Thứ Bảy, 29 tháng 7, 2023

Trại tập trung 3

Trại tập trung 3

CHƯƠNG 15
Những trang đã viết về tuổi trẻ,
cho tuổi trẻ suy tư từ ngục tù.
Những ai đã trọ ở quán Đề Lao Gia Định vào những năm 1975, 1976 và 1977 đều biết mặt hay biết tên những người tuổi trẻ Sài gòn đánh cộng sản, bị khép tội phản động, những người tuổi trẻ Sài gòn mà tôi gọi là những con sư tử non lãng mạn và cô đơn. Từ cuối 75 tới giữa 76, bầy sư tử lãng mạn lần lượt dính cạm bẫy và hiên ngang vào tù. Con trai. Con gái. Tất cả đều ngẩng mặt thách thức cachot, xiềng xích. Tất cả đều thắp lửa tím rực rỡ làm kẻ thù nể nang và làm đàn anh cúi mặt.
Phẩm cách tuổi trẻ
Tôi chưa thấy cái kiêu hùng của Bà Trưng, Bà Triệu, của Cô Giang, cô Bắc. Nhưng tôi đã thấy, tận mắt, các cô sinh viên trường Luật, các cô nữ sinh trường Lê Văn Duyệt, Gia Long chân mang xiềng mà miệng vẫn mỉm cười.
Tôi chưa thấy cái anh dũng của Phạm Hồng Tháỉ, của Nguyễn Thái Học, của Ký Con, của Trần Bình Trọng. Nhưng tôi đã thấy, tận mắt, các cậu sinh viên Vạn Hạnh, các cậu học sinh Chu văn An, Nguyên Trãi… tay đeo còng mà mắt vẫn mộng mơ.
Họ biến thành khách hàng thượng hạng sáng giá nhất của Công Ty Khách Sạn Nhà Tù Cộng Sản. Người trẻ măng, 16 tuổi. Người trưởng thành, 22 tuổi. Tôi nhìn các cô ra vào cachot và in dấu chân tuyệt đẹp trên hành lang khu C1. Tôi nhìn các cậu ra vào cachot và gửi niềm tin chiến đấu thánh thiện trong gió quê hương. Rồi, hân hạnh biết bao, tôi được nằm chung với các cậu qua các phòng giam của các khu Cl và C2. Và khu FG, AH, BC của đỉnh cao tù ngục Chí Hoà.
Tôi quen thân Đặng Hữu Trí 16 tuổi, hiền lành và rất dễ thương. Đặng Hữu Trí can tội dám lập một tòa án xử Hồ Chí Minh. Tòa án vỏn vẹn ba người. Trí đóng vai chánh án. Hai bạn của Trí, một công tố viện, một luật sư. Bị cáo Hồ Chí Minh chỉ là bức chân dung Người, in offset do nhật báo Sàigòn giải phóng ấn hành. Luật sư cố gắng biện hộ tội ác cho Hồ Chí Minh. Công tố viện buộc tội khắt khe. Chánh án Trí tuyên án xử tử Hồ Chí Minh. Chân dung Bác bị châm lửa đốt ngay tại tòa, một lớp học vắng vẻ. Tòa bế mạc. Câu chuyện được truyền tụng trong bạn bè. Rồi lọt tai công an. Chánh án, công tố viện, luật sư bị còng tay, bịt mắt dẫn đi. Luật sư, nhờ bênh vực Hồ Chi Minh, được tha về, sau một tuần lễ chấp pháp. Công tố viện, chánh án nằm cachot dài dài. Mà vẫn tự hào mình đã dám xử tử Hồ Chí Minh.
Tôi quen thân Hoàng Sơn Trường, 18 tuổi, cận thị, can tội chống phá “cách mạng”. Sài gòn mất, Trường mất mát nhiều thầy, cô, bạn bè, kỷ niệm. Cậu buồn bã đi tìm phục quốc. Chẳng gặp ai, cậu ghé chùa An Lạc, rủ một chú tiểu tính chuyện nước non. Chú tiểu – tôi quên tên – hẳn đã đọc Tiêu Sơn tráng sĩ, bèn dậy tình sông núi. Vậy là chùa An Lạc, nằm phía sau đường Phạm Ngũ Lão, Sài gòn, biến thành trụ sở của “tổ chức”! “Tổ chức” nhiều nhiệt tình nhưng lắm vụng dại. Và “tổ chức” bị lộ. Hoàng Sơn Trường và An Lạc tráng sĩ vào tù. Mẹ của Hoàng Sơn Trường “nằm vùng” tới chức Phó chủ tịch Liên Hiệp Phụ Nữ tỉnh Sông Bé. Trường nằm cachot, hai tay bị còng chéo sau lưng liên tiếp 38 ngày đêm vì khước từ làm việc. Mẹ Trường tới đề lao, dụ dỗ cậu khai báo “đồng bọn” để được tha ngay hoặc mẹ cậu sẽ đoạn tuyệt cậu. Trường không khai báo. Cậu bị gia đình bỏ rơi. Và cậu không hề than thở.
Những cậu học sinh như Đặng Hữu Trí, Hoàng Sơn Trường, tôi đã gặp. Thí dụ thêm Đặng Cơ Bản, Đinh Cường, Đinh Dũng, Đinh Vượng, Trí loa, Trí ghẻ, Ngô Tỵ, Nguyễn Khánh Long… Các cậu ấy anh hùng trong hành động và biết giữ gìn phẩm cách khi sa cơ, thất thế. Tuyệt đối tôn trọng Nội quy nhà tù. Không lèm bèm trong bóng tối. Không chống đối rẻ tiền. Biết kính mến người tuổi tác và sẵn sàng giúp đỡ người bệnh hoạn. Điều mà tôi suy nghĩ và cộng sản suy nghĩ hơn là động lực nào đã quyến rũ các cô các cậu Sài gòn xuống thuyền một cách lãng mạn thế! Trước khi mời cộng sản chiếm Sàigòn, người Mỹ đã tận dụng các hệ thống tuyên truyền vĩ đại của mình để hù dân tộc Việt Nam, rằng cộng sản sẽ giết hết dân Sài gòn, sẽ có “biển máu” ở miền Nam. v.v… Do đó, bọn thống trị hèn mạt, bọn tướng lãnh đào ngũ, bọn dân biểu, nghị sĩ bù nhìn, bọn làm giầu bằng chiến tranh, bọn lãnh tụ xôi thịt…đã cuốn gói chạy thật nhanh, dù bị lính Mỹ đạp đá như súc vật, ở phi trường Tân Sơn Nhất và ở Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ! Bọn hưởng thụ trên xác chết của lính chiến, bọn nhẩy đầm trên tiếng khóc của quả phụ, bọn uống sâm banh nước mắt của cô nhi, bọn cười đùa nỗi khổ của đồng bào, bọn kên kên rút ruột, mổ mắt tổ quốc, đã cuốn gói chạy thật nhanh để lại toàn bộ “chiến hữu” cho cộng sản quản lý, trong tù và trại tập trung khổ sai lao động. Tất cả đều đã tan rã. Bức dư đồ rách bươm. Đàn trẻ của Tản Đà, đau đớn thay, lại toàn lũ lãnh đạo chỉ biết chạy, chạy và chạy. Những kẻ không thích chạy trốn, không thèm chạy trốn mà còn đòi bồi vá bức dư đồ rách, đẹp đẽ thay, lại là tuổi trẻ Sài gòn sau 30-4-1975.
Người cộng sản đặt nghi vấn: Tuổi trẻ Sàigòn chống chúng tôi với mục đích gì? Họ có bị tước đoạt quyền bính đâu mà đòi phục hồi quyền bính cũ? Mà họ đã làm gì có quyền bính. Giữa chúng tôi và họ chưa nợ nần gì nhau. Tại sao họ chống chúng tôi? Nghi vấn ấy đã làm điên đầu cộng sản. Tuy rất cay cú tuổi trẻ nhưng họ phải kính phục. Những câu trả lời của tuổi trẻ Sài gòn hôm nay nằm trong Sỏi đá ngậm ngùi, Bầy sư tử lãng mạng, Hồn say phấn lạ. Nên nhớ thêm rằng, trong nhà tù cộng sản tôi đã gặp khá nhiều tổng trưởng, thủ tướng, bộ trưởng, sư đoàn trưởng! Rặt bọn thèm quyền bính phong chức tước cho nhau và tự phong. Rồi đi tù! Tuổi trẻ Sài gòn không xuống thuyền vì chức tước, vì quyền bính. Họ mới đích thực là lãnh tụ của tôi. Phần còn lại của đời tôi, tôi sẽ dành để ca ngợi họ. Nhiều người đã chết. Nhiều người đã về nhà với bệnh hoạn. Riêng và duy nhất Bầy sư tử lãng mạn, gồm 28 người, dưới sự lãnh đạo của Lương Việt Cương, hiện đang nằm dưới hầm đá của trại Nam Hà B, Hà Nam Ninh (trại Đầm Đùn cũ). Chẳng một ai ở ngoài nước biết đến họ, dẫu người ta hô hào chống cộng sản, kháng chiến và tôn vinh vô số liệt sĩ. Hình như, những người tuổi trẻ dấn thân vào cuộc chiến đấu mới cũng chẳng thấy cần thiết phải có sự biết đến của những ai đang “âm mưu” chống cộng sản, ở ngoại quốc, dĩ nhiên. Trước hết, tuổi trẻ Việt Nam đã thực sự trưởng thành. Để tự làm cái mũ đội lên chính đầu mình. Thế hệ tuổi trẻ làm guốc cho lãnh tụ giả hình mài mòn vẹt trên đường công danh đã chấm dứt. Ở Sàigòn, đừng tưởng dân chúng còn ham nghe những tiếng nói chết vọng về từ bên kia Thái Bình dương. Đừng tưởng nữa và nên im lặng. Giữa tiếng nói sống và tiếng nói chết đã là một phân ranh đánh dấu một thời đại. Thời đại của chống cộng rầm rộ và ồn ào đã vô hiệu quả. Những hô hoán chống cộng là tiếng nói chết. Nó đang buồn hắt hiu bên kia ranh giới của ba mươi năm cũ. Bên đây ranh giới, tiếng nói sống quyến rũ và tích cực: Đánh cộng sản. Đánh bằng nhiệt tình và lòng tự phụ. Đánh cộng sản để thắng cộng sản. Đánh cộng sản không mưu cầu địa vị, công danh; không mộng mơ cái chức lãnh tụ hư ảo. Đánh cộng sản vì hạnh phúc của dân tộc, vì quyền sống của con người và thản nhiên bước vào tù ngục để bị đầy đọa đến chết mòn.
Nhưng, từ đó, từ khởi sự của tuổi trẻ Sàigòn 30-4-75, là một thời đại mới, thời đại đánh cộng sản; thời đại mời gọi thương yêu gần gũi, thời đại ngăn cấm tàn sát, tù ngục, tập trung sau chiến thắng. Và tôi, người nghệ sĩ, tôi xin phép được đứng trong thời đại mới- dù tôi ở Paris, ở Washington hay ở Sài gòn. Tôi đặt hết niềm tin vào tuổi trẻ Việt Nam, bất kể lưu vong hay không lưu vong, thế hệ tuổi trẻ biết sáng tạo trong đấu, nhân danh hạnh phúc dân tộc, tự lên ngôi để vừa đánh cộng sản vừa học cách đánh. Nhị thập bát tú, 28 con sư tử non trong Bầy sư tử lãng mạn, như những lãnh tụ của tôi, những con người đích thực giải thoát quê hương, không cần ai nghĩ tới cái chết của mình, không cần ai quyên tiền đóng góp, không cần cả một nén hương tưởng niệm.
(Trước khi vào Sỏi Đá Ngậm Ngùi)
Nam Á Paris 1985
Tư tưởng mới của tuổi trẻ
Tôi đứng dậy, ra tận cửa, nhìn bên ngoài qua ô cửa gió. Đêm buồn bã. Sân cỏ ướt đẫm sương khuya. Dẫy tập thể, đèn néon sáng trưng. Các phòng tù nữ, mọi người đang ngủ trong những cái mùng giăng thấp lè tè. Ở phòng bệnh lao, một vài ông già ôm ngực ho. Từng chuỗi tiếng ho quằn quại cơ hồ những băng đạn quạt vào cuộc đời khốn khổ. Con đường hệ lụy, không ai ngờ lại có những nhà tù và những người tù chẳng hiểu mình can tội gì. Người ta sinh ra, cố sống thật lương thiện với lòng mình mà cam đành nằm ngục. Nếu người ta biết gian dối, người ta chấp nhận triết lý sống của loài cỏ đuôi chồn, có lẽ, yên thân hơn. Khổ nỗi, những người quá lương thiện thường bất bình những kẻ gian lận trong các trò chơi tư tưởng. Và, do đó, mới sản sinh ra loại tù nhân tư tưởng. Anh không chấp nhận một quan điểm nào đó của một người nào đó, nếu người ấy chưa nắm quyền bính, anh sẽ bị bôi bẩn, sẽ bị truyền khẩu hạ nhục, sẽ bị rỉ tai vấy nhơ; nếu người ấy nắm quyền bính, anh sẽ bị bỏ tù, sẽ bị giết. Người ta đã chống đối tư tưởng của nhau và người ta đã giết nhau theo cung cách ấy. Nhưng ít ai nghe tiếng ho quằn quại trong ngục thất đêm khuya, những tiếng ho không gợi niềm trắc ẩn và không đánh thức nổi lương tri của con người.
Trước đây, tôi sống rất hời hợt, tôi đã sống với hình thức của đời sống chứ chưa hề sống với nội dung nó. Mỗi kinh qua của lịch sử là mỗi kinh nghiệm tuyệt vời. Nhiều thứ phải chết cho nhiều thứ sống lại. Những thứ chết là lòng ích kỷ, sự ỷ lại, tâm hồn vọng ngoại, thói tị hiềm và mưu cầu hạnh phúc riêng tư. Những thứ sống lại là nhiệt tình, lòng tự phụ, sự can đảm, niềm tự tin và ước mơ xây dựng hạnh phúc cho mọi người. Tôi thức tỉnh do lịch sử sang trang bất ngờ, nhưng tôi khôn lớn, tôi biết nhìn vào nội dung cuộc sống nhờ những đêm im lặng hãi hùng trong các thứ cachot. Cuộc sống vô tận, tôi mới chỉ ngốn hết ba mươi trang. Tôi chưa hiểu mình sẽ sẽ đọc đến trang thứ bao nhiêu. Thật lòng, tôi muốn đọc tới trang cuối cùng. Nhiều bạn bè tôi đã di tản trước ngày 30-4-1975. Họ đang có mặt ở Mỹ, ở Pháp, ở Gia Nã Đại. Tôi không biết tâm trạng họ ra sao, nhưng biết chắc họ đã thỏa mãn vật chất.
Đời sống được định nghĩa thế nào? Nếu nó đã được định nghĩa là sự thụ hưởng thì mọi kinh qua của lịch sử đều vô ích, thì những người di tản qua Mỹ, qua Pháp phải cám ơn cộng sản. Nhờ cộng sản thôn tính miền Nam họ mới có cơ hội xa quê hương, có nhà cao cửa rộng, có xe hơi chạy vung vít, có những đêm nhảy đầm tíu tít và có những giọt nước mắt cay thuốc lá gửi về “xót xa cho những người ở lại”. Ngay thẳng mà nói, nhiều người di tản và vượt biển phải cám ơn cộng sản vô vàn. Đời sống tăm tối của họ, sự ngu dốt của họ tại quê nhà đã rực rỡ và sáng giá tại quê người. Và họ đã dám âm mưu cả chuyện về giải thoát chúng tôi! Buồn cho họ, đời sống đã không bao giờ được định nghĩa là sự thụ hưởng vật chất. Những miếng ngon nhất và những miếng tồi tệ nhất đều tiêu hoá giống nhau và đều có mùi vị giống nhau. Miếng ngon có thể làm cho con người béo mập, phì nộn, đồng thời, nó cũng làm con người ngu si, ích kỷ, hẹp hòi, ti tiện. Miếng tồi tệ – miếng cơm tù đày, chẳng hạn – làm gầy mòn con người nhưng lại giúp con người khôn ra, lớn lên, đầy đủ chiều cao, chiều rộng, chiều sâu; giúp con người từng trải, độ lượng và cao thượng. Vậy thì đời sống chỉ có định nghĩa chính xác với ai dám sống, sống đến tận cùng và can đảm chịu đựng mọi thử thách cam go của đời sống. Bởi vì, sau những thử thách khốn cùng, con người sẽ để lại một ý nghĩa cao cả cho những đời sống kế tiếp.
Tôi không có tham vọng ghê gớm ấy. Đời sống đẩy tôi vào sự thử thách quá ngỡ ngàng đối với tôi. Lịch sử dẫn tôi ra khơi, bỏ tôi loay hoay giữa cuồng sóng. Tôi phải tự lo lấy. Không ai giúp tôi cả. Không ai an ủi tôi cả. Tôi nhập cuộc cũng không cần đòi hỏi những đền bù này nọ. Tôi chiến đấu cần thiết như tôi thở, tôi yêu. Thế thôi. Lãng mạn và cô đơn. Âm thầm và khiêm tốn. Còn ai thích hiểu sao, tùy ý họ. Tôi không bao giờ là chiến hữu của những người trong trận tuyến hư ảo, những người đang cổ võ phục hồi cái dĩ vãng tanh ươn, mục rã. Nếu chiến đấu để sống lại tháng năm buồn tênh cũ, thà chấp nhận cái hiện tại rạc rài này còn hơn. Tôi cũng chẳng bao giờ là chiến hữu của những người hiếu sát hung hăng đòi giết hết quân thù. Thời đại của tàn sát đã cáo chung. Không có thứ hạnh phúc nào tưới bằng máu cả. Những kẻ toan tính thọc huyết kẻ thù như thọc huyết heo là những kẻ ngu xuẩn, hắc ám và dốt nát; là những kẻ toan tính thiết lập ở quê hương Việt Nam những lò sát sinh ghê tởm hơn cả những trại tập trung lao cải. Tôi chống sự man rợ từ mọi phía và tôi thành thật nói rằng, khi lịch sử đã sang trang có nghĩa là gánh hát đã rã đám, đào ca, kép hát và hề đã bị sa thải. Không ai để cho bọn đào kép cũ chơi tuồng mới nữa. Dân tộc đã chán nản họ.
Chỉ còn những đứa vô liêm sĩ mới tự hoá trang, mũ mảng cân đai diễn trò phục hồi dĩ vãng. Và cũng chỉ còn những đứa cắn hạt gạo chưa vỡ mới cổ võ cái trò hề rẻ tiền ấy. Chúng tôi dấn thân vì không muốn bị tách rời khỏi dĩ vãng của mình. Dĩ vãng của chúng tôi, dứt khoát, không nằm trong dĩ vãng hèn mạt của hai mươi năm lịch sử ô uế miền Nam, của ba mươi năm lịch sử ô uế miền Bắc. Nó ở trên tất cả. Nó đòi hỏi kép mới, tuồng mới. Nó đòi hỏi tẩy sạch những trang lịch sử đầy vi trùng mác xít của bọn lãnh tụ giả danh, của lũ lãnh tụ tôi mọi tư bản. Nó đòi hỏi một tương lai thật mới, thật lạ, thật nhân bản. Nó muốn dân tộc đoàn tụ và yêu thương. Hàng chục ngàn người tuổi trẻ Sàigòn, bầy sư tử non của thời đại, đang có mặt trong các ngục tù cộng sản, đã xuống thuyền vì nó. Sư tử không rống, như đào tàn tạ nhan sắc, như kép hoen rỉ giọng ca. Sư tử âm thầm và khiêm tốn. Sư tử lãng mạn và cô đơn. Ý nghĩa cao cả của chiến đấu là, hãy trực diện đương đầu với quân thù, hãy chấp nhận trừng phạt của quân thù, không kêu cứu, không rên siết, không nghĩ thất bại, không màng thành công. Ý nghĩa đó làm sao tìm được ở bọn chạy trốn, bọn đào ngũ trước lệnh đầu hàng. Ở bất cứ không gian và thời gian nào, bọn tiêu bạc giả vẫn ồn ào hơn những người tiêu bạc thật, và, đôi khi, tiếng nói của chúng khỏa lấp tiếng nói của người khác bằng bạc giả của chúng tung ra.
Tôi trở về chỗ nằm, đợi chờ giấc ngủ. Con cắc-kè già trên cây me góc sân cọ cựa cổ họng và buông những tiếng buồn thảm. Đêm cachot, nghe cắc-kè kêu, hình tưởng vô vàn những đổ vỡ, mất mát. Cuộc chiến hai mươi năm kết thúc thật phũ phàng nhưng cũng thật lạ lùng. Vớ những người Việt Nam chân chính muốn tái tạo một xã hội lương thiện, tốt đẹp thì sự kết thúc của cuộc chiến là một vận hội mới. Nó bứng tận cội rễ giai cấp thống trị bất lương và gian manh. Nó phơi bầy rõ rệt chân tướng của bọn tướng lãnh “pạc-ti-dăng”, gái, rượu, ăn cắp, buôn thuốc phiện, chứa thổ đổ hồ. Nó tước đoạt hết quyền uy kinh tế của lũ tư sản mại bản Chợ Lớn, thứ quyền uy từng rút máu và gặm thịt nhân dân Việt Nam và thông đồng với Cộng Sản. Nó đẩy đám làm giầu trong chiến tranh, làm giầu trên nghĩa trang quân đội vào tù ngục. Nó dìm bọn cầy cáo, gia nô, hạc gỗ xuống đất đen. Đồng thời nó lay động tâm hồn thật của dân chúng. Nó kêu gọi vất bỏ ích kỷ, ươn hèn. Nó mời gọi đùm bọc, yêu thương. Nó soi sáng ý nghĩa tự do, dân chủ, đau khổ và hạnh phúc. Nó cụ thể những gì đã là trừu tượng. Nó kích thích những giọt nước mắt và vuốt ve nhiệt tình. Không cần nói Cộng Sản gian ác, thú vật nữa. Bầy quỷ đã vào thành phố. Và ngay cả con nít cũng xa lánh, ghét bỏ. Người Việt nhìn rõ cả trái đất để làm lại miếng đất cua mình. Chuyến đi trăm năm của người Việt đã quá xa, quá cay đắng. Bây giờ là lúc trở về. Trở về từ bước thứ nhất thong thả, vững chắc. Trở về từ ý nghĩ mới, tâm hồn mới, tư tưởng mới. Những kẻ ôm khư khư cái hào quang đắc thời nô bộc không thể trở về. Thời đại của khuyển Nho, khuyển Tây, khuyển Nhật, khuyển Mỹ đã đăng cáo phó. Và sắp đăng cáo phó thời đại khuyển Nga, khuyển Tàu.
Đã vắng mặt chính quyền trên đất nước này, lâu rồi. Chỉ có phỉ quyền và ngụy quyền. Một bên ăn cướp, một bên ăn cắp. Cả hai đều là tay sai của ngoại bang. Cả hai đều tồi tệ, đốn mạt. Số phận của dân tộc chúng ta, bao nhiêu thế hệ tuổi trẻ, nằm trong tay bọn ăn cướp và bọn ăn cắp. Lịch sử dâng hiến chúng ta vận hội mới, lịch sử lột mặt nạ phỉ quyền, lịch sử đào thải ngụy quyền. Chúng ta có thể làm chính quyền rồi đấy. Cả dân tộc đang làm chính quyền trong ngục tù bao la và trong ngục tù giới hạn. Hạnh phúc của người Việt Nam không thể có từ nước miếng ly hương, từ sự mô phỏng áo quần, khăn rằn lố lăng khờ khạo, từ champagne tuyên ngôn, tuyên cáo. Mà phải khởi sự tù bát cơm độn ngô, khoai, sắn, từ những giọt mồ hôi cưỡng bức rơi xuống luống cầy; từ nỗi khát sữa của em thơ; từ nỗi thèm gặp con trong tù của mẹ già; từ những cái gì khắt khe, quái đản đã từng phút diễn ra trên khắp quê hương, đang từng phút đè nặng lên thân phận dân tộc Việt Nam.
Sự kết thúc của cuộc chiến hai mươi năm đã làm nhiều người lớn lên, đằm thắm, thiết tha; nhưng cũng làm nhiều người bé đi, giả tạo, hời hợt. Nghĩ mà thương những người lính của chúng ta đã chết anh dũng ở chiến trường. Những con người bé nhỏ chưa để họ yên nghỉ dưới mồ. Kẻ thù đã quật mồ mả họ, san bằng nhiều nghĩa trang của họ, bêu nhục và khu trừ vợ con họ. Những con người bé nhỏ còn nỡ nhân danh xác chết tuyệt tích nấm mồ của họ, tính chuyện mưu bá đồ vương. Những con người bé nhỏ không thích làm chính quyền. Với họ, có lẽ, làm chính quyền nhiêu khê quá. Họ phải khởi sự từ số không. Mà khởi sự từ số không thì họ không ra gì cả. Do đó, họ khư khư cái dĩ vãng phù phiếm, xúm nhau lại đánh bóng nó thêm, mô phỏng trò chơi của phỉ quyền, hăm hở trong cuộc phục hồi quyền bính dĩ vãng, phục hồi ngụy quyền, phục hồi rác rưởi và cóc chết. Tôi dấn thân để đóng góp đôi chút vào công cuộc tạo dựng một chính quyền cho xứ sở, để được sống bình yên chung quanh những người Việt Nam hiền lành, lương thiện, được tuân lệnh những người cai trị sáng suốt, hiền lành, lương thiện. Ngoài ra, tôi không tơ hào gì cả. Bởi vì, lịch sử vừa mới dậy tôi, tất cả đều phù ảo, trừ hạnh phúc vĩnh cửu của mọi người.
(Ý nghĩ của cô Lan trong Sỏi đá ngậm ngùi -
Nam Á Paris, 1985)
Thư cho tuổi trẻ dấn thân
Em Hoàng Sơn Trường,
Anh không biết em còn sống dưới hầm đá biệt giam ở trại Đầm Đùn hay đã chết rồi. Nếu em còn sống, em đang đếm từng ngày trong bóng tối lạnh lẽo. Nếu em đã chết, xác em chôn dưới vùng đất nào của quê hương, chẳng ai rõ. Chắc chắn trên nấm mồ hiu quạnh của em, thiếu cái mộ bia mơ ước như em thường nói với anh, hồi chúng ta nằm chung xà-lim số 7 hôi hám của khu C1 đề lao Gia Định. Em mơ ước gì nhỉ? Em muốn mộ bia của em khắc Búa Liềm và Còng Mỹ. Và em giải thích rằng, vì Còng Mỹ và Búa Liềm mà em chiến đấu và em hy sinh tuổi trẻ của em. Mơ ước của em thật lạ lùng. Nó cũng lạ lùng như sự dấn thân lãng mạn và cô đơn của em, của bạn bè em, của một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam tuyệt vời.
Em nhớ chứ, Trường thân mến, hôm đầu gặp gỡ, anh thử em bằng câu hỏi ngờ vực và bằng sự phán xét kẻ cả về mục đích em theo đuổi, em đã trả lời anh:
“Em kính mến anh lắm. Nhưng con đường em đi em tin là chính đạo và lý tưởng. Mong anh đừng bàn tán rắc rối!”

Anh phục em từ đó. Chúng ta thân nhau. Trong tù, dĩ nhiên. Em kể anh nghe cái động lực xui em chiến đấu và sự trở về đời sống thảnh thơi, im lặng của em. Thế thôi. Là đã hừng hực mặt trời tuổi trẻ. Là đã vằng vặc mặt trăng tuổi trẻ. Ở tù không hứa hẹn gần nhau lâu, anh bị chuyển xà-lim, chuyển dài dài, chuyển phờ phạc. Anh phiêu lưu khắp cõi đề lao. Cuối cùng, anh gặp Ngô Tỵ tại xà lim số 3C1. Ngô Tỵ nói về em: “Em không hề biết mặt thằng Trường khi em gia nhập tổ chức của nó. Em vẫn tưởng nó phải lớn tuổi, to con, đầy vẻ bí mật. Nằm khu A, buổi sáng, đi đổ rác em gặp tráng sĩ chùa An Lạc, em hỏi tráng sĩ chứ đảng trưởng đâu, tráng sĩ kéo một thằng lùn tỉ, đeo kính cận ra cửa xà lim khoe em. Em bèn hỡi ơi, đảng trưởng của mình nhóc hơn mình”. Anh hỏi Ngô Tỵ: “Bây giờ, em còn phục nó không?” Ngô Tỵ cười: “Nó hay thật, anh ạ”! Em đã quyến rũ bao nhiêu bạn bè, em đã quyến rũ anh. Em tuyệt diệu.
Anh gặp thêm Đinh Cường, Đinh Dũng, Đinh Vượn, Nguyễn Khánh Long, Đặng Cơ Bản, Nguyễn Hữu Trí… Rồi lang thang sang khám Chí Hòa, anh gặp vô số những khuôn mặt yêu nước khiến anh lợm giọng. Và anh buồn bã là không còn được sống với các em. Những khuôn mặt yêu nước: những anh già nua thèm danh vọng trải dải đời mình qua các chế độ chưa nắm nổi một địa vị bình thường, những anh thèm thuồng quyền bính đến ngớ ngẩn tội nghiệp đã tụ tập nhau mưu đồ phục hồi dĩ vãng tanh ươn. Họ lập chính phủ, phong cho nhau làm tổng thống, thủ tướng, tổng trưởng. Một xà lim của anh có đến…ba nội các. Và ba vị thủ tướng hét chửi nhau vì quan điểm chính trị lại chửi nhau vì cơm chia không đồng đều, vì chỗ ngủ thiếu ni tấc! Anh gặp những ông quận trưởng vẽ vời chức tước tỉnh trưởng ngày mai. Anh gặp những ông chánh án, dự thẩm vẽ vời món tiền lương “ráp pen” ngày mai. Anh gặp những ông tá vẽ vời sao tướng ngàn mình chống cộng sản vì tổ quốc và dân tộc. Họ ưa kể lể công lao nằm tù của họ. Nằm tù, với họ, là cái gì thiêng liêng, cái gì đầy đủ đặc quyền đặc lợi khi cộng sản tan rã. Nằm tù với họ, là sự ngưỡng mộ của toàn dân, mặc dù họ vì vạ miệng, vì say mèm nói láo, vì ham danh vọng nhào vô, vì tự ý dẫn xác đi trình diện xin ở tù. Các em khác hẳn họ. Các em khiêm tốn. Các em im lặng. Chiến đấu im lặng. Sa cơ thất thế im lặng. Đau khổ im lặng. Và thành công càng im lặng hơn. Mà các em đã làm gì có quyền bính. Mà các em đã hưởng thụ được gì từ quyền bính của dĩ vãng? Anh chợt nhớ một câu văn bất hủ của nhà văn Ngọc Giao trên trang đầu tiều thuyết “Nhà quê”: Con ốc nhỏ trôi giạt trên bãi cát, bé nhỏ thế thôi, câm nín thế thôi, thế mà trong lòng nó chứa đựng cả sóng gió của đại trùng dương đấy, bạn ạ!”
Em, các em, chính các em là những con ốc nhỏ cô đơn và vĩ đại đang trôi giạt trong lòng dân tộc. Ý nghĩa chiến đấu của em, của các em, anh thấy nó tựa tư tưởng của một nhân vật của nhà văn Eric Maria Remarque trong “The Night in Lisbon”: Khi thế giới còn những bọn dã man tàn bạo và mình còn khả năng chống lại chúng mà không dám chống thì đó là tội ác”
Nhân vật này cho giấy thông hành người khác, ông ta khước từ trốn sang Mỹ, ông ta ở lại Âu Châu, gia nhập lính lê dương để chiến đấu diệt phát-xít. Các em cũng khước từ tất cả để chiến đấu chống cộng sản vì, dân tộc chúng ta, dân tộc Ba Lan, Tiệp Khắc.. đang đầy ngập bọn dã man tàn bạo, đang bị trùm kín bóng tối của chủ nghĩa cộng sản đốn mạt.
Một bông hồng nào cho em, Trường thân mến. Anh chỉ mới mừng tuổi em hộp diêm, mùng một Tết năm 1977 ở đề lao Gia Đình. Và em rất thông minh, nói nhỏ: “Vâng, em sẽ mãi mãi giữ lửa!”
Em thừa hiểu, tù nhân như anh em mình, cộng sản chẳng dại gì mà nhốt một chỗ lâu ngày. Họ phân tán dần dần. Sớm gần, chiều xa. Tháng 5 năm 1977, em chuyển trại, các em chuyền trại. Tháng 12 năm 1977 anh sang Chí Hòa. Tháng 11 năm 1978, anh bị đầy vào rừng già Sa Ác. Tháng 2 năm 1980, anh về Hàm Tân. Đầu năm 1981, tù nhân ở trại Nam Hà B được điều về miền Nam. Khoảng 500 người nhập trại Hàm Tân, Z30 D. Anh gặp vài anh bạn cũ. Có Vũ Xuân Thông, trung tá chỉ huy phó Lữ đoàn Biệt cách dù 801, tài tử cao ráo bô trai trong phim “người tình không chân dung”. Bạn anh kể cho anh nghe một cuộc vùng dậy ở Nam Hà B do nhóm 28 “ông nhóc” dưới sự lãnh đạo của Lương Việt Cương đã thổi lửa vào tâm hồn mấy ngàn sĩ quan từ lâu đã cam đành. Lương Việt Cương, anh nhớ lắm chứ, mắt ốc nhồi, giáo sư toán lý hóa, còn trẻ, hồi làm sinh viên ở Đà Lạt đã chan chứa nhiệt tình, hồi ở đề lao Gia Định đã từ cachot này qua cachot khác. Anh nôn nao quá, vội hỏi:”Nhóm 28 ông nhóc có Hoàng Sơn Trường, Đinh Vượng, Ngô Tỵ, Nguyễn Khánh Long?” Có, có, có… Họ trả lời anh. Vậy là em đã bị lưu đầy ra tận miền Bắc. Những địa danh nào đã in dấu chân em? Anh chạnh nghĩ em đang nằm dưới hầm đá trại Đầm Đùn, và anh bất bình. Luôn luôn, chúng ta thừa thãi bọn tiêu bạc giả. Và bọn tiêu bạc giả cậy mình vô liêm sỉ, dùng bạc giả của chúng khỏa lấp dư luận, bôi bẩn những người công chính. Còn em, còn bạn em, ai biết đến cuộc chiến đấu cô đơn của em?
Anh hiểu em. Anh hiểu em nhiều lắm. Em đi chiến đấu hôm nay như năm xửa, năm xưa em xé vở gấp tầu bay đẹp phóng lên trời; gấp tầu thủy xinh thả trôi giòng nước. Em phơi phới. Em chuyền nhẩy. Em làm đẹp cuộc đời và không cần cuộc đời biết đến, không bắt cuộc đời nghĩ đến. Có nhiều cuộc đời nhỏ trong một cuộc lớn. Cuộc đời lớn không biết đến em vì thật sự không biết hay chưa biết. Nhưng cuộc đời nhỏ, vốn dĩ nó nhỏ, bản chất nó hẹp hòi, nó biết đến em mà nó cứ giả vờ không thèm biết. Nó sợ hãi biết đến em, sợ hãi nói về em với cùng khắp cuộc đời. Nó lo ngại em nổi tiếng hơn nó, em trở thành thần tượng, em trở thành đại thụ còn nó chỉ là cỏ hèn. Nó ghen với em. Và nó tìm cách hãm hại em, cô lập em, bôi bẩn em. Nó không dám chiến đấu bằng con số không thật tròn trong hình vuông thật đẹp đâu. Nó phảì bấu víu lấy cái tước vị quá khứ phù ảo và chua ôi làm lý tưởng. Những đứa ghẻ lở, hắc lào rất sợ tắm sông trần truồng. Những đứa vô tài bất tướng lại thích khoa trương, càng ghét những tài năng vàng mười.
Vậy thì giữa cuộc đời nhỏ đầy rác rưởi và em đã có một phân cách.
Nó chiến đấu để phục hồi dĩ vãng quyền bính cũ. Em chiến đấu để khai phóng tương lai.
Nó ngoảnh lại. Em nhìn lên.
Nó chiến đấu cho nó. Em chiến đấu cho mọi người.
Em trực diện với nghịch cảnh. Nó nằm chiêm bao nỗi khổ.
Em chiến đấu bằng nhiệt tình và lòng tự phụ của tuổi trẻ Việt Nam. Nó chiến đấu bằng tiền quyên góp phè phởn.
Em không cần nó biết đến em là em xứng đáng, em được quyền kiêu ngạo.
Trong truyện dài Sỏi đá ngậm ngùi anh đã viết rằng, nỗi thống khổ là văn phạm của đời sống, sự cô đơn là ánh sáng soi rõ đất trời. Em, các em, chiến đấu trong thống khổ và cô đơn, trong im lặng và thầm kín. Các em đang làm tác phẩm lớn cho đời sống, đang cố gắng để lại những dấu ấn vàng son trên sinh đạo mà các em đã một lần vượt qua. Anh, các anh, những nhà văn, nhà thơ những nghệ sĩ sáng tạo cũng mang nỗi thống khổ và cô đơn như các em. Các anh đã, đang và còn làm tác phẩm cho đời sống. Phải nói một cách khẳng định rằng, chỉ có nghệ sĩ sáng tạo mới biết làm đẹp đời sống, chỉ có nhà văn, nhà thơ mới đủ tài năng và thẩm quyền làm đẹp đời sống của những ai làm đẹp đời sống. Chúng ta đau khổ, chúng ta cô đơn, chúng ta im lặng chịu đựng. Bởi vì chúng ta làm việc để làm việc, chúng ta không làm việc để phô trương. Hình như chúng ta vẫn chưa yên thân. Chúng ta vẫn bị cái thứ cuộc đời nhỏ rình rập nghi ngờ. Thứ cuộc đời nhỏ gồm một lũ thích ngồi trong xó tối giả giọng chó sủa gây khó chịu cho người đi ngoài ánh sáng. Thứ cuộc đời gồm một lũ chẳng thích làm gì mà chỉ sợ người khác làm hơn mình. Cái thứ ấy, trong Thuyền Nhân anh viết:
“Bao giờ biển nổi giận? Bao giờ trời gầm thét? Bấy giờ vòng tròn bao la sẽ là cõi mịt mù và con thuyền vượt biên ngoi ngóp trong cái cõi mịt mù khôn cùng đó. Và con người lại càng hiểu giá trị làm người của mình không bằng tấm mảng mục. Con người sẽ sợ hãi, sợ chết. Con người sẽ khóc lóc, than van. Con người sẽ biến mất những ích kỷ hèn mọn, những ghen tuông đê tiện, những phán xét ngu muội. Con người, bấy giờ, bỗng thèm sống và tự hứa với chính mình, nếu sống sót sẽ cố sống ra vẻ một con người. Những kẻ thích thị phi người khác, thích nghị luận những lầm lỗi mơ hồ của người khác, thích phán xét người khác bằng những điều đồn đại vu khống, thích nằm chiêm bao nỗi khổ, chẳng khi nào được vinh dự chìm đắm giữa mù khơi, ngoi ngóp trong nỗi sợ. Những kẻ ấy, những kẻ giả hình ấy, chỉ cần một phút chênh vênh trên đường chết, năm phút nhức nhối tinh thần, mười phút quặn đau thể xác là gục xuống cúi lạy cái quyền uy có thể ban phát cho chúng kiếp sống cỏ dại. Chúng sẽ khả ố, bỉ ổi gấp triệu triệu lỗi lầm của những người bị chúng phán xét oan ức. Bất hạnh cho bọn giả hình. Thượng Đế đã không bố thí cho chúng một miếng ân sủng nhỏ về nỗi cô đơn và niềm thống khổ. Do đó một đời tẻ nhạt chúng đeo đuổi, chúng chỉ loay hoay trong cái vòng tròn nhỏ bé đánh đai bởi những ý nghĩ bẩn thỉu của kèn cựa, tranh giành, vu khống, chụp mũ, nói xấu, bôi bẩn và nhục mạ người vắng mặt. Chúng ngu dốt không biết định nghĩa hai tiếng cao thượng. Chúng hèn nhát không dám mặt đối mặt người công chính. Chúng lầm lũi như bọ hung. Chúng chẳng thể hiểu thế nào là tồn tại, là sự phục sinh của nỗi chết. Việc làm của người công chính, ý nghĩ tốt đẹp của người công chính để lại cho đời sống sẽ phục sinh cái chết của người công chính. Tác phẩm để đời của nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ… phục sinh cái chết của họ và cho phép họ tồn tại vĩnh cửu. Bọ hung không để lại cho đời sống cái gì. Chúng chỉ để lại vết tích ô nhục trong gia phả của chúng cho con cháu chúng tưởng niệm xót xa. Người công chính đã được tuyên dương xứng đáng trong Thánh Kinh. Chúa đã dành cho họ phần thưởng trên Thiên Đàng. Dưới cõi thế, họ vẫn can đảm sống, vẫn làm đẹp đời mình, đời người khác. Vì họ biết, đời sống chỉ có một số bọ hung, một số Lý Thông gian ác. Còn rất đông Thạch Sanh và công chúa cổ tích”
Trường, em hiểu tại sao Lý Thông cứ muốn Thạch Sanh nằm mãi dưới hang không? À, Thạch Sanh lên đời thì Lý Thông xuống lỗ. Thạch Sanh có cây đàn muôn điệu. Lý Thông chỉ có cái đàn miệng với bài duy nhất ” Người đi đường và con chó”. Vậy nó không biết đến em, nó rình rập em, nó nghi ngờ em vì nó sợ nó là lãnh tụ giả mà em là lãnh tụ thật. Nó muốn độc tôn. Nó muốn chỉ có nó quốc ngoại. Nó không muốn có ai quốc nội. Anh viết về các em, anh nhận các em là lãnh tụ cao quý, anh minh, vĩ đại của anh, nó sẽ chán lắm, cái cuộc đời nhỏ ấy mà, nó sẽ hầm hè anh nó sẽ lập tòa án (!) xử anh, nó sẽ ghi tên vào sổ đen! Ồ, chấp chi. Chúng ta vẫn còn nơi nương tựa vững chắc. Là cuộc đời lớn, bao la, rộng mở, công bình, hào sảng. Không có khí giới nào giết nổi những tâm hồn ngọc. Anh sẽ tiêu pha không tiếc chữ nghĩa vàng son để bọc lấy những tấm lòng thơm ngát của các em, của những người tuổi trẻ Việt Nam chiến đấu trong thống khổ và cô đơn. Bầy sư tử lãng mạn ở quê nhà hãy yên tâm sống và yên tâm chết. Lịch sử sẽ thay đổi. Phải thay đổi. Đó là chân lý. Và chân lý ấy phóng lên bầu trời quê hương ngút ngàn thù hận bằng cung cách sống, chết dưới hầm đá trại Đầm Đùn. Sống làm thăng hoa yêu thương, rực rỡ tình người. Chết làm phục sinh tự do dân chủ và nở rộ hoa nhân ái lên còng tư bản, trong ngục vô sản. Cung cách sống chết khai sinh một kỷ nguyên mới của những người tiểu tư sản lãng mạn, hào sảng và ước mơ….
Thế nhé em yêu dấu!
(Vào với Bầy sư tử lãng mạn)
Nam Á Paris, 1986
Người tuổi trẻ suy tư
Chàng ngồi dựa lưng vào chiều ngang bức tường cachot, chân duỗi chưa thẳng đã đụng bức tường đối diện. Quá nửa dĩa cơm và ca nước đầy khiến chàng tỉnh táo. Trong đời chàng, từ thơ ấu tới nay, chưa bao giờ chàng được uống thử nước nào tuyệt diệu bằng ca nước lạnh đầu tiên trong ngục tù. Mỗi hớp nước là mỗi niềm bí ẩn của đời sống. Đó là hạnh phúc trong bất hạnh. Hạnh phúc không thể tìm thấy ở một cảnh vui phù ảo, giả tạo. Cũng vậy, tự do, dân chủ, độc lập không thể kiến tạo bằng những hò hét giả vờ, những dấn thân ngụy tạo ở miền hoan lạc nương cậy. Giá trị của người đi chiến đấu là chấp nhận mọi thống khổ và biết tìm sự thống khổ những ý nghĩa cao cả cho mọi người là hình tưởng nỗi khao khát tự do của dân tộc. Hình tưởng mọi người trong cộng đồng dân tộc sẽ uống từng hớp tự do sau những năm đói quằn quại thê lương. Nỗi thống khổ mời gọichiến đấu. Kinh qua thống khổ là thắp hào quang chiến đấu. Vậy thì nỗi thống khổ đã soi sáng con đường chiến đấu… Trước hết, nỗi thống khổ mang tính chất tiểu ngã sẽ hòa nhập vào đại ngã. Người đi chiến đấu hiểu rõ tại sao mình phải chiến đấu, vì ai mình chiến đấu, lý tưởng nào thôi thúc mình chiến đấu. Chàng vừa khám phá ra niềm rung động của thống khổ. Chàng như Thạch Sanh bị lấp dưới hang. Nhờ ở dưới hang, chàng có cơ hội soi bóng mình trên mặt nước lung linh, huyền ảo, so lại dây đàn, nay cùng điệu mới hòa nhập hồn mình với hồn nhân gian. Âm điệu, thần thánhcủa Thạch Sanh được tôi luyện bằng cảm xúc từ oán khổ. Và âm điệu ấy đã thoát lên đời, đã làm xao xuyến ma quỷ, đã dạy những Lý Thông về địa ngục hèn mạt của chúng.
Chàng đang ngồi trong cachot như Thạch Sanh đã ngồi dưới hang sâu thăm thẳm. Chàng đang tìm hạnh phúc trong bất hạnh như Thạch Sanh đã so dây đàn, soi bóng mình, tìm cái tuyệt đối chân thiện mỹ cho cuộc đời. Chàng bằng lòng lắm, nghĩ rằng, mỗi ngày oan nghiệt, đời sống sẽ cống hiến thêm cho con người một niềm bí ẩn. Sống để đi đến tận cùng của đời sống tức là sống để thu nhận trời biển oan khiên cho riêng mình. Chưa đủ. Đi đến tận cùng của đời sống để xóa bỏ tất cả oan khiên cho mọi người mới đích thực là lý tưởng. Lý tưởng này không thể tìm thấy ở bọn quen thụ hưởng. Những bọn quen thụ hưởng là những bọn nào?
Trước hết là đám ruồi xanh đã bu kín trên cái miệng đỉnh chung tôi mọi cũ. Chúng đã hèn mọn chạy trốn, bỏ cuộc như những tên đào ngũ khốn kiếp. Chúng ngu dại không chịu nằm yên thân phận giống bầy chó ghẻ già nua, ngồi gặm những khúc xương đầy thịt mà chúng ngoạm chặc trên bước đường bôn tẩu. Chúng càng dốt nát không hiểu thời và thế. Thời của chúng đã cáo chung. Thế của chúng đã mất mát. Vậy mà chúng còn muối mặt xưng tước vị cũ, phong cho nhau tước vị mới, tranh giành lãnh đạo, cách chức lẫn nhau, mặc quần áo mới, quấn khăn rằn, trơ trẽn diễn tuồng kháng chiến cứu nước! Chúng lêu bêu xứ người, bất tài vô tướng, làm thầy hay làm thợ cũng chẳng xong, do đó, chúng tương tư quyền bínhvà phát động cuộc chiến đấu phục hồi dĩ vãng – phục hồi quyền bính của dĩ vãng. Chúng huyễn hoặc người nhẹ dạ, khỏa lấp dư luận, dọa nạt người công chính, bôi bác người đối lập. Chúng là lãnh tụ độc quyền giải phóng quê hương, là bầy tướng tá Quảng Lạc diễn chèo, là bọn mà Nguyễn Khuyến đã mỉa mai:” Vua chèo còn chẳng ra gì, Quan chèo thêm nữa khác chi thằng hề!”
Thứ đến là bọn trí thức bất lương, tình nguyện làm đám “ba quân, dạ dạ” chạy cờ cho lãnh tụ Quảng Lạc để được chia tiền lạc quyên, xổ số. Bọn này lãnh nhiệm vụ bao vây, ngăn cản những người tài năng vàng mười dám nói sự thật. Những người tài năng dám nói sự thật đều là những người đã quằn quại trong ngục tù cộng sản, thừa thải kinh nghiệm đánh cộng sản và chưa hề làm đầy tớ Mỹ. Những người này đã nổi tiếng ở Việt Nam, chúng sợ lưu vong sẽ nổi tiếng hơn, sẽ “cướp” hết quyền lãnh đạo của chúng. Và chúng tạo dựng nhiều chuyện khả ố: Chuyện khiếp nhược không dám chống đối các cai tù chăn trâu cắt cỏ, chuyện làm tay sai cho cộng sản trong tù bị chọc thủng mắt, bị liệng xuống giếng, chuyện vượt biên bị liệng xuống biển, chuyện cộng sản gài vượt biên để dễ hoạt động cho cộng sản, vân vân… Bọn trí thức nửa mùa và bất lương này lập hàng rào cô lập người công chính. Chúng sợ người công chính đến với tuổi trẻ thì chúng hóa thành giả hìnhvà nhỡ bị lột quần áo, mọi người sẽ thấy rõ tác phẩm ghẻ lở, què quặt, cóp nhặt của chúng. Và chúng hết nhí nhố. Tội nghiệp chưa?
Sau hết là bọn sống ở Pháp ròng rã 30 năm, dài hơn cuộc chiến Việt Nam khốn khổ, chẳng hiểu đất nước mình ra sao mà cứ thích chất vấn những nạn nhân cộng sản. Chúng không chịu sáng tạo, thấy người ta sáng tạo thì chúng ghen ghét, hạch hỏi:”Tại sao lại sáng tác nhiều thế?”! Và cũng chỉ đến biết vỗ tay hoan hô tướng tá Quảng Lạc.
Đó, những hạng vừa kể trên, dẫu có sống thêm chín kiếp cũng không dám đi đến tận cùng của đời sống để xóa bỏ tất cả oan khiên cho mọi người. Chúng chỉ giỏi bịa đặt, chỉ dám núp trong xó tối phì nọc rắn. Tội nặng nhất của chúng và công ty là lừa gạt niềm tin của mọi người, làm cản trở sự nghiệp tiêu diệt cộng sản giải thoát dân tộc. Chúng làm gì có lý tưởng. Chúng chỉ có cái miệng lưỡi của “người đi đường và con chó!”
Lý tưởng đi đến tận cùng đời sống để xóa bỏ oan khiên cho dân tộc, giải phóng tổ quốc, tạo dựng hạnh phúc cho giống nòi là lý tưởng của tuổi trẻ hôm nay. Tuổi trẻ hôm nay, tuổi trẻ thế hệ sau 30 tháng 4 năm 1975, có dĩ vãng vằng vặc trăng sao, có hiện tại hừng hực mặt trời. Họ chưa hề thụ hưởng gì của dĩ vãng. Họ cũng chẳng hề có quyền bính gì trong dĩ vãng. Họ chưa hề làm tôi mọi cho một thứ quyền lực quốc tế nào, tư bản hay cộng sản, Mỹ hay Liên xô. Nói cho đúng, tuổi trẻ đã là nạn nhân thảm thương của dĩ vãng, của những quyền lực thao túng quê hương Việt Nam từ 1945. Từ chiêu bài quyến rũ “toàn dân đoàn kết kháng chiến chống Pháp giành độc lập” đến cách mạng què cụt 1-11 “tiêu diệt chế độ độc tài Ngô Đình Diệm” mấy thế hệ tuổi trẻ đã bị lừa bịp, đã chết không một nấm mồ, đã mang thương tích u mê vì tham vọng của chủ nghĩa và sự khờ khạo của lãnh tụ quốc gia.
Những người tuổi trẻ của Hà Nội 1946 hồn ở đâu bây giờ? Những người tuổi trẻ tuyệt diệu đó, những sinh viên tự vệ thành dũng cảm đem thân mình ngăn xe tăng của thực dân Pháp, còn ai nhớ chiến tích của họ, còn ai tưởng niệm họ? Những người tuổi trẻ lãng mạn cách mạng trong trung đoàn Ký Con, trung đoàn Thủ Đô còn lại ai? Họ đã bị cộng sản trá hình Việt Minh đẩy lên tuyến đầu chết thay cho họ cả rồi. Đến cuối 1950, lịch sử và Đảng sử chỉ ghi chép sự hy sinh cho tổ quốc và nhân dân của những người lính nông dân. “Ta là người nông dân, mặc áo lính, chiến đấu vì giai cấp bị áp bức từ bốn ngàn năm.”
Ôi, những người tuổi trẻ thế hệ 1945, những người mà nhà văn Nguyễn Mạnh Côn gọi là những người “lạc đường vào lịch sử,” những người đã lo ngại Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc trong mơ ước của mình, Nguyễn Ái Quốc là tên cộng sản xảo quyệt, là thứ Lê Chiêu Thống chủ nghĩa phi nhân. Nhiệt tình và lòng tự chủ của tuổi trẻ Việt Nam thế hệ 1945 đã bị cộng sản nướng khét bằng lửa mác xít. Bị nướng ròng rã 10 năm cho một nền độc lập cắt đôi tổ quốc; cho triền miên đói rách, ngu dốt, thanh toán, thủ tiêu, đấu tố, tù đày. Khi có những biến động trong lịch sử, những kẻ tiền phong dấy động là tuổi trẻ và những kẻ bị khai thác tận tình, bị lợi dụng tội nghiệp vẫn chỉ là tuổi trẻ.

Bạn còn nhớ những người tuổi trẻ Sàigòn 1955 khởi sự công cuộc chống cộng sản không? Họ đã dấn thân tích cực. Họ đòi “treo cổ Hồ Chí Minh.” Họ muốn “chặt ngang thây Trường Chinh.” Họ truy lùng Văn Tiến Dũng giữa Sàigòn. Họ đốt “Gallieni, Majestic.” Họ khai phóng một phong trào. Họ lay động bọn khiếp nhược, tiêu cực. Họ làm sinh động đời sống. Trong họ, nhiều người bị bỏ tù, bị đánh đập, bị bắn mù mắt. Chế độ vững vàng nhờ tinh thần sư tử của họ. Và chế độ bắt bớ, đàn áp họ. Chế độ chỉ ban phát ân huệ cho bọn “cai thầu tuổi trẻ.” Bọn cai thầu trúng mối lớn của ông Ngô Đình Nhu. Bọn cai thầu đang có mặt ở Paris. Bạn muốn biết chúng nó là ai không? Có đứa nhờ thầu tuổi trẻ mà vinh hiển suốt đời. Có đứa mon men mãi cũng leo lên chức Bộ Trưởng. Kinh nghiệm đấu thầu tuổi trẻ của chúng nó là cẩm nang của bọn thầu khoán tuổi trẻ quốc ngoại hôm nay. Kinh nghiệm của cai thầu tuổi trẻ, buồn thay, chỉ là thương đau của dân tộc, là xoáy mòn niềm tin của tuổi trẻ, là phôi pha nhiệt tình, là ngờ vực, là lừng khừng với đời sống. Sau hết, là bọn bon chen trên đường khoa bảng giá áo túi cơm và nổi loạn vô duyên cớ và tích lũy thù hận đàn anh. Chừng thù hận có dịp bung ra, đó là cơ hội rạch nát lịch sử. Tuổi trẻ Việt Nam bị trúng một phát tên độc ngóc đầu lên không nổi: Mũi tên USA. Người Mỹ sách động tuổi trẻ tiêu diệt chế độ Ngô Đình Diệm để được suy tôn “thần tượng” Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu, Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn! Bọn phản nghịch dốt nát biến thành thần tượng của tuổi trẻ. Mỉa mai quá. Sự mỉa mai thấm vào tim phổi tuổi trẻ, sự nổi loạn có duyên cớ khai sinh. Và hậu quả của thức tỉnh là tuổi trẻ triền miên hưởng phi tiễn, dùi cui, lựu đạn cay và ngục tù của đám bảo vệ chế độ, đám công an, cảnh sát, đám cò cơm vô liêm sĩ.
Đàng ngoài hay đàng trong, tuổi trẻ đã là công cụ của các thứ chế độ, của lãnh tụ đảng phái, của bọn thầu khoán bất lương. Ba mươi năm, tuổi trẻ bị đày ra chiến trường cho những tham vọng khốn kiếp của cộng sản và tư bản và bầy tôi mọi của chúng. Mấy triệu thanh niên đã chết dọc đường mòn Hồ Chí Minh, khe núi Trường Sơn, rừng già Pleime, biển cát Hạ Lào. Trường Chinh, Phạm Văn Đồng vẫn sống. Bọn tướng lãnh Sàigòn vẫn sống. Trong nước, phù thủy gian ác cộng sản lại huyền hoặc tuổi trẻ bằng chiêu bài mới “ba giòng thác cách mạng” để lừa tuổi trẻ phơi xác ở Kampuchia “vì nghĩa vụ quốc tế,” lừa tuổi trẻ vào nơi khỉ ho cò gáy để làm, “thanh niên xung phong” đi tải đạn ra chiến trường, lừa tuổi trẻ vào ngục tù, trại tập trung để ngăn chặn phản kháng. Ngoài nước, đạo diễn mù lạivỗ về tuổi trẻ, vuốt ve nhiệt tình tuổi trẻ bằng chiêu bài kháng chiến chống cộng sản trình diễn. Ở không gian và thời gian nào thì tuổi trẻ cũng vẫn là những người nặng tình non nước, những người con xứng đáng được tổ quốc tin cậy, những người dám làm lịch sử và không mang công danh địa vị. Họ ví như cây ăn trái hứa hẹn những mùa màng tốt đẹp, vô hạn. Bọn lãnh tụ trá hình, bọn đào ngũ chạy trốn hèn mọn đã là những cây mục chờ ngày gục xuống vĩa đời. Chúng đã nắm quyền bính và vẫn thèm thuồng quyền bính để bảo vệ quyền lợi của chúng, để thao túng, để hống hách. Khi quyền bính bị tuớc đoạt, chúng nằm tương tư quyền bính. Vì ngu dốt, chúng không thể tạo nổi thứ quyền bính tự tạo nên chúng phải bấu víu lấy tước vị tôi mọi cũ trong cái thế nhân dân đã phủ nhận tước vị cũ của chúng. Và chúng diễn trò yêu nước một cách vụng về. Đứa mặc quần áo, quấn khăn rằn của kẻ thù, tự phong chủ tịch. Dựa trên cái quá khứ “công an xung phong,” vênh vang tự biến mình thành kẻ viết chủ thuyết cho phong trào!
Lịch sử hiện đại chỉ thấy bọn tướng lãnh thoán nghịch, bọn sĩ quan tá, úy làm đảo chính. Chưa hề thấy, trong nhân loại, bọn thư lại đi làm cách mạng. Thư lại là bọn giở chiêu nào nướng chiêu ấy, chế độ nào cũng tốt, cũng đáng phục vụ miễn răng yên thân. Cũng chẳng thấy công an cảnh sát làm cách mạng bao giờ! Công an, cảnh sát là công cụ bảo vệ chế độ và lãnh tụ đắc lực và hữu hiệu nhất. Một phong trào, một đoàn thể, một lực lượng nào âm mưu lật đổ chế độ, dù là chế độ độc tài, công an sẽ đàn áp thẳng tay. Tuổi trẻ Việt Nam từ 1963 đến 1975, ở Sàigòn, còn ấm áp những kỷ niệm đàn áp dã man của cảnh sát nổi, cảnh sát chìm, cảnh sát dã chiến. Người nữ sinh viên nào bị đốt núm vú ở Ty Cảnh sát Quận 1? Người nam sinh viên nào hưởng liên tiếp một tuần lễ đòn của thợ đánh người ở trong nha Cảnh sát? Cứ hỏi ông Phạm Văn Liễu, ông Trang Sĩ Tấn, một là Tổng Giám đốc Cảnh sát, một là Giám đốc Nha Cảnh sát Đô Thành, sẽ biết rõ thủ đoạn đàn áp sinh viên học sinh Sàigòn xuống đường đòi hỏi tự do, dân chủ. Tuổi trẻ trong nước năm xưa bị nếm dùi cui, phi tiễn tàn bạo của cảnh sát. Một số người nông nổi vì quá căm phẩn đã bỏ vô mật khu theo cộng sản. Cảnh sát và tinh thần bảo vệ chế độ của họ đã dồn tuổi trẻ vào bước đường cùng, đã giết chết nhiệt tình của tuổi trẻ. Người tuổi trẻ Việt Nam du học lâu năm ở ngoại quốc chưa có kinh nghiệm cay đắng của những người thuộc thế hệ họ. Lòng yêu nước và niềm tin giải phóng dân tộc của họ bị ru ngủ bởi lũ cò mồi. Hình tưởng một cậu bé ngây thơ, mặc quần áo Tết, cố len vào đám bầu cua cá cọp. Biết cậu bé ham ăn, cò mồi đánh đâu thắng đấy. Cậu bé móc túi, lôi ra những phong bao lì xì thơm tho, theo cò mồi liệng tiền xuống chiếu bạc. Và cậu bé cháy túi. Chủ sòng và cò mồi chia tiền nhau, chia những đồng tiền của cậu bé non nớt, ham vui!
Tuổi trẻ Việt Nam thường xuyên bị cò mồi chính trị dụ dỗ. Ở Mỹ Châu, ở Úc Châu, ở Âu Châu thiếu gì cò mồi kháng chiến. Ngay ở Paris cũng có thứ cò mồi gớm ghiếc đó. Nó in được bạc giả nên nó tiêu bạc giả vung vít. Nó dùng bạc giả nên nó khỏa lấp người công chính, vu khống người công chính và ngăn cách người công chính tới gần tuổi trẻ. Nó giả hình văn nghệ. Nó vô liêm sỉ nhận mình là nhà văn để len lỏi vào cõi văn học nghệ thuật. Tất cả đều đáng bỏ qua, bởi vì, sẽ có ngày mọi người biết nó tiêu bạc giả. Nhưng một điều không thể tha thứ cho nó vì nó nhúng vào tội ác đối với dân tộc, đối với công cuộc kháng chiến giải phóng quê hương chân chính, đích thực là nó đã đưa tuổi trẻ Việt Nam ở Âu Châu vào tay tên trùm cảnh sát, tên trùm đã dày thành tích tra tấn, đàn áp, bỏ tù tuổi trẻ dám chống chế độ độc tài, tham nhũng. Thiếu tuổi trẻ và nhất là tuổi trẻ trí thức, bảng hiệu của Công ty của trùm cảnh sát và đồng bọn không thể làm ăn, chia chác được. Do đó, cò mồi đã xâm nhập tuổi trẻ, khuynh loát tuổi trẻ, biến tuổi trẻ thành những người đi lạc quyên và bán vé xổ số. Nghĩ cũng bẽ bàng khi tuổi trẻ hôm nay suy tôn một kẻ từng đàn áp không thương xót tuổi trẻ hôm qua! Có lẽ người ta muốn tạo dựng một chế độ cảnh sát mới ở Việt Nam mai này?
Đó, chàng đã suy nghiệm thân phận tuổi trẻ Việt Nam. Và, dưới hang sâu thăm thẳm, chàng vừa nhận ra một chân lý: Tuổi trẻ Việt Nam bị làm guốc cho các chế độ, các lãnh tụ thật và giả lâu quá rồi. Guốc mòn, vất đi. Một thế hệ rác rưởi. Thay guốc mới. Thêm một thế hệ mệt mỏi, lạc lỏng. Bây giờ là lúc tuổi trẻ Việt Nam phải làm mũ, nón tự đội lên chính đầu mình mà đi tìm hạnh phúc vinh quang cho dân tộc. Bởi vì, dĩ vãng của tuổi trẻ hôm nay là mặt trăng, hiện tại của tuổi trẻ hôm nay là mặt trời. Tuổi trẻ hôm nay không mảy may mặc cảm tội lỗi nào với dân tộc, với quê hương. Chàng sảng khoái và bất giác, chàng nói lớn: “Ta khởi sự từ số không, từ ngục tù cộng sản.”
(Trích “Một người tên là Trần Văn Bá”)
Tuổi trẻ chiến đấu
Chúng ta là những người biết sống và biết chết. Chúng ta không phải là những người sợ sống và sợ chết. Đồng ý. Sống và chết, hiểu theo nghĩa của chúng ta, của những người tự nguyện chiến đấu cho lý tưởng dân tộc. Chẳng ai được phép đòi hỏi gì chúng ta trước, trong và sau chiến đấu. Chẳng ai được phép ban phát gì cho chúng ta trước, trong và sau chiến đấu. Đó là hãnh diện của kẻ chiến đấu tự nguyện. Chúng ta không cần sự phê phán của đám sử gia rẻ tiền hay sự tranh luận bệ rạc về chính sử, ngoại sử, dã sử của đám nghiên cứu lịch sử bằng tài liệu mốc thếch, xuyên tạc cả ngợi khen lẫn chê trách. Chúng ta là lịch sử, lịch sử của tuổi trẻ Việt Nam trưởng thành từ một kinh qua khốn cùng của đất nước. Chỉ còn tuổi trẻ mới có quyền nói mình yêu nước mà không phải cúi mặt xấu hổ. Dĩ vãng tuổi trẻ vằng vặc trăng sao. Vì chưa hề ngửa tay nhận tiền ngoại quốc, chưa hề nhận ân huệ tôi đòi của ngoại bang để vênh váo quyền bính thống trị bù nhìn bốc lột và đàn áp nhân dân. Hiện tại tuổi trẻ rực rỡ mặt trời. Vì chúng ta không cam đành, chúng ta dám chiến đấu chống cộng sản nhiệt tình và tự phụ, lãng mạn và cô đơn trong hoàng hôn chiến bại, trong đào ngũ chạy trốn của bọn sinh ra để sống nhục và chết nhục. Tương lai tuổi trẻ rạng ngời ánh sáng. Vì chúng ta không chiến đấu để mưu đồ quyền lực, tước vị, công danh, phú quý. Chúng ta là chiến sĩ vô danh. Chúng ta sẽ cố gắng để vui niềm vui của dân tộc như chúng ta đã buồn nỗi buồn của dân tộc. Không có cố gắng nào không dẫn đến kết quả. Sự thành công của chiến đấu, niềm vui động đất của dân tộc, bắt chúng ta cố gắng không ngừng, bắt chúng ta thắp sáng ý chí chiến đấu từng phút, từng giây, bắt chúng ta sáng tạo chiến đấu từng phút, từng giây. Chúng ta đầy đủ uy thế bệ vệ và sức mạnh tuyệt luân của sư tử. Chúng ta là sư tử lãng mạn. Ở mỗi chúng ta không ai nghĩ thất bại. Không có thất bại luẩn quẩn trong đầu óc chúng ta, trong trái tim chúng ta, trong hơi thở chúng ta.
Chúng ta chưa quên câu nói bất hủ của Vị Ưởng: “Sống vì tổ quốc khó khăn hơn chết”. Nhưng khi phải chết, trong nỗi chết thiếu tiếng thở dài tuyệt vọng. Cho nên, Vị Ưởng, Thương Hoài, Dzũng bò, Mục rỗ, Năm cò vẫn tin cuộc chiến thành công dẫu mình tan xác. Cho nên, Ngư Phủ tự sát, vẫn tin cuộc chiến thành công. Cho nên, Độc Thư đứng thẳng dẫm chân lên hình phạt của thù hận mà tuẫn tiết, vẫn tin cuộc chiến thành công.
Chúng ta đều là những người biết sống biết chết. Chúng ta ngạo mạn. Bởi chúng ta là thái dương, tinh tú trong mù sương của lịch sử hôm nay. Cứ chủ quan mà nói, kẻ thù cộng sản chỉ khiếp sợ chúng ta. Chúng ta đã chứng minh điều đó. Chẳng có dấy động nào thiếu tuổi trẻ tiên phong. Chẳng có bão tố nào thiếu tuổi trẻ nổi gió.Chẳng có cách mạng nào thiếu tuổi trẻ mở đường.
Cộng sản nói đời đã đổi từ 30-4-1975. Chúng ta nói đàn anh đã chết hết từ 30-4-1975. Không còn kẻ nào xứng đáng để chúng ta gọi là đàn anh. Trần Du có thể trả lời. Lê Thanh có thể trả lời. Nguyễn Ngọc có thể trả lời. Bất cứ ai trong chúng ta đều có thể trả lời. Bất cứ một người tuổi trẻ Việc Nam nào lớn khôn từ nỗi đau 30-4-975 đã có thể trả lời. Và đều được phép khinh miệt đàn anh. Họ đã làm hư hỏng đất nước ròng rã ba mươi năm. Họ đã chết dù họ còn sống. Cỏ dại bám vào lúa làm hại mùa màng thì phải nhổ lên, đốt cháy. Chúng ta không cần nhổ cỏ dại. Cộng sản đã giúp chúng ta. Cộng sản đã kéo màn để chúng ta nhìn rõ đàn anh chúng ta trên sân khấu nham nhở. Rặt bọn đào kép đầu quân hết chế độ này sang chế độ khác. Rặt lũ đạo diễn mù đeo kính đen. Rặt những vở tuồng lều bều tham vọng quyền bính tôi đòi hèn mọn. Đàn anh chưa hề chiến đấu. Đàn anh chưa hề biết sống và biết chết. Những kẻ không biết sống và biết chết là những kẻ sống chết không có thái độ. Và họ chẳng có gì để lại cả. Họ sống như lợn ủn ỉn đòi ăn tối ngày và chết như cóc nhái thối tha bờ bụi. Những cây mục hút đất mầu quê mẹ no nê nghìn năm không trổ hoa đơm trái ấy, ở đâu đó, xa lìa tình tự dân tộc, xa lìa nỗi thống khổ của dân tộc, lại đang rắc hạt tiêu vào mắt, lại đang nuốt ớt lột lưỡi, nhỏ lệ khóc quê hương và lên tiếng ái quốc huyễn hoặc quá khứ, ve vuốt hiện tại, phỉnh phờ tương lai.
Chúng ta không tin họ. Chúng ta chỉ tin chúng ta. Chúng ta tin chúng ta vì, trước hết, không huyễn hoặc chúng ta, không ve vuốt chúng ta, không phỉnh phờ chúng ta. Chúng ta tin chúng ta vì, sau hết, chúng ta biết tại sao chúng ta chiến đấu và chúng ta chiến đấu cho mục đích nào. Chúng ta tin chúng ta vì, ngoài ra, chúng ta biết chúng ta đầy đủ nhiệt tình, thừa thãi lòng tự phụ, tràn trề sáng tạo, lãng mạn, lạc quan. Hẳn nhiên, chúng ta cô đơn. Và chúng ta bằng lòng cô đơn. Nỗi cô đơn giúp chúng ta nhìn rõ chúng ta, nhìn rõ thân phận của dân tộc chúng ta.
Nỗi cô đơn thắp giùm chúng ta đốm lửa nhận đường chiến đấu, dẫn dắt chúng ta gần gũi nhau, thương yêu nhau, soi lối cho chúng ta sáng tạo chiến đấu và dạy chúng ta khôn lớn. Trong cô đơn, chúng ta có Đạn lên nòng, chúng ta có vận động cách mạng Tây Sơn. Và niềm kiêu hãnh của thời đại chúng ta, chúng ta có chủ thuyết tư sản. Một nghìn năm binh lửa triền miên, nước Trung hoa vĩ đại sản sinh một trăm triết gia gọi là “bách gia chư tử”. Bốn năm đau khổ, dân tộc Việt Nam sản sinh một Nguyên Ngọc. Chủ thuyết tiểu tư sản của người Việt Nam lập thuyết trong nỗi cô đơn khôn cùng của lịch sử Việt Năm là nỗi rạc rài của lịch sử nhân loại. Chủ thuyết tiểu tư sản, chắc chắn, sẽ dẫn đạo cuộc tân cách mạng Tây Sơn thành công, sẽ đem lại hạnh phúc vĩnh cửu cho dân tộc Viết Nam và loài người trên trái đất sau một thế kỷ bị đầy đọa bởi hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản. Để có thành công, chúng ta phải biết đề phòng thất bại. Đề phòng thất bại và không nghĩ đến thất bại thật khác nhau. Trí tuệ của kẻ mưu đồ đại nghĩa mênh mông khôn tả. Nó biến hóa theo sáng tạo. Nhưng căn bản của nó vốn là biết mình, biết người. Chúng ta biết kẻ thù của chúng ta, kẻ thù của chúng ta không biết chúng ta. Đó là điểm chúng ta hơn hẳn bọn đàn anh. Chúng ta lại biết cái thế của chúng ta và biết cả cái thế của kẻ thù. Do đó, chúng ta còn tồn tại, không bị chúng tiêu diệt. Ở đây, ngoài tôi, không ai biết anh em Đạn lên nòng gồm những ai, tên gì, làm việc ở đâu. Ở đây, ngoài anh em hiện diện hôm nay và Quỳnh Đào, người ta chỉ biết tôi là tên nhạc sĩ phản bội, kẻ thù chỉ biết tôi là hàng thần lơ láo. Nếu hôm nào tôi ngã gục, Phong trào vẫn nguyên vẹn, vẫn ngạo nghễ chiến đấu. Chúng ta biết kẻ thù tinh vi, xảo quyệt, tài giỏi, thừa thải người. Chúng ta không được phép coi thường kẻ thù, không được đánh giá kẻ thù rẻ tiền khi nhận xét gã bộ đội quê mùa hay tên công an ngu dốt. Chúng ta phải đánh giá kẻ thù qua Võ Nguyên Giáp chiến thắng Pháp; qua Lê Đức Thọ ngang cơ Kissinger, qua Trần Quốc Hoàn trùm KGB Việt cộng; qua Mai Chí Thọ, Trần Độ, Tố Hữu,Trường Chinh… Với chủ thuyết tiểu tư sản, kẻ thù của chúng ta là Karl Marx, Lénine. Vậy thì chúng ta, mỗi người biết nhiệm vụ của mình, biết số người cộng tác của riêng mình để, nếu phải chết, vẫn tin Phong trào vẫn tồn tại, sẽ thành công. Tôi mong, ngoài mấy anh hiện diện hôm nay biết nhau thôi, người của anh em không nên biết. Tôi chẳng dám nghi ngờ ai, tôi chỉ đề phòng. Bởi vì, có khi người ta chưa kịp chọn cách chết mà cộng sản tinh vi đủ phương pháp bắt cả người chết phải khai sự thật. Tôi nói ít, mong anh em hiểu nhiều. Điều anh em vẫn đang thắc mắc là tại sao, lần đầu tiên, tôi yêu cầu gặp nhiều anh em một lần và nói nhiều. Tôi xin giải thích ngay: Kinh nghiệm Phan Thức. Tôi quen biết ông Phan Thức trước năm 1975. Thuở ấy tôi là một nghệ sĩ thuần túy. Tôi thấy ở ông Phan Thức có vài điểm tôi phục. Có lẽ là thời say mê lý tưởng của tuổi trẻ ông. Ông Phan Thức kiến thức vững vàng, tuy hơi ngây thơ. Tôi yêu những người già ngây thơ. Sau 1975, tôi nhập cuộc chiến đấu. Và tôi cũng tâm sự với ông Phan Thức. Ông ta tìm tôi, nhờ tôi một việc. Tôi thất vọng, hoàn toàn thất vọng về đàn anh ảo tưởng. Tôi đã cứu ông Phan Thức sa lưới công an. Anh Trần Du đòi khử ông ta để tránh hậu họa. Lòng trắc ẩn níu tôi lại. Ông Phan Thức đã trốn chạy. Nếu ông ta bị Mai Chí thọ bắt, tôi phải tự xử. Để Phong trào tồn tại. Tôi chưa hiểu tình trạng ra sao với tôi và với ông Phan Thức, song đây là kinh nghiệm của chúng ta vừa chiến đấu vừa học tập dân chủ. Tất cả lãnh tụ độc tài đều mọc mầm từ sự sợ hãi nghe phê bình và không dám tự phê bình. Chẳng bao giờ tôi là lãnh tụ cả. Chúng ta cũng chẳng ai mong mỏi có lá cờ phủ trên quan tài khi gục ngã. Tôi gây ra lỗi lầm, tôi nhận lỗi. Tôi biết sống và biết chết. Sống và chết không thành vấn đề quan trọng. Quan trọng là cách mạng Tây Sơn thành công. Cái chức vị huynh trưởng mờ ảo, hư thực này tôi xin được giao cho Trần Du. Anh em sẽ tiếp tục hư thực, mờ ảo chức vị đó. Tôi hoàn toàn tin cậy anh em. Anh em sẽ là đầu óc, là tay trái, tay phải của anh Trần Du. Tôi sẽ gặp riêng anh Trần Du bàn rõ Đạn lên nòng Sàigòn và cơ sở miền Tây. Tôi không bỏ cuộc. Tôi vẫn chiến đấu. Nhưng chúng ta nên chuẩn bị tư tưởng chu đáo. Cách mạng không giống thảo khấu. Thảo khấu sẽ tan rã, nếu chủ soái chết. Cách mạng Tây Sơn phải tồn tại đến thành công nếu Duy Tâm chết, Trần Du chết, Lê Thanh chết, Vũ Hải chết.. Và, với Nguyễn Ngọc tôi muốn nhắc vài lời: Karl Marx chết, Fiedrich Engels viết Tuyên ngôn đảng Cộng sản và Lénine thực hiện. Anh Nguyễn Ngọc cần nhiều người thực hiện chủ thuyết tiểu tư sản.
(Hồn say phấn lạ)
Xuân Thu, 1988
Tuổi trẻ quốc ngoại xuống thuyền

Tự bản chất, tôi không hề có tham vọng chính trị.Như những người tuổi trẻ cùng thế hệ, tôi sinh ra và lớn lên trong chiến tranh Việt Nam triền miên. Khi tôi thật sự trưởng thành, tôi chỉ thấy, khắp quê hương tôi những biến động và biến động. Những biến động tạo ra bởi tham vọng bất nhân của chủ nghĩa tư bản, tham vọng phi nhân của chủ nghĩa cộng sản. Những biến động gây ra binh lửa, chết chóc, đói khổ, ngu dốt và chia rẽ. Để khiêu vũ trên bãi tha ma, để đua thuyền trên giòng sông nước mắt, chủ nghĩa cưa đôi dân tộc tôi và toa rập với nhau kiến trúc hai miền thù hận. Bằng ý thức hệ và bằng cả vũ khí tư bản cộng sản. Tham vọng của chủ nghĩa đẻ thêm tham vọng quyền bính của lũ tôi đòi bản xứ. Một bên là đám ăn cướp. Một bên là đám ăn cắp. Đúng nghĩa nhất, lãnh tụ Hà nội và mọi cơ cấu của nó là phỉ quyền. Bởi vì nó hằng phô trương thành tích cướp chính quyền. Lãnh tụ Sài gòn và mọi cơ cấu của nó là ngụy quyền. Bởi vì nó được nặn ra do thế lực và áp lực ngoại nhân do bầu cử gian dối, lừa gạt. Đám ăn cướp hò hét chuyên chế. Đám ăn cắp hò hét độc chiếm. Với mệnh lệnh của chủ nghĩa với ân huệ của chủ nghĩa, phỉ quyền và ngụy quyền tranh giành quyền bính. Những khúc xương dính chút mảng thịt ném xuống mặt tổ quốc, chúng nhào tới quần thảo. Đề gặm. Để cạp. Khi chúng nuốt những miếng nuôi chim mồi của chủ nghĩa, dân tộc tôi cay đắng, đòi đoạn, thù hận chia lìa. Bỗng nhiên. dân tộc tôi biến thành một dân tộc hiếu chiến, man rợ!
Để lãnh tụ Hồ Chí Minh trở thành “cha già dân tộc”,đám phong kiến quan liêu đội lốt vô sản áo rách đã nướng một thế hệ tuổi trẻ tinh hoa và nồng nhiệt vào cuộc chiến 10 năm để có nền độc lập què cụt và thân thể tổ quốc bị cưa ngang. Không cần kháng chiến giành độc lập, không cần đổ máu, không cần tiêu thổ kháng chíến, nước Mã Lai tầm thường vẫn có độc lập đầy đủ chủ quyền, thịnh vượng, ấm no hạnh phúc và đang có tiếng nói trong sự ổn định tình hình Việt Nam! Đó là sự mỉa mai, là chứng minh cho ngu xuẩn của phỉ quyền. Nó đã gang họng miệt thị tiền nhân, vọng ngoại đê tiện: “Quang Trung chỉ nhìn được 10 năm, Lénine nhìn xa 100 năm!” Nó răm rắp tin nghe giáo điều của chủ nghĩa, nó sáng tạo trò chơi “giải phóng dân tộc” là nó trở nên thông manh, mù quáng. Nó bị lớp màng xanh tham vọng anh hùng giai cấp phủ lấp tim óc. Và nó dẫn dắt dân tộc vào cuộc phiêu lưu 10 năm để dân tộc dạt vào bờ bãi lạc hậu, khốn cùng, phân ly. Chưa đủ, nó tiêu diệt thêm 2 triệu con người Việt Nam hiền hòa, nó bảo “cải cách ruộng đất”, thực ra để củng cố quyền bính gần sụp đổ của nó. Rồi, vẫn giáo điều “giải phóng dân tộc” tham vọng của nó lên cân, nó đưa dân tộc phiêu lưu chiến tranh, mời mọc tư tưởng và súng đạn tư bản nhập cuộc. Nó nướng thêm mấy thế hệ tuổi trẻ ròng rã 20 năm “giải phóng”! Được gì? Một đất nước xanh xao hết máu. Sự cô lập. Nhà tù. Trại tập trung. Thù hận anh em. Và đói khổ. Và già nua, bệnh hoạn. Chưa hề thấy- kể cả ngay trong thế giới cộng sản – một chế độ nào khụ khị, ù lỳ như chế độ cộng sản Việt Nam. Lãnh tụ rặt những bô lão, những cổ thụ không còn khả năng đâm chồi, nẩy lộc. Họ cứ khăng khăng nghĩ, sau họ là đại hồng thủy. Do đó, dân tộc héo hắt và tuổi trẻ thui chột.
Còn đám lãnh tụ lính pạc-ti-dăng, khố xanh, khố đỏ ra sao? Đó là lũ ròi bọ đục khoét xương tủy tổ quốc, lũ tôi mọi hèn mọn của chủ nghĩa tư bản. Nó nhân danh “quốc gia”, bóc lột xương máu của lính chiến bóc lột niềm tin của dân tộc, đàn áp tuổi trẻ tận tình. Nó chỉ biết thoán nghịch, rượu, gái và cờ bạc. Nó ăn cắp tiền bạc của nhân dân, bòn rút tài sản của quốc gia chuyển ra ngoại quốc. Để đeo sao trên cầu vai nó, đã dẫm lên xác chết của hàng trăm ngàn chiến sĩ vô danh hy sinh vì tự do, dân chủ của đất nước. Để đóng đinh trên tước vị tổng thống, thủ tướng, nó đã quấn khăn tang cho hàng triệu cô nhi quả phụ. Nó diễn hành trong tiếng than khóc của nòi giống. Nó bán đứng dân tộc nó cho sự vinh hoa, phú quý và quyền uy thống trị. Vây quanh nó là bọn gia nô, cầy cáo hiến kế dâng mưu làm bại hoại tổ quốc. Nó cúi gục mặt cam đành để ngoại nhân khinh nhờn cái uy linh của đất nước. Điều bi thảm nhất là nó giương danh “chính nghĩa quốc gia” bêu nhục quốc gia. Nó thao túng tất cả. Nó độc quyền yêu nước giả vờ và ngăn chặn tiến hóa của dân tộc. Nó ăn cắp cả vũ khí để giết kẻ thù bán cho kẻ thù. Nó đánh đổi bất khuất truyền thống, lấy vọng ngoại, ỷ lại đê hèn. Cuối cùng, nó đào ngũ chạy trốn trước lệnh đầu hàng, bỏ mặc quân dân ngơ ngác. Chưa hề thấy trong lịch sử Việt Nam hạng tướng quốc cao bồi, mật vụ; hạng tham quyền cố vị và ngu dốt như thế.
Nếu chúng không ngu dốt, đám lãnh tụ phong kiến đội lốt vô sản và đám lãnh tụ khố xanh khố đỏ, chúng đã hiểu được cái thế hòa giải dân tộc và thống nhất tổ quốc sau này. Hòa giải dân tộc không thể bao giờ có bằng sự nuôi dưỡng thù hận huynh đệ, thù hận nòi giống. Người già rồi sẽ chết, phải chết, kể cả lãnh tụ vĩ đại muôn năm. Tương lai một dân tộc là ở sự làm việc của người trẻ. Những người trẻ sẽ biết phán xét cha anh, sẽ hiểu giá trị của đoàn tụ, sẽ nhường nhịn nhau, hòa giải với nhau vì sự trường tồn của xứ sở. Nếu hiểu được vậy, chúng đã không thích chiến tranh. Và khôn ngoan hơn, chúng biết lấy tiền của ngoại nhân xây dựng hạnh phúc cho dân tộc và kiến thiết đất nước. Vì chúng ngu dốt lại đầy tham vọng nên chúng biến thành công cụ của chủ nghĩa. Một đứa háo danh. Một đứa ham tiền. Cả hai đều thèm quyền bính. Rốt cuộc quê hương tôi là bãi chiến trường đọ vũ khí mới nhất của cộng sản và tư bản; dân tộc tôi hứng bom Mỹ, hỏa tiễn Liên xô và đạn AK Trung quốc. Dân tộc tôi nào biết tư bản ra sao, vô sản ra sao, thế mà cứ phải đâm chém nhau vì chiến tranh giải phóng và chiến tranh ý thức hệ. Hết làm “thành trì chống Cộng bảo vệ Đông Nam Á” lại đến làm “thành trì bảo vệ xã hội xã hội chủ nghĩa”! Chiến tranh chấm dứt, chúng tôi còn gì?Hố bom. Hầm chông. Rừng tàn tạ vì thuốc khai quang. Đói khổ. Lạc hậu và lạc hậu.
Điều bi thảm nhất của dân tộc tôi là sau hòa bình của thứ gọi là chiến tranh ý thức hệ khốn kiếp, chiến tranh tâm lý chó má, nhà tù và trại tập trung được xây dựng nhanh hơn, nhiều hơn trường học bị bom đạn tàn phá. Người Việt Nam coi người Việt Nam là kẻ thù nguy hiểm. Khi chủ nghĩa tư bản ngự trị trên một nửa đất nước tôi, trò chơi của nó là bom đạn, càn quét, giết người, còng xích tra tấn và tù ngục. Người Việt Nam công cụ của chủ nghĩa cộng sản ở một nửa đất nước phía trên, bị đẩy vào chỗ chết bị bắt bớ, bị gọi là cộng phỉ và bị tra tấn, giam nhốt vào các nhà tù do Mỹ viện trợ. Ở trong những nhà tù Mỹ quốc viện trợ, trò chơi của chủ nghĩa tư bản xoay cộng phỉ phờ phạc rồi báo chí Mỹ miệt thị người Việt Nam không tôn trọng nhân quyền. Khi chủ nghĩa cộng sản thôn tính miền Nam, người Việt Nam bị coi là thua trận người Việt Nam, bị coi là ngụy quân ngụy quyền, bị lùa vào các nhà tù, trại tập trung rập khuôn mẫu Liên xô và người… ngụy bị người Việt Nam còng xích chân tay bằng khóa chế tạo tại USA! Đất nước tôi lại là nhà tù trại tập trung sau hai mươi năm là bãi chiến trường khốc liệt. Thù hận do các thứ chủ nghĩa xâm nhập. Các thứ chủ nghĩa hữu nghị với nhau, nắm tay nhau liên hoan trên quê hương nghèo đói của tôi. Còn chúng tôi, chúng tôi thù hận lẫn nhau. Chúng tôi nhân danh chủ nghĩa để băm vằm nhau. Chủ nghĩa và bọn đầy tớ vong bản thủ lợi.
Thù hận chưa ngưng, dù đất nước đã tan tác, rạc rài. Vì tham vọng của chủ nghĩa, tham vọng của lãnh tụ cái chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa đã áp đặt lên khắp quê hương Việt Nam yêu dấu của tôi những tai họa và những tai họa. Một xã hội sưu thuế mới, đê tiện hơn cả xã hội sưu thuế trong tiểu thuyết của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. Bọn thu thuế mới, bọn đảng viên cộng sản, gian ác và thủ đoạn gấp ngàn lần bọn lý trưởng, chánh tổng. Dân chúng quằn quại vì sưu thuế. Ruộng đất phì nhiêu, lúa cấy đến bốn vụ mà dân vẫn phải ăn độn khoai sắn. Tự do, dân chủ là nước hoa đối với con nhà nghèo. Hạnh phúc là mỏi mòn chờ đợi. Tuổi trẻ hắt hiu, cằn cỗi. Dinh dưỡng thiếu thốn, lao động quần quật, tuổi trẻ choắt lại, thấp bé, môi thâm, mắt mờ. Đã thế, vẫn bị đầy ra chiến trường nước ngoài để chết, để đui mù, què quặt cho “nghĩa vụ quốc tế”. Dân tộc bốn nghìn năm văn hiến bỗng hóa thành một dân tộc dốt nát vì chỉ được học, được biết những giáo điều viết lại của bầy ngự sử mác-xít. Những tài năng của đất nước bị chôn sống trong nghĩa địa cải tạo, bị thủ tiêu, bị lưu đầy. Do đó, thù hận cũ chưa nguôi, thù hận mới khởi sự. Và đó là chân lý.
Trong nước, phỉ quyền lộng hành, hủy diệt mọi công trình dựng nước của tiền nhân, thúc bách dân chúng cam đành chấp nhận cuộc sống tối tăm ảm đạm. Ngoài nước, đám tàn dư của ngụy quyền tiêu biểu là những tên tướng tá xuất thân khố xanh, khố đỏ, pạc-ti-đăng; những tên chính khách chuyên nghiệp hèn mạt; những tên nghị sĩ dân biểu gia nô; những tên trí thức bất lương, tiêu bạc giả lại mở miệng hôi thối nói chuyện nước non. Sau khi bỏ lính chiến đào ngũ, sau khi bỏ cử tri chạy trốn, sau khi bỏ đồng chí lẩn cút, sang nước Mỹ an toàn không một bóng dáng Việt cộng, lũ tội đồ của dân tộc âm mưu phục hồi quyền bính tôi đòi cũ, thứ quyền bính cho chúng bóc lột xương máu của quân dân một cách hợp pháp và có… chính nghĩa quốc gia. Bọn quốc gia giả hình này, bọn cầy cáo của ngoại nhân, bọn đã làm ung thối tổ quốc, bọn đã đánh bạc bằng máu của lính chiến, bằng mồ hôi của dân lành, bọn đã làm băng hoại cuộc chiến đấu chống cộng sản xâm lăng, lại tiếp tục làm băng hoại cuộc chiến đấu chống cộng sản cua dân trong nước, làm mất niềm tin hồi hương của lưu dân khắp thế giới bởi những tranh giành quyền lãnh đạo độc tôn, bởi những công kích nhục mạ lẫn nhau, bởi những thủ đoạn lừa gạt bịp bợm của chúng. Và, thê lương hơn, bởi tinh thần vọng ngoại khó gột rửa. Một số vẫn ôm chặt chân ông chủ Mỹ. Há chúng chưa quên bàn chân ông chủ Mỹ đã đạp đá chúng những cú cuối cùng khi chúng chạy vào Tòa Đại Sứ hay phi trường Tân Sơn Nhất lạy van xin trốn khỏi Việt Nam? Chẳng đứa nào có một chút liêm sỉ lãnh đạo của Cheng Heng, của Siêu Matak? Hai nhà lãnh đạo Kampuchia này đã khước từ ân huệ di tản của Mỹ, kẻ lừa gạt dân tộc họ, tình nguyện ở lại đất nước để được tưới máu của họ xuống đất quê hương, để được chết chung với chiến hữu, với dân tộc họ bằng lưỡi lê Khờ me đỏ. Một số tìm cách bám chân ông chủ cũ của Việt cộng là bố Tầu hồng, kẻ thù truyền kiếp của giống nòi Bách Việt, kẻ đã đô hộ chúng ta hàng nghìn năm, đã bắt tổ tiên ta lên rừng kiếm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai hết thế kỷ này sang thế kỷ khác. Há chúng chưa học lịch sử tranh đấu của nòi giống Bách Việt, chưa biết Lê Chiêu Thống và sự nghiệp rước giặc vào nhà? Học đòi tham vọng quyền bính, chúng theo đóm lũ Hoàng văn Hoan, Trương Như Tảng chống bè lũ Lê Duẩn. Há chúng chẳng hiểu Hoan và Tảng bị cộng sản khu trừ đâm ra cay cú mà chống bọn khu trừ mình chứ đâu phải vì dân tộc mà thoát ly cộng sản. Há chúng chẳng rõ Hoan vẫn tôn thờ tên tội đồ muôn thuở của dân tộc là Hồ Chí Minh? Một số kết hợp tướng bẩn và tá cớm bầy trò lạc quyên xổ số, tem phiếu lấy tiền bảo rằng mua súng đạn về lập chiến khu chống cộng sản. Công ty yêu nước của tẩy và cớm làm ăn khấm khá nhờ lưu dân nóng lòng trở lại quê hương, khao khát trở lại quê hương. Được đám trí thức bất lương đồng loã cổ võ và vinh tôn hết ngôn ngữ cò mồi trên báo chí, thêm nữa, những tên giả hình trí thức, giả hình văn nghệ chui vào hội đoàn này, hội đoàn nọ chia rẽ giữa các hội đoàn, bôi bẩn những người tài năng không đồng quan điểm với công ty của nó, huyễn hoặc sinh viên, tạo nghi ngờ giữa tuổi trẻ và đàn anh để lôi kéo tuổi trẻ suy tôn lãnh tụ tẩy và cớm, những tên đã đàn áp tuổi trẻ tận tình. Há chúng tưởng người thức giả quên chuyện chúng đào ngũ vất lại hàng ngàn xe tăng, hàng ngàn đại bác,..hàng ngàn máy bay, hàng triệu tấn súng đạn và ngót triệu quân tinh nhuệ? Bây giờ chúng lạc quyên, xổ số để mua được mấy khẩu đại bác?
Nhìn thẳng vào sinh hoạt cứu quốc của đám tàn dư ngụy quyền ở quốc ngoại, hướng về dân tộc đang rên siết dưới gót giầy thống trị bạo tàn của phỉ quyền quốc nội, tôi, người tuổi trẻ thế hệ sau 30-4-1975, tự đặt mình vào cái thế phải chống cả tàn dư ngụy quyền và phỉ quyền. Ngụy quyền lưu manh. Phỉ quyền gian ác. Nước Việt Nam không thể nào được xây dựng kiện toàn bằng lưu manh và gian ác. Dân tộc Việt Nam không thể nào có tự do, dân chủ, hạnh phúc, thương yêu bởi đám lưu manh và phường gian ác. Lịch sử thống trị của ngụy và phỉ đã chứng minh trên hai miền đất nước. Phỉ quyền đang bóp nghẹt dân tộc bằng quyền bính chuyên chính vô sản. Ngụy quyền đang phát động chiến đấu phục hồi quyền bính tôi đòi. Hai thứ quyền bính này chỉ là nọc độc phì vào tim óc tổ quốc, chỉ là ròi bọ đục nát gan phổi dân tộc. Tôi đã thấy và thấy rõ hơn từ những ngày tôi cô đơn trong ngục tù phỉ quyền. Và tôi nghĩ tới một chính quyền tương lai của đất nước tôi. Và tôi nghĩ tới thân phận tuổi trẻ Việt Nam bị lừa gạt ròng rã ba mươi năm trời, bị gạt ra ngoài lề lịch sử. Nhiệt tình và lòng tự phụ của tuổi trẻ đã tiêu pha lãng phí cho những âm mưu củng cố quyền bính khốn nạn của phỉ và ngụy. Bây giờ là lúc tuổi trẻ phải quyết định lấy số phận dân tộc mình, phải nhận thức đúng vai trò và nhiệm vụ của mình đối với lịch sử nòi giống, phải tích cực chiến đấu để xây dựng chính quyền. Không có chính quyền, không bao giờ có hạnh phúc vĩnh cửu. Muốn có chinh quyền, điều kiện tiên quyết là phải xóa bỏ tàn dư ngụy quyền và âm mưu phục hồi quyền bính tôi đòi dĩ vãng, phải xóa bỏ phỉ quyền. Tôi thành khẩn nghĩ rằng sứ mạng xóa bỏ ngụy và phỉ chỉ có tuổi trẻ thế hệ tôi, trong và ngoài nước làm nổi. Bởi vì đại nghĩa ở trong tim chúng tôi.
Thế hệ tôi là nạn nhân đau đớn của phỉ quyền và ngụy quyền, đồng thời là chứng nhân buồn bã của niềm tủi nhục của tổ quốc trong thế tranh giành quyền lực giữa hai thứ chủ nghĩa khốn kiếp. Chúng tôi chưa hề là tay sai của bất cứ một thứ quyền lực nào đã thao túng ở Việt Nam. Nói rõ rệt, chúng tôi chưa hề là phỉ, là ngụy. Trong chúng tôi nhiều người đã là lính chiến. Nhưng ở bất cứ một chế độ nào, người lính vẫn chỉ là người cầm súng bảo vệ tổ quốc, quê hương dân tộc. Chế độ sẽ mất như chế độ đã mất, tổ quốc, quê hương, dân tộc còn mãi, vĩnh cửu. Người lính bảo vệ cái vĩnh cửu đó, không bảo vệ chế độ hay lãnh tụ. Chế độ, lãnh tụ và chủ nghĩa đã lợi dụng người lính. Người lính gục ngã giữa chiến trường vẫn tin rằng mình chết cho tổ quốc, không chết cho chế độ, lãnh tụ. chủ nghĩa. Người ta hằng nói đến quân đội và nhân danh quân đội. Có bao giờ quân đội là tướng lãnh đâu! Quân đội là lính chiến và những sĩ quan can đảm. Quân đội không bao giờ là của riêng bọn tướng tá hèn mọn đào ngũ để chúng nhân danh này nọ. Chúng tôi chưa hề để lại những dấu tích ô nhục trên quê hương. Chúng tôi chưa nắm quyền bính và không tham vọng quyền bính. Dĩ vãng của chúng tôi đẹp. Hiện tại của chúng tôi đẹp. Chúng tôi đi làm đẹp tương lai. Chỉ có thế hệ tuổi trẻ hôm nay, thế hệ trưởng thành sau 30-4-75, mới đủ khả năng tạo dựng chỉnh quyền cho xứ sở, mới đủ tư cách xóa bỏ ngụy quyền, phỉ quyền.
Kinh nghiệm lịch sử dạy chúng tôi những bài học quý giá về sự trông cậy ngoại bang. Sau Lê Chiêu Thống rước Tầu là Nguyễn Ánh rước Tây. Nô lệ và nô lệ. Những hò hét của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Cường Để được tích sự gì? Người Nhật đã có mặt ở Việt Nam không phải vì Cường Để cầu cứu đủ làm sáng mắt chúng ta. Sau Hồ Chí Minh tình nguyện làm đầy tớ Liên Xô đến Ngô Đình Diệm cam đành làm đầy tớ Mỹ. Chiến tranh và chiến tranh. Phản bội và tù ngục, lưu đầy. Vậy mà vẫn còn những kẻ ngu xuẩn muốn ôm chân tài phiệt Nhật Bản, muốn luồn cúi bá quyền Trung Hoa. Nghĩ thật tủi vong hồn anh hùng, liệt sĩ đã chết vì chiến đấu chống Tầu, chống Nhật xâm lăng! Bối cảnh lịch sử tuy đã khác nhưng hoàn cảnh lịch sử vẫn giống nhau. Nghĩa là mọi vùng dậy đạp đổ bạo quyền phải xuất phát từ trong nước. Chính nghĩa ở đó. Chính nghĩa lung linh từ giọt nước mắt tủi nhục của bà mẹ. Chính nghĩa sang sảng từ tiếng khóc đói sữa của em thơ. Chính nghĩa ánh lên từ những giọt mồ hôi cưỡng bức đổ xuống nông trường, công trường vô vọng. Chính nghĩa tỏa ra từ những ngục tù xiềng xích. Chính nghĩa đó không tìm thấy ở những ly champagne liên hoan chào mừng lạc quyên, xổ số trúng mối; ở những chỉ thị ngu đần của kẻ mất tổ quốc mà vẫn to miệng hô hoán chỉ có ta mới giải thoát được quê hương. Chính nghĩa đó cũng không tìm thấy ở những đồng bạc ti tiện ngửa tay xin Nhật, xin Tầu; ở những đài phát thanh thuê mướn, ở những chiến khu màn bạc.
Những suy nghĩ, những phán xét của tôi, trước đây, còn mơ hồ. Từ ngày tôi về nước, tất cả những gì tôi nghe, tôi thấy đã cụ thể cái mơ hồ của tôi. Và, rất ngay thẳng, tôi quả quyết rằng, mọi nỗ lực lương thiện và chí tình quốc ngoại chỉ nhằm mục đích hỗ trợ cuộc chiến đấu đích thực quốc nội chứ không thể giành quyền chỉ đạo. Người ta đã không chịu hiểu điều này, nên mới xâu xé, bôi bẩn và tạo ra chia rẽ phân hóa lực lượng. Nghĩ cho cùng thì đó là bản chất của quân phiệt, mật vụ thôi. Chúng đòi đấu tranh cho tự do dân chủ mà chúng không thích trò chơi dân chủ và luật dân chủ. Chúng muốn bắt mọi người đi vào quỹ đạo lạc quyên, xổ số đi vào cái hũ gạo tối om? Ai chống lại chúng, chúng chụp mũ dơ bẩn và rỉ tai bêu nhục. Nếu chúng dám về nước, chúng sẽ thấy chúng nhỏ bé đi và trẻ em trong nước đã lớn hơn chúng đủ mọi phương diện. Tôi về nước. Tôi nằm tù. Tôi bị còng tay, xích chân. Từ nỗi cô đơn tù ngục, tôi sáng tạo cuộc chiến đấu mới của tôi. Tôi nhớ anh em nhà Tây Sơn. Và tôi nghĩ rằng, trước hay sau, sớm hay muộn, sẽ phải có cuộc cách mạng Tây Sơn mới giải quyết xong toàn bộ vấn đề của dân tộc tôi. Như thế, tôi có thể khẳng định rằng, tôi và tuổi trẻ thế hệ tôi, vì nỗi ngậm ngùi của dân tộc mà chiến đấu. Tôi thuộc về dân tộc tôi. Và tôi chiến đấu trong cô đơn. Đừng bảo tôi chiến đấu trong bất cứ một tổ chức nào. Đã đúng thời điểm người tuổi trẻ đội mũ lên chính đầu mình, chiến đấu vì tổ quốc, dân tộc mình, không dại dột làm giầy dép cho mọi thứ lãnh tụ hay chủ nghĩa nào hết. Tuổi trẻ là lãnh tụ tuyệt vời nhất. Tôi tự hào tôi đã thấy tôi là người tuổi trẻ dám chiến đấu.
CHƯƠNG 16

Những suy tư trong thống khổ của tôi dành nhiều cho tuổi trẻ. Từ ngày bị chuyển về Z30 D, tôi ít quan tâm tới thân phận tù đầy của tôi và những hình phạt tôi phải chịu đựng. Trại tập trung chẳng còn gì hấp dẫn tôi nữa. Nếu tôi đã thấy niềm bí ẩn của đời sống thì niềm bí ẩn ấy chỉ có dưới hầm phân nhung nhúc hàng tỷ con ròi, chỉ có dưới đáy sông Ray những sáng mùa đông đói lạnh lặn xuống móc đá tảng. Niềm bí ẩn ấy đã được soi sáng nhờ con gọng vó và triết lý sống bất hủ của nó. Sa Ác, trại tập trung khổ sai lao động, mang bí số TH6, với riêng tôi, là nơi chốn mà cái động đã rung rinh tận lóng xương, ống tủy của tôi:
Rừng nối rừng, cây tiếp nối cây
Đất gò mối rắn, cỏ tranh dầy
Mây leo cổ thụ gai nanh vuốt
Là chốn này đây, Xuyên Mộc đây.
Ta tới như thời lưu vãng xưa
Tay còng áo dấu ấn thô sơ
Sương mù Ba Thục tan huyền thoại
Chân bước nghe quanh khỉ vượn đùa.
Tự đó thân phơi giữa nắng trời
Hồn đêm nương ánh vỡ sao rơi
Nghe chăng hai tiếng nguyền Sa Ác
Đã đến là xong một kiếp người.
Ngẩng mặt lên nhìn ngọn Mây Tào
Lòng ta muối xát vẫn chiêm bao
Có gì êm ái hơn đau đớn
Khi biết hư vô ở chỗ nào.
Ai trước ngồi câu bờ Vị Thủy
Bây giờ ta tắm nước sông Ray
Thấy con gọng vó bèn bơi ngược
Soi sáng đời ta tử địa này.
(Thơ tù, Nam Á Paris)
Tôi phải cám ơn con gọng vó. Nó đã dạy tôi phấn đấu. Nó đã dạy tôi thản nhiên đi trên hệ lụy, đi trong nghịch cảnh như nó lội ngược dòng nghịch lũ. Và tôi noi gương nó:
Chẳng ngại đường oan bỏng sắt nung
Xin đi. Dù hiu quạnh trăm năm
Xin đi. Vì nỗi đau khôn lớn
Đi đến hồn nhau, đến tận cùng.
Do đó, tôi đã không mang nhà tù ra đời sống. Chẳng còn gì tẻ nhạt hơn là ngồi kiểm điểm nỗi buồn khổ của riêng mình hàng nghìn trang và bắt người khác phải đọc, phải nghe nỗi buồn khổ không làm rơi nước mắt đó. Nên tôi đã thích suy tư trong thống khổ để hy vọng được sáng tạo bằng đau thương gạn lọc. Nhưng tại sao nỗi suy tư của tôi dành nhiều cho tuổi trẻ? Tôi trả lời ngay đây. Tôi thấy, tuổi trẻ Việt Nam, ở bất cứ không gian và thời gian nào, ở bất cứ hoàn cảnh nào, đều chứng tỏ mình là sư tử. Trong nghịch cảnh, họ là sư tử lừng lững. Tất cả những người tuổi trẻ – học sinh và sinh viên, nam cũng như nữ – mà cộng sản kết tội “phản động”, tội “chống phá cách mạng” tôi đã gặp ở các nhà tù đều là những người làm rạng rỡ cho sự nghiệp chiến đấu giành độc lập, tự do, dân chủ của dân tộc. Phẩm cách và tinh thần bất khuất của họ đã làm cộng sản nể nang. Và khiếp sợ. Luôn luôn trực diện kẻ thù bầy tỏ thái độ, bầy tỏ ý chí khi cần thiết. Không thèm sách động trong bóng tối và không thèm chối cãi quanh co. Họ biết sống, biết chiến đấu và biết chết, dám chết. Hẳn nhiên, họ không thích chết sảng, chết ngu, chết lấy tiếng anh hùng rơm. Họ kiên trì chịu đựng gian khổ, không than van, không theo chủ nghĩa “buộc chặt cái túi thăm nuôi”. Họ hào sảng, chia sẻ và sẵn sàng hứng lấy cả thiệt thòi giùm người khác. Tôi cho rằng đó là những người lý tưởng mà tổ quốc và dân tộc kỳ vọng. Những người tuổi trẻ của quân đội, những sĩ quan tác chiến cấp úy, đa số, cũng là những người còn đầy lửa tim, còn cố gắng bảo vệ danh dự quân đội, danh dự con người khi đương đầu với cộng sản trong tù ngục. Thái độ sống của họ khác hẳn thái độ của sĩ quan tá già, của sĩ quan văn phòng. Càng khác hẳn thái độ sống của giai cấp thư lại. Nói tóm lại, tuổi trẻ Việt Nam trong tù hay ngoài đời vẫn là sư tử, là những kẻ cao thượng của một xã hội thấp hèn. Tôi suy tư về tuổi trẻ còn bởi cộng sản to họng nguyền rủa tôi đã “đầu độc tuổi trẻ” chống đối họ. Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hoá tư tưởng do nhà xuất bản Văn Hoá ấn hành năm 1980, công sản đã dành cả 30 trang để kết án tôi đã tìm một lý tưởng cho tuổi trẻ. Và tôi đã phản pháo cộng sản bằng Bầy sư tử lãng mạn. Tôi sắp cho cộng sản vỡ mặt bằng tung thêm Hồn say phấn lạ. Ở bộ tiểu thuyết 1000 trang này, độc giả sẽ thấy tuổi trẻ Sàigòn và tuổi trẻ Hà Nội – cả con cháu lãnh tụ cộng sản như Võ Điện Biên (con trai út của Võ Nguyên Giáp), Thọ lột (cháu Nguyễn Lương Bằng), Lê Điểu (con Lê Duẩn) v.v.. – chống cộng sản ngoạn mục ra sao. Đấy, lý do tôi suy tư nhiều về tuổi trẻ. Sự suy tư không mang cho tôi một lợi lộc gì mà còn đẩy tôi vào giữa gọng kìm của phỉ quyền và tàn dư ngụy quyền và bọn kháng chiến ảo tưởng, bịp bợm. Bởi vì, tôi nghĩ, cuộc chiến đấu giải thoát dân tộc và mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc của tuổi trẻ là phải tiêu diệt phỉ quyền, loại bỏ ngụy quyền và bọn mưu đồ phục hồi quyền bính tham nhũng, thối nát cũ. Bộ tiểu thuyết Hồn say phấn lạ của tôi chưa xuất bản, chưa phát hành dù tôi đã hoàn tất từ cuối tháng 11-1985, mới chỉ đường tạp chí Ngày Nay ở Wichita – Kansa (Hoa Kỳ) – “dọa” phát hành đầu tháng 4-1987 1 mà đã có một “tờ báo” chụp nguyên trang quảng cáo Hồn say phấn lạ, đánh máy thêm những dòng báo động:
Tại nhiều cộng đồng người Việt hải ngoại, nạn thanh niên du đãng và trụy lạc, chìm đắm trong tội ác, mỗi ngày một trầm trọng. Không ai chối cãi được. Vậy có cần loại tiểu thuyết này để tiếp sức đầu độc và vạch đường chỉ lối không? Các chiến sĩ quốc gia nghĩ sao?
Thưa ông “tờ báo” mà tôi không biết tên (bạn tôi chỉ cắt trang ông chụp trang quảng cáo Hồn say phấn lạ), ông báo động hơi sớm đấy. Tiểu thuyết chưa hề xuất bản, ông biết gì mà bảo nó “tiếp sức đầu độc”. Chừng Hồn say phấn lạ phát hành, mua trọn bộ về nghiền ngẫm kỹ lưỡng, nếu lương thiện, ông sẽ quảng cáo giùm. Loại tiểu thuyết này vạch đường chỉ lối cho tuổi trẻ quốc nội (xin yên tâm, không dính dáng chi đến quốc ngoại cả) vận động cuộc cách mạng Tây Sơn mới, tiêu diệt cộng sản. Các chiến sĩ quốc gia (của ông thôi) nên mua càng nhiều càng tốt về học tập. Riêng ông thì học cách làm báo cho hay bằng báo bí mật Đạn lên nòng của tuổi trẻ Sàigòn đánh cộng sản.
Một điểm nhỏ vừa nêu đủ nói lên sự “khó khăn” cho suy tư của tôi. Tôi có nên bán đứt bản quyền Hồn say phấn lạ cho cộng sản để họ đốt đi không nhỉ? Chống cộng sản, bây giờ, còn gặp cả trở ngại quốc gia bẩn, quốc gia rắn rết, quốc gia “nghĩ sao” những điều mình chưa biết. Nhưng cần gì, “chó sủa mặc chó, đoàn lữ hành cứ đi”. Bao giờ và ở đâu thì tôi cũng vẫn chỉ là kẻ chống cộng tự nguyện, chống cộng không ăn cái giải gì mà bị ăn hơi kỹ cơm tù và nọc rắn. Cộng sản chửi tôi:” Từ Hoa thiên lý, Duyên Anh cho là đã viết với “niềm xúc động thật tình”. là một truyện chống cộng khá thâm hiểm. Thông qua câu chuyện tưởng như truyện tình cảm thuần túy, Duyên Anh đã quỷ quyệt gieo vào lòng người đọc tình cảm sai về miền Bắc” 2. Vẫn cộng sản chửi: “Đa số những truyện, ký của Duyên Anh đều sặc mùi phản động. Duyên Anh đã chống cộng với tất cả mối thâm thù cách mạng” 3. Cộng sản tiếp tục chửi: “Chỉ cần đọc câu: ‘Thôi đành chống cộng sản bằng cách gọi cái sự thấy mỗi cuối tháng của đàn bà bình thường là kéo cờ cộng sản vậy’ thì dù có hiền lành đến mấy đi cũng phải sôi gan” 4). Cộng sản lên án: “Thực ra, phải nói Duyên Anh căm thù cách mạng mới thật đúng với lòng dạ của hắn. Hắn căm thù cách mạng đến độ hầu như không một cuốn truyện nào, bài báo nào của hắn mà không có những đoạn, những câu nói xấu cách mạng, xuyên tạc, chửi rủa cộng sản” 5. Công sản cay cú: “Chẳng những hắn biện hộ, ca ngợi bọn du đãng mà còn không bỏ lỡ cơ hội nào để xuyên tạc, phỉ báng phong trào sinh viên học sinh và nói xấu cộng sản, nói xấu cách mạng. Ý đồ chống cách mạng của Duyên Anh trong loại tiểu thuyết du đãng còn lộ liễu trắng trợn hơn. Cái đuôi chống cách mạng của hắn đã thò ra ngay từ cuốn truyện du đãng đầu tiên” 6 Cộng sản đánh nhầu tôi, lôi cả ông nội tôi, bố tôi, em tôi, vợ tôi ra chửi. Quốc gia bẩn thì nhục mạ tôi… làm việc cho cộng sản, tay sai cộng sản! Cộng sản khẳng định truyện du đãng của tôi chống cách mạng cộng sản. Quốc gia bẩn bảo truyện du đãng của tôi “đầu độc quốc gia… bẩn”. Kể ra cũng chẳng đáng ngạc nhiên. Bởi tôi đứng về chiến tuyến quốc gia chân chính. Mà quốc gia chân chính sẽ làm chính quyền, phải làm chính quyền. Chính quyền không dung dưỡng phỉ quyền, không chứa chấp ngụy quyền. Chính quyền sẽ nằm trong tay của tuổi trẻ lỗi lạc, sáng suốt, nhiệt tình và lương thiện. Chính quyền của nước Việt Nam tương lai khu trừ gốc rễ cộng sản, đã đành, còn loại bỏ toàn bô cơ cấu ngụy quyền tham nhũng, thối nát, ngu dốt, phản phúc. Vậy thì cộng sản nguyền rủa tôi, quốc gia bẩn của nguy quyền nham nhở nguyền rủa tôi chả là một song kiếm hợp nhất diệt kẻ thù chung. Rất lô gích. Vì, cộng sản đã nêu cao chính nghĩa nhờ quốc gia bẩn, quốc gia bẩn kiếm chác khấm khá nhờ chiêu bài độc quyền đấu thầu chống cộng sản. Phỉ quyền và ngụy quyền đã nương nhau, đã dựa dẫm nhau mà sống, mà moi ruột tổ quốc, mà móc mắt dân tộc, mà dẫm nát tình nghĩa đồng bào, mà làm băng hoại đất nước Việt Nam yêu dấu, mà tước đoạt quyền sống con người. Nhưng khi dân tộc ta, đất nước ta, tổ quốc chúng ta có chính quyền, bắt buộc, phỉ quyền và ngụy quyền sẽ bị tận diệt cùng một lúc. Không có đất sống cho phỉ quyền và ngụy quyền trên giang sơn gấm vóc của Lý Thường Kiệt, của Trần Hưng Đạo, của Quang Trung.. Phỉ quyền và ngụy quyền đều sợ hãi chính quyền. Là bởi chính quyền có chính danh, chính nghĩa, chính đạo. Chúng là bọn giả danh, giả nghĩa, giả đạo, giả mạo, giả nhân. Từ bản chất, chúng đã giả. Chân lý không của bọn giả danh, không của phỉ quyền và ngụy quyền. Tất cả đều đã nhìn rõ. Người tuổi trẻ hôm nay cần nhìn rõ hơn. Để nhận đường chiến đấu. Nếu không, mọi dấn thân sẽ chỉ đóng góp cho bè lũ tôi đòi vọng ngoai âm mưu phục hồi quyền bính bệ rạc dĩ vãng. Mãi mãi, dân tộc khốn khổ, Việt Nam sẽ bị thống trị bởi phỉ quyền và ngụy quyền, hoặc thời thống trị độc quyền của phỉ quyền, hoặc thời thống tri độc quyền của ngụy quyền. Còn bóng dáng phỉ quyền và ngụy quyền, dân tộc ta còn quằn quại, đau thương. Tôi muốn ví, ở bối cảnh lịch sử này, phỉ quyền như chúa Trịnh đàng ngoài, tàn dư ngụy quyền như chúa Nguyễn đàng trong. Chúng ta cần một cuộc cách mạng Tây Sơn mới. Của tuổi trẻ. Chừng nào chúng ta có chủ thuyết tiểu tư sản do người Việt Nam lập thuvết làm nòng cốt cho tân cách mạng Tây Sơn, chừng đó dân tộc ta mới được giải thoát, mới được sống hạnh phúc trong thương yêu 7
Nhưng, trước hết, một điều kiện tiên quyết, tuổi trẻ Việt Nam phải khước từ lãnh tụ già nua, phải chối bỏ lãnh tụ mù lòa, phải đạp đổ lãnh tụ giả mạo. Tôi hoàn toàn đồng ý với người tuổi trẻ tên là Độc Ngữ trong bài thơ dưới đây:
Những con chó già
vẫn tưởng
răng mình còn sắc
Tuy đã
rụng lông

trên lưng
từng mảng ghẻ.
Những con mèo
ngu si
vẫn tưởng
mình cốt cách
sư tử
nhưng chết
khó hóa
thành cáo.
Những lão bình vôi
vẫn tưởng
nhờ mình cây đa
được trọng nể
mà quên
ông thần.
Những tên văn nghệ khụ khị
vẫn tưởng
thốn tâm thiên cổ
bằng tác phẩm
củi mục
và huyênh hoang
sau mình
đại hồng thủy
Bọn lãnh tụ
Bọn lãnh tụ
chúng nó đấy:
chó ghẻ
mèo ngu
bình vôi
củi mục
Trong mọi lãnh vực
chúng nó
ngăn chận
tuổi trẻ ta
Cách mạng:
-Chúng nó
Văn hóa:
- Chúng nó
Xã hội:
- Chúng nó
Chính trị:
-Chúng nó
Thụ hưởng:
-Chúng nó
Còn chúng ta
hít khói
lựu đạn cay
Còn chúng ta
ăn báng súng
dài dài
Chúng ta
lãnh đòn
cảnh sát
vào khám
ra tù
hụt hơi
mù mắt
Chúng ta
làm guốc
để chúng nó đi
Chúng tự cho mình là
đại dương
Còn chúng ta
kinh rạch
Chúng tự cho mình là
trái núi
Còn chúng ta
cỏ mục dưới chân
Đã phẫn nộ chưa
tuổi trẻ
hào hùng
bất cứ
giai đoạn lịch sử nào
Chúng ta
cũng đều
biến thành
vật tế thần
của tham vọng
cá nhân
Chúng nó cần ta
mà cứ khinh ta bé nhỏ
Chúng nó sử dụng ta
như những tên
nô lệ
như những trái chanh
vắt hết nước
liệng ngay
chằng hề
thương xót
Bọn lãnh tụ
Bọn lãnh tụ
chúng nó đấy:
chó ghẻ
mèo ngu
củi mục
bình vôi
Chó ghẻ bên trong
chó ghẻ bên ngoài
Chó ghẻ hôm qua
chó ghẻ hôm nay
Chó ghẻ xà mâu
giả hình
sư tử
Tuổi trẻ ta đâu
hãy đứng lên
dang chân
đạp lãnh tụ
Lãnh tụ bên trong
Lãnh tụ bên ngoài
Lãnh tụ ù lỳ
Lãnh tụ tay sai
Lãnh tụ lạc quyên
Lãnh tụ thỏa hiệp
Lãnh tụ cộng sản
Lãnh tụ lưu vong
rặt những thằng
khốn kiếp
thứ củi mục
hết xài
thứ bình vôi
đặc xịt
thứ hòn bi
thích ăn
thèm uống
thứ côn trùng
nhầy nhụa
háo danh
đã đục rỗng
ba mươi năm
đất nước
Phải xổ
sán giun
khỏi
ruột non
ruột già
tổ quốc
Phải phóng
nhiệt tình
và lòng tự phụ
vào trận địa
Dấn Thân
Tuổi trẻ ta đâu
kèn đã dục
kết đoàn
Bởi vì
chúng ta
mới thật là
Sư Tử
Chúng ta
hiện tại mặt trời
trăng sao quá khứ
Xuống thuyền thôi
Lịch sử
đang chờ
(Đạp đổ lãnh tụ, thơ Độc Ngữ)
Tôi mong rằng, tuổi trẻ Việt Nam hôm nay, sẽ luôn luôn truy nã bản thân mình, truy nã thân phận dân tộc mình. Sự truy nã thường xuyên sẽ soi rõ con đường chiến đấu của mình. Để không còn thất bại. Để tự hào là sư tử của tổ quốc. Tôi xin phép được khẳng định vị thế của tôi trong cuộc chiến đấu giải thoát giống nòi của tuổi trẻ. Tuổi trẻ là lãnh tụ cao quý của tôi. Tôi chỉ ngưỡng mộ tuổi trẻ lý tưởng và phục vụ lý tưởng của tuổi trẻ như một tên lính thổi kèn đi tiên phong.
Thôi, tôi phải về Z30 D, nơi tôi bị phỉ quyền cộng sản giam giữ và hành hạ khổ sai lao động vì đã dám chống đối cách mạng vô sản và xúi dục tuổi trẻ chống đối cách mạng vô sản.
Chú thích:
1. Vì Hồn say phấn lạ dầy quá, tạp chí Ngày Nay không đủ phương tiện xuất bản. Nên cứ … dọa mãi. Rốt cuộc Xuân Thu sẽ phát hành.
2. Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng.
3. Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng.
4. Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng.
5. Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng.
6. Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng.

7. Tác giả đã gợi ý cho tuổi trẻ Việt Nam về chủ thuyết tiểu tư sản và tân cách mạng Tây Sơn ở những tiểu thuyết Sỏi đá ngậm ngùi, Bầy sư tử lãng mạn, Một người tên là Trần văn Bá và rõ rệt nhất ở Hồn say phấn lạ. Theo tác giả, hai chủ nghĩa tư bản và vô sản đã bất lực trong mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại, đã cầy nát dân tộc Việt Nam, đã đưa dân tộc Việt Nam vào chiến tranh, thù hận, ngục tù, đói khổ, ngu dốt, lạc hậu.
CHƯƠNG 17
Chuyện nghe kể về một trại cải tạo.
Trại ấy tên là An Hòa, cách thị xã Đà Nẵng 60 cây số về phía Tây, gần biên giới Ai Lao. Chúng ta đều biết rằng, cộng sản chiếm Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng rồi mới thừa thắng tràn xuống phía Nam. Tổng Y viện Duy Tân của Quân Đoàn 1, Vùng 1 chiến thuật nằm ở thị xã Đà Nẵng. Khi cộng sản băng qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng, Tổng Y viện Duy Tân còn khá đông y sĩ ở lại với thương bệnh binh. Lương tâm thầy thuốc không cho phép họ đào tẩu. Cộng sản tiếp thư Tổng Y viện Duy Tân, chỉ định bác sĩ Phạm văn Lương làm chỉ huy trưởng lâm thời Tổng Y viện này.
Bác sĩ Phạm văn Lương, người hùng đảo chính Trường Y khoa quân đội năm 1963 (*), hồi còn là sinh viên. Là bạn thân của Hà Thúc Nhơn, người hùng chống tham nhũng ở Quân Y viện Nguyễn Huệ, Nha Trang, bị thảm sát bởi tập đoàn Ngô Du, Vũ Ngọc Hoàn, Huỳnh Bá Phẩm, ông thực sự nổi tiếng khi ôm lựu đạn ngồi trước cửa Hạ Viện bầy tỏ thái độ chống tham nhũng, thối nát của ông. Phải nói, ông là biểu tượng của sĩ khí còn lại sau cơn lốc đô la. Một mình một ngựa, người tuổi trẻ Phạm văn Lương xông xáo vào trận tuyến làm đẹp đất nước. « Một người còn có một tin tưởng vào một số tín điều nào đó, tất nhiên phải nhìn những biến thiên của xã hội hôm nay bằng một con mắt nghiêm khắc, nếu không muốn nói là thù hận. Sự tin tưởng sâu xa và sự cuồng tín chỉ là hai mặt của một vấn đề »(**). Phạm văn Lương là con người đó. Sự cuồng tín của ông ta đã đưa ông ta vào cô đơn. Và ông đã dẫy dụa trong lưới ngộ nhận cố tình của bọn thống trị độc ác. Phạm văn Lương giáo dục con cái nghiêm khắc như ông nhìn xã hội vậy. Ông chính là con gọng vó bơi ngược dòng nghịch lũ. Cuối cùng, ông thả dài mộng ước hư hao ở tổng y viện.
Tháng 6-1975, như tất cả sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa, các y sĩ quân đội phải đi trình diện học tập cải tạo. Y sĩ Tổng y viện Duy Tân trình diện tại chỗ và được đưa vào trại cải tạo An Hòa cùng một số lớn thuốc và dụng cụ Y khoa. Trại An Hòa được kể là trại lao cải lớn của Vùng 1. Sĩ quan của Sư đoàn 1 bộ binh, các viên chức cao cấp của chế độ cũ, nhất là những người gốc gác Thừa Thiên, đều đã chạy cả vào Đà Nẵng rồi trình diện ở Đà Nẵng và vô An Hòa. Huế vốn lừng danh sắt máu. Huế của Tố Hữu 1945 xử tử Phạm Quỳnh. Huế của Mậu Thân 1968, của Hoàng Phủ Ngọc Tường tàn sát, chôn sống tập thể. Huế của 1975, của Tống Nhạn sẽ tái diễn Huế 1968. Người ta sợ hãi «biển máu» ở Huế và người ta chạy tuốt vào Sài gòn hay tạm dừng ở Đà Nẵng.
Tất cả các trại tập trung cải tạo « ngụy quân, ngụy quyền » từ tháng 6-1975 đến cuối năm 1978 đều do quân đội nhân dân quản lý. Nói rõ rệt, Bộ quốc phòng quản lý. Khi ổn định tình hình Huế, chính quyền cách mạng của Huế mới nghĩ chuyện trả thù những kẻ « có nợ máu » với nhân dân. Họ lập một danh sách những tù nhân cần thiết phải đem về địa phương để xử tử. Và danh sách đó gửi tới An Hòa. Ban giám thị trại An Hòa không trả lời. Huế cử một phái đoàn vào An Hòa lãnh tù nhân sinh trưởng tại Huế về « cải tạo ». Ban giám thị trại An Hòa từ chối. Huế làm dữ. Mỗi ngày một phái đoàn vào An Hòa. Ban giám thị phải hỏi ý kiến Bộ quốc phòng. Bộ quốc phòng hỏi ý kiến Bộ chính trị trung ương Đảng. Quân ủy và Đảng ủy họp. Hai vấn đề được đặt ra:
Giao tù nhân cho địa phương là sai nguyên tắc, sai chính sách học tập cải tạo.
Tù nhân sẽ nổi loạn nếu biết địa phương đem về xử tử.
Đặt vấn đề xong là giải quyết ngay: Thủ tiêu các tù nhân cải tạo gốc Huế mà Huế đòi hỏi trong danh sách. Các y sĩ của Tổng y viện Duy Tân còn sót lại và đi trình diện học tập cải tạo bị chỉ định công tác sát nhân này. Có 2 lý do khiến họ phải cất lương tâm một chỗ thật kín.
Bị đe dọa nếu không thi hành công tác, vợ con sẽ bị tàn sát.
Bị đe dọa sẽ chết thảm nếu không thi hành công tác.
Họ cần sống, họ sợ chết đau đớn, chết kiểu chôn sống. Và họ đã giết mỗi ngày vài tù nhân gốc Huế cho đến khi danh sách những kẻ « nợ máu » của nhân dân Huế không còn ai. Huế đến đòi. Anh Hòa báo cáo tù nhân đã chết bệnh, có biên bản và y chứng. Nhưng Huế biết tù nhân « nợ máu » bị thủ tiêu cả. Sau hai năm sống với nỗi ray rứt lương tâm, ám ảnh tội ác, các y sĩ của Tổng y viện Duy Tân cải tạo ở trại An Hòa đã lần lượt tự sát. Chính xác tên tuổi và ngày tháng tự sát là bác sĩ Vũ Đức Giang. Bác sĩ Giang tự sát ngày 30 tháng Chạp năm Tị, 1977. Ông đã chọn một ngày cuối năm cho một ngày cuối đời. Bác sĩ Giang còn rất trẻ. Người yêu ông vượt biển sang Gia nã đại. Nàng chỉ yêu ông. Và nàng trở nên lạnh lùng với tình ái khi hay tin ông tự sát. Nàng đã bị kẻ yêu nàng mà không được nàng yêu hạ sát. Bác sĩ Giang tự tử đúng ngày sinh của ông. Người y sĩ cuối cùng tự sát là Phạm văn Lương.
- Các y sĩ thủ tiêu tù nhân bằng thuốc gì?
- Thiếu gì thuốc. Nhưng việt cộng có một thứ thuốc thủ tiêu rất êm.
- Thuốc gì?
- 20 xen ti mét khối không khí vào mạch máu!
- Các y sĩ cũng chết bằng cách đó?
- Có lẽ.
Bài thơ về một người tù
Em bé Việt Nam
Sinh tháng 8-1975
Năm 79 chưa đầy bốn tuổi
Theo mẹ vượt biên tìm cha trốn khỏi quê hương
Chẳng may bị bắt giữa đường
Em bé đến trường cải tạo
Chế độ khoan hồng nhân đạo
Nhốt em với mẹ chung phòng
Em có hồ sơ riêng
Được đối xử công bằng
Do xã hội ưu việt
Do giáo điều tinh khiết
Do luật pháp quang minh
Do lãnh tụ tài tình
Em can tội khước từ chủ nghĩa
Em can tội chống ý thức hệ
Em bé mút ngón tay học tập làm người
Khi em trở lại cuộc đời
Cầm tấm giấy ra tù
Vẫn chưa biết mình là thần đồng phản động.
Và một bài thơ có nhan đề Cổ tích
Có một đàn kiến lửa
rủ nhau vào cachot
thấy nằm đó gã tù
tay còng chân đeo xích
Tù nhân không nhúc nhích
Kiến chúa nhớ thù người
Vuốt râu nhếch mép cười
Đã đúng giờ tuyết hận
Ôi con người khốn nạn
Sát hại kiến dài dài
Gót giầy dẫm cả bầy
chẳng mảy may thương xót
Kiến dậy lòng căm tức
định hành hạ tù nhân
Một giây sáng lương tâm
chê con người bần tiện
thiếu linh hồn loài kiến
ghét nhau bắt nhốt nhau
đầy đọa nhau thảm sầu
nhục nhằn rồi chết rũ
Kiến quên nhanh thù cũ
phun lửa chảy xích còng
Tù nhân khóc rưng rưng
Con người thua con kiến
Cuối tháng 12-1980, khu A biên chế các đội lung tung, xào xáo. Nguyễn văn Hải và tôi bị biên chế vào đội linh tinh và tách ra tổ vệ sinh khu A. Tất cả các đội khu A dọn sang khu B, xóm nhà lá. Riêng đội xây cất, đội mà danh ca Duy Trác đã ở, còn được cư ngụ tại nhà gạch khu A. Ông già Tới cầm Giấy ra trại. Thiếu tá nhảy dù Phạm Đình Cung, hỗn danh Cung củ đậu (***) nhậm chức trật tự viên, thay thế ông già Tới. Cung củ đậu quen biết tôi ngoài đời, hồi Phạm Huy Sảnh còn làm chỉ huy trưởng Cảnh sát dã chiến Biệt đoàn Con nhện 222 và Nguyên Duy Am, chỉ huy phó. Anh ta có máu lai Chà và, bụng to, thân xác to nhưng óc nhỏ. Tôi không hiểu tại sao Z30 D lại tin tưởng sĩ quan nhảy dù. Cung củ đậu sang làm trật tự khu A một tuần lễ thì tổ vệ sinh của chúng tôi nhận chỉ thị cọ rửa sạch các hồ nước và bơm đầy nước vào hồ. Rồi các nhà trống cũng được quét dọn, lau rửa sạch sẽ. Có biến cố gì chăng?
Tôi đã sống ở Sa Ác ngót hai năm và đã hiểu cung cách quản lý tù nhân. Cứ ba bốn tháng, các đội lại bị biên chế. Người ta không muốn tù nhân sống chung lâu với nhau cùng đội, cùng nhà. Tôi đã tưởng các đội khu B sang khu A. Không, bạn tù lâu năm của Z30 D bảo không hề có đón tiếp nồng hậu thế. Vậy đón ai? Khoảng 20 tháng 1-1981 tôi có câu trả lời. Tù nhân sĩ quan cải tạo từ trại Hà Nam Ninh (trại Đầm Đùn) từ Bắc về Nam. Z30 D tiếp nhận 500 tù nhân đặc biệt này. Họ về với cả chổi cùn dế rách, lồng chim, lồng gà. Chim chào mào đít đỏ và gà vẫn sống nhăn răng sau cuộc hành trình đường sắt. Họ xuống ga Phan Thiết. Từ ga Phan thiết, họ bị dồn lên xe tải, hai người một còng số 8, về Z30 D. Hành lý chở riêng mấy xe đầy nhóc. Hành lý đến trước người. Chúng tôi, tổ vệ sinh, vác hành lý để một góc sân xếp riêng một chỗ theo tên tù nhân viết ngoài bao bố, ba lô, túi vải, bị cói. Công việc vừa xong thì xe chở tù nhân tới. Còng tay được mở ngay lúc họ xuống xe. Hàng đôi, họ vô trại. Vệ binh bố trí quanh trại. Đại liên, trung liên nạp đạn sẵn sàng. Thủ tục nhập trại của họ rất khẩn trương. Trước hết, họ nhận hành lý. Rồi theo dõi tên đọc trong danh sách, khuân hành lý xếp hàng trật tự. Họ được biên chế đúng 10 đội, đủ 10 căn nhà. Đội xây cất lại dọn sang khu B. Tổ vệ sinh tạm trú ở phòng ăn Nhà 1. Mỗi đội khuân hành lý, theo quản giáo và vệ binh nhận nhà. Hành lý của họ được kiểm tra thật nhanh. Không món nào bị tịch thu cả.
Tất cả tù nhân từ một trại đến một trại đều nằm trong quy luật này: cửa nhà đóng chặt, khóa kỹ, chỉ mở lúc chia cơm nước. Ba ngày sau mới được đi tắm. Tù nhân Hà Nam Ninh đúng là “thượng khách” của Z30 D. Cửa mở tung, đi lại tự do. Nước đầy hồ, mặc sức tắm. Cạn thì bơm đầy. Họ ca cóng ngay. Chúng tôi phải kéo đẩy mấy chuyến xe cải tiến củi, cho họ mượn dao chẻ nhỏ mà nấu nướng. Trong số tù nhân Hà Nam Ninh, tôi quen biết vài người. Quân đội có Vũ Xuân Thông, trung tá, Lữ đoàn phó Biệt cách 81. Lữ đoàn trưởng còn kẹt lại Hà Nam Ninh A vân vân. Dân sự có Ruyện hay Ruyệt (tôi nhớ không rõ), Quốc gia hành chánh, cùng khóa Đỗ Tiến Đức, đã làm việc chung phòng với tôi ở Tổng nha thanh niên thời Cao Xuân Vỹ, phó tỉnh trưởng vân vân. Người đầu tiên nhận ra tôi và tìm gặp tôi là Vũ Xuân Thông, tài tử điện ảnh, vai chính của Người tình không chân dung. Vũ Xuân Thông và tôi là chỗ thân tình, kém tôi vài tuổi mà Thông cứ xưng em với tôi, ngoài đời như trong tù.
- Không ngờ gặp anh ở đây.
- Ông biết tôi bị bắt không?
- Biết. Em đã sống với anh Văn Quang. Anh Văn Quang chịu đựng nổi, anh cũng chịu đựng nổi.
Tôi kể chuyện Sở công an, đề lao Gia định, khám lớn Chí hòa, Sa Ác cho Thông nghe. Thông kể chuyện Lào Kay, vùng kinh tế núi Văn Bàng, Hoàng Liên Sơn, Yên Bái và bến đò Khô Lâu, Sơn La, ruồi vàng to bằng đốt ngón tay cắn chảy máu người, ăn bo bo đen, chịu sốt vàng da… Chúng tôi ôm nhau khóc. Và cười.
- Em vẫn mơ ngày vẽ bộ truyện tranh Dzũng Đa kao
- Chuyện ấy tính sau.
Vũ Xuân Thông kể chuyện Bầy sư tử lãng mạn (****) đánh thức Hà Nam Ninh B vùng dậy. Và kết quả là chuyển trại về Nam.
- Anh nghĩ gì?
- Nghĩ gì?
- Chuyện đưa anh em về đây.
- Tôi không hiểu, hoàn toàn không hiểu. Nó đã đón tiếp Hà Nam Ninh nồng hậu. Thanh Nghệ Tĩnh về đây âm thầm lắm. Có điều đừng suy diễn hoàn toàn lợi cho mình. Hay nhất là im lặng, wait and see. Ô kê?

- Đồng ý với anh. Nhưng anh em quá khích hơi đông. Đầu óc lại hơi ít.
- Ai là đầu óc lớn? Mà thôi, đừng tiết lộ.
- Tại sao, anh Duyên Anh?
- Tại tôi không thích biết quá nhiều nữa. Còn ông, lớn hay nhỏ?
- Không lớn vẫn bị tụi nó đánh dấu … Biệt cách 81.
- Bọn Z30 D nhận chỉ thị trực tiếp của bộ nội vụ. Chúng nó cáo lắm. Chân ướt chân ráo nên im lặng là tốt. Nó cũng đang chờ các ông tỏ thái độ đấy.
- Sao anh biết?
- Rồi ông xem. Nó đưa thằng Cung củ đậu làm trật tự trước khi các ông về. Nó đã đề phòng. Nó lấy độc trị độc.
- Em phải bàn với anh em.
Tôi nấu mì chiêu đãi Vũ Xuân Thông, người lính hào hùng, người tài tử đẹp trai của tôi. Tổ vệ sinh đã làm tất cả những gì có thể làm để giúp đỡ anh em Hà Nam Ninh. Đêm đầu tiên hoàn toàn im lặng. Vì mấy ngày đường mệt mỏi, anh em ngủ ngon lành. Hôm sau, anh em được viết thư báo tin cho gia đình. Trại hứa đem hết thư về Sài gòn và yêu cầu Bưu điện Sài gòn phát thư khẩn trương. « Đầu óc lớn » chưa làm việc. Tốt. « Mặt trận miền Tây vẫn yên lặng ». Một trung úy của Phủ đặc ủy trung ương tình báo, độc giả của tôi, tên Thọ, đến tìm tôi.
- Anh thân với anh Vũ Xuân Thông lắm, phải không?
- Thân.
- Anh Thông thật tốt, thật bao dung. Anh ấy chỉ là nghệ sĩ khoác áo lính, làm việc khác không được đâu. Anh ấy ba phải, bị thiên hạ dùng làm bia.
- Cậu nói gì tôi không hiểu. Nhưng đừng nên nói nữa. Anh em mình gặp nhau là vui. Chúng ta lại mới biết nhau. Đừng tâm sự thì khỏi ngờ vực, đề phòng. Kinh nghiệm ở tù dạy tôi từ chối nghe chuyện kín.
- Anh thủ đến thế ư?
- Tôi tránh phiền phức cho cậu. Sợ rằng thương tôi cậu mất công thanh minh cho tôi rồi sẽ mất cả bạn lẫn chiến hữu.
- Đã xảy cho anh chuyện đau lòng vậy à, anh?
- Sẽ, xẩy ra.
- Anh có gì khuyên em?
- Cậu thuộc bài Khóc Bằng Phi của Tự Đức chứ?
- Thuộc.
- Một câu trong đó là lời khuyên.
- Câu nào, thưa anh?
- Xếp tàn y lại để dành hơi.
- Cám ơn anh, em vẫn chủ trương thế. Anh Duyên Anh ạ?
- Gì?
- Nghề nghiệp của em dạy em biết đánh giá con người, sự việc và tin tức. Những người lãnh đạo vụ Hà Nam Ninh B đều bị ghim trong danh sách đỏ. Và hồ sơ theo tù nhân đến trại mới. Em nghĩ anh chẳng cần thủ.
- Ở tù, bất đồng quan điểm là một tội nặng, cậu hiểu chứ?
- Anh bất đồng quan điểm gì?
- Nhiều lắm.
- Thí dụ?
- Một số người mơ mộng dẹp tan cộng sản sẽ lên lon ầm ầm, sẽ lãnh vô kể tiền ráp pen, sẽ trở thành những cái rốn của tổ quốc. Tôi thì lại mong tất cả khởi sự từ zê rô.
- Gì nữa?
- Một số người lấy thành tích ngục tù là cái gì ghê gớm lắm, dân tộc phải biết ơn họ, ngưỡng mộ họ. Tôi thì cho chuyện ở tù là một vụ nghỉ hè dài trong đời sống.
- Gì nữa?
- Tôi quan niệm việc làm là việc làm, lớn hay nhỏ, tôi cố gắng làm đến nơi đến chốn. Tôi lao động đúng yêu cầu của cộng sản. Để biết sức của tôi và để tập hoàn thành một công việc bị cưỡng bức. Còn để chứng tỏ thái độ của nhà văn. Một số người cho rằng tôi sợ hãi, khiếp nhược. Họ muốn tôi phải là nhân vật người hùng của tiểu thuyết của tôi.
- Gì nữa?
- Tôi không thích thù hận bọn công an coi tù, nói chung, tôi không thích thù hận công cụ của chủ nghĩa cộng sản và lãnh tụ của nó. Tôi chỉ muốn hủy diệt chủ nghĩa cộng sản và lãnh tụ cộng sản. Người ta không thể giết chết con rắn độc bằng cách chỉ đập nát cái đuôi. Tôi bị coi là thân cộng sản, đầu hàng cộng sản.
- Tầm bậy. Em đồng ý với quan điểm của anh. Còn nổi loạn trong tù?
- Cộng sản sợ hãi sự im lặng.
- Nổi loạn vô ích?
- Thử nổi loạn đi, sẽ có kinh nghiệm lớn.
- Em vốn bất động từ vào tù. Em muốn có kinh nghiệm từ anh.
- Tôi chưa nổi loạn trong tù, không bao giờ nổi loạn trong tù. Tôi chống bạo lực bằng chữ nghĩa và tư tưởng. Nhà văn xử dụng võ khí của nhà văn. Tôi chưa hề xuống đường hoan hô, đả đảo. Cậu nên nhớ rằng, sĩ quan quân đội của ta không được coi như tù binh chiến tranh. Vậy không có Quy ước, Thỏa hiệp quốc tế nào bảo vệ. Với cộng sản, dẫu có, họ cũng dẫm lên những Quy ước – Thỏa hiệp bằng giép râu. Thí dụ sĩ quan quân đội của ta được coi là tù binh chiến tranh, thì Quy ước quốc tế về tù binh chiến tranh ký kết tại Geneve, hình như, năm 1951, cũng có điều khoản cấm tù binh nổi loạn trong các trại tù và cho phép những kẻ canh giữ tù binh đàn áp mọi nổi loạn trong trại tù. Còn có cả điều khoản tù binh chiến bại phải chào kính kẻ chiến thắng canh giữ, nếu kẻ chiến thắng yêu cầu. Nổi loạn trong tù là hạ sách, có lẽ, là chuyện phiêu lưu vô vọng. Vậy nằm tù cộng sản có hai thái độ chọn lựa. Một là, tuyệt vọng như con hổ trong chuồng sắt sở thú: Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu! Hai là, suy tư một câu thơ của Tự Đức: Xếp tàn y lại để dành hơi. Tôi chọn thơ Tự Đức.
Trung úy Thọ, người bạn tuổi nhỏ của tôi, không hỏi thêm gì nữa. Anh ta hút thuốc lào rồi nói chuyện văn nghệ. Ngày thứ ba, anh ta lại tìm tôi. Và chúng tôi mạn đàm thân mật.
- Hỏng rồi, anh Duyên Anh ơi!
- Chuyện gì?
- Đàn anh qua khu B được các đàn em tâng bốc và đốc thúc « phải cho nổ », đừng để đàn em thất vọng như đã thất vọng Thanh Nghệ Tĩnh.
- Rồi sao?
- Các anh ấy họp.
- Đến đây thì tôi xin cậu ngưng lại.
Trung úy Thọ lắc đầu:
- Vâng, em nghe anh. Cho em phê bình một câu được không?
Tôi hỏi:
- Phê bình tôi?
Thọ đáp:
- Phê bình đàn anh của em.
- Thử phê bình xem sao.
- Quân đội không biết làm chính trị. Các anh lớn đánh giặc giỏi, khí khái, quả cảm nhưng thiếu thủ đoạn.
- Tại sao cậu không giúp?
- Em nhỏ và luôn luôn bị coi phá bĩnh.
- Mình nói chuyện khác, Thọ ạ!
Thọ ngồi chơi một lát rồi về. Vũ Xuân Thông tới, kể tiếp chuyện Văn Quang vồ ngóe nướng ăn và rình mò đập chết cả chim nữa. Tôi hỏi Thông:
- Đầu óc lớn đã có nhận xét chính xác về Z30 D chưa?
Thông cười rất tươi:
- Thuận lợi 100 phần 100.
- Dựa vào những sự kiện nào?
- Suy diễn.
- Ra sao?
- Cộng sản đưa một nửa trại Hà Nam Ninh B về Nam, chứng tỏ nó đã hết chịu nổi áp lực của Mỹ. Nó đối xử đẹp và nhún nhường chưa từng thấy từ trại này qua trại khác ở ngoài Bắc cũng như trong Nam. Chắc chắn sẽ có một biến cố.
- Đợi chờ biến cố xẩy ra chứ?
- Vâng.
- Nhưng do đâu biết tin Mỹ can thiệp cho tù nhân sĩ quan cải tạo?
- Anh em khu B nói.
Tôi vỗ vai Vũ Xuân Thông:
- Bạn ơi, ở Sa Ác, người ta đang chờ Mỹ đem trực thăng đến bốc sĩ quan cải tạo từ trại ra thẳng Hạm đội 7. Bạn ta biết tin từ đâu không?
- Không.

- Từ ban giám thị, từ cộng sản. Bạn ạ, ở tù cộng sản phương pháp 3 W chưa đủ, 4 W vẫn chưa đủ. Who, What, Where, When vất đi hết. Các bình luận gia lỗi lạc của thế giới đều đã trật lất khi suy đoán, tiên đoán về cộng sản. Với cộng sản, chỉ khi công khai hóa một vấn đề, cụ thể hóa một sự kiện, người ta mới ngã bổ chửng. Không ai đoán nổi, hiểu nổi cộng sản sắp làm gì, sẽ làm gì, mà chỉ vỡ lẽ cộng sản đã làm gì! Anh Nguyễn Mạnh Côn, tác giả Cộng sản là gì, người tự cho mình hiểu cộng sản hơn bất cứ người nào chống cộng sản, đã tưởng mình tuyệt thực dọa, cộng sản sẽ lạy mình ăn, sẽ đè ra chích nước biển và bồi dưỡng cả két sữa đặc như Như Phong, nhưng kết cuộc thấy mình lầm lớn, mình chưa hiểu nổi những giai đoạn, những đối tượng cộng sản cần đối phó. Bạn ta biết cộng sản mỉa mai ra sao không?
- Ra sao?
- Nó nhún vai: Trò rẻ tiền xuống đường, tự thiêu, tuyệt thực chỉ xẩy ra thời ngụy. Bây giờ là thời của xã hội chủ nghĩa. Thời này, kể tuyệt thực chết, tự thiêu chết, thắt cổ chết bị đánh thuế ngu. Thân nhân kẻ chết ngu phải nộp thuế ngu cho Nhà nước.
Vũ Xuân Thông bần thần suy nghĩ. Tôi nói:
- Bạn ta ơi, tôi chưa hề thấy người hùng của chiến trường miền Nam cũng là người hùng của chính trường miền Nam.
Và tiếp:
- Từ Trần Phú, Lê Hồng Phong đến Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Tố Hữu … vân vân đều đã như những con chó câm trong ngục tù thực dân hàng chục năm. Có đứa 20 năm. Cuối cùng, nhờ biết làm chó câm, chúng nó lần lượt trở thành vĩ đại. Những thằng sủa và bị hích sủa thì thành liệt sĩ ngu đần. Liệt sĩ Bế văn Đàn khom lưng cho đại liên kê lên vài bắn cháy mẹ nó da thịt, liệt sĩ Cù Chính Lan lao mình vào lỗ châu mai hứng đạn, thế giới đếch thèm biết tên mà chỉ biết Võ Nguyên Giáp, anh hùng, vĩ nhân Điện Biên Phủ. Vậy bạn ta muốn thay đổi vận mệnh dân tộc, muốn lật ngược thế thời hay chỉ muốn được đám tù nhân Z30 D ca ngợi?
Vũ Xuân Thông cầm tay tôi:
- Em sẽ đem tặng anh cái điếu cày em thửa ở Sơn La.
Chú thích:
1. Bác sĩ Hoàng Văn Đức, chỉ huy trưởng Trường Quân y đến 11-1963.
2. Ký giả Lô Răng, Đọc Ngựa chứng trong sân trường, Tạp Ghi, báo Tiền Tuyến.
3. Khi tôi về, bạn tù về sau kể rằng, thiếu tá nhảy dù Đàng, tự Đàng sứt, Cò quận 4, từ Bắc vô nam đã làm tới chức Trưởng ban trật tự K1 Z30 D.
4. Nam Á, Paris, 1986.
CHƯƠNG 18
Chưa có triệu chứng « nổ » của tù nhân về từ Hà Nam Ninh. Anh em vẫn tự do tắm giặt, nấu nướng, đi lại « linh tinh ». Anh em tự do nhổ rào trại đun bếp. Anh em tự do sang khu B truyện trò ngoài hàng rào. Trực trại chỉ thị tổ vệ sinh kiếm củi cho Hà Nam Ninh. Trật tự cả hai khu đều khép nép khi gặp Hà Nam Ninh. Trần Trọng Thanh lên bệnh xá nằm cả ngày. Cung củ đậu, lợi dụng tình chiến hữu, hết sang nhà này đấu láo lại sang nhà khác đấu láo. Anh ta rất khớp Hà Nam Ninh. Vì Hà Nam Ninh nhiều trung tá ở các binh chủng dữ dằn. Có một đại tá nhảy dù nữa. Nhưng Hà Nam Ninh không hẳn chỉ toàn sĩ quan quân đội mà con viên chức cao cấp chế độ cũ, phản động và đảng phái trình diện học tập cải tạo. Ra Bắc, chẳng phải là tù nhân tối quan trọng. Ở Nam, chẳng phải là tù nhân tầm thường. May rủi cả. Trưởng ty Dân vận và chiêu hồi, nhạc sĩ Vũ Thành An, ra Bắc. Tổng trưởng thông tin và chiêu hồi Hồ văn Châm ở Nam. Dân biểu Nguyễn văn Cung ra Bắc. Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Lương ở Nam. Những nhà văn quân đội ra Bắc. Những nhà văn dân sự « biệt kích văn nghệ » ở Nam. Nhà văn « biệt kích văn nghệ » Dương Nghiễm Mậu về nhà sau 11 tháng tù. Nhà văn quân đội Duy Lam hôm nay vẫn ở trại trừng giới Phú Khánh.
Một điều Hà Nam Ninh cảm thấy tủi nhục và phẫn nộ là thấy thiếu tá nhảy dù Cung củ đậu xun xoe theo sau trung sĩ công an trực trại, nhâng nhâng cầm xâu chìa khóa, đóng và mở cửa hai lần tập họp điểm danh. Sự phẫn nộ đã không trút vào Cung củ đậu mà lại trút vào một tên trật tự tù nhân hình sự khu B. Tên này bị vây đánh ở bệnh xá, sau đúng một tuần Hà Nam Ninh về Z30 D và một số người đã được gặp vợ con, đã nhận quà thăm nuôi. Vũ Xuân Thông cũng đã gặp thân nhân. Chàng có tin buồn: thân mẫu vừa qua đời. Thông buồn bã ra mặt. Chàng mong gặp mẹ sau nhiều năm xa cách. Chàng đã về thật gần mẹ. Nhưng mẹ chàng vội khuất núi. Vài người chỉ có em hay chị dẫn con thăm bố. Vợ đã phụ tình từ lâu, gia đình viết thư ra Bắc đã nói dối vợ vẫn thủy chung. Trung úy Thọ, người bạn tuổi nhỏ của tôi gặp vợ và cha già. Chuyện vui buồn chưa dứt bùi ngùi và ngậm ngùi thì một nửa Hà Nam Ninh chuyển khu. Ba đội vào K2 K3. Hai đội sang khu B. Năm đội bên khu B qua khu A. Ngay buổi tối hôm chuyển khu, chuyển K, Hà Nam Ninh còn lại khu A, tỏ thái độ.
Một nhà hát. Bốn nhà hát theo. Trước hết, họ hát những bản hùng ca do anh em của họ sáng tác. Rồi họ hát chính huấn ca. Cái lâu đài âm thanh này đã khiến tù nhân cả K1 ngưng hút thuốc là, ngưng chuyện trò. Tôi nghĩ thế. Vì, ở nhà của tôi (bây giờ tổ vệ sinh sống chung với đội rau xanh khu B mới sang), các cửa sổ khoang trên, khoang dưới kín mít. Tù nhân chờ đợi phản ứng của cai tù. Z30 D K1 không có phản ứng. Quản giáo, vệ binh, trực trại đứng gần các nhà nghe hát. Hà Nam Ninh chỉ hát, không reo hò, không hô khẩu hiệu. Họ hát đến khi kẻng báo ngủ thì ngưng hẳn. Sáng hôm sau, tập họp điểm danh bình thường. Các đội cũ đi lao động. Các đội Hà Nam Ninh ở nhà, tư do như hôm vừa tới. Mỗi chiều, vệ binh, lần lượt, dẫn từng đội ra suối tắm giặt. Nước bơm vào hồ không kịp. Xuất trại, Đội trưởng báo cáo. Ai đội nón, mũ đều lật khi qua điếm canh.
Ngày 25 tháng Chạp năm Thân, dương lịch 1981, Z30 D tuyên bố kết quả xổ số chào mừng Tết Con Gà. 300 tù nhân của 3 K được « thần tài » chiếu cố. Tất cả tụ tập ở hội trường K1 chờ làm thủ tục về xum họp gia đình. Chưa lần nào tù nhân được tha đông như lần này. Người ta phóng ra một tin phấn khởi: tù cũ sắp về hết nhường chỗ cho tù miền Bắc bồi dưỡng rồi về luôn. Tiến bộ vượt mức! Tiến bộ, tôi chợt nhớ bài « lên lớp » của phó giám thị Phúc:
- Đáng lẽ các anh về từ lâu. Chúng tôi giữ các anh ích lợi gì? Các anh lao động không đủ nuôi các anh, các anh nắm vững hơn ai. Sở dĩ, các anh còn cải tạo vì vợ con các anh ở nhà đã tiến bộ vượt mức. Chính vợ con các anh viết thư yêu cầu chúng tôi giữ các anh lại, giáo dục các anh để các anh tiến bộ ngang mức vợ con các anh thì khi về các anh mới thích nghi đời sống xã hội chủ nghĩa!
Bài « lên lớp » đã làm tù nhân « chửi » vợ con mình quá xá. Cộng sản còn có nghệ thuật cù không cười. 300 tù nhân được tha kỳ này chắc đã được vợ con ô kê tiến bộ. Đặc biệt, cận Tết, họ đỡ bị … bóc lột lao động thêm. Bộ nội vụ đã giáng một đòn cân não. Hà Nam Ninh chới với con số 300 tù nhân được tha. Trung úy Thọ tìm tôi:
- Nó lọc hay quá, anh ạ!
- Lọc gì?
- Lọc người.
- Ra sao?
- Nó lọc từ Hà Nam Ninh trước ngày về đây. Biên chế đội rồi mới chuyển trại. Các ông cầu an, lừng khừng đã sang khu B và vô K2 cả.
- Còn lại là chống đối à?
- Chống đối và chống chống đối.
- Thâm hiểm ghê nhỉ?
- Vâng. Nó cho hai quan điểm đối nghịch sống chung. Cộng sản mà! Anh Thông bị kẹt.
- Sao?
- Anh ở giữa hai quan điểm.
- Còn cậu?
- Em không dám lên tiếng nữa. À, anh này …
- Gì?
- Phản ứng của nó ra sao khi Hà Nam Ninh hát nhạc chính huấn.
- Tôi không gần gũi nó, không thể biết. Nhưng tôi biết chắc điều này: cộng sản sẽ trấn áp qua giai đoạn kiên trì. Nhìn lại vụ nó nuốt Kampuchia đi! Nó chuẩn bị dư luận thật chín muồi, kiên trì chịu đựng mọi ngang ngược của Pol Pot, Iang Sary. Cho đến khi giải phóng Kampuchia là chân lý, nó mới thôn tính Kampuchia.
- Tại sao anh không làm chính trị?
- Tại sao tôi phải làm chính trị? Mà cậu đề cập chính trị ở đâu?
- Ngoài đời.
- Không, ngu sao làm chính trị. Đem tư tưởng chính trị của mình chỉ đạo bọn làm chính trị mới khôn. Tôi không làm chính trị song, tôi có thái độ chính trị như thái độ viết. Cả hai nằm trong thái độ sống của tôi.
- Em sẽ làm gì?
- Ở đâu, bao giờ?
- Ở đây, bây giờ.
- Xếp tàn y lại để dành hơi. Hỏi mãi, sốt ruột!
Buổi chiều ngày 27 tháng Chạp năm Thân, một đội Hà Nam Ninh xuất trại ra suối tắm. Nội quy ghi rõ điều khoản này: « Trại viên xuất trại và nhập trại phải báo cáo cán bộ và bỏ nón mũ khi ra và vào cổng ». Tôi đã ở trại lao cải Sa Ác và Rừng Lá, tôi thấy điều khoản này được tù nhân triệt để thi hành. Một vài người không thèm đội nón mũ. Để khỏi chấp hành nội quy. Sa Ác còn quái ác bắt tù nhân cận thị gỡ kính xuất nhập trại. Điều này không có trong nội quy nhưng nằm ở câu « Trại viên phải triệt để tuân hành mệnh lệnh và chỉ thị của cán bộ … ». Một tù nhân Hà Nam Ninh đã cố tình không gỡ mũ ra khi vào trại. Cán bộ trực trại, lúc ấy, chưa đến điếm canh. Vệ binh trên vọng gác thay thế. Vệ binh yêu cầu gỡ nón sau khi báo cáo nhập trại. Tù nhân này nhất định không gỡ nón. Vệ binh lên đạn. Để cảnh cáo tù nhân « ngoan cố », vệ binh ngắm đống đá chất cao ngoài cổng trại, cách chỗ đội tập họp báo cáo nhập trại khoảng 2 thước bấm cò. Viên đạn làm một mảnh đá dội ngược văng mạnh vào cánh tay một tù nhân. Anh này bèn nằm lăn ra. Vệ binh bắn chỉ thiên 3 phát báo động. Trực trại, quản giáo, vệ binh kéo đến. Y tá được gọi ra băng bó vết thương ngoài da. Đội Hà Nam Ninh được yêu cầu vào trại.
Thay vì về nhà, họ xếp hàng đôi, ngồi giữa sân tập họp lao động. Bốn đội Hà Nam Ninh khác cũng ra ngồi tỏ tình đồng đội. Khi các đội cũ của khu A lao động về, Hà Nam Ninh yêu cầu họ cùng ngồi. Ai thích thì ngồi, ai không thích thì thôi. Không có sự cưỡng bức. Một nửa tham dự. Một nửa về nhà lấy cơm, chia cơm. Số người tham dự không ăn cơm. Tù hình sự tham dự rất ít. Đại diện của Hà Nam Ninh yêu cầu trực trại mời ban giám thị tới giải quyết vấn đề. Trực trại hứa chuyển đạt lời yêu cầu rồi gấp sổ trực, rời điếm canh. Nắng tắt rất nhanh. Chiều nay không không có kẻng báo điểm danh. Trật tự K1 đã lỉnh hết sang khu B. Cung củ đậu cũng biến luôn. Ở khu B, cơm canh lĩnh khẩn trương và đem vào nhà chia. Các cửa khóa sớm. Vệ binh tăng cường canh phòng, tuần tra. Khu B kể như bất động. Chẳng ai dám xô tường ra cả, dù xô mạnh là tường đổ.
Bóng tối đã trùm Z30 D K1. Đèn các nhà đã lên. Vệ binh trên chòi sát cổng đã xuống và rút đi. Lực lượng võ trang bảo vệ trại làm thành hai vòng vây chung quanh trại, phía ngoài hàng rào. Ban giám thị không đến. Cuộc đấu tranh bắt đầu. Cuộc đấu tranh với lý do đơn giản như đã kể ở trên. Thoạt đầu, bọn tù nhân hình sự trộm cắp xông vào phòng trật tự lục soát đồ đạc và tịch thu đường, thuốc rê, thuốc lào, trong khi, Hà Nam Ninh cùng tù nhân cũ hát vang nhạc chính huấn. Tù hình sự, dưới sự lãnh đạo của tên Lâm Quyền, đạp cổng hội trường, tiến vô sách động 300 tù nhân vừa trúng số, chuẩn bị về nhà ăn Tết, ra tham dự Đêm Không Ngủ. Tâm trạng 300 người này thật não nề. Ra không được, ở lại không xong. Ra thì có thể bị nằm tù nữa. Mà ở thì có thể bị … ăn đòn tranh đấu. May sao, có một người trong số 300 người đứng lên hô hào đoàn kết chiến đấu chống Cộng Sản. Vậy là một nửa người miễn cưỡng ra, một nửa người ở lại, tản mạn tại chân hàng rào suốt đêm. Nhiều người núp ở bệnh xá, bếp bệnh xá. Lâm Quyền tự phong chức trưởng ban hành động, đến từng nhà dọa nạt và lùa « nhân dân » ra tranh đấu. Nhạc chính huấn vẫn rền vang. Ban giám thị không tới.
Khoảng 22 giờ, ô pạc lơ trại oang oang:
- Chú ý, anh em trại viên chú ý … Đây là tiếng nói của cán bộ giáo dục trại cải tạo Thủ Đức Z30 D. Anh em lắng nghe tôi đọc vài điều trong nội quy
Tù nhân hát thật lớn, át cả tiếng nói của cán bộ giáo dục. Nhưng hắn cứ đọc nội quy. Đọc xong, hắn nói:
- Một trại viên vi phạm nội quy, kéo theo hàng trăm trại viên vi phạm nội quy. Ban giám thị yêu cầu những trại viên vừa được tha, về ngay hội trường chuẩn bị hành lý để sáng mai nhận Giấy ra trại thật sớm. Về hay không là do sự quyết định của các anh.
Đại diện Hà Nam Ninh yêu cầu tù nhân vừa trúng số về hội trường gấp. Họ chỉ đợi có thế. Một người duy nhất ngồi lại. Người này trung thành với lời hô hào « đoàn kết chiến đấu ».
- Chú ý, anh em trại viên chú ý … Ban giám thị sẽ giải quyết vấn đề vào ngày mai. Yêu cầu anh em về nhà ngủ. Chúng tôi cam kết không có hình phạt trả thù.
Z30 D cứ đem nội quy ra nói. Và nói một cách bình tĩnh. Khi ấy, lực lượng võ trang từ Hàm Tân đã đến tăng cường. Trong này, nhạc chính huấn hăng say hơn. Tù nhân hình sự pha nước chanh, nấu chè cho mọi người ăn uống. Thuốc lào rít ròn rã. Tôi bỏ về từ lúc này, không còn hứng thú đứng và đi xem nữa. Nhưng tôi không ngủ. Cái răng khôn nhổ hôm qua còn đang hành tôi nhức nhối. Tôi nằm nghe những lời yêu cầu tù nhân giải tán, ai về nhà nấy ngủ, mai đi lao động. Về khuya, nhạc chính huấn ngưng hát tập thể. Chương trình chuyển sang mục văn nghệ Đêm Không Ngủ. Đơn ca không đàn đệm. Những ca khúc bêu riếu lính « Một trăm em ơi … », những ca khúc sến do bọn tù hình sự vô lại ông ổng hát đã làm hại anh em Hà Nam Ninh. Đấu tranh vô tổ chức nó mau tàn. Gần sáng, rã đám. Ai về nhà nấy, đúng yêu cầu của Z30 D, tuy hơi muộn.
Và đó, từ nguyên do, diễn tiến đến kết thúc của cái gọi là « nổi loạn ở nhà tù Hàm Tân ».

Sáng sớm hôm sau, cửa các nhà bị khóa chặt. Không có điểm danh. Không có lao động. 300 tù nhân được tha khẩn trương rời hội trường sang K2. Ở đấy họ sẽ làm mọi thủ tục ra trại. Người tù được tha ngồi lại tham dự Đêm Không Ngủ cũng sang K2 luôn. Trật tự vẫn lưu vong. Chỉ có tổ vệ sinh bên ngoài quét dọn sân trại và đổ rác. Không khí Z30 D căng thẳng. Khu B nằm nhà hết. Một vài nhà hò hét, vỗ tay. Khu A thì hoàn toàn im lặng. Buổi trưa, tổ vệ sinh phải khiêng cơm, canh cho từng nhà. Cửa mở. Cơm canh vào là khép chặt, khóa kỹ. Xế trưa, các cửa nhà đội cũ mở. Trật tự đã về đủ. Quản giáo các đội đến phát giấy cho đội làm tự kiểm. Quán giáo hướng dẫn viết tự kiểm. Tự kiểm nhận khuyết điểm tham dự Đêm Không Ngủ vì bị cưỡng bức và lên án một số người chủ mưu vô danh. Không một ai được viết ngoài cái ý đó. Ngày 29 tháng Chạp, mọi chuyện kể như đã qua. Cửa nhà Hà Nam Ninh mở tung. Miễn lao động toàn trại. Đi lại tự do. Nước bơm đầy hồ. Không ai bị kỷ luật cả. Ngay buổi sáng, một phái đoàn của bộ nội vụ đến thăm viếng anh em Hà Nam Ninh. Phái đoàn chuyện trò thân mật và hỏi anh em có cần đề xuất gì không. Tuyệt nhiên, phái đoàn không đề cập chuyện mới xảy ra.
Vũ Xuân Thông tìm tôi:
- Đêm qua anh đi đâu?
- Tôi đứng xem, đến màn chè cháo, tôi về ngủ. Thế nào, thất bại hay thành công?
- Theo anh?
- Các ông đánh giá Cộng Sản thấp quá. Kinh nghiệm Hà Nam Ninh đâu? Lý do thành công ở Hà Nam Ninh là chống đối nhốt tù nhân dưới hầm đá mà không đọc quyết định thi hành kỷ luật và do bầy sư tử lãng mạn và quả cảm lãnh đạo. Lý do thất bại ở Z30 D là chống gỡ nón và do “lãnh tụ” Lâm Quyền sách động đấu tranh. Tại sao ông dở thế?
- Em bị theo cái đà xoay.
- Sao không chỉ các ông chơi? Ông biết thằng Lâm Quyền can tội gì không?
- Tội gì?
- Ông đi hỏi cả trại, ai cũng biết tội nó. Nó chọc thủng vách nhà tắm cho bạn nó coi xi nê chị nó tắm. Vé mỗi lần vài đồng. Chị nó tố cáo nó với công an và yêu cầu cho nó đi cải tạo.
- Bỏ mẹ!
- Z30 D thật sự coi thường các ông rồi. Nó sắp ra tay rồi đấy. Rồi ông coi.
- Phái đoàn bộ nội vụ biết điều lắm.
- Đó là cái lỗ miệng Cộng Sản. Tôi gửi lời chê đầu óc lớn của các ông. Các ông không nghe tôi. Họa hổ thành khuyển.
Vũ Xuân Thông bỏ về. Người hùng của tôi chưa có vợ, dù rất đẹp trai và nhiều tài. Sáng sau, 30 tháng Chạp, điểm danh trễ hơn thường lệ. Nắng đã lên, kẻng vẫn chưa báo. Lại có chuyện gì chăng? Có chuyện thật. Vũ Xuân Thông và 4 người khác xách hành lý rời Z30 D. Tôi đoán Thông và 4 đầu óc lớn ra đi. Về sau, tôi biết Vũ Xuân Thông về Chí Hòa. Có lẽ, hiện nay, Thông còn nằm ở trại trừng giới Phú Khánh.
Không có vấn đề gì cho anh em Hà Nam Ninh ở lại khu A và khu B. Ba ngày Tết thật êm ả. Ngày nào trung úy Thọ cũng sang nhà tôi, leo lên chỗ góc khoang trên của tôi hút thuốc lào và tâm sự. Thọ rủ thêm vài sĩ quan trẻ khác.
- Kết thúc chưa, anh Duyên Anh?
- Chưa.
- Em thương anh Thông quá.
- Tôi cũng vậy.
- Anh Thông tình cảm lắm. Anh ấy bị một thằng đảng phái cáo già giật giây. Nó dùng tình cảm, dùng luôn cái bị thăm nuôi lúc nào cũng đầy của nó làm xao xuyến nhiều anh em “con bà phước”. Anh Thông ở Bắc không ai thăm nuôi cả.
- Lính chiến lại hào sảng, đâu biết tham nhũng. Đa số sĩ quan tác chiến, tôi thấy đều “con bà phước” hoặc bị thăm nuôi lép kẹp. Những thằng tham nhũng, thối nát, ở tù vẫn phây phây. Chúng nó thừa tiền mua cai tù nên chúng nó nhàn hạ. Còn được tha sớm nữa.
- Anh biết phái đoàn bộ nội vu hỏi thằng đảng phái ma đầu cần gì, nó trả lời sao không?
- Không.
- Nó xin một thùng rác cho phòng. Nó biểu dương nồng nhiệt trại Z30 D. Còn anh Thông, anh yêu cầu không có trả thù người cải tạo, dù phái đoàn không đề cập chuyện Đêm Không Ngủ.
- Đó là lý do Thông ra đi?
- Lý do phụ thôi. Anh Thông và 4 người kia bị ghim từ Hà Nam Ninh. Anh nói vụ này chưa kết thúc, liệu còn những gì xảy ra?
- Nó sẽ làm các cậu xâu xé nhau.
- Cách nào?
- Tôi không biết. Có lẽ, cậu sẽ không ở khu A lâu đâu.
- Em sẽ chuyển trại?
- Chuyển K hoặc khu
- Anh có lời nào khuyên em thêm?
- Một người công an chấp pháp Nam bộ tập kết ở sở công an thành phố Hồ chí minh khuyên tôi, ở tù Cộng Sản đừng tin ai, đừng dại dột chết ở lỗ chân trâu. Một người cai tù ở Chí Hòa khuyên tôi, đừng chống cán bộ quản giáo, vệ binh vì chúng nó không có quyền bắt, không có quyền tha, nhưng có quyền hành hạ và dồn mình vào chỗ chết. Cậu suy nghĩ lời người ta khuyên tôi.
- Cám ơn anh.
Mồng 5 Tết, tù nhân Hà Nam Ninh K1 tập họp hết ở hội trường nghe giám thị Mạnh “lên lớp”. Đây là bài lên án nặng nề Đêm Không Ngủ. Bài này được phát thanh cho cả trại nghe.
- Ai cho phép các anh vi phạm nội quy? Ai cho phép các anh hát nhạc chính huấn? Ai cho phép các anh tụ tập âm mưu nổi loạn? Ai cho phép các anh sách động đấu tranh trong nhà tù? Việt Cộng nổi loạn trong nhà tù, các anh tàn sát hết, các anh đâu có tha. Các anh nổi loạn, Việt Cộng chúng tôi không tàn sát các anh. Đó là chính sách nhân đạo và khoan hồng của đảng và nhà nước đối với người học tập cải tao…
Giám thị mạnh lên lớp gần ba tiếng đồng hồ. Cuối cùng là câu kết luận:
- Các anh, ai muốn lao động thì được lao động, ai không muốn lao động thì ở nhà. Từ nay, trại không tha thứ một hành động vi phạm nội quy nặng hay nhẹ.
Ngay buổi trưa, 5 đội Hà Nam Ninh khu A bị xào xáo, biên chế lung tung thành 5 đội mới. 3 đội sang khu B. 2 đội chuyển sang 2 căn nhà nằm sau phòng trật tự, sát hàng rào trại. Z30 D K1 vận dụng 2 đội dựng một hàng rào tre cách ly 2 đội Hà Nam Ninh với các đội khác. Thêm hàng rào kẽm gai giữa hai nhà. Đội xây cất xây bức tường gạch chia đôi hồ nước. Một cái cổng có giây xích và khóa chặt. Hai căn nhà của hai đội Hà Nam Ninh biến thành khu kỷ luật tập thể. Tù nhân không được ra ngoài hàng rào, không được nhận quà thăm nuôi, không đi lao động, không tắm giặt hàng ngày. Nước sẽ vào đủ xối cầu tiêu. Một tuần tắm hai lần bằng vòi nước đẩy vô, giới hạn thời gian. Bật lửa, diêm bị tịch thu. Điếu cày bị tịch thu luôn. Sự trả thù bắt đầu…
CHƯƠNG 19
Tổ vệ sinh lo chở cơm, nước uống và nước xối cầu tiêu cho hai đội kỷ luật Hà Nam Ninh. Nguyễn văn Hải và tôi được trật tự giao công tác này. Trung úy Thọ thoát lưới đợt đầu. Tôi nói thoát lưới đợt đầu vì sự tầm tù chưa chấm dứt. Mỗi ngày một tù nhân bị gọi ra. Tù nhân này lên ban giám thị làm tự khai và «làm việc». Rồi tù nhân này trở về, chuẩn bị hành lý khẩn trương rời phòng. Anh ta qua khu B. Liền đó, hai ba tù nhân Hà Nam Ninh khu B sang khu A, vô nhà kỷ luật. Sự ngờ vực lẫn nhau khởi sự cùng với sự sợ hãi. Hôm nay, một tù nhân bị gọi ra. Anh ta về, nhà không ai bị gọi, cũng không ai đến. Hôm sau, vài người khu B qua. Tù nhân bị gọi ra hôm qua hoảng hốt. Rồi Lâm Quyền vào nhà kỷ luật. Lâm Quyền ra «làm việc». Mười hai người tù Z30 D cũ khuân hành lý vào nhà kỷ luật. Lâm Quyền bị chuyển trại. Ra vô, vô ra liên tiếp một tháng, Z30 D đã lọc đủ tù nhân «tích cực» trong vụ nổi loạn đêm 27 tháng Chạp. Nhiều tù nhân tình nguyện ra «làm việc». Để chứng minh mình oan, chỉ có cách tố cáo những người «tích cực» chống đối. Sau thời gian «tầm thù» và phân loại mức độ «nguy hiểm», Hà Nam Ninh còn 40 người chịu hình phạt kỷ luật vô thời hạn, vì không đọc quyết định, Z30 D cũ có 20 người. Các đội Hà Nam Ninh đã có số riêng từng đội và đã đi lao động sản xuất. Họ lao động tích cực hơn tù nhân Thanh Nghệ Tĩnh và Z30 D cũ. Khu nhà kỷ luật coi như ổn định. Bây giờ Cung củ đậu có thể tác yêu tác quái.

Đền ơn Cung củ đậu chế ngự Hà Nam Ninh, trại cho anh ta ngủ với vợ hai ngày hai đêm. Vợ Cung củ đậu là cô vũ nữ xếch-xi. Tội nghiệp cho cô ta, Cung củ đậu hành lạc tả tơi, về trại khoe cùng khắp. Khu A, tù nhân già thì nể, tù nhân trẻ thì sợ Cung củ đậu. Anh ta được khám xét hành lý tù nhân nên biết hết tù nhân có những món gì. Ở Z30 D K1 không có hoạt cảnh … tổng vệ sinh. Tù nhân đi lao động, trực trại dẫn trật tự vào nhà, lục tung hành lý của tù nhân mà kiểm tra, loại bỏ và tịch thu. Tổ vệ sinh làm công việc kéo xe cải tiến đậu trước nhà. Hễ lục soát xong, vệ sinh quét dọn nhà và chở đồ loại bỏ đem đốt. Tù nhân đi lao động về phải cất xếp đồ đạc của mình bị lục bừa bãi. Những tù nhân lưu cữu, đồ đạc còn gì loại bỏ? Những bó đũa mài vót bằng gỗ mun công phu, trực trại tịch thu, sợ tù nhân dùng đũa chọc mắt, chọc tai nhau! Những cái plaques làm bằng inox tỉ mỉ, trực trại tịch thu gởi về cho em, cho tình nhân, sợ tù nhân « mua bán đổi chác »! Những tượng Phật, tượng Chúa khắc nghệ thuật, trực trại cho trật tự tịch thu. Những kinh sách tôn giáo bị loại bỏ. Những bản nhạc không có lời bị xé nát. Những thư từ viết khó hiểu bị giữ lại « nghiên cứu ». Vệ sinh thường lén giữ kinh sách tôn giáo, không đốt, đem về tìm đúng « đương sự » mà hoàn trả. Cung củ đậu « nắm vững » tù nhân và những món hàng quý. Và anh ta bắt địa kiểu xin xỏ khá nhiều kem đánh răng Close Up, xà phòng thơm Camay, quần xà lỏn, áo thun, xì líp Mỹ … Tôi cũng bị Cung củ đậu bắt địa cái kính lão đắt tiền. Thiên thần mũ đỏ Cung củ đậu nhảy các « xô » hủ tíu, mì, tôm khô, mỡ, lạp xường … Ngày nào cũng có người nhận quà thăm nuôi và ngày nào Cung củ đậu cũng enjoy với … anh em. Cung củ đậu bắt địa thuốc lá State Express 555 để cống cán bộ trực trại, chấp pháp. Anh ta không nghiện thuốc lá thuốc lào. Tôi đã nghe Cung củ đậu bô bô kể chuyện lính nhảy dù ăn gan Việt Cộng cho tù nhân và cả cai tù nghe. Anh ta tự thú anh ta cũng đã ăn gan người xào hành tây! Đến đây thì không còn gì đáng nói về thiên thần ghẻ Cung củ đậu. Anh ta đã làm ô uế hai tiếng nhảy dù mà tôi hằng ngưỡng mộ yêu mến. Bây giờ, tôi viết về thằng vô lại Cung củ đậu. Nó dọa đánh hết người này đến người khác. Nó hung hăng, phách lối. Nạn nhân khốn khổ của Cung củ đậu là chú bé tên Cường, can tội vượt biên, mẹ đã là « tài pán » của Maxim Sài gòn. Cung củ đậu còn sắm vai công an chấp pháp, gọi tù nhân nó ghét lên phòng trật tự « làm việc » và viết tự kiểm. Khi Hà Nam Ninh bị dẹp, Cung củ đậu trở thành hung thần. Nó chửi bới trật tự Phú già, đòi đánh trung úy Nhẫn nấu bếp phục vụ bệnh nhân, đì trung úy Hanh nhảy dù đến nỗi trung úy Hanh, hỗn danh Hanh thịt chó, hiền lành, ít nói, phải sang nhà kỷ luật. Chỉ vì trung úy Hanh khinh bỉ thiếu tá Phạm Đình Cung, chỉ vì trung úy Hanh xấu hổ thấy thiếu tá Cung củ đậu vênh váo cầm xâu chìa khóa, khoanh tay đứng sau tên trung sĩ công an trực trại.
Bằng thủ đoạn lọc người, Z30 D đã gây kinh hoàng cho tù nhân Hà Nam Ninh. Tù nhân nào cũng nơm nớp sợ hãi, hôm nào đó, mình sang nhà kỷ luật. Do đó, khi Z30 D thành lập ban văn nghệ phối hợp giữa nghệ sĩ tù nhân và nghệ sĩ cai tù, những tay vĩ cầm, lục huyền cầm Y pha nho, ca sĩ và múa sĩ và viết hòa âm của Hà Nam Ninh « đăng ký » hăng hái nhất và được tuyển chọn sớm nhất. Có một hải quân trung úy đã theo con tàu Việt Nam Thương Tín từ đảo Guam về … trình diện học tập cải tạo. Vị trung úy này trở thành vũ sư dạy các cai tù công an trai và gái nhảy múa. Z30 D, những kẻ ca ngợi Hà Nam Ninh hết lời, những kẻ đốc xúi Hà Nam Ninh «nổ», những kẻ hoan hô Hà Nam Ninh đánh tù nhân trật tự, sau khi viết tự kiểm lên án «bọn chủ mưu vô danh» lại đã là những kẻ chửi bới Hà Nam Ninh «chọc cứt không thành lỗ», Hà Nam Ninh khiếp nhược lao động tích cực, Hà Nam Ninh tầm thường xin vào ban văn nghệ, Hà Nam Ninh hèn mọn, «ăng ten», tố cáo lẫn nhau để chạy tội, để thoát vào nhà kỷ luật. Chẳng còn ai nhắc nhở Vũ Xuân Thông và 4 người Hà Nam Ninh về Chí Hòa địa ngục. Chẳng còn ai biết đến, ở nhà kỷ luật, 40 tù nhân Hà Nam Ninh bị trừng phạt ra sao. Người ta vẫn hoan hỉ gặp vợ con, nhận quà thăm nuôi và enjoy vui vẻ. Cuộc đời nó thế, bên ngoài và trong tù. Cái thành ngữ Bạc như dân, bất nhân như lính đã là chân lý.
Đầu tháng 4-1981, một người trong nhà kỷ luật được gọi ra thăm gặp gia đình. Tù nhân này không ra. Anh ta không dám ra vì sợ trở vào nhà cũ. Trực trại đến tận nhà dẫn anh ra gặp gia đình. Lãnh quà cáp về, anh ta yêu cầu được ngồi tại phòng trật tự và xin « làm việc » với cán bộ. Anh ta nói thẳng, nếu anh bước vào nhà kỷ luật, anh sẽ bị đánh chết. Tại sao? Anh ta đã phản bội «anh em». Chỉ những kẻ phản bội mới được «ân huệ» thăm gặp gia đình. Anh ta giải thích một cách tội nghiệp thế. Để bảo đảm an ninh cho tù nhân này, ban giám thị cho anh chuyển K. Trực trại vào tận nhà kỷ luật đem hành lý của anh ra cho anh. Z30 D ban ân huệ hãi hùng chưa? Người tù khốn khổ này không tố cáo ai cả nhưng cả nhà kỷ luật đã lên án anh ta. Tù nhân ở nhà kỷ luật hết sợ kỷ luật, họ bắt đầu sợ ân huệ … thăm gặp gia đình! Và họ đề phòng nhau ráo riết. Điều sợ hãi nhất là bị gọi ra «làm việc» rồi trở lại nhà.
Nguyễn văn Hải và tôi, ngày tám lần, 14 chuyến chở cơm, nước sôi, nước xối cầu vào hai nhà kỷ luật. Hai nhà cách biệt, không được đứng sát rào kẽm gai biên giới nói chuyện và nhìn nhau, mỗi nhà một cái cổng ở hàng rào tre. Cửa nhà, ban ngày mở, ban đêm khóa. Cổng thì chỉ mở khi xe cơm nước ra vào, ra. Lịch trình vệ sinh phục vụ hai nhà kỷ luật:
Sáng: Cơm điểm tâm, nước sôi. Một chuyến. Lấy thùng đựng cơm và nước sôi đem trả nhà bếp. Một chuyến. Chở một xe hai phuy nước xối cầu tiêu. Một chuyến.
Trưa: Cơm, thức ăn trưa. Một chuyến. Lấy thùng đựng cơm và thức ăn đem trả nhà bếp. Một chuyến.
Chiều: Cơm, thức ăn chiều. Một chuyến. Lấy thùng đựng cơm và thức ăn đem trả nhà bếp. Một chuyến.
Bẩy chuyến một ngày cho một nhà. Hai nhà là 14 chuyến. Sau nửa tháng, vòi nước lớn không ròng đến nhà kỷ luật nữa, chúng tôi còn phải chở 10 phuy nước cho mỗi nhà, thứ tư và 10 phuy, thứ bảy để tù nhân kỷ luật tắm giặt. Thoạt đầu, trật tự mở cổng và khóa cổng và kiểm soát sự liên hệ giữa vệ sinh và tù kỷ luật. Được một tháng, ông già Phú giữ chìa khóa và phụ trách cổng hai nhà kỷ luật. Ông ta giao cho tôi khóa, mở. Xong thì trả lại ông ta. Ông già Phú không theo dõi như Cung củ đậu. Chúng tôi thủ kỹ, chờ anh em khiêng cơm nước xuống là kéo xe ra ngay. Chở nước tắm, nước xối cầu vô, chúng tôi ra ngoài cổng đợi anh em múc hết đổ vào hồ trong nhà mới vô kéo xe đi. Thủ quá kỹ khiến trật tự tin chúng tôi. Và chúng tôi có thể giúp anh em vài việc lặt vặt.
Có một con chào mào miền Bắc, đít đỏ, hót rất hay. Nó cũng bị kỷ luật theo chủ. Chủ nó, một tù nhân Hà Nam Ninh. Anh ta nuôi nó từ khi nó chưa vỡ bọng cứt. Nó từ cái cóng bơ ra cái lồng tre nhỏ do chủ nó đan. Cửa lồng mở. Con chào mào tự do bay xa rồi lại nhớ lối trở về. Nó không biết mưu sinh. Nên nó đói. Tôi thương con chào mào, đi xin chuối, bóc vỏ liệng đi rồi lén chở theo cơm, vất vào lồng của nó. Mỗi trái chuối, nó sống được vài ngày. Để hót cho tù nhân kỷ luật đỡ buồn. Chủ nó muốn tặng tôi cả chào mào lẫn lồng, tôi thích lắm mà không dám nhận. Sau này, trật tự Trần Trọng Khánh gửi vợ đem về Sài gòn. Nó bị chuyển … trại. Cái lồng bị tịch thu! Người tù Hà Nam Ninh mất nguồn an ủi. Anh ta thương con chào mào, khóc nửa buổi, anh em nói nhỏ với tôi thế.
Từ khi một tù nhân Hà Nam Ninh được gia đình thăm gặp và xin chuyển trại, không có gì mới xảy ra cho hai nhà kỷ luật. Ở tù Cộng Sản, không bị ăn đòn cai tù mà thường bị ăn đòn của tù nhân, ăn đòn oan uổng. Trung úy Thọ kể với tôi rằng, hai năm đầu ở trại lao cải miền Bắc không có thăm gặp, chỉ nhận quà theo đường Bưu điện. Tin tức miền Nam mù tịt. Nhưng tất cả nuôi hy vọng « Phục Quốc » lớn lắm. Bất ngờ, một hôm có vị trung tá được vợ ở Sài gòn ra thăm gặp. Anh em kỳ vọng tin tức miền Nam, thứ vitamine T (tức là tin rỉ tai) cần thiết để sống đời tù. Vitamine T của các trại lao cải miền Nam là tin tức của đài BBC Luân Đôn. Tù nhân gặp vợ con, câu đầu tiên là hỏi « BBC có nói gì về Việt Nam » không. Vợ con nói những tin tức vẩn vơ, tù nhân vào trại « sáng tạo » thành tin tức thê thảm cho Cộng Sản. Ở những nơi chốn đau khổ, con người thường dối gạt chính mình để an ủi người khác. Tôi nhớ hồi chiến tranh biên giới Hoa – Việt, một tù nhân ra gặp vợ con, khi về, anh em hỏi Trung quốc tiến quân đến đâu rồi, tù nhân nọ đáp: « Chúng nó rút hết, rút hết », đã khiến anh em hy vọng Trung quốc « giải phóng » buồn thiu. Tin tức đài BBC Luân Đôn thường bị suy diễn rất ly kỳ. Đài BBC tiên đoán thời tiết cho người đi biển ngầm ý khuyên thuyền nhân không nên vượt biển vào thời gian sóng gió bất trắc, được thân nhân hiểu sai và được tù nhân tiếp thu vội. Nên Vitamine T bổ … tai và bổ tim như vầy: đài BBC bảo không cần vượt biên nữa, sắp thay đổi ở Việt Nam! Vị trung tá ở Hà Nam Ninh quá thật thà. Anh em nóng lòng muốn biết «phục quốc» hoạt động ra sao, ông ta đã trả lời: «Vợ tôi bảo không có phục quốc gì cả»! Thế là ông trung tá ăn đòn hội chợ. Vì làm vỡ… niềm tin. Đây là tội «ăng tin», đau hơn tội «ăng ten»! Người tù nhân ngay thẳng ở nhà kỷ luật, được gặp vợ con, không dám trở về. Bởi đã có kinh nghiệm «ăng tin» ở Hà Nam Ninh. Bạn đã hiểu nhà tù Cộng Sản chưa?

Tôi nói tiếp hai căn nhà kỷ luật của Z30 D, K1. Tù nhân sống mòn mỏi ở đó mà đếm từng giọt thời gian. Đô mi nô, cờ tướng, kinh sách, thư từ, giấy bút, diêm thuốc, ống điếu, đàn sáo, ca coóng, muỗng nhôm, giây thép… bị tịch thu đốt bỏ hết. Tinh thần họ căng thẳng. Thỉnh thoảng, Z30 D còn kéo căng thần kinh của họ bằng cách đem thư gia đình của họ vào đọc tên người gửi, người nhận rồi tuyên bố: « Thư của các anh bị xé bỏ, vì các anh bị kỷ luật. Chúng tôi đã duyệt thư, nội dung là vợ con các anh đang gặp nhiều khó khăn ». Tù nhân muốn điên lên. Chưa đủ, Z30 D đọc tên những người vợ con đến thăm nuôi, rồi tuyên bố: « Các anh bị kỷ luật, trại đã mời vợ con các anh về. Các anh đã làm tốn nước mắt của vợ con các anh vô ích! ». Sự nhân đạo và khoan hồng của Cộng Sản đó. Nhưng cậu Đoàn văn Toại đã biểu dương sự khoan hồng và nhân đạo này bằng cách bịa đặt tù nhân lập kiến nghị và ký kiến nghị trong đề lao Gia Định còn khe khắt hơn trong nhà kỷ luật tập thể Z30 D và các trại trừng giới. Tù nhân ở hai nhà kỷ luật K1 và Z30 D thèm nước … tắm hơn thèm cơm. Hễ trời có vẻ muốn mưa, cửa nhà khóa chặt ngay. Không sợ tù nhân trốn trại, mà không thích tù nhân tắm mưa thoải mái. Các ca, xô nhựa hứng nước mái nhà cũng bị dẹp.
Để cho kỷ luật thấm thía mùa nắng, Z30 D thêm mục tưới cây, tưới cỏ chung quanh hai nhà kỷ luật. Tưới tối đa nước. Chúng tôi lại phải kéo nước còng lưng tưới cây, tưới cỏ trước mắt tù nhân kỷ luật. Tôi biết có nhiều hũ, nhiều bình, nhiều ca nhựa dấu kỹ ở các gốc cây, bụi cỏ, xó hè … Chúng tôi đã tháo hoa sen, rót nước vào hũ, bình, ca. Tôi không quên mình đã bị Tư Long cúp nước khốn khổ ở khu FG, Chí Hòa.
Sau vụ Hà Nam Ninh, có thêm hai đợt tù nhân trúng xổ số nữa. Bấy giờ là tháng 7-1981. Sáu mươi tù nhân đã trải qua 5 tháng kỷ luật vì những « đầu óc lớn » họ còn tin tưởng người Mỹ. Nước Mỹ đã có 3 tổng thống từ 30-4-1975. Gerald Ford tuyên bố bán cái « Lịch sử đã sang trang ». Jimmy Carter hò hét, phất lia ngọn cờ Nhân quyền. Ronald Reagan, tay chống Cộng chuyên nghiệp số 3 sau Goldwater và Nixon. “Au Vietnam, rien de nouveau”! Các nhà tù, các trại tập trung khổ sai lao động mà đa số tù nhân là sĩ quan quân lực VNCH, là sĩ quan cảnh sát, là sĩ quan tình báo, là các viên chức, nghị sĩ, dân biểu trong các cơ cấu quốc gia, là “đồng minh” của Mỹ; phần còn lại là tù nhân Việt Nam cùng lý tưởng với Mỹ, chiến đấu cho dân chủ, tự do sau 30-4-1975, không có gì mới cả. Tuyệt nhiên không có gì mới cả. Ngọn cờ nhân quyền của Jimmy Carter chỉ là ngọn cờ giấy. Chỉ là cái mỏ con ó. Và tù nhân đã chán chường con ó.
Con ó bảo mỏ mình thôi nhọn quắt
Và con gấu khoe chân mình cùn nanh vuốt
Nhưng loài người vẫn bị mổ mắt, vẫn bị cấu cào
Ta thì vẫn nằm dài trong những đề lao
Khi Jimmy Carter phất cờ Human Rights, Sài gòn có nhiều người Việt Nam phất theo. Những người này bị Cộng Sản còng tay bằng Iron made in USA viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa bởi chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ. Tôi không tin người Mỹ từ ngày tôi cầm bút, tôi không mảy may hy vọng người Mỹ cứu dân tộc tôi sau khi đã dâng hiến dân tộc tôi, như miếng mồi, tận miệng Cộng Sản. Tôi muốn quên người Mỹ như quên con quái vật trong chiêm bao. Nhưng tôi vẫn phải nhớ người Mỹ qua hình ảnh chiếc còng made in USA đã còng tay, còng chân tôi từ nhà tôi đến các nhà tù, các trại tập trung. Còng made in USA ám ảnh tôi. Tôi đã nghĩ một bài diễn văn không bao giờ được đọc trước Quốc hội Hoa Kỳ, những ngày tôi nằm ở FG Chí Hòa. Bài diễn văn này tôi viết ở trại tị nạn Pulau Bidong.
“Thưa quý vị nghị sĩ và dân biểu Mỹ, đại diện cho lương tâm của hai trăm mười sáu triệu nhân dân Hiệp chủng quốc,
Thật là một hân hạnh lớn lao cho tôi, được vào tòa nhà thiêng liêng này và được thưa chuyện với những con người cao cả của nước Mỹ, những con người sắp trở thành, sẽ trở thành những vĩ nhân không những của riêng nước Mỹ mà còn của cả thế giới, những con người mà tay dơ cao biểu quyết hay buông thấp khước từ là một nửa trái đất no hay đói, chiến tranh hay hòa bình, thắng hay bại, hạnh phúc hay đau khổ, bỏ nước chạy trốn như bầy vịt hay ở lại sống đoàn viên. Chính quý vị, những người đầy phép tích, đầy quyền uy, lương tâm của hai trăm mười sáu triệu dân Mỹ, đã vung cánh tay thần tiên, biến quê hương Việt Nam của chúng tôi thành một đại dương nước mắt. Tôi phải thành thật bày tỏ tấm lòng cảm phục của tôi với quý vị, những nhà ảo thuật đổi trắng thay đen trứ danh bậc nhất từ thuở có nền ảo thuật trên hoàn cầu. Tôi càng cảm phục hơn về tấm lòng trắc ẩn của quý vị, lương tâm của nước Mỹ, đã chẳng thèm lý tới hàng ngàn bộ xương của các chiến sĩ anh dũng Hoa kỳ không bao giờ biết thua trận còn nằm ngổn ngang đó đây ở bờ bụi Việt Nam. Sau hết, tôi vinh tôn sự khiêm tốn của quý vị, sự hiếu hòa tối đa của quý vị, những con bồ câu hiền lành hơn cả bồ câu, những chú nai ngoan hơn cả nai, đã tình nguyện thua trận ở Việt Nam mà chẳng cần đau xót, nhục nhã, xấu hổ. Theo tinh thần Đông phương, quý vị đã đạt rồi, đã là chính nhân quân tử rồi vậy. Và theo tinh thần nhà Phật, quý vị đã ngộ. Thua cái đáng thua ấy là thắng. Thắng cái không đáng thắng ấy là thua. Quý vị thông hiểu nghĩa sinh sát của nhà Phật một cách sâu sắc. Những anh lính Mỹ khù khờ, đần độn chết khốn nạn ở Việt Nam là đáng đời. Vì trót dại đòi thắng, thắng nữa, thắng mãi. Những ông đại sứ cuốn cờ chạy bán sống bán chết cũng là những anh mê muội, xuẩn ngốc, cao ngạo, sống ở phương Đông mà không thèm nghiên cứu triết lý sống của cổ nhân Đông phương. Một lần nữa, nhân danh người Việt Nam chống Cộng Sản không cần bàn tay quý vị dơ lên tụt xuống quyết định số phận của dân tộc tôi, tôi xin biểu dương quý vị, lương tâm của nước Mỹ, người khổng lồ đã hoan hỉ thua chú tí hon.
Thưa quý vị,
Tôi trốn khỏi ngục tù Cộng Sản sang đây không phải để xin quý vị thương xót ban cho chút hạnh phúc định cư tại Mỹ, xin được nhập quốc tịch Mỹ. Cũng không sang đây để, bắt chước ông Thân Bao Tư, người nước Sở, quỳ gối giữa sân Tòa Bạch Ốc, xin quý vị đem quân sang lần nữa giải phóng chúng tôi. Tôi sang đây chỉ để trình bày một vấn đề liên quan tới lương tri của hai trăm mười sáu triệu nhân dân Mỹ. Sau đó, tôi sẽ trở về quê hương tôi, sẽ vào tù nữa. Ngục tù đối với chúng tôi nó còn đơn giản hơn tự do, dân chủ đối với quý vị. Cách đây mấy năm, ông Gerald Ford, vị tổng thống bất hủ của lịch sử hiện đại Hoa kỳ, nhìn cái quyền uy cuối cùng của nước Mỹ ở Việt Nam rơi vào tay quân Cộng Sản, đã thản nhiên tuyên bố với nhân dân Mỹ, quân đội Mỹ và thế giới rằng, lịch sử đã sang trang. Lịch sử thua trận ở Việt Nam của người Mỹ không hề biết thua trận đã sang trang, sang rất vội vàng. Mọi bí ẩn của nó, đời sau sẽ rõ. Chúng tôi không phàn nàn gì cả. Một cô gái quê lên tỉnh gặp tú bà, sở khanh, chỉ biết trách mình ngu ngơ khờ khạo. Thế thôi. Lẽ phải luôn luôn nằm trong tay những kẻ táng tận lương tâm. Tôi chẳng có gì phải hậm hực. Người Mỹ rút khỏi Việt Nam để lại rất nhiều cặn bã. Cộng Sản nó bảo quý vị đưa chúng tôi về thời kỳ đồ đá. Nó bài trừ ảnh hưởng văn hóa đồi trụy và tư tưởng của quý vị rất kỹ. Chiến dịch và chiến dịch. Việc của nó không ăn nhằm gì tới tôi cả. Cả những đứa trẻ con lai Mỹ đen, Mỹ trắng còn vất vưởng ở Sài gòn, ngày đi ăn xin, lượm giấy vụn, đêm họp nhi đồng, nhận Hồ Chí Minh là bác, cũng không ăn nhằm gì tới tôi. Cái đáng nói, đối với chúng tôi, những người trực diện chống đối Cộng Sản không cần nhận quý vị là đồng minh, là những cái còng made in USA mà khi cuốn gói khỏi Việt Nam, quý vị đã quên không di tản.
Thưa quý vị,

Tôi xin phép quý vị để được nói đôi chút về sự liên hệ của chúng tôi với người Mỹ và những cái còng. Vâng, người Mỹ, chúng tôi, kẻ thù, còng khóa chỉ là những con đô-mi-nô tội nghiệp. Lục ngũ phải dính với ngũ tứ, ngũ tứ phải dính với tứ tam vân vân… Cái chủ thuyết domino thật trứ danh. Nó là trò chơi của tư tưởng. Nó có luật giết bò, gài triệt, triệt buộc… Dĩ nhiên, nó còn có cả gian lận, chạy làng nữa. Chúng tôi vốn đôn hậu, hồn nhiên, ngây thơ và nồng nhiệt. Theo tiếng gọi tân biên cương và quyền sống con người trên trái đất của cố tổng thống Kennedy, chúng tôi lớn lên, phóng tầm mắt nhìn sang nước Mỹ như nhìn hạnh phúc của dân tộc mình sau một trăm năm buồn tủi. Cái lý tưởng tự do, dân chủ của Hiệp Chủng Quốc đã hấp dẫn thế hệ chúng tôi, đã thúc dục chúng tôi móc trái tim dâng hiến sự nghiệp xây dựng tự do, dân chủ. Như những chiến sĩ Mỹ đã anh dũng hy sinh tại Việt Nam, chúng tôi không cần tiết kiệm xương máu. Cho tới phút này, hình ảnh người lính thủy Mỹ cuối năm 1954 vẫn là hình ảnh ngoại nhân đẹp nhất đối với chúng tôi. Chúng tôi đã nhìn chính sách của nước Mỹ ở Việt Nam như đã nhìn lính thủy Mỹ thật thà, dễ thương xuất hiện trên vỉa hè Sài gòn năm xưa. Bất hạnh cho chúng tôi là chính sách của quý vị đã không giống hình ảnh người lính thủy cuối năm 1954, càng khác xa chính sách của quý vị ở ngay nước Mỹ. Chúng tôi già nua trong nỗi thất vọng và những dâu biển của thời thế do quý vị tạo ra trên quê hương chúng tôi. Tôi vẫn để dành những giọt nước mắt khóc những người lính Mỹ bỏ xác tại Việt Nam. Hôm nay, tôi xin được khóc thương họ trước mặt quý vị, vì tôi biết quý vị đã quên họ. Nước mắt cho những con người chết cho lý tưởng giả dối và cho sự lừa gạt của con người trên trái đất. Nhưng quý vị, quý vị luôn luôn cao cả, luôn luôn là ngọn đuốc sáng biểu tượng lương tri của dân tộc Hoa kỳ, luôn luôn là thứ quyền uy vô địch kể từ nhân loại có quyền uy.
Thưa quý vị,
Bây giờ, tôi xin trở lại chuyện những cái còng viện trợ Mỹ. Xin thưa với quý vị rằng, tháng năm nằm trong cachot của Cộng Sản, tôi chợt nhớ hai bàn tay thân hữu nắm chặt lấy nhau gắn bó tình nghĩa viện trợ Mỹ các nước trên thế giới. Cái emblème quý vị chọn lựa thật là thấm thía. Bàn tay của quý vị lớn, khỏe, quý vị bắt chặt, siết chặt thân hữu các nước nhỏ thì các nước nhỏ chỉ có trợn mắt, lè lưỡi mà thôi. Ý nghĩa thấm thía nữa là hai bàn tay trao và nhận viện trợ hôm nay, sẽ là hai bàn tay còng và bị còng ngày mai. Ở Việt Nam, Cộng Sản chơi rất bẩn. Nó cứ còng chúng tôi bằng còng Mỹ. Nó hô hào tận diệt mọi tàn tích của đế quốc Mỹ nhưng nó đã “nuôi dưỡng” còng Mỹ. Tôi không hiểu tại sao kỹ nghệ và văn minh chế còng của Cộng Sản tối tân hơn của Mỹ mà nó lại suy tôn còng Mỹ quá đáng thế. Đó là vấn đề tôi phải bơi thuyền gỗ, lênh đênh trên mặt đại dương, đương đầu với bao nhiêu hiểm nguy để sang nước Mỹ phỏng vấn quý vị, sau nhiều năm luân lạc khắp các đề lao, các trại tập trung. Tôi phải bán cái nhẫn kỷ niệm cuối cùng mới đủ tiền mua vé xuống thuyền trốn khỏi Việt Nam. Như những thuyền nhân bất hạnh khác, tôi bị hải tặc hãm hiếp bảy lần, bị đói khát mười ngày ròng rã và, sau hết, trầy bả vai, nhỏ máu mắt mới vô được nước Mỹ thiên đường. Để lên Thiên Đường, quý vị linh mục chỉ cần làm sáng danh Chúa. Để vào nước Mỹ, quý vị linh mục cần có thân nhân ruột thịt ở Mỹ làm ở RMK, Pacific hay… đi lính! Tôi vô thiên đường Mỹ nhờ dạy học dưới chế độ quý vị bảo trợ. Nhưng tôi sẽ trở về quê hương đau khổ của tôi như Lưu Thần, Nguyễn Triệu đã trở về quê hương trần thế lầm than sau một lần dại dột cất bước lên thiên thai. Người trên thiên thai trái tim bằng gỗ, không biết rung động, không biết yêu, không biết xấu hổ. Tôi hy vọng quý vị sẽ chẳng làm tôi tiếc rẻ cái trinh tiết còn lại đã bị ô uế trên mặt biển, khi trở lại Việt Nam.
Thưa quý vị,
Chúng tôi, khi bị còng dính chùm với nhau, đã bàn cãi sôi nổi về những biểu quyết của quý vị về ngân sách, tài khoản viện trợ cho Việt Nam. Bạn tôi bảo, quý vị toàn là những người xuất thân từ Harvard, từ Yale, từ Cornell, từ Darmouth…, những nơi quy tụ tinh hoa của trí thức, những nơi mà trí tuệ nước Mỹ sẽ tỏa khắp năm châu, mở đường khai lối tự do, dân chủ cho loài người. Những người cao cả như quý vị không thể, không bao giờ biểu quyết chấp thuận viện trợ dùi cui và còng cho bọn thống trị độc tài, phát-xít bản xứ. Bạn tôi bảo, quý vị chỉ chấp thuận cho chính phủ Mỹ viện trợ thuốc DDT giết muỗi, thuốc khai quan giết cây, hại rừng, tàn sát môi sinh, bom đạn giết người, lựu đạn mửa, khói cay đàn áp tuổi trẻ xuống đường học tập dân chủ và chính sách tham nhũng riêng cho lũ tướng tá thống trị bù nhìn vơ vét mồ hôi của dân, xương máu của lính. Không bao giờ quý vị chấp thuận viện trợ dùi cui và còng. Trí tuệ nhà nước Mỹ không bao giờ là dùi cui và còng. Bạn tôi bảo thế. Và chúng tôi hoàn toàn đồng ý. Thế nhưng, tại sao dùi cui và còng Mỹ lại ngổn ngang khắp đất nước Việt Nam? Chẳng lẽ chính phủ Mỹ dám qua mặt Quốc hội? Những cái dùi cui Mỹ viện trợ đã giáng xuống nhiệt tình và lòng tự phụ của tuổi trẻ Việt Nam ra sao, quý vị đã đọc trên báo chí Mỹ. Còn những cái còng Mỹ viện trợ thì để còng tay Cộng Sản và còng luôn cả tay những người chống Cộng Sản, đồng thời cũng chống luôn tập đoàn thống trị quân phiệt ngu dốt và ăn cắp. Nếu từ trước tới nay, quý vị chưa hiểu bí mật của còng Mỹ thì, bây giờ, quý vị đã hiểu tại sao những người trí thức chân chính bản xứ không ưa người Mỹ.
Thưa quý vị,
Có hàng ngàn vấn đề cần đặt ra để thắp sáng lương tri dân tộc Mỹ nhưng, rất tiếc, không thuộc phạm vi bài diễn văn của tôi hôm nay. Tôi sang đây không làm công việc than vãn, trách móc hay cầu cạnh. Lịch sử, như ông Ford nói, đã sang trang. Người Mỹ không thích lần dở quá khứ, không thích phục hồi dĩ vãng. Những kẻ còn ôm cái ảo tưởng bám chân người Mỹ về giải phóng quê hương, thâu tóm quyền bính cũ là những kẻ xuẩn ngốc đang chiến đấu với hư mộng. Chúng tôi khẳng định với quý vị rằng, chúng tôi không cần người Mỹ trở lại Việt Nam. Một lần đã đủ chua xót. Hãy để chúng tôi yên lặng ngồi liếm vết thương và làm lại quê hương chúng tôi. Lịch sử đã sang trang, thật sự đã sang trang rồi. Hiện tại là khởi sự những trang lịch sử mới của dân tộc chúng tôi chiến đấu cô đơn với Cộng Sản, chiến đấu bằng trái tim, không bằng súng đạn Hoa kỳ. Có một thứ quyền trên cả nhân quyền và thần quyền. Đó là quyền hy vọng. Chúng tôi hy vọng sẽ loại bỏ Cộng Sản như tổ tiên chúng tôi đã loại bỏ quân thù truyền kiếp. Nhưng, trước khi dấn thân vào sự quyết liệt, tôi tưởng nên gỡ nốt cái móc làm sự sang trang của lịch sử hiện đại Hoa kỳ thiếu suông sẻ. Vâng, tôi xin tiếp tục đề cập cái còng Mỹ. Còng Mỹ, nói rõ rệt, còng chế tạo tại Mỹ, do Mỹ viện trợ cùng với bột DDT, sữa hết chất béo, phó mát thừa, quần áo cũ, thuốc khai quang, bom đạn và cố vấn lãnh đạo đàn áp, đã còng tay còng chân những người Việt Nam đối lập các chế độ ở nước tôi do quý vị nặn ra rồi đạp đổ. Những người Việt Nam bị còng Mỹ siết chặt đều là những người nghe răm rắp tiếng thúc dục tranh đấu cho lý tưởng tự do, dân chủ của người Mỹ vĩ đại Kennedy. Còng Mỹ được trao cho đầy tớ Mỹ để nó phản bội lý tưởng của vĩ nhân Mỹ. Rốt cuộc, tình nghĩa Mỹ trao gửi Việt Nam đã bị còng luôn! Nghĩ cũng buồn.
Thưa quý vị,
Càng buồn hơn, còng Mỹ đang được Cộng Sản trao cho cái sứ mạng còng tay, còng chân những người Việt Nam chống Cộng Sản một mình, những người Việt Nam còn say mê lý tưởng tự do, dân chủ, còn nhìn ông Kennedy như ngọn đuốc soi đường. Có lẽ, quý vị phải mở cuộc điều tra tường tận về con số còng chính xác viện trợ cho Việt Nam hai mươi năm trước. Nhiều người quá khích cho rằng, người Mỹ rút khỏi Việt Nam, để lại toàn bộ còng, khóa, dùi cui là có mục đích xấu xa. Tôi không tin thế. Thật lòng, tôi không tin thế. Luôn luôn, tôi nhìn dân tộc Mỹ qua các văn hào Mỹ, các vĩ nhân Mỹ. Tâm hồn đích thực của dân tộc Mỹ là tâm hồn Lincoln. Ngoài tâm hồn ấy là chính sách của Mỹ đối xử với các nước nhỏ. Tôi yêu dân tộc Mỹ, người Mỹ và thù ghét chính sách Mỹ ở nước tôi như tôi thù ghét còng Mỹ đã siết chặt chân tay tôi, bạn bè tôi, đồng bào tôi! Còng Mỹ đang siết chặt chân tay đồng bào tôi và chẳng biết đến ngày nào nó mới chịu nghỉ mệt. Dân tộc Mỹ và quý vị, chắc chắn, không bao giờ muốn dân tộc Việt Nam bị Cộng Sản còng chân tay, tống vào tù ngục bằng còng Mỹ. Bởi thế, thân gái dặm trường, tôi phải chịu nhục nhã trên đường bôn tẩu, sang tận đây để tường trình quý vị những cái còng viện trợ Mỹ còn ngổn ngang khắp các nhà tù, đề lao, trại tập trung của Cộng Sản. Tôi không dám làm công việc tra vấn lương tâm quý vị vì tôi hiểu lịch sử sang trang vội quá nên quý vị cũng quên nhanh quá và nhiều chuyện quý vị chưa kịp nhớ. Vậy, tôi sang đây nhắc quý vị rằng, quý vị cần phải thu hồi toàn bộ còng của quý vị về Mỹ. Thu hồi bằng cách nào, đó là nhiệm vụ, là bổn phận, là lương tâm của quý vị, nằm trong chiến thuật, chiến lược mà tôi không nên biết, không nên hỏi. Người Mỹ đã lên cung trăng đem đá xuống trần gian, người Mỹ sẽ sang Việt Nam mang hết còng Mỹ về nước. Chúng tôi tin tưởng quý vị thừa khả năng.
Thưa quý vị,

Khi những cái còng Mỹ viện trợ Việt Nam còn do Cộng Sản dùng để siết chân tay những người Việt Nam chống Cộng Sản cô đơn, những người Việt Nam chân chính, quả cảm, quyết thắp sáng ngọn đuốc lý tưởng tự do, dân chủ thì lịch sử hiện đại của Hoa kỳ hai mươi năm can thiệp ở Việt Nam chưa sang trang. Khi ấy, quốc hội Mỹ nên đeo một chiếc còng vào cổ tay cầm bó đuốc của Nữ thần Tự do và hoán chuyển thế đứng cho nữ thần yêu dấu. Và, chính phủ Mỹ cũng nên treo một chiếc còng lớn lên đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Hoa kỳ bỏ mình vì lý tưởng tự do, dân chủ ở Việt Nam. “Bởi vì, còng Mỹ còn hoạt động tại các ngục tù Việt Nam là người Mỹ còn có mặt tại Việt Nam. Và vết ô nhục phản bội còn hằn trên lương tâm quý vị, hằn trên lương tri dân tộc Hoa kỳ; còn là lưỡi lê dơ bẩn cắm xuống mồ các vĩ nhân Mỹ, đâm vào trái tim những người lính anh hùng Mỹ đã chiến đấu, đã đổ mồ hôi và máu, đã hiến dâng tuổi trẻ của mình cho ngọn cờ dân chủ và hạnh phúc loài người…”
Bài diễn văn này do cô giáo Nga đọc ở cachot khu A đề lao Gia Định thời gian cô bị còng made in USA còng dính chùm cô với hai cô Lan và Nhi. Nó ở chương thứ năm của Sỏi đá ngậm ngùi 1. Tôi không tin Mỹ cứu tù nhân cải tạo, cứu dân tộc tôi. Tôi chỉ muốn bắt họ sang Việt Nam thu nhặt hết còng Mỹ đem về Mỹ. Cái ảo tưởng Mỹ cứu, Mỹ sẽ can thiệp chuyện Việt Nam đã đưa vô số người vào tù Cộng Sản và đưa vô số tù nhân vào nhà kỷ luật của trại tù. Nằm buồn tênh ở nhà kỷ luật, vẫn còn tù nhân hỏi tôi: “Có nghe BBC nói gì về vụ này không?” Chẳng muốn để anh ta tuyệt vọng, tôi đáp: “Yên chí, họ sẽ nói”. Những thằng ngu đưa dân tộc của chúng nó vào ngục tù Cộng Sản, rồi đổ vạ Mỹ không dạy mình giữ nước, không viện trợ đều đều. Thêm những thằng ngu tin tưởng Mỹ cứu, đưa bạn tù của chúng nó vào nhà kỷ luật chịu đựng trăm đắng nghìn cay một cách lãng nhách.

18/6/2016
Duyên Anh
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...