa ấy. Hoặc là phần thịt của một thứ quả cây được
một thương nhân Ba Tư gửi tới.
Nhìn xem, giờ tôi đã cách xa sự hối hả chen chúc của đô
thành, cách xa mọi người và những tờ nhật báo; tôi đã chuồn khỏi những thứ đó,
vì tiếng gọi đã cất lên với tôi lần nữa từ những con đường cô quạnh, im lìm,
nơi tôi thuộc về. “Lần này mọi thứ sẽ đi đúng chỗ,” tôi tự nhủ, và lòng ngập
tràn hy vọng. Chao ôi, trước kia tôi đã từng bỏ trốn khỏi thành phố như lần
này, rồi sau đó lại quay về. Và lại bỏ trốn lần nữa.
Nhưng lần này tôi đã quyết. Tôi sẽ tìm được an bình, với bất
cứ giá nào. Và hiện tại tôi đã có một căn phòng trong một ngôi nhà thôn dã tại
đây, với cụ Gunhild chăm sóc cho tôi.
Đó đây, giữa những hàng thông là những cây thanh lương trà, với
những chùm quả chín mọng màu san hô; lúc này những chùm quả đang rơi, chạm mạnh
vào mặt đất. Chúng tự gặt hái bản thân và gieo hạt thêm lần nữa, một sự thừa
thãi phi thường bị lãng phí hàng năm. Tôi có thể đếm được tới hơn ba trăm chùm
quả trên một cây duy nhất. Và rải rác đó đây là những cây hoa vẫn còn đang nở rộ,
những sự vật ngoan cố, sẽ không chịu chết, dù thời của chúng đã thật sự trôi
qua.
Nhưng cả thời của cụ Gunhild cũng đã qua rồi - và bạn có nghĩ
rằng bà sẽ chết? Bà tới lui khắp chốn như thể cái chết là một thứ không hề khiến
cho bà phải quan tâm. Khi những ngư dân đặt chân lên bãi biển, để sơn lại thuyền
hay mạng lại lưới, cụ Gunhild tới đó với đôi mắt đờ đẫn, nhưng với một trí óc sắc
sảo không kém một ai để trả giá.
“Hôm nay giá cá thu thế nào?” bà hỏi.
“Cũng như hôm qua.”
“Vậy theo tôi các người cứ giữ lấy nó.”
Và cụ Gunhild trở về nhà.
Nhưng đám ngư dân biết rằng cụ Gunhild không phải là một
trong số những kẻ chỉ vờ vịt bỏ đi; bà từng bỏ về như thế trước kia, quay lên
ngôi nhà của mình, không một lần ngoảnh lại. Vì thế, họ gọi bà, “Nè,” và nói rằng
hôm nay họ sẽ bán với giá bảy đồng nửa chục, xem bà là một khách hàng kỳ cựu.
Và cụ Gunhild mua cá.
Những áo quần giặt xong đang phơi trên dây; váy lót đỏ và
sơmi xanh dương, và những quần áo lót dày cộm đến phi lý, mọi thứ được kéo sợi
và dệt trên đảo bởi những bà cụ già vẫn còn sống sót. Nhưng cũng có những loại
quần áo giặt xong khác: những chiếc áo sơmi loại tốt không tay áo, chính cái điều
khiến một cơ thể xanh tái đi vì lạnh, và những chiếc áo lót bằng len màu hoa cà
có độ dày của một sợi dây đàn. Và những thứ đáng tởm này có mặt ở đó bằng cách
nào? Sao nữa, đó là mấy cô con gái, chắc vậy rồi, những nàng thiếu nữ thời hiện
đại, đang giúp việc trong thị trấn, và kiếm được những thứ quần áo lòe loẹt này
theo cách đó. Phải giặt chúng thật cẩn thận, không thường xuyên quá, và chúng
chỉ tồn tại được một tháng. Và sẽ là một cảm giác trần trụi đáng yêu khi những
cái lỗ bắt đầu giãn rộng.
Nhưng không có kiểu phi lý đó, chẳng hạn, ở đôi giày của cụ
Gunhild. Vào những quãng thời gian rỗi rãnh thích hợp, bà tới gặp một trong số
các ngư dân, giống bà về tuổi tác và đầu óc, và phần phía trên và đế giày được
kỹ lưỡng khâu lại, thêm một lớp mỡ bôi da thuộc hữu hiệu khiến cho nước trở nên
bất lực. Tôi từng thấy thứ mỡ đó được đun sôi trên bãi biển; trong đó có mỡ động
vật, cũng có cả hắc ín và nhựa thông.
Hôm qua, khi đang lười nhát lang thang dọc bãi biển, nhìn những
mảnh gỗ trôi dạt, những đống vảy cá và những hòn đá, tôi bắt gặp một mẩu nhỏ của
một chiếc đĩa thủy tinh. Tôi không tài nào đoán được nó tới đó bằng cách nào;
nhưng vật này dường như là một điều lầm lạc, một sự dối lừa, khi nhìn vào nó. Lẽ
nào một ngư dân bất kỳ nào đó đã chèo thuyền tới đây cùng với nó, bỏ nó lại đó
và chèo đi? Tôi bỏ mặc nó tại nơi nó nằm, nó dày, bình thường và thô thiển; có
lẽ là một mảnh của một cửa sổ xe điện. Thời xưa thủy tinh còn hiếm và có màu lục
sẫm. Thượng đế phù hộ cho những ngày xưa cũ, khi một vật gì đó có thể hiếm hoi!
Lúc này khói tỏa lên từ những túp lều ngư phủ ở đầu phía nam
của đảo. Chiều xuống, và người ta nấu cháo đặc cho buổi tối. Khi xong bữa tối,
những người dân tử tế lên giường ngủ, để mai lại thức giấc cùng ánh bình minh.
Chỉ có bọn trẻ tuổi và ngốc nghếch là vẫn thơ thẩn từ nhà này sang nhà khác,
trì hoãn giờ ngủ nghỉ của chúng, không hề biết đâu là điều tốt nhất cho bản
thân chúng.
II. Sáng nay có một người đàn ông đặt chân lên đảo - tới để sơn
ngôi nhà. Nhưng cụ Gunhild, thật đã quá già, và phần lớn thời gian đang chết dần
mòn vì bệnh gout, bảo anh ta chẻ củi để nấu nướng trong vài hôm trước khi khởi
sự. Nhiều lần tôi đã đề nghị được tự tay chẻ số củi đó, nhưng bà nghĩ quần áo của
tôi quá tốt, và không cho tôi sờ tới cái rìu vì bất cứ lý do gì.
Tay thợ sơn này là một anh chàng thấp bé, dày cơm, với mái
tóc đỏ hoe và mày râu nhẵn nhụi. Tôi quan sát anh ta từ sau một ô cửa sổ trong
lúc anh ta làm việc, để xem anh ta xử lý cái rìu như thế nào. Thế rồi, khi nhận
thấy anh ta đang nói chuyện với chính mình, tôi lẻn ra khỏi nhà để lắng nghe. Nếu
anh ta hạ chệch một nhát rìu, anh ta nhẫn nại chấp nhận nó, và không tự làm khó
mình; nhưng bất cứ lúc nào anh ta bị va phải khớp ngón tay, anh ta trở nên cáu
kỉnh và thốt lên: “Fan! Fansmagt!” [1] - và rồi đột ngột nhìn quanh và bắt đầu ư ử ngâm nga một
giai điệu nhạc để che lấp đi những lời nói của mình.
Vâng, tôi nhận ra người thợ sơn đó. Chỉ có điều, cái gã ma
bùn này chả phải là thợ sơn gì hết, mà là Grindhusen, một trong những gã đàn
ông mà tôi từng làm việc chung khi đang làm đường ở Skreia.
Tôi bước tới cạnh anh ta, hỏi anh ta có nhớ tôi không, và
chúng tôi trò chuyện một lúc.
Đã rất nhiều năm từ lúc chúng tôi là thợ sửa chữa đường,
Grindhusen và tôi; khi ấy chúng tôi còn là những thanh niên, nhảy múa dọc theo
những con đường với những đôi giày thê thảm nhất, và ăn những gì chúng tôi có
thể tìm ra miễn là có đủ tiền để trả. Nhưng khi chúng tôi có thừa tiền, sẽ là dịp
để khiêu vũ với các cô nàng suốt đêm Thứ bảy, và một đám đông bọn công nhân
chúng tôi tới nhập bọn, và cụ già trong nhà bán cà phê cho chúng tôi cho tới
lúc hẳn bà đã kiếm được chút tiền còm. Sau đó chúng tôi làm việc cật lực suốt
tuần kế tiếp, mong đợi ngày Thứ bảy lại đến. Nhưng Gridhusen, anh ta là một con
sói đầu đỏ săn đuổi những nàng con gái.
Anh ta có nhớ những ngày xưa ở Skreia chăng?
Anh ta nhìn tôi, cẩn thận kiểm tra tôi với vẻ dè dặt, phải mất
một hồi tôi mới có thể làm cho anh ta nhớ lại.
Vâng, anh ta nhớ khá rõ Skreia.
“Còn Anders Fila và ‘Spiralen’ và Petra?”
“Người nào?”
“Phải, tôi nhớ cô ta. Rốt cuộc tôi đã bị cột chặt vào cô ta.”
Grindhusen lại xoay sang chẻ củi.
“Anh đã bị cột chặt vào cô ta sao?”
“Phải, đó là kết thúc của câu chuyện. Phải thế thôi, tôi cho
là vậy. Giờ tôi sẽ nói gì nhỉ? Anh đã trở nên khấm khá, qua vẻ ngoài của các thứ.”
“Sao chứ? Có phải anh đang nghĩ về bộ quần áo? Chính anh cũng
đang mặc bộ quần áo ngày Chủ nhật mà, đúng không?”
“Anh đã đổi gì để lấy mấy thứ đang mặc?”
“Tôi không nhớ nổi, nhưng chả có gì nhiều. Không thể nói
chính xác đó là gì.”
Grindhusen nhìn tôi ngạc nhiên và bật cười to.
“Gì chứ? Không thể nhớ anh đã trả thứ gì cho họ sao?”
Rồi anh ta trở nên nghiêm túc, lắc đầu và bảo: “Không, tôi
dám nói là anh không nhớ. Không. Đó là cung cách của anh khi anh có đủ hay thừa
tiền.”
Cụ Gunhild bước ra khỏi nhà, trông thấy chúng tôi đứng đó cạnh
đống củi, đang lãng phí thời gian với cuộc trò chuyện dông dài, bà bảo với
Grindhusen tốt hơn anh ta nên bắt đầu sơn.
“Vậy ra giờ anh đổi sang nghề thợ sơn à?”
Grindhusen không đáp, và tôi thấy rằng tôi đã nói một điều
tôi không nên nói trước mặt những người khác.
Chú thích:
Chú thích:
[1] Đồ quỷ sứ! Quyền năng của quỷ! (Từ đây trở đi, những từ
in nghiêng là chữ Na Uy hoặc chữ Pháp, theo bản tiếng Anh).
III. Grindhusen làm việc đôi ba giờ với vữa và sơn. Và chẳng bao
lâu một mé của ngôi nhà nhỏ, phía bắc, nhìn ra biển, đã sáng một màu đỏ vui
tươi. Vào lúc nghỉ trưa, tôi bước ra và tới gần anh ta, với chút gì để uống, và
chúng tôi nằm lăn ra đất một lúc, chuyện gẫu và hút thuốc.
“Thợ sơn? Không hẳn vậy, và đó là sự thật,” anh ta nói.
“Nhưng nếu bất cứ một ai đi tới và hỏi tôi có thể sơn một bức tường không, sao
chứ, dĩ nhiên là tôi có thể. Anh đã kiếm được thứ rượu Brændevin1 loại
nhất đấy."
Vợ và hai đứa con của anh ta sống cách đó chừng bốn dặm, và
anh ta về thăm họ mỗi Thứ bảy. Ngoài ra còn có hai cô con gái, cả hai đã trưởng
thành, và một cô đã lấy chồng. Grindhusen đã lên chức ông ngoại. Ngay sau khi
anh ta sơn xong ngôi nhà của cụ Gunhild - nó đã được sơn hai lớp - anh ta sẽ tới
nhà của ông mục sư để đào một cái giếng. Luôn luôn có loại công việc nào đó phải
thực hiện ở những ngôi làng. Khi đông tới, và sương giá bắt đầu dày lên, anh ta
sẽ đi đốn gỗ trong rừng hoặc nằm lười nhát một thời gian ngắn, cho tới khi có
việc gì khác xuất hiện. Giờ đây anh ta không phải chăm sóc một gia đình lớn, và
ngày mai, không còn ngờ gì nữa, sẽ tự chăm sóc cho nó hệt như hôm nay.
“Giá tôi có thể xoay xở được,” Grindhusen nói, “tôi biết tôi
nên làm gì. Tôi sẽ kiếm cho mình một số dụng cụ thợ nề.”
“Vậy ra anh còn là một thợ nề nữa hả?”
“Ờ, không hẳn thế, và đó là sự thật. Nhưng khi đào xong cái giếng
đó, sao chứ, nó sẽ cần có cái thành giếng, điều đó rất rõ ràng…”
Tôi thả bộ quanh đảo như thường lệ, nghĩ tới việc này việc
khác. Bình an, bình an, một sự an bình siêu việt đến với tôi bằng một giọng nói
thinh lặng từ mỗi cây cối trong rừng. Và giờ đây, bạn hãy nhìn xem, chỉ còn sót
lại vài con chim nhỏ; chỉ có vài con quạ lặng lẽ bay từ nơi này sang nơi khác rồi
đậu lại. Và những chùm quả thanh lương trà rụng xuống với một tiếng rơi thịch dỗi
hờn rồi tự chôn mình vào đám rêu.
Có lẽ Grindhusen nghĩ đúng: chắc chắn ngày mai sẽ tự chăm nom
cho nó, hệt như hôm nay. Suốt hai tuần qua tôi không nhìn thấy một tờ báo nào,
và với tất cả những điều đó, tôi vẫn ở đây, còn sống và khỏe mạnh, đang có một
bước tiến triển lớn lao về thanh tĩnh nội tâm; tôi ca hát, ưỡn ngực và đứng
quan sát những vì sao ban đêm với mái đầu trần.
Suốt mười tám năm qua tôi đã ngồi trong những quán cà phê, cất
tiếng gọi người phục vụ nếu một chiếc nĩa không được sạch: tôi chưa bao giờ gọi
Gunhild về việc những cái nĩa có sạch hay không! Giờ đã có Grindhusen, tôi tự
nhủ; cậu có chú ý không khi anh ta đốt cái tẩu của mình lên, hay cách anh ta
dùng que diêm cho tới đoạn cuối cùng nhưng chả bao giờ bị phỏng tay ra sao? Tôi
trông thấy một con ruồi bò trên bàn tay của anh ta, nhưng anh ta cứ mặc cho nó
bò; có lẽ anh ta chẳng bao giờ chú ý tới việc nó đang ở đó. Đó là cách mà một
gã đàn ông nên cảm thấy đối với những con ruồi…
Vào lúc xế chiều, Grindhusen lấy thuyền và chèo đi. Tôi đi dọc
bãi biển, hát cho mình nghe một chút, ném mấy hòn đá xuống nước, và lôi những mảnh
gỗ trôi dạt lên bờ. Những vì sao đã hiện ra, và có cả vầng trăng. Sau vài giờ
Grindhusen quay lại, với một bộ đồ nghề thợ nề xôm tụ đặt trong thuyền. Đã lấy
trộm ở đâu đó, tôi nghĩ bụng. Chúng tôi vác phần của mỗi người, và giấu mấy thứ
đồ nghề giữa những thân cây.
Sau đó đêm buông xuống, và mỗi người chúng tôi đi theo con đường
riêng biệt của mình.
Grindhusen hoàn tất công việc sơn nhà vào xế trưa hôm sau,
nhưng đồng ý tiếp tục chẻ củi cho tới sáu giờ để đủ một ngày công. Tôi đi ra chỗ
chiếc thuyền của Gunhild và chèo ra biển câu cá, để không có mặt ở đó khi anh
ta ra đi. Tôi không câu được con cá nào, và ngồi trên thuyền thì khá lạnh; tôi
cứ nhìn đồng hồ đeo tay hết lần này sang lần khác. Cuối cùng,vào khoảng bảy giờ:
hẳn giờ này anh ta đã đi rồi, tôi tự nhủ, và chèo trở về nhà. Grindhusen đã đặt
chân lên đất liền, và gọi với sang tôi từ chỗ đó: “Farvel!” [2]
Từ đó khiến tôi run lên vì ấm áp; như thể nó là một tiếng gọi
từ tuổi trẻ của tôi, từ những ngày của một thế hệ đã trôi qua.
Tôi chèo qua chỗ anh ta và hỏi:
“Anh có thể đào cái giếng đó một mình không?”
“Không, tôi sẽ phải tìm thêm một người nữa.”
“Nhận tôi đi,” tôi nói. “Hãy chờ tôi ở đây trong lúc tôi lên
đó và giải quyết công chuyện ở ngôi nhà.”
Khi đi được nửa đường, tôi lại nghe tiếng Grindhusen gọi:
“Tôi không đợi suốt đêm ở đây được. Và dù sao thì tôi cũng
không tin anh định làm điều đó.”
“Chỉ chờ một phút thôi mà. Tôi sẽ quay xuống ngay.”
Và Grindhusen ngồi xuống bãi biển chờ tôi. Anh ta biết tôi vẫn
còn sót lại một ít thứ rượu Brændevin loại nhất đó.
Chú thích:
1. Rượu mạnh.
2. Tạm biệt.
IV. Chúng tôi tới nhà ông mục sư vào một ngày Thứ bảy. Sau nhiều
ngờ vực, cuối cùng Grindhusen đã đồng ý nhận tôi làm bạn đồng hành. Tôi đã mua
các thứ cần dùng và vài bộ đồ lao động, và hiện đang đứng đó, trong chiếc áo
blu và đôi ủng cao cổ, sẵn sàng bắt tay vào việc. Tôi tự do và vô danh; tôi đã
học được cách đi với những bước sải dài, nặng nề, còn về vẻ ngoài của một người
làm công, tôi đã có sẵn điều đó ở cả gương mặt và hai bàn tay. Chúng tôi ngụ
ngay trong nhà ông mục sư, và nấu ăn trong nhà ủ bia ở ngoài sân.
Và chúng tôi khởi sự đào.
Tôi thực hiện phần việc của mình, và Grindhusen không hề lầm
lẫn khi nhận tôi làm chung. “Nói cho cùng, anh sẽ trở thành một tay thợ loại nhất
ở công việc này,” anh ta nói.
Sau khi chúng tôi đã làm việc một lúc, ông mục sư bước ra
nhìn, và chúng tôi nhấc mũ chào. Ông ta là một người trọng tuổi, lặng lẽ và lịch
sự trong thái độ và lời lẽ; những nếp nhăn li ti tỏa thành hình rẽ quạt từ hai
đuôi mắt, giống như những dấu vết của một ngàn nụ cười tử tế. Ông ta xin lỗi vì
đã cắt ngang, và hy vọng chúng tôi không phiền – nhưng họ gặp rất nhiều rắc rối
hàng năm khi lũ gà chui vào vườn. Chúng tôi có thể gác cái giếng lại một lúc,
đi vòng quanh để xem xét hàng rào của khu vườn không? Cụ thể có một chỗ…
Thế là chúng tôi tới đó và dựng lại bức rào đổ. Trong lúc
chúng tôi đang bận rộn, một tiểu thư bước ra và đứng nhìn. Chúng tôi nhã nhặn
chào nàng, và tôi nghĩ trông nàng thật là xinh xắn. Sau đó một cậu trai đang lớn
bước ra nhìn, và đưa ra mọi loại câu hỏi. Hai người này là chị em, không còn ngờ
gì nữa. Và công việc tiếp tục khá dễ dàng với hai người trẻ tuổi đứng đó nhìn.
Rồi chiều xuống. Grindhusen đi về nhà, bỏ tôi ở lại. Đêm đó
tôi ngủ trong vựa cỏ khô.
Ngày hôm sau là Chủ nhật. Tôi không dám mặc bộ quần áo thành
thị vì trông chúng có vẻ vượt khỏi địa vị của tôi, nhưng cũng cố sức làm cho bộ
quần áo lao động của tôi được tươm tất, rồi lười lĩnh dạo quanh khu vực trong sự
tĩnh lặng của buổi sáng Chủ nhật. Tôi tán gẫu với những tay nông dân và nhập bọn
với họ để chuyện trò vu vơ với mấy nàng thiếu nữ; khi chuông bắt đầu đổ báo hiệu
giờ tới nhà thờ, tôi vào nhà để hỏi xem tôi có thể mượn một cuốn kinh cầu nguyện
hay không, và con trai của ông mục sư tự tay mang tới cho tôi một cuốn. Một
trong số mấy người đàn ông cho tôi mượn một cái áo khoác; thật sự, nó không đủ
to, nhưng khi cởi cái áo blu và áo gi-lê ra, tôi cũng mặc vào được. Và thế là
tôi tới nhà thờ.
Sự thanh tĩnh nội tâm tôi từng đạt được trước những nỗi đau để
lập thân trên đảo chứng tỏ vẫn còn quá bé nhỏ; với âm thanh run rẩy đầu tiên của
chiếc đàn organ, tôi đã bị xé rời khỏi tâm trạng của mình và suýt bật khóc to.
“Im lặng nào, đồ ngốc,” tôi tự nhủ, “đây chỉ là chứng suy nhược thần kinh.” Tôi
đã chọn một chỗ ngồi tách rời khỏi số còn lại và cố hết sức che đậy cảm xúc của
mình. Tôi rất mừng khi buổi lễ kết thúc.
Sau khi đã luộc xong thịt và ăn bữa tối, tôi được mời vào bếp
để uống một cốc cà phê. Và trong lúc tôi ngồi đó, Frøkenen1, người thiếu nữ
mà tôi đã nhìn thấy hôm trước, bước vào; tôi đứng lên cúi đầu chào nàng và nàng
gật đầu đáp lễ. Nàng thật quyến rũ, với tuổi trẻ và đôi bàn tay xinh xắn. Khi đứng
lên đi ra, tôi quên mất bản thân và nói:
“Cô là người tử tế nhất, tôi chắc vậy, tiểu thư thân mến của
tôi!”
Nàng ngạc nhiên nhìn tôi, cau mày, và màu hồng lan ra trên
đôi má của nàng cho tới khi chúng đỏ ửng lên. Sau đó với một cái hất đầu, nàng
quay lưng rời khỏi phòng. Nàng rất trẻ.
Chà, tôi đã làm một việc thật hay ho!
Khốn khổ tận tâm can, tôi len lén chuồn vào rừng để nấp. Đồ
ngốc xấc xược, tại sao tôi không giữ mồm giữ miệng vậy nhỉ! Trong số tất cả những
điều lố bịch để nói ra…
Nhà của ông mục sư nằm trên sườn một ngọn đồi nhỏ; từ đỉnh đồi,
mảnh đất trải ra, bằng phẳng, với những khoảng cây rừng và khoảng trống xen
nhau. Tôi chợt nhận ra đây mới là nơi thích hợp để đào cái giếng, rồi sau đó bắc
một đường ống xuôi con dốc tới ngôi nhà. Khi tôi cố phán đoán tốt nhất độ cao,
có vẻ như nó thừa sức tạo nên áp lực cần thiết; trên đường trở về, tôi ước chừng
độ dài bằng cách đếm bước: hai trăm năm mươi bộ.
Nhưng nói cho cùng, phải chăng đó là công việc của tôi? Ôi
chao, xin đừng để cho tôi lặp lại sai lầm lần nữa, và xúc phạm những người dân
này bằng cách nói năng vượt quá địa vị của tôi.
Chú thích:
Chú thích:
[1] Thiếu nữ, tiểu thư.
V. Grindhusen lại tới vào sáng Thứ hai, và chúng tôi lao vào đào
bới như trước. Ông mục sư già bước ra nhìn, và hỏi chúng tôi có thể giúp ông dựng
một cây cột trên con đường tới nhà thờ hay chăng. Ông rất cần tới cây cột đó;
trước đây nó từng đứng đó, nhưng đã bị gió xô ngã; ông dùng nó để đóng lên những
tấm bảng ghi chú và thông báo.
Chúng tôi dựng lên một cây cột mới, và gắng sức làm cho nó đứng
thẳng như một cây nến trên giá nến. Tiện tay, chúng tôi cũng trùm kẽm lên
đầu cột.
Trong lúc đang làm cái mũ trùm, tôi bảo Grindhusen đề nghị
nên sơn đỏ cây cột; anh ta vẫn còn lại chút ít sơn đỏ từ công việc ở nhà cụ
Gunhild. Nhưng ông mục sư muốn sơn nó màu trắng, và Grindhusen ngại việc cự cãi
nên thận trọng đồng ý với tất cả những gì ông ta nói, cho tới khi rốt cuộc tôi
xen vào một lời, bảo rằng những bảng thông báo bằng giấy trắng sẽ nổi bật hơn
trên màu đỏ. Khi nghe nói thế, ông mục sư mỉm cười, với những nếp nhăn vô tận
quanh đôi mắt, và bảo: “Phải, phải, dĩ nhiên, anh hoàn toàn đúng.”
Và thế là đủ; chỉ cần nụ cười và câu nói rằng tôi đúng đã khiến
lòng tôi rất đỗi mừng rỡ, tự hào.
Sau đó Frokenen xuất hiện, nói vài lời với
Grindhusen; thậm chí còn nói đùa với anh ta, hỏi cái cột đỏ thắm dựng trên đường
đó để làm gì. Nhưng nàng không nói gì với tôi hết, thậm chí không thèm nhìn tới
tôi khi tôi nhấc mũ.
Ngày hôm đó, bữa ăn là một thử thách đau đớn đối với tôi,
không phải vì thức ăn tệ, mà vì Grindhusen, anh ta ăn món xúp với một cung cách
đáng tởm, và mồm anh ta bóng nhờn mỡ.
“Anh ta sẽ như thế nào khi ăn cháo đặc nhỉ?” Tôi nghĩ thầm, bực
bội.
Sau đó, khi anh ta ngã lưng vào chiếc ghế dài để nghỉ ngơi
sau bữa ăn với cùng tình trạng mồm bóng mỡ đó, tôi nói thẳng với anh ta:
- Trời ơi, anh bạn, anh có chịu lau sạch miệng của anh không
vậy?
Anh ta nhìn tôi chằm chặp, đưa một bàn tay lên lau miệng.
“Miệng hả” anh ta nói.
Khi đó tôi cố biến nó thành một câu nói đùa và nói: “Haha,
đúng đó!” Nhưng tôi bất mãn với chính mình, vì tất cả những điều đó, và rời khỏi
nhà ủ bia ngay sau đó.
Rồi tôi chợt nghĩ tới Frokenen. “Mình sẽ làm cho nàng phải
trả lời khi mình chào nàng.” Tôi tự nhủ. “Mình sẽ để cho nàng sớm nhận ra mình
không hề là một tên ngu ngốc.” Còn có công việc về cái giếng và đường ống nước;
nếu tôi lập ra một kế hoạch để hoàn thành toàn bộ công trình thì sao nhỉ! Tôi
không có dụng cụ để đo độ cao thấp của ngọn đồi… được thôi, tôi có thể tạo ra một
thứ hữu dụng. Và tôi bắt tay vào việc. Một cái ống bằng gỗ, với hai cái chụp
đèn gắn vào bằng mát tít, và tất cả chứa đầy nước.
Chẳng bao lâu tôi phát hiện ra có nhiều việc nho nhỏ cần để mắt
tới ở nhà ông mục sư - những công việc vặt vãnh ở chỗ này chỗ khác. Một bậc thềm
đá cần chỉnh cho thẳng lại, một bức tường cần được sửa; cái cầu thang bắc tới
kho chứa thóc cần được kéo dài trước khi có thể đưa thóc vào. Ông mục sư thích
mọi thứ trong nhà đều ngăn nắp và trật tự - và với chúng tôi tất cả cũng như
nhau, khi xét tới việc chúng tôi được trả công theo ngày. Nhưng theo thời gian,
tôi ngày càng trở nên mất kiên nhẫn với sự có mặt của người bạn làm
chung. Ví dụ, việc nhìn thấy anh ta nhặt một ổ bánh từ bàn lên, kê nó sát vào
ngực, rồi cắt ra một lát với một con dao bỏ túi bóng mỡ mà anh ta luôn luôn đưa
vào miệng, thật là một cực hình đối với tôi. Và thêm nữa, anh ta thường không tắm
rửa suốt cả tuần, từ Chủ nhật này sang Chủ nhật khác. Vào buổi sáng, trước khi
mặt trời ló dạng, và vào buổi chiều tối, sau khi nó đã lặn, luôn luôn có một giọt
lấp lánh treo lủng lẳng ở chóp mũi của anh ta. Rồi tới những cái móng tay của
anh ta! Còn về đôi lỗ tai của anh ta, đơn giản là chúng đã biến dạng.
Ôi chao! Tôi là một gã nhà giàu mới phất đã học được những
cung cách tốt đẹp trong những quán cà phê thị trấn. Và do tôi không thể kềm chế
được việc thỉnh thoảng nói với người bạn của tôi những gì tôi nghĩ về cung cách
bẩn thỉu của anh ta, giữa chúng tôi đã nảy sinh một cảm giác khó chịu nhất định,
và tôi sợ rằng chúng tôi sẽ sớm phải tách rời nhau. Do vậy, hầu như giờ đây
chúng tôi không nói năng gì ngoài những điều cần thiết.
Và cái giếng còn đó, vẫn chưa đào xong như trước. Chủ nhật đến,
và Grindhusen đã trở về nhà.
Hiện giờ tôi đã làm xong cái dụng cụ thí nghiệm của mình. Vào
buổi xế trưa, tôi trèo lên mái nhà chính và đặt nó ở đó. Tôi nhìn thấy ngay rằng
tầm nhìn cắt với sườn đồi nhiều mét bên trên đỉnh mái nhà. Tốt. Ngay cả khi hạ
mực nước xuống một mét, vẫn còn đủ và thừa áp lực.
Trong lúc tôi bận bịu trên đó, con trai của ông mục sư nhìn
thấy tôi. Cậu ta tên là Harald Meltzer. Và tôi đang làm gì trên đó? Đang đo ngọn
đồi; để làm gì? Tôi muốn biết độ cao để làm gì? Tôi có thể cho cậu ta thử
không?
Sau đó tôi tìm ra một khúc dây dài mười mét, và đo ngọn đồi từ
chân tới đỉnh, với sự giúp đỡ của Harald Meltzer. Khi chúng tôi trở xuống nhà,
tôi đề nghị được gặp ông mục sư, và nói với ông về kế hoạch của tôi.
VI. Ông mục sư nhẫn nại lắng nghe, và không phản đối ý tưởng đó
ngay.
“Thật thế!” ông nói với một nụ cười. “Sao, có lẽ anh nói
đúng. Nhưng việc nầy sẽ tốn bộn tiền. Vì sao chúng ta phải chuốc lấy phiền toái
vì nó chứ?”
“Từ nhà tới cái giếng mà chúng tôi đã đào là bảy mươi bước.
Các cô gái phải đi bảy mươi bước qua bùn lầy và tuyết các thứ trong mùa hè và
mùa đông.”
“Điều đó đúng, vâng. Nhưng cái cách kia sẽ tiêu tốn một món
tiền kinh khủng.”
“Không kể tới cái giếng – trong bất cứ trường hợp nào ông
cũng phải có nó; toàn bộ việc lắp đặt, công làm và vật liệu, sẽ không hơn hai
trăm Kroner,” tôi nói.
Ông mục sư có vẻ ngạc nhiên.
“Tất cả chỉ thế thôi sao?”
“Vâng.”
Tôi chờ một lát mỗi lần trước khi trả lời, như thể tôi có bản
tính chậm chạp bẩm sinh. Nhưng thật ra tôi đã nghĩ tới mọi việc trước đó rồi.
“Nó sẽ rất thuận tiện, điều đó đúng,” ông mục sư trầm ngâm
nói. “Và cái chậu nước trong bếp khá choán chỗ.”
“Và nó còn đưa nước tới các phòng ngủ nữa.”
“Tất cả các phòng ngủ đều ở tầng trên. Tôi e là nó sẽ không
có tác dụng ở đó.
“Chúng ta có thể đưa các đường ống lên tầng một.”
“Anh nghĩ là có thể sao? Lên tới các phòng ngủ? Anh nghĩ là
có đủ áp lực cho việc đó hả?”
Tới đây tôi chờ lâu hơn bình thường trước khi trả lời, như một
gã lừ đừ chậm nghĩ, không thực hiện mọi việc một cách khinh suất.
“Tôi nghĩ tôi có thể trả lời với chiều cao của mái nhà,” tôi
nói.
“Thật thế!” ông mục sư cảm thán. Và lại nói: “Đi và chỉ cho
chúng tôi xem nơi anh nghĩ sẽ đào cái giếng.”
Chúng tôi đi lên đồi, ông mục sư, tôi, Harald, và tôi cho ông
ta xem công cụ của tôi, chỉ cho ông ta thấy rằng sẽ có thừa áp lực.
“Tôi phải bàn với cậu kia về việc này,” ông nói.
Nhưng tôi gạt Grindhusen ra ngay lập tức, và bảo: “Grindhusen
hả? Anh ta không biết gì về công việc này cả.”
Ông mục sư nhìn tôi.
“Thật thế ư?”
Sau đó chúng tôi đi xuống, ông mục sư như tự nói với mình:
“Hoàn toàn đúng, phải. Lấy nước vào mùa đông là một công việc
vô tận. Và cả mùa hè nữa, về vấn đề đó. Tôi phải xem mấy người phụ nữ nghĩ thế
nào về việc này.”
Và ông ta đi vào nhà.
Sau khoảng mười phút, tôi được gọi đi vòng ra mấy bậc thềm
trước nhà; lúc này toàn bộ gia đình đang ở đó.
“Vậy ra anh là người sắp đưa nước vào nhà?” Fruen1 nhã
nhặn nói.
Tôi nhấc mũ ra và cúi chào với một cung cách lừ đừ, nặng nề,
và ông mục sư thay tôi đáp: phải, chính là người này.
Frøkenen liếc nhìn tôi với vẻ tò mò, rồi bắt đầu nói thì
thầm với cậu em trai. Fruen tiếp tục với nhiều câu hỏi – nó có thật sự
là một nguồn cung cấp nước như người ta có trong thị trấn, chỉ cần mở vòi nước
và đã có sẵn nước? Cả cho các tầng trên? Hai trăm Kroner? “Thật sự, tôi nghĩ
ông nên đồng ý,” bà nói với ông chồng.
“Bà nghĩ thế à? Được, chúng ta hãy đi lên đỉnh đồi, bàn tính
mọi điều xem sao.”
Chúng tôi đi lên đồi, tôi dựng cái máy đo lên và để cho họ
nhìn qua.
“Tuyệt diệu!” Fruen nói.
Nhưng Frøkenen không hề nói lời nào.
Ông mục sư hỏi:
“Nhưng anh có chắc là ở đây có nước không?”
Tôi thận trọng trả lời, như một người có phán xét tỉnh táo, rằng
đó không phải là một điều có thể đoan chắc trước, nhưng có mọi dấu hiệu của nước.
“Những dấu hiệu nào vậy?” Fruen hỏi.
“Bản chất của đất. Và bà sẽ nhận ra rằng có liễu và liễu gai
mọc quanh đây. Và chúng thích đất ẩm.”
Ông mục sư gật đầu và bảo:
“Anh ta biết công việc của mình, Marie, bà có thể thấy.”
Trên đường trở về, Fruen đi xa tới mức đưa ra một
lý luận hoàn toàn không có gì bảo đảm rằng bà có thể xoay xở để giảm bớt một
người hầu khi nước đã được dẫn vào nhà. Để không làm bà thất vọng, tôi xen vào:
“Ít nhất bà có thể vào mùa hè. Bà có thể tưới cả khu vườn với
một cái ống gắn vào vòi và đưa ra ngoài qua cửa sổ tầng hầm.”
“Tuyệt diệu!” bà cảm thán.
Nhưng tôi không mạo hiểm tới mức nói về việc đưa một đường ống
vào chuồng bò. Tôi đã nhận ra rằng với một cái giếng có kích thước gấp đôi, một
đường ống phụ băng ngang qua sân, có thể tiết kiệm số người giúp việc vắt sữa
ngang với số người giúp việc bếp núc trong nhà. Nhưng điều đó sẽ cũng sẽ
tăng gần gấp đôi chi phí. Không, việc đưa ra một dự án lớn như thế không khôn
ngoan tí nào.
Dù sao đi nữa, tôi phải đồng ý chờ cho tới khi Grindhusen trở
lại. Ông mục sư bảo ông muốn cân nhắc kỹ.
--------------------------------------------------
[1] Phu nhân.
VII
Thế nên giờ đây tôi phải tự mình nói với Grindhusen, và chuẩn
bị tinh thần cho anh ta trước sự sắp xếp mới. Và để anh ta không hướng sự ngờ vực
vào tôi, tôi đổ mọi thứ cho ông mục sư, bảo rằng đó là ý tưởng của ông ta,
nhưng tôi cũng ủng hộ ông ta. Grindhusen không phản đối; anh ta nhận ra ngay điều
đó có nghĩa là chúng tôi có thêm việc làm, vì trong bất cứ trường hợp nào chúng
tôi cũng phải đào giếng, ngoài ra còn những mương đặt đường ống nữa.
May làm sao, vào sáng Thứ hai ông mục sư bước ra và nói nửa đùa
nửa thật với Grindhusen:
“Người bạn của anh đây và tôi đã quyết định sẽ đào giếng trên
đồi, và đưa một đường ống tới nhà. Anh nghĩ sao về việc đó? Một ý tưởng điên rồ?”
Nhưng khi chúng tôi bàn bạc và cả ba người cùng đi lên để xem
vị trí đào giếng, Grindhusen bắt đầu nghi ngờ tôi dính dáng tới việc này nhiều
hơn mức tôi nói. Chúng tôi nên hạ thấp đường ống, anh ta nói, khi xét tới sương
giá…
“Một mét ba mươi là khá rồi,” tôi nói.
…. và điều đó sẽ tốn một món tiền to.
“Bạn anh đây đã nói tất cả chỉ tốn hai trăm Kroner,” ông mục
sư trả lời.
Grindhusen không biết gì về việc ước đoán, và chỉ có thể nói:
“Tốt, tốt, dù sao thì hai trăm Kroner là một khoản tiền lớn.”
Tôi nói:
“Ở Aabot sẽ ít hơn nhiều khi ông dời đi.”
Ông mục sư kinh ngạc nhìn tôi.
“Aabot? Nhưng tôi đâu có nghĩ tới việc rời khỏi nơi này,” ông
ta nói.
“Sao, vậy thì ông sẽ sử dụng nó hết công suất. Và có thể ông
sẽ tận hưởng nó trong suốt nhiều năm,” tôi nói.
Tới đây ông mục sư nhìn tôi chằm chặp, rồi hỏi:
“Anh tên gì vậy?”
"Knut Pedersen."
“Anh từ đâu đến?”
“Từ Nordland.”
Nhưng tôi hiểu vì sao ông ta hỏi, và quyết không nói theo
cung cách sách vở đó thêm nữa.
Dù sao, cái giếng và đường ống đã được quyết định, và chúng
tôi bắt tay vào việc…
Những ngày kế tiếp khá vui vẻ. Thoạt tiên tôi hơi lo âu về việc
chúng tôi có thể tìm ra nước ở trên đồi hay không, và tôi ngủ không ngon giấc
trong vài đêm. Nhưng khi nỗi e sợ đó qua đi, tất cả những gì còn lại là công việc
giản đơn, minh bạch. Có đủ nước; sau vài hôm chúng tôi phải dùng xô múc nước ra
mỗi buổi sáng. Ở dưới thấp hơn là đất sét, và chẳng bao lâu quần áo của chúng
tôi đã trở nên thảm hại vì công việc.
Chúng tôi đào một tuần, và tuần kế tiếp thu lượm đá để xây
thành giếng. Đây là công việc mà cả hai chúng tôi đã quen thuộc từ những ngày
trước ở Skreia. Sau đó, chúng tôi đào tiếp một tuần nữa, tới lúc này chúng tôi
đã đào được đủ sâu. Đáy giếng sớm mềm đi đến nỗi chúng tôi phải bắt đầu xây
thành ngay, không thì những bức tường đất sét sẽ đổ ập lên đầu chúng tôi.
Tuần lại tuần cứ thế trôi qua, với công việc đào và xây. Đó
là một cái giếng lớn, và là một công trình đẹp đẽ; ông mục sư rất hài lòng về
nó. Grindhusen và tôi bắt đầu hòa hợp với nhau hơn; và khi anh ta nhận ra tôi
không đòi hỏi gì hơn là một khoản tiền công công bằng, dù phần lớn công việc được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của tôi, anh ta mong muốn làm một điều gì đó để đền
đáp cho tôi, và lưu tâm hơn tới cách xử sự ở bàn ăn của mình. Tôi hoàn toàn
không thể ước ao có được một khoảng thời gian hạnh phúc hơn; và chẳng có thứ gì
trên đời có thể thuyết phục tôi quay lại cuộc sống thị trấn thêm lần nữa!
Vào những chiều tối, tôi đi lang thang trong rừng, hay trong
khu nghĩa trang, đọc những câu khắc trên các mộ bia, suy nghĩ tới chuyện này
chuyện khác. Tôi cũng tìm kiếm một cái móng tay từ một cái xác nào đó. Tôi muốn
có một cái móng tay; đó là một ham thích của tôi, một ý thích bất chợt nhỏ
nhoi. Tôi đã tìm được một mẩu rễ bạch dương xinh xắn mà tôi muốn chạm thành một
cái tẩu với hình dáng một nắm tay nắm chặt; ngón cái sẽ là cái nắp, và tôi muốn
có một cái móng tay để dán vào, làm cho nó đặc biệt giống như thật. Ngón đeo nhẫn
sẽ có một chiếc nhẫn nhỏ xíu vòng quanh.
Việc suy nghĩ về những chuyện vặt vãnh như thế khiến tâm trí
tôi bình thản và thoải mái. Giờ đây tôi không còn vội vã với bất kỳ điều gì
trong cuộc sống. Tôi có thể mộng mơ tùy thích, không có gì khác để làm; những
chiều tối là của riêng tôi. Nếu có thể, tôi cũng sẽ tới xem và bày tỏ một cảm
giác tôn kính nào đó đối với sự thiêng liêng của nhà thờ và sự kinh khủng của
cái chết; tôi vẫn còn một ký ức về sự thần bí từ những ngày mà giờ đây đã tụt lại
sau lưng rất xa, và ước gì tôi có thể có chút phần chia sẻ nào trong đó thêm lần
nữa. Có lẽ khi tôi tìm được cái móng tay đó, từ những ngôi mộ sẽ phát ra một giọng
nói: “Đó là của tôi!” và tôi sẽ buông rơi cái móng tay trong niềm khiếp hãi, rồi
co giò bỏ chạy.
“Tôi ước gì cái chong chóng trên kia đừng có kêu cọt kẹt như
thế,” thỉnh thoảng Gridnhusen lại nói.
“Anh sợ à?”
“Ồ, không hẳn là sợ; không. Nhưng đôi khi nó mang tới cho anh
một cảm giác ghê ghê khi nghĩ tới tất cả những cái xác đang nằm đó rất gần.”
Con người hạnh phúc!
Một hôm Harald chỉ tôi cách trồng quả thông và những bụi cây
nhỏ. Trước kia tôi không biết tới loại công việc này; hồi còn đi học chúng tôi
không học thứ này. Nhưng giờ khi đã thấy cách làm, tôi bận bịu trồng cây vào những
ngày Chủ nhật; và để đáp lại, tôi dạy cho Harald một hai thứ nho nhỏ mới mẻ đối
với lứa tuổi của cậu ta, và chúng tôi trở thành bạn bè.
VIII
Mọi thứ hẳn sẽ tốt đẹp nếu không vì Frøkenen, cô con gái
trong nhà. Càng ngày tôi càng ưa thích nàng hơn. Tên của nàng là Elischeba,
Elisabeth. Có lẽ không đẹp sắc sảo; nhưng nàng có đôi môi đỏ thắm, và một ánh mắt
thiếu nữ biếc xanh buộc người ta phải nhìn thấy vẻ đẹp của nàng. Elischeba,
Elisabeth – con của bình minh đầu tiên của cuộc đời, với đôi mắt nhìn xuống cõi
trần. Một chiều nọ nàng nói chuyện với chàng trai Erik đến từ Gaard (khu
vườn) lân cận, và đôi mắt nàng tràn ngập sự ngọt ngào và một thứ gì đó chín muồi.
Với Grindhusen thì mọi việc đều tốt đẹp. Anh ta đã săn lùng
các cô gái hồi còn trẻ, và vẫn còn lượn lờ với cái mũ kéo lệch sang một bên, do
thói quen. Nhưng giờ đây anh ta khá lặng lẽ và thuần tính, có thể nói thế – đó
là cung cách của tự nhiên. Nhưng có một số người không theo cung cách tự nhiên
và trở nên thuần tính; và rốt cuộc làm sao nó thích hợp với họ? Rồi còn có
Elisabeth bé bỏng; và nàng không hề bé nhỏ chút nào, mà cao như mẹ nàng. Và
nàng giống mẹ nàng như đúc.
Từ hôm Chủ nhật đầu tiên đó, họ không còn mời tôi vào bếp uống
cà phê, và tôi tự lo cho mình nếu họ không quan tâm, nhưng tránh xa họ. Tôi vẫn
còn xấu hổ khi nhớ lại. Nhưng rồi, cuối cùng, vào giữa tuần, một trong các cô hầu
tới với một tin nhắn rằng tôi đừng bỏ vào rừng mỗi chiều Chủ nhật nữa, mà hãy tới
uống cà phê với những người còn lại. Chính Fruen đã nói thế.
Tốt!
Bây giờ tôi có nên mặc bộ đồ đẹp nhất hay không? Không có hại
gì, có lẽ, trong việc để cho nàng thiếu nữ đó nhận ra rằng tôi là một kẻ đã chọn
cách quay lưng khỏi cuộc sống thành đô, khoác lớp áo ngụy trang của một người
giúp việc, vì tôi là một người trong số họ, có thể đưa nước vào một ngôi nhà.
Nhưng khi đã mặc đồ xong, tôi cảm thấy bộ quần áo lao động của tôi giờ thích hợp
với tôi hơn; tôi lại cởi bộ đồ đẹp nhất ra, và cẩn thận giấu chúng trong giỏ
xách.
Nhưng, như chuyện đã xảy ra, Frøkenen không phải là
người tiếp đón tôi vào chiều Chủ nhật đó, mà là Fruen. Bà trò chuyện với
tôi một lúc, và đã trải một mảnh vải trắng bên dưới cốc của tôi.
“Cái kiểu ăn trứng của anh có khả năng khiến chúng tôi phải
tiêu tốn thêm trước khi chúng tôi ăn xong,” Fruen nói với tiếng cười
nhân hậu. “Thằng bé đã ăn hết nửa chục trứng rồi.”
Tôi đã dạy Harald cách tuồn một quả trứng đã luộc chín còn vỏ
qua cổ một cái bình thon cổ, bằng cách rút bớt không khí bên trong. Đó là thí
nghiệm vật lý duy nhất mà tôi biết.
“Nhưng cái cách bẻ gãy chiếc que trong hai thòng lọng giấy
thì thật sự thú vị,” Fruen nói tiếp.
“Bản thân tôi không hiểu loại đó… Nhưng khi nào thì cái giếng
hoàn thành?”
“Cái giếng đã xong. Mai chúng tôi bắt đầu đào mương.”
“Việc đó mất bao lâu?”
“Khoảng một tuần. Rồi người thợ có thể tới và đặt các đường ống.”
“Không! Thật thế sao?”
Tôi nói lời cám ơn rồi bước ra. Fruen có một cách
thức mà bà đã duy trì từ nhiều năm trước, không còn ngờ gì nữa; thi thoảng bà lại
liếc mắt sang một phía, dù không có chút ranh mãnh nào trong những gì bà nói…
Lúc này cánh rừng phô bày một lớp lá vàng ở nơi này nơi khác,
mặt đất và không khí bắt đầu tỏa mùi của mùa thu. Hiện chỉ có những cây nấm
đang phát triển tối đa, lú lên ở khắp nơi, và nảy nở dày đặc xum xuê trên những
nhánh gỗ – nấm sữa, và loại nấm thường, và nấm nâu. Đó đây, một cây nấm độc
vươn cao cái mũ nấm lốm đốm, khoe màu đỏ rực một cách không xấu hổ. Một sự vật
kỳ diệu! Ở đây nó mọc trên cùng một chỗ với các loại nấm không độc, được bồi bổ
bởi cùng loại đất, ánh mặt trời và mưa xuống từ trời như chúng; nó bổ dưỡng và
đậm đà, ăn ngon, chỉ trừ việc nó đầy chất muscarin độc hại. Có lần tôi đã nghĩ
tới việc bịa ra một câu chuyện cổ hay ho về loài nấm độc, và bảo rằng tôi đã đọc
được trong một cuốn sách.
Với tôi, luôn là một lạc thú khi ngắm nhìn những loài hoa và
côn trùng trong cuộc đấu tranh sinh tồn của chúng. Khi mặt trời nóng lên chúng
sẽ quay lại với sự sống, và tận hưởng trong khoảng một giờ niềm hân hoan cũ; những
con ruồi to, mạnh mẽ cũng linh hoạt không kém gì lúc giữa mùa hạ. Ở đây có một
loại rệp đất mà tôi chưa từng thấy trước đó - những con vật nhỏ bé màu vàng,
không to hơn một dấu phẩy cỡ nhỏ, thế nhưng chúng có thể nhảy một khoảng cách gấp
nhiều ngàn lần chiều dài của chúng. Hãy nghĩ tới sức mạnh của một cơ thể trong
tỷ lệ kích thước của nó! Có một loài nhện tí hon với bộ phận cản trở giống như
một chiếc giáo màu vàng nhạt. Và chiếc giáo nặng tới mức con vật phải trèo ngược
đầu lên một cọng cỏ. Và khi gặp một vật chướng ngại mà chiếc giáo không thể vượt
qua, nó chỉ đơn giản buông mình thẳng xuống và bắt đầu một cuộc leo trèo khác.
Một con nhện - giáo như thế không chỉ là một con nhện mà thôi đâu. Nếu tôi chìa một
chiếc lá về phía nó để giúp nó đặt chân lên một cái nền, nó dọ dẫm một lúc trên
chiếc lá, và tự nhủ: “Hừm, có gì đó không ổn ở việc này!” và lui trở lại, từ chối
bị mắc bẫy trên một cái nền với bất cứ giá nào…
Từ mé dưới khu rừng có ai đó gọi tên tôi. Đó là Harald; cậu
ta đã bắt đầu một buổi dạy học ngày Chủ nhật với tôi. Cậu ta cho tôi học một
bài học trích từ Pontoppidan1, và lúc này cậu ta đang nghe tôi đọc. Thật xúc động
khi giờ đây được dạy về tôn giáo khi lẽ ra tôi phải tự học hồi còn bé.
Chú thích:
[1] Erik Pontoppidan là một tác giả Đan Mạch, giám mục, sử gia kiêm nhà khảo cổ, (1698 - 1764).
IX. Cái giếng đã hoàn thành, mương đã đào xong, và người thợ đã tới
để đặt những đường ống. Anh ta chọn Grindhusen giúp mình làm việc, và tôi được
cắt cử mở một con đường cho những đường ống chạy lên từ tầng hầm qua hai tầng của
ngôi nhà.
Một hôm Fruen đi xuống khi tôi đang bận rộn trong tầng
hầm. Tôi cất tiếng gọi bà để nhắc bà để ý tới cái hố trên sàn nhà, nhưng bà tỏ
ra rất bình thản.
“Giờ thì chưa có cái hố nào ở đó, phải không?” bà hỏi, chỉ
sang một phía. ‘Hay ở đó?” Nhưng rốt cuộc bà vẫn bị vấp, và trượt vào cái hố
tôi đang đứng. Và chúng tôi đứng đó. Dù sao thì ở đó không được sáng; và với
bà, vừa đi vào từ ánh sáng phía ngoài, hẳn nó phải tối đen. Bà sờ soạng cạnh hố
và bảo:
“Làm sao tôi trở lên lại đây?”
Tôi nhấc bà lên. Chuyện này không có gì đáng nói; bà có một
thân hình mảnh khảnh, dù đã có một cô con gái lớn.
“Chà, tôi phải nói là…” Bà đứng lên, phủi đất ra khỏi chiếc
váy. “Một, hai, ba, và lên – gọn gàng hết sức…. Nghe này, tôi muốn anh giúp tôi
vài việc trên gác hôm nào đó, được không? Tôi muốn dời một số đồ đạc. Chỉ có điều
chúng ta phải đợi tới hôm chồng tôi làm xong phần chái; ông ấy không thích việc
tôi di chuyển các thứ. Bao lâu nữa anh mới làm xong mọi thứ ở đó để làm tại
đây?”
Tôi nói ra một thời gian, một tuần hay khoảng đó.
“Rồi anh sẽ đi đâu?”
“Tới nông trại gần đây. Grindhusen đã xác định chúng tôi sẽ tới
đào khoai ở đó…”
Sau đó là công việc trong bếp; tôi phải cưa xuyên qua sàn nhà
ở đó. Tiểu thư Elisabeth vào bếp một hai lần trong lúc tôi đang ở đó; hầu như
không thể làm khác được khi xét tới việc đây là nhà bếp. Và dù không ưa tôi,
nàng cố nói một đôi từ, và đứng nhìn tôi làm việc một lúc.
“Cứ tưởng tượng, Oline ạ,” nàng nói với người giúp việc, “khi
mọi thứ xong xuôi, và bà chỉ cần mở một cái vòi nước.”
Nhưng Oline, đã già, trông không có gì vui vẻ. Việc đưa nước
qua một cái ống thẳng vào nhà giống như chống lại Đấng Toàn năng, bà nói. Bà đã
xách tất cả số nước bà cần trong suốt hai mươi năm qua, giờ bà sẽ làm gì?
“Nghỉ ngơi,” tôi nói.
“Nghỉ ngơi, đúng thật là! Chúng ta được tạo ra để làm việc.
Tôi chọn công việc chứ không phải nghỉ ngơi.”
“Và may vá các thứ để chống lại thời gian bà có chồng,” Froken Elisabeth
nói, với một nụ cười.
Đó chỉ là cách nói của con gái, nhưng tôi biết ơn nàng về việc
tham gia một phần nhỏ trong cuộc chuyện trò và ở đó một lúc. Và lạy Trời, tôi
đã cố cư xử nói năng một cách thông minh và hợp lý, cố thu hút sự chú ý như một
cậu con trai. Tôi vẫn còn nhớ. Rồi đột nhiên dường như Frøken Elisabeth
nhớ ra việc ở đây với chúng tôi lâu hơn là không thích hợp, vì thế nàng đi.
Chiều hôm đó tôi ra nghĩa trang, như từng làm trước đó nhiều
lần, nhưng khi nhìn thấy Frokenen đã có mặt ở đó, tôi quay đi, bước
vào rừng. Sau đó tôi nghĩ: chắc chắn giờ đây nàng sẽ cảm động vì sự khiêm tốn của
tôi, và nghĩ: anh chàng tội nghiệp, anh ta tỏ ra thật sự thanh lịch trong việc
đó. Và điều kế tiếp, tất nhiên, là tưởng tượng rằng nàng đi theo tôi. Tôi sẽ đứng
lên từ tảng đá đang ngồi và cất tiếng chào hỏi. Khi đó nàng sẽ bối rối chút đỉnh
và nói: “Tôi chỉ đi tản bộ một chút - chiều hôm nay thật đẹp - anh đang làm gì ở
đây vậy?” “Chỉ ngồi đây thôi,” tôi đáp, với đôi mắt thơ ngây, như thể những ý
nghĩ của tôi đã biến đi đâu hết. Và khi nghe nói tôi chỉ ngồi đó trong chiều muộn,
nàng phải nhận ra rằng tôi là một gã mơ mộng và một tâm hồn có chiều sâu tiềm ẩn,
và rồi nàng sẽ yêu tôi…
Chiều hôm sau nàng lại có mặt ở nghĩa trang, và một ý nghĩ rất
tự cao tự đại đột ngột bay vào tâm trí của tôi: nàng đến là để gặp tôi! Nhưng,
khi quan sát nàng kỹ hơn, tôi thấy rằng nàng đang bận rộn làm gì đó cạnh một
ngôi mộ, vậy là nàng tới không phải vì tôi. Tôi len lén đi tới chỗ gò mối trong
rừng và quan sát những con côn trùng một lúc lâu; sau đó, tôi ngồi lắng nghe tiếng
rơi của những quả thông và những chùm quả thanh lương trà. Tôi ngâm nga một
giai điệu, huýt sáo cho mình nghe và suy nghĩ; thỉnh thoảng tôi phải đứng lên
đi một chút để làm ấm người. Nhiều giờ trôi qua, đêm buông xuống, và tôi yêu
nàng đến nỗi tôi bước đi ở đó với mái đầu trần, để lộ mọi vẻ mặt ra trước ánh
nhìn đăm đăm của những vì sao.
“Mấy giờ rồi?” Grindhusen có thể sẽ hỏi khi tôi quay về cái
kho thóc.
“Vừa hết mười một giờ,” tôi sẽ đáp, dù có thể đã là hai ba giờ
sáng.
“Chà! Và là một giờ hay ho để lên giường. Fansmagt! Đánh
thức người ta khi họ đang say giấc!”
Và Grindhusen trở người để rơi lại vào giấc ngủ trong khoảnh
khắc. Với Grindhusen thì không có gì rắc rối.
Phải, đúng là một gã đàn ông sẽ trở nên ngốc nghếch quá mức khi
yêu trong lứa tuổi chớm tàn. Và ai là người có thể chỉ ra một phương cách để
tìm được sự yên tĩnh thanh bình trong tâm trí?
X. Một người đàn ông tới vì mấy thứ đồ nghề thợ nề của mình; anh
ta muốn lấy lại chúng. Gì chứ? Vậy ra Grindhusen không lấy cắp chúng! Nhưng
Grindhusen luôn là thế: tầm thường, tối dạ, không hề xuất chúng trong bất cứ việc
gì, chưa bao giờ là một tâm hồn cao thượng.
Tôi nói:
“Anh đó, Grindhusen, ở anh chả có gì khác ngoài ăn, ngủ và
làm việc. Giờ thì một gã tới để lấy mấy thứ đồ nghề đó. Vậy là anh chỉ mượn
chúng; anh chỉ giỏi những việc đó. Tôi sẽ không trở thành anh vì bất cứ thứ
gì.”
“Đừng có ngốc thế,” Grindhusen nói.
Anh ta bị xúc phạm, nhưng tôi lại xoa dịu anh ta, như từng
làm nhiều lần trước đó, bằng cách vờ rằng tôi chỉ nói đùa.
“Giờ chúng ta sẽ làm gì?” anh ta hỏi.
“Anh sẽ xoay xở tốt thôi,” tôi đáp.
“Xoay xở, được sao?
“Phải, không thì tôi sai lầm nhiều lắm.”
Và một lần nữa Grindhusen dịu xuống.
Nhưng vào lúc nghỉ giữa trưa, khi tôi đang cắt tóc cho anh
ta, tôi lại chọc giận anh ta khi đề nghị anh ta nên gội đầu.
“Một người ở tuổi của anh nên hiểu biết hơn để đừng nói những
câu như thế,” anh ta nói.
Và có Trời biết, nhưng có thể anh ta nói đúng. Mái tóc đỏ của
anh ta vẫn dày như cũ, dù anh ta đã có cháu ngoại rồi…
Chuyện gì sắp xảy đến với cái kho thóc của chúng tôi? Có những
hồn ma quanh quất hay không? Ai đã đột ngột tới đó một ngày kia và quét dọn sạch
sẽ nơi đó, biến mọi thứ trở nên dễ chịu và ngăn nắp? Grindhusen và tôi, mỗi người
có chỗ ngủ của mình; tôi có mua hai tấm chăn, nhưng hàng đêm anh ta đi ngủ với
đầy đủ quần áo, anh ta khoác mọi thứ đó lên mình, rồi cuộn người vào đống
cỏ khô. Và lúc này hai tấm chăn của tôi nằm gọn gàng, chờ đợi toàn thế gian như
một cái giường. Tôi không phản đối việc này; chắc chắn là một trong số những
người giúp việc đã sắp xếp để dạy tôi những cách thức ngăn nắp và trật tự. Với
tôi thì không có gì khác biệt.
Giờ tôi đã sẵn sàng để bắt đầu cắt qua sàn nhà ở tầng trên,
nhưng Fruen năn nỉ tôi hãy dời việc đó qua hôm sau; chồng bà sẽ hoàn tất cái
chái, và tôi không nên làm phiền ông ta. Nhưng sáng hôm sau, chúng tôi lại phải
hoãn nó lần nữa; Frøken Elisabeth sẽ tới cửa tiệm để mua vô số thứ,
và tôi cùng đi với nàng để mang chúng.
“Tốt,” tôi nói, “tôi sẽ tiếp tục làm sau vậy.”
Cô gái lạ lùng! Phải chăng nàng đã nghĩ tới việc thôi đi
chung với tôi trên đường? nàng nói:
“Nhưng anh nghĩ anh có thể một mình tìm ra đường đi không?”
“Chắc chắn, tôi từng tới đó trước đây. Đó là nơi chúng tôi
mua sắm đồ cho mình.”
Tôi không thể băng qua cả ngôi làng trong bộ quần áo lao động
lấm lem đất sét: tôi mặc cái quần tốt nhất, nhưng khoác lên người cái áo blu. Cứ
thế tôi đi ở phía sau. Chặng đường dài khoảng hai dặm; ở phần cuối chặng đường
thỉnh thoảng tôi nhìn thấy Frøken Elisabeth ở phía trước, nhưng tôi cẩn
thận không tới gần. Có lần nàng nhìn quanh, lúc ấy tôi thu người bé lại hết mức,
và nép vào bìa rừng.
Sau khi mua sắm xong, Frøken Elisabeth ở lại sau với
vài cô bạn gái; tôi mang các thứ trở về nhà vị cha xứ, tới nơi vào khoảng giữa
trưa, và được mời vào ăn trong bếp. Ngôi nhà có vẻ vắng người. Harald đang rời
khỏi nhà, những người hầu đang vắt quần áo, chỉ có Oline bận rộn trong bếp.
Sau bữa ăn, tôi lên gác, và bắt đầu cưa trong hành lang.
“Anh tới đây giúp tôi một tay được không?” Fruen nói,
bước tới trước mặt tôi.
Chúng tôi đi qua thư phòng của chồng bà và vào phòng ngủ.
“Tôi muốn dời cái giường của tôi,” Fruen nói. “Nó
quá gần lò sưởi vào mùa đông, và tôi không chịu được sức nóng.”
Chúng tôi dời cái giường tới cửa sổ.
“Anh có nghĩ nó ở đây thì tốt hơn không? Mát hơn,” bà nói.
Và, tình chờ liếc sang bà, tôi thấy bà đang quan sát tôi với
cái nhìn nghiêng kỳ quặc đó… Phải… Trong khoảnh khắc cả người tôi tươi tỉnh,
tràn máu nóng và sự xuẩn ngốc. Tôi nghe bà nói:
“Anh điên à? - Ồ không, xin anh đấy… cánh cửa…”
Rồi tôi nghe tên tôi được thì thầm lặp đi lặp lại…
Tôi cưa qua sàn nhà trong hành lang, và hoàn tất mọi thứ. Fruen ở
đó suốt buổi. Suốt buổi, bà nôn nao nói, giải thích, cười và khóc.
Tôi nói:
“Cái bức tranh đang treo trên giường bà đó, có dời cả nó đi
hay không?”
“Vâ-âng, có lẽ nên dời,” Fruen nói.
Chương 2
XI. Giờ thì mọi đường ống đã đặt xong, các vòi nước đã được lắp;
nước bắn vào bồn với một tia mạnh mẽ. Grindhusen đã mượn những thứ đồ nghề
chúng tôi cần từ một nơi khác, nhờ thế chúng tôi có thể trám lại những còn lỗ
còn sót đây đó; thêm hai ngày nữa, chúng tôi lấp đầy con mương xuôi sườn đồi,
và công việc ở nhà ông mục sư hoàn tất. Ông rất hài lòng; ông đề nghị dán một
thông báo trên cây cột đỏ nói rằng chúng tôi là những chuyên gia về giếng, đường
ống và cấp nước, nhưng xét tới việc đã quá muộn trong năm, và sương giá có thể
rơi vào bất cứ lúc nào, điều đó chẳng ích lợi mấy cho chúng tôi. Chúng tôi xin
ông thay vì vậy nên nhớ tới chúng tôi vào mùa xuân sau.
Sau đó chúng tôi tới nông trại kế bên để đào khoai tây, hứa sẽ
ghé thăm lại nhà ông vào dịp nào đó.
Có nhiều nhân công đang làm ở nơi mới; chúng tôi chia thành
nhiều nhóm và khá là vui vẻ. Nhưng công việc này sẽ không kéo dài tới một tuần;
sau đó chúng tôi sẽ phải di chuyển tiếp.
Một chiều nọ ông mục sư ghé tới và đề nghị nhận tôi làm người
giúp việc đồng áng ở nhà ông. Đó là một đề nghị tốt đẹp, và tôi suy nghĩ về nó
một lúc, nhưng rốt cuộc từ chối. Tôi thà đi lang thang và tự làm chủ chính mình
còn hơn, làm những công việc tôi có thể tìm được đây đó, ngủ ngoài trời, tìm ra
một điều vặt vãnh để suy tư. Ở đây, trong những cánh đồng khoai tây, tôi gặp một
người tôi có thể kết bạn khi Grindhusen đã đi. Người mới này là một anh chàng
có tâm hồn giống như tôi, và từ những gì tôi đã nghe và nhìn thấy, gã là một
lao động giỏi; gã tên là Lars Falkberget, nhưng gã tự gọi mình là Falkenberg.
(Cái tên sau có một âm thanh nổi bật hơn là cái tên địa phương mộc mạc
Falkberget).
Anh chàng Erik trẻ tuổi là đốc công và giám thị phụ trách những
nhân công đào khoai, và chở khoai thu hoạch về nhà. Cậu ta là một gã trai hai
mươi đẹp mã, điềm tĩnh và khỏe mạnh ở lứa tuổi của mình, và là đứa con trai
đích thực của ngôi nhà. Không ngờ gì nữa, giữa cậu ta và Froken Elisabeth
ở nhà ông mục sư có một quan hệ nào đó, xét tới việc một hôm nọ nàng tới đó và
đứng nói chuyện với cậu ta ở giữa đồng một lúc. Khi nàng sắp đi, nàng cũng tìm
ra vài lời để nói với tôi, rằng Oline bắt đầu quen với những thiết bị ống nước
và vòi nước mới.
“Thế còn cô? tôi hỏi.
Vì lịch sự, nàng cũng trả lời câu hỏi này, nhưng tôi có thể
thấy nàng không muốn ở lại trò chuyện với tôi.
Nàng ăn mặc thật dễ thương, với một tấm áo choàng nhẹ mới
tinh rất hợp với đôi mắt xanh biếc của nàng…
Ngày hôm sau Erik gặp một sự cố; ngựa của cậu ta đã lồng lên,
lôi cậu ta ngang qua những cánh đồng và cuối cùng quẳng cậu ta vào một cái hàng
rào. Cậu ta thâm tím cả người và chảy máu dầm dề; vài giờ sau, khi hồi tỉnh lại,
cậu ta vẫn còn chảy máu. Lúc này Falkenberg được cử làm người đánh xe.
Tôi vờ đau buồn trước chuyện đã xảy ra, và đi lòng vòng, lặng
lẽ và buồn rầu như số còn lại, nhưng tôi không hề cảm thấy như thế. Thật sự,
tôi không hề hy vọng có Froken Elisabeth cho mình; tuy nhiên, tôi đã
tống khứ được kẻ được nàng ban ân huệ nhiều hơn tôi.
Chiều hôm đó tôi tới khu nghĩa trang và ngồi ở đó một lúc. Ước
gì nàng tới, tôi nghĩ bụng. Và mười lăm phút sau nàng tới. Tôi đột ngột đứng
lên, hoàn toàn theo dự tính trước, vờ như thể sẽ chuồn đi và trốn, rồi tôi dừng
lại, đứng một cách bất lực và nhượng bộ. Nhưng tới đây mọi dự định và kế hoạch
của tôi bỏ rơi tôi, và tôi hoàn toàn yếu ớt khi nàng tới gần đến thế; tôi bắt đầu
nói đôi điều.
“Erik - nghĩ tới việc đã xảy ra - và hôm qua…”
“Tôi đã biết chuyện đó,” nàng đáp.
“Cậu ta bị thương nặng.”
“Vâng, vâng, dĩ nhiên, anh ta bị thương nặng - vì sao anh nói
với tôi về anh ta?”
“Tôi đã nghĩ… Không, tôi không biết. Nhưng, dù sao, anh ta đã
khá hơn. Và chắc chắn là mọi chuyện sẽ ổn thôi.”
“Vâng, vâng…”
Tạm dừng.
Nghe như thể nàng đang chế giễu tôi. Rồi đột nhiên nàng nói với
một nụ cười:
“Anh thật là một người kỳ lạ! Cái gì xui khiến anh đi suốt chặng
đường để tới đây ngồi vào một buổi chiều vậy?”
“Chỉ là một thói quen tôi mới có gần đây. Có gì đó để làm cho
tới giờ ngủ.”
“Vậy anh không sợ à?”
Giọng đùa cợt của nàng mang tới cho tôi can đảm; tôi cảm thấy
mình đang đứng trên một mảnh đất chắc chắn hơn, và đáp:
“Không, đó chính là vấn đề. Tôi muốn học cách rùng mình ớn lạnh.”
“Học cách rùng mình ớn lạnh? Như cậu bé trong chuyện cổ tích.
Tôi tự hỏi anh đọc chuyện đó ở đâu?”
“Tôi không biết. Trong cuốn sách nào đó, tôi cho là vậy.”
Tạm dừng.
“Vì sao anh không tới làm việc cho chúng tôi khi Cha đề nghị
anh?”
“Tôi không giỏi làm công chuyện đó. Tôi sẽ lên đường với một
người khác.”
“Anh đi đường nào?”
“Tôi không thể nói. Đông hoặc Tây. Chúng tôi chỉ là những gã
lang thang.”
Tạm dừng.
“Tôi xin lỗi,” nàng nói. “Ý tôi là, tôi không nghĩ anh khôn
ngoan… Nhưng có phải đó là điều anh đã nói về Erik? Tôi chỉ tới để hỏi thăm về
anh ta…”
“Giờ thì cậu ta hơi tệ, nhưng ổn.”
“Bác sĩ có nghĩ là anh ta sẽ khá hơn?”
“Vâng, trong chừng mực tôi biết. Tôi không nghe thấy gì
khác.”
“Vâng - chúc ngủ ngon.”
Ôi, trẻ trung, giàu có và đẹp mã, nổi tiếng và hiểu biết các
ngành khoa học!... Nàng bỏ đi…
Trước khi rời nghĩa trang tôi tìm được một cái móng của ngón
tay cái và bỏ nó vào túi. Tôi chờ một lát, nhìn phía này phía khác, và lắng
nghe, nhưng mọi thứ vẫn im lìm. Không có giọng nói nào bảo rằng, “Cái móng tay
đó của tôi!”
XII. Falkenberg và tôi bước ra ngoài. Đang là chiều tối; không khí
mát, bầu trời cao tít với những vì sao đang tỏa sáng. Tôi thuyết phục gã đi
theo đường vòng qua khu nghĩa trang; trong tình trạng xuẩn ngốc của mình, tôi
muốn đi con đường đó, để xem có ánh sáng trong ô cửa sổ nhỏ ở dưới nhà của ông
mục sư hay không. Ôi, trẻ trung, giàu có và…
Chúng tôi đi vài giờ, không mang vác gì nặng, ngoài ra, chúng
tôi là hai kẻ lang thang vẫn còn khá xa lạ với nhau, vì thế chúng tôi chỉ nói rất
ít. Chúng tôi đi ngang qua thương trạm đầu tiên, rồi tới một thương trạm khác;
chúng tôi có thể nhìn thấy cái tháp của chái nhà thờ trong ánh chiều hôm.
Hoàn toàn theo thói quen, tôi cũng muốn đi vào khu nghĩa
trang ở đây. Tôi nói:
“Anh nghĩ sao? Chúng ta có thể tìm được một nơi ở đây để nghỉ
đêm?”
“Chả có nghĩa lý gì trong việc đó,” Falkenberg nói, “khi có cỏ
khô trong mọi cái vựa cỏ dọc theo đường. Và nếu chúng ta ngủ, sẽ có chỗ trú
trong rừng.”
Và chúng tôi tiếp đi, Falkenberg dẫn đầu.
Gã khoảng trên ba mươi. Cao và vạm vỡ, nhưng hơi gù lưng; bộ
ria dài vòng xuống mép. Gã ít lời, nhanh nhạy và tử tế; gã cũng có một giọng
hát tuyệt vời; một dạng hoàn toàn khác với Grindhusen về mọi mặt. Và khi nói,
gã dùng những từ lạ lùng xuất phát từ những thổ ngữ khác nhau, với đôi chút tiếng
Thụy Điển ở câu này câu khác; không ai có thể nói gã đến từ vùng nào.
Chúng tôi tới một trang trại, lũ chó sủa rân, và người trong
trại vẫn còn đi lại.
Falkenberg yêu cầu được gặp chủ trại. Một người đàn ông bước ra.
Falkenberg yêu cầu được gặp chủ trại. Một người đàn ông bước ra.
Anh ta có công việc gì cho chúng tôi không?
Không.
Nhưng cái hàng rào dọc đường đã đổ hết rồi, chúng tôi sửa nó
được không?
Không. Bản thân anh ta cũng không có việc gì khác để làm vào
thời điểm này trong năm.
Họ có thể cho chúng tôi trú đêm không?
Rất tiếc, nhưng..
Cả trong vựa cỏ cũng không?
“Đồ đáng ghét,” Falkenberg lầm bầm trong lúc chúng tôi bỏ đi.
Chúng tôi đi qua một khu rừng nhỏ, tìm một chỗ khả dĩ để ngủ.
“Giả sử chúng ta quay lại nông trại gặp những cô gái trong vựa
cỏ? Có khả năng họ sẽ không từ chối chúng ta.”
Falkenberg suy nghĩ giây lát.
“Lũ chó sẽ làm ồn lên.”
Chúng tôi bước ra một cánh đồng nơi hai con ngựa đang được thả
rong. Một con có đeo lục lạc trên cổ.
“Cái gã này tệ thật,” Falkenberg, “ngựa của anh ta vẫn
còn ở ngoài và các phụ nữ của anh ta vẫn đang ngủ trong vựa cỏ. Sẽ là một việc
tốt cho hai con vật nếu cưỡi chúng một lúc.”
Gã tóm lấy con ngựa đeo lục lạc, nhét cỏ và rêu vào cái lục lạc,
và phóng lên lưng nó. Con ngựa của tôi khá nhút nhát, và tôi phải vất vả lắm mới
tóm được nó.
Chúng tôi cưỡi ngựa ngang qua đồng, tìm được một cánh cổng,
và tiến ra đường cái. Mỗi chúng tôi có một tấm chăn để lót. Nhưng không ai có một
sợi dây cương.
Dù sao, chúng tôi xoay xở khá ổn, xoay xở cực kỳ tốt; chúng
tôi phi gần năm dặm, tới một ngôi làng khác. Đột nhiên chúng tôi nghe thấy ai
đó ở phía trước con đường.
“Tốt hơn nên phi nước đại,” Falkenberg ngoảnh đầu nói, “Tiến
lên nào.”
Nhưng với đôi chân của mình, Falkenberg không phải là một kỵ
sĩ kỳ tài; đầu tiên gã bám vào cái lục lạc, rồi tuột về trước và treo lủng lẳng
với cả hai tay vòng quanh cổ con ngựa. Tôi trông thấy một trong đôi chân của gã
chĩa lên trời khi gã té xuống.
May thay, rốt cuộc không có nguy hiểm lớn nào chờ đợi chúng
tôi; chỉ là một cặp trẻ tuổi ra ngoài hò hẹn.
Thêm nửa giờ phi ngựa, và cả hai chúng tôi đều cứng cả người
và đau nhức. Chúng tôi xuống ngựa, quay đầu hai con ngựa về phía nhà chúng, và
đuổi chúng đi. Giờ chúng tôi lại một lần nữa trở thành những khách bộ hành.
Gakgak, gakgak - âm thanh đến từ một chốn xa xôi. Tôi biết
nó rất rõ; đó là một con ngỗng xám. Hồi còn nhỏ, chúng tôi được dạy phải chắp
hai tay lại và đứng thật yên lặng để không làm con ngỗng hoảng sợ khi nó bay
ngang. Không có tổn hại gì trong việc đó; giờ cũng không có tổn hại gì trong việc
đó. Và vì thế tôi thực hiện. Một cảm giác bí ẩn lặng thầm len lén xuyên qua
tôi; tôi nín thở và nhìn đăm đăm. Và đôi cánh hình lưỡi cày tuyệt diệu lướt qua
dưới những vì sao…
Rốt cuộc chúng tôi tìm thấy một cái vựa cỏ khô ở một trang trại
im lìm, và chúng tôi ngủ ở đó vài giờ. Họ bắt gặp chúng tôi đang ngủ say vào
sáng hôm sau.
Falkenberg tới gặp người chủ trại ngay và đề nghị trả tiền
cho việc trọ đêm. Chúng tôi đã tới trễ vào đêm trước, gã giải thích, và không
muốn đánh thức mọi người, nhưng chúng tôi không phải là những kẻ lẫn trốn về
chuyện đó. Người đàn ông không nhận tiền của chúng tôi; lại còn mời chúng tôi uống
cà phê trong bếp. Nhưng anh ta không có việc làm cho chúng tôi, vụ thu hoạch đã
xong, lúc này bản thân anh ta và người nhà cũng không có gì để làm ngoài việc sửa
lại hàng rào ở chỗ này chỗ khác.
XIII
Chúng tôi lê bước suốt ba ngày và không tìm được việc làm
nào, nhưng phải thanh toán tiền ăn uống, trở nên nghèo hơn từng ngày một.
“Anh còn lại bao nhiêu, và tôi còn lại bao nhiêu? Chúng ta
không bao giờ đạt được điều gì khá với mức độ thế này,” Falkenberg nói. Và gã
đưa ra một gợi ý rằng chẳng bao lâu chúng tôi sẽ phải thử trộm cắp đôi chút.
Chúng tôi trao đổi về chuyện đó một lát, và đồng ý chờ xem mọi
sự sẽ chuyển biến ra sao. Thức ăn không khó kiếm, chúng tôi luôn có thể bắt được
một con gà. Nhưng tiền là món chúng tôi thật sự cần tới, và phải có. Nếu không
thể xoay được nó theo cách này, chúng tôi phải cố xoay được nó theo cách khác.
Chúng tôi không phải là những thiên thần.
“Tôi không phải là một thiên thần mắc đọa,” Falkenberg. “Giờ
tôi ở đây, ngồi với bộ quần áo tốt nhất, và chúng cũng chả tốt hơn quần áo lao
động của một người khác. Tôi có thể giặt chúng trong một dòng suối, rồi ngồi đợi
cho tới khi chúng khô; nếu có một lỗ thủng tôi sẽ vá lại, và ngày nào đó nếu
tôi có dịp kiếm được chút tiền, tôi có thể mua thêm vài bộ. Và đó là mục đích.”
“Nhưng Erik đã bảo rằng anh là một gã ăn xin để uống rượu.”
“Cái thằng nhãi đó. Uống rượu – chà, dĩ nhiên là tôi uống. Chỉ
ăn thôi thì có nghĩa lý gì… Chúng ta hãy tìm một nơi có đàn dương cầm,”
Falkenberg nói.
Tôi nghĩ bụng: nơi có một cây dương cầm cũng có nghĩa là những
người giàu có; đó là nơi gã sẽ bắt đầu ăn trộm.
Vào xế trưa chúng tôi tới một nơi như thế. Falkenberg đã mặc
trước bộ đồ thành thị của tôi, và đưa cái ba lô của gã cho tôi đeo để có thể bước
dễ dàng với bộ tịch ta đây. Gã đi thẳng lên các bậc thềm cửa trước, biến khỏi tầm
nhìn của tôi một lúc, rồi lại bước ra, bảo rằng phải, gã sẽ chỉnh dây cho chiếc
đàn của họ.
“Sẽ làm cái gì?”
“Im lặng đi,” Falkenberg nói. “Trước kia tôi từng làm việc này,
dù tôi không khoe khoang về chuyện đó ở khắp nơi.”
Gã lôi ra khỏi ba lô một cái khóa để chỉnh dây đàn dương cầm,
và tôi thấy rằng gã có vẻ nghiêm chỉnh.
Tôi được lệnh ở gần chỗ đó trong lúc gã chỉnh dây đàn.
Tốt, tôi đi lang thang quanh quẩn để giết thì giờ; thỉnh thoảng
khi vòng ra mé nam ngôi nhà, tôi có thể nghe thấy Falkenberg đang chỉnh dây đàn
trong phòng khách, và gã dùng sức mạnh để xử lý nó. Gã không thể đánh một hợp
âm đàng hoàng, nhưng có lỗ tai tốt, bất cứ lúc nào lên một sợi dây đàn, gã cũng
cẩn thận vặn nó trở lại chính xác vị trí ban đầu, để với bất cứ giá nào cây đàn
cũng không thể tệ hơn.
Tôi lân la trò chuyện với một trong những người giúp việc
trong trại, một chàng trai trẻ. Cậu ta bảo cậu ta kiếm được hai trăm Kroner mỗi
năm, ngoài bao ăn. Thức dậy lúc sáu giờ rưỡi để cho lũ ngựa ăn, hoặc lúc năm giờ
rưỡi vào mùa bận rộn. Làm việc cả ngày, cho tới tám giờ tối. Nhưng cậu ta rất
hài lòng với cuộc sống của mình trong cái thế giới bé nhỏ đó. Tôi còn nhớ bộ
răng đẹp, khỏe mạnh và nụ cười vui vẻ khi cậu ta nói về cô gái của mình. Cậu ta
đã tặng nàng một chiếc nhẫn bạc với một quả tim vàng ở mặt trên.
“Cô ta đã nói gì về chuyện đó?”
“Chà, nàng sướng rên lên, anh có thể chắc thế.”
“Và cậu đã nói gì?”
“Nói gì ư? Sao, tôi không biết. Bảo rằng tôi hy vọng nàng
thích nó. Tôi cũng muốn tặng nàng vải
để may một cái váy, nhưng…”
“Sao, có. Nói năng cứ như một chiếc đàn hạc Do Thái nhỏ. Trẻ
– tôi nghĩ thế.
“Cô ta sống ở đâu?”
“À, tôi không thể nói điều đó. Cả làng sẽ biết chuyện nếu tôi
nói ra.”
Và tôi đứng đó như một Alexander khác, rất chắc chắn về thế
giới, và hơi coi khinh cậu trai này cùng cuộc đời nhỏ bé khốn khổ của cậu ta.
Khi chúng tôi lên đường, tôi cho cậu ta một trong số chăn của mình; mang cả hai
tấm thì nặng quá. Cậu ta nói ngay rằng cậu ta sẽ tặng nó cho cô bạn gái; nàng sẽ
vui mừng với một tấm chăn tốt và ấm.
Và Alexander nói: Giá tôi không phải là chính mình, tôi sẽ là
cậu…
Khi Falkenberg xong việc và bước ra, gã trở nên cực kỳ thanh
lịch trong mọi cung cách ngay tức khắc, và nói năng với một kiểu cách tinh tế,
tôi hầu như không hiểu nổi gã. Cô con gái trong nhà bước ra cùng gã. Chúng tôi
sẽ đi ngay không trì hoãn sang nông trại lân cận, gã nói; ở đó có một cây đàn
dương cầm cần được săn sóc tới. Và thế là “Farvel, Frøken, Farvel.”
“Sáu Kroner, anh bạn của tôi,” gã thì thầm vào tai tôi. “Và
sáu đồng khác ở chỗ kế tiếp, tổng cộng là mười hai.”
Chúng tôi lên đường, và tôi mang vác các thứ của cả hai.
XIV. Falkenberg nói đúng; những người ở trại kế tiếp sẽ không để
láng giềng của họ chơi trội hơn; cây đàn của họ cũng cần được xem qua. Cô con
gái trong nhà lúc này đang đi vắng, nhưng có thể tiến hành công việc khi nàng vắng
mặt như là một sự ngạc nhiên nho nhỏ dành cho nàng khi về tới nhà. Nàng thường
phàn nàn rằng cây đàn bị lạc dây kinh khủng nên không thể nào chơi đàn được. Vì
thế giờ đây tôi lại bị bỏ mặc một mình như trước, trong lúc Falkenberg bận rộn
trong phòng khách. Khi trời tối, gã yêu cầu mang đèn vào và tiếp tục chỉnh dây.
Gã ăn tối ở đó, và khi ăn xong, gã bước ra gọi tôi để lấy cái tẩu thuốc.
“Cái tẩu nào?”
“Anh ngốc thật! Dĩ nhiên là cái tẩu với cái nắm tay.”
Tôi trao cho gã cái tẩu được chạm khắc công phu của mình, hơi
miễn cưỡng; tôi cũng vừa mới hoàn thành nó, với cái móng tay trên nắp, một chiếc
nhẫn vàng và một cái ống dài.
“Đừng để cái móng bị nóng quá,” tôi thì thầm, “không thì nó sẽ
cong lại.”
Falkenberg đốt tẩu và khệnh khạng đi vào. Nhưng gã cũng có lời
nhắc tới tôi, bảo họ dọn cho tôi bữa tối và cà phê trong bếp.
Tôi tìm được chỗ ngủ trong vựa cỏ khô.
Giữa đêm tôi thức giấc, Falkenberg đang đứng bên cạnh, gọi
tên tôi. Vầng trăng rằm rọi thẳng vào, và tôi có thể nhìn thấy mặt gã.
“Có chuyện gì thế?”
“Tẩu của anh đây. Nhận lại nó đi, anh bạn.”
“Tẩu ư?”
“Phải, tẩu của anh, tôi sẽ không cầm nó thêm phút nào nữa.
Hãy nhìn xem, cái móng đã muốn sút ra rồi.”
Tôi cầm lấy cái tẩu và thấy cái móng tay đã bị co lại trên lớp
gỗ. Falkenberg nói:
“Cái vật gớm ghiếc này cứ nhìn tôi với một nụ cười xấu xa dưới
ánh trăng. Và rồi tôi sực nhớ ra nơi anh kiếm được cái móng tay đó…”
Falkenberg đại hạnh!
Sáng hôm sau khi chúng tôi chuẩn bị lên đường, cô con gái
trong nhà đã về tới nhà. Chúng tôi nghe thấy nàng nện như gõ trống một điệu
waltz trên cây đàn, và giây lát sau nàng bước ra và bảo:
“Cây đàn khác hẳn đi. Cám ơn anh rất nhiều.”
“Tôi hy vọng cô hài lòng với nó,” tay thợ chỉnh dây đàn nói với
vẻ kẻ cả.
“Vâng, thật sự. Giờ tiếng đàn hoàn toàn khác hẳn.”
“Tiểu thư có thể giới thiệu cho tôi bất kỳ chỗ nào khác
không…?”
“Hãy hỏi những người ở Ovrebo; tên chủ nhà là Falkenberg.”
“Tên gì?”
“Falkenberg. Cứ đi thẳng từ đây, anh sẽ tới một cây cột ở mé
tay phải cách đây chừng một dặm rưỡi. Quẹo tại đó và con đường sẽ đưa anh tới
trại.”
Nghe tới đây, Falkenberg ngồi thụp xuống thềm và bắt đầu đưa
ra đủ loại câu hỏi về Falkenberg ở Ovrebo. Chỉ để nghĩ rằng gã sắp tình cờ gặp
bà con tại đây, và nhận ra mình, như đã từng, lại một lần nữa ở nhà. Gã rất đỗi
biết ơn về thông tin đó. “Chân thành cám ơn, Froken.”
Sau đó chúng tôi lại lên đường, và tôi vác các thứ.
Có một lần trong rừng chúng tôi ngồi xuống để bàn bạc về điều
cần thực hiện. Nói cho cùng, một Falkenberg thợ chỉnh dây đàn có nên đi tới gặp
viên đại úy ở Ovrebo và nhận họ hàng hay không? Tôi là người rụt rè nhất,
và kết thúc với việc khiến cho bản thân Falkenberg cũng hơi hổ thẹn chút chút.
Mặt khác, nó có thể là một câu đùa vui vẻ:
Gã có thứ giấy tờ gì ghi tên mình trên đó không? Một loại giấy
chứng nhận nào đó?
“Có, nhưng không có gì trong chúng ngoài việc ghi rằng tôi là
một người lao động đáng tin cậy.”
Chúng tôi bàn tới việc thay đổi những giấy tờ chút đỉnh,
nhưng cuối cùng đồng ý rằng tốt hơn nên tạo ra một giấy chứng nhận mới hoàn
toàn. Chúng tôi có thể làm một tờ về khả năng chỉnh dây đàn siêu giỏi và ghi
tên thánh là Leopold thay vì Lars. (Một lần nữa thay một cái tên mộc mạc bằng một
cái tên quí tộc.) Không có giới hạn nào với những gì chúng tôi có thể làm theo
cách đó.
“Anh nghĩ anh có thể viết vào tờ chứng nhận đó không,” gã hỏi.
“Vâng, tôi có thể.”
Nhưng lúc này bộ não khốn khổ của tôi bắt đầu giở trò chơi
khăm, và khiến cho toàn bộ sự việc trở nên lố bịch. Một thợ chỉnh dây đàn thì
chưa đủ, tôi nghĩ; không, phải biến gã thành một thiên tài cơ khí, một người từng
giải quyết những vấn đề phức tạp hơn, một nhà phát minh với một nhà máy riêng…
“Lúc đó tôi đâu có cần phải đi lòng vòng và vung vẫy những tờ
chứng nhận,” Falkenberg nói, và từ chối nghe thêm nữa. Không, rốt cuộc toàn bộ
việc này có vẻ như không đi tới đâu cả.
Nản lòng và thất vọng, hai chúng tôi tiếp tục lê bước cho tới
khi tới chỗ cây cột.
“Anh có lên đó không?” tôi hỏi.
“Anh có thể tự đi,” Falkenberg chua chát đáp. “Này, nhận lấy
các thứ giẻ rách của anh.”
Nhưng khi đi xa thêm một chút, gã bước chậm lại và lẩm bẩm:
“Thật xấu hổ khi vất đi một cơ may như thế. Sao, nó tự hiện
ra trước chúng ta mà.”
“Tốt, vậy thì sao anh không lên đó và ghé vào thăm họ? Ai biết
được, nói cho cùng anh có thể là một người bà con.”
“Tôi đang nghĩ tới chuyện hỏi ông ta có một người cháu họ ở Mỹ
hay không.”
“Vậy thì sao? Nếu có, anh có thể nói tiếng Anh với họ hay
không?”
“Cứ lo việc của anh, đừng nói nhiều quá,” Falkenberg nói. “Dù
sao, tôi không thấy anh có gì để khoe khoang hết.”
Gã bồn chồn và nổi cáu, và bắt đầu bước đi. Rồi đột nhiên gã
dừng lại và bảo:
“Tôi sẽ làm. Hãy cho tôi mượn lại cái tẩu của anh. Tôi sẽ
không đốt nó lên.”
Chúng tôi đi lên đồi, Falkenberg khoác lên người vẻ bệ vệ, chỉ
trỏ chỗ này chỗ khác với chiếc tẩu và phê phán địa điểm này. Tôi hơi bực mình
khi nhìn thấy gã khệnh khạng với cung cách hiu hiu tự đắc đó trong lúc tôi đang
vác nặng. Tôi bảo:
“Lần này sẽ là một thợ chỉnh dây đàn hả?”
“Tôi nghĩ tôi sẽ cho thấy tôi có thể chỉnh dây một cây đàn
dương cầm,” gã nói ngắn gọn. “Tôi giỏi việc đó, với bất cứ giá nào.”
“Nhưng nếu như có người trong nhà rành về nó - chẳng hạn bà
chủ – và thử lại cây đàn sau khi anh làm xong?
Falkenberg im lặng. Tôi có thể thấy gã đang hoài nghi trở lại.
Dần dà, dáng đi chủ nhân ông của gã chùng xuống thành một nhịp bước ủ rũ.
“Có lẽ tốt hơn chúng ta đừng nói gì,” gã nói. “Này, cái tẩu của
anh đây. Chúng ta chỉ lên đó và đơn giản hỏi xin việc làm.”
XV. Như chuyện đã xảy ra, có một cơ hội để chúng tôi trở nên hữu
dụng ngay khoảnh khắc chúng tôi tới nơi. Họ đang dựng một cột cờ, và thiếu người
làm. Chúng tôi bắt tay vào việc và dựng nó lên thẳng thớm. Có một đám phụ nữ
nhìn ra từ cửa sổ.
Đại úy Falkenberg có nhà không?
Không?
Còn phu nhân?
Phu nhân đi ra. Nàng cao và trắng trẻo, thân thiện như một
chú ngựa con; nàng đáp lại những lời chào hỏi của chúng tôi với cung cách
tử tế nhất.
Bà có việc gì cho chúng tôi làm không?
“Chà, tôi không biết. Thật sự tôi không nghĩ là có, khi chồng
tôi vắng nhà.”
Tôi có cảm tưởng rằng nàng thấy khó lòng nói không, nên chạm
tay vào mũ rồi quay đi, không muốn quấy rầy nàng nữa. Nhưng hẳn nàng đã phát hiện
ra điều lạ lùng nào đó về Falkenberg, lên chỗ này trong bộ quần áo lịch sự như
thế, với một người mang vác các thứ cho gã; nàng tò mò nhìn gã và hỏi:
“Loại công việc gì thế?”
“Bất cứ loại công việc ngoài trời nào,” Falkenberg đáp.
“Chúng tôi có thể dựng hàng rào, đào mương, xây gạch…”
“Với loại công việc đó thì đến cuối năm mới có,” một người
đàn ông cạnh cột cờ xen vào.
“Phải, tôi cho là vậy,” Fruen đồng ý. “Tôi không biết…
Dù sao, vừa đúng vào giờ ăn; nếu các anh muốn vào ăn chút gì đó thì xin mời.”
“Cám ơn lòng tốt của bà,” Falkenberg đáp.
Lúc này, hình như trong đầu tôi cách nói đó thật nghèo nàn và
thiếu tế nhị; tôi cảm thấy gã đã làm cho cả hai chúng tôi xấu hổ khi trả lời
như vậy, và điều đó khiến tôi khó chịu. Vì thế tự tôi phải xen vào một lời:
Fruen quay lại và nhìn tôi chằm chặp với sự ngạc nhiên;
vẻ mặt nàng thật buồn cười.
Chúng tôi được đưa vào bếp và được dọn cho một bữa ăn thịnh
soạn. Fruen đi vào nhà. Khi chúng tôi ăn xong, và chuẩn bị lên đường,
nàng lại xuất hiện; lúc này Falkenberg đã lấy lại được can đảm, và lợi dụng sự
tử tế của nàng để đề nghị chỉnh lại cây đàn dương cầm.
“Anh còn có thể chỉnh đàn dương cầm sao,” nàng hỏi, ngạc
nhiên.
“Phải, thật vậy; tôi đã chỉnh cho cây đàn của nông trại bên
dưới.”
“Đàn của tôi là một cây đại dương cầm, và rất tốt. Tôi không
muốn nó…”
“Phu nhân có thể an tâm về chuyện đó.”
“Anh có bất kỳ loại…”
“Tôi không có chứng chỉ, không. Yêu cầu thứ đó không phải là
cách của tôi. Nhưng phu nhân có thể tới và nghe thử.”
“Ờ, có lẽ - vâng, mời đi lối này.”
Nàng đi vào nhà, và gã theo sau. Tôi nhìn qua cửa khi họ bước
vào, và nhìn thấy một căn phòng với nhiều bức tranh trên tường.
Những người hầu lăng xăng ra vào bếp, ném vào tôi những tia mắt
tò mò, tôi là người lạ mà; một trong các cô gái rất xinh. Tôi thầm biết ơn trời
đất vì đã cạo râu sáng hôm đó.
Khoảng mười phút trôi qua; Falkenberg đã bắt đầu. Phu nhân ra
khỏi nhà, lại đi vào bếp và bảo:
“Và nghĩ tới việc anh nói tiếng Pháp! Quá sức tưởng tượng của
tôi.”
Tạ ơn trời đất vì điều đó. Tôi không muốn đi xa
hơn. Nếu tôi nói thêm, hầu hết chỉ là những
câu nói của kẻ làm thuê làm mướn.
“Bạn anh đã cho tôi xem giấy tờ của anh ta,” Fruen nói.
“Có vẻ các anh là những người tao nhã. Tôi không biết… Tôi có thể đánh điện cho
chồng tôi và hỏi xem ông có công việc gì cho các anh hay chăng.”
Lẽ ra tôi phải cám ơn nàng, nhưng không thể thốt được lời nào
vì đang nuốt vật gì đó trong cổ họng.
Chứng suy nhược thần kinh!
Sau đó tôi bước ngang qua sân và tản bộ trong mấy cánh đồng một
lúc; mọi nơi đều ngăn nắp trật tự, và vụ thu hoạch đã được đưa vào kho chứa. Cả
những cọng khoai tây cũng được chở đi dù ở nhiều chỗ chúng vẫn còn sót lại cho
tới khi tuyết rơi. Tôi có thể nhìn thấy chả có gì cho chúng tôi làm cả. Rõ ràng
những người này rất khá giả.
Khi trời ngã về chiều, và Falkenberg vẫn còn chỉnh dây đàn,
tôi nhét chút thức ăn vào túi và bước ra ngoài đi dạo, tránh xa để họ không phải
mời tôi ăn tối. Trời có trăng, và những vì sao đã ló dạng, nhưng tôi thích nhất
là dò dẫm tìm đường đi vào chỗ rậm rạp nhất của khu rừng và ngồi xuống trong
bóng tối. Ở đó cũng kín đáo hơn. Giờ đây, mặt đất và không khí có vẻ yên tĩnh
làm sao! Khí lạnh đang ùa tới, có sương muối trên mặt đất; thỉnh thoảng một cọng
cỏ kêu xào xạc, một con chuột kêu ré lên, một con quạ bay vọt lên những đỉnh
cây, rồi tất cả lại trở nên yên tĩnh. Có mái tóc nào vàng như tóc của nàng
không? Chắc chắn là không. Nàng bẩm sinh là một sự diệu kỳ, từ đầu tới chân,
đôi môi nàng là một thứ đáng yêu chín mọng, và trò chơi của những chú chuồn chuồn
trong mái tóc của nàng. Giá mà người ta có thể rút ra từ trong túi xách một cái
vương miện và trao nó cho nàng. Tôi sẽ tìm một cái vỏ sò hồng ở đâu đó và khắc
nó thành một cái móng tay, và tặng nàng cái tẩu để nàng trao cho chồng nàng làm
quà… vâng…
Falkenberg băng qua sân để gặp tôi, và vội vã thì thầm:
“Nàng đã nhận được trả lời của ông Đại úy; ông ta bảo chúng
ta có thể đốn gỗ trong rừng. Anh có giỏi khoản đó không?”
“Có.”
“Tốt, vậy vào nhà bếp đi. Nàng đang hỏi về anh.”
Tôi đi vào và Fruen nói:
“Tôi đã tự hỏi anh đi đâu. Hãy ngồi xuống và ăn chút gì đi.
Anh ăn tối chưa? Ở đâu?”
“Chúng tôi có thức ăn trong ba lô.”
“Chà, không cần phải làm như vậy. Vậy anh uống một cốc trà
nhé? Không à?... Tôi đã nhận được câu trả lời của chồng tôi. Anh đốn cây được
không? Tốt, vậy là ổn. Nhìn xem, nó đây này:
‘Cần hai người đàn ông đốn gỗ. Peter sẽ chỉ những cây đã đánh
dấu.’…”
Ôi Trời, nàng đứng đó cạnh tôi, chỉ vào tờ điện tín. Và mùi
thơm của một thiếu nữ trong hơi thở của nàng…
XVI. Trong rừng. Peter là một trong những người làm công ở trại;
anh ta chỉ cho chúng tôi cách làm ở đây.
Khi chúng tôi nói chuyện với nhau, Falkenberg không hề tỏ ra
biết ơn Fruen về công việc dành cho chúng tôi. “Chả có gì phải cúi đầu
gập cổ trong chuyện đó,” gã nói. “Trong những ngày này kiếm được người làm công
không phải dễ.” Nhân tiện, Falkenberg không rành mấy việc đốn hạ gỗ, trong lúc
tôi đã có một số kinh nghiệm về việc này ở một vùng khác trên thế giới, vậy nên
có thể giữ vai trò dẫn đầu. Và gã cũng đồng ý để tôi làm người chỉ huy.
Lúc này tôi bắt đầu suy nghĩ tới một phát minh.
Với loại cưa thông thường đang sử dụng, những người đàn ông
phải đặt mặt cong lên đất và kéo nghiêng một phía. Đó là lý do vì sao không hạ
được nhiều cây lắm trong một ngày, và có khá nhiều gốc cây xấu xí sót lại trong
rừng. Với một thiết bị truyền động hình nón có thể áp chặt vào rễ, chúng tôi có
thể cưa với chuyển động tới lui thẳng, nhưng lưỡi cưa luôn cắt theo đường
ngang. Tôi bắt tay vào việc thiết kế những phần của loại máy này. Điều làm tôi
nhức đầu nhất là làm cách nào để có được áp lực cần thiết trên lưỡi cưa. Có thể
làm điều này nhờ một cái nhíp trong động cơ đồng hồ, hoặc có lẽ một vật nặng
cũng được. Vật nặng thì dễ hơn, nhưng không thay đổi, khi lưỡi cưa vào sâu hơn,
nó cũng sẽ rít hơn, và áp lực như cũ sẽ không hữu hiệu. Mặt khác, một cái nhíp
thép, sẽ chùng xuống khi đường cưa sâu hơn, và luôn cho lượng áp lực đúng. Tôi
quyết định chọn hệ thống nhíp. “Mình có thể xoay xở được,” tôi tự nhủ. Và uy
tín đối với việc này sẽ là điều tuyệt vời nhất trong đời tôi.
Nhiều ngày trôi qua, ngày nào cũng như ngày nào; chúng tôi hạ
những thân gỗ chín in-sơ, cắt rời những nhánh và ngọn cây. Chúng tôi sống thoải
mái, mang theo thức ăn và cà phê khi tiến vào rừng, và có một bữa ăn tối nóng sốt
khi trở về nhà. Sau đó chúng tôi tắm rửa sạch sẽ - để có cung cách lịch sự hơn
những người làm công trong trại - và ngồi trong bếp, với một cái đèn dầu lớn thắp
sáng và ba nàng con gái. Falkenberg đã trở thành người yêu của Emma.
Thỉnh thoảng, có một đợt sóng âm nhạc lan tới từ chiếc dương
cầm trong phòng khách; đôi khi chính Fruen sẽ tới chỗ chúng tôi với vẻ
trẻ trung như thiếu nữ của nàng và những thái độ tử tế. “Hôm nay các anh làm tới
đâu rồi?” nàng sẽ hỏi. “Các anh có gặp một con gấu trong rừng không?” Nhưng chiều
nọ nàng cám ơn Falkenberg vì đã giúp chỉnh rất tốt cây đàn của nàng. Gì chứ?
Nàng nói thật sao? Gương mặt sạm nắng gió của Falkenberg trở nên đẹp hẳn lên với
niềm vui; tôi thấy tự hào về gã khi gã khiêm tốn trả lời rằng gã nghĩ bây giờ
nó tốt hơn một chút.
Hoặc gã đã có kinh nghiệm hơn trong việc chỉnh đàn, hoặc Fruen thấy
biết ơn vì gã đã không làm hỏng cây đại dương cầm.
Chiều nào Falkenberg cũng mặc bộ đồ thị trấn của tôi. Giờ tôi
có lấy lại và mặc chúng vào người cũng chẳng ích gì; mọi người sẽ tin rằng tôi
mượn chúng từ gã.
“Hãy nhường Emma cho tôi, và anh có thể giữ lấy bộ quần áo,”
tôi nói đùa.
“Tốt thôi, anh có thể nhận lấy nàng,” gã đáp.
Tôi bắt đầu thấy rằng Falkenberg đang trở nên lạnh nhạt hơn với
cô gái của mình. Ồ, nhưng Falkenberg cũng đã yêu nàng, giống như tôi. Chúng tôi
là những cu cậu đơn giản biết bao!
“Tôi tự hỏi không biết tối nay nàng có nhìn chúng ta một cái
không?” Falkenberg thường nói trong lúc chúng tôi đang làm việc.
Và tôi sẽ đáp rằng tôi không quan tâm viên đại úy sẽ vắng nhà
bao lâu.
“Không, anh nói đúng,” Falkenberg. “Và tôi bảo nhé, nếu tôi
thấy ông ta không lịch sự với nàng, sẽ có rắc rối đấy.”
Tối nọ Falkenberg hát cho chúng tôi nghe một bài. Và tôi tự
hào về gã hơn bao giờ hết. Fruen bước ra và gã phải hát lại lần nữa,
sau đó là một bài khác; giọng hát ấm áp của gã phủ đầy căn phòng, và Fruen rất
vui, bảo rằng nàng chưa bao giờ nghe bất cứ thứ gì giống như thế.
Và lúc ấy tôi bắt đầu nổi máu ghen.
“Anh có học hát không?” Fruen hỏi. “Anh có đọc được
bản nhạc không?”
“Vâng, thật thế,” Falkenberg đáp. “Tôi từng hát trong một hộp
đêm.”
Lẽ ra lúc này gã nên nói: không, thật không may, gã chưa bao
giờ học, tôi nghĩ bụng như thế.
“Anh có hát cho người nào nghe chưa? Có người nào nghe anh
hát chưa?”
“Thỉnh thoảng tôi hát trong các cuộc khiêu vũ và tiệc tùng.
Và một lần trong một đám cưới.”
“Nhưng ý tôi là một người hiểu biết cơ: có người nào thử giọng
của anh chưa?”
“Không, tôi không biết điều đó - hoặc có, tôi nghĩ thế,
vâng.”
“Tốt, sao anh không hát thêm vài bài? Hát đi nào.”
Và Falkenberg hát.
Kết cục của chuyện này là gã sẽ được yêu cầu hát ngay trong
phòng khách một tối nào đó, tôi thầm nghĩ, với Fruen đệm đàn cho gã.
Tôi nói:
“Xin thứ lỗi, ông đại úy có trở về sớm không?”
“Vâng, sớm thôi,” Fruen đáp, “Vì sao anh hỏi thế?”
“Tôi chỉ nghĩ tới công việc.”
“Các anh đã hạ hết số cây đánh dấu chưa?”
“Chưa, chưa hết - chưa, còn lâu. Nhưng…”
“Ồ…” Fruen đột ngột nói, như thể nàng vừa nghĩ tới
một điều gì đó. “Các anh phải có chút tiền.
Phải, tất nhiên…”
Tôi vớ lấy câu nói đó để thoát thân, và đáp:
“Cám ơn bà nhiều lắm.”
Falkenberg chẳng nói lời nào.
“Các anh chỉ việc hỏi, các anh biết đó. Varsaagod.[2]” Và nàng đưa
tôi số tiền tôi đã yêu cầu. “Còn anh thì sao?”
“Không gì cả, dù sao cũng cám ơn bà,” Falkenberg đáp.
Ôi Trời, tôi lại thua cuộc nữa rồi - lại rơi xuống đất nữa rồi!
Và Falkenberg, cái gã mạo danh không biết xấu hổ đó đang ngồi đóng vai trò một
người giàu có không cần tạm ứng bất cứ thứ gì. Ngay đêm nay tôi sẽ lột bộ đồ của
tôi khỏi người gã, mặc cho gã trần trụi.
Chỉ có điều, dĩ nhiên, tôi đã không làm chuyện đó.
XVII. Hai ngày trôi qua.
“Nếu tối nay nàng lại ra, tôi sẽ hát bài ca về hoa anh
túc,” Falkenberg nói lúc ở trong rừng. “Tôi đã quên mất bài đó.”
“Anh cũng quên luôn Emma rồi phải không?” tôi hỏi.
“Emma hả? Nghe này, tôi sẽ nói cho anh biết: anh cũng hệt như
trước giờ, anh là vậy đó.”
“Chà, vậy hả?”
“Phải, ý tôi là bên trong. Anh không ngại chiếm lấy Emma ngay
tại đó, trước mắt Fruen. Nhưng tôi không thể làm việc đó.”
“Đó là một lời dối trá!” Tôi giận dữ đáp. “Anh sẽ không thấy
tôi dính vào bất cứ chuyện ngu xuẩn nào với các cô gái chừng nào tôi còn ở
đây.”
“Ồ, và tôi sẽ không ra ngoài với bất kỳ ai sau này. Nghĩ tối
nay nàng có tới không? Tôi đã quên cái bài ca về hoa anh túc đó cho tới lúc
này. Nghe này.”
Falkenberg hát bài ca Hoa anh túc.
“Anh thật may, có thể hát như thế,” tôi nói. “Nhưng sẽ không
ai trong hai chúng ta có được nàng, với tất cả những thứ đó.”
“Có nàng! Sao, có ai nghĩ tới… Anh đúng là đồ ngốc!”
“Ồ, nếu tôi còn trẻ, giàu có và đẹp trai, tôi sẽ chiếm được
trái tim của nàng,” tôi nói.
“Nếu - và nếu… Tôi cũng có thể vậy, về vấn đề đó. Nhưng còn
có ông đại úy.”
“Phải, và còn có anh. Và còn có tôi. Và còn có bản thân nàng
ta và mọi người khác trên thế giới.
Và chúng ta là một bộ đôi cục súc khi nói về nàng như thế,”
tôi nói, lúc này nổi cơn thịnh nộ với chính mình. “Một chuyện tốt đẹp thật đấy,
khi hai gã tiều phu già nói về bà chủ của họ như thế.”
Cả hai chúng tôi tái xanh cả mặt mày, và những nếp nhăn hiện
trên gương mặt cau có của Falkenberg; không người nào có thể ăn. Và để cố che đậy
sự khó chịu của mình, tôi đi lòng vòng, nói đủ thứ chuyện vui vui phi lý, trong
lúc Falkenberg lớn tiếng khoác lác về mọi bữa ăn, rằng gần đây gã đã ăn quá nhiều,
đang trở nên uể oải và béo ra.
“Sao, có vẻ như các anh không hề ăn gì cả,” Fruen nói
khi chúng tôi trở về với quá nhiều thức ăn thừa. “Những người tiều phu tốt, thật
sự.”
“Chính Falkenberg là người không ăn,” tôi nói.
“Chà, thật là!” Falkenberg nói; “Tôi thích thế. Anh ta đã nhịn
ăn hoàn toàn.”
Thỉnh thoảng khi nàng yêu cầu chúng tôi giúp nàng một việc
nho nhỏ này khác, cả hai chúng tôi sẽ vội vã thực hiện; cuối cùng chúng tôi phải
tự đi lấy nước và củi. Nhưng một hôm Falkenberg chơi xỏ tôi một vố hèn hạ: gã về
nhà với một bó nhánh cây phỉ để đan dụng cụ đập thảm mà Fruen đã yêu
cầu tôi cắt cho nàng, một cách riêng tư.
Khi đó tôi quyết tâm làm cho Fruen nổi cơn ghen -
chà, chà, anh bạn tốt của tôi, cậu điên rồi sao, hay chỉ ngu xuẩn? Như thể Fruen sẽ
có khi nào thèm nghĩ tới nó, bất cứ điều gì cậu đã làm.
Nhưng việc là thế. Tôi sẽ cố làm cho nàng nổi cơn ghen.
Trong số ba cô gái ở đó, chỉ có một người có khả năng sử dụng
cho thí nghiệm này, đó là Emma. Vì thế tôi bắt đầu nói chuyện vớ vẩn với Emma.
“Emma, tôi biết về một người đang thở dài vì cô.”
“Từ đâu mà anh biết điều đó vậy?”
“Từ những vì sao bên trên.”
“Tôi thích nghe về chuyện đó từ một người ở trên mặt đất này
hơn.”
“Tôi cũng có thể nói với cô điều đó. Một cách trực tiếp.”
“Anh ta muốn nói là chính anh ta,” Falkenberg xen vào, nôn
nóng muốn tránh xa khỏi vụ này.
Nhưng Emma thật khiếm nhã, và không bận tâm tới việc nói chuyện
với tôi, dù tôi giỏi các thứ tiếng hơn Falkenberg. Gì chứ - thậm chí tôi không
thể điều khiển được Emma hay sao? Tốt… sau đó tôi tỏ ra kiêu hãnh và im lặng,
và đi theo con đường riêng của mình, vẽ các phác họa cho cái cỗ máy của tôi và
những mô hình nhỏ. Và khi Falkenberg đang hát về một buổi chiều và Fruen lắng
nghe, tôi bỏ đi sang khu nhà của nhóm đàn ông và ở lại với họ. Dĩ nhiên, điều
đó có phẩm giá hơn nhiều. Rắc rối duy nhất là Peter đang nằm ốm trên giường, và
không thể chịu nổi tiếng ồn của rìu và búa, vì thế tôi phải đi ra ngoài mỗi khi
có một công việc nặng cần làm.
Tuy nhiên, thi thoảng tôi lại tưởng tượng có lẽ Fruen đang
hối tiếc, nói cho cùng, về việc không có mặt tôi trong bếp. Với tôi, có vẻ là vậy.
Một chiều nọ, khi chúng tôi đang ăn bữa tối, nàng quay sang tôi và bảo:
“Cái máy mới mà những người đàn ông nói anh đang làm là thứ
gì vậy?”
“Anh ta đang lu bu với một loại cưa mới,” Falkenberg nói.
“Nhưng nó quá nặng nên không thể có dụng ích gì.”
Tôi không trả lời câu nói đó, nhưng tỏ vẻ như bị đối xử sai.
Phải chăng số mệnh của mọi nhà phát minh là bị phán xét sai lầm? Chỉ còn nước
chờ đợi: thời của tôi chưa đến. Có những lúc tôi hầu như không thể kềm được việc
bật thốt lên một lời tiết lộ với các cô gái, về việc tôi thật sự là một người
có gia thế đàng hoàng, bị nỗi tuyệt vọng vì một mối tình bất hạnh lái đi chệch
hướng, và giờ bắt đầu uống rượu thường xuyên. Chao ôi, phải, những dự tính của
con người, những sắp đặt của Thượng đế… Và rồi, có lẽ, bản thân Fruen có
thể tới để nghe về nó…
“Tôi nghĩ tôi sẽ sang ở với nhóm đàn ông vào buổi tối, giống
như anh,” Falkenberg nói.
Và tôi biết rất rõ vì sao Falkenberg đột nhiên nảy ra ý nghĩ
sẽ tiêu pha những buổi chiều tối của mình ở đó; giờ đây gã không còn được yêu cầu
hát thường xuyên như trước; vì lý do này khác, gần đây gã ít được yêu cầu.
XVIII. Đại úy đã trở về.
Một người đàn ông to lớn, với một bộ râu rậm, bước ra chỗ
chúng tôi một hôm nọ trong lúc chúng tôi đang làm việc và nói:
“Tôi là Đại úy Falkenberg. Nào, các bạn, công chuyện ra sao?”
Chúng tôi chào ông với lòng kính trọng, và đáp: “Khá ổn.”
Sau đó là vài lời trao đổi về những thứ chúng tôi đã làm và
những thứ còn lại chưa làm. Đại úy hài lòng với công việc của chúng tôi – tất cả
đều được cắt gọn và sát gốc. Rồi ông hỏi chúng tôi đã cưa được bao nhiêu mỗi
ngày, và bảo nó đạt được một mức trung bình khá.
“Đại úy đã quên những ngày Chủ nhật.” Tôi nói.
“Đúng vậy,” ông nói. “Vâng, thế là hơn mức trung bình. Có gặp
rắc rối gì với các thứ công cụ không? Cái cưa có ổn không?”
“Hoàn toàn ổn.”
“Và không có ai bị thương?”
“Không.”
Tạm dừng.
“Theo lẽ thì các anh phải tự cung cấp thức ăn cho mình,” ông
nói, “nhưng nếu các anh thích cách khác hơn, chúng ta có thể tính toán lại khi
chúng tôi thanh toán tiền.”
“Chúng tôi rất vui được làm theo cách mà Đại úy nghĩ là tốt
nhất.”
“Vâng,” Falkenberg cũng đồng ý.
Đại úy đi một vòng qua khu rừng và quay lại.
“Không thể có thời tiết tốt hơn,” ông nói. “Không có tuyết cần
phải dọn.”
“Không, không có tuyết - điều đó đúng; nhưng một thêm ít
sương giá sẽ không có hại gì.”
“Sao vậy? Ý anh là sẽ mát mẻ hơn khi làm việc?”
“Có lẽ cả điều đó nữa; phải. Nhưng lưỡi cưa cắt tốt hơn khi gỗ
đông cứng.”
“Vậy ra anh là một tay kỳ cựu trong việc này hả?”
“Phải.”
“Và anh là người biết hát?”
“Không, thật đáng tiếc. Anh ta mới là người biết hát.”
“Ồ, vậy anh là người ca sĩ, phải không? Chúng ta trùng tên,
tôi tin là vậy?”
“Sao, phải, theo một cách,” Falkenberg nói, hơi lúng túng,
“tôi tên là Lars Falkenberg, và tôi có giấy chứng nhận về điều đó.”
“Anh từ miền nào tới?”
“Từ Trøndelagen.”
Đại úy trở về nhà. Ông khá thân thiện, nhưng nói năng có vẻ vắn
tắt, quyết đoán, không hề có một nụ cười hay câu đùa cợt nào. Một gương mặt tốt,
hơi bình thường.
Từ hôm đó trở đi, Falkenberg không bao giờ hát ngoài lúc ở
khu vực đàn ông; giờ không còn việc hát hỏng trong bếp nữa khi Đại úy đã về
nhà. Falkenberg có vẻ cáu kỉnh và u buồn; đôi khi gã chửi thề và bảo cuộc sống
không đáng sống vào những ngày này; một người đàn ông nên đi tự treo cổ cho
xong đời. Nhưng nỗi tuyệt vọng của gã sớm kết thúc. Một Chủ nhật nọ gã quay lại
hai nông trại mà gã từng chỉnh dây đàn, và yêu cầu mỗi nơi một lời giới thiệu.
Khi trở về, gã cho tôi xem mấy tờ giấy và bảo:
“Chúng sẽ có ích đôi chút.”
“Vậy là rốt cuộc anh sẽ không tự treo cổ nữa hả?”
“Anh có lý do tốt hơn để làm điều đó, nếu anh hỏi tôi,”
Falkenberg đáp.
Nhưng cả tôi nữa, giờ cũng bớt tuyệt vọng rồi. Khi Đại úy
nghe nói về ý tưởng cỗ máy của tôi, ông muốn biết nhiều về nó hơn ngay tức khắc.
Ông thấy ngay từ cái liếc mắt đầu tiên rằng những bản vẽ của tôi chưa được hoàn
hảo lắm, hình thành từ những mảnh giấy nhỏ và không có một cái compa để dùng.
Ông cho tôi mượn một bộ dụng cụ vẽ, và đưa ra một số gợi ý hữu ích về cách thực
hiện những điều như thế. Cả ông cũng e rằng cái cưa của tôi sẽ tỏ ra quá nặng nề.
“Nhưng dù sao cứ tiếp tục nó đi,” ông nói. “Vẽ toàn bộ theo một tỷ lệ xác định,
rồi chúng ta sẽ xem sao.”
Tuy nhiên, tôi nhận ra rằng một mô hình được xây dựng một
cách đúng đắn của cái máy sẽ mang tới một ý tưởng tốt hơn về nó, và ngay khi
tôi thực hiện xong các bản vẽ, tôi bắt đầu khắc một mô hình bằng gỗ. Tôi không
có máy tiện, và phải đẽo gọt hai cái trục, nhiều bánh xe và ốc vít bằng tay.
Tôi làm việc này vào ngày Chủ nhật, và mải mê với nó tới mức không hề nghe thấy
tiếng chuông báo hiệu giờ ăn. Đại úy bước ra và gọi: “Ăn tối!” Sau đó, khi nhìn
thấy điều tôi đang làm, ông đề nghị sẽ tự đánh xe tới chỗ lò rèn ngay hôm sau để
tìm những bộ phận mà tôi cần được cắt trên máy tiện. “Tất cả những gì anh cần
là cho tôi những số đo,” ông nói. “Và chắc là anh muốn có một số dụng cụ, phải
không? Cưa và máy khoan; đúng! Những con ốc vít, phải, và một cái đục tốt… hết chưa
nhỉ?”
Ông ghi chú các thứ ngay tại chỗ. Một người chỉ huy hạng nhất.
Nhưng vào xế chiều, khi tôi ăn xong bữa và đang băng qua sân
tới phòng của nhóm đàn ông, Fruen cất tiếng gọi tôi. Nàng đang đứng
giữa hai ô cửa sổ nhà bếp, trong bóng râm, nhưng lúc này đang bước ra.
“Chồng tôi bảo… ông ấy… nói… anh không thể đủ ấm với các thứ
quần áo mỏng này,” nàng nói.
Nàng nhét cả một bộ đồ vào tay tôi.
Tôi cám ơn nàng, nói cà lăm cà lặp một cách ngốc nghếch. Tôi
sắp mua cho mình một số đồ mới, sớm thôi. Không có gì phải vội; tôi không cần…
“Dĩ nhiên, tôi biết anh có thể tự mua các thứ. Nhưng khi bạn
anh thì rất… rất… ồ, nhận những thứ này đi.”
Và nàng lại chạy vào nhà, đúng kiểu cách của một thiếu nữ sợ
bị bắt gặp đang làm một điều quá tốt. Tôi phải gọi với theo nàng những lời cám
ơn cuối cùng.
Chiều hôm sau, khi Đại úy đi ra với những chiếc bánh xe và trục
lăn, tôi nhân cơ hội cám ơn ông về bộ quần áo.
“Ồ, vâng, vâng,” ông đáp. “Chính vợ tôi đã… Chúng có vừa với
anh không?”
“Vừa, cám ơn nhiều.”
“Vậy thì tốt rồi. Phải, chính vợ tôi đã… à, đây là những thứ
cho cỗ máy của anh, và các dụng cụ.
Chúc buổi tối tốt lành.”
Có vẻ như cả hai người bọn họ đều sẵn lòng làm một việc tử tế
ngang nhau. Và khi nó đã được thực hiện, mỗi người sẽ đổ cho người kia. Chắc chắn
đây phải là một đời sống hôn nhân hoàn hảo, điều mà những kẻ mộng mơ đã mơ tưởng
tới, ở chốn này trên quả đất.
XIX. Khu rừng giờ đã trút hết lá, và bặt tiếng chim; chỉ có những
con quạ kêu quàng quạc thất thanh lúc năm giờ sáng, khi chúng tản ra bên trên
những cánh đồng. Chúng tôi nhìn thấy chúng, Falkenberg và tôi, khi chúng tôi đi
tới chỗ làm việc; những con chim một năm tuổi, chưa biết sợ cõi đời, nhảy loi
choi trên đường mòn trước bàn chân của chúng tôi.
Sau đó chúng tôi gặp con chim sẻ xám, loài chim của vùng đất
có rừng. Nó đã vào rừng, và giờ đang quay trở lại với loài người mà nó thích sống
chung và nghiên cứu từ mọi phía. Một con sẻ bé nhỏ kỳ lạ. Một loài chim di trú,
thật sự, nhưng cha mẹ nó đã dạy nó rằng một con chim có thể trải qua một mùa
đông ở miền bắc; và giờ nó sẽ dạy cho các con của nó miền bắc là nơi chốn duy
nhất để trải qua mùa đông. Nhưng bên trong nó vẫn còn lưu lại chút máu giang hồ,
và nó vẫn còn là một kẻ lang thang. Một ngày nào đó nó và bầy đàn của nó sẽ tập
trung lại và lên đường tới một nơi nào đó khác, cách xa nhiều giáo xứ, để
nghiên cứu một tập hợp con người mới ở đó – và trong rừng dương lá rung không
còn lại bóng một con chim sẻ nào. Và có thể cả tuần sau một đàn mới của loài
sinh vật có cánh này mới xuất hiện và định cư ở đó… Herregud![4] Biết bao
lần tôi đã quan sát những con chim sẻ đang sinh hoạt, và tìm thấy niềm vui
trong tất cả.
Một hôm Falkenberg tuyên bố giờ gã đã ổn thỏa trở lại. Sẽ
dành dụm và cất sang một bên một trăm Kroner trong mùa đông ấy, kiếm được từ việc
chỉnh dây đàn và đốn gỗ, và sau đó làm hòa với Emma. Cả tôi nữa, gã đề xuất, tốt
hơn nên thôi thở dài vì những tiểu thư cao sang, và quay về với tầng lớp, địa vị
của mình.
Falkenberg nói đúng.
Chiều Thứ bảy chúng tôi ngưng làm việc sớm hơn thường lệ một
chút để tới cửa tiệm mua sắm một số vật dụng. Chúng tôi cần áo sơ-mi, thuốc lá
và rượu vang.
Trong lúc chúng tôi đang ở trong tiệm, tôi bắt gặp một hộp đồ
khâu vá nhỏ, được trang trí với những vỏ sò, loại mà hồi trước những người đi
biển thường mua ở Amsterdam và mang về nhà cho người yêu của họ; hiện giờ người
Đức sản xuất chúng ở mức cả ngàn. Tôi mua cái hộp đó, với ý nghĩ rằng sẽ gỡ một
trong những cái vỏ sò ra để thay cho cái móng tay trên tẩu thuốc của tôi.
“Anh muốn gì với một cái hộp đựng đồ khâu vá?” Falkenberg hỏi.
“Có phải cho Emma không?”
Gã nổi cơn ghen với ý nghĩ đó, và không muốn bị chơi trội, gã
mua một cái khăn tay lụa để tặng cô ta.
Trên đường về chúng tôi nếm thử rượu vang, và trở nên nhiều
chuyện. Falkenberg vẫn còn ghen, vì thế tôi lôi cái hộp khâu vá ra, chọn
cái vỏ sò mà tôi muốn, gỡ nó ra và cho gã cái hộp.
Sau đó chúng tôi lại là bằng hữu.
Lúc này trời sụp tối, và không có trăng. Đột nhiên chúng tôi
nghe tiếng đàn phong cầm từ một ngôi nhà trên một sườn đồi; chúng tôi có thể
nhìn thấy bên trong có khiêu vũ, từ cách ánh sáng xuất hiện và biến mất như một
tia sáng hải đăng.
“Chúng ta hãy lên đó nhìn xem,” Falkenberg nói.
Khi tới chỗ ngôi nhà, chúng tôi gặp một nhóm đàn ông và phụ nữ
đang ở bên ngoài hóng gió. Cả Emma cũng có mặt ở đó.
“Sao, Emma kia kìa!” Falkenberg vui vẻ kêu lên, không hề bực
dọc khi phát hiện ra cô ta đã đi chơi mà không có gã. “Emma, tới đây, tôi có thứ
này cho em!”
Gã muốn làm cho mọi chuyện tốt đẹp với một từ, nhưng Emma
quay lưng khỏi gã và quay vào nhà. Sau đó, khi gã đi theo cô ta, những cô gái
khác chặn đường gã, ngụ ý khá rõ ràng rằng không ai muốn gã vào đó.
“Nhưng Emma ở đó. Hãy gọi cô ấy ra ngoài.”
“Emma không ra đâu. Cô ta tới đây với anh thợ giày Markus.”
Falkenberg đứng đó bất lực. Gã đã lạnh nhạt với Emma lâu đến
nỗi đã bị cô ta từ bỏ. Và, khi thấy gã đứng đó há hốc mồm một cách xuẩn ngốc, một
số cô gái bắt đầu trêu cợt gã: phải chăng cô ta bỏ gã một mình, giờ gã sẽ làm
gì, anh chàng tội nghiệp?
Falkenberg đưa chai lên môi và nốc trước mắt tất cả mọi người,
rồi đưa lưng bàn tay chùi miệng và chuyền cho người đàn ông gần nhất. Giờ đã có
một cảm giác tốt hơn đối với chúng tôi; chúng tôi là những gã chơi được, với những
chai rượu trong túi quần, và sẵn lòng chuyền chúng vòng quanh; ngoài ra, chúng
tôi là những người lạ ở chốn này, và đó luôn là một điều mới mẻ. Thêm nữa,
Falkenberg đã nói nhiều điều buồn cười về tay thợ giày Markus, người mà gã
khăng khăng gọi là Lukas.
Cuộc khiêu vũ vẫn đang tiếp diễn bên trong, nhưng không nàng
nào để cho chúng tôi bước vào tham gia.
“Tôi sẽ cược với anh,” Falkenberg nói, với một thái độ huênh
hoang, “rằng Emma sẽ chỉ quá vui mừng để ra đây với chúng ta.”
Helene, Rønnaug và Sara đứng đó; mỗi lần họ uống, họ chìa tay
ra một cách dễ thương để cám ơn, theo phong tục, nhưng một số khác đã học được
đôi chút những cung cách thị thành thì chỉ nói, “Tak for Skjænken, [5]” thế thôi. Có
vẻ như Helene đã trở thành bồ của Falkenberg; gã vòng tay quanh eo cô ta và bảo
cô ta là của mình trong đêm nay. Và khi họ đi ngày càng xa khỏi đám còn lại
chúng tôi, không ai gọi họ quay lại; một lúc sau, chúng tôi tách thành từng
đôi, tất cả chúng tôi, và đi theo con đường riêng biệt của mình vào rừng. Tôi
đi với Sara.
Khi chúng tôi từ trong rừng trở ra, Ronnaug vẫn còn đứng đó
hóng gió. Cô gái lạ lùng, không lẽ nàng đã đứng đó một mình suốt buổi? Tôi cầm
lấy tay nàng và nói với nàng đôi câu, nhưng nàng chỉ mỉm cười với tất cả những
gì tôi nói và không trả lời. Chúng tôi đi về phía rừng và Sara gọi với theo
chúng tôi trong bóng tối: “Ronnaug, đến đây ngay và chúng ta trở về nhà thôi.”
Nhưng Ronnaug không đáp; nàng không nói năng gì cả. Mềm, trắng như sữa, cao, và
thinh lặng.
XX. Đợt tuyết đầu tiên đã tới; nó tan ngay tức thì, nhưng mùa
đông không còn xa nữa, và giờ chúng tôi đã gần chấm dứt việc đốn cây ở Ovrebo -
khoảng một tuần nữa, không hơn. Sau đó là gì? Có việc làm trên tuyến đường ray
bên trên những ngọn đồi, hoặc có lẽ lại đốn cây ở một nơi khác mà chúng tôi có
thể đến. Falkenberg muốn thử tới chỗ đường ray.
Nhưng tôi không thể hoàn thành cỗ máy của mình trong một thời
gian ngắn như thế. Mỗi chúng tôi đều có những việc riêng để không có gì phải vội;
ngoài cỗ máy, tôi còn muốn hoàn thành cái móng tay cho tẩu thuốc, và mọi buổi
chiều tối trở nên quá ngắn. Về phần Falkenberg, gã đã lại làm hòa với Emma. Cô
ta từng hẹn hò với thợ giày Markus, đúng thế, nhưng về phần mình Falkenberg
cũng không thể chối bỏ việc gã đã tặng quà cho Helene - một cái khăn tay lụa và
một hộp đựng đồ khâu vá gắn vỏ sò.
Falkenberg tỏ ra khốn khổ, và nói:
“Vì lý do nào đó, mọi sự đều sai lệch. Không có gì ngoài sự bực
mình, lo lắng và khờ dại.”
“Dù sao, đó là cách nghĩ của tôi, nếu anh muốn biết. Nàng sẽ
không đi lên những ngọn đồi như chúng ta đã nói.”
“Vậy phải chăng Markus thợ giày đã ngăn cô ta lại?”
Falkenberg im lặng ủ ê. Rồi sau một phút ngập ngừng:
“Thậm chí họ còn không yêu cầu tôi hát.”
Chúng tôi chuyển sang trò chuyện về Đại úy và vợ ông.
Falkenberg có một linh cảm xấu rằng giữa họ có sự bất hòa.
Gã ngốc nhiều chuyện! Tôi xen vào một câu:
“Xin thứ lỗi cho tôi, nhưng anh không biết anh đang nói gì
đâu.”
“Thế à!” gã giận dữ nói. Và ngày càng trở nên kích động, gã
tiếp tục: “Anh có bao giờ thấy họ quấn quýt với nhau chưa? Tôi chưa bao giờ
nghe họ nói với nhau câu nào.”
Đồ ngốc! - đồ hạ đẳng!
“Không biết hôm nay có vấn đề gì với anh nữa trong cái cách
anh cưa. Nhìn xem - anh nghĩ đường cắt đó là gì chứ?”
“Tôi à? Dù sao cả hai chúng ta cùng làm mà.”
“Tốt! Vậy chúng ta sẽ nói đó là do tuyết tan. Chúng ta hãy
quay lại với rìu vậy.”
Chúng tôi tiếp tục làm việc một mình một hồi, cả hai đều nổi
giận và khó chịu. Gã dám nói một điều dối trá như thế về họ sao, rằng họ không
bao giờ nói chuyện với nhau? Nhưng, lạy Trời, gã nói đúng! Falkenberg có một khả
năng đánh hơi nhanh nhạy đối với những điều như thế. Gã biết đôi điều về đàn
ông và phụ nữ.
“Ở bất cứ giá nào, họ luôn nói tốt về nhau với chúng ta.”
Falkenberg tiếp tục công việc của mình.
Tôi suy ngẫm về toàn bộ sự việc một lần nữa.
“Được, có lẽ anh đúng trong chừng mực mọi chuyện xảy ra, rằng
đó không phải là thứ những kẻ mơ mộng đã kết hôn mơ tưởng tới, tuy nhiên…”
Nhưng không ích gì khi nói chuyện với Falkenberg theo cách
đó; gã không bao giờ hiểu được một từ.
Buổi trưa, khi chúng tôi ngưng làm việc, tôi lại nối tiếp câu
chuyện.
“Phải chăng có lần anh từng nói rằng nếu ông ta không lịch sự
với nàng thì sẽ có rắc rối?”
“Phải, tôi có nói.”
“Chà, nào có thấy rắc rối gì đâu.”
“Tôi có bảo rằng ông ta không lịch sự với nàng không?”
Falkenberg bực dọc nói. “Không, nhưng họ không quan tâm và chán lẫn nhau - sự
tình là thế. Khi người này vào nhà, người kia đi ra. Bất cứ lúc nào ông ta bắt
đầu nói về bất cứ điều gì trong bếp, đôi mắt nàng trở nên chết lặng u buồn, và
nàng không thèm nghe.”
Chúng tôi lại làm việc với rìu, mỗi người nghĩ một đàng.
“Tôi ngờ là tôi cần phải nện hắn ta một trận.” Falkenberg
nói.
“Ai?”
“Lukas….”
Tôi hoàn thành cái ống tẩu của mình và nhờ Emma đem nó tới
cho Đại úy. Lần này hóa ra cái móng lại đẹp và tự nhiên, và với những thứ dụng
cụ tốt đang có, tôi có thể khoan sâu vào cái móng và ghim chặt nó ở mặt dưới, để
hai cái đinh ghim nhỏ bằng đồng không bị ló ra. Tôi khá hài lòng với tác
phẩm này.
Chiều hôm đó, Đại úy bước ra trong lúc chúng tôi đang ăn tối,
để cám ơn tôi về cái tẩu. Ngay lúc ấy, tôi nhận ra Falkenberg nói đúng; ngay
khi Đại úy ra khỏi nhà thì Fruen đi vào nhà.
Đại úy khen ngợi cái tẩu của tôi, và hỏi tôi đã làm cách nào
để cố định cái móng; ông bảo tôi là một nghệ nhân và một bậc thầy. Tất cả những
người khác đang đứng gần đó và nghe thấy những lời của ông - và việc được chính
Đại úy gọi là một nghệ nhân cũng khá đáng kể. Tôi tin là tôi có thể chiếm được
cảm tình của Emma vào lúc ấy.
Đêm đó tôi đã học được cách rùng mình và run rẩy.
Xác của một người phụ nữ xuất hiện trước mặt tôi khi tôi nằm
trong gác xép, và duỗi bàn tay trái ra để chỉ cho tôi thấy: chiếc móng cái đã mất.
Tôi lắc đầu để nói rằng lúc trước tôi có một cái móng tay, nhưng tôi đã vất bỏ
nó, và dùng một cái vỏ sò thay vào đó. Nhưng cái xác cứ đứng mãi ở đó, còn tôi
nằm đó, rùng mình, lạnh cóng vì sợ. Rồi tôi cố nói rằng giờ tôi không thể giúp
nó; nhân danh Thượng đế, hãy biến đi! Và, Cha chúng ta ngự ở trên trời… Cái xác
tiến thẳng về phía tôi; tôi vung hai nắm tay ra và rú lên thất thanh - và tôi ở
đó, đang đè Falkenberg sát vào tường.
“Gì thế? Falkenberg la lên. “Làm sao mà…”
Tôi choàng tỉnh, ướt đẫm mồ hôi, và nằm đó với đôi mắt mở to,
quan sát cái xác khi nó từ từ biến vào bóng tối của căn phòng.
“Đó là cái xác,” tôi rên rỉ. “Tới để đòi cái móng tay của bà
ta. Falkenberg ngồi thẳng trên giường, hoàn toàn tỉnh táo ngay tức khắc.
“Tôi đã nhìn thấy bà ta,” gã nói.
“Cả anh cũng nhìn thấy bà ta sao? Anh có thấy ngón cái của bà
ta không? Ôi trời!”
“Giờ tôi sẽ không ở địa vị của anh vì bất cứ thứ gì.”
“Hãy để tôi nằm phía trong, sát tường,” tôi năn nỉ.
“Còn tôi thì sao?”
“Bà ta sẽ không làm hại anh; anh có thể nằm ngoài yên ổn.”
“Và để cho bà ta tới lôi tôi đi trước? Không, nếu tôi biết
chuyện.”
Nói đoạn, Falkenberg lại nằm xuống và kéo tấm chăn che qua mắt.
Tôi nghĩ một hồi về việc đi xuống ngủ với Peter; giờ anh ta
đã khỏe hơn, và tôi không phải sợ bị lây bệnh. Nhưng tôi sợ không dám xuống
thang.
Đó là một đêm khủng khiếp.
Sáng hôm sau, tôi tìm cái móng ở khắp nơi, cuối cùng tìm thấy
nó trên sàn nhà, nằm giữa những vỏ bào và mạt cưa. Tôi mang nó ra ngoài và chôn
nó trên con đường đi vào rừng.
“Vấn đề là anh có nên mang nó trở lại nơi anh đã lấy nó
không,” Falkenberg nói.
“Sao, chỗ đó cách nhiều dặm - cả một chuyến đi dài…”
“Họ sẽ không yêu cầu điều đó nếu anh có nghĩa vụ thực hiện
nó. Có lẽ bà ta sẽ không quan tâm tới việc có ngón cái ở một nơi và móng tay ở
một nơi khác.”
Nhưng giờ tôi đã có đủ can đảm; một gã liều mạng một cách tuyệt
vọng trong ánh sáng ban ngày. Tôi cười nhạo Falkenberg vì sự mê tín của gã, và
bảo gã rằng khoa học đã vén mở tất cả những chuyện phi lý đó từ lâu.
Chú thích:
14/7/2012
Under hostjernen, Knut Hamsun
Nguyễn Thành Nhân dịch
Nguồn: Từ bản dịch tiếng Anh Under
the Autumn Star của W. W. Worster
Nguồn: Từ bản dịch tiếng Anh Under
the Autumn Star của W. W. Worster
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét