TỰA
Lẽ phải dạy ta rằng một người đàn bà góa có thể vì tình yêu ở
vậy suốt đời, không một ngày quên người đã mất. Trái lại, không yêu chồng mà
lúc chồng qua đời, còn thủ tiết cho đến khi nhắm mắt, chỉ là hy sinh vô nghĩa
cho một tục lệ trái với thiên đạo.
Tục lệ ấy là một tục lệ được người xưa hoan nghênh, kính trọng.
Theo nền luân lý thường ngàn năm để lại, đã là đàn bà thì chỉ có thể lấy một chồng.
Tình yêu không có nghĩa lý gì. Ngay từ hôm cưới, người vợ đã thành ra thuộc quyền
sở hữu của ngườì chồng, của gia đình chồng, và nếu chồng khuất núi, bổn phận của
vợ là phải thủ tiết hết đời, dẫu đối với chồng, không có mẩy may thương nhớ.
Cô Nhung trong truyện "Lạnh lùng" chính ở trong cái
cảnh huống ngang trái ấy. Chung quanh cô, là mẹ đẻ cho đến mẹ chồng, ai nấy đều
có cho bổn phận tự nhiên của cô - một người đàn bà góa đương xuân - là chịu sự
lạnh lùng của một đời lẻ loi đề giử tiếng thơm cho hai họ. Nhưng ở trong một xã
hội nệ cổ thế, với một tâm hồn yếu ớt, không đủ chí như cương quyết để chống với
hoàn cảnh lẽ tự nhiên là bi khuân theo hoàn cảnh.
Bỗng tình yêu đến. Nhưng bỗng cảm thấy sự trống trải của một
đời quá phụ: Nhung bỗng nhận ra rằng cả đời cô không phải là để hi sinh cho một
tiếng thơm hão. Cả tâm hồn cô lúc ấy chỉ là hi vọng, hi vọng sống mội đời đầm ấm
tình yêu.
Trát lại, hoàn cảnh cố giam cầm Nhung trong cỏi đời lạnh lẽo
cô độc. Tục lệ, thành kiến của những người chung quanh đều bắt buộc Nhung dập tắt
ngọn lửa ái tình đã nhóm trong lòng cô - ái tình mà người ta coi là đốn mạt -
và nếu Nhung không dập được tắt, lại cố bắt buộc cô giấu diếm để giữ lấy tiếng
thơm, lấy thể diện cho nhà mình, cho nhà chồng. Nhung không đủ can đảm và vì
quá thương mẹ, đã tự dấn thân vào một đời sảo quyệt, gian trá, giả đạo đức.
Nhưng lỗi ấy không phải tội Nhung. Lỗi cũng không phải tội bà
Án. Mà cũng không tại ai cả. Lỗi là lỗi của nền luân lý chật hẹp muốn khuôn hết
tính tình của người ta vào những mẫu nhất định, bất di dịch, một nền luân lý đã
coi rẽ hạnh phúc "con người".
HOÀNG ĐẠO
PHẦN THỨ NHẤT
I
Nhung áp gối bông vào mặt để cho làn vải êm mát làm dịu đôi
má nóng bừng. Nằm yên được một lúc, nàng lại vật mình xoay người, hai tay ôm
ghì chiếc gối vào ngực, rồi mở to mắt nhìn ra phía có ánh trăng lọt vào, lẩn thẩn
đếm từng bóng lá cây lay động trên bức màn the. Một cơn gió thổi qua rào rào
trong rặng tre sau nhà. Nhung thở dài:
- Không biết đêm nay mình làm sao thế này?
Nàng thở dài thật mạnh một lần nữa cho khỏi thấy cái cảm giác
nặng nề đè nén trên ngực, rồi nhắm mắt lại cố ngủ. Nhưng nàng không sao ngủ được,
thấy đứa con nằm bên cạnh, nàng ngồi dậy, phe phẩy quạt cho con.
Nét mặt ngây thơ của đứa bé ngủ một cách bình tĩnh dưới bóng
trăng làm cho Nhung tự thẹn về những ý nghĩ bất chính dồn dập trong tâm trí
nàng lúc đó. Những ý nghĩ này, nàng thấy mang máng là bất chính, nhưng nàng
không hiểu tại sao lại bất chính, và cũng không muốn tìm xem cho rõ là những ý
nghĩ gì.
Nhung lại nằm xuống và vô tình quen tay với cái gối ôm vào
lòng. Nằm được một lúc, tự nhiên nàng hất cái gối ra, vứt mạnh vào góc màn, rồi
ngồi nhổm dậy, bước xuống đất có vẻ bực tức. Thấy trong người nóng bừng mà cơn
gió mát ban đêm cũng không làm bớt được. Nhung mở hòm lấy quần áo và cầm chiếc
khăn mặt bông ra phía bể nước mưa.
Nàng cởi áo cánh rồi vội vàng lấy gáo múc đầy thau nước, dội
mạnh từ cổ xuống chân. Nhung thấy hơi dễ chịu, nước mưa mát dội vào làn da làm
cho nàng có cái cảm tưởng được mặc một chiếc áo lụa mềm mỏng, êm mát. Dưới bóng
trăng, hai cánh tay tròn trĩnh của nàng đã trắng lại càng trắng hơn, mấy dòng
nước từ từ chảy từ vai xuống bàn tay lấp loáng ánh sáng. Một cơn gió thổi qua
mơn man cánh tay như một cái hôn nhẹ nhàng. Nhung rùng mình, nhắm mắt, cúi đầu
úp mặt vào chậu thau, lấy tay vỗ nước lên trán lên má.
Nghe tiếng động, Nhung ngửng lên. Bà Án đứng bên kia bể nước,
hỏi:
- Con tắm đấy à?
Nhung đáp:
- Thưa mẹ vâng. Trời nóng quá... Mẹ có rửa mặt con lấy thau
nước mẹ rửa, nước mưa mát lắm.
Bà Án nhìn con dâu âu yếm nói:
- Thôi, con liệu tắm mau mà vào, khéo không cảm. Ai lại một
hai giờ đêm còn tắm như thế.
Rồi bà ra ngồi chiếc ghế mây dài đặt ở góc sân, dưới giàn
thiên lý. Nhung mặc quần áo xong, bắc ghế ngồi cạnh bà Án. Nàng rút lược, rũ
tóc ra trước gió cho chóng khô, rồi đưa mắt nhìn vớ vẩn. Gần chỗ nàng ngồi, mấy
luống huệ nở hoa đều, mỗi lần gió thoảng qua, trông những bông huệ như một chùm
sao trắng rung rinh. Hương thơm hoa huệ lẫn với hương thơm hoa lý, hoa lài tản
mạn trong không khí thanh tịnh ban đêm, phản phất quanh chỗ Nhung ngồi khiến
Nhung tưởng như tóc nàng, áo nàng và cả da thịt nàng cũng đượm hương thơm ngát.
Nàng ngây ngất nhớ lại đêm động phòng hoa chúc năm năm về trước hồi nàng mới mười
tám tuổi, vì hương thơm mấy thứ hoa đêm nay phảng phất giống mùi nước hoa mà
các chị em phù dâu đã vẩy trên chăn, gối cưới của nàng.
Ngày ấy đối với nàng đã xa lắc: Chồng nàng - người chồng mà
nàng chỉ kính chứ không yêu - mất đi đã gần ba năm - đến nay không còn để lại
cho nàng một chút nhớ thương gì, mà chỉ để lại cho nàng cái dư vị chua chát của
một quãng đời ái ân chưa thỏa mãn.
Thấy hai người ngồi đã lâu không nói, Nhung cúi đầu nhìn qua
rặng cam, bảo bà Án:
- Ở bên kia có đèn sáng, không biết đèn của ai?
Nàng nói câu đó cho có câu mà nói, chứ thật ra nàng đã thấy
bóng đèn của ông giáo dạy học lũ con trong nhà. Bà Án đáp :
- Chắc đèn thầy giáo. Độ này sắp đến kỳ thi nên phải thức
khuya học.
Rồi nhân tiện bà nói chuyện về tính nết ông giáo khen ông
giáo ngoan ngoãn, chăm chỉ. Nhung vui thích ngồi nghe bà Án khen ông giáo,
nhưng nàng vẫn lấy làm lạ rằng bà mẹ chồng trước mặt nàng lại kể lể tính nết tốt
ông giáo, một cách rất tự nhiên như vậy. Nàng khó chịu vì bà Án đã quá tin nàng
đến nỗi mời ông giáo về nhà dạy trẻ, coi như một sự bình thường, không kể đến rằng
trong nhà có một nàng dâu góa trẻ. Nhung nói nửa đùa nửa thật:
- Lúc ông ấy học ông ấy chẳng nghĩ gì đến tiền đâu.
- Dầu đèn là mấy tí. Cốt người ta hết lòng dạy trẻ.
Nhung tự nói như vậy nhưng ngay từ khi ông giáo chưa đến ở dạy
học, còn thỉnh thoảng đến nhà chơi với em chồng nàng, nàng đã đem lòng thương hại,
vì biết ông giáo đang học ở trường bách nghệ thì bị đuổi, nhà nghèo lại không kế
sinh nhai. Cách đó ít lâu, vì trong nhà đông trẻ cần một ông giáo, nên em chồng
nàng đưa bạn về dạy học tư ở nhà mình. Đến nay đã hơn một tháng mà Nhung vẫn
coi như là không có ông giáo ở trong nhà, thỉnh thoảng gặp, nàng cúi chào lấy lệ,
rồi lại thôi không để ý đến nữa.
Nhưng hôm qua... một sự tình cờ đã làm rối loạn cả tâm hồn
nàng.
Chiều mát, nàng ra đứng tựa cửa hóng gió, mải cúi mặt ngắm mấy
chậu lan. Lúc ngẩng lên, Nhung thấy ông giáo đứng ở bên kia đường đăm đăm nhìn
mình. Nhung không sao quên được vẻ hai con mắt ông giáo nhìn nàng lúc đó, tuy ở
góa đã lâu, chung quanh lúc nào cũng có người săn đón mà không lần nào thấy
mình cảm động một cách mãnh liệt như thế. Nàng vội cúi mặt cho ông giáo khỏi
ngượng, rồi quay vào nhà, nhưng từ lúc đó nàng đã mất cả sự bình tĩnh trong tâm
trí, sinh ra mong ước vẩn vơ và bắt đầu nhận thấy đời mình đương sống là một đời
thiếu thốn và ngang trái. Nhưng không phải nàng yêu vì cái cảm giác dịu dàng,
êm ái của một người bắt đầu yêu, nó là một nỗi lo sợ viển vông về những việc
không thể tưởng tượng được.
Nhung liếc mắt nhìn vào trong nhà, dưới ánh đèn để ở bàn thờ
lờ mờ hiện ra bức ảnh chồng nàng đặt bên cạnh bài vị. Nhung nhìn chăm chú vào bức
ảnh chồng như người đương đi trong đêm tối nhìn ánh lửa đằng xa để đoán lối bước
lên. Nhung nhìn bức ảnh chồng, nàng vẫn thấy dửng dưng như không, chồng nàng đã
mất đi là mất hẳn, không còn một chút liên lạc gì đến đời nàng nữa.
Có tiếng trẻ khóc trong nhà, bà Án bảo con dâu:
- Thằng Giao nó khóc, mợ vào với nó một tí.
Nhung bế con ra ngoài hiên, đi đi lại lại, miệng se sẽ hát
ru. Ôm đứa con trong lòng, Nhung thấy tâm hồn rạo rực, nàng nhìn con nựng :
- Con tôi hôm nay quấy quá, không được ngoan ngoãn.
Nhung nhận thấy câu đó chỉ vào mình rất đúng: nàng tình cờ mượn
câu mắng yêu con để tự trách mình.
Lúc qua cửa buồng khách, nàng đưa mắt nhìn lên bức hoành phi
treo trên tủ chè đề bốn chữ vàng:
TIẾT HẠNH KHẢ PHONG
Bà Án đã nhiều lần nói chuyện khoe khoang với mọi người quen
thuộc, hoặc kể lại cho nàng nghe lai lịch bà Tổ mẫu ở góa thờ chồng nuôi con,
sau được nhà vua phong tặng.
Bốn chữ "Tiết hạnh khả phong" to lớn ở bức hoành,
tuy ngày nào nàng cũng trông thấy, nhưng đêm nay nàng phải để ý nhìn kỹ và nghĩ
ngợi bâng khuâng.
II.
Bà Án vào buồng thấy con dâu đang ngồi ở đầu giường xoay mặt
vào trong. Bà lên tiếng gọi:
- Kìa mợ Tú không ra cho các thím ấy ăn cơm.
Nhung vẫn yên lặng không đáp. Nhìn kỹ biết là con dâu đương
ngồi khóc, bà Án thấy mình cũng rươm rướm nước mắt. Nhưng bà khóc chẳng qua vì
cái khóc đối với đàn bà rất hay lây, chứ không vì thương con dâu, hay vì nhằm
ngày giỗ, bà động lòng nhớ đến con. Những lúc ấy thì bà cần phải nói gắt gỏng để
che ngượng:
- Thôi ra thôi, mợ.
Nhung lấy gương soi quấn lại tóc. Nàng rút khăn lau vội nước
mắt, và có ý lau qua loa để cho mọi người nhìn nàng còn biết là nàng vừa mới
khóc.
Lúc nàng đi ngang qua buồng khách, những người đang ăn cỗ với
em chồng nàng đứng dậy chào. Mắt hoa lên, tuy toàn là bạn thân của chồng nàng,
thường ngày vẫn đến chơi nhà, mà nàng không nhận ra một ai, nàng chỉ biết những
người ngồi đó là những người đàn ông trẻ tuổi, đang chăm chú nhìn mình. Nàng
nóng bừng mặt, ngượng nghịu chào lại, rồi cúi đầu đi sát bên tường. Có một điều
không biết tại sao nàng chắc chắn tuy nàng chưa kịp nhìn khắp mặt là trong số
những người ấy, không có ông giáo.
Mấy người em dâu và em họ Nhung với lũ trẻ đã ngồi xúm quanh
mâm cổ, Phương, em ruột Nhung, đăm đăm nhìn chị đi vào rồi cất tiếng nói :
- Chị tôi lại nhớ anh ấy rồi. Khóc đỏ cả mắt lên thế kia...
Hòa em dâu nàng, tươi cười tiếp theo:
Hòa nói thế là muốn nhắc mọi người để ý đến đôi má đánh phấn
hồng rất nhẹ của Nhung. Sau mấy năm, Nhung mới bắt đầu đánh phấn vài hôm nay,
nhưng đánh rất ít, cốt không cho ai nhận thấy. Nghe Hòa nói vậy, nàng chột dạ
và hơi ngượng, nàng khó chịu vì thấy không một cử chỉ cỏn con nào của mình là
không có người để ý đến, nhưng nàng vừa khó chịu, vừa có cái vui nhận thấy
trong vẻ mắt các chị em nhìn nàng, cái ý khen phục và thèm muốn nhan sắc của
mình. Nàng tưởng như ai cũng muốn nói:
- Trông chị Nhung hãy còn xuân lắm...
Nhung cúi đầu so đũa trong khi các chị em nói chuyện ồn ào.
Ai cũng có vẻ mặt vui tươi và cũng sung sướng được dịp hội họp đông đủ. Tuy là
ngày giỗ chồng nàng, mà Nhung không thấy ai nhớ đến nữa, chính ngay nàng cũng vậy,
gặp ngày giỗ thì nàng theo bổn phận một nàng dâu làm cỗ bàn và cúng lễ cũng như
mọi ngày giỗ khác.
Thấy chị em giục, nàng cầm đũa gắp lấy lệ. Tuy đói, nhưng
nàng ăn không thấy ngon. Nàng cũng không dựa vào câu chuyện của mọi người bàn về
việc nhà cửa, chồng con. Càng những ngày nhà có việc, mọi người về đông đúc,
Nhung cảm thấy mình lẻ loi, những lúc ấy, nhân dịp nhà đông không ai để ý đến
mình, nàng thường lánh ra một nơi vắng như một người buồn mà cứ thích yên lặng
ôm ấp lấy cái buồn của mình không muốn để ai khuyên giải.
Bỗng nàng ngừng đũa lắng tai. Ở phòng bên có người nói đến
tên ông giáo. Nhung nghe kỹ thì ra tiếng Thường, bạn của em chồng nàng:
- Sao bây giờ mà không thấy Nghĩa về.
Tiếng một người khác tiếp theo:
- Hay là rớt, sợ xấu hổ không dám về.
Tuy mới là lời dự đoán, nhưng Nhung đã thấy mừng, vì lời dự
đoán Nghĩa rất hợp ý mong mỏi ngấm ngầm của nàng. Từ hôm Nghĩa đi thi, nàng lấy
làm khó chịu và vẫn thầm trách Nghĩa nghĩ đến sự thi cử để tìm cách rời bỏ nhà
này, tuy nàng vẫn biết rằng trách ông giáo như vậy là vô nghĩa lý.
Hòa nghe buồng bên nói chuyện ông giáo chưa về nên bảo Nhung:
- Ông Nghĩa chưa về, nhưng không biết nhà tôi có mời các ông ấy
ăn cơm trước không? Ông Nghĩa về ăn cơm sau cũng được.
Nhung thẫn thờ đáp:
- Họ đương ăn bên ấy. Đợi làm gì?
Thấy mọi người nói đến Nghĩa là một cách coi thường, nàng
cũng cố làm ra như vậy. Vừa lúc đó Nghĩa đi ngang qua ngoài hiên, Hòa vui vẻ
nói:
- Kìa! Ông Nghĩa đã về, vừa nói đến ông ấy xong...
Câu nói tự nhiên của Hòa như diễn hộ Nhung cái mừng thấy
Nghĩa về. Nàng thì nàng không thể nào thốt ra được một câu như thế. Nghĩa quay
đầu lại và tình cờ nhìn vào chỗ Nhung ngồi.
Nhung thấy cái cảm giác lẻ loi biến đâu mất. Nhìn các chị em
ngồi quanh mâm nói chuyện vui vẻ, không nghĩ gì đến cái ý nghĩa của một bữa cỗ giỗ,
Nhung không thấy làm lạ nữa, cho là một sự tự nhiên, tự nhiên như cái vui trở lại
trong tâm hồn nàng lúc đó, song Nhung vẫn giữ vẻ mặt hơi buồn. Nàng đưa bát cơm
lên miệng, nhưng không và vội, lắng tai nghe tiếng nói chuyện ở buồng bên:
- Thế nào, rớt hay đỗ?
Tiếng trả lời nói rất khẽ, Nhung không nghe rõ.
Hòa hỏi Nhung:
- Thế nào, chị tôi ăn đi chứ. Ngồi nghĩ gì vậy...
Thoa, một người chị em bạn nói tiếp:
- Hay lại nghĩ đến anh ấy đấy...
Nhung khó chịu. Nàng muốn quên hẳn người cũ, nhưng một câu nói,
một cử chỉ của nàng là một người đàn bà góa đáng kính phục vì không lúc nào
không thương tiếc chồng.
Nàng đương trầm ngâm với cái ý tưởng chua cay ấy, thì ở buồng
bên, Thường vừa cười vừa nói:
- Thế nào anh Nghĩa? Rớt mà vui thế kia ư? Hay nói dối chúng
tôi đấy?
Nghĩa cũng cười theo:
- Rớt mới đáng cười chứ. Nếu tôi đỗ người ta bổ lên mạn ngược,
thì hết cả ở đây với các anh, hết cả vui vẻ.
Nhung thấy Nghĩa nói câu ấy, giọng cao hơn giọng nói lúc thường.
Nàng đoán:
- Có lẽ định bụng để cho mình nghe thấy chăng?
Nàng mỉm cười, hai con mắt mơ màng nhìn ra ngoài vườn, nàng
ngẫm nghĩ đến cái sung sướng riêng của mình.
Buổi chiều, bên một cái bàn phủ khăn trắng để giữa sân, Nhung
ngồi gọt táo cho con ăn. Em chồng nàng ngồi cạnh, hai tay chống vào cằm, ngửa mặt
nhìn lên, vớ vẩn đếm những ngôi sao bắt đầu mọc trên nền trời sáng. Nhung ngừng
tay hỏi em cho có chuyện:
- Chú Lịch không đi chơi với ông ấy à?
Lịch thấy vợ ở trong nhà đi ra, mỉm cười bảo chị dâu:
- Nhà tôi giữ riệt, đi đâu được.
Hòa lườm chồng, rồi nũng nịu ngồi sát bên cạnh.
- Đi đâu thì cũng chẳng bằng ở nhà.
Ba người lại ngồi yên lặng. Sau những giờ đông đúc, mệt mỏi
vì tiếp khách, dọn cỗ, người nào cũng lấy làm dễ chịu được trở lại cái đời bình
tĩnh ngày thường.
Dưới sân gạch, một con chuồn chuồn ớt bay vòng quanh rồi đậu
ngay gần bàn, Giao rời mẹ, rón rén ra bắt, nhưng cứ gần đến nơi thì con chuồn lại
bay chỗ khác, Lịch cười xòa, nói:
- Giao đuổi nó làm gì? Bắt thế nào được nó.
Hòa nói tiếp:
- Khéo, kẻo đi bắt chuồn lại vồ được ếch đây, chú Giao ạ.
Nhung ngắm nhìn phong cảnh quanh nhà, phong cảnh không bao giờ
thay đổi, trong bao năm nàng nhìn đã quen mắt, nàng thuộc đến cả hình dáng từng
cây mọc ở trong vườn, hay lộ sau các mái nhà, các bức tường. Những mảnh trời và
những làn mây phớt hồng trôi nhẹ sau những thân cây cau trắng, nàng nhìn thấy
có vẻ thân mật như một người bạn quen từ lâu, mây tuy mỗi lúc một khác nhưng
nàng tưởng như chiều nào cũng giống như chiều nào, cũng vẫn những đám mây hôm
qua bay nguyên ở góc trời cũ: hình ảnh cuộc đời bằng phẳng của nàng êm ả, nhẹ
nhàng trôi theo ngày tháng.
Xa nữa, trên mấy nóc nhà tranh, ngọn một rặng nhãn, lá xanh
đen in lên nền trời: chỗ ấy là nhà của cha mẹ nàng. Nhà nàng và nhà chồng nàng
đời đời an nghiệp ở đây, trừ mấy năm đi học xa, còn từ bé nàng sống trong cái
xã hội nhỏ như con cá cả đời sống trong một cái ao con, chung quanh toàn người
quen thuộc và yêu trọng nàng. Nàng lấy ông Tú vì hai nhà quen thân với nhau, vì
đó là một sự rất tự nhiên, phải thế. Nàng không hề nghĩ ngợi gì và không bao giờ
tưởng đến ý nghĩa của ái tình.
Ông Tú mất đi, nàng vẫn ao ước được yên ổn mãi mãi với nhà chồng,
được luôn luôn sống gần gũi bố mẹ đẻ và nuôi con cho thành người... Sự mong mỏi
sống như vậy trước kia nàng tưởng dễ dàng lắm.
Nhung tự hỏi thầm:
- Nhung bây giờ?...
Nghĩ đến Nghĩa, đến cái cảm giác mới mẻ của một thứ ái tình bắt
đầu nhóm trong lòng, Nhung lo sợ. Nàng đoán thấy hạnh phúc đợi chờ nàng, mà
nàng không dám tìm đến cái hạnh phúc đó. Nàng cúi nhìn con nàng vẫn cứ cặm cụi
rình bắt con chuồn chuồn, không biết rằng chẳng bao giờ bắt nổi nó.
Muốn tránh mối lo sợ về mai sau, Nhung đành tự lừa dối mình,
chỉ nghĩ những phút thần tiên của hiện tại. Nàng cho rằng không bao giờ có sự
thay đổi. Nàng tưởng tượng Nghĩa suốt đời ở cạnh nàng, rồi hai người cứ yêu
nhau một cách kín đáo như bây giờ, mãi mãi. Nàng cho là có thể như thế được lắm.
Cái ý tưởng ấy đã làm cho nàng bình tĩnh trong tâm hồn, vì nó vừa giúp nàng
quên cái lo sợ về một sự thay đổi mãnh liệt, nó vừa thỏa được lòng khát khao
tình ái của nàng.
Lịch nhác thấy Nghĩa đứng hên kia đường hoa bèn lên tiếng gọi:
- Anh Nghĩa sang đây ăn lê, táo.
Bên bàn còn mỗi cái ghế để không ngay cạnh chỗ Nhung, Nghĩa
ngồi vào ghế và cố giữ vẻ tự nhiên, chàng với điếu thuốc lá, nhưng không hút vội,
tay cầm bao diêm táy máy nhấc lên lại bỏ rơi xuống bàn.
Không ai nói câu gì, vì câu chuyện đáng nói nhất lúc đó là
câu chuyện Nghĩa rớt mà ai cũng tránh không muốn đả động tới, sợ Nghĩa buồn.
Nhung gọi con lại, cúi đầu ve vuốt tóc con. Nàng nhấc mũi giầy
lên ấn xuống, muốn đứng dậy đi ngay chỗ khác, nhưng vẫn ngồi yên đầy. Tuy lúc
đó, Nghĩa đương nhìn bao diêm mà nàng tưởng như Nghĩa nhìn nàng. Nhung không
dám cử động chân tay sợ người ta nhận rõ cái bối rối của mình, nhưng nàng cũng
không muốn ngồi yên, vì càng ngồi yên, Nhung càng thấy mình không có vẻ tự
nhiên và càng khó giữ nổi những ngón tay nàng rung trên nền áo.
Hòa hỏi vẩn vơ:
- Chiều hôm nay thế nào mà không có gió.
Nghĩa nói:
- Có gió hơi hơi. Cứ nhìn cây đề thì biết ngay.
Nhung ngẩn nhìn ra phía cây đề, một cây đề cao lớn mọc ở cạnh
ao. Nghĩa nói tiếp:
- Ngọn các cây khác yên tăm tắp, chỉ có một mình cây đề là
rung động.
Lịch nói:
- Anh Nghĩa nhận xét cũng khá đúng.
Nhung cho rằng vì Nghĩa đoán được cái cảm động của nàng, nên
nói một câu có ngụ ý để ám chỉ nàng.
Giao nghển cổ giơ tay với quả lê để ngay cạnh bàn, quả lê rơi
lăn xuống gạch. Nhung nghiêng mình với theo, nhưng Nghĩa nhanh chân chạy ra cầm
lấy quả lê trước. Nhung ngập ngừng nói:
- Xin ông.
Nghĩa vừa đặt quả lê vào lòng bàn tay Nhung vừa nhìn đăm đăm
vào hai mắt nàng, và cố ý để yên bàn tay lâu một chút.
Nửa vì cúi xuống với quả lê, nửa vì hổ thẹn, Nhung thấy nóng
bừng hai bên má. Nàng bối rối mắng con:
- Thế là giập mất quả lê, chú mình hết ăn. Thôi để mợ cất đi
cho Giao hết táy máy.
Nàng lấy cớ cất đĩa quả để đứng dậy đi ra chỗ khác. Nàng vội
vào buồng mình và đến trước cái gương tủ đứng. Có một lẽ Nhung không muốn tự
thú vì nàng sợ mình thẹn với mình, là nàng muốn vào buồng soi gương xem vẻ mặt
nàng lúc đó ra sao. Nàng mím môi, nhìn vào hai con mắt mình trong gương, đứng
yên lặng một lúc ngắm nghía, rồi thong thả đưa tay sửa lại mái tóc. Nhung có
cái sung sướng, ngây thơ nghĩ đến rằng Nghĩa đã nhìn nàng trong một lúc nàng có
nét mặt xinh đẹp khác thường.
Bỗng nàng lắng tay nghe tiếng bà Án nói chuyện với ai ở buồng
khách. Nghe được một lúc, nàng cau mày khó chịu, bà Án đương khoe nàng với một
người khách lạ. Lần này cũng như bao nhiêu lần trước, nàng lại nghe thấy cũng
những câu khen ấy, hình như bà Án đã thuộc lòng hễ động ai nhắc đến con trai và
con dâu là đem ra kể lể.
Bà khách - mà Nhung nghe tiếng chưa đoán ra được là ai - thỉnh
thoảng lại chêm vào một câu:
- Ồ, quý hóa quá! Thật là nhà tốt phúc.
Yên lặng một lúc lâu rồi bà khách hỏi:
- Mợ ấy cũng người làng này?
Bà Án đáp:
- Vâng, mợ cháu con cụ Nghè Kinh, chắc cụ có quen.
- Có, tôi hơi quen, quen từ độ ông cụ còn ở trên Bắc, nhưng
tôi không biết mặt những người con.
Bà Án lên tiếng gọi:
- Mợ Tú.
Nhung biết là mẹ chồng gọi đến để bà khách xem mặt. Nàng rón
rén đi thật nhẹ ra ngoài hiên cho xa, rồi mới khẽ "dạ" một tiếng và
làm bộ tự nhiên đi vào. Thấy bà khách, nàng nghiêng mình chắp tay chào rất có lễ
phép, kính cẩn ra vẻ một con nhà nề nếp. Bà Án dịu dàng bảo Nhung:
- Con vào lấy chai chè ướp sen để pha nước cụ xơi.
Nhung đáp:
- Thưa mẹ, con lấy thứ chè ướp hoa sen sao nhà. Thứ ấy ngát.
Nhung nói với mẹ chồng làm như không biết bà khách đương nhìn
mình, ngắm nghía mình. Nàng tưởng nàng lúc đó như một thứ hoa quý trong nhà, hễ
có khách đến đem ra khoe cho khách thưởng ngoạn để lấy tiếng khen. Tuy vậy,
Nhung cũng thấy dễ chịu mỗi lần được người ta ngỏ ý kính phục: những lời khen
tuy đã nhàm nhưng vẫn làm thỏa được lòng tự cao của Nhung về nhân phẩm mình.
Nàng dọn ấm chén vội vàng, trong lòng thầm mong Lịch và Nghĩa
còn ngồi nói chuyện ở đó. Nhưng lúc ra đến nơi thì chỉ còn trơ cái bàn phủ khăn
trắng và mấy cái ghế bỏ không.
Nắng đã tắt hẳn. Ánh sáng trời chiều êm dịu tỏa mờ trên cây
sân gạch. Nhung đứng dựa vào cột nhà. Nhìn mấy cái ghế không nàng thấy buồn bã
lạ thường, cái buồn vô cớ tự nhiên đến. Nào có gì đâu mà nàng như mang máng tiếc
rằng vừa bỏ qua những giây phút đáng sống nhất trong đời, nàng như ngẩn ngơ thấy
một vật gì rất quý mất đi không phương vớt lại được nữa.
Nhung ra sân. Nhìn về phía ao, nàng thấy hai vợ chồng Lịch và
Nghĩa đương đứng ngắm hoa sen.
Hòa giơ tay chỉ trỏ rồi nàng nghiêng mình về phía Nghĩa, cười
cười nói nói với Nghĩa một cách rất tự nhiên. Nhung ao ước được như Hòa. Nàng
muốn chạy ra ngay bờ ao sen với ba người, nhưng không dám, vì nàng thấy cử chỉ ấy
không tự nhiên lúc nào.
Nhung đứng tựa vào bàn yên lặng ngắm bóng ba người in nổi bật
lên giải sen lốm đốm hoa trắng. Gió chiều đưa lại thơm ngát mùi hoa.
III.
Nhung thong thả đẩy cánh cổng, một con chó sồng sộc ở trong
nhà chạy ra có vẻ dữ tợn, nhưng thấy người quen thì đứng lại ngay, ve vẩy đuôi
mừng rỡ. Con chó ấy chính tay Nhung mua về, hơn mười năm trước. Nàng không ngờ
nó sống được đến tận bây giờ. Nhìn con chó mình đã nuôi nấng, chăm chút từ hồi
còn bé, nay già yếu hai con mắt nó lờ đờ, mỏi mệt, Nhung thương hại cất tiếng gọi:
- Bông lại đây.
Vú già đương hái rau trong vườn nghe tiếng Nhung ngửng đầu
lên khỏi dậu dâm bụt:
- Cô về chơi, may quá!
Nhung lo lắng hỏi:
- Sao lại may?
Nàng đoán là trong nhà mới xảy ra chuyện gì không hay. Vú già
mừng rằng có nàng về mọi việc sẽ yên ổn. Chỉ có nàng là cả nhà ai cũng nghe,
cũng nể, Nhung cũng biết vậy, nên cứ một, hai ngày nàng lại về thăm nhà để bàn
tính mọi công việc như khi hãy còn là con gái ở nhà.
Nhung vào buồng chào mẹ. Bà Nghè không đáp, cũng không quay mặt
ra hỏi chuyện nàng vồn vã như mọi lần. Nàng đoán là mẹ nàng giận Phương, vì đã
hơn một năm nay, Phương cứ nhất định không chịu lấy con cụ Tuần người cùng
làng. Nhung yên lặng ngồi xuống phản, những lúc mẹ nàng giận dữ, nàng không hỏi
bao giờ, cứ việc ngồi đợi bà cụ nói trước.
Một lúc lâu, bà Nghè mới cất tiếng hỏi:
- Con sang chơi.
Nhưng bà vẫn không quay mặt. Bà lấy khăn tay lau mắt, rồi vừa
thổn thức vừa nói một mình:
- Tôi chịu cô ấy thôi.
Biết là chuyện gả chồng cho Phương, nên cũng như mọi lần,
Nhung nói như an ủi mẹ bằng câu:
- Mẹ hãy thong thả, rồi liệu dần dần.
Bà Nghè quay mặt ra bảo Nhung ngồi sát gần mình rồi nói tiếp
:
- Cô chưa biết chuyện. Còn tôi, tôi có ngờ đâu ra nông nỗi
này...
Bà kể chuyện cho Nhung biết rằng Phương không thuận lấy con
ông Tuần, vì đã một năm nay Phương phải lòng Lũy. Nhung sửng sốt hỏi:
- Lũy, con nuôi...
Bà Nghè tiếp luôn:
- Ừ, Lũy con nuôi Phó Bạt.. Đê điếu chưa, con!
Nhung lặng người đi, bà Nghè nói :
- Tao có ngờ đâu... đến bây giờ thằng Minh nó mới cho tao
hay. Mà nó lại còn bênh con Phương chầm chập. Nó bảo chúng nó đã yêu nhau thì
cho chúng nó lấy nhau... Dễ dàng chưa.
Nhung vừa nghe mẹ nói vừa ngẫm nghĩ. Nàng cũng cho em nàng
nói là phải, hai người yêu nhau thì cho hai người lấy nhau, dễ dàng lắm. Song
tuy nghĩ vậy mà nàng vẫn thấy có cái gì bảo nàng thế lá trái, không thể được,
Bà Nghè bảo Nhung:
- Cô liệu lấy lời hơn lẽ thiệt mà khuyên con Phương để khỏi xấu
đến gia phong nhà mình. Tôi, tôi chỉ tin ở cô... Nếu con Phương nó cũng biết
nghĩ đến danh giá, đến liêm sỉ như cô, thì đâu nên nỗi...
Bỗng bà Nghè ngừng lại, đăm đăm nhìn vào mặt Nhung và tỏ vẻ
ngạc nhiên: Nhung biết là mẹ để ý đến mặt phấn của mình. Nàng ngượng quay đi,
cúi với chiếc quạt để ở đầu phản rồi vừa quạt thật mạnh vào mặt vừa nói:
- Gớm mấy hôm nay, trời nóng quá... con bị rôm mọc đầy mặt, cả
cháu Giao cũng vậy, con phải lấy phấn xoa cho cháu mới thấy đỡ.
Nhưng nàng vẫn không bỏ được cái cảm tưởng rằng giá trị của
mình đối với mẹ đã bị giảm bớt. Nàng hỏi mẹ:
- Thầy con đã biết chưa?
- Có, biết rồi. Ấy, thầy vừa gắt thằng Minh ầm nhà lên đấy.
Bà than thở:
- Mẹ già nua tuổi tác, cũng mong cho con lấy được chồng tử tế
ở cùng làng để hôm sớm mẹ con có nhau.
Bà rươm rướm nước mắt, dịu giọng nói với Nhung:
- Mẹ thương con góa bụa, nhưng nghĩ rằng bấy lâu con đã biết
đường ăn ở, trong họ, ngoài làng, ai ai đều kính nể, nên mẹ cũng được chút thơm
lây và vui vẻ lúc tuổi già. Bây giờ em con như thế, mẹ thật lấy làm buồn lắm...
Nhung nghiệm ra rằng bà Nghè nói đến việc Phương muốn lấy Lũy
như là nói đến một việc đã quá lỡ rồi: bà chỉ than thở, chứ không tỏ ý quả quyết
ngăn ngừa. Nhung cũng cho rằng việc đó không sao tránh được, vì nàng biết tính
em nàng rất ương ngạnh.
Nàng vừa phe phẩy quạt cho mẹ, vừa nói an ủi:
- Xin mẹ cũng đừng lấy thế làm phiền.
Nhung định nói tiếp thêm rằng nàng sẽ mãi mãi ở cạnh mẹ để
cho mẹ vui tuổi già, nhưng nàng thấy ngượng mồm nên lại thôi. Bà Nghè hỏi:
- Sao con không cho thằng Giao theo sang?
- Thưa mẹ, con sợ mưa.
Nhung mừng rằng bà Nghè đã nói sang chuyện khác. Nàng lấy cớ
trời sắp mưa, đứng dậy xin phép về. Khi qua ngang nhà thấy Minh đang đi đi lại
lại, nét mặt cau có, Nhung tạt vào, Minh hỏi:
- Chị có gặp Phương bên ấy không?
- Không.
Hai chị em nhìn nhau hồi lâu, rồi Nhung nói:
- Tôi vừa biết chuyện. Mẹ giận chú lắm đây.
Minh đáp:
- Để thầy mẹ giận một lần còn hơn là giận mãi... chị thì chị
nghĩ thế nào?
Nhung chưa kịp nghĩ ra sao, nên nói vẩn vơ:
- Tôi cho rằng điều cốt nhứt là đừng làm phiền lòng thầy mẹ
vô ích. Chú cứ hay thẳng tính quá.
Minh tắc lưỡi:
- Tôi nghĩ sao nói vậy, còn hơn là giả dối.
Nhung hai con mắt mơ màng thong thả nói:
- Nhiều cái khổ mình phải chịu lấy một mình. Ai chẳng biết
sung sướng lấy thân, nhưng nhiều khi cũng phải nghĩ đến nhà mình, đến danh giá...
Nhung thấy em chăm chú nhìn mình như dò ý tưởng, nên không
nói hết câu. Nàng nhận thấy câu nàng nói có vẻ giả dối, giả dối như đời nàng sống
bấy lâu: nàng nghĩ một cách mà sống một cách khác.
Nhung vừa đi ra vừa nói:
- Chắc Phương sang chơi bên tôi.
Minh dặn với:
- Chị có gặp Phương xin chị đừng đả động gì tới việc ấy.
Trời bắt đầu lấm tấm mưa. Nhung chạy vội về nhà, một tay để
lên trán che những giọt nước mưa khỏi rơi vào mặt. Đi hết rặng chuối, Nhung quặt
sang con đường nhỏ hẹp để về ngõ nhà. Bỗng nàng bước chậm lại vì thấy Nghĩa đứng
ở cổng. Nàng đoán là Nghĩa ra đây cốt đợi mình về để được nhìn mặt.
Lúc nàng đi qua, Nghĩa nép mình vào cánh cửa nhường lối. Một
cơn gió thổi mạnh rồi bỗng mưa xuống như trút nước. Nhung vừa thở vừa đứng dừng
lại dưới mái cổng. Trong lúc bối rối, nàng nói không nghĩ ngợi.
- May quá, vừa đến đây thì mưa to.
Nói xong, nàng mới biết là mình lỡ lời. Nghĩa nói:
- Để tôi gọi người nhà lấy nón, bà vào cho đỡ ướt.
- Thôi ông ạ.
Nhung sợ người nhà ra thấy hai người cùng đứng dưới mái cổng
e không tiện. Nàng cúi nhìn những hạt mưa ở mái rơi ở mái rơi xuống làm nổi
bong bóng trên những rảnh nước đục ngầu. Một cơn gió hắt mưa vào chỗ Nhung đứng
và thổi lật tà áo, nàng thấy hơi lành lạnh. Nghĩa nói:
Nhung vẫn đứng yên chỗ cũ. Sau một phút yên lặng khó chịu,
Nghĩa nói:
- Ít khi mưa ngâu mà to thế này.
Hai người cùng nghĩ đến Ngưu Lang và Chức Nữ. Nhung đoán
Nghĩa đang nhìn mình: nàng rút khăn chấm những giọt mưa đọng trên tóc, trên má
rồi thong thả quay lại. Hai người lặng lẽ nhìn nhau. Nhung không hiểu sao lúc
đó mình bạo dạn đến có thể nhìn vào mặt Nghĩa lâu được như vậy. Song đến khi
nàng bắt đầu chớp mắt thì nàng cũng bắt đầu thấy thẹn, thẹn một cách lạ thường.
Hai má nàng bừng bừng nóng và quả tim nàng như ngừng đập. Nàng quay mặt đi, rồi
cắm đau bước xuống vườn mê man quên cả mưa, đi vội vã như người đi trốn.
Vào đến hiên nhà khi đứng lại thở, Nhung mới hối hận rằng đã
bỏ chạy một cách vô lý: làm như thế tức là đã ngỏ cho Nghĩa biết rõ lòng mình,
đã thú với Nghĩa rằng mình yêu Nghĩa. Nghĩ vậy, nàng lại thấy cái thẹn tăng hơn
lên.
Nhung rú mưa, đi vào buồng khách. Phương đương ngồi nói chuyện
với Hòa, nhìn ra hỏi:
- Chị đi đâu về mà ướt tầm tã thế kia?
- Tôi vừa về thăm nhà.
Phương nhìn chị chăm chú để xem chị đã biết chuyện thì ý chị
ra sao. Nàng rất cần Nhung bênh nàng, rất cần những lời an ủi và biểu đồng tình
của Nhung trong khi nàng đau khổ, bứt rứt. Nhung đoán được ý nghĩ của em, nên vội
dịu nét mặt nhìn em một cách âu yếm như có ý bảo:
- Chị đã biết chuyện rồi, đã hiểu nỗi lòng của em. Chị sẽ tìm
cách giúp.
Phương vui vẻ nhìn mưa, nói:
- Mưa thế này thì rồi về ra làm sao?
Nhung biết là em nói câu ấy để cho người ta giữ lại, nên vội
mời:
- Cần gì về. Dì ở đây ăn cơm rồi ngủ luôn đây nói chuyện cho
vui.
Hòa nói tiếp:
- Phải đây, chiều hôm nay mát trời, tôi đã bảo nó làm cháo
ám. Con cá quả to béo lắm.
Có tiếng người đi ngoài vườn Nhung lắng tai nghe thấy tiếng
Nghĩa nói chuyện với ông hậu Đôn, người anh họ chồng nàng.
Lịch ở buồng bên thấy Đôn đến liền chạy ra nói đùa:
- Trời mưa ngâu mà ông anh tôi sang chơi đây. Hay là ghé thăm
bà nào rồi nhân tiện tạt qua.
- Bà nào hôm nay cũng đi vắng cả.
Nói xong, Đôn cười để lộ cả hai hàm răng, cái cười ngây ngô của
một người chưa bao giờ phải lo nghĩ, cả đời chỉ bận bịu tìm những cái vui thú tầm
thường. Mới ngoài ba mươi tuổi mà Đôn đã có ba vợ. Giàu có không biết làm gì,
nên Đôn thấy người nào vừa ý là cưới lấy vợ, tậu cho ít ruộng nương, làm cho
cái nhà để lấy chỗ đi lại. Cứ mỗi lần cưới một cô vợ mới thì Đôn lại có công việc
trong ít lâu. Ai có con thì Đôn chính thức nhận làm vợ bé. Chàng lấy vợ cũng
như người khác chơi cây cảnh cái đó là một cái thú tự nhiên và lịch sự.
Đôn nói:
- Ở nhà cứ ăn cơm đi thôi, thím không về đâu. Thím ăn cơm rồi
ngủ ở nhà tôi với bác, để nửa đêm gọi dì. Có bà dì hay lắm.
Hòa nói:
- Ồ thế chị Tú phải sang mới được. Sang để gọi anh ấy lên.
Đôn nói đùa:
- Nhất là một đêm mưa ngâu gọi thế nào chú ấy cũng lên.
Nhung giật mình nói:
- Mải chuyện quên cả lấy nước cúng.
Theo lệ thường, nàng ra cái chum để ở đầu nhà múc nước. Thấy
trong bát nước có cặn, nàng đổ đi và cầm cái gáo khoáng nước thật kỹ, để mặc
cho những giọt mưa trên mái nhà rỏ xuống tóc, xuống cổ. Bỗng nàng ngừng tay
nhìn lại. Nghĩa từ lúc vào vẫn đứng tựa ở cửa, chàng để tai nghe những người ở
trong nhà nói chuyện, thỉnh thoảng lại nói chêm một câu, nhưng mắt chàng thì
nhìn ra chỗ Nhung đứng. Tuy trong bát nước mưa hãy còn cặn, Nhung cũng đặt gáo
xuống, quay vào. Nàng đi rón rén, hai con mắt chăm chú nhìn vào bát nước khỏi
sóng ra ngoài. Nàng tìm bóng nàng trong đáy bát để xem mình thẹn ra sao, nhưng
nàng chỉ thấy lóng lánh những vòng tròn ánh sáng. Vào đến trong buồng có nhiều
người, Nhung mới đỡ ngượng. Nàng nói:
- Trời mưa, nước chum có nhiều cặn quá. Không được trong.
Nhung gượng nhẹ đặt bát nước lên bàn thờ và rút hương châm đốt.
Mắt nàng lúc nào cũng cúi xuống, vì nàng không muốn thấy ảnh chồng trong lúc
nàng biết Nghĩa đương nhìn theo ngắm nghía mình.
Nghĩa vào ngồi gần Lịch nói:
- Gió lạnh và ngửi mùi hương thơm, có vẻ tết lạ.
Lịch tiếp theo:
- Nói đến tết lại nhớ đến tam cúc. Đến đêm rang ngô ăn, rồi
đánh tam cúc chơi.
Hòa vui mừng nói:
- Thế thì tuyệt.
Lịch nói:
- Ăn ngô rang lại nhớ những cảnh vợ chồng mới cưới.
Rồi chàng quay lại nói với Đôn:
- Chỉ có bác Hậu là lúng túng. Chẳng có lẽ lại ăn ngô rang với
cả ba bà.
Mọi người đều cười ồ. Nhung cũng cười theo, nhưng hai con mắt
nhìn ra ngoài mưa, nàng nghĩ vớ vẩn. Tuy vẫn biết Đôn có ba vợ mà mãi đến bây
giờ, khi nghe Lịch nói đùa, Nhung mới để ý đến. Trước kia nàng thấy việc đó tự
nhiên quá, tự nhiên đên nỗi nàng coi như là không có nữa. Nhung ngẫm nghĩ:
- Sao họ lấy vợ chồng dễ dãi đến thế.
Hòa gọi người nhà bảo dọn một mâm cơm cả nhà ăn chung, nàng
nhìn Nghĩa, nói:
- Như thế cho vui.
Nhung vui vẻ lại gần bàn ăn sửa soạn. Nàng nói:
- Giá có bình hoa thì hay quá.
Lịch cười tiếp theo:
- Chị làm như là một bữa tiệc cưới vậy. Nhưng cưới ai?
Nghĩa đáp:
- Cưới Ngưu Lang và Chức Nữ, cả năm mới được gặp nhau một lần.
Nhung nói:
- Tiệc cưới thì phải có rượu chứ. Để tôi đi lấy chai rượu
vang đỏ.
Nhung sang buồng bên mở tủ lấy chai rượu và mấy cái cốc, nàng
vội vội vàng vàng, trong phòng phấp phỏng lo, chỉ sợ mẹ chồng về, không được ngồi
ăn cơm với Nghĩa, mất cả cái thú vui đánh tam cúc, ăn ngô rang nó đương đợi
nàng và làm nàng hồi hộp như đứa trẻ gặp ngày hội.
Ngoài nhà đã lên đèn. Nhung gượng nhẹ xếp đặt mấy cái cốc
chung quanh ria bàn. Trên tay nàng, ánh đèn xanh chiếu xuống vành cốc thủy tinh
trong làm lấp lánh những tia sáng. Nhung tránh sang một bên đứng lẫn trong bóng
cái bình hoa đặt cạnh đèn để được tự do nhìn Nghĩa.
Thấy Nghĩa đương mãi nói chuyện với Lịch, Nhung cất tiếng
khen mấy bông hoa cắm trong bình: cốt ý của nàng là để cho Nghĩa nhìn đến mình.
Bỗng Nhung lắng tai, lo lắng. Nàng thấy ở ngoài nhà mưa như
muốn ngớt. Nhưng chỉ một lúc sau, tiếng rào rào nghe lại to dần. Nàng thầm mong
mưa như thế mãi suốt đêm, trái hẳn lại mỗi khi hễ cứ thấy mưa to, gió lớn là
nàng rất sợ, nôn nao khó chịu trong người.
Hòa mời mọi người ngồi vào bàn ăn. Đến lúc ngồi xuống ghế rồi,
Nghĩa nhận thấy Nhung ngồi khuất sau cái bình hoa.
Người nhà bưng mâm lên, tìm chỗ đặt các đĩa đồ ăn. Nhung bảo:
- Thôi, anh cất hộ cái lọ hoa ra nơi khác cho rộng chỗ.
Bình hoa vừa cất khỏi, Nghĩa thấy gian phòng bỗng rực rỡ lạ
thường và trên nền bức tường mờ tối, khuôn mặt của Nhung hiện ra, diễm lệ, tươi
sáng và hai con mắt đem lóng lánh nhìn chàng.
Nghĩa nhấc cốc rượu, đặt sát môi như mời thầm Nhung, rồi uống
một hớp nhỏ, khẽ nói:
- Uống đến đâu thấy trong người ấm áp đến đấy.
Nhung cúi mặt định nâng côc rượu uống bỗng ngạc nhiên nói:
- Sao tôi lại những hai cốc? Không lẽ chưa uống đã trông một
hóa hai rồi.
Đôn lấy ngón tay đếm cốc, nói:
- Thím lấy thừa một cốc.
Hòa nhìn Nhung mỉm cười nói:
- Trông chị cả tôi như người mất hồn... Chị có thấy nóng ruột
không?
Nhung không hiểu, Hòa tiếp theo:
- Chắc là ở bên bác, bà dì đương gọi anh Tú lên, vì thế nên
xui khiến chị lấy thừa một cốc. Cốc này là để phần anh ấy đấy.
Nhung cau mày, tức giận về câu nói của Hòa, nhưng vì biết rằng
tỏ cái giận ra với em là một sự rất vô lý, nàng phải vội vàng uống một hớp rượu
để nói lảng:
- Không uống bao giờ, nhắm mắt uống liều xem sao.
Uống được một ít rượu, Nhung trở nên bạo dạn cười nói luôn miệng.
Hơi men bốc lên làm nàng choáng váng, nóng bừng mặt, trên trán như có cái gì nặng
đè lên khiến nàng phải luôn luôn cau đôi lông mày lại - nhưng nàng thấy trong
người bàng hoàng một cách dễ chịu, mê man không nghĩ ngợi gì. Hòa nói:
- Uống rượu vào quên cả buồn. Chẳng trách nào đàn ông họ hay
mượn rượu để giải khuây.
Nhung cầm cốc uống một hơi dài rồi mỉm cười, nói tiếp:
- Nhưng đàn bà thì hình như không được phép quên buồn. Đàn bà
chẳng có cách gì để giải khuây. Khi nào buồn phải ngồi yên khóc cho đến khi hết
buồn thì thôi.
Lịch nói:
- Bà chị tôi diễn thuyết hùng hồn quá. Rượu vào lời ra có
khác.
Hòa nói:
- Ở đây chỉ có chị Tú là đỏ mặt nhất... thứ nhì đến bác Giáo.
Câu nói vô tình của Hòa khiến hai người cùng mỉm cười. Nhờ
hơi mem, Nhung nhìn Nghĩa không thấy thẹn nữa. Nàng nhấc cốc rượu lên môi,
nhưng không uống ngay, trong lòng phơi phới đợi đến khi Nghĩa cùng nhấc cốc
lên. Hai người đắm đuối nhìn nhau và cùng uống một lượt. Nhung nhắm mắt lại,
đôi môi nàng ngậm lấy thành cốc như mềm hẳn đi và nàng thấy rung động cả mình mẩy.
Phương nhìn cốc rượu của chị, kinh ngạc:
- Chị đã uống cạn cốc rồi à? Chị uống ít chứ, chốc lại còn
đánh tam cúc cơ mà!
Nghe lời em, Nhung không uống nữa, nhưng nàng cũng đã say lắm
rồi. Khi đánh tam cúc, nàng thường cho Phương chơi một cửa, ngồi ngoài xem. Lúc
đó, nàng mới nhận ra rằng trời không còn mưa nữa. Bỗng có tiếng gọi cửa, Nhung
hốt hoảng:
- Ấy chết! Mẹ về.
Hòa nói:
- Mẹ về thì mẹ về, làm gì mà chị sợ hãi thế.
Nhung ngượng quá, vì câu nói ấy đã tỏ cho người khác biết rằng
nàng coi những cuộc vui đêm nay, những cuộc vui vụng trộm, mà cái sợ hãi của
người giả đạo đức. Nhung đứng lên toan đi lảng ra chỗ khác. Nhưng không phải bà
Án về, chỉ là con sen, bà Án sai về lấy ít hương vòng. Nhung lảo đảo ra bàn thờ
lấy hương đưa cho con sen, rồi vừa mệt vừa say, nàng về buồng mình nằm gục xuống
giường ngủ thiếp đi. Lúc nàng tỉnh dậy thì ngoài nhà đã tắt đèn.
Phương ngồi bên nàng khẽ nói:
- Chị ngủ nói mê nhiều quá.
Nhung lo sợ vội hỏi:
- Chị nói những gì thế?
Ngồi nhớ lại những cảnh hỗn độn trong giấc mơ, Nhung thấy
mình tự thẹn với mình. Nàng giơ tay vặn đèn lên để ánh sáng làm tan những hình ảnh
trong giấc mơ như còn phản phất trước mắt nàng. Nhung bảo em:
- Chị khô cả cổ, khát nước quá. Em ra lấy hộ chị bát nước
cúng trên bàn thờ.
Nhung đỡ lấy bát nước uống một hơi cạn.
- Mát ruột quá. Trong người chị hình như có lửa đốt.
- Tại chị uống nhiều rượu quá.
Nhung đặt bát nước xuống đất, uể oải ngồi dậy quấn tại tóc.
Hai chị em ngồi yên lặng một lúc lâu. Đoán là em muốn hỏi nàng về câu chuyện
ban chiều, Nhung cất tiếng hỏi, gợi chuyện:
- Em chưa đi ngủ à?
Phương thở dài:
- Em cố nhắm mắt mà không sao ngủ được.
Đến bây giờ Nhung mới cảm thấy nỗi khổ của Phương không được
nhà cho phép lấy người yêu của mình. Trong lúc bắt đầu thấy yêu, nàng muốn nghe
một người khác hiện đương yêu kể chuyện cho nghe để xem ra làm sao và để so
sánh. Nàng nói:
- Ban chiều, khi chị sang bên nhà, mẹ có nói chuyện cho chị
biết.
- Thế chị nói ra làm sao?
Nhung trả lời mập mờ:
- Chị chẳng nói ra sao cả.
Phương nghẹn ngào than thở:
- Em khổ lắm, chị ạ... Chỉ có chị là có thể giúp em được, vì
chị hiểu em và thầy mẹ nể có chị thôi. Em vừa định nói chuyện với chị thì Minh
đã cho thầy mẹ biết ngay.
Nhung hỏi tò mò:
- Em biết Lũy từ bao giờ?
- Đã hơn một năm nay.
Nàng ngồi yên lặng nghe em nói chuyện lại và ngẫm nghĩ đến
tình cảm riêng của mình. Nàng thấy một cách rõ rệt, sau khi cha mẹ nàng bằng
lòng cho Phương lấy Lũy thì nàng không bao giờ có thể lấy Nghĩa được. Nàng nghĩ
cả đến cách cuối cùng bỏ nhà trốn đi với Nghĩa, nhưng mới nghĩ đến nàng đã sợ
hãi, cho là một việc táo bạo không bao giờ dám làm. Nàng nhắm mắt yêu Nghĩa, đắm
mình trong cái thú ngây ngất của tình yêu, không khác gì một người lạc vào rừng
đã biết không có lối ra, mà vẫn cứ mê man với những cảnh đẹp quanh mình.
- Chị sẽ tìm hết cách giúp em.
Nhung thấy mình nói bằng một giọng thờ ơ như không tin ở công
hiệu việc mình làm, nhưng Phương khi nghe câu ấy sung sướng lộ ra nét mặt.
- Chị nói thì thế nào mẹ cũng nghe.
Nàng nhìn chị, ngập ngừng nói tiếp:
- Chị thương em, chị cố giúp, nhưng em chắc chị buồn về em lắm,
phải không chị?
Nàng nhắc lại:
- Em chắc chị buồn về em lắm, em vẫn muốn theo chị mà không
thể theo được. Vả lại ở đời, một trăm người mới có một người như chị.
- Nhưng chị có nết gì đâu?
Nhung nói câu ấy nghĩ ngay đến cách ăn ở của mình trong ba
năm mới đây. Nàng nghiệm ra rằng nàng chỉ có một cái nết là không biết gì đến
tình yêu. Nàng mỉm cười vì cái nết của nàng chỉ là cái nết của một người sư nữ.
Nàng hỏi Phương:
- Nhưng em có tội gì? Yêu nhau sao em lại cho là một nết xấu.
Tuy nói vậy, nhưng nàng vẫn tin chắc rằng nếu Phương biết được
nàng mấy tháng nay, nàng đã ngấm ngầm yêu trộm Nghĩa thì thế nào Phương cũng
khinh rẻ nàng như tất cả những người khác.
IV.
Nhung đứng dừng lại bên cạnh chỗ cắm cờ, đưa mắt nhìn vòng một
lượt khắp sân chùa để tìm Nghĩa. Lúc nãy khi nàng sắm sửa ra chùa xem đúc chuông
với bà Án, nàng thấy Nghĩa hấp tấp mặc áo đi trước. Không thấy Nghĩa đâu, Nhung
lách đám đông người xuống nhà trai, nàng khó chịu không được thấy mặt Nghĩa
trong khi biết Nghĩa đương đứng ở một góc nào đó nhìn theo mình, không bỏ sót một
cử chỉ.
Biết vậy, Nhung càng thấy ngượng mỗi khi đi đứng ở chỗ nào vắng
người, nàng tìm đám đông len lách để cho dáng điệu được dễ tự nhiên. Nàng vừa
đi vừa gật đầu chào lại những người làng quen thuộc, mấy tốp thiếu niên Âu phục
ở tỉnh về xem hội, thấy nàng đi qua, chăm chú nhìn nàng từ đầu đến chân. Bên
tai nàng văng vẳng những câu bình phẩm và trầm trồ khen ngợi sắc đẹp của nàng.
Thỉnh thoảng nàng phảng phất nghe thấy tiếng "góa chồng" trong câu
chuyện thì thào của họ, hình như họ cho sự góa bụa của một người đàn bà đẹp là
một đặc điểm đáng chú ý.
Nhung bước lên thềm và vừa lúc đó nàng trông thấy Nghĩa đứng ở
cạnh gốc một cây ngâu, trên đường đi sang đền Mẫu. Nàng ngừng lại nhìn Nghĩa một
lúc lâu như cố tỏ cho chàng biết rằng nàng có ý tìm mãi bây giờ mới được thấy mặt.
Một vị sư nữ mời nàng vào ngồi ở phản, hỏi:
- Thưa bà, cụ đã ra chưa?
- Đã, mẹ tôi đương lễ trên chùa.
Nhung ngồi lùi vào trong để cho nhà sư khỏi che khuất và nhìn
ra chỗ cây ngâu. Nghĩa vẫn đứng yên ở chỗ cũ.
- Sao bà không cho cháu ra xem hội?
- Cháu nó mệt.
Nhà sư rót nước mời:
- Bà xơi nước.
- Nhà sư để mặt tôi.
Không muốn để nhà sư lôi thôi, nàng đặt tay trên trán, nói:
- Mấy hôm nay tôi ngây ngất khó chịu quá. Đi lễ có mấy nơi mà
thở không được.
Như có một sức thôi miên bắt nàng nghĩ đến việc sang lễ đền Mẫu.
Nàng hỏi nhà sư :
- Bên đền Mẩu có đông người không?
Thấy nàng đứng lên, nhà sư nói:
- Bà ngồi nghỉ cho đỡ một đã.
- Không sao, đi lễ thì quên cả mệt ngay.
Nàng không biết rằng vừa nói một câu trái ngược hẳn câu nói
lúc nãy.
Nàng đi lẩn sau một giậu cúc tần có tơ hồng leo cho không ai
để ý đến mình, rồi len qua mấy cái tháp, đi đường tắt sang nhà Mẫu. Sắp đến chỗ
rẽ vào con đường hẻm, biết chắc sẽ gặp Nghĩa, nàng trù trừ đi thong thả lại.
Không thấy Nghĩa đứng ở gốc cây ngâu nữa, Nhung vừa đi lần
theo giậu cúc tần vừa đưa mắt tìm. Đến nửa đường nàng mới thấy Nghĩa ở bên đền
Mẫu đi ngược lại phía nàng. Lúc hai người gặp nhau, Nghĩa ngượng nghịu, cúi
chào:
- Bà ra lễ chùa.
Chàng hơi tránh sang một bên nhường lối, nhưng từ vẻ mặt cho
đến dáng vấp cử chỉ, cái gì cũng như muốn van Nhung đứng lại. Ở chỗ hai người đứng,
giậu cúc tần lên cao tới ngực, nên Nhung nhìn thấy rõ đám đông người ở sân
chào. Nàng vững tâm và lễ phép cúi chào Nghĩa như chào một người quen tình cờ gặp
ở đường. Nàng nhắc lại câu nàng đã hỏi nhà sư lúc nãy:
- Ở bên đền có đông không, ông giáo?
Nghĩa luống cuống không đáp, Nhung cũng bối rối, nhưng cũng
không hiểu tại sao nàng vẫn cứ đứng đây, ngập ngừng đợi Nghĩa đi trước. Nàng thấy
Nghĩa ngoảnh nhìn, rồi đưa ra một tờ giấy vàng in chữ như một lá số. Nghĩa nói
gì, nàng nghe không rõ, nàng cầm vội lấy lá số như thấy đưa thì cầm, không từ
chối vì nể, vì không kịp từ chối. Rồi hai người cúi chào nhau.
Nhung cất ngay tờ giấy vào túi áo cánh vừa đi thật nhanh, vừa
đưa tay sửa lại vành khăn. Tay run run, hai chân nàng bước như muốn chạm vào
nhau. Tới sân đền thấy đông người, nàng mới đỡ hồi hộp. Mỗi lần cúi lễ xong,
nàng lại đưa mắt nhìn quanh người, chỉ sợ tờ giấy trong túi rơi ra. Tuy đã biết
chắc là một bức thư mà nàng cũng tìm chỗ tối giở ra xem: ở trong lá số là một tờ
giấy trắng có biên chữ. Nàng vội gấp ngay lại, cho vào túi áo, đặt lẫn với mấy
tờ giấy bạc và lấy kim băng cài cẩn thận.
Vừa quay ra thì nàng gặp ngay bà Án, bà Án nhìn con dâu lo sợ
hỏi :
- Mợ làm sao mà người tái đi thế kia?
Nhung vội đáp:
- Chắc con bị cảm. Con thấy choáng váng cả người.
Bà Án dịu dàng bảo Nhung:
- Con về nhà nghỉ, kẻo lại ốm. Con phải giữ gìn, năm nay năm
tuổi đấy.
Bỗng bà sực nhớ ra điều gì, bảo Nhung:
- Mẹ vừa xin quẻ thẻ. Con ra với mẹ nhờ thầy số đoán hộ xem tốt
xấu thế nào.
Nể lời mẹ chồng, nàng theo ra, trong lúc thầy số giảng, nàng
lơ đễnh nhìn những người qua lại. Nhưng một câu nói của thầy số làm nàng lắng
tai:
- Bẩm cụ, xem câu này thì dương phù mà âm oán. Có lẽ phải
cúng để giải oan thì trong nhà mới yên.
Nhung lo lắng tự hỏi:
- Âm hồn nào?
Bà Án thấy con dâu vẻ mặt bơ phờ, liền bảo:
- Thôi con về nằm ngủ. Sáng nay mẹ ăn cơm chay ở chùa, chiều
mẹ mới về.
Nhung mừng rỡ đứng lên chào mẹ chồng.
Dọc đường mỗi lần gặp người quen hỏi, trong lúc đứng trả lời,
nàng luôn luôn cau mày có vẻ một người bị cảm, vì nàng sung sướng quá nên cứ sợ
mọi người trông rõ thấy cái sung sướng của mình trên nét mặt.
Ngoài đồng ruộng gió thổi mạnh. Nhung phải để ý giữ lấy mép
áo cho khỏi thổi lật tà áo cánh cài kim trong có bức thư.
Nhung nhìn thấy trời cao và rộng hơn mọi ngày. Sau những ngọn
tre non, lấm tấm lá xanh, nghiêng ngả trước gió, mấy đám mây trắng bay lẹ làng
và trông như rung động trong ánh sáng rực rỡ.
Về đến nhà, Nhung thấy vú già đứng chơi với Giao ở cổng. Nàng
chạy vội lại, cúi nhấc con lên rồi ôm ghì vào ngực hôn lấy hôn để. Nàng thấy
trong người bồng bột lạ thường, nàng ôm con hôn không phải vì thấy yêu con hơn
mọi ngày mà chỉ muốn cử động để cho cái sức bồng bột trong lòng được nhẹ bớt
đi. Nàng hỏi vú già:
- Còn ai ở nhà không?
- Thưa mợ nhà đi vắng hết. Chỉ còn mình con ở lại trông nhà.
Nhung mong cho vú già xin phép đi chơi để được ở lại nhà một
mình. Nàng nói với Giao:
- Chú Giao không được đi xem hội.
Nhân câu ấy, vú già đánh bạo thưa:
- Mợ cho phép con đi ra chùa.
Vờ lưỡng lự một lúc rồi nàng nói:
- Được, cho vú đi để tôi trông nhà cho. Nhưng có đi cho cả
chú Giao đi, cho chú xem hội.
Nàng đứng đợi cho vú già bế Giao đi khuất, rồi quay trở vào,
đóng cửa và cài then cẩn thận. Nàng lên tiếng gọi thằng nhỏ. Không trả lời,
nàng mới dám chắc rằng ở nhà chỉ có một mình nàng thôi.
Khi vào buồng, nàng bất giác khóa trái cửa lại. Thoáng thấy
bóng mình trong gương, nàng vội cúi mặt xuống rồi ra khép cửa sổ lại cho trong
buồng đỡ sáng. Nàng ngồi xuống đầu giường và lấy bức thư ra đọc...
... Nhung không biết mình nằm gục trên giường đã bao lâu. Tay
nàng nắm chặt lấy bức thư và cái gối bông nàng ôm ghì bên má ướt đẫm những nước
mắt. Nàng thở dài một cái thật mạnh, quay mặt nhìn về phía tủ gương và ngắm
nghía bóng mình như ngắm nghía một người đàn bà khác. Nàng nhìn vào hai con mắt
long lanh ướt lệ của nàng trong gương, mỉm cười sung sướng và lẩm bẩm:
- Thưa quý nương...
Nàng nhớ đến mấy chữ đầu trong bức thư của Nghĩa, nàng hơi hé
đôi môi như chờ đợi một cái hôn âu yếm, và tưởng có một cánh tay dịu đàng ôm
vòng lấy cổ nàng và khẽ nhấc đầu lên... Nhung nhắm mắt lại rùng mình, hai tay
nàng mê man ôm ghì cái gối bông mềm vào ngực. Cử chỉ ấy khiến nàng sực nhớ đến
đêm hôm mưa ngâu, nằm mê thấy Nghĩa...
Bỗng nàng mong, mong một cách tha thiết Nghĩa về, về ngay bây
giờ, trong lúc nhà không có ai, chỉ có mình nàng với Nghĩa, nàng biết trước rằng
nếu Nghĩa về thì... Nhưng nàng vội lắc đầu không dám nghĩ đến sự xảy ra ấy.
Nàng ngồi dậy mở bức thư ra đọc lại, rồi lẩm bẩm:
- Nửa đêm hôm nay...
Nàng gấp bức thư lại, ra tủ toan cất đi, nhưng để vào đâu
nàng cũng tưởng sẽ có người lục đến xem. Nàng cho vào một cái hộp sơn khóa lại,
nhưng nàng nghĩ lẩn thẩn nếu mình chết một cách bất ngờ, thì tất thể nào người
ta cũng biết đến.
Có tiếng gõ cửa. Nhung giật mình, nhét bức thư vào túi và ra
gương quấn vội lại khăn. Bỗng tim nàng đập mạnh.
- Hay là Nghĩa về.
Trước khi mở cửa, nàng hỏi khẽ:
- Ai đây?
Có tiếng đáp lại:
- Tôi.
Nhung cố hết sức mới kéo được then cửa. Tuy nghe rõ là Nghĩa,
nàng cũng ngạc nhiên nói:
- À, ông giáo.
Nghĩa mím cười ngượng nghịu:
- Xin lỗi bà. Phải phiền bà ra mở cửa.
- Vì nhà không có ai cả.
Nhung nói câu ấy thật mau, và hạ giọng xuống như một câu vụng
trộm. Hai người cùng cúi xuống toan cài cửa. Nghĩa nói:
- Bà để tôi.
Nhung quay trở vào. Gần đến hiên nàng nghe thấy tiếng bước
chân theo sau. Nàng không dám quay nhìn lại, đi vội vàng về buồng ngủ. Nàng đặt
mình xuống một cái ghế. Nhìn về phía cửa, nàng thấy cái sứ từ từ quay, nhưng
cánh cửa không mở ra, sau một lúc yên lặng, có tiếng gõ rất khẽ. Nhung vẫn ngồi
ở ghế không nhúc nhích, bàn tay ôm lấy trán và mấy ngón tay xòe theo điệu thở,
tuy trong buồng tối mờ mờ mà nàng vẫn thấy ánh sáng rõ, nàng nhắm mắt lại, nín
hơi đợi. Có tiếng giày đi rón rén lại phía nàng.
Nhung định ngửng đầu nói mấy câu bảo Nghĩa ra ngay khỏi buồng,
nhưng nàng không đủ can đảm để ngửng đầu lên, nhìn rõ mặt Nghĩa lúc đó. Thấy
bàn tay Nghĩa đặt lên cổ tay nàng, nàng mới giật mình và trở nên bạo dạn, toan
cất tiếng đuổi Nghĩa ra, nhưng Nghĩa đã quỳ xuống bên cạnh ghế, hai tay nắm lấy
tay nàng và đắm đuối van xin. Nhung làm bộ đuổi Nghĩa ra để khỏi ngượng với
Nghĩa, cho nên đến khi thấy Nghĩa đã biết mình có ý định rồi, thì nàng hết ngượng
và nhìn lại Nghĩa như nhìn một người tình nhân đã yêu từ lâu. Nàng tưởng như
đang mê man sống trở lại cái giấc mơ đêm hôm mưa ngâu. Nghĩa vẫn nắm lấy tay
nàng, và mỗi lúc nắm chặt hơn. Nhung ngây dại cả người, nàng mơ màng thấy Nghĩa
đứng lên nhẹ đặt bàn tay lên vai nàng, rồi cúi xuống nói mấy câu thì thầm không
rõ. Nhung chỉ thấy quả tim nàng đập mạnh, và tiếng thở của Nghĩa bên tai nàng.
Cũng như ở trong những giấc mơ, Nhung ngửa mặt lên, đôi môi hé nở như đợi một
cái hôn, trong khi cánh tay Nghĩa âu yếm ôm vòng lấy cổ nàng và nhấc đầu nàng
lên...
Nhung sẽ đẩy Nghĩa ra, đứng ngay dậy. Nàng hốt hoảng, như vừa
thấy một sự sợ hãi ở đâu tự nhiên đến. Nghĩa hiểu ý nên không dám khẩn khoản,
lùi lại sau và nhắc lại câu hẹn trong thư.
- Nửa đêm hôm nay...
Nhung nói:
- Tôi van ông, xin ông lại ra chùa, chiều hãy về...
Thấy Nghĩa vẫn còn lưỡng lự đứng đấy, nàng luống cuống nói tiếp:
- Ông ra ngay cho. Xin ông thương tỏi...
Khi Nghĩa sắp bước ra, hai người đứng yên lặng nhìn nhau như
hẹn hò trước cuộc gặp gỡ về nửa đêm.
Nhung ngồi lắng tai nghe tiếng mở then và đợi cho Nghĩa đi khỏi
thật lâu rồi mới dám khép cổng. Nàng lo sợ nhìn ra ngoài đường làng, bác nhiêu
Tính, một người đàn bà ở bên láng giềng đứng ở cổng chào và hỏi:
- Mợ không đi lễ chùa?
Nhung đáp:
- Tôi vừa đi về đây.
Bác nhiêu Tính đứng yên một lúc rồi nói cho có chuyện:
- Tôi vừa thấy ông giáo đi về phía này. Chắc ông ra chùa xem.
Nhung nói vẩn vơ :
- Ra bây giờ chắc họ đã đổ khuôn rồi.
Nàng vừa nói vừa nhìn bác Tính, tự hỏi:
- Không hiểu bác ta có biết gì không?
Nhung quay vào gọi thằng nhỏ, mặc dầu nàng đã biết nó đi vắng,
cốt ý nàng muốn tỏ cho bác Tính biết rằng trong nhà không phải chỉ có một mình
nàng thôi. Nhung quay vào, vừa khép cửa lại vừa nói:
- Không biết nó dở bận gì mà mãi không ra đóng cửa ngõ lại.
Khi đi qua vườn vắng, nhìn hóng mình lướt trên cỏ, Nhung nghĩ
đến cái thú của những đôi tình nhân kề vai nhau dưới bóng cây nói chuyện. Nàng
hối hận rằng đã trót bảo Nghĩa đi và lấy làm tiếc bỏ mất một dịp tốt, ít khi họ
gặp được nữa. Nàng lại bực mình vì cứ vẫn quanh quẩn nghĩ đến bác Tính và tự hỏi
xem bác ta có nghi ngờ gì không. Nàng lo sợ, tưỏng tượng bác Tính sẽ đi nói
chuyện với người khác, rồi tiếng đồn lan dần, khắp làng ai cũng biết... lúc đó
nàng không còn mặt mũi nào mà sống được. Khi đi ngang qua bàn thờ, Nhung đưa mắt
nhìn ảnh chồng rồi nhìn cái ghế ngồi lúc nãy, cái ghế mà khi ngồi trên đó, lần
đầu nàng phạm tội với chồng. Nàng đỏ mặt bên tai như văng vẳng có tiếng mắng:
... Con đàn bà khốn nạn!.
V.
Nhung trở dậy, vặn to đèn lên và rút ngăn kéo lấy ra một tập
giấy trắng. Ngẫm nghĩ một lát, nàng lại nằm vật xuống giường, cúi đầu vào gối
bông, cố ngủ. Nàng ngẫm nghĩ:
- Nếu mà ngủ được thì thoát.
Nhung thấy mình như một người đứng bên một cái dốc và biết đặt
chân lên chỗ dốc thì sẽ bị tuột xuống vực sâu, nên đương cố hết sức giữ chân lại,
nàng nhắm mắt cố ngủ để quên việc viết thư cho Nghĩa, quên cuộc hẹn hò về nửa
đêm. Nàng biết rằng nếu không ngủ được tất thế nào nàng cũng tìm để gặp Nghĩa
đêm nay, mà rồi cứ phải gặp Nghĩa mãi, dẫu muốn lùi cũng không được nữa. Nàng lẩm
bẩm:
- Nếu mình ngủ được!
Nàng nhắm nghiền mắt lại, duỗi hai tay yên lặng đợi giấc ngủ
đến. Nhưng ngay trong lúc đó cố ngủ nàng đã biết chắc rằng nàng không sao ngủ
được rồi. Tuy vậy nàng cũng cố nằm yên trong nửa giờ đồng hồ, rồi mới ngồi dậy.
Lần này nàng không áy náy nữa, vì nàng vịn lấy cái cớ cố ngủ mà không ngủ được
để mình tự tha lỗi cho mình.
Ngoài nhà, ai nấy đều ngủ yên cả, thấy đồng hồ bắt đầu gõ
chuông. Nhung tẩn mẩn đếm theo mười tiếng rành rọt điểm trong sự yên lặng của
ban đêm. Nhung với tập giấy trắng để trên bàn, kê lên mặt gối và ngậm đầu bút
chì ngẫm nghĩ tìm câu bắt đầu bức thư. Nàng thấy có nhiều ý không thể nói ra
khi đứng trước mặt Nghĩa, mà nếu viết vào thư thì dễ dàng lắm. Nhưng vì nàng
không viết quen, nên loay hoay mãi chưa xong được một câu.
Bên kia vườn có tiếng ho. Biết là tiếng Nghĩa, nên Nhung ho
theo một tiếng rất khẽ. Nàng ho để bảo cho Nghĩa biết rằng mình còn thức, nhưng
ho xong, nàng lại sợ Nghĩa đoán được ý mình và tự nhiên thấy thẹn.
Hơn một giờ đồng hồ, Nhung mới viết xong được nửa trang giấy.
Viết xong nàng lại toan xé đi, vì nàng biết không bao giờ dám đi qua vườn để
đưa cho Nghĩa. Nàng gấp bức thư bỏ vào túi áo rồi cứ nằm yên trên giường.
Có tiếng động lá cây. Nhung ngồi vội dậy, xỏ chân vào dép, rồi
làm bộ rất tự nhiên đi thong thả ra phía cửa sổ như người ra hóng mát. Nàng vừa
hé cánh cửa nói một mình:
- Không có hơi một tí gió nào.
Nhưng câu ấy nàng nói cốt để Nghĩa nghe thấy, vì nàng biết rằng
Nghĩa đương đứng đợi nàng ngoài vườn. Nàng chống tay xuống thành cửa, ngước mắt
nhìn lên trời đầy sao. Bỗng nàng quay trở vào và khẽ thổi tắt đèn. Trong buồng
tối, nàng đi lần từng bước cho khỏi chạm vào bàn ghế. Biết là Nghĩa đã đợi ở cửa
sổ, Nhung ngừng lại, nép vào cánh cửa đứng im một lúc lâu. Nàng thấy lờ mờ bóng
Nghĩa ngồi trên thành cửa lẫn với bóng đen những cây ngoài vườn. Cũng như buổi
sáng, bên tai nàng văng vẳng mấy tiếng:
- Con đàn bà khốn nạn!
Nhưng chân nàng vẫn tiến lên. Đến khi hai bàn tay Nghĩa nắm lấy
tay nàng và nhẹ kéo về phía cửa sổ, thì lúc đó nàng biết không có sức gì giữ
nàng lại được nữa. Nhung cúi mặt xuống, theo đà tay ngoan ngoãn đặt đầu vào ngực
Nghĩa. Bàn tay nàng vẫn nằm trong bóng tối. Không ai nói một tiếng, hai người
cùng yên lặng như đêm khuya yên lặng, và cũng tưởng thân hình như không có nữa,
đã tan đi, hòa lẫn với bóng tối ban đêm.
PHẦN THỨ HAI
I.
Rời chỗ bóng tối giá lạnh, Nhung cầm gương ra ngồi ở bàn về
phía có ánh nắng lọt vào. Nàng thong thả chải tóc rồi mở hộp phấn mà đã lâu lắm
nàng chưa dùng đến. Nàng cầm quả bỗng chấm nhẹ lên hai gò má rồi cởi cúc áo
cánh chấm dần dần xuống cổ, xuống vai. Trên da lạnh, nàng khoan khoái đưa đi
đưa lại cái quả bông êm ấm, trước mặt nàng bụi phấn thơm bay tỏa ra trong ánh nắng
và làm mờ bóng nàng trong gương.
Nghe tiếng động trong màn, Nhung quay lại nói đùa với con:
- Thôi chú mình dậy thôi chứ. Dậy sang xem dì Phương mặc áo đẹp.
Dậy xem cô dâu.
Thấy vú già vào, nàng bảo lấy quần áo mặc cho Giao. Vú già
nhìn Nhung mỉm cười:
- Đã lâu lắm con mới lại thấy mợ đánh phấn. Trông mợ trẻ hẳn
đi.
Nhung không ngượng vì câu bình phẩm của vú già: nhân dịp
Phương về nhà chồng, nàng cho việc đánh phấn và trang điểm là rất tự nhiên, là
một việc cần nữa.
Vú già nói:
- Một nhà này đi đủ hai họ.
Nhung hỏi:
- Ai đi đến nhà trai?
- Bẩm mợ, ông giáo.
Hỏi vậy, song Nhung đã biết Nghĩa đi phù rể từ lâu, hai người
đã bàn bạc và đã định trước với nhau sẽ coi đám cưới của Phương như đám cưới tưởng
tượng của riêng hai người. Nghĩa bảo Nhung:
- Anh sẽ là chú rể mà em sẽ là cô dâu.
Nhung may một chiếc áo mới để đi đưa dâu và nàng có ý chọn một
thứ lụa màu phớt hồng tương tự như màu áo của Phương định mặc hôm về nhà chồng.
Nhung mặc áo mới, ngắm nghía bóng mình trong gương, tự bảo:
- Trông mình như một cô dâu. Nhưng bao giờ cho thành cô dâu
thật sự?
Thấy bà Án đứng ở hiên. Nhung dắt con ra xin phép mẹ chồng
sang bên nhà. Bà Án ngắm nghía con dâu, vừa cười vừa nói, giọng thành thực cảm
động :
- Con dâu tôi, bao nhiêu năm mới lại mặc chiếc áo màu.
Nhung cúi xuống xoa đầu con. Nghe câu nói khoan dung của bà
Án, nàng thấy trong người nhẹ nhõm: Hình như mẹ chồng nàng chỉ mong cho nàng được
sung sướng và sẵn lòng để cho nàng tự tiện muốn xoay xở cuộc đời ra sao thì
xoay, bao nhiêu cái bó buộc như không có nữa, cuộc đời thành ra giản dị, dễ
dãi, ai muốn sống thế nào tùy ý, miễn sao thấy được hạnh phúc.
Mắt nàng tình cờ nhìn vào đôi giày của nàng, đôi giày kiểu mới,
mũi lấp lánh cườm bích và chiếc quần lụa kim cương trắng nõn, bóng loáng rủ xuống
che khuất bàn chân. Vì chưa quen nên nàng thấy những thứ ấy sang trọng quá.
Nàng lo lắng tự hỏi:
- Mình ăn mặc thế này thái quá chăng?
Nhung ngửng lên xem ý tứ mẹ chồng và nhấc tà áo vân vê trong
hai ngón tay nói:
- Thứ nhiễu này họ bán "son" rẻ lắm mẹ ạ. Có tám
hào một thước. Nhưng họ chỉ còn có hơn ba thước, vừa đủ một áo.
- Tao trông thứ hàng này hơi giống cái áo của cô Phương mới
may hôm nọ.
- Thưa mẹ, giống màu nhau.
Bà Án nói đùa:
- Khéo không người ta trông mợ lại lẫn mợ với cô dâu nhé?
Tuy là câu nói đùa nhưng Nhung chắc rằng mình còn trẻ lắm, trẻ
như Phương, nên bà Án mới thốt ra câu nói đùa như vậy. Bà Án sợ mình nói câu ấy
không được đứng đắn, nên vội chữa:
- Hai chị em ăn mặc giống nhau như thế, cô dâu đỡ ngượng.
Ngẫm nghĩ một lát bà lại nói tiếp:
- Màu áo đẹp, nhưng phải cái rợ quá. Ngày thường không mặc được.
Thôi con đi, không chậm.
Nhung đã hiểu là bà Án muốn bảo khéo nàng rằng chỉ được phép
mặc hôm nay, còn những lúc khác, nàng không nên mặc chiếc áo màu rực rỡ và trai
lơ ấy. Muốn tỏ cho mẹ chồng rằng mình cũng đồng ý với mẹ chồng, nên trước khi
đi, nàng nhìn áo nói:
- Con mặc chiếc áo lòe loẹt khó chịu quá. Mai lại bỏ hòm
thôi.
Tuy đã nói câu ấy rồi, mà nhìn vẻ mặt bà Án, nàng vẫn còn tưởng
như bà Án đương lo lắng ngẫm nghĩ:
- Hình như mợ Tú độ này khác trước nhiều.
Nhung dắt con đi nhanh qua vườn, ra đến ngoài đường làng, khi
đã khuất mắt bà Án, Nhung đi thong thả lại, thở dài để cho mất cái cảm giác khó
chịu nó như đè lên ngực nàng.
Một người đàn bà ở trong ngõ đi ngang qua, giật mình nói:
- Chết chưa, mợ, cháu lại ngỡ cô nào.
Đi dọc đường, Nhung thấy người làng người nào cũng đứng lại
nhìn nàng ngạc nhiên.
Câu nói của mẹ chồng và cử chỉ của người làng đã làm cho
Nhung nhận thấy rõ ràng nàng không được tự do trong các việc hành động cỏn con
của mình, việc nàng mặc chiếc áo màu không phải là một việc nhỏ, chỉ có liên
can đến một mình nàng mà thôi.
Nàng cố xua đuổi cái ý nghĩ khó chịu ấy đi, ngẫm nghĩ:
- Lâu rồi cũng quen mắt.
Một lúc sau, nàng lại chép miệng nói một mình:
- Chi bằng mai không mặc nữa là xong.
Câu ấy làm cho nàng yên tâm.
Thế là ngay từ lúc ban đầu, bước lên được một bước nhỏ, Nhung
lại nhút nhát muốn lùi lại ngay xuống chỗ cũ.
Đến trước cổng nhà, Nhung hồi hộp ngắm nghía xác pháo đã đốt
mấy hôm trước, rải rác khắp sân. Nàng nghĩ đến Phương, em nàng, đã trải bao
nhiêu lo lắng, khổ sở mới được thấy cái ngày sung sưứng hôm nay. Được như vậy một
phần lớn là nhờ ở Nhung. Nàng đã nhiều lần tha thiết nói với mẹ rằng có nàng ở
gần thì mẹ nàng không nên buồn về nỗi Phương lấy chồng xa. Còn như Phương lấy
chồng con nhà hèn hạ, làm hại đến thanh danh nhà nàng? Nhung vẫn hiểu rằng sở
dĩ mẹ nàng không để ý lắm đến điều đó nữa là vì có nàng. Cái tiếng tốt của
nàng, thờ chồng nuôi con, ăn ở phải đạo trong gia đình đã như cứu vãn được cái
tiếng xấu của em nàng và an ủi mẹ nàng đỡ phải buồn lòng và ngượng mặt với mọi
người.
Nàng vừa thoáng buồn nghĩ đến cuộc tình duyên của nàng với
Nghĩa thì những đứa cháu ở trong nhà chạy ra reo lên:
- Cô đã sang, cô đã về.
Có đứa đứng lại ngơ ngác, vì nó thấy cô nó ăn mặc khác hẳn mọi
ngày nên hơi là lạ. Vú em đứng trong hiên nhìn ra, tươi cười nói:
- Cô con hôm nay đẹp quá.
Một người chị họ lấy tay chỉ Nhung bảo đứa bé ẵm trên tay:
- Em trông, dì mặc áo đẹp.
Nhung cuống quít: trong một ngày vui vẻ, nàng thấy ai nhìn
nàng cũng như ân hận thương nàng, quần áo mới, xác pháo đỏ và những chậu hoa rực
rỡ càng như nhắc mọi nghĩ đến và buồn cho tình cảm góa bụa của nàng. Nhung vừa
bước lên thềm vừa hỏi:
- Cô dâu đã trang điểm xong chưa? Đã có cô phù dâu nào đến
chưa?
Rồi nàng nói tiếp để phân trần với mọi người về sự sang trọng
và việc ăn mặc đỏm dáng.
- Đi đưa dâu không lẽ lại luộm thuộm... làm dáng không quen,
thành thử lúng túng mãi bây giờ mới sang được.
Mấy tiếng "làm dáng không quen" Nhung nói lướt mau
qua và điểm nụ cười làm như nói đùa, để mọi người khỏi cho mình là làm bộ.
Nhung bước vào buồng cô dâu, ngạc nhiên kêu:
- Sao mà tối um thế này?
Nàng lờ mờ thấy Phướng nằm xoay mặt vào tường, chung quanh quần
áo vứt bừa bãi. Nhung đến gần, sẽ hỏi:
- Lại làm sao thế?
Không thấy Phương nói gì, Nhung giơ tay lên vai, toan kéo dậy.
Phương, giọng đầy nước mắt đáp:
- Chị để mặt em.
Nhung nhớ lại những việc xảy ra mấy hôm trước: Phương bị bà
Nghè mắng nhiếc, Phương lại gặp nhiều chuyện làm nàng tủi nhục. Nàng phẫn uất đến
nỗi không biết gì đến cái vui sướng được lấy một người yêu nữa. Nhung ngồi xuống
nhắc lại câu nàng vẫn dùng để an ủi Phương:
- Thôi, em chỉ cố một tí nữa thôi. Chỉ một lát nữa là hết. Em
đi xa thì rồi sẽ quên đi.
Trong lúc nói câu ấy nàng nhận thấy một cách rõ rệt, sự đè
nén khốc liệt của cái xã hội nhỏ quanh mình. Em nàng vài hôm sau nữa sẽ đi với
chồng xa hẳn được, nhưng còn nàng thì nàng không biết bao giờ mới thoát khỏi.
Nào cha mẹ đẻ, nào mẹ chồng, nào họ hàng làng nước bao nhiều thứ bắt nàng không
thể sống theo ý muốn của mình được. Nàng biết rằng mọi người đã muốn cho nàng
là một người đàn bà góa ở vậy thờ chồng thì nàng phải ở vậy thờ chồng. Nàng thấy
thoáng hiện ra trước mắt bức hoành phi treo ở buồng khách nhà nàng có mấy chữ
"Tiết Hạnh Khả Phong" cái phần thưởng cuối cùng của những người biết
ăn ở phải đạo như nàng.
Mấy cô phù dâu bước vào làm Nhung thôi nghĩ, nàng quay ra mỉm
cười, nói:
- Cô dâu chưa chi đã nhớ nhà. Các cô vào dỗ giùm tôi với.
Nhung bước ra nhà ngoài giúp mẹ dọn dẹp buồng khách và bàn thờ.
Nàng nóng lòng đợi họ nhà trai đến như một cô dâu đợi chú rể. Kim đồng hồ vừa
chỉ mười giờ thì Nhung nghe thấy tiếng còi ô tô ở ngoài đường cái. Bà Nghè bảo
Nhung giọng khẩn khoản:
- Cô phải ở luôn đây tiếp khách hộ tôi.
Trong lúc nói chuyện với khách nhà trai, bà Nghè gọi Nhung mà
gọi hơi to hình như cốt cho mọi người để ý đến nàng. Nhung hiểu ý mẹ nên lại gần
đứng hầu ngay bên cạnh. Nàng muốn đứng đó vì một lẽ nữa là ở chỗ ấy nàng có thể
nhìn thấy rõ Nghĩa đương ngồi uống nước với mấy người phù rể ở tràng kỷ. Mấy
người phù rể chốc chốc lại quay mặt nhìn nàng, rồi thì thầm hỏi nhau. Nàng đoán
họ hỏi xem nàng là ai. Chắc có người biết bảo họ, một người ghé tai Nghĩa nói mấy
câu làm Nghĩa cau mày khó chịu.
Nhung nghĩ thầm:
- Chắc Nghĩa ghen, không muốn họ đả động đến ta.
Nàng đứng tránh sang một bên để cột nhà che khuất bọn phù rể
và để nàng được tự do nhìn Nghĩa. Hai người đang đắm đuối nhìn nhau, bà Nghè bảo
Nhung:
- Cô vào nói với các cô phù dâu đưa em đi lễ gia tiên.
Các cô phù dâu đưa cô dâu ở buồng tối ra trông như một chùm
sao quây quần một ngôi sao quý. Gian buồng khách bỗng như sáng hẳn lên: Hương
thơm ngào ngạt của phấn và nước hoa khiến các người phù rể bàng hoàng tưởng vừa
thấy hiện ra cái hình ảnh của một mùa xuân đầy hoa tươi thắm. Nhung đi lẫn các
cô phù dâu cho khỏi ngượng, vì nàng thấy ai cũng chăm chú tới nàng hơn cả.
Sau một cuộc du lịch cỏn con từ nhà thờ nọ đến nhà thờ kia,
và sau khi đã mỉm cười nhiều lần giễu chú rể lễ vội vàng hay cô dâu thẹn đi
không vững, bọn phù rể và phù dâu bắt đầu hơi thân mật với nhau, dáng dấp đã có
vẻ tự nhiên và nhìn nhau không sép nép như trước nữa.
Lúc cô dâu cuối lễ ông Nghè bà Nghè, Nhung đứng đối diện với
Nghĩa. Bà Nghè nói mấy câu khuyên con về nhà chồng, nhưng bà vẫn không quên tìm
mấy tiếng khéo để diếc móc con.
Nói đến mấy chữ "biết ăn ở phải đạo", bà đưa mắt
nhìn Nhung. Song Nhung không thấy lời mẹ nói, nàng đương mê nhìn Nghĩa trong
lòng sung sướng và mỉm cười như hỏi thầm Nghĩa:
- Anh trông em có giống một cô dâu thực sự không?
Thấy mọi người nhìn Nhung mà Nhung không biết, vẫn cứ mỉm cười
trông về phía chàng, nên Nghĩa quay hẳn lại vờ hỏi chuyện bạn đứng sau lưng.
Nhung chợt hiểu và muốn tránh sự nghi ngờ, nàng mau trí khôn yên lặng ra bảo
anh người nhà đem bánh pháo cắm vào chỗ khác để làm cho mọi người tưởng rằng
lúc nãy nàng nhìn ra vườn, chứ không phải nhìn Nghĩa, Nhung trở vào, vừa yên
tâm vừa có cái tự cao để mắt đến khắp việc lớn, nhỏ trong nhà.
Lúc đưa dâu ra, hai họ phải đi bộ một quảng mđi tới chỗ đậu ô
tô ngoài đường cái. Người làng kéo đến xem đứng chật cả ngõ, trẻ con theo bám lấy
cô dâu mà hò:
- Cô dâu chú rể đội rế lên đầu.
Một người phù dâu bảo Nhung:
- Chị mặc cùng một màu áo với cô dâu, vậy chị đi lẫn vào đây.
Nhung cười đáp:
- Người làng thì họ lạ gì mặt cô dâu.
Bỗng Nhung thấy lạnh toát cả người. Nàng vừa thoáng nghe thấy
người đứng xem nói mấy tiếng:
- Tâm ngẫm tầm ngầm... ai biết đâu ma ăn cổ đấy.
Nhung toan quay nhìn lại, nhưng không dám, nàng lấy tay che
miệng gượng cười lên mấy tiếng. Đến lúc ngồi trên xe ô tô, Nhung mới thấy tỉnh
trí lại. Nàng tự mắng:
- Rõ có tật giật mình, sao lại vô lý cho là họ nói chuyện đến
ta.
Nhung nhận ra rằng cái sợ của nàng khi làm lỗi không thấm đâu
với cái sự thấy lỗi của mình có người biết.
Từ lúc từ biệt em, đi xe trở về, Nhung thấy buồn bã lạ thường.
Nhưng không phải nàng buồn vì nhớ em hay nghĩ đến em lấy chồng nhà nghèo: nàng
biết rằng Phương sẽ sung sướng. Tuy Phương vất vả nhưng sống có vợ có chồng
cùng nhau hợp sức để kiếm ăn. Nhung cho cuộc đời đó có giá trị hơn cuộc đời của
nàng, sống chỉ để cốt nêu lên một cái đức tính mập mờ, dối trá.
Khi khách khứa đã về hết, Nhung ở rốn lại cho mẹ khỏi buồn.
Trong khi dọn dẹp nhà cửa, thấy mẹ ngồi chống tay ủ rũ rươm rướm nước mắt,
Nhung cười đùa nói:
- Hôm nay nhà có việc, dọn dẹp thế này, con tưởng như khi còn
là con gái ở nhà.
Bà Nghè bảo:
- Tối hôm nay cô ngủ bên này cho tôi khỏi buồn.
Nghe lời mẹ nói, Nhung nghĩ ngay đến cuộc hẹn hò của nàng với
Nghĩa, từ mấy hôm trước hai người đã định đêm nay sẽ gặp nhau ngoài vườn. Nàng
tìm cớ nói với mẹ:
- Con xin phép mẹ, ăn cơm xong phải về, vì vú già vừa cho biết
mẹ con bên nhà hơi khó ở.
Nhung mừng rằng tự nhiên lại có được cái cớ bà Án ốm để xin
phép mẹ về nhà, không mếch lòng mẹ.
Ra đến ngoài đường làng, Nhung thấy gió đêm thổi lạnh buốt.
Nàng nghĩ tới Phương và mỉm cười lẩm bẩm nói một mình, có ý thèm muốn.
- Trời hôm nay chiều cô dâu chú rể quá.
II.
Nhung nằm xuống và tung chăn đắp, thấy lạnh, nàng kéo chăn
lên tận mặt, nằm yên đợi cho hơi nóng trong người làm ấm chỗ. Mùi băng phiên ở
tấm chăn vừa lấy trong gương ra xông lên khiến nàng nhớ lại hồi chồng nàng mới
mất, một đêm thu lạnh đầu tiên, nàng giở chăn cưới ra đắp một mình. Nhung còn
như thấy cả lại cái cảm giác quạnh hiu lạnh lẽo của đêm hôm đó. Nàng thở dài ngẫm
nghĩ:
- Nếu ai bắt mình phải sống lại mấy năm vừa qua đây, thì mình
không tài nào chịu được.
Nàng nghĩ đến cuộc hội họp với Nghĩa ngoài vườn đêm nay và thấy
man mác trong lòng. Kể từ hôm nhận bức thư đầu tiên tủa Nghĩa đến nay, nàng đã
nhiều lần lẩn lút gặp Nghĩa: trong mấy tháng, nàng cứ để mặc ái tình lôi cuốn
đi, nàng không hiểu rồi sẽ ra làm sao và cũng không định liệu xử trí thế nào.
Có một điều làm nàng yên tâm và mình lại tự cao với mình là ái tình của hai người
từ trước đến nay nàng vẫn cố giữ được trong sạch. Nàng nghĩ đến những lúc ngồi
với Nghĩa ngoài vườn tối, không khí nặng những mùi thơm ngây ngất của các thứ
hoa nở ban đêm, hai người cầm lấy tay nhau yên lặng như trong giấc mộng: sao
lúc đó nàng thấy nàng coi nhẹ như không những điều mà ban ngày cho là rất quan
trọng. Nhung lo lắng tự nhủ:
- Nhưng khó lòng mà giữ mãi được!
Vú già mở cửa, bế Giao vào. Nhung khó chịu quay ra gắt:
- Tôi đã bảo tôi mệt, sao vú lại không để yên tôi nghỉ.
- Thưa mợ chú Giao quấy, cứ đòi vào ngủ với mợ.
Sợ vú già lại vào lần nữa, giữa lúc nàng ra vườn với Nghĩa,
nên Nhung bế con đặt nằm cạnh mình rồi bảo vú già:
- Thôi để chú ấy ngủ đây cả đêm với tôi. Cho vú đi ngủ. Khi
nào tôi gọi hãy vào.
Nhung se sẻ hát ru con, và khi thấy đứa bé đã ngủ, nàng nằm
lùi ra cho nó khỏi chạm vào người. Tuy đã dặn cẩn thận mà nàng vẫn lo vú già trở
lại buồng mình nếu Giao khóc trong lúc nàng ở ngoài vườn.
Một tiếng ho ở bên nhà học đưa sang. Nhung cũng ho theo một
tiếng. Đó là hiệu lệnh của hai người đã định trước với nhau để khi nào trốn ra
vườn thì cùng một lúc. Nhung vặn nhỏ đèn, lấy tay lay lay vai Giao xem con có
ngủ say không. Nàng sang bên buồng bà Án, đi rón rén và lên tiếng sẽ hỏi:
- Mẹ có khát nước con đi rói.
Không thấy bà Án đáp, Nhung thong thả khép cửa lại. Bỗng nàng
lại nghĩ ra được một kế hay. Nàng lại chỗ bàn thờ cầm lấy cây đèn hoa kỳ và một
bó hương. Khi ra vườn, nàng tắt đèn đi, rồi lần đến chỗ cây hương, đặt chiếc
đèn và bó hương trên bệ thờ.
Nhung hồi hộp, đi về phía cuối vườn, chỗ lờ mờ có bóng đen mấy
cây khế. Nàng vừa đi vừa rẽ những cành lá đã bắt đầu ướt sương, trong không khí
phảng phất mùi cỏ thơm và mùi đất mới xới.
Nhung đứng lại vì thấy cành lá động bên mình. Một cánh tay nhẹ
giữ lấy nàng và một tiếng rất nhỏ đưa ra:
- Vào đây mình.
Nghĩa vừa nói vừa kéo Nhung vào trong bóng đen của khóm cây,
Nhung giật tay ra nhưng cũng theo Nghĩa vào. Nghĩa nói:
- Chỗ này kín nhất, Nhung sao ra chậm thế?
Nhung giơ tay ra hiệu :
- Nói se sẽ chứ. Mẹ tôi mệt nên tỉnh ngủ lắm đấy.
Nghĩa hỏi:
- Em đã ngủ được tí nào chưa?
- Chưa.
- Anh cũng vậy. Từ tối đến giờ! Sao mà lâu thế? Em đứng quá
vào đây....
Nhung ngồi xuống một cành ổi thấp, làm ngọn lá rũ xuống rung
động nước ao. Nghĩa đứng sát lại gần, cúi xuống, âu yếm nói:
- Sáng nay sao em đẹp thế?
Nhung ngửng lên đáp :
- Trông em có ra dáng một cô dâu không?
Nghĩa cầm lấy tay Nhung, kéo về phía mình, nói đùa:
- Trông em sáng nay đẹp quá làm anh chỉ ao ước được hôn em
trước mặt mọi người.
Chàng ngồi xuống cành ổi khiến Nhung giật mình lùi ra.
- Khéo không gẫy. Ở trong nhà biết thì chết.
Nhân lúc nói rối, Nghĩa đặt đầu Nhung vào ngực mình, hôn vội
mấy cái lên tóc, lên cổ. Thấy Nghĩa yên lặng một lúc lâu như đang nghĩ ngợi điều
gì mà hai tay vẫn giữ chặt lấy người nàng, Nhung sợ hãi gỡ tay bạn ra, đứng phắt
dậy.
- Anh đã quên lời hứa với em rồi à? Nếu anh cợt nhả không
chính dính thì em đi vào ngay bây giờ.
Ngỏ lời quả quyết kháng cự, nhưng giọng nói run run của nàng
thì như thú thật với Nghĩa rằng nàng hãy còn hồi hộp sung sướng về mấy phút được
Nghĩa ôm trong lòng. Nghĩa đứng dậy van lơn:
- Anh xin lỗi em. Anh nhớ quá, biết bao nhiêu mong mỏi khi xa
em.
Nhung mỉm cười nhắc lại:
- Xa em!
Nghĩa nói:
- Không xa nhưng bằng mấy xa nhau hẳn. Ít ra em cho anh một
chút hy vọng để chờ đợi...
Nhung lại đến ngồi xuống cành ổi. Nghĩa nói tiếp:
- Anh chỉ có mỗi một cái ao ước được lấy em làm vợ.
Câu nói của Nghĩa làm Nhung bứt rứt, vì lúc nàng yêu, nàng chỉ
muốn quên hẳn điều đó đi. Bao nhiêu cản trở đã khiến nàng coi việc lấy Nghĩa là
một việc không thể được. Muốn an ủi Nghĩa làm như bấy lâu nay vẫn băn khoăn mãi
về việc đó mà chưa tìm thấy cách nào ổn thỏa, nàng hỏi Nghĩa:
- Biết làm thế nào bây giờ?
Nghĩa hơi lấy làm lạ vì câu hỏi của Nhung. Chàng không hiểu:
- Nếu em thật yêu anh thì em cần gì phải nghĩ ngợi. Anh chắc
không bao giờ nghi ngờ cái tình của anh đối với em. Anh nghèo nhưng chúng ta
yêu nhau, chúng ta sẽ cùng làm việc. Anh cứ nghĩ đến cũng đã thấy bao nhiêu
sung sướng.
Nhung ngồi nhìn ra phía ao, yên lặng nghe Nghĩa nói, hai con
mắt mơ màng.
Trên mặt ao, mấy con bọ nước chạy loăng quăng làm tan ánh sao
bên một cuống lá sen khô.
Nhung buồn rầu nói:
- Nếu anh thấu được nỗi khổ của em trong bấy lâu. Nếu em được
gặp anh khi em chưa có chồng thì đâu đến nỗi. Bây giờ em là một người đàn bà
góa... khó khăn lắm.
Nghĩa có vẻ giận đỗi:
- Em sợ những điều dị nghị đến thế kia à?
Ngập ngừng một lúc, Nhung mới kể lể:
- Không phải thế. Nhưng anh nghĩ xem dẫu yêu anh đến bực nào
em cũng không thể bỏ cha mẹ, anh em, làng nước một cách thản nhiên. Mẹ em đã
đau lòng nhiều lắm vì em Phương rồi, nếu lại em nữa, thì được hai lần hai cô
con gái làm nhơ nhuốc đến thanh danh cả nhà, cả họ. Đấy anh nghĩ xem.
Nhung cúi mặt úp vào lòng bàn tay, Nghĩa cau mày khó chịu vì
thấy câu chuyện xoay ra vẻ sầu não. Chàng nói gay gắt:
- Yêu nhau như thế thì chỉ làm khổ nhau vô ích.
Nhung ngẩng lên bâng khuâng nhìn Nghĩa, nhưng vì đêm tối nên
nàng không nhận thấy vẻ tức bực trên nét mặt bạn. Nàng nói không nghĩ ngợi:
- Hay là cứ để thế mãi.
Rồi nàng vội chữa ngay:
- Nhưng cũng không được. Thế nào rồi cũng có người biết.
Nhung nghĩ đến câu bình phẩm thoáng vào tai nàng hôm đưa dâu,
Nghĩa nói:
- Hay là để anh đi khỏi nhà này, đi xa em hẳn ít lâu cho khỏi
tai tiếng. Rồi ta sẽ liệu sau.
Nhưng thấy nói đến chuyện đi, bất giác sợ hãi: Nàng có cái cảm
tưởng rằng Nghĩa đã xa nàng là xa hẳn và sẽ quên nàng đi. Bối rối, nàng nói:
- Hay là chúng mình hãy đợi. Anh để em nghĩ ít lâu đã. Nếu
anh yêu em thì anh giúp em với, giúp em có đủ can đảm, vì em là đàn bà nhút
nhát, em không quả quyết được. Em đã khổ nhiều lần lắm rồi.
Nàng ngồi né ra một bên, bảo Nghĩa:
- Anh ngồi xuống đây.
Nghĩa cầm lấy tay Nhung và dịu giọng hỏi để đổi câu chuyện:
- Sao tay em lạnh thế này, trong người em có lạnh không?
Nhung kéo Nghĩa ngồi xuống cạnh. Rồi như tiếc phí mất bao
nhiêu thì giờ bàn bạc những chuyện chán nản, hai người kề nhau và cùng yên lặng
để hưởng nốt lấy hết cái thú gần nhau trước khi phải chia rẽ. Nhung âu yếm nói:
- Đêm nay bắt đầu lạnh. Nhưng gần anh em không biết là lạnh nữa.
Một cái hôn nhẹ trên mi mắt đáp lại câu nói tình tứ của
Nhung.
Có tiếng động ở trong nhà, Nhung hốt hoảng đứng lên, lấy tay
rẽ lá cây vừa nhìn vừa bảo Nghĩa:
- Anh về ngay đi.
Đợi cho Nghĩa về đến nhà học, Nhung rón rén lại chỗ cây
hương. Nàng đánh diêm châm đèn và thắp hương cắm trên bàn thờ. Ở trong nhà có
tiếng bà Án nói:
- Gọi hết hơi mà không có đứa nào cả.
Bà Án mở cửa ra ngoài vườn và cất tiếng hỏi:
- Sao ngoài cây hương lại có đèn sáng thế kia. Ai đấy?
- Thưa mẹ, con.
Bà Án ngạc nhiên:
- Mợ làm gì ngoài ấy?
Nhung đáp:
- Thưa mẹ, con ra lễ. Con vừa phải một mẻ sợ quá.
Không để bà Án hỏi, nàng kể luôn:
- Con vừa nằm mê thấy một người râu dài, mặt đỏ, cưỡi ngựa
đen đi qua đây bắt lính. Con quỳ xuống van lạy thì ông ta bảo: phải lễ tạ, ông
ta sẽ tha cho. Con tỉnh dậy, mồ hôi ra như tắm. Con sợ quá, sang buồng mẹ xem,
thấy mẹ vẫn ngủ yên. Con vội lấy hương ra lễ tạ ngay.
Bà Án nói:
- Tao cũng mê hoảng cả đêm, nhưng không nhớ rõ những gì.
Thấy nét mặt Nhung bơ phờ, đầu tóc rối bời, bà Án lo lắng và
âu yếm bảo con dâu:
- Con vào nghỉ kẻo sương đêm xuống lại cảm. Mẹ khỏe chưa thấy
đâu, lại thấy ốm cả hai mẹ con.
Lên giường nằm, đắp chăn cẩn thận. Nhung mới nhận thấy chân
nàng lạnh giá. Nàng kéo con lại gần rồi ôm lấy con mà nựng, tưởng tượng như nói
với Nghĩa:
- Nằm dịch lại đây. Ấm áp nhỉ.
Nhung tự nhiên mỉm cười, nghĩ đến cái mưu mẹo lễ tạ mà nàng
cho là thần tình. Bỗng nàng mím môi, nhìn vào khoảng không, nghĩ đến cái tính
giả đạo đức của mình. Nàng lẩm bẩm, đau đớn:
- Mình muốn tốt mà ra thành xấu! Chỉ vì muốn giữ cái tiếng tốt
hão ấy mà mình bắt buột thành ra khốn nạn đâm ra xảo quyệt, gian trá...
III.
Một tràng pháo nổ bên hàng xóm làm Nhung giật mình mở mắt.
Trên bàn thờ đèn nến sáng trưng, khói trầm ở trong đỉnh đồng tỏa ra như một làn
mây là là bay lùa trong cành đào đầy hoa. Nhung mở mắt mà tưởng như đương bắt đầu
một giấc mơ.
Thấy bà Án ra bàn thờ rót rượu cúng, Nhung hỏi:
- Thưa mẹ đã đến giao thừa rồi cơ ạ? Con ngủ một giấc ngon
quá!
Bà Án quay lại nói:
- Thôi con dậy thôi, cúng rồi, còn sắm sửa ra chùa lễ. Năm
nay xuất hành giờ Sửu tốt.
Nghe bà Án nói ra lễ chùa, Nhung mừng rỡ.
Nàng nhớ lại một năm khi còn ở nhà cùng em ra chùa hái lộc,
lúc trở về gặp một chàng trai trẻ tuổi lạ mặt buông lời đùa cợt:
- Mùa xuân, cây đương nẩy mầm, các cô nỡ nào dang tay bỏ đi
như vậy.
Mất mấy hôm, Nhung quanh quẩn nghĩ đến người lạ mặt đó là lần
đầu tiên nàng được thấy lòng rung động về thứ tình mơ màng, êm ái thường bắt đầu
nhóm trong lòng các cô thiếu nữ đến tuổi dậy thì khi mùa xuân đã tới. Đã mấy
năm, Nhung không nghĩ đến việc đi hái lộc nữa, mỗi năm tết đến không mang lại
cho nàng chút mong mỏi gì. Nhưng tết năm nay đối với nàng hẳn là vui, vì có
Nghĩa ở lại đây để ăn tết với nàng.
Nhung vào buồng đánh phấn và mặc thêm chiếc áo nhung. Thấy lạnh,
nàng lấy tấm khăn san phủ quàng lên đầu.
Hòa đẩy cửa vào, hỏi:
- Chị sắm sửa đi đây à? Còn hơn một tiếng đồng hồ nữa mới đến
giờ xuất hành kia mà.
Nhung lấy làm khó chịu thấy Hòa không đánh phấn. Nàng đưa mắt
nhìn bóng mình trong gương, gần màu trắng của tấm khăn, màu hồng phấn trên đôi
má nàng nom rõ quá. Nàng vội rút khăn tay lau cho nhạt bớt, Hòa nói:
- Chị có lạnh ra mà sưởi.
Nhung lại gần lò sưởi ngồi hơ tay lên lửa. Lịch loay hoay xếp
lên bàn một chai rượu sâm hanh và sáu cốc. Chàng nói với Nhung:
- Uống một cốc rượu này rồi ra chùa tha hồ ấm.
Nhung hỏi:
- Nhưng sao lại sáu cốc?
- Mẹ này, chị với tôi, nhà tôi, anh Hai, anh Nghĩa.
Nhung đã biết trước rằng cốc thứ sáu để phần Nghĩa và đã đoán
trước câu trả lời của Lịch, nhưng nàng cũng cứ hỏi thế, vì nàng chỉ thích nghe
nhắc đến tên Nghĩa, Nhung nói giọng thờ ơ:
- Ừ nhỉ, còn ông giáo nữa.
Nhung lắng lai nghe. Ngoài sân có tiếng bà Án hỏi:
- Ông giáo còn thức à?
- Thưa cụ vâng. Con không sao ngủ được.
Bà Án cười, nói đùa:
- Hay ông giáo nhớ nhà đây... Nhưng mà ăn tết ở đây cũng vui
chán.
Nghĩa đáp :
- Thưa cụ con có nhà cửa gì đâu mà bảo nhớ.
Nhung nóng ruột muốn ra ngoài sân. Thấy Lịch cầm bánh pháo ra
vườn đốt, nàng cũng đứng dậy bước vội theo.
Tiếng pháo nổ ran khiến Nhung phải bịt hai tai lại, lờ mờ
trong đám khói xanh, nàng thấy Nghĩa đương nhìn nàng. Sau tiếng pháo nổ, cảnh
ban đêm như yên lặng hẳn: một lúc lâu mới lại nghe thấy xa xa tiếng pháo liên
tiếp nhau ở các nhà trong làng.
Không có hơi một ngọn gió. Trên sân, những làn khói của chiếc
pháo chưa hẳn bay là là như quấn lấy chân người, những đám lá cây con phản chiếu
ánh đèn nổi bật lên nền trời đen sẫm trông như bằng thủy tinh pha màu. Mấy cánh
hoa đào lỏa tỏa bên chỗ Nhung đứng, rồi rơi xuống lẫn với xác pháo rải rác.
Nhung bước ra sân, lại đứng gần bên Lịch và nghiêng mình chào
Nghĩa.
Nghĩa cất tiếng nói:
- Năm mới...
Chàng ngập ngừng không biết nên chúc câu gì. Nhung vội tiếp
ngay theo cho Nghĩa đỡ ngượng:
- Năm mới, chúc ông giáo được mạnh khỏe quanh năm.
Rồi hai người quay đi, mỗi người nhìn về một phía. Như muốn
diễn cái sung sướng ấm áp trong lòng, Nhung nhìn lên trời thẫn thờ nói:
- Đêm giao thừa năm nay trời sáng và êm ả quá.
Bà Án tiếp:
- Không có tiếng gà gáy, chó cắn nào. Năm nay chắc dễ làm ăn.
Hòa ra mời mọi người vào uống rượu. Nhung thấy Lịch cầm lấy
cánh tay Nghĩa rồi hai người cùng đi, Lịch nói:
- Xong rồi ta ra chùa chơi. Anh đi không?
Nhung đi lùi lại sau cùng. Khi vào trong nhà, nàng đến bên cạnh
lò sưởi, cầm lấy cốc rượu của Hòa đưa cho, và nhắm mắt cố uống mấy hụm để cho
bàng hoàng say.
Hòa nói:
- Vừa lúc nảy có bốn bông hoa thủy tiên nở, giờ đã thành năm.
Hoa nở trông thấy.
Nhung nhìn bông hoa thủy tiên và tưởng như thấy nó đang nở.
Lúc đó nàng muốn cho thì giờ ngừng lại để nàng được mãi mãi hưởng những giây
phút êm ái nàng đương sống. Nàng thấy hạnh phúc của nàng đẹp đẽ như ánh lửa lấp
lánh trong cốc rượu đương sóng sánh trên tay nàng. Nhưng cái hạnh phúc ấy nàng
đã biết rằng nó chỉ mong manh như một cái ảo mộng. Không biết tại sao nàng có
cái cảm tưởng rằng Nghĩa sắp phải rời bỏ nhà này, và đã thấy trước những mùa
xuân khác trong đời nàng lạnh lẽo nối tiếp nhau mà đến.
Khi ra đến ngoài đường làng, Nhung thấy lạnh buốt, nàng phải
đi sát bên Hòa và giục Hòa đi mau cho ấm.
Hai bên đường, ánh đèn cúng ở các nhà lấp lánh sau rặng cây.
Thỉnh thoảng một ít khói pháo thơm còn rớt lại đưa thoáng qua. Cứ đi một quãng
đường lại gặp một bọn người ra hái lộc chùa về, tiếng cười nói trong bóng tối mỗi
lúc một to dần. Tay người nào cũng cầm một bó hương để soi đường, khi đi ngang
qua, tiếng chúc mừng nhau ồn ào nổi lên một loạt lẫn với mùi nhang thơm thoang
thoảng.
Đến chùa khi lễ xong, bà Án bảo Nhung:
- Con ra vườn nhà hái lộc, mẹ còn dở bận.
Nhung rất mừng vì nàng đã biết Nghĩa đợi mình sau vườn chùa.
Thấy Lịch và Hòa đương đứng ở bén gian thờ Long thần, Nhung đi lánh xuống dưới
sân rồi qua một cái cổng ngách, đi khuất sau giậu dâm bụt, mạnh bạo cúi mình đi
luồn qua một rặng ổi, đến chỗ nàng đã hẹn trước với Nghĩa, Nghĩa cầm lấy tay
Nhung và hôn nhọ lên trên má. Nhung bất giác quay lại nhìn về phía chùa sáng.
- Lỡ ai biết thì chết.
Nghĩa cười nói:
- Em bao giờ cũng chỉ được cái hay sợ hão. Thế nào em đã nhất
định chưa?
- Nhất định? Em chưa nhất định gì cả.
Nàng buồn rầu nói tiếp:
- Em đã bảo anh mấy lần đừng nhắc đến làm gì. Năm mới anh
chưa chúc mừng em được lấy nửa câu...
- Gì thế anh?
Nghĩa ngập ngừng một lúc rồi mới nói:
- Anh thấy em đương vui nên không dám nói, sợ làm buồn lòng
em. Nay mai có lẽ anh phải rời bỏ em đi khỏi nhà này.
Nhung thấy quả tim đập mạnh, nàng đoán có sự gì rất không hay
đã xảy ra vội nói:
- Vì cớ gì thế, anh?
- Không vì cớ gì cả. Nhưng anh đã đoán thì chắc đúng. Anh rất
có lỗi với em, anh phải đi trước khi xảy ra những chuyện rất không hay cho
em... làm hại đến danh tiếng em.
Nhung lo lắng hỏi dồn:
- Có ai nghi ngờ, có ai biết hở anh?
Nghĩa nghiệm thấy Nhung lo sợ có người biết hơn là buồn phải
xa chàng. Chàng tức tối nói:
- Hình như thế... mà em cũng chẳng cần phải nhất định gì nữa.
Nếu yêu nhau chỉ khổ vì nhau thì thà xa nhau mà quên đi. Thế là hơn. Anh không
thể nào cứ yêu em mà không có ngày để tiếng xấu cho em.
Nhung thấy mặt mày tối tăm. Hình bóng các cây trong vườn biến
đi hết, chỉ còn một màu đen như mực trước mắt nàng. Nàng nói như người liều:
- Em sẽ đi với anh.
Nghĩa sung sướng. Chàng vội nói để cho Nhung vững tâm:
- Thế nào anh cũng đi khỏi. Nhưng vì ông Hai sắp đổi đi xa,
đem cả mấy đứa cháu đi, chứ không phải có ai nghi ngờ gì đâu. Em đừng vội lo.
Trong lúc đó, bà Án đứng nấp sau một cây ngọc lan. Bà vờ giơ
tay níu cành bẻ lộc, mắt nhìn đăm đăm về phía vườn tối, lúc nãy nhìn theo bà thấy
Nhung đi về phía ấy, nhưng vì khuất cây nên bà không rõ Nhung đứng chỗ nào và
có Nghĩa ở đấy không. Bà toan vào hẳn vườn, nhưng bà sợ Nhung bắt gặp sinh ra
nghi ngờ.
Cũng may vừa lúc ấy có tiếng Lịch gọi Nghĩa. Bà nghe tiếng lá
cây động và một bóng đen đi quặt ra sau chùa. Bà đoán chắc đó là Nghĩa. Một lúc
lâu, bà lại thấy một bóng đen nữa ở trong rặng cây đi ra. Bà Án nhìn rõ biết là
Nhung, liền vội vàng quay trở vào chùa. Bà mỉm cười vì thấy mình đã đoán trúng,
nhưng trong lòng lo lắng, bối rối:
- Còn độ mười ngày nữa thì ông giáo đi.
Nghĩ vậy, bà hơi yên tâm. Điều cần nhất đối với bà là phải giữ
kín câu chuyện này không để cho một người nào ngoài bà ra được biết. Bà lẩm bẩm
tức tối:
- Thật là nuôi ong tay áo. Hai đứa đốn mạt!
Biết là Nhung đã vào đến hiên chùa, bà quay ra cố giữ vẻ bình
tĩnh hỏi :
- Con đã hái lộc chưa?
Thấy Nhung cầm một cành ổi trong tay, bà mỉm cười:
- Ai lại hái lộc ổi bao giờ. Sao con không ra cây đa mà bẻ?
Bà cúi mặt xuống ngay vì bà sợ Nhung nhìn vào mặt mình lâu nhận
thấy vẻ nghi ngờ chăng. Bà ngẫm nghĩ:
- Phải làm thế nào cho nó không biết được rằng mình đã rõ
chuyện. Nếu nó biết đâm ra liều thì nguy lắm.
Bỗng bà nghĩ đến nỗi buồn của bà trong mấy năm sau khi ông Án
mất, bà đưa mắt nhìn theo Nhung đi lẹ làng dưới sân, dáng người mềm mại uyển
chuyển.
- Tội nghiệp. Nó còn trẻ mà góa bụa đã mấy năm rồi.
IV.
Bà Án cho Nhung trở lại chỗ cũ, cầm kim khâu rồi mới cất tiếng
gọi to:
- Nhài ơi!
Gọi xong bà quay lại bảo Nhung:
- Con Nhài nó đến đây. Mẹ thấy nó lên tỉnh đã năm sáu hôm
nay, bây giờ nó mới vác mặt đến.
Nhài không dám vào, đứng ở cửa, bà Án quát:
- Mày lên đây làm gì?
Nhài ngập ngừng thưa:
- Bẩm, đầu năm con lên hầu cụ, hầu mợ con.
- Con này mới học được cái thói điêu. Hôm nọ tao vừa gặp mày ở
cửa chợ đi với thằng nào? Hừ thế mà nói lên hầu cụ, hầu mợ... cảm ơn cô.
Nhung khó chịu, nhưng cố mỉm cười ngồi nghiêng đầu nhìn ra cửa
bảo Nhài:
- Sao mày không vào quá trong này cụ hỏi.
Nàng thấy Nhài gầy gò xanh xao, động lòng thương toan hỏi,
thì bà Án đã gắt:
- Quân này lại trốn đi theo trai đây thôi. Muốn yên lành thì
về với nó ngay, nếu không tao gọi nó lên lôi cổ về thì rồi không ra gì đâu.
- Bẩm cụ, con xin lên trên này để ở hầu cụ.
- Không được. Tao không nuôi đâu. Mang tiếng cả đến tao, rồi
thằng chồng mày nó mất vợ, nó lại trách cả tao đây.
Bà ngọt ngào tiếp theo:
- Thôi biết điều thì về với chồng con cho phải đạo vợ chồng.
Đừng có học cái thói lăng loàn ấy nữa, làng nước người ta cười cho. Chúng mày
tưởng rằng nhà hạ lưu thì không cần gì cả sao? Người sang thì tiếng lớn, người
hèn thì tiếng nhỏ, nhưng ở đời ai cũng có danh tiếng của mình, ai không có liêm
xỉ.
Nhung vờ chăm chú đưa mũi kim. Nàng lưỡng lự, không mắng thì
sợ ra vẻ bênh Nhài, mà mắng thì nàng ngượng, sợ sau này không khác gì Nhài.
Nghe tiếng sụt sùi khóc, Nhung ngửng lên: Nhài vừa lấy vạt áo lau nước mắt vừa
nói:
- Cụ không thương cho con ở trên này hầu hạ, con về nó đánh
chết mất.
- Nó đánh là phải lắm. Còn kêu ca gì nữa. Mày thì còn chết nếu
mày không chừa hẳn cái tính đĩ thõa của mày đi. Tao còn lạ gì tính mày... Rõ thật
bao nhiêu năm ở với chủ mà không học được mảy may tính nết của chủ.
Bà muốn ám chỉ Nhung và khen Nhung một cách gián tiếp, vì
Nhài trước kia ở hầu hạ Nhung hơn ba năm trời.
Bà Án rất yêu Nhài, con Nhài như một người trong họ nên bà tự
cho mình có quyền mắng sỉ Nhài tàn tệ. Lúc mắng bà chỉ nghĩ đến Nhung. Thật là
một dịp may mắn cho bà được dùng những lời mắng một người khác để cảnh tỉnh con
dâu đương đi vào lầm lỗi. Nhài đợi bà Án nói xong, rồi vừa khóc vừa kể lể:
- Bẩm cụ, cụ ở xa không rõ, không có một ngày nào là nó không
lôi con ra nó đánh. Con đã hết sức chiều... hồi năm ngoái, sắp đến ngày ở cữ,
vì nó đá con hai cái vào bụng, con bỏ mất đứa bé. Con vẫn phải cắn răng chịu,
nhưng trong những lúc con ốm, nó cũng chưa tha...
Nhài nấc lên một tiếng to nghẹn ngào tiếp theo:
- Con không hiểu làm sao con lại gặp phải số phận như thế.
Nhung nghe chuyện tức quá, nhưng làm như không để ý đến, vẫn
đưa mũi kim khâu. Bà Án nói:
- Mày nói lạ! Ruột gan ai cũng là người. Tự nhiên vô cớ, mày
không bêu xấu nó, làm mất tiếng nhà nó, đâu nó lại đánh mày...
Nhung đoán rằng Nhài bị chồng đánh là vì Nhài có nhan sắc, lại
vẫn có tính trai lơ, gặp ai cũng cười cười nói không biết giữ gìn. Nàng phân
vân cân nhắc hai cảnh mà từ trước đến nay chưa bao giờ nàng để ý tới: một đằng
thả lỏng, tai hại đến luân thường, một đằng giữ gìn đè nén bằng một cách vô
nhân đạo.
Nhung thấy bà Án chỉ để ý đến việc nhà Nhài làm xấu tiếng nhà
chồng, mà không hề mảy may tức tối về lối dạy vợ tàn nhân của chồng Nhài.
Lịch ở phòng bên bước sang. Chàng đã nghe rõ đầu đuôi câu
chuyện nên nói luôn với bà Án:
- Thưa mẹ, con tưởng cứ cho con Nhài ở đây rồi gọi chồng nó
lên bảo cho chồng nó biết. Thà chúng nó bỏ nhau còn hơn để chồng nó hành hạ,
đánh đập vợ như vậy.
Nhung thấy câu nói của Lịch rất hợp với ý nghĩ của mình. Nàng
cũng vừa muốn khuyên bà An như vậy, nhưng không dám nói ra.
- Thà rằng Nhài bỏ chồng còn hơn. Không thể vì cái tiếng
suông, bắt một người đàn bà chịu đau khổ một cách khốn nạn như vậy.
Lúc nghĩ thế, Nhung không ngờ rằng trong lòng nàng mới nảy ra
một quan niệm mới đặt nhân đạo lên trên luân thường.
Nàng cũng vì một cái tiếng hão huyền mà phải chịu bao nhiêu sự
đau khổ. Song những nỗi đau về tinh thần của nàng không rõ rệt bằng những nỗi
đau khổ về xác thịt của Nhài.
Lắm lúc nàng muốn bà Án ăn ở ác với nàng chửi mắng nàng để
nàng có cái cớ đích đáng bỏ nhà ra đi lấy Nghĩa mà vẫn giữ trọn vẹn cái danh tiếng
ấy.
Sáng ngày, Nhung thấy Nghĩa rục rịch đi. Mấy đứa con ông Hai
không học ở nhà nữa, thì việc Nghĩa đi là một việc rất tự nhiên. Nhung sợ mình
lộ vẻ cảm động để mọi người nghi ngờ, nên từ sáng nàng đem kim chỉ ngồi khâu
không ngừng tay. Mấy lần nàng đã cố nén mới khỏi sa nước mắt. Từ bữa tết, nàng
đã có ý lánh không muốn gặp Nghĩa nữa, vì nàng chưa định cách xử trí ra sao.
Tuy buồn, nhưng nàng vẫn thầm mong Nghĩa đi khỏi nhà này, sớm ngày nào hay ngày
ấy.
Những lời bà Án mắng Nhài vừa rồi lại làm cho nàng biết rõ rằng
nàng không thể nào bỏ đi theo Nghĩa được. Nàng đành chịu buồn khổ ít lâu, rồi
có ngày nàng sẽ quên đi: tiếng thơm của nàng, của nhà chồng nàng, sẽ được toàn
vẹn. Nàng cũng sẽ được yên thân. Nàng đã êm ả trong lòng, tự hỏi:
- Không biết có được như thế mãi không?
Nhung ngửng lên nhìn Lịch rồi cất tiếng nói mấy câu lộn xộn mắng
Nhài. Nàng không rõ nói những gì, nàng chỉ biết những tiếng lẳng lơ, đĩ thõa nhắc
đi nhắc lại hai ba lần mà mỗi lần nhắc đến, nàng lại thấy ngượng mồm. Thật ra nàng
chỉ dùng những tiếng đó để tự mình mắng mình và giữ gìn mình trước, khỏi bị
xiêu lòng về sau. Nàng cho rằng khi đã mắng một người khác là đĩ thõa thì không
thể nào mình lại sa vào cái tật xấu ấy nữa.
Bà Án nghe con dâu nói, mừng rỡ vô cùng. Bà thấy những lời của
Nhung rất chân thật, chân thật đến nỗi làm cho bà ngờ ngợ không biết có phải
Nhung dan díu với Nghĩa thực không. Có lẽ đêm giao thừa bà đã trông lầm hay bị
một sự tình cờ đánh lừa: ngoài hai bóng đen ở trong vườn, bà không có một tang
chứng nào chắc để buộc tội con dâu. Bà động lòng thương Nghĩa có lẽ bị mất chỗ
làm oan, nhưng bà cho là một việc bắt buộc phải thế để phòng xa.
Nhung mắng Nhài xong, thu dọn rổ khâu rồi về phòng khóa cửa lại.
Nàng nghẹn ngào muốn khóc, mệt mỏi ngồi chống tay xuống bàn nhìn ra cửa sổ. Đôi
mắt nàng hé mở như để đón lấy sự đau đớn và mắt nàng bị nước mắt ứa ra mờ dần dần...
Nàng cầm khăn tay vừa chấm lên mắt vừa lẩm bẩm:
- Khóc lại đỏ cả mắt, ai biết thì nguy...
Nhung thấy lau không xuể, đành để mặt cho nước mắt giọt nọ
theo giọt kia chảy ròng ròng trên má.
- Ông giáo hãy ở lại ít lâu đã. Khi nào tìm được chỗ làm chắc
chắn hãy đi.
Tiếng Nghĩa đáp lại:
- Thưa cụ, con có người anh em mách cho việc trên mỏ Tĩnh Túc
ở Cao Bằng.
- Xa thế, trên ấy nước độc lắm đầy.
- Thưa cụ, con cũng không chắc đi. May ra có thể tìm được việc
làm ngoài tỉnh.
Yên lặng một lát, có tiếng Nghĩa tiếp theo:
- Hôm nào tìm được công việc yên ổn, con xin lại hầu cụ.
Nhung thấy Nghĩa đứng lại nói chuyện với Lịch lâu lắm.
Nàng nghĩ:
- Chắc Nghĩa lần khần ở lại đợi ta ra.
Nhung lấy khăn lau nước mắt nhìn vào trong gương, lắc đầu.
Nàng lên giường nằm, kéo chăn trùm kín không muốn nghe tiếng nói chuyện ở ngoài
nhà. Vì đêm trước thức khuya nên Nhung ngủ thiếp đi. Lúc nàng tỉnh giấc, trời
đã về chiều. Nàng ngồi dậy, nhìn ra mấy ngọn tre gió đưa lắc lư lên nền trời
mây xám mờ lờ, Nhung như vừa tỉnh giấc mơ đau đớn, và trong người thấy nhẹ
nhàng vì sự đau đớn đó đã qua rồi.
V.
Nhung đương ngồi trong buồng tự nhiên thấy quả tim đập mạnh.
Nàng vừa thoáng nghe tiếng Hòa ở ngoài hiên nói:
- Chào bác.
Không hiểu tại sao nghe giọng chào của Hòa nàng biết ngay người
đến chơi là Nghĩa, tiếng Lịch nói:
- Mợ bảo nó pha nước. Chúng tôi đi bộ khát quá.
Nhung lấy làm tiếc rằng đã nhút nhát không ra nhà ngoài ngay
lúc Nghĩa mới đến để được nhìn thấy mặt Nghĩa. Trong lúc Nghĩa ngồi nói chuyện
với bà Án, Nhung không dám ra nữa vì sợ không được tự nhiên, đành ngồi lại
trong buồng lắng tai nghe. Nàng mừng rằng Nghĩa đã tìm được công việc làm,
nhưng cái lãng mạn của nàng lại muốn rằng Nghĩa thật khổ sở để nàng thương và để
nàng có dịp cứu giúp.
Nhung khẽ ho lên một tiếng. Một lúc sau có tiếng ho của Nghĩa
đáp lại, Nhung mỉm cười vì lại dùng đến cái hiệu lệnh kín đáo mà hai người trước
kia vẫn dùng để hẹn nhau ra sau vườn.
Ở ngoài nhà, Nghĩa cố xoay câu chuyện để nói cho Nhung biết
rõ số nhà mình ở:
- Thưa cụ, con thuê được cái nhà của người anh em nhường lại
giá rẻ quá... phải cái phố con ở hơi hẻo lánh. Nhiều khi đi xe bảo kéo về ngõ 260,
phu xe không biết chỗ nào mà tìm.
Ngừng một lát, Nghĩa cười rồi bảo Lịch:
- Anh cũng tài thật. Anh làm thế nào mà tìm ngay được nhà tôi
ở. Cái biển số nhà treo ở cửa có hai con số bốn thì rỉ đã mất một con số rồi.
Nhung hồi hộp lẩm nhẩm
- Số bốn mươi tư, ngõ hai trăm sáu mươi.
Nghĩ được một cớ rất hay, nàng mở tủ lấy chiếc áo nhung đen mặc
vào người. Nàng định sang bên bà Nghè chơi và khi đi qua buồng khách sẽ thừa dịp
gặp Nghĩa. Nhung lại đứng trước tủ ngắm qua vẻ mặt mình trong gương, rồi toan mở
cửa phòng. Bỗng nàng nghĩ được điều gì, quay trở lại, mở ngăn kéo tìm tòi. Nàng
lấy ra cái bút chì rồi cặm cụi viết hai con số bốn lên thành ngăn kéo. Sợ lộ
quá nàng lại xóa đi và ra mở cửa, nhưng nàng có ý viết số nhà một chỗ và viết số
ngõ vào một chỗ khác.
Nghĩa thấy Nhung ra, đứng dậy chào. Nhung lễ phép cúi đầu
chào lại, nói giọng thản nhiên:
- Ông giáo, tôi lại tưởng ông khách lạ nào, ông vẫn ở trên tỉnh?
Rồi nàng không đợi câu trả lời của Nghĩa, quay lại phía bà Án
nói:
- Thưa mẹ, con sang chơi bên nhà. Hai em con có lẽ hôm nay
ngược.
Nói xong, nàng đến gần bàn cầm chén nước uống để được đứng lại
ít lâu nữa. Nhưng cả hai người đều không dám nhìn nhau: Nghĩa quay đầu hỏi chuyện
Lịch, còn Nhung thì cúi nhìn vào chén nước, uống vội vàng.
Nhung đặt chén nước xuống, quay lại nhìn Nghĩa nói:
- Ông giáo ngồi chơi.
Nghĩa vờ giật mình, ngửng lên nhìn Nhung rồi đứng dậy chào.
Nghĩa khó chịu nhìn vẻ lạnh lùng trên nét mặt Nhung.
Chàng thấy Nhung có vẻ thờ ơ và đối với chàng xa xôi như một
người đàn bà chưa quen biết. Lòng ích kỷ xui chàng tiếc rằng đã bỏ mất những dịp
tốt. Chàng ngẫm nghĩ:
"Ở cùng một nhà với một người đàn bà góa mà mình cũng
ngu ngốc giữ gìn một cách vô lý. Biết đâu người ta đã yêu mình. Bây giờ thì thật
hết hy vọng?"
Tuy nhìn thoáng qua, song Nhung cũng nhận thấy vẻ căm tức,
oán hận trong hai con mắt Nghĩa.
Khi ra đến ngoài đường, một người làng cung kính chắp tay
chào, nàng mỉm cười đáp lại và thẳng thắn nhìn người đó.
Từ hôm Nghĩa đi, nàng sống trở lại cái đời đầy đức hạnh trước:
nhìn mọi người chung quanh nàng không thấy ngượng nghịu, và cử chỉ của nàng,
nàng không phải giữ gìn nữa.
Nhung bâng khuâng nghĩ đến cuộc đời nàng cứ êm ả như thế rồi
kéo dài mãi cho đến khi tóc bạc trên đầu. Nàng tự hỏi:
- Như thế để làm gì?
Nhìn giậu duối bên đường, Nhung nhớ lại một đêm trời sáng ở tỉnh
về gặp Nghĩa. Hai người cùng đi song song một quãng như đi trên một con đường
mơ mộng. Nàng như còn thấy rõ trước mắt cái cảnh huyền ảo đêm hôm đó, hai hàng
giậu duối mới cắt, vì có những lá duối báng ướt sương đêm, phản chiếu ánh
trăng, nên trông lấp lánh như nở đầy hoa trắng. Nàng thấy lại cái cảm tưởng
ngây ngất khi Nghĩa giơ tay ôm lấy người nàng và bạo dạn một cách liều lĩnh đặt
trên môi nàng cái hôn nồng nàng... trong khi trên đường sáng mờ mờ bóng đen của
hai người hợp lại thành một.
Bất giác Nhung lẩm bẩm:
- Bốn mươi tư, hai trăm sáu mươi...
Nhung đến cổng nhà lúc nào không biết, Phương mừng rỡ:
- Em vừa định chạy sang nhà chị. May quá chị lại sang đây.
Nhìn Phương vui cười, ngồi trên phản gấp quần áo trong khi
Lũy lúi húi xếp va li, Nhung có ý thèm muốn cái cảnh hai vợ chồng trẻ yêu nhau
đương sắm sửa để cùng đi xa.
Bà Nghè nói:
- Bảo nó ở lại mãi, nó không chịu nghe. Vợ chồng nó cứ nhất định
đem nhau đi hôm nay.
Ngừng một lát, bà buồn rầu nói tiếp:
- Mai nhà lại vắng tanh.
Phương vừa cười vừa giật lấy cái va li của Lũy vì thấy lúng
túng xếp mãi không gọn mắt. Nàng nhìn chị và đáp lại lời bà Nghè:
- Đã có chị con ở nhà.
Nhung tự nhiên thấy thoáng hiện ra trong trí cái cảnh bà Nghè
ngồi khóc sáu tháng trước đây khi biết tin Phương phải lòng Lũy. Nàng chắc rằng
bà Nghè hiện giờ đương sung sướng thấy vợ chồng Lũy yêu nhau, hẳn đã quên cái
giận ấy rồi, và không bao giờ nhìn trở lại để nhận thấy sự thay đổi đó. Ngắm
hai em rồi lại nghĩ đến thân phận mình, Nhung lẩm bẩm:
- Cứ bạo là được.
Ngay từ hôm cưới, Nhung đã thấy trước rằng sẽ có cái cảnh vui
vẻ như thế này, vì đó là một cảnh rất hợp lý lẽ của sự sống không câu thúc, tự
nhiên. Đáng lẽ Phương phải chịu khổ nhục cả một đời - vì lấy con ông Tuần,
Nhung cho là một sự khổ nhục - chỉ vì biết bạo khi nào cần phải bạo nên đã thấy
được hạnh phúc.
- Mà như thế đâu có hại đến thanh danh của nhà.
Lúc đó, nàng thấy việc nàng lấy Nghĩa cũng giản dị như việc
Phương, Lũy lấy nhau. Nàng ngẫm nghĩ:
- Liều, mình cũng phải biết liều mới được.
Nhung tiễn hai vợ chồng Lũy ra dể nhân tiện về qua nhà xem
Nghĩa còn ngồi chơi đó chăng, Phương âu yếm nói với chị :
- Hôm nào mời chị lên chơi. Em sẽ đưa chị đi xem hồ Ba Bể. Đẹp
lắm cơ, chị ạ. Để đến mùa thu sang năm, vì hồi đó tạnh ráo, đường dễ đi.
Nhung đáp:
- Chị thì đi thế nào được. Chị bận luôn.
Nói vậy nhưng nàng cũng không hiểu rõ là nàng bận gì, Phương
và Lũy cùng cất tiếng chào:
- Thôi, chị ở lại.
Nhung đứng ở đầu ngõ nhìn theo cho đến khi xe khuất sau vườn
cây. Nàng cúi đầu đi bước một trên con đường lát gạch, những bông hoa soan rụng
rải rác khắp nơi, nàng trông như xác những con bọ sau một đêm mưa to gió lớn.
Nàng buồn rầu nhắc lại mấy tiếng chào của hai em:
- Thôi, chị ở lại.
Khi Nhung về đến nhà thì Nghĩa đã đi rồi. Mọi người đương ngồi
trên sập, sắp cầm đũa ăn cơm, hơi nóng ở mấy cái bát canh bốc lên nghi ngút.
Cái cảnh gia đình đoàn tụ một buổi chiều mùa xuân làm Nhung nghĩ đến thân phận
lẻ loi của nàng, suốt đời ở trong gia đình mà bao giờ cũng như không có gia
đình.
Bà Án ngồi lùi vào, dịu dàng bảo Nhung:
- Con ngồi đây, bên cạnh hỏa lò cho ấm.
Nhung ngồi ghé xuống một mép sập, bưng bát cơm ăn. Nàng thấy
mọi người từ bà Án cho đến Hòa, không ai thật lòng yêu nàng, nhưng người nào
cũng cố hết sức để nàng được yên thân, có lẽ vì thế nên Nhung có cái cảm tưởng
rằng mình sống ở trong nhà như một cái bóng yên lặng, và đời nàng, nàng thấy nhạt
nhẽo như miếng cơm trắng nàng đang nhai trong miệng.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét