Thứ Bảy, 29 tháng 7, 2023

Trại tập trung 2

Trại tập trung 2

CHƯƠNG 7
Tháng 8-1979, tôi bị biên chế sang Đội 28 nông nghiệp. Thời gian này, Bộ Quốc-phòng đã giải-tán hết các trại lao-cải ở miền Tây và giao tù-nhân cho Bộ Nội-vụ quản-lý. Tù-nhân trại lao-cải Vườn Đào thuộc huyện Cai Lậy được đưa lên miền Đông. Sa Ác A và B tiếp-nhận. Thực ra, công-an đã quản-lý tù-nhân từ năm 1978. Cũng thời-gian này, Sa Ác đã xây-dựng xong khu C. Sa Ác A, B và C gồm khoảng 5000 tù-nhân chính-trị và hình-sự. Vườn Đào đa-số là sĩ-quan Hoà Hảo đồng-hoá. Họ không tốt-nghiệp ở trường võ-bị nào cả. Kiến-thức của họ rất thấp và tác-phong của họ xô-bồ. Vừa mới đến, họ đã đánh nhau trong lúc chia cơm canh. Vài hôm sau, có tin do Đội lâm-sản truyền: Vườn Đào bị Suối Máu trùm chăn đục thê-thảm ngoài khu A, có người bị cắt tai cảnh-cáo vì tội “ăng-ten” trại cũ. Á chà, câu chuyện được thêu dệt đầy đủ chi-tiết. Anh-hùng nhẩy dù Suối Máu đã ghi những trang ngục-sử tuyệt-vời! Bác-sĩ Thạch ra khu A lấy thuốc, trở về “cải-chính tin đồn”. Không có gì cả. Khu A hoàn-toàn yên lặng. Cách một quãng đường dài 2 cây-số, tù tung tin chẳng hay ho gì cho tù. Tuần-lễ sau, Phước Long đổ về Sa Ác. Long Thành, Vườn Đào, Phước Long được chuyên-chở bằng xe đò. Xe chạy trên con đường do Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao kiến-tạo. Phước Long về làm sinh-động Sa Ác B. Từ đây, một hàng rào kẽm gai ngăn đôi biên-giới Hình-Sự và Chính-Trị. Hình-sự bị cấm-chỉ vượt biên-giới. Hai ông bác-sĩ Long Thành, một được tha, một bon chen ra khu A trụ-trì phòng Y-tế. Trước đó, 10 tù-nhân Long Thành đã về “sum họp gia đình”. Từ tháng 11-1978 đến tháng 7-1979, Sa Ác B mới có 11 người cầm giấy ra trại. Những người này đều trình diện học tập cải-tạo 10 ngày hồi tháng 6-1975. Vị bác-sĩ Long Thành còn kẹt ở trại đã lừng danh Long Thành. Ông ta củng-cố địa vị bác-sĩ tù bằng cách khuân cả tivi, tủ lạnh nộp cho Giám-thị Ba Tơ. Ông ta gạ-gẫm đưa Ba Tơ về Sài gòn, dẫn Ba Tơ đi ăn chơi và đưa Ba Tơ về nhà mình, dúi cho Ba Tơ mớ bạc để ông ta được làm tình với vợ! Như thế cũng bình thường thôi. Ai khéo xoay sở, người ấy sung sướng. Nhưng xoay sở cái trò bịa đặt khám bệnh hoa -liễu cho nữ tù, bắt nữ tù cởi truồng để Ba Tơ và bọn cai tù coi “chiếu bóng” thì ông bác-sĩ bỉ-ổi hơn Cộng-sản. Ông ta là quốc-gia đấy, đảng viên Đảng dân-chủ đàng-hoàng, Tỉnh-ủy chứ bộ! Hãy nghe một nữ tù Long Thành phát-biểu ý-kiến về đám quốc-gia bẩn.
“Con Lan-xì-ke thở dài:
- Chị đã từng nghe về giòng họ Đặng Vũ chưa.
Chị tự trả lời:
- Giòng họ khoa-bảng đấy, thủ-khoa bảng đần-độn, ích-kỷ. Tôi đã khước-từ nó từ lâu. Bây giờ tôi là “con bà phước”. Có người đi tìm hiểu mặt tốt của đời sống, tôi đi tìm mặt xấu. Rồi tôi vào tù vì tôi xấu. Ở tù, tôi bỗng thấy tôi tốt. Và cái tốt mà người ta rêu-rao chỉ là cái đốn-mạt, hèn-hạ. Nếu chị đến sớm vài tháng, chị đã gặp đủ mặt viên-chức thư-lại của chế-độ cũ. Bọn đàn ông ấy nhát như cáy, ngoan như cừu. Họ có vẻ hãnh-diện vì mình tình-nguyện vào tù chứ không bị bắt bỏ tù như chúng ta. Luôn luôn họ nói họ “trình-diện học tập”. Những ông chánh-án, ngày xưa, ngồi xử chúng tôi đủ các thứ tội, nay tranh giành nhau đổ cứt rửa cầu tiêu để đỡ lao-động vất-vả. Tranh giành đổ cứt và chửi bới nhau vì đổ cứt hụt! Những ông nghị-sĩ, dân-biểu, dân kêu ngàn lần không lên tiếng nhưng Cộng-sản nó gọi nhỏ đã dạ lớn rồi, dạ ngay lập tức. Bác-sĩ thì hục-hặc nhau chui vào phòng Y- tế cho đỡ chân lấm tay bùn, dâng mưu hiến kế cai ngục hãm hại tù-nhân...
Con Lan-xì-ke buồn-bã hỏi tôi:
- Ở thời đại của chúng ta, có thằng thư-lại nào dám làm cách-mạng không, chị?
Tôi đáp:
- Bản-chất của thư-lại là cầu an, ù-lỳ, làm cách-mạng sao nổi!
Con Lan-xì-ke phá ra cười:
- Vậy mà vào tù, bọn thư-lại cứ dọa giải-phóng đất nước. Tôi chửi chúng nó, chúng nó vu tôi đủ tội. Tôi nghĩ, bây giờ, tôi có quyền xử những đứa đã xử tôi”. (Sỏi Đá Ngậm-ngùi – Nam Á Paris, 1985)
Cũng bằng cung-cách hối-lộ, nịnh bợ Giám-thị Hiểu, ông bác-sĩ giã-từ Đội 21 nông-nghiệp ra khu A. Thẩm-phán Đào Minh Lương đã mất nửa lá phổi vì ông bác-sĩ này cúp tiêu-chuẩn cơm trắng và… tiết-kiệm Strepto cho Cộng-sản. Ông ta ra đi, tôi đỡ bị nghe ông thổi harmonica, đỡ bị ông ta than-phiền bỏ hạt ngô xuống lỗ mỏi lưng. “Trí thức của chúng ta cứ nằm trong tháp ngà, cứ trùm mền hưởng-thụ đâm ra lười biếng, sợ khó sợ khổ. Nên, khi đụng vào nghịch-cảnh của đời sống thì không dám đương đầu, thì ngớ-ngẩn và hèn-mọn”
Về Đội 28 nông-nghiệp, tôi thoát hầm phân. Cái động vang dội của trại tập-trung mà sau này, nhân-vật tiểu-thuyết của tôi từ cái tĩnh của nhà tù ra đã có ý nghĩ: “Trong bóng tối, ta chỉ nhìn thấy ta. Ngoài ánh sáng, ta sẽ nhìn thấy mọi người. Tôi vừa mở mắt: Không có nỗi khổ nào hạng nhất, nỗi khổ nào hạng bét. Nỗi khổ là nỗi khổ. Nỗi khổ trong bóng tối và nỗi khổ ngoài ánh sáng. Thế thôi. Tôi đã thấm nỗi khổ trong bóng tối. Tôi sẽ thấm nỗi khổ ngoài ánh sáng. Tôi bước xuống. Rờn rợn. Bốn năm ròng-rã gắn liền đời mình bên xô cứt, tôi đã quen. Nhưng cái hầm phân này thì thật là ghê rợn. Gọi nó là đầm phân mới đúng. Chân tôi chới với, lún sâu dần, sâu dần. Khi bàn chân đụng đáy hầm, phân đã ngập sát háng tôi. Trên miệng hầm, bạn tù ròng cái xô xuống. Tôi vục đầy xô. Bạn tù kéo lên. Nửa thân thể ngập phân, tay dính đầy phân. Tôi đứng trong phân, trong sự ưu-việt của chủ-nghĩa Cộng-sản hàng tiếng đồng hồ không thèm đếm xỉa tới hàng tỉ con ròi lúc nhúc”.
Sang Đội 28 nông-nghiệp với tôi, có ông già Hoán. Đội 17 rau xanh cũ của tôi là “thí-điểm” của đoàn-kết anh em, của thương yêu bố con. Nhưng mà ngụp lặn giữa vũng lầy thống-khổ, tình phụ-tử nghĩa huynh-đệ đã chẳng chịu ngoi lên, còn lún sâu xuống. Ba anh em ruột thịt nhà thằng Lợi đấm đá nhau, chửi bới nhau, ăn riêng. Hai bố con ông Quản ăn riêng. Ông Quản đục cậu Học. Cậu Học đưa bố ra đội. Đội không giải-quyết. Thầy quản-giáo giải-quyết giùm. Thế là bố một bị thăm nuôi, con một bị. Bố ca, con cóng. Mỗi người một mâm. Con rể Thanh hục-hặc bố vợ Hoán. Cũng ăn riêng, thăm nuôi riêng. Chỉ còn anh em thằng Huỳnh thuộc “con bà phước” nên vẫn thắm-thiết. Lý-do ăn riêng chính-đáng nhất là bố chửi con “Mày chống Cộng, chọc cứt không thành lỗ làm liên lụy tao”, con cằn-nhằn bố “ông chẳng biết lãnh-tụ là thằng nào mà cũng tham-gia để tôi bị bắt oan”.
Lãnh-tụ chống Cộng thứ thật sau 30-4-1975 không có, không hề có. Nếu có thì chỉ là sinh-viên, học-sinh Sài gòn và các thành phố. Và tôi gọi chung là Tuổi Trẻ. Và tôi đã vinh-tôn Tuổi Trẻ Việt Nam ở Sỏi đá ngậm ngùi, Bầy sư-tử lãng-mạn, Hồn say phấn lạ. Những người tuổi trẻ của tôi đã lên đường từ sau 1-5-1975. Họ dấy động cuộc chiến-đấu mới. Cộng-sản sợ hãi. Lập tức, Mai Chí Thọ nặn ngay 52 “lãnh-tụ”. Trùm công-an miền Nam dùng Trần Xuân Ẩn, Đỗ Hữu Cảnh đi tìm người chống Cộng và phong làm lãnh-tụ. Thế là Sài Gòn có hàng chục nội-các, hàng trăm Sư-trưởng phục-quốc vốn là Trung-sĩ, Thượng-sĩ của Quân-lực Việt Nam Cộng Hòa, hàng ngàn lãnh-tụ chống Cộng. Có cả triều-đình nữa. Quốc-vương là anh bán thịt chó. Quốc-vụ-khanh là anh thợ hớt tóc. Đầy đủ “phản-động” của 52 tổ chức chống Cộng ở Sa Ác B. Mai Chí Thọ giăng bẫy, bắt gọn. Niềm tin chống Cộng bị Mai Chí Thọ đâm chảy máu. Dân chúng đang hăng say bỗng chùn lại vì nghi-ngờ. Lãnh-tụ chống Cộng lớn nhất Đỗ Hữu Cảnh lại là trung-úy công-an Ba Sơn. Mai Chí Thọ diệt niềm tin chống Cộng là chuyện hợp-lý. Bởi ông ta là lãnh-tụ Cộng-sản. Những tên nhập-nhằng chống Cộng ở hải-ngoại, mượn chiêu-bài kháng-chiến, móc đô-la của lưu-dân như ông Mặt-trận và công-ty của nó mới không hợp-lý. Nếu hợp-lý thì chả là sự tiếp tay Mai Chí Thọ hủy-diệt nốt niềm tin chống Cộng ở những nơi chốn không có trại tập-trung khổ-sai lao-động. Khi niềm tin bị lừa gạt, tinh-thần “phản-động” sa-sút và nó biến-chứng đủ thứ tật. Thí dụ ông già Hoán tuyên-bố từ con rề Thanh. Thí dụ con rể Thanh lên án bố vợ Hoán “phản-bội tổ-chức”, vân vân…
Công việc của tôi ở Đội 28 nông-nghiệp là hạ những cây lớn và bứng gốc cây mà thân còi chồi cao lên mặt đất.
Chúng tôi chuẩn-bị đất canh-tác. Quản-giáo Đội 28 là ông nhóc 18 tuổi, tên Thưởng. Đội-trưởng là phi-công già Trần Ngọc Lân. Đội-phó là Huỳnh văn Vàng, an-ninh quân-đội. Dụng-cụ hạ cây của tôi là dao cùn và cuốc, xẻng. Hai tù-nhân đặc-trách một thân cây hay một gốccây Chúng tôi đã hạ cây rừng như thế nào? Trước hết, tùy theo cây lớn, nhỏ, chúng tôi dùng cuốc dẫy cái vòng tròn lớn, nhỏ chung quanh gốc cây. Cây càng lớn, vòng tròn càng lớn. Chúng tôi cuốc đất, bới đất cho lòi lớp rễ thứ nhất. Thế rồi thằng chặt rễ sát gốc cây, thẳng chặt rễ mọc dài sát vòng tròn. Gỡ từng khúc rễ. Giai đoạn hai: Khi chặt đứt lớp rễ thứ nhất, cuốc đất, móc đất cho lòi lớp rễ thứ hai. Lại chặt. Lại cuốc đất, móc đất cho lòi lớp rễ thứ ba. Đất xúc đổ chung quanh vòng tròn. Cây nhiều tầng rễ ngang là cây sao, cây dầu. Chín tầng. Chặt rễ ngang tầng thứ chín, cái huyệt đã sâu, quá đầu chúng tôi. Chúng tôi moi đất chặt nốt cái rễ đuôi chuột. Lúc này phải báo động, vì cây sắp đổ. Nó đổ rầm rầm, nghe dễ sợ. Chúng tôi thản-nhiên ngồi dưới huyệt. Bởi đã biết chiều đổ của cây. Hạ cây bằng-lăng dễ nhất. Nó chỉ có ba, bốn tầng rễ ngang và không có rễ chuột. Bứng gốc cây cũng theo phương-pháp này. Gốc nhỏ thì khiêng đi. Gốc lớn thì liệng gốc nhỏ xuống huyệt, chất củi và mồi nổi lửa cho cháy ra tro. Mỗi lần san-bằng một gò mối vạn-niên hay hạ đổ một cây cổ-thụ, tôi khoái lắm. Tôi hiểu được sự chế-ngự thiên-nhiên của con người. Và tôi thấy rõ điều này: Chẳng có gì gọi là vĩnh-cửu, kể luôn cái vĩ-đại nhất, trừ con người và ý-nghĩa sống đẹp-đẽ của nó. Vương-quốc mối kiên-cố giữa rừng già trăm ngàn năm, đâu ngờ, có ngày bị tù-nhân lao-cải san-bằng, thò ngón tay chộp Mối Chúa, bỏ vô miệng, nuốt trửng. Cái ảo-vọng “vĩ-đại” và “sống mãi” xem chừng đã lố-bịch.
Hạ cây, bứng gốc cây, san gò mối là công việc của tôi. Nhờ vậy, tôi đã đào được dao cạo râu, nước ngọt Coca Cola, Sprite, lương khô mà lưỡi đã sét, hộp đã rỉ, bao da mủn. Quân-đội Úc đã “kích” vùng này. Họ đã nằm ở đây để vồ Việt cộng. Ghê thật, Kangourou dám vào tận sào-huyệt đối-phương. Gần hiện trường lao-động của Đội 21 có một hố bom thật lớn, thật sâu. Chúng tôi đã tắm ở đây mùa mưa. Cách hố bom khoảng 30 thước là cửa một cái hầm bí-mật còn đầy áo mưa ni-lông khô cứng. Trái bom của người lính tầu bay nào suýt nổ sập hầm bí-mật. Chắc chắn, nó đã làm vỡ mật Việt cộng núp dưới hầm.
Tôi sống thoải-mái ở Đội 21, hết bị ròi của hầm phân ám-ảnh.
Đằng Giao làm đơn xin Ban giám-thị cho xuống làm tù-nhân bình thường. Bị ở nhà “làm việc” một tuần-lễ, bị quay đứ-đừ. Rốt cuộc, vẫn phải làm Đội-trưởng. Đội của Đằng Giao thêm hai “nhân-vật”: Hồ Hữu Tường và Lý Quốc Sinh.
Hồ Hữu Tường, cả nước đều biết tên tuổi. Với người miền Nam, ông là nhà “bác vật”. Chúng ta hiểu ông như một chính-trị-gia, một lý-thuyết-gia, một văn-gia. Sau hết, vào những năm trước 1954, nhà văn Tam Ích, muốn coi ông như một học-giả, yêu-cầu ông Hồ Hữu Tường về chỗ ngồi của ông “vì chiếu học-giả mới lơ thơ vài người”. Người đệ tứ quốc-tế, người vượt Mác, người trung-lập- chế, tác-giả Phi Lạc sang Tầu, Thu Hương, Chị Tập, Thuốc tràng-sinh, Người Mỹ ưu-tư… không thích làm học-giả. Năm 1946, nằm trong tay bọn Bon-sê-vích, ông đã tuyên bố “phong kiếm quy ẩn”, giả-vờ bàn chuyện Tương-lai văn-hoá Việt Nam. Rồi ông trốn. Bị lừa, Phạm văn Đồng điên lên, thề bắt được Hồ Hữu Tường sẽ” thiến dái”! Phi Lạc sang Tầu, sang Nga, sang Tây, về Sàigòn, xuất-bản nhật-báo Phương Đông cổ-xúy thuyết trung-lập-chế. Phi Lạc vào Rừng Sát làm quân-sư cho tướng cướp hèn mọn Bẩy Viễn. Phi Lạc bị Ngô Đình Nhu bắt, đầy ra Côn Đảo. Phi Lạc được “cách-mạng thoán-nghịch” giải phóng. Phi Lạc ứng-cử dân-biểu Hạ-viện. Phi Lạc mượn tiền ngân-hàng phát-triển nông-nghiệp nuôi gà. Phi Lạc quỵt nợ. Phi Lạc qua Tây nằm ì, bắt Hạ-viện gửi tiền lương sang mua vé máy bay hồi hương. Phi Lạc mặc áo vàng, đeo xâu chuỗi vô Hạ-viện, bắt đầu cổ-xúy một thứ giáo-hội mới. Sự-nghiệp chính-trị của Phi Lạc chấm dứt từ dạo theo phò Bẩy Viễn và bêu-riếu từ khi làm dân-biểu. Tháng 4-1975, Cộng-sản thôn-tính miền Nam, cả Phi Lạc lẫn Phạm văn Đồng đều già rồi, Đồng quên lời thề “thiến dái” Phi Lạc. Hồ Hữu Tường yên thân. Đầu năm 1977, ông ta lập Đảng nhuốm đầy tính-chất hoang-đường, dị-đoan mê-tín. Ông ta và chúng đệ-tử bị bắt.
Chẳng hiểu vì lý-do gì, đệ tử của ông công-khai tố-cáo ông với các tù-nhân khác. Đệ-tử ông ta oang-oang tố-cáo thì tôi nghe. Cả nhà nghe. Cái bi-hài-kịch đảng-viên tố-cáo Đảng-trưởng đã xẩy ra như cơm bữa ở nhà tù, ở trại lao-cải. Tố-cáo toàn chuyện…ghê-gớm. Như anh thợ hớt tóc mặt rỗ nhằng rỗ nhịt được quốc-vương Thịt Chó phong chức quốc-vụ-khanh, thấy quốc-vương có thăm nuôi khẩm, quốc-vương thắt chặt túi, bị thăm nuôi, mình hút thuốc lá KENT (Không Em Nào Thăm...nuôi) mà quốc-vương chơi trò…ăn riêng. Bèn tủi thân. Rồi phẫn-nộ, lớn tiếng đòi quốc-vương trả lại hai lạng vàng đã đóng cho quốc-vương vì lý-tưởng chống Cộng! Như anh Tiểu-đoàn-trưởng phục-quốc-quân Binh-đoàn Lê văn Duyệt đòi tuyết-hận ngoài đời khi được tha vì Sư-trưởng đã hú-hí với vợ của anh. Như các ông phản-động thì chửi lãnh-tụ đã đưa các ông ấy vào tù, vợ ở nhà no, thăm nuôi lãnh-tụ mập-mạp v.v…. Nền chống Cộng có vẻ thiếu…phẩm-chất. Tất cả không đáng xách dép cho những người tuổitrẻ chống Cộng tôi đã gặp, đã sống với họ ở đề-lao Gia Định và tôi đã gọi họ là Bầy sư-tử lãng-mạn.
Ông Hồ Hữu Tường không nghiện thuốc phiện, không vì thiếu thuốc phiện mà mê sảng, vậy mà ông ta rất mê sảng. Ông ta nằng-nặc xin cống-hiến những môn thuốc dân-tộc. Ông ta ở nhà viết sách thuốc. Ban giám-thị yêu-cầu thuốc kiết lỵ, thuốc ghẻ, ông ta không “sáng tạo” nổi. Thế thì không đạt yêu-cầu. Ông Tường lóc-cóc đi lao-động. Ông đi bộ. Vấp chân té đụng thầy Quản-giáo, thầy Quản-giáo “miễn chấp”, ông Tường vẫn bắt Đội-trưởng Đằng Giao ghi vào biên-bản phiên họp cuối tuần: “Hôm ấy, tôi, Hồ Hữu Tường, trại-viên Đội 21 nông-nghiệp, đi lao-động sơ ý vấp té đụng cán-bộ. Tôi thất lễ, xin nhận khuyết-điểm”. Đằng Giao không cho thư-ký ghi. Ông Hồ Hữu Tường “hạ quyết-tâm” ghi! Con người vượt Mác ấy đã trở thành biểu-tượng của “nhà văn”. Để bọn thư-lại và bọn sĩ- quan văn-phòng chửi rủa tất cả nhà văn phản-kháng chế-độ cũ của chúng nó. Tôi không muốn nhắc thêm ông thẩm-phán già Lý Quốc Sinh, ứng-cử-viên phó tổng-thống. Ông Hồ Hữu Tường, ông Lý Quốc Sinh đã giúp tôi một kết-luận không sợ sai lầm: Những “nhân-vật”, già nua không xài được nữa, dù trong tù hay ngoài đời, trong nước hay ngoài nước. Bọn bình vôi sứt mẻ và đặc khịt này cần liệng ra ngoài lề lịch-sử. Bây giờ đích thực là thời của tuổi trẻ ở mọi lãnh-vực, ở mọi lãnh-thổ.
Sa Ác B, những ngày tôi sống, chỉ có một vụ vượt ngục thành-công. Đó là vụ ba người tù phản-động gỡ mái tôn ra đi một đêm mưa tầm-tã. Ba người này ở đội của Dương Đức Dũng. Vệ-binh truy-nã một tuần không tìm ra dấu vết. Những vụ trốn trại của tù-nhân hình-sự ngoài bãi, bị bắt hết. Dĩ nhiên, trốn trại bị bắt thì chính-trị hay hình-sự cũng đều bị giáng những báng súng tàn bạo. Có một vụ trốn làm tôi cảm-phục vô cùng. Hồi ấy, tôi còn làm Đội-trưởng rau xanh. Buổi sáng hôm đó, trời đầy sương mù. Lợi dụng lúc tan hàng tập thể-dục, người tù hình-sự tên Chuyên, sinh-viên đại-học Vạn Hạnh, leo hàng rào kẽm gai thật nhanh và phóng xuống sông Ray. Vệ-binh trên chòi canh nổ súng. Chúng tôi phải vào nhà hết. Cuộc truy-lùng diễn ra. Súng nổ ầm-ỹ khủng-bố tinh-thần kẻ bôn-đào. Đến lúc kẻng tập họp lao-động, vẫn chưa phát-hiện chỗ ẩn nấp của Chuyên. Khoảng 9 giờ, trời đã hoe nắng và sương mù đã tan, khu rừng bên kia sông Ray gần vườn rau của đội tôi có tiếng súng nổ và tiếng vệ-binh xôn-xao. Người ta đã bắt được Chuyên. Tên cán-bộ Cần, đặc-trách an-ninh, hung-thần của Sa Ác B, chạy nhanh ra bờ sông. Hắn máng giây súng AK trên vai, đứng chờ tù-nhân trốn trại. Tiếng hét của vệ-binh bên kia sông:
- Bò! Cấm đứng dậy! Bò!
Vệ-binh sợ-hãi anh Chuyên, vì anh ta to con. Tôi không nhìn thấy anh Chuyên bò. Đứng trên gò cao, tôi thấy rõ hung-thần Cần sát-khí đằng-đằng chờ đợi. Rồi anh Chuyên bị vệ-binh đạp mạnh rơi xuống sông. Anh ta đứng dậy ngay đưa tay vuốt mặt. Chuyên lội sang bên này. Hung-thần Cần đã gỡ súng AK khỏi vai. Hắn cầm chắc giữa nòng súng. Anh Chuyên vừa lên bờ, hung-thần đã phang anh một báng súng ngang lưng. Anh gục ngã. Đứng rất nhanh, ngẩng mặt:
- Cán-bộ không được phép đánh tôi.
Hung-thần không thèm nghe. Nó đợi anh bước vài bước. Lại đánh. Anh Chuyên vẫn cố đứng thẳng ngẩng mặt:
- Cán-bộ không được phép đánh tôi.
Mỗi báng súng giáng xuống thân-thể anh, Chuyên đều ngã chúi, đều đứng dậy rất nhanh, đều ngẩng mặt nói một câu đã nói. Qua vườn rau của tôi, bạo-lực chùn tay. Hung-thần Cần không đánh anh Chuyên nữa. Anh bị còng chân tại căn nhà mới xây xong. Chính hung-thần Cần săn-sóc anh Chuyên, cho anh ăn tiêu-chuẩn đãi-ngộ, tặng thuốc lá anh hút. Thái-độ can-đảm của anh đã khiến hung-thần cảm-phục. Một tù-nhân duy nhất không bị thi-hành kỷ-luật tội trốn trại. Anh Chuyên được dưỡng sức cả tháng. Hung-thần Cần mở còng cho anh về đội, hai hôm sau. Người tù hình-sự tuyệt-diệu đó đã gây cảm-hứng cho tiểu-thuyết Sông Ray phẫn-nộ của tôi.
Tôi đã viết: Có hai cách trốn trại. Trốn trại ban đêm và trốn trại buổi chiều, ngoài bãi lao-động. Khi tù-nhân rỡ mái tôn hay khoét tường trốn trại ban đêm, Nhà-trưởng, Đội-trưởng và những người ăn cơm chung với tù-nhân trốn trại rắc-rối to. Phải làm tự kiểm và bị chấp-pháp tơi-bời. Khi tù-nhân trốn trại ngoài bãi, súng vệ-binh nổ ba phát báo động. Trực trại đánh kẻng tan lao. Các đội thu dụng- cụ tập họp một chỗ. Ngồi đợi một lúc mới được dẫn về trại. Không tắm, không ca cóng. Vào nhà ngay. Những người khai bệnh nằm nhà, không được lai-vãng ngoài sân. Đang tụ-tập trong sân mà bày trò trốn trại, lại bị một thằng tù khác ôm chặt cứng cho cán-bộ đánh thì chỉ có ông nhà văn-học nghệ-thuật “ăn cắp” vẽ ra theo sự bịa-đặt vừa ngu vừa dốt. Thế gọi là văn-học nghệ-thuật…cao-cấp đấy. Và cũng hì-hục chép hồi-ký ngục tù. Chắc chắn, các trại lao-cải của nhà văn-học nghệ-thuật “ăn cắp” không có ai dám trốn trại. Cho nên, đáy địa-ngục chỉ là “ăn vụng, ăn tranh phần khoai và cháy của heo”. Người ta còn mang cả mối thù nặng những nghìn cân tức là 10 tạ vì bị dồn vào thế “ăn cắp, ăn vụng”. Từ ăn cắp, ăn vụng đến ăn gian nói dối cách nhau một sợi râu Bác Hồ!
Tỷ lệ những người “trình-diện học tập cải-tạo” trốn trại rất là khiêm-tốn. Tỷ lệ những tù-nhân can tội phản-động cũng khiêm-tốn lắm. Nói chung, tỷ-lệ trốn trại của tù-nhân ỏ các nhà tù, trại lao-cải không đáng kể. Với chế-độ hộ-khẩu, chế-độ công-an nhân-dân, chế-độ công-an khu-vực, tù hình-sự có trốn trại rồi cũng bị bắt lại. Trừ phi, trốn trại rồi vượt biên ngay. Trốn đi đâu? Không có một chiến-khu nào cho người trốn trại tìm vào chiến-đấu. Bồn bề hoang-vu, lặng thinh. Giữa rừng già hiu-hắt, chỉ cần một tiểu-đội biệt-kích đã thừa tiêu-diệt đám vệ-binh lau-nhau và giải thoát tù-nhân. Không hề thấy. Tôi đã hàng đêm mơ mộng chuyện quân ta đánh phá trại. Vì tôi đau lòng thấy mấy thằng Việt cộng mặc quần xà-lỏn may bằng cờ vàng ba sọc đỏ. Tù-nhân không dám trốn trại bởi không tìm ra địa-điểm đi tới. Nỗi quạnh-hiu đến não-nề phủ kín quê-hương, có lẽ, chỉ ồn-ào bằng kháng-chiến chiêm-bao, bằng chiến-khu tưởng-tượng của bọn cai thầu lòng yêu nước và đám côn-quan thu thuế lạc-quyên.
Cộng-sản dùng danh từ man- rợ là quản-lý con người. Họ có nghệ-thuật quản-lý con người. Người quốc-gia hải-ngoại chắc chưa bao giờ nghe nói tới một thứ nghệ-thuật gợi tưởng bắt bớ, giam nhốt, tra tấn, thủ-tiêu là nghệ-thuật công-an. Nhà-nước Cộng-sản đã hãnh diện xuất bản tạp-chí Nghệ-thuật công-an đấy. Nghệ-thuật quản-lý con người là không cho con người có cơ-hội nổi loạn. Đừng đánh giá Cộng-sản qua những người công-an coi tù ngọng-nghịu, qua những người bộ-đội ngớ-ngẩn. qua những người cán-bộ khù-khờ. Phải đánh giá Cộng-sản qua chủ-nghĩa của nó, qua lãnh-tụ của nó. Chúng ta cần nhìn rõ đối-tượng đề tiêu-diệt. Đó là bọn ủy-viên Bộ chính-trị và bọn ủy-viên trung-ương Đảng. Và, đằng sau những con bài lãnh-tụ đã lật là những ai còn trong bóng tối. Khi Cộng-sản Việt Nam tung những khuôn mặt mới, chúng ta mới bắt đầu đi tìm hiểu và chúng ta cũng chưa hiểu chính-xác.
Ngược lại, Cộng-sản biết hết chúng ta. Tri-kỷ mà không tri-bỉ thì chỉ có... di-tản, vượt biên. Tri-bỉ mà không tri-kỷ thì chỉ có thuê đất thiên-hạ lập chiến-khu và duyệt binh thiếu xe tăng, tàu bò, đại- bác, máy bay những ngày quân lực… tan hàng. Chúng ta đã viết báo, đã diễn kịch chống Cộng-sản. Chúng ta cho Cộng-sản đội nón cối, răng vẩu, mắt toét, nói ngọng, ngu dốt. Và chúng ta chạy quá dài, quá nhanh, quá xa. Chúng ta lại tiếp tục viết báo- diễn kịch chống Cộng-sản nón cối, giép râu, răng vẩu, nói ngọng, mắt toét, ngu dốt… Võ Nguyên Giáp không ngọng không dốt. Nguyễn văn Linh không dốt, không ngọng.
Lãnh-tụ Cộng-sản Việt Nam không nói “đồng hồ 2 cửa sổ, 12 cột đèn”. Lãnh-tụ Cộng-sản Việt Nam không nói kiểu cai tù chăn trâu cắt cỏ mắng tù-nhân: Nao động thì nề mề, tư-tưởng thì nấn cấn. Chỉ mong ngày nễ nớn. Nễ nớn ăn thịt nợn. Đã cho ăn thịt nợn nại còn đòi ăn nòng. Bố nếu bố náo“… Lãnh-tụ Cộng-sản Việt Nam biết lừa gạt cả thế-giới, biết bỏ đám phản-chiến Mỹ và báo-chí Mỹ vào túi quần… Và biết quản-lý con người. Quản-lý con người đáng ngại nhất. Giải-phóng con người thoát khỏi sự quản-lý của Cộng-sản mới là cách chiến-đấu tuyệt-diệu. Để chiến-thắng. Để tuyệt diệt Cộng-sản trên trái đất. Đề tạo dựng hạnh-phúc vĩnh-cửu cho dân-tộc, cho nhân-loại. Như thế, cần-thiết một chủ-thuyết chế-ngự chủ-nghĩa Cộng-sản và chủ-nghĩa tư-bản là hai chủ-nghĩa đã chỉ tạo ra chiến-tranh, nô-lệ, đói khổ, tù đầy, thù-hận. Cộng-sản và tư-bản đều đã lạc-hậu, bất-lực. Từ hơn một thế-kỷ nay, chúng ta chỉ nhai lại chủ-thuyết của thiên-hạ mà mưu cầu hạnh-phúc cho dân-tộc. Và chúng ta sát hại lẫn nhau cũng vì chủ-thuyết của thiên hạ. Chưa có người Việt Nam lập thuyết. Mỗi chủ-thuyết dấy động phong-ba đều ra đời trong những bối-cảnh lịch- sử nghiệt-ngã. Bối-cảnh lịch-sử hôm nay rất thích-ứng cho một chủ-thuyết nhân-bản ra đời. Các ngài tiến-sĩ tốt-nghiệp đại-học Huê Kỳ sau 1975 đã nghĩ đến chuyện lập thuyết chưa? Hay chỉ biết ngồi ở quán rượu diễn tuồng đố kỵ tài-năng và chửi bới người vắng mặt? Nhớ rằng Marx và Engels lập thuyết ở Đức và Lénine truyền-bá ở Nga. Vậy tiến-sĩ Việt Nam lập thuyết ở Mỹ sẽ có người truyền-bá ở một nơi nào đó thuận-lợi. Tôi sợ đầu óc tiến-sĩ bé tí tẻo, chưa dám nghĩ thuyết nào ngoài thuyết Job. Mà chống Cộng bằng “đả đảo”, bằng “tài liệu”, bằng chưa hề nhìn rõ giép râu 30-4-1975 sẽ nghìn đời không ép- phê. Nhưng lập thuyết và làm tư-tưởng không nằm trong khả-năng và kiến-thức hạng bét của thằng viết tiểu thuyết mưu sinh là tôi. Vậy trở về nghệ-thuật quản-lý tù-nhân của Cộng-sản.
Cộng-sản nắm vững tâm-lý tù-nhân. Cái thứ án gọi là án phạt tập-trung cải-tạo nó bắt tù-nhân không được phép tuyệt-vọng và chỉ được phép hy-vọng kiểu hy-vọng trúng xổ số. Tù không có án, có thể, ngày mai được tha, có thể ba năm được tha, có thể ba mươi năm được tha. “Về hay không là ở các anh có tiến-bộ hay không. Tiến-bộ sớm về sớm. Tiến-bộ muộn về muộn”. Không bao giờ có dọa-nạt: Không tiến-bộ, không về. Nghĩa là, đã học tập cải-tạo tất sẽ phải tiến-bộ. Tiến bộ sớm hay tiến-bộ muộn do ở thiện-chí cải-tạo. Thiếu thiện-chí cải-tạo thì lâu tiến-bộ. Sự tiến-bộ nhìn rõ ở lao-động. “Lao-động là cái thước đo giá-trị con người”. Lao-động thể-hiện tư-tưởng vì lao-động là hành-động. Hành-động trọng-tâm xác-định tư-tưởng tốt chỉ là lao-động tích-cực đạt chỉ-tiêu. Ngoài ra, những hành-động chào kính, tuân-hành mệnh-lệnh thể-hiện sự hết thù-nghịch cách mạng. “Tư-tưởng thể-hiện hành-động”. Hành-động tốt, tư-tưởng tốt. Hành-động tốt giả-vờ, tư-tưởng vẫn tốt. Cộng-sản thừa hiểu hành động tốt giả-vờ là nín thở qua cầu nhưng họ chấp-nhận nín thở qua cầu hơn là chống đối ra mặt. Bởi thế, cái mà tù-nhân hấp-thụ được từ nền giáo-dục cải-tạo của Cộng-sản là sự gian dối. Tất cả tù-nhân, ra khỏi trại lao-cải, đều trả lại sự gian dối cho cộng sản. Hiếm-họa mới còn người coi sự gian dối như chân-lý.
Tù-nhân bối-rối trong câu nói khoan-dung khốn-kiếp: “Đảng và Nhà-nước không muốn giam giữ các anh, nhưng về hay ở là tùy thái-độ cải-tạo của các anh“. Như tôi đã viết tù-nhân mang án phạt tập-trung cải tạo, có thể, ngày mai về, tuần sau về, tháng sau về hay ba mươi năm sau về, nên không dám vượt ngục. Nhỡ mai được tha thì sao? Cái hy-vọng mơ-hồ làm tù-nhân quên tuyệt-vọng. Và cam đành chờ đợi…xổ số. Tù-nhân gọi những buổi tập họp giữa sân trại hay tại hội trường nghe đọc danh-sách những người được tha là nghe kết-quả xổ số. Tại sao nghe đọc kết-quả xổ số? Vì không biết ai sẽ được về. Tù nhân lao-cải là những người không mua vé số mà vẫn bị nghe kết-quả xổ số. Cùng bị bắt một vụ, cùng đi trình-diện một ngày, người cấp bậc cao, người chủ mưu có tên trong danh-sách. Thiếu- tá Phủ đặc-ủy trung-ương tình-báo có tên đọc, hạ-sĩ gác cổng không có tên đọc. Vậy không gọi xổ số thì gọi là cái gì? Sự tha bổng của Cộng-sản ăn thua ở hên xui. Như tù-nhân Nguyễn Tân Mão, thiếu-úy đã có lệnh tha ở Phước Long năm 1978. Thay vì về sum-họp gia đình ngay buổi chiều đọc xong lệnh tha, lại nấn-ná ngủ một đêm chót “enjoy” với anh em, mai mới giã-từ lao-cải. Nửa đêm có lệnh thu hồi Giấy ra trại. Những người đã về, coi như… tự-do luôn. Những người chưa về, ở lại lao-cải tiếp. Nguyễn Tân Mão bị chuyển về Z30 D Hàm Tân, nghe kết-quả xổ số hàng chục lần. Mãi đến giữa năm 1981 mới… trúng số! Bộ quốc-phòng rồi Bộ nội-vụ của Việt cộng có những quyết-định tha tù-nhân rất ly-kỳ. Tôi có cảm-tưởng họ bỏ tên tù-nhân vào lọ, xóc loạn lên như xóc sâm ở Lăng Ông. Tên nào rớt ra, tên ấy trúng số. Bộ nội-vụ quyết-định tha tù-nhân, không phải Giám-thị lại lao-cải. Ban giám-thị ưa hù tù-nhân rằng Ban giám-thị đề-nghị, chấm điểm cho tù-nhân. Tù-nhân được tha sớm, tha muộn là do đề nghị của Ban giám-thị. Mà đề-nghị điểm tốt lên Ban giám-thị là do cán-bộ Quản-giáo. Hù thế để tù-nhân tôn-trọng Nội-quy, nể sợ cai tù. Ngay cả Giám-thị cũng không có quyền bắt, quyền tha tù-nhân. Có một quyền duy nhất thả tù-nhân: Là ăn vàng hối-lộ của thân-nhân tù-nhân để tù-nhân trốn trại an-toàn. Trường-hợp này đã xẩy ra ở trại lao-cải Long Giao những năm bộ-đội quản-lý tù-nhân. Một tù-nhân trốn trại, bị bắt, bị nhốt vào conex, vẫn mở conex trốn ra như James Bond rồi vượt biên. Những thằng tưởng làm “ăng-ten” ở nhà tù, ở trại tập-trung sẽ được tha sớm là những thằng ngu. Những thằng viết rằng vì bị “ăng-ten” tố-cáo mà nằm tù mút chỉ là những thằng đại ngu. Từ năm 1980, sĩ-quan, công-chức học tập cải-tạo, muốn về, chỉ cần gia đình có nhiều vàng chuộc. Trung-tá cảnh-sát đặc-biệt không những được về mà còn được đoàn-tụ gia đình ở Tây Đức. Trung-sĩ cảnh-sát đặc-biệt và hạ-sĩ gác cổng, hạ-sĩ bưng nước Phủ đặc-ủy Trung-ương tình-báo thì vẫn…lao-cải.
Biết rằng thân-phận mình nằm trên 6 lồng cầu, tù-nhân cứ khấp-khởi nghe kết-quả xổ số. Trước mắt đó, anh em đã ra về thơ-thới hân- hoan. Sắp đến lượt mình về. Hy-vọng dâng tràn. Tích-cực lao-động và chấp-hành Nội-quy tốt. Khi tù-nhân chán-nản, tuyệt-vọng, lập tức, trại đột-xuất cho nghỉ lao-động vài ngày, cho ăn cơm trắng với thịt kho. Thế là bàn-tán, suy-luận, suy-diễn. Toàn suy-diễn tốt về phía mình. Bồi-dưỡng để tha đây. Đảng và Nhà-nước thay đổi nhiều rồi. Hy-vọng lại dâng tràn. Nghỉ lao-động vài ngày rồi lao-động lề-mề. Quản-giáo không thúc-dục, không kiểm-tra. Giờ giải lao kéo dài cả tiếng. Văn-nghệ ngoài bãi. Nhạc vàng, vọng-cổ hát líp-ba- ga. Tắm thỏa-thuê. Về trại sớm. Trực trại dễ-dãi ca-cóng. Thăm gặp không giới hạn. Có sức tha-hồ gánh quà. Tự-do hàn-huyên với thân-nhân. Sợi giây siết cổ tù-nhân nới lỏng, nới lỏng tưởng chừng tháo tung. Mầm mống nổi loạn vừa nhú lên, vội-vàng tàn lụi. Không có gì đề chống đối cả. Trại đối xử tốt quá rồi. Cứ lè- phè đợi cầm giấy ra trại. Trốn trại là ngu. Bị bắn khổ vợ con. Nổi loạn là dại. Trứng khó địch lại đá. Tư-tưởng thua AK. Cộng-sản biết cách xì bong-bóng. Không bao giờ họ bơm căng, không bao giờ họ dồn tù-nhân vào chân tường. Dồn gần sát chân tường dò dẫm phản-ứng rồi họ lại đẩy ra. Nới lỏng giây siết cổ rồi lại siết dần. Cứ thể, họ quản-lý tù-nhân tháng này qua năm nọ. Và không hề có nổi loạn đánh phá trại giam, cướp súng giết cai tù.
Nghệ-thuật rỉ tai gây ngờ vực rồi thù-hận lẫn nhau giữa tù-nhân của Cộng-sản đã tinh vi, nghệ-thuật tung tin công-khai của Cộng-sản càng tinh-vi. Bàn hương-án bầy ra, Giám-thị, khuôn mặt đằng-đằng sát-khí, lời lẽ sắt thép:
- Các anh chỉ có một con đường chọn lựa. Đó là con đường tích-cực lao-động cải-tạo tư-tưởng để được hưởng sự khoan-hồng của Đảng và Nhà-nước sớm về sum-họp gia-đình. Ngoài con đường đó là vô vọng. Mới đây, đế-quốc Mỹ đòi chuộc các anh. Chúng định giá các anh như súc-vật mỗi đầu người 2500 đô la. Đảng và Nhà-nước ta quý-trọng con người, triệt-để bảo-vệ phẩm-cách con người, không vì cần đô-la mà bán các anh như bán nô-lệ. Các anh đừng hòng đế-quốc Mỹ cứu các anh. Đừng hòng.
Cộng-sản thả cái phao mục cho tù-nhân sắp chết đuối. Chưa đủ, tự nhiên họ ân-cần yêu-cầu tù-nhân nào có thân-nhân di-tản trước 30-4-1975 sang Mỹ, sang Úc, sang Pháp…thì thành-khẩn khai báo. Ai không khai sẽ mất quyền-lợi và không được khiếu-nại. Tù-nhân đang muốn nổi loạn, bèn xìu xuống. Người ta công-khai thảo-luận đề-tài hấp-dẫn “Mỹ cứu tù-nhân cải-tạo”. Người ta suy-diễn. Người ta suy-luận. Người ta chìm vào chiêm-bao. Và người ta chứng-tỏ sự tiến-bộ vượt bực. Chấp-hành Nội-quy thật tốt. Lao-động thật tích-cực. Để được Mỹ cứu.
Tư-tưởng trốn trại và nổi loạn không còn nữa. Nhưng tư-tưởng… đố-kỵ manh-nha. Tù-nhân đặt câu hỏi: Những thành-phần nào được Mỹ chuộc 2500 đô-la một đầu người? Câu trả lời có ngay: Ngụy- quân và ngụy-quyền, tức là sĩ-quan quân-đội, cảnh-sát và công-chức cao-cấp, dân-biểu, nghị-sĩ… Mỹ chỉ cứu người của họ, “đồng-minh” của họ. Khi cần mỉa-mai thì Mỹ chỉ cứu đầy-tớ của họ, tay sai của họ! Thành-phần tù-nhân phản-động kết-luận thế. Bèn có ba giai-cấp tù trong nhà tù. Giai-cấp tù-nhân trình-diện học tập cải-tạo, giai-cấp tù-nhân bị bắt và giai-cấp tù-nhân chống Cộng sau 30-4-1975 bị bắt. Tù-nhân hình-sự không được đề-cập, dù hình-sự có nhiều người kiến-thức và tư-cách ăn đứt tù-nhân chính-trị. Giai-cấp tù-nhân chống Cộng sau 30-4-1975 mà Cộng-sản gọi là “phản-động hiện-hành” có vẻ tự-hào nhất. Rằng, có thể họ bị lừa gạt, bị sa bẫy Mai Chí Thọ nhưng họ dám chống Cộng trong hoàng-hôn chống Cộng. Rằng, tướng tá đào-ngũ trước 30-4-1975, bộ- trưởng đào-nhiệm, nghị-sĩ, dân-biểu, nghị-viên bỏ dân chuồn nhanh, những kẻ chậm chân bị ở lại thì cam đành đóng tiền, xếp hàng, chen lấn trình-diện học tập cải-tạo. Chỉ có họ, những người can-đảm và nhiệt tình, mới dám chống Cộng-sản, trực-diện chống Cộng-sản khi Cộng-sản đã thôn tính miền Nam. Vậy thì họ bèn khinh-bỉ những kẻ hí-hửng đợi chờ Mỹ cứu. Họ nổi cơn phẫn-nộ, nguyền-rủa Mỹ là bọn phản-phúc chó đẻ. Những cuộc đấu võ mồm suýt thành võ chân tay xẩy ra chung quanh đề tài “Mỹ cứu tù-nhân cải-tạo”. Cộng-sản ném một hòn đá chết hai con chim. Nó hư hư thực thực “Mỹ đòi chuộc các anh”, nó lấp-lửng không quy-định “các anh” là ai. Và các anh chống đối nhau, chia rẽ nhau. Thực lòng thì anh nào cũng muốn được Mỹ chuộc với giá 2500 đô la, nhưng thấy mình quá “xa lạ” với Mỹ đâm ra cay cú Mỹ và cay cú thành-phần sẽ được Mỹ cứu. Võ-khí tư-tưởng của hai giai cấp: Chỉ có đầy-tớ Mỹ mới được Mỹ chuộc sang Mỹ tiếp-tục làm đầy-tớ cho nó. Bọn vô danh tiểu tốt, Mỹ đâu thừa tiền chuộc. Như vậy đó, thủ-đoạn Cộng-sản. Khi con người thấy nó không có quyền-lợi thì nó điên lên vì những con người có quyền-lợi. Cộng-sản quán-triệt nghệ-thuật làm con người điên lên. Thí dụ cái tin Mỹ đòi chuộc tù-nhân cải-tạo rất lô-gích mà họ tung ra ở các trại cải-tạo. Sự thành-công của Cộng-sản phải coi là tốt đẹp. Nhiều tù-nhân cải-tạo sợ “bị” được tha sớm. Được tha ở giai-đoạn này là niềm bất-hạnh, là bị xóa tên trong danh-sách tù-nhân được chuộc tiền của Mỹ. Tất cả muốn chờ Mỹ cứu, muốn đợi phái-đoàn Mỹ đến tận trại lao-cải gọi tên mình, ném mình lên trực-thăng, bốc mình luôn ra Hạm đội số 7. Ở đó, vợ con mình đã có mặt! Đó không bao giờ là ảo-vọng mà là sự thật. Sự thật nhanh một tí hay muộn một tí thôi. Và tù-nhân cải-tạo đã hồ-hởi phấn-khởi nằm tù.
Một vài thí-dụ cụ-thể để chứng-minh nghệ-thuật quản-lý tù-nhân của Cộng-sản. Nghệ-thuật này không bao giờ do Ban giám-thị trại hay bọn cai tù chăn trâu cắt cỏ ngọng líu lưỡi sáng-tạo cả. Chúng nó dốt-nát, sáng-tạo sao nổi. Nghệ-thuật quản-lý nhân-dân, quản-lý tù-nhân, quản-lý con người do đám lãnh-tụ chiếu nhất của cái gọi là Bộ Chính-trị trung-ương Đảng sáng-tạo thành chính-sách, thành mệnh-lệnh và bọn cai tù có bổn-phận thi-hành nghiêm-chỉnh.
Bạn đã hiểu tại sao tù-nhân lao-cải ít vượt ngục và tại sao không hề có cuộc nổi loạn ngoạn-mục nào ở các trại tập-trung khổ-sai lao-động.
CHƯƠNG 8
Báo tin mừng cho em biết
Anh vừa tháo gỡ loạt bom
Có trái nổ
Cám ơn trời anh không chết
Nhưng bạn-bè người banh xác, kẻ cụt chân
Báo tin mừng cho em biết
Anh vừa phát hoang khu rừng
Khi gom đốt
Đạn chìm sâu lên tiếng thét
Cám ơn trời anh không chết
Nhưng bạn-bè người vỡ ngực kẻ bay lưng
Báo tin mừng cho em biết
Anh vừa đục núi gài mìn
Lửa bén ngòi nhanh
Đá bay như đạn rít
Cám ơn trời anh không chết
Nhưng bạn-bè người hộc máu, kẻ mù luôn
Báo tin mừng cho em biết
Anh vừa bắc lại cây cầu
Đang mùa lũ
Nước nguồn chẩy xiết
Cầu sập trôi
Cám ơn trời anh không chết
Nhưng bạn-bè người no nước, kẻ mù khơi.
Báo tin mừng cho em biết
Anh vừa chui xuống hầm phân
Hàng tỷ con ròi bò khắp mình anh gớm ghiếc
Cám ơn trời anh không chết
Nhưng bạn-bè người ngất xỉu, kẻ mửa mật vàng xanh.
Báo tin mừng cho em biết
Anh vừa ăn chuột cống, bọ cạp, thỏ sình
Cóc nhái, rắn rết, châu-chấu, cào-cào
Ăn rau tầu bay, cỏ trời, cỏ dại tào-lao
Cám ơn trời anh không chết
Nhưng bạn bè người tiêu ma, kẻ kiết-lỵ quặn đau.
Báo tin mừng cuối cùng cho em biết
Ngày anh chết
Xác anh nhét trong chiếc hòm
Trên xe cải-tiến
Bạn anh kéo, đẩy đem chôn
Mồ anh sẽ cạnh mồ tên ăn cắp
Chẳng một ai được quyền vẫy tay, lau nước mắt
Người ta đọc lệnh tha anh thay thế điếu-văn
Anh hoàn-toàn tự-do về sum-họp gia-đình
Duyên Anh
Thơ Tù, Nam Á Paris 1984
Bài thơ Tin Mừng, theo người tù không có án là cảm-xúc, có thể, gọi là nguyên-khối mà tôi đã sáng-tác ở Sa Ác. Tôi nói có thể vì một vài sự-kiện xẩy ra ở Sa Ác mà ở các trại Đồng Ban, Trảng Lớn, Kàtum, Suối Máu mà các bạn tù ở Phước Long kể cho tôi nghe. Như gỡ bom bị nổ, nhiều tù-nhân chết, nhiều tù-nhân cụt chân, cụt tay. Như phát-quang gom cây đốt, đạn nổ, tù-nhân mang thương-tích. Như gài mìn đục núi lấy đá, tù-nhân bị tức ngực, bị mảnh đá văng trúng mắt. Như bắc cầu bị sập, tù-nhân mất-tích. Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao đã gỡ bom. Các Đội phát-quang của Sa Ác B đã đốt cây nhằm chỗ đạn vùi sâu dưới đất. Đội 38 của Dương Đức Dũng đã bắc cây cầu qua sông Ray mùa nước lũ… Tôi muốn cảm-xúc của tôi được ghi tại chỗ. Tôi muốn thơ của tôi không bị xếp loại với thơ “chiêm-bao sự thật”. Những người chưa hề đọc Thơ Tù của tôi sẽ thắc-mắc rằng tôi đã làm thơ tù như thế nào? Trang đầu của Thơ Tù, tôi giải-thích:
“Anh phải có trí nhớ thật tốt. Điều này những kẻ nhốt anh đã tuyên-dương anh: Bọn nhà văn là bọn biết dấu-diếm những điều cần dấu-diếm kỹ trong đầu óc của chúng (Huỳnh Bá Thành, “Vụ án hồ con rùa”, nhà xuất-bản Tuổi Trẻ, tp. Hồ Chí Minh 1982). Họ tuyên-dương anh để quản-lý cả thể-xác lẫn linh-hồn anh đấy. Nếu anh bị nhốt ở các đề-lao Sàigòn, Chí Hoà chẳng hạn, anh sẽ hiểu rằng mọi thứ giấy bút đều bị nghiêm-cấm. Bất chợt, cai ngục khám-xét túi bị của anh. Điều này thường xuyên xảy ra tại đề-lao thành-phố. Một mẩu bút chì thôi, anh vẫn bị còng chân, bị tống vào cachot. Nếu thêm mẩu giấy ghi chép vài câu vô-nghĩa, họ sẽ nâng quan-điểm anh, bắt anh làm tự khai ròng-rã để định-nghĩa sự vô-nghĩa của chữ-nghĩa vô-tình. Vậy anh làm thơ bằng cách nào?”
Tôi làm thơ trong tù bằng óc của tôi. Tôi dựa lưng vào tường bê-tông. Tôi bám chấn song sắt to hơn cánh tay tôi – chấn song sắt của khám Chí Hòa – nghĩ thơ. Tôi nhắm mắt làm thơ. Tôi mở mắt sửa thơ. Tôi nằm gối đầu trên tay học thuộc thơ. Quên cũng lắm. Sai cũng nhiều. Bằng óc. Óc tôi là giấy, là bút, là mực. Trí nhớ tôi là máy ghi âm. Thiếu chính xác vì thiếu sinh tố bồi dưỡng. Người ta cấm tôi dùng tay đề viết. Tôi dùng tay đề gãi ghẻ. Vừa gãi ghẻ vừa làm thơ. Cần gì phải giấy bút. Cần gì phải cảm hứng. Nỗi ngứa đã là cảm hứng tuyệt vời. Tôi làm thơ và tôi gãi ghẻ. Bởi vì trong thống khổ và cô đơn, tôi thèm thơ. Tôi thèm thơ hơn tôi thèm nhìn giọt nước mắt của vợ, thèm ngắm nụ cười của con, thèm thấy một miếng đời sống bên ngoài cánh cửa phòng giam nặng hàng tấn, thèm ăn cơm trắng, thèm uống nước trà, thèm tắm gội tập thể quá mười phút… Tôi làm thơ như Hồ Chí Minh làm thơ, như Tố Hữu làm thơ. Trong tù. Nhưng tôi không hậm hực kiều Hồ Chí Minh, rên xiết kiểu Tố Hữu. Tôi phơi phới. Tôi phiêu bồng. Tôi lãng du. Dẫu nhà tù Tố Hữu nhốt tôi ngày nay khốn nạn gấp ngàn lần nhà tù thực dân nhốt Tố Hữu ngày xưa. Luôn luôn chúng ta hơn cộng sản, thi sĩ của chúng ta hơn cộng sản. Chúng ta đem đời sống vào ngục tù. Chúng ta không đem ngục tù vào đời sống, dù ngục tù hằng đe dọa hủy diệt đời sống của chúng ta. Chúng ta lên tiếng chứ không lên án. Tiếng nói của chúng ta thơm nồng trái thị cổ tích, rạng rỡ tấm lòng Thạch Sanh. Chúng ta ký thác tình yêu cho muôn thuở. Chúng ta không kêu gào thù hận nhất thời. Chúng ta có phần thưởng của chúng ta với dân tộc, với nhân loại như những người công chính có phần thưởng của họ trên nước Thiên Đàng.
Anh làm thơ trong tù bằng óc. Tôi hiểu rồi. Lao động khổ sai đầy đọa thể xác anh. Mỗi ngày anh ăn ba chén sắn lát, hai lưng cơm hẩm. Với nước muối. Với rau muống giây kẽm gai. Với củ cải sơ mướp. Anh phải phá gò mối nghìn năm giữa rừng. Anh phải hạ cây cổ thụ già chín kiếp đời anh. Anh phải khiêng bom chưa kịp nổ. Anh phải lấp hố bom. Anh phải xuồng hầm phân nhung nhúc cả tỷ con ròi, vục đầy xô phân bằng tay anh – tay anh thường chỉ quen cầm bút – và ròi chui vào lỗ tai anh. v.v… Người ta kiểm soát anh tất cả, anh mỏi mệt với những hồi kẻng não nùng, anh đặt lưng là anh ngủ. Vậy anh làm thơ bằng cách nào, ngoài trại tập trung?
Tôi làm thơ vì tôi thèm định nghĩa con người. Tôi thèm định nghĩa con người trong nỗi thống khổ đòi đoạn mà con người biết chịu đựng một cách can đảm, im lặng và khiêm tốn. Thi sĩ là người nhìn rõ sự bất hạnh trong hạnh phúc và, đồng thời, không ngừng khám phá hạnh phúc trong bất hạnh. Từ dưới hầm phân, tôi ngửi được hương thơm hiếm có trên đất trời. Tôi biết ngưỡng mộ con gọng vó suốt đời bơi ngược dòng nước lũ. Tôi cảm được tâm hồn nó và, nhờ nó, tôi đã được soi sáng. Trước đây, tôi chỉ tưởng tượng nỗi khổ, bây giờ, tôi trực diện nỗi khổ, dẫy dụa trong nỗi khổ. Trong tù, ngứa ghẻ là cảm hứng sáng tác của tôi. Ngoài trại tập trung, đau khổ là mật ngọt của đời sống tôi, đời sống một nghệ sĩ. Tôi làm thơ. vì thế. Đừng sợ người ta kiểm soát tất cả. Khí trời, bầu trời, thiên nhiên và tâm hồn đích thực của con người, không ai kiểm soát nổi”…
Những bài thơ nồng nàn nhất của tôi, tôi đã viết ở trại tập trung khổ sai lao động. Thí dụ bài:
Một năm thèm đường ở Suối Máu.
Người tù ngồi lựa gạo
Nhặt được vài hạt ngô
Bắt đầu một giấc mơ
Một giấc mơ ảo não
Ngay miếng đất anh nằm
Những hạt ngô reo rắc
Những hạt ngô nẩy mầm
Những cây ngô ao ước
Thân ngô nhú cao dần
Từng phân rồi từng tấc
Từng sáng anh tưới nước
Từng chiều anh ngó thăm
Ngô lên bằng đầu người
Gió đùa lá ngô vui
Nỗi niềm tan trong máu
Tù nhân dấu nụ cười
Anh múa lưỡi dao rừng
Những thân ngô ngã rạp
Mỗi khúc mỗi người cạp
Ôi, ngọt đến vô cùng
Đám bạn tù nhìn nhau
Mắt long lanh giọt ngọc
Bây giờ là hạnh phúc
Tìm thấy khi qua cầu
Duyên Anh
Thơ Tù, Nam Á Paris 1984
Bài thơ này cảm hứng từ câu chuyện một năm thèm đường của anh bạn tù ở trại Suối Máu kể cho tôi nghe. Người khác kể chuyện ở trại Đồng Ban, tù nhân cuốc trúng mìn bị cưa chân bằng cưa dùng để cưa củi. Tôi đã ghi nhanh bài:
Về nỗi khổ thật mới
Báo tin cho em biết
Bạn anh vừa cuốc đất trúng mìn
Mìn nào đó, ôi trái mìn xảo quyệt
Ai cũng được quyền gài và quyền lớn tiếng thanh minh
Bạn anh quỵ xuống rất êm
Ôm chân máu vì không muốn chết
Sau những giây phút sững sờ oan nghiệt
Bạn anh được cõng vội về
Chẳng thuốc mê và chẳng cả thuốc tê
Người ta đè bạn anh ra cưa sống
Lưỡi cưa cùn cưa gỗ cưa cây thật ớn
Đã cưa xương cưa thịt con người
Bạn anh thét kinh âm hưởng vút lên trời
Bạn anh dẫy dụa đất nứt tung cục cựa
Anh ghì tay bạn anh
Mắt cài then kín cửa
Hồn đi xa khỏi thế giới lầm than
Nỗi đau đóng đinh thập giá có đâu bằng
Bạn anh bị cưa chân bởi thứ cưa cưa gỗ
Nhân loại có nhiều nỗi khổ
Nhưng chưa có nỗi khổ nào giống nỗi khổ bạn anh
Chưa có nỗi khổ nào giống nỗi khổ Việt Nam
Nỗi khổ vàng son xứng đáng tôn vinh
Nỗi khổ làm cho anh em mình biết sống
Nỗi khổ làm cho loài người rung động
Anh mở mắt nhìn
Chân bạn anh rụng mất rồi
Hôm nay bạn anh chống nạng mĩm cười
Báo tin cho em biết
Duyên Anh
Thơ Tù, Nam Á Paris 1984
Những bài thơ tù của tôi không làm cho đồng bào của tôi di tản sang Mỹ trước 30-4-1975 xúc động. Họ dửng dưng. Có lẽ, “nỗi khổ vàng son xứng đáng tôn vinh” đã làm họ phiền phức. Nhưng người ngoại quốc thì xúc động khóc sướt mướt. Ở Grenoble. Ở quận 6 thành phố Paris. Mời bạn nghe ông Pierre Bas, Viện sĩ Hàn lâm viện khoa học hải ngoại Pháp Dân biểu danh dự, Thị trưởng quận 6 Paris phát biểu:
“… Pierre Chaunu đã giới thiệu Duyên Anh với chúng ta. Độc giả của chúng ta thừa biết Chaunu là một nhà văn, một sử gia một xã hội học gia, một tư tưởng gia đã làm vinh dự cho xứ sở chúng ta. Chaunu giới thiệu Duyên Anh như một nhà thơ lớn, một niềm hãnh diện và vinh quang cho quốc gia đã bị cộng sản nhốt vào tù ngục. Những bài thơ được chuyền dịch Pháp ngữ do kịch sĩ Michel Etcheverry của Viện kịch nghệ quốc gia Pháp diễn tả thật xuất sắc. Quần chúng rất xúc động.
Được thả ra khỏi trại cải tạo nhờ những phản kháng của thế giới tự do, Duyên Anh cho chúng ta hiểu trại ấy là gì: Một thế giới của kinh hoàng, của đau thương ghê gớm, một hệ thống tù đầy, có lẽ còn tồi tệ hơn cả hệ thống tù đầy mà Soljenitsyne đã cực tả. Đó là thế giới của sự tàn ác, của sự cuồng bạo, của những nhục nhã, của những trừng phạt tàn khốc, một thế giới mà không một người nào trong phòng này biết đến sự hiện hữu của nó, một thế giới mà chúng ta biết nhờ sự tiết lộ, một thế giới mà người ta lấy làm hổ thẹn vì nó đã có vào năm 1987 trước mắt nhân loại, một thế giới của tuyệt vọng, nhắc nhở người ta đến sự ghê tởm của các trại tập trung của quốc xã. Tối hôm đó, một buổi tối vui vẻ và dễ chịu như mọi buổi tối vui vẻ và dễ chịu của Paris, chúng ta mới được biết rằng, trên trái đất, tại Việt Nam, đã có chủ nghĩa quốc xã với những sự ghê tởm của nó.
Tôi đã nói đủ, những bài thơ của Duyên Anh sẽ kể hết cho quý vị biết. Tôi mong mỏi quý vị sẽ tìm đọc những bài thơ ấy. Như thế, quý vị sẽ được thông báo đầy đủ, quý vị sẽ hiểu những gì đang xẩy ra trên trái đất. Quý vị sẽ hỏi các tổ chức từ thiện, các hội đoàn tranh đấu cho nhân quyền rằng, mỗi khi một nhà báo không xem được hồ sơ tại một xứ nào đó của tây phương, các tổ chức ấy vẫn la lối thì nay, hỏi xem họ đã làm gì khi con người bị hạ nhục, con người bị hành hạ. Duyên Anh gọi đó là “sự đóng đinh trên thập giá”. Đúng vậy, đó là những sự hành hạ cũng tàn khốc như sự đóng đinh trên thập tự giá lên con người của thời đại chúng ta mà chúng ta lại giả vờ không biết, chúng ta bịt tai, chúng ta không muốn dính líu.
Chúng ta trông đợi Bộ ngoại giao Pháp tìm cách chấm dứt những sự ghê tởm đó đi. Không thể nào chấp nhận nước Pháp sẽ không nói gì với các tổ chức quốc tế, có lẽ viện cớ cần giải quyết vài hồ sơ hợp tác, trong khi có những mạng người cần phải cứu vớt. Chúng ta có bổn phận báo động dư luận nhân dân Pháp. Tôi cam kết dẫn đầu cuộc chiến này và tôi cầu mong nhiều người khác nhập cuộc cùng tôi. Những gì đang xẩy ra tại Việt Nam phải được chấm dứt, nếu không khuôn mặt nhân loại bị đánh tạt và bị ô nhục bởi những sự ghê tởm của chế độ Hà nội”.
(trích bài xã luận của tờ Le Courrier tháng 2-1987)
Hơn cả sự hờ hững, đồng bào trong và ngoài nước của tôi đã quên lãng những tù nhân, những nhà tù, những trại tập trung khổ sai lao động. Còn nhớ chăng là những người mẹ có con đi lao cải, những người vợ chung thủy có chồng đi lao cải, những người con có cha đi lao cải, những người em có anh đi lao cải. Thỉnh thoảng vài anh cai thầu nỗi khổ lại ném vào sự lãng quên những phản đối làm cảnh, những phản đối được đài thọ một chuyến đi, những phản đối đánh bóng cá nhân 30 năm sống bên Tây, những phản đối có mặt của một chủ tịch đào nhiệm từ 1973 cho cái gọi là Trung tâm Văn Bút đỡ trơ trẽn. Tôi cảm thấy bộ hồi ký tù ngục của mình vô duyên, lãng nhách. Nó vô duyên, lãng nhách vì những tên tướng khốn kiếp đào ngũ, sau 13 năm sống vô liêm sỉ trên đất nước Hoa kỳ, vẫn còn thừa thãi sự vô liêm sỉ đề mặc quân phục Việt Nam cộng hòa, nhâng nhâng nháo nháo phơi bầy những khuôn mặt đã ngâm “nước vỏ lựu, hoa mào gà” cứ đen thui như mõm chó, đi duyệt binh Ngày Quân Lực không còn…quân lực. Khi ấy, sĩ quan kiêu hùng của chúng ta, của dân tộc ta của tổ quốc ta,nạn nhân của bầy tướng lãnh bất tài, tham nhũng đầy tớ Mỹ, đang quằn quại ở các trại lao cải cộng sản. Giọt nước mắt nào cho những anh hùng bị tước đoạt quyền chiến thắng ấy ở đêm liên hoan có nhẩy đầm tíu tít Ngày Quân Lực…lưu vong? Không có giọt nước mắt nào cả. Chỉ có những tiếng cười man rợ, tiếng rượu trôi ừng ực xuống dạ dầy. Chúng nó đã khiêu vũ trên nỗi thống khổ của chiến hữu chúng nó, của dân tộc chúng nó. Chúng nó khỏa lấp sự phẫn nộ của người công chính. Chúng nó bảo cần thiết một “huynh đệ chi binh” trong Ngày Quân Lực. Chúng nó bảo cần thiết những thằng tướng bẩn, tướng hèn, tướng đào ngũ triển lãm toàn diện sự bất cố liêm sỉ. Chúng nó bảo cần thiết những thằng tướng khốn kiếp phóng uế trên đất nước Lincoln. Và chúng nó khoán quyền đại diện tù nhân chiến hữu của chúng nó cho cai thầu nỗi khổ 30 năm phè phỡn bên Tây, chưa hề nhìn thấy lính Sài gòn cũng chưa hề nhìn thấy bộ đội Hà nội.
Người Mỹ đã không dạy chúng nó cách cai tri đồng bào chúng nó ở Việt Nam. Người Mỹ cũng không thèm dạy chúng nó những bài học dân chủ và trò chơi dân chủ ở nước Mỹ. Mở miệng, chúng nó nói dân chủ và chiến đấu cho dân chủ, tự do. Nhưng chúng nó chỉ muốn độc quyền tự do, dân chủ. Chúng nó đòi tự do, dân chủ…độc tài. Chúng nó đòi tự do phóng uế chính trị, phóng uế kháng chiến, phóng uế giải phóng dân tộc. Nhưng chúng nó cấm người khác tự do phản kháng phóng uế chính trị, phóng uế kháng chiến, phóng uế giải phóng dân tộc. Chúng nó không thích trò chơi dân chủ. Chúng nó không thích đối lập ở nơi chốn mà dân chủ, tự do là biểu tượng cao quý nhất của con người, bất kề con người nào, mầu da nào, chủng tộc nào. Bọn ngu xuẩn này chỉ thích duy ngã độc tôn, sau chúng nó là đại hồng thủy. Quyền uy ảo tưởng và thế lực báo chí giẻ rách của chúng, có thể đe dọa những người cầu an, những người yếu bóng vía, có thể bịt miệng sự lên tiếng của bọn nhà văn Hamburger sinh ra đã sợ bạo lực và chỉ dám bạo miệng chống đối Cộng sản cách xa một đại dương, chỉ dư can đảm lè nhè chửi bới người vắng mặt song, không thể không bao giờ có thể đe dọa, bịt miệng nổi những nhà văn, những nhà báo khí phách và thừa thãi tài năng. Một bài thơ lửa đủ đốt thiêu chúng nó. Một bài báo thép đủ chặt ngang thây chúng nó. Chưa cần một cuốn sách. Và chẳng cần đến một tác phẩm. Thực chất, chúng nó chẳng có quyền uy gì. Nếu các nhà văn bầy tỏ thái độ nhất loạt, nếu báo chí tư cách bầy tỏ thái độ nhất loạt, chúng nó sẽ co rúm, sẽ cúi gầm mặt, sẽ câm họng. Chúng nó chẳng là cái gì cả. Chúng nó là đồ bỏ.
Người tuổi trẻ lưu vong phải quán triệt điều này:
Những ông chính khách kinh niên, những ông lãnh tụ đảng phái già nua, những tên đã nắm quyền bính ở miền Nam, những thằng tướng hèn đào ngũ không có tương lai, không còn tương lai nữa. Họ không chiến đấu cho tương lai của dân tộc đâu. Hiển nhiên. Vì họ thiếu tài năng và tư cách. Cái mà họ đang gọi là chiến đấu chỉ là cuộc chiến đấu hư ảo nhằm mục đích phục hồi quyền bính dĩ vãng. Phục hồi quyền bính dĩ vãng đã là hư ảo, với bọn kể trên, là hư ảo bình phương. Bọn họ được chia làm hai loại. Một loại chưa nắm quyền bính, chưa ngồi ở những địa vị có thể ăn cắp nhiều. Một loại đã nắm quyền bính, đã ngồi ở những địa vị tha hồ ăn cắp. Loại thứ nhất, vì ăn cắp ít, nên lưu vong không được xếp vào loại tổ sư ăn cắp đâm ra “đố kỵ” tài năng …. ăn cắp. Chúng tìm nhau, hùn hạp lập công ty kháng chiến, hợp tác xã giải phóng dân tộc. Chúng bắt chước cộng sản, bôi son vẽ phấn cho chủ tịch, râu ria vài sợi, khăn rằn quấn cổ, gò khuôn mặt chủ tịch méo mó, khắc khổ. Chúng soạn cương lĩnh và hò hét... lạc quyên, xổ số, tem phiếu, hũ gạo. Và chúng vơ vét ngót nghét 10 triệu đô la, vẫn tiếp tục rao truyền cương lĩnh lạc quyên đốn mạt cho sự nghiệp ăn cắp công khai của chúng. Biểu tượng khốn kiếp của thời đại mê sảng là chủ tịch HCM. Rốt cuộc, công ty rã đám. Chủ tịch lạc quyên đòi chủ tịch lãnh tụ làm sáng tỏ tiền ăn cắp? Lý do đơn giản: Chúng nó chia chác không đồng đều. Loại thứ hai, ăn cắp nhiều no nê rồi, ngồi cạp tiền ăn cắp mãi đâm ra tương tư dĩ vãng. Thêm nữa, bị vợ khinh con chê, nhân tình lỉnh. Đường đường tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng, đại tướng, trung tướng, thiếu tướng hét ra khói, ói ra lửa, nay cà lơ thất thểu, đứa ngồi thở dài, đứa bán rượu, đứa gác-dan, vợ nó khinh là đúng. Bèn phẫn chí may quân phục, mua sao lên sân khấu thủ những vai hề cù không ai cười mà chủ đề nghe phỉ báng. Lâu lâu, chúng nó phát ngôn “Phục quốc là trách nhiệm”, “Giải phóng dân tộc là bổn phận”. Đúng rồi, phục quốc và giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị cộng sản là trách nhiệm, là bổn phận của mọi người Việt Nam, trừ những thằng tướng hèn đào ngũ, những thằng tổng thống, tổng trưởng đầy tớ Mỹ, tham nhũng, thối nát. Một thằng tướng đã tuyên bố. “Tôi không đi đâu cả, tôi ở lại để ăn cơm với tương cà, canh mắm. Ăn bơ, uống sữa chỉ đi té re. Đứa nào sang Mỹ thì, đàn ông làm cu ly, đàn bà làm đĩ”! Lịch sử nào cũng có những trang chó đẻ Những trang chó đẻ của lịch sử hiện đại của dân tộc ta, ngoài sự phản phúc của Mỹ còn ghi cả xú ngôn của những thằng vô lại. Thằng tướng vô lại ấy đã sang Mỹ. Vợ nó cũng sang Mỹ. Nó có làm cu ly? Vợ nó có làm đĩ? Điều này bình thường. Hơn cả bình thường, nó tầm thường. Đôi khi còn hợp lý. Cái không bình thường là nó còn dám diện quần áo tướng, quấn phu-la đi duyệt binh Ngày Quân Lực…tan hàng, ở một nơi ai muốn làm gì tùy ý, miễn là đừng phóng uế lên danh dự Việt Nam. Vợ nó cũng… duyệt binh. Khi có ai lên tiếng rằng cu ly và đĩ không được phép nhục mạ quân đội, sẵn sàng khuyển mã của khuyển mã lý luận: Ngày Quân Lực là ngày đoàn kết quân đội! Đồng ý. Nhưng quân đội là những ai? Quân đội có phải là của tướng lãnh, nhất là của tướng lãnh đào ngũ hèn mọn? Không đâu, quân đội của chúng ta là những người lính kiêu hùng, là những hạ sĩ quan gan dạ, là những sĩ quan trong sạch quả cảm chiến đấu chống kẻ thù cộng sản đến giây phút cuối cùng. Ở Khánh Dương, ở trước dinh Độc Lập, ở cầu Thị Nghè, lính và sĩ quan dũng cảm của chúng ta còn chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Chỉ có những thằng tướng đang hung hăng sủa bậy “phục quốc, giải phóng, kháng chiến” là đào ngũ, là cút chạy quá sớm trước lệnh đầu hàng. Những kẻ đã đào ngũ có còn là quân đội, có còn là chiến hữu của những người lính đang chiến đấu ở quê nhà, những sĩ quan đang quằn quại ở trại tập trung khổ sai lao động của cộng sản? Quân đội của những người lính đã thắp sáng Bình Long, Kontum, Pleime, Quảng Tri…, đã tưới máu đào từ Bến Hải vào tận Cà Mau có thể “đoàn kết” với những thằng tướng đào ngũ, có thể bị nhân danh bởi những thằng vô lại?
Người tuổi trẻ đã là lính hay chưa là lính cần nhìn rõ vấn đề, cần điểm mặt lãnh tụ. Để nhận đường chiến đấu. Cuộc chiến đấu hôm nay là cuộc chiến đấu của Thiên Thần với Ác Quỷ. Nó đòi hỏi nhiệt tình, lòng tự phụ, tài năng và sáng tạo chỉ có ở tuổi trẻ. Vậy nó là cuộc chiến đấu của tuổi trẻ. Cuộc chiến đấu này phải loại bỏ lãnh tụ già, lãnh tụ vô lại, lãnh tụ vô học; loại bỏ bọn tay sai Mỹ, tay sai Liên Xô, tay sai Tây, tay sai Tầu cũ và, đồng thời khu trừ bọn tay sai Mỹ, tay sai Liên Xô, tay sai Tây, tay sai Tầu mới, dẫu tay sai có là người trẻ trung, mới mẻ. Cũng khu trú luôn đám cai thầu nỗi khổ của dân tộc, dây máu ăn phần sau 30 năm ngủ vùi trên đất thiên hạ.
Viết đến đây, tôi bỗng cảm thấy bộ hồi ký ngục tù của tôi không vô duyên, lãng nhách nữa. Còn tuổi trẻ Việt Nam an ủi tôi, còn tuổi trẻ Việt Nam là những người tôi sẵn sàng cống hiến chút tài năng còm cõi của tôi, chút kinh nghiệm kinh qua thống khổ của tôi, trọn phần đời còn lại của tôi, cho họ. Cho hết. Cho không đòi hỏi. Để họ không còn bị làm guốc cho bọn lãnh tụ ghẻ lở. Để họ không còn bị ném lên sân khấu bởi bọn đạo diễn mù. Tôi không có tham vọng chính trị. Tôi không có máu mê lãnh tụ. Tôi không lợi dụng tuổi trẻ. Tôi là nhà văn. Nhà văn thì không cần thế lực và hậu thuẫn. Thế lực và hậu thuẫn của nhà văn là Sự Thật và Lẽ Phải. Và đó chính là khuôn vàng thước ngọc của người cầm bút ở bất cứ thời đại nào. Bằng Sự Thật và Lẽ Phải, nhà văn khinh thường Bạo Lực. Luôn luôn bị Ngộ Nhận, bị Chụp Mũ, bị Đe Dọa, bị Vây Hãm nhưng chằng bao giờ bị hủy diệt vì không một bạo lực nào đủ khả năng hủy diệt Cái Thật, Cái Tốt, Cái Đẹp. Lý tưởng chiến đấu của tuổi trẻ thế hệ sau 30-4-75 và những thế hệ kế tiếp là phải leo lên đỉnh ngọn Chân, Thiện, Mỹ; phải tạo dựng chính quyền cho quê hương Việt Nam, phải là Vạn Thắng Vương, dẹp tan 11 thứ phỉ, thứ ngụy để mơ kỷ nguyên Đại Cồ Việt mới.
Trong ý nghĩ ấy, tôi tình nguyện làm con ngựa già kéo xe cho Tuổi Trẻ ruổi rong làm lịch sử. Với tôi, giai đoạn tiểu thuyết lẩm cẩm, tùy bút tửu điếm, phòng trà lăng nhăng chấm dứt. Với tôi. hôm nay: “Cho lửa vào thơ văn hay cho thơ văn vào lửa”. Hoặc tôi tiếp tục văn chương chiến đấu, tư tưởng dấy động và chấp nhận mọi nghịch cảnh, mọi hệ lụy vây hãm, hoặc tôi bẻ bút. Tôi chọn lựa văn chương chiến đấu, văn chương có chính kiến rõ rệt. Người cầm bút phải có thái độ sống và thái độ viết thích ứng với thời đại của y. Nói theo nhà tư tưởng lý Đông A: “Văn nghệ phải để cho yêu thương của lý tưởng có tranh đấu trụ trì “ 1. Những kẻ cầm bút không có chính kiến, cầu an, sợ hãi bạo lực, thù hận của bạo lực và hình phạt của bạo lực chỉ là bọn thư lại chữ nghĩa. Những kẻ cầm bút chối bỏ Sự Thật và Lẽ Phải, nói theo Lý Đông A là bọn văn nghệ “mõ chợ”, bọn văn nghệ “chó sủa” 2. Lý Đông A mượn ý của Shelley nhắc nhở rằng: “Nhà văn phải thổi kèn đánh thức” con người và lương tri của con người. Tôi muốn làm người thổi kèn, chỉ đề đánh thức cho tuổi trẻ Việt Nam lên đường và báo động hoàng hôn chết của lãnh tụ già nua mọi mặt. Thế thôi.
Trong mọi lãnh vực, người tuổi trẻ cần hiện diện. Lão thành cách mạng, lão thành ký giả, lão thành chính khách, lão thành văn sĩ là những người sắp chết, gần kề nỗi chết. Tương lai thì lại sẽ tới, sắp tới, đang tới và còn tới mãi mãi, vô tận. Tương lai không của người già càng không phải của những người hết thời. Tương lai là của tuổi trẻ. Tương lai là mầm vừa nhú, lộc đang đâm chồi, hoa chờ hé nhụy. Tương lai không là cây đã cổ thụ, hoa đã héo tàn, cà đã thâm, dưa đã khú. Đất nước chỉ toàn cây cổ thụ là đất nước buồn bã. Vì trên ngọn thì quạ đậu đầy, dưới gốc thì bình vôi đặc khịt chồng chất. Đất nước ta đã 50 năm rặt quạ và bình vôi. Và đất nước ấy đã thê thảm cùng cực. Phải làm cho đất nước cơ man cây trổ hoa, đơm trái. Phải làm cho đất nước rộn ràng ong bướm, véo von chim hót. Và đó, nghĩa vụ của tuổi trẻ Việt Nam. Tôi hy vọng, bộ hồi ký tù ngục này sẽ giúp tuổi trẻ đôi chút kiến thức về cộng sản. Đề họ nhìn kẻ thù chính xác mà chiến đấu. Nó cũng còn là một báo động một xúc động phôi phai cho họ, những người rời quê hương trước 30-4-1975 quá trẻ, dễ chìm nghỉm dưới bùn lầy vật chất nước Mỹ và đã quên thân phận dân tộc, số phận tù nhân lao cải mà thống khổ chịu đựng, văn chương của tôi không đủ khả năng diễn tả.
Chú thích:
1. Đạo Trường Ngâm, Thay lời tựa, Nhân Chủ Học Xã xuất bản, USA 1985.
CHƯƠNG 9
Đằng Giao kể:
- Hoàng Anh Tuấn thèm thực hiện một cuốn phim về nhà tù cộng sản. Phần générique Tuấn sẽ quay những khuôn mặt hốc hác dán vào cửa gió cachot. Giới thiệu tên phim, tài tử, đạo diễn, nhà sản xuất xong xuôi, mở đầu, một tù nhân đẩy cửa cachot bước ra, chân xích, tay còng. Cai ngục dẫn tù nhân tới phòng chấp pháp….
Đằng Giao nói tiếp:
- Giá mà Hoàng Anh Tuấn ở Sa Ác. Phần générique sẽ quay cảnh tù nhân trần truồng tắm bến sông Ray…
Bến sông Ray, bến tắm tập thể của cả trại lao cải Sa Ác B, trưa và chiều. Gọi là sông vì nó là sông. Nó là con suối mới đúng. Khúc chảy qua Sa Ác, chiều ngang của nó khoảng 40 thước. Bến tắm được quy định một chiều dài khoảng 100 thước. Tù nhân không được phép lội sang bờ bên kia. Khi kẻng tan lao khuya, vệ binh canh phòng tù tắm giặt đã bố trí trung liên nạp đạn trên bờ. Ít nhất năm ổ trung liên. AK không kể. Vệ binh sẵn sàng khạc đạn nếu tù nhân leo lên bờ bên kia. Mùa nước lũ, có một hàng rào kẽm gai, giăng từ lúc sông cạn, đề phòng tù trốn trại bằng cách theo dòng nước chảy xiết mà ra đi. Ở chỗ hàng rào, cái đăng đón cá tù, vệ binh ngồi gác. Vệ binh được phép bắn chết tù nhân trốn trại. Tôi chưa thấy tù nhân nào trốn trại dưới sông, mùa nước lũ. Người ta sợ chết sặc khi vướng rào kẽm gai. Nước chảy xiết, tù nhân dính rào kẽm gai như cá dính mắt lưới. Bởi thế, mùa nước lũ, tù nhân chỉ tắm sát bờ sông. Nhiều người xách nước lên bờ tắm gội. Mùa nước lũ, tù nhân được uống “cà phê sữa”, tức là nước sông ngầu phù sa không đánh phèn, cứ “nguyên chất” mà đun sôi. Chúng tôi đã uống đất rừng, lá mục, xác thú chết trong những ca “cà phê sữa” suốt mùa mưa lớn. Uống nước phù sa đun sôi không thú vị bằng uống Coca Cola, Sprite, Pepsi, Fanta, sữa tươi nhưng, quả thật, phù sa đã bồi dưỡng cho cảm hứng sáng tác của tôi.
Năm 1979, tôi 44 tuổi. 44 tuổi tôi được soi sáng ý nghĩa của đời sống qua hình ảnh con gọng vó bơi ngược dòng nước lũ. Con gọng vó bé nhỏ, yếu đuối, hèn mọn sống trong dòng mà không chịu xuôi dòng. Luôn luôn nó ngược dòng. Sự phấn đấu chạy ngược dòng của nó thật cô đơn, thật lãng mạn và thật dũng cảm. Chắc chắn, đã không ai theo dõi cuộc chiến đấu với bản thân của con gọng vó. Chắc chắn, đã không ai hiểu nổi tâm sự của con gọng vó. Nó chính là người nghệ sĩ sáng tạo phản kháng, kẻ không chấp nhận theo dòng, xuôi dòng. Nó không thích bị cuốn xoáy xuôi dòng. Giữa con gọng vó và củi mục, thú chết. lục bình, tôm cá là một khác biệt. Tôi phải cám ơn cộng sản đã bắt tôi, đã đầy đoạ tôi. Nhờ thống khổ, tôi được con gọng vó soi sáng niềm bí ẩn của đời sống. Ít ra, nó đã giúp tôi cảm hứng viết bài thơ:
Như con gọng vó
Nỗi thống khổ dạy anh những điều khôn ngoan
Dạy anh giải tỏa niềm ẩn ức
Dạy anh gieo trồng hạnh phúc
Dạy anh nhìn rõ anh hơn
Nỗi thống khổ không dạy anh căm hờn
Không dạy anh phản phúc
Không dạy anh làm điều ô nhục
Không dạy anh tuyệt vọng chán chường
Nỗi thống khổ dạy anh bơi lội ngược dòng
Như con gọng vó
Đừng bao giờ than thở
Vì hệ lụy điếc câm
Nỗi thống khổ soi sáng anh mọi sai lầm
Dẫn anh vào trái tim nhân loại
Hãy là con đại bàng vươn cánh soải
Và thương loài chim sẻ léo nhéo bờ tường
Bởi sức nó chỉ để bay mái nhà này sang mái nhà khác
Nỗi thống khổ không dạy anh những điều gian ác
Chỉ dạy anh chịu đựng nhín nhường
Dạy anh khoan dung và cao thượng luôn luôn
Dạy anh tha thứ kẻ đã đầy anh xuống địa ngục
Nỗi thống khổ dễ gì ai cũng một lần gặp
Nên giữa anh có khoảng cách với cuộc đời
Anh cô đơn
như con gọng vó
ngược dòng bơi
Duyên Anh
(Thơ Tù, Nam Á Paris, 1984)
Tôi trở về cái bến tắm sông Ray. Tù nhân khắp các hiện trường lao động lũ lượt đổ về bến tắm duy nhất của Sa Ác B. Xuất trại, tù nhân phải ăn mặc chỉnh tề. Nhập trại, có thể cởi trần, mặc quần xà lỏn ướt. Từ bãi lao động về bến tắm, tù nhân cởi trần. Đến bến tắm, tù nhân trần truồng nhào xuống sông. Đội nào tới trước tắm trước. Tắm trước, nước còn trong, đến sau, tắm vào lúc cả chục đội chen chúc nhau một vũng nước sâu, bùn bị khuấy đen ngòm, cá cũng ngộp thở! Hình tưởng đám ròi lúc nhúc dưới hầm phân. Tù nhân dưới khúc sông quy định cũng thế. Đội trưởng và Đội phó thay phiên nhau tắm nhanh lên vội. Khi vệ binh ra lệnh bảo đội lên, Đội trưởng hú lớn cho đội lên tập họp, điểm số. Đội 21 nông nghiệp của Đằng Giao có một tù nhân xuân thu nhị kỳ tắm gội. Đó là Hùng nhí, figurant mà Đằng Giao chọn lựa cho đạo diễn Hoàng Anh Tuấn. Hùng nhí, 22 tuổi, lùn tì, nhỏ xíu, thứ gà đẹt. Nó có khuôn mặt hao hao Dracula. Răng rụng gần hết. Hùng nhí can tội…gián điệp! Theo “truyền ký lao cải”, Hùng nhí được ông tướng Dư Quốc Đống nhận làm con nuôi, cho mặc quân phục nhẩy dù và thường cho nó ngồi cạnh trên xe jeep của ông. Hùng nhí trở thành lính dù danh dự sau khi nó giúp lính nhẩy dù khám phá hầm vũ khí của Việt cộng, hồi Mậu Thân, ở ngã tư Bẩy Hiền. Nó bị bắt ngay đêm 30-4-1975. Hùng nhí lưu lạc các trại Suối Máu, thành ông Năm, Đồng Ban, Trảng Lớn. Rồi về Sa Ác A. Rồi vào Sa Ác B. Người ta thầm thì Hùng nhí là “ăng ten” ở đâu đó. Còn ở Sa Ác B, cả ngày nó nằm võng ni lông ngủ thì co róm. thức thì khóc. Nằm nhà buồn, nó tình nguyện ra bãi chơi cho vui. Không ai bắt nó lao động cả. Nó không có răng nhai bo bo nên nói rất ít. Nó lại nằm lỳ một xó, lười đi lại. Thế mà người ta nỡ chụp mũ “ăng-ten” lên đầu nó, một thằng sinh ra đã hẩm hiu bất hạnh!
Vì Hùng nhí không tắm nên Đẳng Giao giao cho nó trách nhiệm hú đội lên tập họp. Hùng nhí làm tròn trách nhiệm. Nó chụm hai bàn tay vào miệng thay loa, mặt nhăn nhúm, há rộng mồm nghiến răng mà hét “Đội 21 lên!”. Khuôn mặt nó, lúc ấy, vừa bi thảm vừa hãi hùng. Đằng Giao muốn ống kính của đạo diễn Hoàng Anh Tuấn thu riêng khuôn mặt Hùng nhí thật lớn. Tiếng hét của nó vừa dứt thì ống kính quay xuống sông. Tù nhân trần truồng lên bờ. Các đội khác vẫn ngụp lặn dưới nước bùn.
- Được chứ, ông thầy?
- Độc đáo ra phết.
- Khán giả sẽ thấy cả sự gầy ốm lẫn ghẻ lở, hắc lào và những khẩu cà nông nhiều năm không khạc đạn! Tôi chưa nghĩ ra tên cuốn phim.
- Sông Ray phẫn nộ.
- Hay đấy.
- Tôi lại nghĩ cả đến màn tập họp lao động. Màn này làm générique cho phim cũng tuyệt cú mèo.
Đúng thế. Không có cảnh nào bi đát hơn cảnh tù nhân tập họp buổi trưa chờ gọi đi lao động. Trước hết, nói về nón mũ. Nón lá mới, nón mê là thường. Nón cối cộng sản là thường. Nón cao bồi Tểch- xa, nón lính Tân-tây-lan là thường. Nón sắt quân đội Mỹ là thường. Mũ nồi của các binh chủng tầu bò, nhẩy dù, thủy quân lục chiến là thường. Mũ cói là thường. Một thứ mũ cắt bị cói ra khâu thành mũ lao cải mới lạ mắt. Riêng loại mũ này cũng cả vài chục kiểu. Chưa có trại tập trung nào phong phú mũ như trại tập trung khổ sai lao động của cộng sản. Có tù nhân lười, chụp luôn cái bị lên đầu. Rất tiện. Vì buổi chiều về có thề đựng củi hay đựng vài thứ rau rừng… Các ông lái mũ ở xóm lầy Orange County, ở công ty kháng chiến hải ngoại, ở hợp tác xã giải phóng lưu vong, ở liên minh dân chủ cà chớn và, đặc biệt, ở tiệm của ông Trần Tam Tiện quận 7 Paris, ở tiệm của ông Nguyễn Ăn Kaka thành phố Bruxelles, chắc chắn, chưa hề nhìn thấy nón mũ lao cải. Cho nên, quý ông ấy hơi ngu. Là cứ nhè những thằng đã đội mũ lao cải mà chụp mũ cộng sản, mũ “ăng-ten”. Mũ của quý ông ấy ghi rõ made in USA, made in France, made in Belgium nhưng quên không ghi thêm made by Đào Ngũ, made by Đào Nhiệm, made by Đào Tẩu, made by Đánh Mướn, ma e by Lãnh Lương Lạc Quyên. Vân vân… Tôi thấy cần khuyên các ông lái mũ thuộc thành phần đào ngũ và thuộc thành phần nhớp nhúa ở xã hội Việt Nam Cộng Hoà không nên làm nghề chế tạo nón mũ. Cái thứ mũ các ông đang đội lên đầu mình là thứ mũ nặng tội nhất, hèn hạ nhất, không dễ gì lột ra vất đi nổi: Mũ đào ngũ. Mũ này nó hằn sâu vào sự nghiệp bẩn của các ông, dẫu có ông đã là tiến sĩ. Vậy muốn giương danh tiến sĩ lỏi, nên bỏ nghề chụp mũ và tự truy nã bản thân mình mà tu tỉnh cho nên người.
Bây giờ nói về giầy giép lao cải. Giầy bố, giày da quân đội, giầy vải, giép Nhật made in Chợ Lớn, giép râu đã tập họp đầy đủ ở trại lao cải. Tại Sa Ác B, sĩ quan quân đội biên chế riêng thành các đội chỉ có sĩ quan, sĩ quan cảnh sát biên chế riêng, công chức trình diện học tập biên chế riêng và phản động biên chế riêng. Quân đội của ta thà mang giầy mòn vẹt, há mõm chứ nhất định không thèm xỏ chân vào giép râu. Giép râu có nhiều ở các đội công chức, phản động và hình sự. Các đội hình sự đoạt kỷ lục chân đất. Khi các đội đứng hết dậy, ống kính máy quay phim thu từ đầu gối xuống là thấy đủ nghìn vẻ phong sương của nghìn đôi giầy giép. Đảng và nhà nước cộng sản bóc lột tàn bạo. Mỗi năm tù nhân chỉ được phát một bộ quần áo. Mũ nón, giầy giép phải…khắc phục! Do đó, tù nhân đã vá giầy, khâu giép mà vào rừng gai phát quang.
Đến quần áo lao cải thì bất hủ. Vá chằng vá đụp, vá đủ thứ mụn, đủ thứ mầu. Vá đè lên dấu tù. Quần áo lao cải, có khi, chẳng thèm giặt. Cứ nhất bộ nhất bái dầm mưa, giãi nắng. Nếu gia đình không gửi quần áo vào, tù nhân sẽ trần truồng thực hiện khẩu hiệu “Lao động là vinh quang”. Và, lúc ẩy, tự mỗi tù nhân sẽ tìm ra ý nghĩa tuyệt vời của khẩu hiệu: “Lao động là thước đo giá trị của con người”.
- Lấy đầu tù, lòng tù và chân tù làm générique.
- Hay lắm.
- Vào phim là cảnh tù nhân trốn trại bị trói, mặt mày sưng vù, máu khô dính mép, đứng nghiêm nghe đọc quyết định kỷ luật “Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Độc lập, tự do, hạnh phúc”…
- Đểu quá, đểu quá!
- Thoát ra, sang Mỹ, ông thầy nên thực hiện phim Sông Ray phẫn nộ.
- Cứ ước mơ đi.
Tôi đã ước mơ, ước mơ thật nhiều năm tháng cơ cực trong tù. Ước mơ cho tôi hy vọng. Hy vọng cho tôi can đảm sống đời tù. Tôi đã thoát ra, sang Pháp, chưa sang Mỹ. Tôi không có ý định sang Mỹ nữa. Bây giờ, tôi ước mơ chóng chết. Vì ước mơ tôi mang ở 3 nhà tù, 2 trại tập trung khổ sai lao động ra, tôi mang theo nó lênh đênh biền cả, gian khổ chập chùng, tôi đưa nó lên đảo Poulalu Bidong lầm than và nó đã bị cháy đen từ tôi nhìn rõ thế giới tự do và đồng bào tôi và đồng nghiệp tôi và bằng hữu tôi lưu vong. Quả thật, ước mơ hay ước vọng của tôi đã là ảo vọng bùi ngùi. Tôi đành ước mơ chóng chết. Nhưng ước mơ chóng chết cũng khó như ước mơ thực hiện một cuốn phim nói lên trọn vẹn và trung thực nỗi thống khổ của tù nhân Việt Nam ở trại tập trung khổ sai lao động của cộng sản sau cái gọi là hòa bình của chiến tranh ý thức hệ. Những ngày nằm tù, tôi đã ngây thơ nghĩ:
…Cái tiểu ngã nhập vào đại ngã
Nỗi thống khổ chẳng riêng ai chịu nữa
Nó đè lên vai cả dân tộc, cả thế giới chứng minh
Nó trong giọt nước mắt già và trên ngọn tóc xanh
Nó ở cuộc đời thênh thang và ngục tù tăm tối
Nó ở ban mai kinh nguyện cầu, nửa đêm kinh sám hối
Ở hồi chuông cáo phó
ở tiếng khóc chào đời
Nó gầm gừ đe doạ dài dài
Sau mỗi hoà bình của chiến tranh ý thức hệ
Nó là tham lam, ích kỷ
là kiêu căng ngu xuẩn, là độc ác dối gian
Nó xui Việt Nam tàn nhẫn với Việt Nam
Và bắt nhân loại phải rời xa nhân loại
Không, nỗi thống khổ vẫn chỉ riêng tù nhân và thân nhân của họ phải chịu. Cái tiểu ngã không bao giờ nhập vào cái đại ngã. Cái tiểu ngã của đồng bào tôi ngoài nước Việt Nam càng không bao giờ nhập vào cái đại ngã. Nếu tôi đã không ngây thơ câu này đúng nhất “Việt Nam tàn nhẫn với Việt Nam”. Đừng trách cộng sản Việt Nam tàn nhẫn với người Việt Nam. Hãy hỏi xem người Việt Nam tị nạn ở Mỹ có tử tế với người Việt Nam tị nạn? Hỏi đi! Hỏi đi! Người ta mở rộng túi đóng thuế cho thảo khấu kháng chiến 10 triệu đô la. Người ta đã quyên tặng Hội y sĩ thế giới được bao nhiêu đã làm phương tiện cứu vớt đồng bào của người ta đói khát, sợ hãi giữa đại dương mà hải tặc rình chờ hãm hiếp, cướp bóc, chém giết? Không còn gì mỉa mai hơn Hồng Kông thực hiện phim Boat People và sự giúp đỡ của Trung cộng. Hồng Kông trình bầy giùm dân tộc Việt Nam nỗi thống khổ đòi đoạn nhất của thời đại với loài người hôm nay và mai sau.
Người Việt Nam không nói được tâm sự của dân tộc mình? Có đấy chứ, những vidéo cóc nhái bôi nhọ nghệ thuật, những cuộc thi hoa hậu quốc sỉ, những phim ảnh dơ dáy luộc lại… Một phim lớn về Thuyền Nhân dũng cảm Việt Nam? Không có. Không bao giờ có cả. Bởi vì 5 đô la quá nhỏ để 1 triệu người góp thành 5 triệu đô la và quá lớn để uống coca, hút thuốc lá. Tôi lấy làm xấu hổ khi thấy Siêu thị Tang Frères ở quận 13 Paris mở chiến dịch Sampan lấy tiền giúp Hội y sĩ thế giới, trong vòng ba tháng, số tiền cứu vớt thuyền nhân gấp mấy lần người Việt Nam đóng góp trong vòng ba năm. Tôi đâm ra cụt hứng, không dám động chạm tới sự hờ hững của nhân loại đối với dân tộc tôi nữa. Ấy là tôi đã quên cái thân phận tầm thường của tôi, còn nằm trong ngục tù đã bị vài người Việt Nam… nhà văn, nhà báo đánh dập, đánh vùi và vừa đặt chân lên “đất hứa” bị đánh tới tấp, đánh tối tăm mặt mũi. Tôi có ra ngoại quốc để tranh giành quyền bính, quyền lợi gì đâu? Quyền lợi chính đáng của tôi bị xâm phạm, bị tước đoạt, có nhà văn, nhà báo nào bênh vực? Thì thôi. Còn chữ nghĩa, ai có nhiều người ấy viết, bầy đặt vít rào, cản lối nhau làm chi nhỉ? Chỉ riêng nghĩ đồng nghiệp bằng hữu của tôi, tôi đã lợm giọng. Và sự lợm giọng khiến ước mơ trong tù của tôi cháy khét.
Nhưng rồi tôi vẫn viết cho đồng nghiệp cũ và lại bị ăn quỵt nữa. Người ta bêu nhục tôi chán, người ta ăn quỵt công lao và tiền cước phí của tôi. Và đó là Lẽ Phải của nhân sinh quan mới, thứ nhân sinh quan liêu mong triệu năm vẫn khó lòng phục quốc.
Tôi đã tiếc mình không chết mòn trong nhà tù cộng sản. Như thế hạnh phúc bao nhiêu. Ước mơ của tôi không bị thắt cổ. Cho đến lúc nhắm mắt, tôi vẫn nghĩ bằng hữu mình ở Mỹ chung thủy lắm, không có thằng nào phản phúc cả, không có thằng nào bỉ ổi cả.
Còn đồng bào của tôi trưởng thành cả, tốt đẹp cả, không ai thèm vào quốc tịch Mỹ vì sắp về giải phóng quê hương đến nơi rồi. Báo chí Việt Nam hải ngoại rực rỡ. Các nhà văn, nhà thơ lưu vong đều năm bẩy tác phẩm dịch Anh ngữ do các nhà xuất bản lớn ở Nữu Ước ấn hành, Tây, Tầu, Pháp, Nhật, Ý, Đức xin dịch ầm ầm. Có nhà văn chuẩn bị lĩnh giải Nobel văn chương. Nhất định không có thảo khấu kháng chiến. Các tướng lãnh, đại tá quan trọng đều viết tự khai tham nhũng, nhận tội đào ngũ và xin hồi hương để ra hầu tòa án Quân Sự. Các nghị sĩ, dân biểu viết thư về nước xin lỗi cử tri và cam kết không ra ứng cử nữa. Các tổng trưởng, thủ tướng theo chân tổng thống lên chùa quy y, phát nguyện kiếp sau xin làm bọ hung, làm chó. Các linh mục hối hận chuyện bỏ con chiên di tản và vượt biên. Các thượng tọa đại đức không bầy trò thùng sương và rút hết tiền ngân hàng ra phát chẩn. Linh mục và thượng tọa nào lỡ cho vay tiền xanh xít đít đui, gọi hết con nợ tới., thiêu hủy văn tự. Vân vân và vân vân…
Ước mơ của tôi tuyệt vời thế mà bị thắt cổ. Chỉ tại tôi đã không chết rũ trong tù và lò dò sang… thế giới tự do, thế giới “tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ngu xuẫn, độc ác, dối gian” từ ở trại tị nạn cộng sản. Nhưng mà…
Ta đến đây đành ở lại đây
Cuối đời thấm thía kiếp lưu đầy
Nghẹn ngào sách vở từng trang mục
Chữ nghĩa vèo bay như lá bay
Những tưởng tài năng vần thế cuộc
Nào ngờ tai họa giáng tê vai
Ðường người chó sói nhe răng nhọn
Nghe buốt đau thương cả đế giày
Vàng thau lẫn lộn phiền than lửa
Ngọc đá ganh đua rộn giũa mài
Bùn khuấy thờn vơn khoe gặp vận
Tép tôm hí hửng nhẩy tranh tài
Cá sấu chưa cười rung tiệc máu
Kên kên vẫn khóc rỉa moi thây
Hỡi ơi dâu biển và dâu biển
Ta đến đây đành ở lại đây
Giả câm giả điếc xem tuồng cũ
Ðào kép hiêu hiêu lũ cáo cầy
Vôi trắng vôi vàng vôi lốm đốm
Mặt mày nham nhở dối lừa ai
Bọ gậy ngo ngoe trò cách mạng
Ruồi xanh bu rối rít khen hay
Học đòi Câu Tiễn nuôi thù hận
Chí lớn xem chừng cái móng tay
Răng rụng trống tung còn hám lợi
Thân lươn lãnh tụ đắm mưa lầy
Hư danh gạt gẫm phường khoa bảng
Nguyệt mộ khơi rồi chửa tỉnh say
Ðeo mo mấy đứa buôn dân tộc
Cứu nước khom lưng truống chủ thầy
Nỗi buồn quốc sỉ Lê Chiêu Thống
Gươm giáo Quang Trung có thở dài
Ðã ngỡ nghìn xưa Trần Ích Tắc
Nghìn sau nhan nhản bọn tay sai
Hỡi ơi dâu biển và dâu biển
Ta đến đây đành ở lại đây
Thiếu kiếm bạt non Tôn Thất Thuyết
Lấy thơ ta lấp kín sầu mây
Mong gì Giới Tử Thôi dâng thịt
Ai kẻ cầu sương điếm cỏ đây
Ðất khách cùng đồ buông hiện tại
Quê người mạt vận bỏ tương lai
Vo ve nhặng ốm quanh sơ mít
Inh ỏi gà què quẩn cối xay
Ðỉnh chung cõi tạm cao hơn núi
Sĩ khí lưu vong thấp gót giầy
Ôi cái phương danh mà định nghĩa
Cơ hồ giảm giá vị chua cay
Ðầu lưỡi văn nhân phì nọc rắn
Ðáy tim thi sĩ vút dao bay
Thế nên đĩ điếm thầu văn nghệ
Trọc phú đầu tư núp áo dài
Yêu nước ngứa nghề anh bếp Mỹ
Thương nòi đú đởn chú bồi Tây
Hỡi ơi dâu biển và dâu biển
Ta đến đây đành ở lại đây
Thẹn vì cơm áo mòn khinh bạc
Rượu đốt thời gian lũng dạ dầy
Vó ngựa giao vành đêm mộng hão
Hồn hoang nhức nhối gió heo may
Máu đã úa khô đường phát vãng
Cung tên đố kỵ ngắm nhau hoài
Ngỡ đau giãi mũ Hàn Phi Tử
Ai đưa Lý Tư mảnh đất này
Học đòi lối gã Công Tôn Át
Rồi sẽ mình dao đâm thối thây
Xá chi đỉa đói đeo chân hạc
Mà luận công danh gã rạc rài
Ðâu phải bây giờ sông mới lấp
Ðã từng cát bụi khóc thiên tai
Thì thôi chả trách bìm leo dậu
Cây cỏ luân hồi vẫn cỏ cây
Cố quận cha già căng mắt đợi
Viễn phương hạnh ngộ cứ hao gầy
Hỡi ơi dâu biển và dâu biển
Ta đến đây đành ở lại đây
Dao cùn múa mãi bài vong quốc
Ngơ ngẩn như chiên bị lạc bầy
Thời đã thu không hồi trống điểm
Giật mình tóc gẫy xuống ngày mai
Khương Tử Nha đâu bờ Vị Thủy
Phong thần bảng ấy có hôm nay
Bồi hồi tiếng thét xô hung Trụ
Lửa thắp chiêm bao một giấc đầy
Mộng ảo chẳng no cơn biệt xứ
Ðìu hiu nghịch cảnh khép vòng vây
Con chim trốn tuyết về chưa nhỉ
Ta mãi cô đơn giữa chốn này
Gươm gỗ làm sao mài dưới nguyệt
Mà đòi sông núi nặng hai vai
Mưu sinh chữ nghĩa gầy tư tưởng
Tỳ vết kiêu sa vẹt tháng ngày
Ngùi trông cố quốc tình hong muối
Héo hắt tài hoa tâm sự phai
Thiếu kiếm bạt non Tôn Thất Thuyết
Lấy thơ ta lấp kín sầu mây
Ai trước Hồ Trường chưa rót cạn
Còn nghiêng bầu hẹn một người say
Hỡi ơi dâu biển và dâu biển
Ta đến đây đành ở lại đây
Duyên Anh
(Bài lưu đầy, 1987 trong tập thơ Em, Tôi, Sàigòn và Paris)
Đành ở lại đây đợi chết mòn chứ biết tính sao bây giờ. Tâm sự buồn bã của hoàng hôn đời tôi được tôi diễn tả:
Ta đến một mình không có Moise
Chân hoang chìm lún giữa truông đời
Ðào sâu đất hứa chôn tâm sự
Rượu cháy phồn hoa yêu nữ ơi
Ta đến một mình không có em
Mùa tàn, đất nẻ, bặt lời tim
Hồn oan sa vũng bùn luân lạc
Thoi thóp hoàng hôn, mỏi cánh chim
Ta đến một mình không có ai
Gập ghềnh địa nạn, dốc thiên tai
Thế gian vùi ngủ quên hồng thủy
Thuyền vắng Noé, nước ngập đầy
Ta đến một mình ta với ta
Bỗng dưng thương ngục đá đêm già
Cuối đường hiu hắt chiều giăng mắc
Thấp thoáng hồ ly đốm lửa xa
Duyên Anh
(Ta và Ta, 20-12-86 trong tập thơ Em, Tôi, Sàigòn và Paris)
Và sau hết:
Chẳng hẹn mà thành khách viễn phương
Cũng rằng non nước dục lên đường
Dấu giầy lữ thứ hằn lưng cát
Áo bạc hòa hoa nát gió sương
Chấp kích lang cười khinh Hạng Võ
Ðêm mòn đợi kiếm báu Trương Lương
Ðời không có kẻ nhường xe ngựa
Chậm bước tiên phong muộn chiến trường
Nghĩ giận thế thời con mắt đóm
Ngọc nằm bất động giữa văn chương
Hỡi Cao Bá Quát trùm thiên địa
Một nhát gươm vung rớt mộng cuồng
Vương đạo trái mùa thương Vệ Ưởng
Nghẹn ngào tư tưởng lãnh tai ương
Xác xơ chữ nghĩa gầy nghiên bút
Rượu ngút trời thiêu giấc bá vương
Trả lại phong trần cho bụi đỏ
Lênh đênh sông hẹp bỏ trùng dương
Chiều nay ta thấy ta rời rã
Nhan sắc hồng lâu nguội phấn hương
Duyên Anh
(Bài Ta, 1987 trong tập thơ Em, Tôi, Sàigòn và Paris)
Với tâm sự ủ ê như thế, thật sự tôi chẳng thiết gì cuộc sống lưu vong vô vọng. Tôi đã 53 tuổi, chết là vừa. 53 tuổi, tôi đã trải đời tôi theo vận mệnh của đất nước tôi.
10 tuổi tôi đi đếm xác người quê hương tôi chết đói trên vỉa hè, dưới gầm cầu. Tôi đã mở to đôi một nhìn con người chết đói từng giây. Chết thật nhanh. Tôi đã thấy người mẹ chết, đứa con nhay vú mẹ rồi chết theo. 10 tuổi, tôi chứng kiến Nhật đảo chính Tây, chứng kiến kiếm thép to bản của giặc lùn chặt đứt bàn tay của những đứa bé bằng tuổi tôi nghèo đói, ăn cắp thóc nuôi ngựa Nhật; tôi chứng kiến cách mạng 19-8-1945 và tôi chạy theo cách mạng mà hò hét mà sung sướng.
11 tuổi tôi nhìn Tầu phù sang nước tôi tước khí giới Nhật. Tôi đã hình tưởng quân của Mã Viện, của Ô Mã Nhi, của Trương Phụ, của Tôn Sĩ Nghị.
12 tuổi tôi chứng kiến tiêu thổ kháng chiến.
15 tuổi, tôi chứng kiến giặc Pháp đốt nhà, bắn giết, hãm hiếp đồng bào tôi.
19 tuổi, tôi chứng kiến giặc Pháp thua, quân ta chiến thắng. Và cũng 19 tuổi, tôi làm chuyến phiêu lưu quá xa với tuổi tôi và thời của tôi. Tôi lại chứng kiến cách mạng nhân vị phản phúc, chứng kiến loạn sứ quân tân thời, chứng kiến đảo chính, chứng kiến thoán nghịch, chứng kiến chiến tranh tàn phá đất nước tôi. Cuối cùng, tôi chứng kiến cộng sản vào Sài gòn. Và tôi bị cộng sản giam nhốt 6 năm qua 3 nhà tù, 2 trại lao cải.
49 tuổi, tôi làm thuyền nhân, nằm ăn mày ân huệ định cư 6 tháng ở nhà tù thế giới tự do. Tôi tiếp tục chứng kiến… Kể ra kiếm một nhà văn lớn dần theo những biến cố chó đẻ của lịch sử và có trí nhớ tốt, biết ghi nhận biết suy nghĩ như tôi cũng hơi hiếm. Rốt cuộc, sang đến Paris, nhìn sang bên bờ Đại Tây dương bên kia, tôi buồn nôn. Vẫn nối tiếp những “biến cố” bắt chửi thề. Tôi hoàn toàn tuyệt vọng dẫu tôi đã sống trọn vẹn với những đau thương của quê hương tôi, của thời đại tôi.
Rất may, tôi còn tìm được một niềm an ủi cuối đời ở một số người tuổi trẻ, những người bạn tuổi nhỏ của tôi. Thế là tôi bèn thèm sống thêm vài năm nữa. Để trao đổi kinh nghiệm sống, kinh nghiệm viết và kinh nghiệm chiến đấu với các bạn tuổi nhỏ của tôi. Tôi thắp sáng một ước mơ mới thay thế ước mơ trong tù đã tắt ngóm.
CHƯƠNG 10
Vụ ngô thu hoạch bết bát nên chúng tôi bị thổi “ác-mô-ni-ca” có hai mươi ngày. Hai mươi ngày sáng ngô, trưa ngô, chiều ngô. Răng đã hư vì mày của bo-bo, bao tử đã loét vì mày của bo-bo, bây giờ đến mày ngô vàng, tức là bắp đá. Ngô già luộc cả đêm, cạp muốn rụng răng, nhai muốn lệch quai hàm. Hùng nhí cầm “kèn”, không dám “thổi”. Nó đi xin mì vụn sống cầm hơi đợi thu hoạch vụ khoai. Và vụ khoai trúng lớn. Chúng tôi ăn khoai ròng rã ba tháng. Khoai ăn nóng ruột. Nhưng nhuận tràng. Tù nhân đăng ký… đi cầu tối và sáng sớm. Suốt đêm, đạn tiểu liên chơi ra-phan. Nhuận tràng quen thói hoá tiêu chẩy. Tiêu chẩy biến chứng rất nhanh sang kiết lỵ. Y tế của Sa Ác B chỉ có …Xuyên tâm liên 1. Xuyên tâm liên vô hiệu quả thì bác sĩ Thạch phát thứ thuốc tiêu chẩn uống cầm ngay nhưng táo bón và kiết lỵ thì thuốc chích Emitine lạc hậu đã đầu hàng. Khoai ăn liên miên, tù nhân kiết lỵ hơi nhiều, anh em cứ nhè các đội nông nghiệp mà chửi.
Bác sĩ Thạch kê cái bàn giữa sân trước giờ kẻng báo tập họp lao động. Tù nhân hình sự khai bệnh nằm nhà rất đông. Thời gian này. Sa Ác B có thêm một cán bộ trực trại. Ông thầy này tên Nguyễn Tấn Độ. Thầy Độ da ngăm ngăm đen, mắt trắng dã, rất ưa đinh tù hình sự. Nét độc đáo của thầy Độ là thầy “phản động” nói ngọng. Toàn thể các đồng chí của thầy L hóa N. Riêng thầy N hóa L. Đám tù hình sự khai bệnh nằm nhà phải ngồi dưới gốc cây gần “phòng mạch” của bác sĩ Thạch, đợi thầy tới khám bệnh lại. Thầy xăn tay áo, gỡ đồng hồ. Thầy bắt từng tù nhân hình sự đứng dậy. Chỉ cần bác sĩ Thạch lắc đầu là thầy đinh tù tại chỗ về tội khai bệnh láo. Nhưng bác sĩ Thạch gật đầu lia. Bác sĩ đã cho nghỉ rồi mà. Tù chính trị thoát cảnh tái khám. Ròng rã 15 tháng ở Sa Ác B, tôi chưa hề thấy cai tù đánh đập tù nhân sĩ quan cải tạo, công chức cải tạo và phản động, trong trại và ngoài bãi. Một vài tù nhân phản động bị đánh thì đều thuộc thành phần phản động cà chớn, phản động vượt biên. Vượt biên là tù chính trị. Trung gian vượt biên lại là tù hình sự. Tôi có cảm tưởng cộng sản đã lố bịch hóa cái nghĩa tù chính trị. Cho nên, thế giới đã lắc đầu vì con số 1 triệu tù nhân chính trị sau 1975.
Phải thành thật nói điều này: Cai tù ở trại lao cải không hề chửi bới tù nhân một cách tục tĩu. không hề dùng roi vọt quất tù nhân, bắt tù nhân lao động. Vệ binh ghét tù nhân nào thì gọi tới giáo dục Nội quy.
- Anh cải tạo mấy năm rồi?
- Ba, cán bộ.
- Thuộc Nội quy chưa?
- Thuộc.
- Đọc điều bốn.
-”Trại viên phải triệt để tuân hành mệnh lệnh và chỉ thị của cán bộ”…
-Tốt.
Nó có thuộc nội quy đâu. Mọi điều nó bắt mình đọc, cứ đọc điều một là nó sướng phổng mũi. Đứng đực hay nói không thuộc, sẽ bị nó giáo dục lung tung, giáo dục mỏi chân. Đi lao cải phải thông minh, mồm mép đỡ… học tập. Đi lao cải mà ngu thì vất vả. Thật thà thì lại càng vất vả.
- Anh bảo tuân hành mệnh lệnh cán bộ sao anh không tuân hành mệnh lệnh tôi?
- Cán bộ ra lệnh gì?
- Tôi gọi anh.
-Tôi điếc, cán bộ ơi!
- Thế hả? Thôi thông cảm. Có điếu thuốc lá nào không?
Còn quản giáo có quyền tập họp cả đội mà “lên lớp”:
- Các anh vô lương tâm, thiếu tình cảm gia đình, không chịu cải tạo tiến bộ, ngồi chờ vợ con thăm nuôi.
Đó là về lao động lề mề. Đánh nhau, chửi nhau thì nó “lên lớp”:
- Các anh không thương nhau, ai thương các anh?
Một tù nhân ăn cắp củ khoai, bắp ngô, trái mướp, nó lên lớp:
- Tưởng các anh sĩ quan, trí thức miền Nam là ghê lắm. Các anh cũng ăn cắp. Ăn cắp là xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa.
Sa Ác B không có ai “ăn vụng thịt dưới nhà bếp, ăn tranh phần khoai và cháy của heo” nên tôi không hiểu cai tù sẽ “lên lớp” nhục nhã chừng nào.
Tuyệt nhiên, cai tù cộng sản không “đù cha, đéo mẹ” tù nhân lao cải, không “mày tao” và không xử dụng ngôn ngữ mất dậy để mắng mỏ tù nhân.
Thầy trực trại Nguyễn Tấn Độ mềm dẻo với tù chính trị bao nhiêu thì cứng rắn với tù hình sự bấy nhiêu. Nhưng thầy không thể cứng rắn với đồng chí Amibe vĩ đại “sống mãi trong sự nghiệp” kiết lỵ. Chính thầy đã bị đánh dội ra khi thầy vào nhà kiểm soát nếp sống văn hóa mới. Mùi phân kiết lỵ tanh tưởi. Nhiều tù nhân “con bà phước” kiệt sức không thể lết vào cầu, leo lên bục. Nên hoặc chơi tại chỗ, hoặc chơi dưới sàn nhà. Ruồi nhặng vo ve. Thêm nạn chuột ngày ngao du máng cầu, đêm phiêu lưu chỗ tù nhân ngủ kiếm chác quà thăm nuôi. Chuột đem phân kiết lỵ lên quần áo người! Chúng tôi đã ăn, uống, hít, thở, ngủ bằng dưỡng khí nặng mùi phân kiết lỵ. Không ai chết cả. Thế mới là phép lạ. Con người bị tiêu hao, xoáy mòn thì trông rõ. Sức đề kháng của con người Việt Nam thật kỳ ảo. Bọn Mỹ nằm nhà tù lao cải thì chỉ có chết.
Tuy nhiên, khoai cũng làm khởi sắc nhiều tù nhân hợp khoai. Đám hình sự xì ke, trộm cắp mập mạp trông rõ. Vào thời kỳ “lao động là vinh quang” khoai, tôi nhận được thuốc men, quà cáp của nhóm Amnesty International ở Lannion miền Bretagne, Pháp gửi về địa chỉ gia đình tôi. Con tôi thăm tôi cho biết AI đang ráo riết can thiệp cho tôi được trả tự do. Tôi bình tĩnh chờ đợi ngày cộng sản phải thả tôi ra. Cũng vào thời kỳ này, Sa Ác B xuất hiện một “nhân vật” cai tù quan trọng: thầy giáo dục Mai Sơn. Công tác đầu tiên của Mai Sơn là thử tài vẽ của Đằng Giao và Nguyễn văn Thương, giáo sư trường Mỹ thuật. Đằng Giao bị chê vẽ thiếu phẩm chất. Anh ta cố tình bôi bác để khỏi bị vẽ. Nguyễn văn Thương được chấm. Tác phẩm của Nguyễn văn Thương cảm hứng từ khẩu hiệu thi đua: vượt cờ xanh. giành cờ đỏ, bỏ cờ trắng. thắng cờ vàng được thể hiện trên cái paneau to tướng dựng trước mặt tù nhân khi ngồi tập họp lao động. Nó như vầy: Xe cải tiến biểu tượng của cờ xanh, xe vận tải biểu tượng của cờ đỏ, máy bay phản lực biểu tượng của cờ trắng, hỏa tiễn biểu tượng của cờ vàng. Tôi hiểu sự xỏ lá kềnh của Nguyễn văn Thương. Cờ đỏ cộng sản mới chỉ là xe vận tải. Cờ vàng quốc gia mới là hỏa tiễn. Anh Thương đưa ý kiến, Mai Sơn “nhất trí”. Và tù nhân khoái chí.
Công tác thứ hai của Mai Sơn là thực hiện một ngày lao động xã hội chủ nghĩa liên khu ABC mở con đường từ cầu sông Ray ra Long Khánh. Ngày lao động xã hội chủ nghĩa là ngày chủ nhật. Mai Sơn phát động thi đua giữa ba khu ngày đó. Vậy cần tin tức nóng hổi để phát thanh tại chỗ gây khí thế lao động. Nó lập ban văn nghệ khẩn trương, rồi nó gọi Phạm Long và tôi “làm việc” với nó:
- Anh nào là Phạm Long?
- Tôi.
- Anh đã cộng tác với đài phát thanh nào?
- VOF.
- Đài địch hả?
- Đài Tiếng Nói Tự Do.
-Tự do mẹ gì, phản động nặng! Anh làm cái gì?
- Tôi viết tin và đọc.
- Anh nói cách đọc tin của anh cho tôi nghe?
Phạm Long mỉm cười:
- Thì nói như tôi đang nói.
Mai Sơn bĩu môi:
- Thế mà địch nó cũng thuê anh?
Nó quay sang tôi:
- Anh chắc là Duyên Anh rồi?
Tôi đáp:
- Phải.
- Bao nhiêu năm tay nghề báo?
- 15 năm.
- Báo lá cải hả?
- Lá cải.
-Bao nhiêu năm tay nghề tiều thuyết.
- 15 năm.
- Tiểu thuyết ba xu chớ mẹ gì! Anh biết làm thơ không?
- Biết.
- Anh có biết mắt của thơ không?
- Không.
- Mỗi bài thơ đều có mắt đấy.
Tôi không đủ can đảm để hỏi ông thầy giáo dục Mai Sơn, đại diện của Tố Hữu, ngoài mắt, thơ có mũi, miệng, tai, rốn và hậu môn?
- Anh biết viết tin không?
- Biết.
- Tin ngắn và tin dài khác nhau thế nào?
Tôi chợt nhớ Thanh Tâm Tuyền nói về truyện ngắn, truyện dài. Bèn trả lời:
- Thưa cán bộ, tin ngắn là tin không phải tin dài và tin dài không phải là tin ngắn.
Nó quác mắt:
- Anh dở trò phản động cộng lưu manh hả?
Rồi nó đuổi Phạm Long và tôi về. Nó nhún vai rất ngạo mạn:
- Sài gòn không có tài năng!
Thầy tu Phạm Long khoác tay lên vai tôi:
- Đ.m. cộng sản con hỗn hơn cộng sản ông nội. Nó dạy sư tổ nó cách viết tin cắc ké và đọc tin bằng Ô-pạc-lơ xách tay! Anh buồn không?
Tôi cầm tay Phạm Long:
- Cậu sẽ kể kỷ niệm này cho Phạm Hậu, Phạm Huấn nghe. Chúng nó sẽ cười vỡ nước Mỹ.
Mai Sơn khoái trò bầy hương án sáng chủ nhật. Nó nói về kinh tế, xã hội, chính trị miền Nam. Thằng này mang quân hàm thượng sĩ. Hễ mở miệng nói về văn hóa. Nó không quên tôi: “Văn hóa miền Nam toàn bọn nhà văn lá cải, thí dụ tiểu thuyết ba xu của Duyên Anh”. Một hôm nó nói về phòng Hạnh Phúc 2 nằm trong nhà thăm gặp. Nó bảo tù nhân nào xuất sắc đoạt giải thi đua lao động sẽ được ngủ với vợ suốt một đêm và miễn lao động hai ngày. Nó đem vợ tù nhân ra treo giải thưởng và ban ân bố đức. Nó thi hành chính sách đốn mạt của Đảng nó.
Phòng Hạnh Phúc, cái phòng khốn kiếp này, chỉ dành cho tù nhân phụ trách thăm nuôi, y tế trật tự, văn hóa. Mà Sa Ác B có một tù nhân chính trị duy nhất được làm y tế: bác sĩ Thạch. Mai Sơn nham nhở như Amibe. Nó thao túng Sa Ác B nhờ có thầy đỡ đầu ở Bộ nội vụ. Nó qua mặt giám thị Hiểu. Mai Sơn còn khoái trò tổng vệ sinh chủ nhật. Nó huy động vệ binh, quản giáo bắt tù nhân đem hết chổi cùn dế rách ra sân, lục tung hành lý kiểm tra tỉ mỉ. Lúc ấy, sân trại là chợ trời.
Nhưng mà “tác phẩm” đáng kể của nó là xây một cái hồ chứa nước mưa bằng đá. Bốn đội bị động viên xuống sông Ray vác đá tảng lên bờ. Có đội của tôi. Tháng 11 đã lạnh lắm. Buổi sáng đầy sương mù. Ra bãi lao động, chúng tôi thường sưởi ấm ở những gốc cây đốt còn hồng rực than. Thế mà chúng tôi phải trần truồng lặn xuống sông Ray móc đá trôi tới tự kiếp nào bê lên xếp đống trên bờ. Cho cai tù có nước mưa trong mùa nước lũ. Tôi sẵn bệnh bao tử, thêm bệnh dị ứng da. Hễ dầm mưa một lát, y rằng mu bàn tay đỏ ửng, ngón tay ngứa ran rồi mông, đùi ngứa ran. Tôi đã lặn dưới nước những sáng mùa đông. Bệnh dị ứng da của tôi sợ… tự kiểm, hết dở chứng! Tưởng đã sưng phổi. Tôi chả hiểu tại sao chúng tôi không có ai bị sưng phổi. Lạnh nó bắt đói. Đói nó làm lạnh gia tăng. Vài cục đường chẳng đủ chống lạnh. Tôi mới thấy hình phạt của thù hận gớm ghiếc quá. Một tháng lặn sông mò đá thì cũng như tổ tiên mình đã “xuống biển mò ngọc trai”. Có lẽ, đau xót hơn tổ tiên, vì chúng tôi bị mò đá giữa kỷ nguyên “độc lập, tự do, hạnh phúc”, kỷ nguyên “không còn người bóc lột người”, kỷ nguyên “tôn trọng con người”, kỷ nguyên của “chủ nghĩa ưu việt,, của “hòa giải dân tộc”, kỷ nguyên của người Việt Nam đối xử với người Việt Nam tàn tệ và tồi tệ hơn cả thực dân, phát xít, đế quốc. Nghĩ đến thù hận, tôi cảm hứng viết bài thơ tù:
Thư tù
Gửi cho anh đôi mắt
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết nhìn sự trơ trẽn ngục tù
và nó thấy nó bọ hung lầm lũi
Gửi cho anh cái mũi
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết ngửi mùi tanh tưởi cachot
và nó thấy nó côn trùng câm nín
Gửi cho anh cái miệng
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết ăn thực phẩm trâu bò
và nó thấy nó nghìn năm rác rưởi
Gửi cho anh cái lưỡi
để anh ráp vô họng hận thù
Nó sẽ biết tập tành nói chuyện thương yêu, lãng mạn, mộng mơ
và nó thấy nó xụt xùi muốn khóc
Gửi cho anh bộ óc
Gửi cho anh trái tim
Gửi cho anh ái tình
Gửi cho anh cuộc đời dạt dào cảm xúc
Gửi cho anh con người hào hoa đích thực
Gửi cho anh
gửi tặng hận thù
Tôi cũng nghĩ cả đến lòng trắc ẩn của những kẻ làm chúng tôi đau khổ, nhìn chúng tôi đau khổ, tưởng tượng chúng tôi đau khổ và đã quên chúng tôi vẫn đau khổ. Than ôi, “mặt trời soi trên kẻ ác cùng người thiện, mưa cho người công nghĩa cùng kẻ bất nghĩa” thì lòng trắc ẩn ở chỗ nào nhỉ? Tôi làm tiếp bài thơ tù:
Lòng trắc ẩn
Con chuột đã chui vào
ăn hết phần cơm anh để dành khuya đói
chẳng cho anh ngủ yên khi anh đã rã rượi
nó cắn chân anh bắt anh thức với niềm đau
Con dán đã chui vào
bơi đùa trong ca nước
Làm sao anh uống được
cổ anh khô mà cánh nó ướt nhầu
Con thạch thùng đã chui vào
thở than sám hối
nó muốn linh hồn anh chới với
sáng hôm sau tự khai vỡ máu trong đầu
Con muỗi đã chui vào
đốt anh sưng vù mặt
nó thích anh mở to đôi mắt
nhìn đêm đen chua chát nỗi đời
Nhưng một hôm
anh tha thiết yêu người
Con dán thương anh ngậm đầy oan khổ
con thạch thùng nhìn anh tư lự
con muỗi cong lưng chích còng xích ngục tù
con chuột gặm cửa sắt cachot
Em yêu dấu
thấy chưa
lòng trắc ẩn

Ở thời đại tôi và với đồng bào của tôi, lòng trắc ẩn, hình như, đã tê liệt. Và tôi đành nhận lòng trắc ẩn của con dán, con thạch thùng, con muỗi, con chuột, nhân danh tất cả những gì tôi biết về thống khổ, về thù hận, về hình phạt của thù hận.
Cực hình lặn sống mò đá kéo dài đến cuối tháng 12-1979. Tôi lại về với gốc cây, xe cây và gò mối.
Chuẩn bị đón Tết, TH6 tuyển lựa các nhân tài cho văn nghệ, thể thao. Mỗi khu sẽ có một hội tuyển bóng đá, một hội tuyển bóng chuyền. Trước đó, mỗi Nhà có một hội bóng chuyền giao đấu đề chọn cầu thủ vào hội tuyển. Văn nghệ duy nhất một đội cho liên khu gồm nhạc sĩ, ca sĩ, kịch sĩ tân cổ. Ông cựu giám đốc Viện âm nhạc và kịch nghệ Huế làm chánh chủ khảo chấm điểm nghệ thuật… tù. Một bạn tù Long Thành kể rằng kiến trúc sư Ngô Viết Thụ 3, giải nguyên khôi La Mã, người vẽ họa đồ tái thiết dinh Độc Lập, đã từng được giao nhiệm vụ vẽ họa đồ xây cất cái điểm canh ở trại Long Thành. Thì ông giám đốc Viện âm nhạc và kịch nghệ quốc gia có sắm vai chánh chủ khảo thi đánh đàn, thi hát ở trại tù là chuyện thường. Chấp kinh phải tùng quyền. Một số tù nhân sĩ quan từ Phước Long về đã lao động làm lược, làm mâm bằng nhôm cho quản giáo đề tránh mưa nắng, cũng là chuyện thường. Nhưng với nhiều anh khó tính – thường là chẳng có chút tài mọn nào – hay bầy tỏ “chí khí” và lòng bất khuất” lãng nhách. Các anh này công kích nhạc sĩ, ca sĩ, cầu thủ và thợ kim hoàn nhà tù. Thanh Tâm Tuyền, hồi mới ở Vĩnh Phú về cuối năm 1981, thuật chuyện “ca sĩ” Phan Lạc Phúc khiến tôi ngậm ngùi, thương Ký giả Lô Răng vô cùng. Có ai mời nổi Phan Lạc Phúc hát những buổi thân hữu gặp gỡ ăn nhậu, văn nghệ? Anh ta hát hay lắm. Hôm khai trương Đêm Mầu hồng, Sài gòn, Thanh Tâm Tuyền lên hát, Phan Lạc Phúc nhất định “em chả, em chả”. Thế mà vì đổi đời, anh ta đã đứng giữa sân trại lao cải Vĩnh Phú hát vài bài ca cách mạng lấy khí thế cho tù nhân lên đường khổ sai lao động. Mỗi sáng ca vài bài, cả ngày nằm nhà. Đề tồn tại. Đổi 5000 tù nhân vớ vẩn chết lấy một Thanh Tâm Tuyền sống, một Doãn Quốc Sĩ sống, một Lê văn Tiền sống, một Phan Nhật Nam sống, một Nguyễn Hải Chí sống…tôi cũng chịu. Cái sống của những tài năng là cái để lại khi họ chết. Họ cần thiết sống để làm thăng hoa sự để lại. Mà có bao nhiêu tài năng văn nghệ đúng nghĩa, ở miền Nam? Tôi đã bị nguyền rủa thê thảm vì cái ý nghĩ này. Bọn tướng lãnh, nghị sĩ, bộ trưởng nằm tù nên chết hết, nhưng đừng bao giờ chết Phan Nhật Nam. Tôi không phê bình những người nhờ tài mọn mà tránh lao động vất vả, kể cả vẽ chân dung Hồ Chí Minh. Song, những người này đừng giả vờ sắm vai “uy vũ bất năng khuất” khi thoát nạn và đừng gang họng, lột lưỡi công kích thiên hạ để “sáng danh” cái đức bẩn và hèn của mình. Nếu tôi biết hát, tôi sẽ “thi” vào đội văn nghệ; nếu tôi biết đá bóng, tôi sẽ xin vào đội thể thao. Tù đánh đàn, tù hát cho tù nghe. Tù đá bóng, tù đánh bóng cho tù coi. Văn nghệ, thể thao béo bở gì, miễn lao động thì tập dượt tối ngày. Trình diễn xong được bồi dưỡng cơm cháy! Đá bóng chân đất trên sân rừng, vấp gốc cây là đi chơi cái móng. Giao hữu với cai tù, nó đi giầy vải, nó “cộp” sưng vù giò. Mỗi cái vinh đều có cái nhục. Máu văn nghệ tài tử và máu thể thao tài tử nó kỳ lắm, cứ tìm cái nhục mà lao vào. Để được đàn ca, chạy nhẩy. Dân chuyên nghiệp thì lại chán phèo. Bởi thế, những tay đàn cự phách của Sa Ác B không thi vào đội văn nghệ.
Những ca sĩ, nhạc sĩ tù trúng tuyển được chuyển sang khu A. Khu A dễ chịu hơn khu B nhưng lại có cái hầm đá nhốt tù nhân bị kỷ luật. Nghe nói khu A đã một nửa chức sắc tù là hình sự, nửa là chính trị. Khu B và khu C hình sự là cánh tay, là con mắt của cai tù.
Ngày 30 tháng Chạp, tù nhân nghỉ lao động. Ban giám thị sợ cuối năm, tù nhân nhớ nhà, nhớ vợ, nhớ con sẽ có thể gây ra những bất lợi cho trại nên bầy trò tổng vệ sinh ăn Tết. Nghĩa là tù nhân phải mang toàn bộ hành lý của mình ra triển lãm từng món trên manh chiếu, trên tấm ni lông lớn để vệ binh và quản giáo kiểm tra. Tháo tung hành lý rồi thu dọn hành lý mất nửa buổi. Trực trại loan báo Ban giám thị cho phép hát nhạc vàng ba ngày Tết. Những bài ca chỉnh huấn vẫn bị nghiêm cấm. Trại bãi bỏ giới nghiêm đêm giao thừa. Tù nhân tự do liên hoan văn nghệ trong phòng khóa cửa!
Người bạn tù Phước Long về Sa Ác B kể tôi nghe một kỷ niệm Tết tù của anh ở một trại lao cải Tây Ninh những năm bộ đội còn quản lý. 29 tháng Chạp, cuốc trúng mìn. Vài người chết. Nhiều người bị thương nặng. 30 tháng Chạp khám xét hành lý. Mồng 1 Tết, Ban Giám thị bắt tù nhân tập họp ở sân trại để nghe họ chúc Tết, họ gửi lời chúc Tết gia đình tù nhân và tổng kết thành quả lao động năm cũ, đề ra kế hoạch lao động năm mới. Họ yêu cầu tù nhân hồ hởi phấn khởi chào mừng năm mới, không nhớ gia đình, phải cười vui bầy tỏ thiện chí lao động. Tù nhân cả trại không thể cười nổi. Vì các bạn tù, người chết, người chờ chết, người rên rỉ vết thương ở bệnh xá. Vệ binh dí súng vào ót các tù nhân cưỡng bức họ cười, vỗ tay và hát bài “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Tù nhân bèn cười đủ kiểu, đủ lối. Nhiều người phát khùng vì cười có người vừa cười vừa chửi Hồ Chí Minh. Bị bắn chết. Tôi vội vàng viết bài thơ:
Chào mừng năm mới
Tù nhân tập trung giữa sân trại
nghe giám thị chúc tết mừng thêm một tuổi tù
Hôm qua một đội cuốc đụng mìn
người chết chưa kịp chôn
người mang thương tích còn đang rên xiết
Tù nhân thương bạn
nỗi đớn đau khó nói ra
Giám thị ban lệnh không được nhớ nhà
nhớ vợ nhớ con nhớ cha nhớ mẹ
Chào mừng năm mới
lao động thi đua là đáng kể
Những khẩu AK dí sát gáy mọi người
Cười
Cười
Cười
Cười
không cười chưa tiến bộ
Tù nhân òa lên cười khốn khổ
cười rơi nước mắt cười lệch cả đời
cười lạc giọng cười hụt hơi
Nhưng thế giới chẳng ai biết
ít ngày sau có tù nhân cười hóa điên bị bắn chết
Thế giới chẳng ai biết đã đành, đồng bào của tôi định cư khắp nơi trên trái đất cũng chẳng ai biết. Và cai thầu nỗi khổ đại diện tù nhân càng chẳng biết. Như năm ngoái, ở đây, ngay chiều 30, tù nhân đã được ăn cơm trắng với thịt kho và canh bắp cải nấu xương heo. Tiêu chuẩn thịt khiêm tốn: Mỗi bữa một cục nhỏ hơn nửa nắm tay. Tù nhân hưởng 6 bữa cơm trắng với thịt. Ba ngày Tết thả sức nấu nướng. Từ chập tối, không khí giao thừa đã sôi nổi. Đây là dịp may của mấy ông ái quốc biểu diễn miệng. Nổi đình đám nhất ở Nhà tôi vẫn là ông Phạm Thái Ất. Ông Thái Ất nhất định không cho ai ngủ. Ông ta đơn ca bài “Dậy mà đi”! ông vỗ tay rất nổ. Một tù nhân khó chịu.
- Tôi chưa ngủ. Tôi thức trắng đêm nay. Nhưng cửa khóa chặt. Dậy đi đâu, anh Ất?
Tù nhân khác lên tiếng:
- Vào cầu tiêu đi đái, đi ỉa! Đi cái mồm. Những thằng to mồm không được tích sự gì cả.
Ông Phạm Thái Ất im lặng. Vì người lên tiếng là sĩ quan Võ Bị quốc gia Đà-lạt. Khi ông Ất hết nổ, văn nghệ thuần túy bắt đầu. Càng về khuya càng buồn. Một tù nhân tay đàn guitare miệng hát “Xuân này con không về chắc mẹ buồn lắm…” khiến cả Nhà sụt sùi. Vệ binh gác Nhà ngồi nghe. Chú nhỏ gọi tôi:
- Anh Nong, anh Nong…
Qua chấn song gỗ của tường vách khoang dưới, chú vệ binh và tôi trò chuyện đón giao thừa.
- Bài anh gì vừa hát nà bài gì đấy?
- Tôi không biết tên.
- Anh thuộc không?
- Không.
- Anh nhờ chép hộ tôi bài ấy nhé?
- Cán bộ thích nhạc vàng à?
-Vàng, xanh, đen, đỏ mẹ gì đâu, bài ấy nàm tôi nhớ mẹ tôi, tôi chẩy nước mắt.
- Cán bộ cũng nhớ nhà, nhớ mẹ?
- Ai không nhớ mẹ.
- Tôi tưởng chỉ tù mới nhớ nhà thôi.
- Các anh tù trong, chúng tôi tù ngoài.
- Cán bộ nói sao?
- Các anh tù trong, chúng tôi tù ngoài. Bảo chúng tôi vào Sài gòn, chúng tôi ham quá. Ai ngờ ném vào rừng già canh gác tù. Anh tính xem, tiền cơm, áo, xà phòng, ninh tinh trừ hết, mỗi tháng còn mấy đồng. Để dành bao nhiêu năm mới mua nổi vé tầu về Bắc. Thế nên hai năm một nần phép, vẫn hủy phép. Chắc nâu nắm mới về thăm mẹ được
- Tôi bốn năm tù rồi.

- Tôi hơn anh hai năm. Anh tù trong còn được gặp mặt vợ con, còn được tiếp tế đủ thứ. Tôi tù ngoài ai thăm, ai cho cái gì?
Chú vệ binh móc gói thuốc thơm mời tôi:
- Hút một điếu Sông Cầu, anh Nong. Tôi mời anh. Tiêu chuẩn thuốc Tết đấy.
Tôi rút điếu Sông Cầu. Chú vệ binh quẹt diêm cho tôi mồi thuốc.
- Anh đáng tuổi cha chú tôi. Ở trong này, anh thông cảm nhé!
Tôi nói:
- Nhằm nhò gì.
-Các anh thù chúng tôi nắm hả?
- Thù hận chi, cán bộ.
-Này, nói thật, cũng có thằng náo nếu, hống hách nhưng nệnh cả. Nệnh bắt chúng nó náo nếu rồi chúng nó quen thói. Tôi mong các anh về sum họp gia đình hết. Cứ hết trại cải tạo nà tôi có cơ hội về Bắc.
Chú vệ binh hỏi:
- Thuốc thơm ra phết hả?
Tôi đáp:
- Thơm lắm.
Chú vệ binh dặn tôi:
- Nhớ nhờ chép hộ tôi bài ấy nhé!
Rồi bỏ đi. Tôi có nhiều kỷ niệm với vệ binh, toàn kỷ niệm buồn cười. Có chú cứ đến phiên gác đội tôi là ngày vài lần mời thuốc lá.
- Anh Nong.
- Gì, cán bộ?
- Nại bảo.
-Chi?
- Có thuốc ná cho xin một điếu.
Rút điếu thuốc cống thầy, thầy sai:
- Nại bếp nấy giùm tí nửa.
Có chú xin thuốc nhưng sợ bị “đồng chí” biết, bảo tôi vất một chỗ rồi ra lượm. Có chú bắt tôi cầm con rắn giơ cao, đứng giữa nắng thật lâu vì tôi “đang nao động mà đánh rắn nại còn cãi cán bộ”. Hôm đó, tôi đập chết con rắn bò gần chỗ tôi, chủ ý tặng anh em nướng chia nhau mỗi người một miếng. Vì hết thuốc cống thầy, bị thầy xử ức. Tôi chưa bao giờ gây thù hận mấy chú nhãi chăn trâu cắt cỏ cả. Nói tôi thương hại mấy chú ẩy thì có vẻ giả đạo đức. Nhưng đêm giao thừa 1980, nghe tâm sự chú vệ binh, tôi thương hại thật sự. Chú vệ binh không hiểu câu trả lời thuốc lá “thơm lắm” của tôi. Ở bất cứ không gian và thời gian nào, ở bất cứ hoàn cảnh nào, tình người vẫn thơm lắm. Anh sẽ tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản, lãnh tụ cộng sản hay tiêu diệt luôn những con người sống trong chế độ cộng sản như chú vệ binh “ai không nhớ mẹ”?
Chú vệ binh cỏn nguyên vẹn cảm xúc “tôi nhớ mẹ tôi, tôi chẩy nước mắt” đi tuần một lúc thì trở lại.
- Anh nào vừa hát bài “Xuân này con không về chắc mẹ buồn nắm ” đấy?
- Tôi.
- Nàm ơn hát nại nần nữa cho tôi nghe. Hay nắm, buồn nắm…
Người tù trong cảm động hát lại. Người tù ngoài cảm động nghe. Giao thừa 1980, với tôi, đầy ý nghĩa. Ý nghĩa ấy soi sáng đường hướng sáng tác và chiến đấu của tôi, dẫu tôi có vì cái ý nghĩa ấy mà bị chụp bủa bằng những ngộ nhận, những hệ lụy chập chùng. Không cần. Điều cần thiết là nhà văn phải sống thật với lòng mình.
…Ô dẫu sao tối vẫn thấy họ rất người
Vẫn thấy họ níu tay đời tha thiết
Một nỗi gì xa xôi cách biệt
Có phải con người hay tại chủ nghĩa phi nhân
Con người sinh ra đã muôn thuở cô đơn
nhưng khao khát gần nhau và thèm gần nhận thêm nữa
Ở chín tầng oan khiên nhục nhã
bỗng tự nhiên tôi yêu quý con người
thiếu con người sẽ thiếu hẳn đất trời
Tôi sống với ai
thơ tôi còn chi để viết
Mồng một Tết, như năm ngoái, Ban giám thị bày bàn hương án và bắt tù nhân tập họp đề nghe chúc Tết và động viên tinh thần lao động tích cực. Trước khi Ban giám thị xuất hiện, thầy giáo dục Mạo yêu cầu tù nhân văn nghệ lấy khí thế mừng xuân. Tù nhân nhao nhao “Hùng nhí, Hùng nhí”! Tên tù nhóc anh dũng đứng dậy, tiến lên bàn hương án. Nó nhe “hàm răng chiếc rụng chiếc lung lay” cười khì. Tù nhân vỗ tay hoan hô. Hùng nhí cầm mi-cô của cái máy phát thanh chạy pin, hắng giọng hát không đàn đệm:
… Ta thắp lửa bên con cua đồng
Ta thắp lửa bên lũy tre xanh
Quê hương ta từ ngày làm tương lai
bằng AK bằng lựu đạn 4
Thầy giáo dục Mạo vội vàng chụp mi-cô và đuổi Hùng nhí về chỗ. Văn nghệ lấy khí thế chấm dứt ngay. Tù nhân bầu Hùng nhí là: “người của năm 1980″. Ban Giám thị chúc Tết xong đến lượt các thầy quản giáo xông nhà thăm các đội của mình. Các thầy mang theo mứt Hà nội và thuốc lá Hoa Mai. Lại văn nghệ trong Nhà. Cái đinh văn nghệ của Nhà tôi là Tạ Dung thuộc đội của Đằng Giao. Tự nhiên, anh tù nhân Vovinam đầy mình “đờ mi tốc đờ mi phu” này xuất chúng một màn tự biên tự diễn. Tạ Dung, cháu chín đời Kim Mao sư vương Tạ Tốn, mào đầu:
- Thưa quý cán bộ, thưa các bác, các chú, các anh. Nhân dịp xuân về, Tạ Dung xin cống hiến quý cán bộ và cả Nhà ta màn văn nghệ đặc biệt. Tạ Dung đóng vai người đi từ Bắc vô Nam. Trước hết, anh ta ở Hà nội.
Tạ Dung hát cò lả, trống quân. Đến Huế, anh ta chơi hò mái đẩy. Vô Sài gòn, anh ta hò lơ.
- Bây giờ, người này trở về Bắc.
Tạ Dung đã đi đến cửa cầu tiêu, anh ta trở lại, hát nhạc Phạm Duy. Tạ Dung nhắm mắt giả vờ mù và bước khập khiễng giả vờ què.
- Ngày trở về, anh bước lê, trên quãng đường quê đến bên lũy tre….
Quý cán bộ chán quá, vất mứt Hà-nội và thuốc lá Hoa Mai cáo từ vội vã. Tù nhân vỗ tay sôi nổi. Tạ Dung số một. Tạ Dung đâu có khùng. Anh ta tiên tri ngày tháo lui của cộng sản. Trong ba ngày Tết, đội múa lân khu A vào biểu diễn. Rồi bóng chuyền khu A và C vô đấu vòng loại với khu B. Vân vân. Những tiết mục giải trí nghèo nàn này không hấp dẫn tôi. Nó chỉ làm tăng cái vẻ thê lương của đời tù lao cải. Đằng Giao và tôi có dịp bách bộ quanh trại, gần hàng rào kẽm gai, tâm sự vẩn vơ. Tôi chú ý hàng rào. Hồi tôi mới đến Sa Ác B, hàng rào thấp và thưa, cột bằng cây rừng. Bây giờ, hàng rào cao, dầy, cột sắt và bốn góc là bốn chòi canh bố trí súng trung liên.
- Ông thầy, ở bên Mỹ người ta đang làm gì?
- Chuẩn bị ra báo số Tân Niên.
-Tôi muốn, sau này, ông thầy viết một tiểu thuyết mộng và thực lồng vào nhau như Tiêu Sơn tráng sĩ. Nhân vật của ông thầy là một thôi, không phải hai Phạm Thái và Quang Ngọc, Quỳnh Như và Nhị Nương. Nhân vật ấy đang ở nhà tù, ở trại lao cải thì thoát ra nhập vào đời sống Mỹ. Nghĩa là, vừa mới vục phân dưới hầm, anh ta đã đi nhẩy đầm tíu tít. Rồi một chút suy nghĩ dưới hầm phân và trong phòng trà.
- Ý kiến hay.
- Một định nghĩa về đau khổ và hạnh phúc.
- Ông đã nghĩ chuyện sang Mỹ chưa?
- Không bao giờ..
- Tại sao?
- Tử vi vẽ sẵn con đường xuất ngoại của tôi: Mã lộ cùng đồ, ông thầy đi chứ?
- Phải đi thôi.
- Rồi ông thầy cũng sẽ cô đơn.
- Con người sinh ra đã cô đơn, lầm lỗi trên sinh đạo. Bếp lửa của Thanh Tâm Tuyền đã thét nỗi thét cô đơn đó.
Đằng Giao chỉ lên cây cổ thụ ngoài cổng trại:
- Ông thầy, lạ quá.
Tôi hỏi:
- Gì?
- Cây cổ thụ cũng trổ hoa. Ngắm đi, ông thầy. Đóa hoa tuyệt đẹp. Chỉ tiếc mình không hít được hương vị của nó.
Tôi ngước mắc nhìn đóa hoa duy nhất trên cây cổ thụ của nhà tù Sa Ác. Tôi chưa hề thấy cổ thụ trổ hoa. Mà cổ thụ đã trổ hoa. Lại trổ hoa ở nơi chốn buồn thảm của đời sống.
-Tôi sẽ viết một bài thơ ngắn.
- Nhan đề?
- Đóa hoa.
Và bài thơ ấy như sau:
Cây cổ thụ bỗng trổ một đóa hoa
Anh nghe giây kẽm gai thổn thức
Tự nhiên kẻng tù hết gầm gừ
âm thanh thoảng gió đàn rạo rực
Và đó là mùa xuân
anh vừa thấy sau nhục nhằn phát vãng
Gã cai tù xem chừng lãng mạn
Cây cổ thụ đã trổ hoa
Lòng suối độc xôn xao tình đá
Những thứ còng ở biệt giam
râm ran cảm giác lạ
thèm đôi tay ôm gọn cuộc đời
Họng súng sát nhân mệt mỏi rồi
Thù hận cúi đầu xấu hổ
Bản tình ca
dấy lên tự đất khổ
Cây cổ thụ cũng trổ hoa
tình yêu và hạnh phúc không già
Anh bẻ gai viết nhanh trên lá
những vần thơ ái ân
bồng bế
Rồi con người sẽ yêu nhau
ở khắp nơi trên mặt địa cầu

Tôi đã manh nha một cuộc chiến đấu của con người chế ngự thù hận và hình phạt của thù hận. Trước hết, con người cần phải là nạn nhân khốn khổ của thù hận và hình phạt của thù hận.
Chú thích:
1. Thứ thuốc trị bách bệnh của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Khi tôi rời Sa Ác B, phòng Hạnh Phúc mới mở cửa. Và một số tù nhân được ngủ với vợ.
3. Đã cộng tác với cộng sản. Được cho ra Bắc du ngoại. Được cho sang Liên Xô tham quan, về gáy cộng sản điếc tai cả nước.
4. Tôi không biết tên bài hát này và nhớ mấy câu trên có thể sai vài chữ.
CHƯƠNG 11
Ba ngày Tết trôi qua rất nhanh. Cái không khí “hòa giải dân tộc” lại bị ngột ngạt bởi màn tự kiểm tập thể, tự kiểm công khai giữa sân tập họp lao động trước khi tiến công hai mặt trận Lao động tích cực, Tư tưởng tiến bộ. Hùng nhí và Tạ Dung bị làm tự kiểm cá nhân, bị hạch hỏi cả tuần lễ. Tù nhân Sa Ác B thì chỉ bị phê bình... quá đà nhạc vàng. Nhân vật Phạm Thái Ất nổi bật.
- Anh Ất đâu?
- Anh hò hét to lắm hả?
- Thưa cán bộ, tôi chỉ…vỗ tay!
- Anh thành khẩn chứ?
- Dạ.
- Tốt. Nhưng đừng quên chúng tôi đã không bám sát sinh hoạt của các anh đêm giao thừa.
Tôi vốn không ưa những kẻ anh dũng trong bóng tối và hèn mọn ngoài ánh sáng. Phạm Thái Ất là biểu tượng của hạng người kể trên, nhan nhản trong nhà tù ngoài cuộc đời. Ngạo nghễ phải ra mặt ngạo nghễ. Muốn chứng tỏ mình phủ nhận chính sách cải tạo và pháp lý nhà tù thì hiên ngang khước từ lao động, hiên ngang chối bỏ nội quy, hiên ngang chống đối cai tù. Bằng không dám, nên nhẫn nhục. Biết nhẫn nhục những việc bình thường, biết nhịn nhục những kẻ tầm thường mới gọi là biết sống. Và còn gọi là can đảm. Khi vẫn cam đành ra bãi cầm cuốc, vẫn cam đành tôn trọng Nội quy, vẫn đứng nghiêm trước mặt cai tù thì không nên chửi bới sau lưng chế độ và cai ngục. Sự chửi bới sau lưng không giải quyết được gì. Nó chỉ chứng tỏ sự hèn nhát khi bị cật vấn và bắt buộc gian dối chạy tội. Lúc ấy lôi anh em ra khỏa lấp nỗi bẽ bàng của mình cái tội “ăng ten”. Chống chính sách cải tạo cần khước từ thăm gặp vợ con, gánh nặng quà cáp về trại. Nghe tên mình đọc thăm nuôi, nhẩy cỡn mắt sáng rực, miệng cười toe mà cứ thích chửi cộng sản thầm thì tôi thấy nó kỳ lắm. Nó gian dối lộ liễu. Và xứng đáng bị cộng sản khinh bỉ. Cũng như một ông nhà văn tôi đã gặp ở Paris. Ông này chửi bới Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Hoàng Cơ Minh hết cả ngôn ngữ chửi bới. Tội ác của Hoàng Cơ Minh, ông ta nêu ra cả một đống. Nhưng ông ta không dám lên tiếng trên sách báo ông ta viện dẫn lý do rất hợp lý. Ông nhà văn này thuộc thành phần anh dũng trong bóng tối và hèn mọn ngoài ánh sáng. Cái dũng biểu lộ với cai tù chăn trâu cắt cỏ là cái dũng của kẻ thất phu, bất trí. Đám này chỉ bị hành hạ và chết sảng. Cái dũng biểu lộ sau lưng cai tù chăn câu cắt cỏ và co rúm trực mặt chúng là cái dũng của kẻ vô lại, đê tiện. Người ta đã có một định nghĩa cho sự im lặng, cho tất cả những con người chịu đựng nghịch cảnh một cách nhẫn nhục và can đảm.
Thủ đoạn cộng sản là bung ra rồi thu lại, là nới lỏng rồi xiết chặt, là cho phép rồi kết tội. Sau Tết 1980, sự kiên trì của Sa Ác B biến thành trấn áp. Không còn cảnh Đậu Phi Lục vung cuốc cao rồi buông lưỡi cuốc từ từ nhẹ nhàng rơi xuống, chẳng cần ngập đất. Không còn cảnh Bùi Hoàng Thư chém cả ngày không đứt một cái rễ cây. Không còn cảnh vừa ra hiện trường lao động là báo cáo đi ỉa. Quản giáo đã kiểm tra chỗ tù nhân ngồi ỉa. Chấm dứt màn giải lao… tụt quần trốn lao động. Lệnh của Ban giám thị: Giới hạn sự đi ỉa ngoài bãi đến mức tối đa. Cái thú thứ hai của người Việt Nam không còn, cái thú được ví với tước vị quận công, ngang cơ Ủy viên bộ chính trị trung ương Đảng: “Thứ nhất Quận công, thứ nhì ỉa đồng”. Số tù nhân khai bệnh nằm nhà giảm gần hết. Bi cảnh lao động diễn ra: Người khỏe cõng người ốm đi lao động; người trẻ dìu người già đi lao động, người què chống gậy đi lao động… Vì lao động là vinh quang, lao động là thước đo giá trị con người. Chủ nghĩa cộng sản tôn trọng con người, đánh giá cao con người, với sức người sỏi đá cũng thành cơm. Con người biến sỏi đá thành cơm nhưng con người khiêm tốn, chỉ ăn bo-bo, cạp bắp đá, nuốt khoai sùng!
Đội 28 nông nghiệp của tôi đã phát quang xong diện tích canh tác. Vì ông già Hoán bị trật khớp xương không thể gánh nước và nấu nước cho đội ngoài bãi, tôi được chỉ định thay thế nhờ “tuổi tù” cao hơn mọi tù nhân trong đội. Công tác nấu nước quá nhàn. Tôi gánh nước ở cái giếng đào cách bếp lộ thiên 200 thước. Máng khúc cây lên móc hai cái xô, chất củi nấu nước. Nước sôi, đi lượm ca cóng của anh em múc đổ đầy để giải lao anh em có nước uống. Đó là phần anh em. Còn phần của thầy quản giáo và hai thầy vệ binh thì nấu ấm riêng, có rễ tranh. Rút kinh nghiệm Đội rau xanh Long Thành, tôi bỏ hai tán đường vào ấm nước rễ tranh, khi đội vô lao, tôi xách ấm nước cầm theo ba cái ly “chế” bằng vỏ chai xá xị và ba điếu thuốc thơm Capstan rỏm cho các thầy thưởng thức. Các thầy ngồi uống nước, đấu láo. Đội muốn làm, muốn nghỉ tại chỗ tùy ý. Đội trưởng Trần Ngọc Lân rỉ tai quyên đường, quyên thuốc lá anh em. Anh em chỉ thích lao động đơn sơ chứ không thích đóng góp. Khi đường và thuốc của cá nhân tôi vừa hết, buổi sáng tập họp xuất trại đầu tháng 3-1980, cán bộ hồ sơ xuất hiện tại điếm canh. Trực trại nói lớn:
- Anh Hồ Hữu Tường, anh Vũ Mộng Long ở nhà.
Tất cả tù nhân đều tưởng ông Hồ Hữu Tường và tôi được tha. Bởi vì hễ anh cán bộ hồ sơ bảo ai ở nhà, người ấy sẽ về sum họp gia đình. Tôi giao xô và đòn gánh cho bạn tù khác, trở lại Nhà. Đào Minh Lượng đang quét sân (ông thẩm phán gầy ốm, lao phổi của tôi được làm vệ sinh Nhà từ lâu) chạy tới chia mừng với tôi. Ngô Đình Hoa chúc tôi về Sài gòn vui vẻ. Đợi các đội xuất trại hết, trực trại Nguyễn Tấn Độ tìm tôi:
- Anh Long đâu.
- Có
- Anh được tha rồi đấy.
Thầy Độ nói nhỏ:
- Những gì quý, anh để lại cho tôi.
Tôi cười:
- Yên chí, cán bộ.
Tôi vất lại tất cả đồ đạc cho Đằng Giao, Dương Đức Dũng, chỉ dồn mấy món “quý” như hộp thuốc, bình thủy, chăn, màn, quần áo,…vào cái túi phân bón tặng thầy Nguyễn Tấn Độ. Tôi mặc bộ quần áo bà ba đen đi đôi guốc do du đãng già Mậu, hỗn danh Già Móng đẽo tặng, theo thầy Độ, cùng ông Hồ Hữu Tường ra văn phòng trực trại. Ở đây, ông Tường và tôi, mỗi người được yêu cầu viết một trang nhận xét về Sa Ác B. Dĩ nhiên, nhận xét của tôi là tốt từ A tới Z. Trực trại Hưng nói:
- Được về sớm, sướng nhé!
Nhưng trực trại đã tưởng lầm. Cán bộ hồ sơ đến. Hắn đeo súng ngắn, ôm hồ sơ của ông Tường và tôi:
- Các anh chuyển trại. Cơ hội thuận lợi của các anh ở trại mới. Các anh sẽ được tha ở đó.
Người buồn nhất là trực trại Nguyễn Tấn Độ. Tôi đành xách túi đồ định cho hắn lên chiếc Van nhãn hiệu Ford. Ông Tường và tôi ngồi băng dưới cùng. Người ta khóa tay phải của tôi vào tay trái ông Tường, chân cũng thế, bằng hai chiếc còng số 8 made in USA. Xe rời trại. Nó chạy qua chiếc cầu do đội của Dương Đức Dũng bắc ngang sông Ray. Nó chạy trên con đường tù nhân Sa Ác đã mở những ngày lao động xã hội chủ nghĩa.
Giã từ Sa Ác. Giã từ một nơi chốn đã làm vàng ửng nỗi ngậm ngùi của tôi. Giã từ con dốc dài thoai thoải gánh nước leo lên thót bụng, oằn vai. Giã từ hầm phân nhung nhúc hàng tỉ con ròi. Giã từ gốc cây. Giã từ gò mối. Giã từ tất cả những tị hiềm nhỏ mọn, những gian dối đê tiện, những phán xét ngu xuẩn của xã hội vây quanh hàng rào kẽm gai. Giã từ, giã từ. Giã từ và cám ơn con gọng vó suốt đời phấn đấu ngược dòng nghịch lũ, suốt đời khước từ thân phận bèo rác, cây mục cuốn xuôi dòng. Giã từ và cám ơn đóa hoa đã nở trên cây cổ thụ. Tôi lại ra đi. Và chưa biết đi về đâu?
Duyên Anh
25-7-1987
PHẦN II: THƠM NỒNG TRÁI ĐẮNG(RỪNG LÁ Z30 D) (RỪNG LÁ Z30 D) - CHƯƠNG 12
Đi về đâu? Tôi không biết. Và tôi cũng chẳng cần biết làm gì. Tôi đã đi từ nhà tôi đến Sở Công An thành phố Hồ Chí Minh. Tôi đã đi từ Sở công an đến đề lao Gia Định. Tôi đã đi từ đề lao Gia Định đến khám lớn Chí Hòa. Tôi đã đi từ cái tĩnh này vào cái tĩnh khác. Rồi tôi đi từ khám lớn Chí Hòa đến Sa Ác, tôi đi từ cái tĩnh ra cái động. Tôi có kinh nghiệm này: Cái tĩnh là sự đầy đọa linh hồn, cái động là sự đầy đọa thể xác. Cả hai cộng lại thành một hình phạt của thù hận mà người cộng sản đã tự hào tuyết hận tôi, tuyết hận một nhà văn chống đối họ bằng tư tưởng và chữ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản bất lương Mỹ đã phó thác cái sứ mạng trả thù nhà văn nhân bản cho chủ nghĩa cộng sản bất nhân Nga. Không có nhà văn nào tự nhận mình còn lương tri mà không phẫn nộ thái độ xấc xược, vênh váo, chơi cha của bọn Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở khắp nơi trên thế giới. Bọn Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đại diện cho những chính sách, những chủ thuyết hèn mọn của những chính phủ những lãnh tụ tối cao của Nhà Trắng, của Ngũ Giác Đài, của Quốc Hội. Dân tộc Hoa Kỳ đã trở nên kiêu căng, ngạo mạn do cái chính sách ngu muội của “lập pháp” và “hành pháp” của họ với các nước nhỏ, nhất là các nước lệ thuộc vào đồng đô la viện trợ. Nước Mỹ không biết cứu giúp ai. Nước Mỹ không có lòng trắc ẩn. Nước Mỹ chích vào mạch máu tiểu nhược quốc một chai sérum thì sẽ rút ra một lít máu. Nước Mỹ rồi sẽ là Babylone. Hồi chuông báo động một đại hồng thủy mới đã điểm. Con tầu của ông Noé sẽ khước từ cứu vớt dân tộc Mỹ. Hoặc là, dân tộc ấy sẽ chịu lời nguyền như dân tộc Do Thái đã chịu. Dân tộc ấy cần biết đau khổ. Và cộng sản sẽ dạy họ thế nào là đau khổ. Lúc đó, họ sẽ hiểu còng made in USA không phải để cộng sản còng tay những người công chính chống cộng sản, mà còn để cộng sản còng tay người Mỹ tống vào các trại tập trung khổ sai lao động. Lúc đó, người Mỹ sẽ đói, sẽ ăn bọ cạp, thằn lằn, chuột cống cào cào, châu chấu, rắn rết rau rừng, cỏ dại... Lúc đó, người Mỹ sẽ khiêng bom chưa nổ, sẽ lấp hố bom, sẽ xuống hầm phân. Và, lúc đó họ sẽ thấy họ là con người đích thực, con người nguyên vẹn không giả vờ chẻ đôi, một nửa cứ sát hại nhân loại bằng bom đạn dã man, một nửa cứ nghêu ngao phản chiến rẻ tiền.

Tôi nói thẳng: Tôi chống đối chính sách của Mỹ đối xử với các nước nhỏ nhiệt tình như tôi chống đối chủ nghĩa cộng sản. Tư bản là cộng sản giầu. Mỹ và Liên Xô cùng bản chất gian manh khốn nạn. Hai đứa đang ghét nhau chuyện giầu nghèo. Thề thôi. Chẳng còn ý thức hệ gì cả. Muốn thoát đại hồng thủy, dân tộc Mỹ phải làm cách mạng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để cùng các dân tộc khác, thành tâm và lương thiện xóa bỏ nốt chủ nghĩa cộng sản. Khi hai chủ nghĩa khốn kiếp này bị hủy diệt, tham vọng đê tiện của chúng bị hủy diệt luôn. Loài người sẽ sống hòa bình, hữu nghị, hạnh phúc mà không cần bất cứ một chủ nghĩa nào. Khách quan mà nhận xét mà phê phán hai chủ nghĩa này đã bất lực trong mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Chúng còn tồn tại ngày nào nhân loại còn phải chới với trong chiến tranh ngục tù và thù hận Vậy nên hủy diệt chúng. Dân tộc Mỹ sẽ lãnh đạo cuộc chiến của Thiên Thần chổng ác quỷ, của con người chống quái vật 1.> Những nhà văn trước khi trở thành nạn nhân của cộng sản đều đã là nạn nhân của tư bản Mỹ. Diễn nghĩa rộng hơn, nhiều dân tộc bị tư bản Mỹ làm mồi dâng cộng sản. Cuba, Việt Nam, Angola, Nicaragua. Sẽ thêm nữa. Bởi vì, ở đâu chính sách Mỹ can thiệp trực tiếp ở đó chính nghĩa cộng sản rực rỡ và sức mạnh cộng sản đuổi Mỹ cuốn cờ chạy dài. Nước Mỹ thay vì xây Đài Chiến Thắng… giả vờ, nên tạc tượng Đại sứ John Dean ôm cờ sao sọc, mặt mày tái mét “nhanh bước chân nhi đồng”. Đừng quên khắc câu nói bất hủ của hoàng thân Sim Matak giữa trái tim John Dean: “Cái chết đối với tôi không quan trọng. Điều quan trọng là tôi đã trót tin người Mỹ”. Tượng John Dean nên dựng ở thủ phủ mỗi tiểu bang Hiệp Chủng Quốc. Để nhắc nhở cái dân tộc ngạo mạn, xấc xược ấy sự thua trận nhục nhã và sự phản bội có chứng cớ. Tất cả những danh từ, động từ, tĩnh từ liên quan tới chung thủy, thành thật, đồng minh, gắn bó, hữu nghị trong tự điền Hoa kỳ cần xóa bỏ. Muốn để lại, cần ghi chú: Chỉ áp dụng cho kẻ thù, không áp dụng cho bạn và đầy tớ.
Tôi là nhà văn, từ biết cầm bút bầy tỏ chính kiến, đã không tha thứ cho cái chính sách ngược ngạo của Hoa kỳ ở nước tôi. Chính sách ấy tạo ra bè lũ tay sai nắm quyền thống trị. Bọn thống trị cầy cáo này ngu dốt, tham nhũng. Chúng nó chỉ có tài ngoan ngoãn vâng lời chủ đàn áp, bóc lột dân tộc tôi. Người Mỹ tuyên bố khai phóng dân chủ, tự do và bảo vệ tự do cho dân tộc tôi. Nhưng người Mỹ đã chỉ thị đầy tớ đâm lưỡi lê chảy máu dân chủ và thắt cổ tự do. Người Mỹ ở Việt Nam khích lệ đầy tớ tham nhũng và ăn chia tiền tham nhũng. Rốt cuộc, dân Việt Nam phải chống cộng sản, chống đầy tớ Mỹ, chống cả Mỹ. Sự mỉa mai nhất của chiến tranh Việt Nam là lính Mỹ, con em của dân tộc Mỹ đã chết nhục như những tên đánh mướn hèn hạ. Họ bị chính sách Mỹ lừa bịp. Họ đâu có được vinh dự hy sinh vì tổ quốc, vì lý tưởng bảo vệ tự do – dân chủ. Họ đã chết thảm trong “cuộc chiến mà họ không được phép chiến thắng” cho bọn tay sai của chính sách Mỹ ăn cắp, phè phỡn. Những cựu chiến binh thất thểu trên quê hương của họ có ai biết Cao văn Viên gửi ngân hàng ngoại quốc bao nhiêu triệu đô la? Có biết Nguyễn văn Thiệu đang giữ bao nhiêu triệu đô la? Như bất cứ một người Việt Nam liêm sỉ nào, tôi đã chống cộng sản, chống chính sách Mỹ và đầy tớ Mỹ. Và tôi bị đầy tớ Mỹ cấm viết, cấm luôn cả bút hiệu viết báo theo lệnh của chủ Mỹ của chúng. Tôi nghĩ, đến hôm nay, chỉ còn những thằng nhà văn vô liêm sỉ mới tiếp tục ngửa tay nhận tiền Mỹ làm công tác “văn hóa”. Những thằng nhà văn vô liêm sỉ ấy vẫn viết lách ăn lương khoán của Mỹ và vẫn được cộng sản ca ngợi công khai trên báo chí của chúng. Chỉ những nhà văn liêm sỉ là thất thế và bị vây hãm giữa ba thế lực cộng sản, phản chiến Mỹ và chính phủ Mỹ. Và đôi khi còn bị vây hãm bởi chính đồng nghiệp chống cộng của họ. Chưa kể họ còn bị vây hãm bởi các công ty kháng chiến, các hợp tác xã giải phóng, các tổ hợp phục quốc, các hãng thầu ái quốc và đám văn nghệ sa đích đố kỵ dơ dáy. Nhưng tín hiệu mới của chữ nghĩa dấn thân lúc nào cũng sẵn sàng phóng ra. Hôm qua. Hôm nay. Trong nước. Ngoài nước. Là người, không ai biết cúi mặt. Sự ngẩng mặt có thể dẫn vào tù, dẫn ra trại tập trung, dẫn xuống hầm phân, dẫn đếnn nơi chốn nào khác mình chưa biết, dẫn bằng ngõ hẹp, đường hẹp, dẫn qua cửa hẹp, dẫn đến sự sống. Khi đã đến đích của sự sống, cái chết vô nghĩa, cái tồn tại mới đáng kể. Bởi vì, cái tồn tại là cái gì để lại sau lần chui qua cửa hẹp.
Tôi đang đi trên con đường hẹp. Con đường hẹp dẫn tôi vào Rừng Lá. Là đây, trại lao cải Z30 D. Bên kia dẫy núi Mây Tào là TH6 Đồng Nai, bên này là Z30 D Thuận Hải, một tỉnh gồm Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân. Bí số của các trại tập trung khổ sai lao động tỉnh Thuận Hải là Z. Z30 D là một trong những Z30 từ A, B, C. D đến H, I, K, L, M... Từ quốc lộ số 1, cây số nào tôi không nhớ, rẽ bên phải, đi khoảng hơn nghìn thước là tới Z30 D, K1. Khu vực này, trước 1975 là Rừng Lá hãi hùng. Du kích Việt cộng ẩn núp nơi đây, thường chặn xe đò tuyên truyền và xin “ủng hộ” tiền bạc. Đáng lẽ phải gọi là rừng Buông vì đa số cây rừng là cây Buông, thứ cây chỉ dùng được đọt lá. Cây Buông thích hợp đất cát. Rễ của nó giống hệt chùm râu ăn không sâu nhưng tóe ra khoảng đất rộng. Thân nó như thân cây dừa nước. Hai mươi năm Buông mới trổ hoa, kết trái. Và chết. Tuổi thọ của nó vỏn vẹn hai mươi năm. Trái cây Buông có chất độc. Người ta sử dụng để thuốc cá suối cạn. Rang khô, tán nhỏ ném xuống suối, cá sẽ nổi lên ngáp ngáp. Đọt lá của nó để đan quạt, đan giỏ… Lá già để lợp nhà, làm tiếp. Thân nó vô tích sự. Nó nằm mục đợi nấm mọc mùa mưa. Có hai thứ nấm ngon nhất và quý nhất. Là nấm mối và nấm Buông. Nấm mối nở trên gò mối. Nấm Buông nở trên thân Buông. Sau 1975, cộng sản dùng sức người của tù nhân phát quang khu rừng lá Buông, xây dựng một trại tập trung mang bí số Z30 D. Trại này di chuyền từ Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh ra nên vẫn giữ tên cũ Thủ Đức Z30 D. Con đường đất lớn ngoài quốc lộ dẫn vào trại là do tù nhân phạt rừng, hạ cây đào đất mà đắp.
Z30 D có ba K, cũng như ba khu. K là K2 và K3. K tôi đến là K1. Thủ tục nhận tù mới nhập trại ở Z30 D rất đơn giản. Có lẽ tù mới chỉ có hai tên. Người ta mở còng cho chúng tôi trên xe. Chúng tôi xách hành lý bước xuống. Tôi ngơ ngác nhìn một…dinh thự! Phải tôi đang đứng giữa sân trải đá răm xen lẫn sỏi của một dinh thự, chắc chắn, lớn hơn bất cứ một Bộ nào của nước Việt Nam cộng hòa ở Sài gòn. Sân có nhiều mảng vườn trồng hoa. Cỏ bên lối đi trải đá răm xanh um, tỉa xén và chăm sóc công phu. Những dẫy nhà nền cao, mái ngói đỏ au. Tôi không thấy cái vẻ “lao cải” ở đây. Ai dám bảo đây là nơi của chúa ngục, là nơi nhận chỉ thị đầy đọa tù nhân?
Người ta làm thủ tục nhập trại cho chúng tôi rất nhanh trong một căn phòng sàn lót gạch hoa cửa sổ thoáng mát. Anh cán bộ hồ sơ của TH6 từ giã chúng tôi. Anh ta nói:
- Ở đây, trại sẽ tạo mọi cơ hội thuận lợi cho các anh về sum họp gia đình. Tôi bảo đảm với các anh, trại nầy là trại cuối cùng của các anh. Các anh sẽ được tha ngày rất gần.
Chúng tôi được dẫn sang trại đối diện cái dinh thự gọi là cơ quan. Cơ quan vắn tắt. Trật tự của trại khám xét hành lý của chúng tôi, khám xét thân thể chúng tôi dưới sự giám sát của cai tù. Cộng sản đã lên án chính sách chiến tranh hóa Việt Nam của Mỹ. Nghĩa là họ chửi Mỹ dùng Việt Nam tàn sát Việt Nam. Cũng thế cộng sản dùng tù nhân khám xét tù nhân hạch hỏi tù nhân, làm khó dễ tù nhân. Sau màn kiểm tra người và vật, chúng tôi được dẫn vô một căn nhà. Tôi lại ngạc nhiên căn nhà tù tường gạch cửa sổ gỗ chấn song sắt, mái lợp fibro ciment. Căn nhà có kho, có kệ chứa thực phẩm của tư nhân và nồi niêu, ca cóng; có cầu tiêu bàn xối nước, có hồ nước lớn. Hồ nước xây bên trong nhà cầu tiêu có ba phòng, có sàn tắm. Căn nhà hai tầng kiều TH6 nhưng gỗ bào nhẵn làm sàn gác có kệ để hành lý. Tầng dưới lót gạch hoa, có hầm để hành lý cá nhân đậy nấp gỗ ngay đầu mình. Có hàng chục căn nhà và mỗi căn thuộc quyền xử dụng của một đội dưới 50 tù nhân.
Z30 D, K1 có hai khu. A và B. Khu A là khu kiểu mẫu của cả ba K và của một trại cải tạo kiểu mẫu của toàn bộ nhà tù nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thư viện khang trang rất nhiều sách báo cộng sản. Có thể đọc Lê nín toàn tập, Xít ta lin toàn tập, Thời niên thiếu của Mác…. tại đây. Cũng có thể đọc Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo và Chùm nho phẫn nộ của John Steinbeck hay Cuộc đời Leonard de Vinci… Còn có thể đọc Temps moderne của Liên Xô, ấn bản Pháp ngữ. Thư viện đủ các thứ tự điển. Quản thủ thư viện là tù nhân trong Tổ thông tin văn hóa. Bệnh xá có hai bác sĩ, một tù, một cách mạng. Bác sĩ cách mạng tên Hoàng Cầm, dân Nam bộ tập kết. Bác sĩ tù nhân tên Nguyễn Vân Hạc, nghị sĩ, người đã cống Ban giám thị Z30 D chiếc Peugeot 404 để được làm bác sĩ của tù nhân. Như vậy, tránh lao động vất vả. Khi tôi đến bác sĩ Vân Hạc đã về, bác sĩ Nguyễn Hữu Nhơn của binh chủng Thủy quân lục chiến được gọi thay thế, thêm nha sĩ Phạm Huy Hoàn giã từ cuốc xẻng. Bệnh xá Z30 D có hai y tá, nhiều thuốc và nhiều giường. Còn có bếp riêng cấp dưỡng bệnh nhân theo tiêu chuẩn bồi dưỡng. Sân trại có vườn hoa và ba hồ nước lớn. Nước dẫn từ suối bằng ống lớn, máy bơm. Z30 D có máy điện chạy 24 trên 24, có cả château d’eau…hiện đại. Nói tóm lại khu A của K1 là khu kiểu mẫu và lý tưởng mọi mặt. Rõ ràng, nó là trại học tập cải tạo.

Cách một hàng rào tre và cái cổng qua nhà bếp của trại tù, khu B y hệt Sa Ác A TH6. Tệ hơn nữa, mái lợp lá Buông và tường phên lá Buông bọc ngoài tường cây cắm dầy khít. Chế độ đại tiện là…đổ thùng! Thiên đường khu A và địa ngục khu B. Vì là trại kiểu mẫu nên kỷ luật cũng kiểu mẫu. Dẫy cachot gồm 5 phòng sát khít hội trường. Giây kẽm gai không được xử dụng ở Z30 D. Vây quanh trại là hàng rào cây cao chôn sâu và sát khít. Lại thêm cây nhỏ làm nẹp ngang siết kỹ bằng giây thép. Cứ một thước rào có một cột trụ cây thật lớn. Hàng rào cây…đúp. Ở giữa là lối đi. Ngoài hàng rào, người ta trồng tre. Khi xe lên cao xanh um, trại sẽ là cái làng... êm ấm. Z30 D có đài phát thanh, phát thanh mỗi tối từ 8 giờ đến 9 giờ. Phụ trách chương trình là tù nhân Bùi Hoàng Cầm cảnh sát đặc biệt kiêm cựu ký giả của nhật báo Đồng Nai của chủ nhiệm Huỳnh Thành Vị. Ông Vị và danh ca Duy Trác đã nằm tại khu B Z30 D, K1. Họ bị chuyển ra trại trừng gjới Phủ Khánh trước ngày tôi tới Z30 D. Đài phát thanh là “kẻ thù” của tù nhân. Bởi rằng, chương trình của họ là đọc tên những tù nhân khai bệnh nằm nhà. Nhiều tù nhân bị phê bình ốm giả vờ. Nhiệm vụ của Bùi Hoàng Cầm là, sáng sáng, qua bệnh xá ghi chép tên tù nhân khai bệnh, kiểm điểm xem trong tháng tù nhân khai bệnh nằm nhà mấy lần, bao nhiêu ngày. Anh ta làm việc theo chỉ thị thôi. Nhưng anh ta bị tù nhân lên án nặng nề và chụp mũ “ăng ten” tổ bố. Z30 D tổ chức khác hẳn TH6. Tù nhân hình sự, chính trị lẫn lộn một đội. Tù nhân chính trị được làm trật tự, thăm nuôi và lâm sản.
Ông Hồ Hữu Tường và tôi được tạm đẩy vào căn nhà của Đội văn nghệ, thể thao. Đội này đàn sáo, ca múa, ảo thuật, vẽ panneau, viết khẩu hiệu và đá bóng. Vậy nó phân làm hai tổ. Tổ văn nghệ lại chia đôi: Ban tân nhạc và ban cổ nhạc. Dụng cụ âm nhạc do tù chế tạo. Tù nhân chế tạo đàn guitare, đàn violon, đàn nguyệt, đàn tranh, đàn gáo, đàn cò... Tân nhạc thì khá hơn, dụng cụ do trại mua làm cảnh. Có cả giàn trống, guitare điện. Đội văn nghệ, thể thao nhàn hạ, nhiều đặc ân đặc lợi nên bị ghét. Ở đâu có lợi, ở đấy có ganh ghét. Hễ hôm nay Tổ văn nghệ ở nhà tưới cây thì Tổ thể thao đi phát quang thật xa ngoài quốc lộ, ngày mai Tổ thể thao ở nhà, Tổ văn nghệ ra đi. Ra khỏi trại. có tiền tha hồ ăn hủ tíu, miến gà, mua chuối, mua trứng đem về. Bạn thân ở đội khác có thể gởi tiền nhờ mua chuối, mua rau…. Bạn không thân bị từ chối. Đó là nguyên nhân của chụp mũ. Lúc tôi vào căn nhà, người đón tiếp tôi là Lê Ngọc Biên.
- Tôi là anh em cột chèo với anh Trương Đình Huân, em của chị Thanh Khánh, anh nhớ chưa?
- Nhớ rồi.
Anh Biên làm mì gói chiêu đãi ông Tường và tôi. Chúng tôi chưa kịp tắm thì vệ binh tới dẫn chúng tôi ra suối tắm. Và sau đó, chúng tôi được dẫn lên văn phòng của Phó giám thị, ủy viên chính trị của Z30 D, thiếu tá Phan Hữu Phúc. Ông Tường vào trước, tôi ngồi ngoài hành lang. Phó giám thị Phúc làm việc riêng từng người. Đến lượt tôi, ông Tường về trại thay vì ngồi đợi tôi cùng về. Tôi không biết nội dung cuộc mạn đàm ngắn ngủi giữa Phó giám thị Phúc và ông Tường. Riêng tôi Phó giám thị Phúc rất ân cần. Ông ta pha ấm trà mới, rót nước mời tôi. Tự tay ông ta bóc gói thuốc Phù Đổng đưa tôi rút và quẹt diêm cho tôi mồi thuốc.
- Anh đi đường có mệt không? – Ông ta hỏi tôi.
- Bình thường, thưa ông Phó giám thị. -Tôi đáp.
- Cứ gọi tôi là cán bộ.
- Vâng.
- Anh sẽ về nhưng anh nhớ rằng anh được tha là do ở sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Tuyệt đối không một thế lực ngoại quốc nào có thể can thiệp cho anh ra khỏi trại cả.
- Tôi nghĩ thế.
- Những ngày còn ở trại, nhất là ở đây, anh không nói cho bất cứ ai anh đã ở các trại nào và từ trại nào vừa đến.
- Vâng.
- Tôi sẽ gặp anh sau.
- Vâng.
~ Anh cần gì, cứ báo cáo cán bộ quản giáo hay cán bộ trực trại xin gặp tôi, tôi sẽ giải quyết ngay.
- Cám ơn cán bộ.
Sau đó, ông ta hỏi thăm chuyện gia đình tôi và dự định cho tương lai khi tôi trở lại đời sống. Tôi về trại một lát thì các đội tan lao.
Qua sự thông tin của trật tự, một số anh em đến tìm tôi. Tôi giữ lời hứa với Phó giám thị Phúc, không nói về các nhà tù tôi đã bị nhốt và trại lao cải tôi vừa rời Số anh em này thất vọng tôi ngay. Họ thấy tôi không phải là nhân vật hào hùng của tiểu thuyết của tôi. Và họ cho rằng họ đã hiểu tại sao tôi được ân huệ biên chế ngay vào Đội văn nghệ, thể thao. Rồi Bùi Hoàng Cầm, nhà báo, nhân vật bị tù nhân nguyền rủa từ khu B sang thăm tôi. Rồi những tù nhân bị đánh dấu “ăng ten” như hoạ sĩ Có, sĩ quan cảnh sát, nhà ảo thuật Hưởng, hạ sĩ quan an ninh quân đội, săn sóc tôi rất chu đáo buổi đầu khiến số anh em có kết luận dễ dàng: Tất cả những thằng nhà văn, nhà báo ở các trại đều làm công việc như thằng nhà báo Bùi Hoàng Cầm! Một tuần lễ sau người ta bảo tôi là Bùi Hoàng Cầm của TH6 B, Xuyên Mộc, Đồng Nai. Tôi tin chắc ông Hồ Hữu Tường đã được Phó giám thị Phúc yêu cầu như đã yêu cầu tôi “không nói cho bất cứ một ai anh đã ở các trại nào và từ trại nào vừa đến”. Không hề có phát thanh… học tập, phát thanh mỗi tối ở Sa Ác B. Cách nhau dẫy Mây Tào, sự thật bên kia và bên đây đã chẳng giống nhau rồi. Bấy giờ, tôi không cần tìm hiểu. Sau này tôi mới tìm hiểu và tôi ghê tởm cái thủ đoạn cộng sản. Họ triệt hạ tôi, họ làm tôi mất hết tư cách rồi mới thả tôi về. Để tôi hoàn toàn tê liệt. Họ bảo tôi đừng nói rồi họ rỉ tai trật tự, họ tung tin Hồ Hữu Tường và tôi từ đâu tới, đã làm những gì thật dơ dáy ở các trại cũ. Điều bấy giờ tôi suy nghĩ chỉ là câu nói hé lộ một xác nhận Amnesty International sắp cứu tôi ra. “Anh sẽ về nhưng anh nhớ rằng anh được tha là do ở sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Tuyệt đối không một thế lực ngoại quốc nào có thể can thiệp cho anh ra khỏi trại cả”.
Tôi nằm ở Đội văn nghệ và thể thao hai ngày nghỉ mệt. Anh Lê Ngọc Biên kể cho tôi nghe nhiều chuyện thú vị. Anh đã ở Suối Máu, đã đáp chuyến tầu HQ 503 đi Phú Quốc, đã ở Phước Long. Mấy tháng trước có phái đoàn Amnesty lnternational thăm Z30 D, K 1. Tù nhân cò mồi của Đội văn nghệ và thể thao sắm vai trại viên trại học tập cải tạo. Mỗi diễn viên được phát một bộ quần áo mới không đóng dấu tù. Đầu tóc cắt gọn. Râu ria cạo nhẵn. Các Nhà quét dọn sạch sẽ, sắp xếp ngăn nắp. Các hồ nước bơm đầy. Bệnh xá tươm tất. Thư viện gọn gàng. Giàn nhạc đầy đủ dụng cụ. Phái đoàn tới, được Ban giám thị hướng dẫn thăm khu A và chỉ khu A thôi. Hai thông dịch viên Pháp-Việt, Việt-Pháp và Anh-Việt, Việt-Anh là Lê Ngọc Biên, Nguyễn văn Dụ, tù nhân. Amnesty International thăm Nhà, thấy Nhà khang trang thoáng mát, đầy đủ…tiện nghi; thăm thư viện, thấy thư viện đầy sách. Cò mồi chăm chú học tập tư tưởng Mác Lê, cò mồi đang đàn sáo, lại chơi Le Beau Danube bleu, Only you, Smoke gets in your eyes…; thăm bệnh xá thấy bệnh nhân tù nhân “hồ hởi phấn khởi”; thăm sân, thấy hoa phô sắc, cỏ thắm tươi. Thì bằng lòng lắm. Lại phỏng vấn tù nhân được lệnh phiên dịch: “Cám ơn chính sách học tập cải tạo khoan hồng và nhân đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng tôi không phải là tù nhân mà là trại viên trại học tập cải tạo. Chúng tôi học tư tưởng làm người cao quý và tập lao động cho bớt lười biếng. Chúng tôi ăn ba bữa, đầy đủ dinh dưỡng, tinh thần và thể xác thoải mái, không hề bị đánh đập tra tấn thể xác hay tinh thần..”
Phái đoàn thấy tù nhân đâu có nhiều. Bởi vì, hàng ngàn tù nhân đã bị lùa vào tận chân núi từ sáng sớm. Đề phòng, bất thình lình, phái đoàn trở lại, tối mịt tù nhân mới được lùa về. Chẳng hiểu phái đoàn AI đánh giá Z30 D ra sao. Có điều, chắc chắn, phái đoàn không bao giờ nhìn rõ sự thật ở nón mũ, giầy giép, quân áo, ca cóng của tù nhân xuất trại lao động.
Lê Ngọc Biên nói, chuyến thăm của AI, tù nhân cò mồi và thông dịch viên đều bị tù nhân nguyền rủa, lên án nặng nề. Càng bị nguyền rủa hơn, sau chuyến viếng thăm của Al, Biên và Dụ được biên chế sang Đội văn nghệ và thể thao. Sự thiếu may mắn của tôi là về Z30 D, tôi bị vào Đội văn nghệ và thể thao. Giá tôi vào cachot, có thể tôi lừng danh anh hùng tù ngục!
Ngày thứ tư, đột xuất có một phái đoàn ngoại quốc thăm trại Z30 D kiểu mẫu. Tôi đã theo đội đi lao động từ hôm qua. Hôm nay cả đội của tôi ở nhà làm… cò mồi. Tù nhân toàn trại đi lao động từ sớm tinh mơ. Riêng ông Hồ Hữu Tường và tôi được đưa sang “dấu” ở phòng trật tự khu B. Người ta phát giấy cho chúng tôi khai lý lịch. Cảnh tượng tiếp phái đoàn này y hệt cảnh tượng tiếp phái đoàn AI. Lê Ngọc Biên và Nguyễn văn Dụ không được chỉ định thông dịch. Đã có thông dịch viên của Bộ nội vụ. Vì phái đoàn là phái đoàn Liên-tôn thế giới, thân cộng sản Việt Nam. Thế giới cũng có một số thằng vô danh tiểu tốt buôn công danh bằng cách họp thành một phái đoàn sang thăm nhà tù kiều mẫu Z30 D dàn cảnh công phu, đầy xảo thuật của đạo diễn Đảng để về tuyên bố ngược lại tất cả những gì các phái đoàn khác đã công kích chế độ nhà tù cộng sản. Thế là chúng nổi tiếng. Báo chí cộng sản thế giới, báo chí thân cộng sản Tây phương và Mỹ đã đánh bóng chúng nó, đã coi chúng nó như người của sự thật. Thế giới tự do, thế giới của lương tri, của lẽ phải, của tôn trọng sự thật đã có một bọn khốn kiếp gọi là Liên-tôn lò dò đến trại Z30 D phả thêm mùi tanh ươn vào thứ nhân quyền bị thắt cổ lè lưỡi bởi cộng sản. Tôi không biết cộng sản Việt Nam đã trả bọn này bao nhiêu tiền? Với cộng sản Việt Nam còn phải lột lưỡi để ca ngợi chế độ lao tù của họ.
Từ kinh nghiệm Liên-tôn viếng nhà tù kiểu mẫu Z30 D, tôi thấy không thể tin tưởng vào bất cứ một hội đoàn nhân đạo nào của thế giới tự do, trừ Amnesty International. Rất tiếc, AI không lên tiếng về sự vi phạm nhân quyền. AI trung lập với tất cả các chế độ chính trị. AI can thiệp cho tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng ở bất cứ quốc gia nào có tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng.
AI đã can thiệp cho Vũ Hạnh dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu. AI lại can thiệp cho Cao Dao dưới chế độ Lê Duẩn. Cho nên sự thật về ngục tù và tù nhân trong chế độ cộng sản đã chỉ được thế giới mường tượng hay căn cứ vào những báo cáo bán rẻ lương tâm cho cộng sản của những hạng người tương tự Liên-tôn, của lũ phản chiến thân cộng sản, của đám báo chi Mỹ đã ngồi xổm lên nghĩa vụ luận. Lương tri của nhân loại cần phải được đánh thức, cần phải được lay động bằng tiếng nói đích thực và trung thực của những người thoát lên từ vực thẳm. Nhưng, buồn thay, những người thoát lên từ vực thẳm đã im lặng, hoàn toàn im lặng. Thỉnh thoảng, có một vài lên tiếng với đồng bào của mình. Thì đã bị khoả lấp bởi tiếng rao bán xổ số kháng chiến, tiếng mõ quảng cáo lạc quyên phục quốc. Chưa thấy ai đặt vấn đề với bọn nhà báo Mỹ – đã mô tả chuồng cọp Côn Sơn, đã đòi cải thiện chế độ lao tù miền Nam trước 1975- mô tả các trại tập trung khổ sai lao động của đàn bà con nít, thương phế binh ở Long Thành – ở quần đảo Phước Long sau 1975. Chưa thấy ai lạc quyên tiền đăng nguyên hai trang trên các nhật báo lừng danh xuất bản tại Nữu ước, Hoa Thịnh Đốn, Ba Lê, Đông kinh, Luân đôn…để nói về tù nhân và ngục tù cộng sản. Chưa thấy ai lạc quyên tiền để dịch thuật và xuất bản một cuốn sách viết về ngục tù cộng sản Việt Nam trích từ những cuốn hồi ký của những người thoát lên và thoát ra từ vực thẳm. Chưa thấy gì cả. Chỉ thấy rõ ràng người ta đã hoan hỉ bỏ đô la vào túi áo ông Mặt trận, vào thùng sương, vào những cuộc liên hoan ăn uống có nhẩy đầm. Rất nhiều tinh hoa của dân tộc đang quằn quại trong nhà tù cộng sản mà đồng bào của họ ở hải ngoại đã lãng quên không nghĩ chuyện cứu họ, thản nhiên để họ chết mòn. Rất nhiều những thằng chó đẻ sống phè phỡn bằng tiền lạc quyên cho mục đích bịp bợm. Rốt cuộc, nỗi thống khổ của tù nhân được cai thầu chiêm bao và báo cáo chiêm bao ấy với người ngoại quốc. Cai thầu hưởng danh lợi. Tù nhân được…hứa hẹn sẽ can thiệp. Bao giờ? Mai. Mai rồi mốt. Mốt rồi mút. Mút rồi mít. Mít rồi mịt. Rồi mù mịt... Thế giới tự do yêu sự hợp lý đến ngây thơ và ngu xuẩn. Tiếng nói của người đã nhìn sự thật là hợp lý. Phái đoàn Liên-tôn kia, chẳng hạn. Tiếng nói của người chưa nhìn sự thật chỉ nói theo báo cáo là tiếng nói vu vơ, không hợp lý. Tiếng nói của những người thoát lên từ vực thẳm là hợp lý, chính xác là tiếng nói của sự thật.

Song, buồn bao nhiêu, tiếng nói của sự thật là tiếng nói Việt Nam viết bằng chữ Việt Nam. Thế giới không biết nghe tiếng Việt Nam, không biết đọc chữ Việt Nam. Mà chúng ta thì không ai thích đóng góp tiền để chuyển dịch tiếng nói của sự thật vàng mười sang Anh ngữ, Pháp ngữ, Y pha nho ngữ, Đức ngữ, Ý ngữ. Người Pháp và người Mỹ sẽ chỉ thấy ngục tù Việt Nam qua cuốn Goulang vietnamien, Vietnamese Gulag của gã tù nhân de luxe 11 tháng ở đề lao Gia Định. Nhà tù được viết kiến nghị, được tự do đi xin chữ ký, cả trăm tù nhân ký vào kiến nghị thì nhà tù cộng sản là... thiên đường, cần gì phải đòi nhân quyền và tự do cho tù nhân!
Cái phái đoàn Liên tôn…thiếc kia viếng trại lao cải kiểu mẫu Z30 D đúng 15 phút. Giàn nhạc chỉ chơi có một bài Love is blue! Không sợ, đột xuất, họ trở lại nhìn sự thật trần truồng – bồ tèo mà – Ban giám thị cho tù nhân núp dưới chân núi về sớm. Tù nhân được cơ hội suy diễn: Ông Hồ Hữu Tường và tôi được đem về đây làm cò mồi. Cò mồi gì nhỉ? Tôi bỗng thấy chua xót cái câu mà cai tù nào cũng thích nói với tù nhân: “Các anh không thương các anh thì ai thương các anh”. Quả thật, một số tù nhân đã tỏ ra tàn nhẫn với tù nhân. Bạn tù, mấy kỳ liền không có thăm nuôi, thay vì an ủi bạn, chia sẻ cho bạn dúm tôm khô, vài vắt mì, người ta nỡ phát ngôn: “Vợ bỏ rồi hả? Chắc vợ đi theo bộ đội bỏ rơi anh rồi”?
Người ta sẽ buồn cười điều “Cấm mua bán, đổi chác” trong Nội quy. Tôi không buồn cười. Vì tôi biết chuyện một tù nhân không nghiện thuốc lào, thuốc rê mà có cả mấy bánh thuốc lá, mấy bịch thuốc rê. Thuốc lào của anh ta thuộc loại xiện, sáng sớm kéo một điếu là phê. Có tù nhân đã đổi cái quần treillis lấy 2 hộp quẹt thuốc lào xiện. Tù nhân này không thăm nuôi, dĩ nhiên. Ở Sa Ác B, có thuốc lào xiện là có tất cả. Thuốc lào có thể đổi rau muống non, củ cải, rau mồng tơi, mướp, củ mài… Nhiều tù nhân đã lấy râu ngô phơi khô tẩm nước điếu rồi lại phơi khô để hút. Giá trị của thuốc lào vô kề. Hễ có thuốc lào xiện, điếu cầy xiện sẽ thêm bạn bớt thù và sẽ chỉ còn bạn. Ở Sa Ác B cho tù nhận thuốc mà cấm tù nhận diêm, đá lửa, bật lửa. Nhưng tù nhân xoay đâu ra bật lửa, đá lửa, xăng thì tự do dùng. Bèn có ba câu Anh ngữ lao cải:
- Đông vui hao lao
Đông vui thì tốn thuốc lào.
-Đông phen hao rê
Đông bạn thì tốn thuốc rê
-Tham nuoi no dzim
Thăm nuôi không có diêm
Với tù nhân nghiện thuốc lào, đa số tuyệt đối, thì thiếu thuốc lào còn hại cho cơ thể hơn là thiếu chất protéine, chất mỡ, chất đường… Đầy rẫy những kẻ hám lợi trong tù. Và đầy rẫy những kẻ thích làm khổ người khác. Vô cớ và vô lý. Tôi mang thêm tội cò mồi. Đã có kinh nghiệm ra cái động ở Sa Ác, tôi tiết kiệm tối đa ngôn ngữ ở Z30D. Với những kẻ không đáng nói, nửa lời không nói.
Chú thích:
1. Tác giả có tham vọng viết cuốn sách nhan đề Sấm Ký cho Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tiên tri cuộc cách mạng tiểu tư sản hào hoa cứu vớt dân tộc Mỹ thoát nạn đại hồng thủy.
CHƯƠNG 13
Ở Đội văn nghệ và thể thao, mọi người đều quý tôi. Đội này không có tù hình sự. Đa số là sĩ quan và hạ sĩ quan cảnh sát. Phần còn lại là sĩ quan quân đội. Những người này đã trải qua nhiều trại lao cải. Tôi nằm phía trên, giữa Biên và Hưởng. Một hôm, Biên tâm sự:
- Chúng nó bảo thằng Có, thằng Hưởng và thằng Ánh là “ăng-ten” gây ra vụ một số anh em đi Phú Khánh.
- Tôi không cần biết.
- Ông nên biết.
- Biết để làm chi. Toàn chuyện tầm phào.
- Biết để hiểu trắng và đen, đen và trắng trong tù.
- Vậy ông kể đi.
- Thằng Ánh đã sang làm Đội trưởng Đội trừng giới, chúng nó càng tin nó làm “ăng-ten”. Tết vừa rồi, thằng Ánh sáng tác khẩu hiệu, thơ vè; thằng Có vẽ và viết tay trái; thằng Hưởng dán. Thằng Có vẽ ở phòng hội hoạ, ai dám nghi nó. Thằng Hưởng ảo thuật dán nhanh như làm trò. Cả trại khoan khoái đọc thơ, vè, khẩu hiệu, khen nhặng những thằng dám chơi là ái quốc là can đảm.
- Rồi sao lại thành”ăng-ten”.
- Vì chúng nó chửi những thằng viết, vẽ dán khẩu hiệu, chửi loạn cả lên.
- Tại sao có vụ đi Phú Khánh?
- Chuyện cũ tích lại. Ông Huỳnh Thành Vị nhà tôi cứ ngứa miệng cãi chuyện Paris với thằng chưa đến Paris rồi chửi nó ngu ngọng. Cán bộ nghe thấy nó bèn chụp mũ ông Vị chửi nó ngọng. Ông Duy Trác thì chủ nhật nào cũng vác đàn đi hát nhạc vàng… ôi, đủ thứ. Xẩy ra vụ dán khẩu hiệu chửi cộng sản, nó không bắt được ai bèn giận cá chém thớt đưa những anh bị nó ghim ra Phú Khánh dằn mặt anh em.
- Hưởng, Ánh và Có im lặng?
- Chứ cái gì nữa! Chúng nó không buồn vì còn một vài người biết chuyện. Đấy, trắng hóa đen là vậy. Tôi bị chúng nó chửi cò mồi, nay đến ông bị cất một chỗ cũng cứ rằng đã gặp phái đoàn Liên-tôn làm cò mồi. Cái trại này táp nham, ông sống lâu sẽ rõ. Ông sẽ khổ tâm lắm đấy. Cộng sản nó theo dõi ông, tù nhân theo dõi ông từng hành động. Ai bảo ông nổi tiếng? Vào tù vô danh tiểu tốt là yên thân.
- Ông nhận xét đúng.
- Ở tù cộng sản có những nỗi oan không dám thanh minh. Như tôi. Tôi cò mồi mẹ gì đâu. Anh Trương Đình Huân phục vụ ở UNESCO nhờ Amnesty International can thiệp cho tôi vì gốc tôi là giáo sư biệt phái về Trung tâm học liệu. AI ghi tên tôi và trại tôi đang cải tạo. Thằng Dụ cũng thế. AI đòi gặp hai đứa tôi. Chúng tôi thông dịch theo đúng lời nói của tù nhân được phỏng vấn. Có thông dịch viên của họ giám sát vớ vẩn ốm đòn à? Nó đâu tin mình. AI hứa can thiệp cho tôi về sớm. Tôi phải làm kiểm điểm mờ người, phải hứa không tiết lộ chuyện AI can thiệp cho tôi. Rồi chúng tôi bị biên chế qua Đội văn nghệ. Tôi văn nghệ mẹ gì. Nó đề phòng tôi ngứa miệng bên khu B. Ngu sao. Tôi ngậm họng mặc chúng nó chửi lèm bèm.
Lê Ngọc Biên triết lý:
- Người Việt Nam đếch có kinh nghiệm gì cả, kể luôn kinh nghiệm ở tù cộng sản. Chỉ a dua, phán xét bậy.
Biên nói đúng. Đã không có kinh nghiệm cộng sản đến nỗi bị nó bắt bỏ tù rồi vẫn không chịu học tập kinh nghiệm cộng sản trong tù. Hình như, cái…truyền thống bạn đáng diệt hơn kẻ thù có từ 20 năm miền Nam chống cộng. Kẻ thù xa, đối lập gần. Đối lập có thể đảo chính mình, kẻ thù thôn tính cả nước. “Đất nước mất, mất tất cả”. Cả nước rơi vào tay kẻ thù, ô kê. Quyền bính của mình rơi vào tay đối lập, nô ô kê. Truyền thống này đưa sang Mỹ, sang Tây. Mày đối lập ông, mày nguy hiểm hơn cộng sản. Nghĩ cũng bẽ bàng khi phải đứng chung chiến tuyến với bọn vô lại. Bọn vô lại kháng chiến, phục quốc chỉ muốn những người chống chúng nó gian manh, bịp bợm bỏ rơi chuyện chống cộng hoặc đầu hàng cộng sản. Để chúng nó tự do kháng chiến bịp, phục quốc lừa. Có một thằng vô lại vén môi lên tồ tồ rẳng: Giải phóng Việt Nam không phải là ước mơ mà còn là nhiệm vụ, bổn phận. Tôi tìm cách giành lại quê hương bằng cách làm cho cộng sản kiệt quệ về quân sự, kinh tế, chính trị! Rõ khẩu khí một thằng vô lại. Nó đã viết sách nhận nó ngu dốt chính trị, thầy nó không chịu dạy nó. Nay nó đòi “giành lại quê hương đòi làm cho cộng sản kiệt quệ chính trị”. Lại còn kinh tế nữa, trời ạ! Độc Ngữ viết hai câu thơ khá độc:
Đó cái gọi là tướng
Lũ sán kim ngọ nguậy ngứa hậu môn
Thằng này câm đi thì dần dần hết vô lại. Nó càng đao to búa lớn, càng vô lại hết thuốc chữa. Quê hương Việt Nam không cần vô lại nữa. Thời của vô lại cai trị dân tộc đã cáo chung. Thầy Gerald Ford dạy: “Lịch sử đã sang trang”. Hiểu chưa? Đã sang trang mới cho tuổi trẻ Việt Nam làm chính quyền. Sẽ không còn phỉ quyền gian ác và ngụy quyền vô lại trên quê hương Việt Nam tương lai.
- Ông ạ, tôi linh cảm tôi sắp về. Biên nói.
- Ông tin AI cứu nổi ông?
- Tin lắm.
- Tốt thôi.
- Tôi hiểu chỉ ông mới viết được truyện về những đứa trẻ con ở trại Phú Văn.
- Truyện thế nào?
Biên kể ngọn đồi mà tù nhân cải tạo đặt tên là Đồi Fanta (La Colline de Fanta, Les Éditions Belfond). Ngọn đồi này đã làm tôi quên mọi ưu phiền Z30 D. Ít ra, cái trại lao cải hắc ám cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, đã cho tôi một toan tính ngày mai. Tôi ghim vào đầu óc ngọn đồi ô nhục và hy vọng sớm được tha để viết cuốn sách về nó.

Những ngày ở Đội văn nghệ và thể thao, tôi có dịp đi lao động ngoài quốc lộ. Quản giáo đội này tên Hào, ham chơi hơn giáo dục tù nhân. Chúng tôi thường cuốc bộ theo hướng ra Phan Thiết. Chừng hai cây số cách trại, có một cái chợ nhỏ của một xã nằm sát quốc lộ. Tên chợ tôi quên rồi. Chợ có vài quán cà phê, hủ tíu, bún bò xào. Mỗi sáng, đội của chúng tôi dừng chân nơi đây ăn điểm tâm uống cà phê rồi mới vào rừng. Quản giáo và vệ binh ở lại đá banh bàn, thụt bi da và ngủ. Đội muốn đi đâu muốn làm gì tùy ý, miễn là trở lại tập họp tại chợ đúng 14 giờ. Đội lao động rất lè phè và “tự do” mua bán, ăn uống. Đó là lý do phải chấp nhận sự ghét bỏ của các đội khác.
Tôi lấy làm lạ điều này: Không hề thấy tù nhân hình sự hay chính trị ở các đội lâm sản trốn trại. Những người này muốn trốn, sẽ trốn dễ đàng. Họ vào rừng từ 7 giờ sáng, 16 giờ mới về. Các đội lâm sản không cần vệ binh. Làm sao đủ vệ binh canh giữ? Vậy tù nhân tự giác. Và hiếm họa lắm mới có một tù nhân ở đội lâm sản ra đi không về… trại. Dẫu có tù nhân ra đi, các tù nhân còn lại vẫn tự do vào rừng và, nếu thích, cứ việc sắp xếp chương trình về sum họp gia đình không cần Giấy ra trại. Điều lạ ấy chính là nghệ thuật quản lý tù nhân của cộng sản. Đâu cần Phạm Hùng hay Cao Đăng Chiếm chọn tù nhân biên chế vào đội lâm sản. Chỉ là Ban Giám Thị và đám công an chăn trâu cắt cỏ, ngọng níu lưỡi tuyển chọn. Tù nhân tiến bộ đến mức không thèm trốn trại. Các đội lâm sản không chấp nhận sĩ quan tác chiến, quân báo, nhẩy dù, thủy quân lục chiến. Phản động cũng bị chê. Đa số là cảnh sát và sĩ quan văn phòng. Nếu tôi còn ở Đội văn nghệ và thể thao, thể nào cũng có ngày tôi trốn trại. Tôi đã phác họa kế hoạch ngon lành. Rất tiếc, chưa kịp trốn thì tôi bi biên chế sang Đội 27 nông nghiệp. Có lẽ, người ta đã đoán được âm mưu của tôi.
Đội 27 nông nghiệp của K Z30 D, khi tôi sang, vừa thay đổi quản giáo mới. Quản giáo tên Hà, dân Hà Tĩnh. Kinh nghiệm ở tù cho tôi biết điều này: Hễ tên cai tù ở miền nào bị Mỹ dội bom nhiều nhất, tên ấy khe khắt nhất. Quản giáo Hà là tên cai tù ấy. Hắn mang quân hàm trung sĩ. Đội của tôi nhan nhản đại úy, trung úy phi công, hải quân. Và cũng nhan nhản hình sự vô lại. Tôi được sống lại không khí xô bồ như ở các phòng giam đề lao Gia Định, khám lớn Chí Hòa. Bấy giờ, Đội trưởng lành Vũ Tiến Đạt, một người đầy đủ tư cách. Hiện trường lao động của chúng tôi nằm sát con đường ra vào cổng chính của trại, đối diện nhà thăm gặp. Chúng tôi có nhà lô. Sa Ác B không có nhà lô. Đội 27 đã canh tác nhiều vụ khoai, ngô và đậu xanh. Đội chia nhiều Tổ và các tổ lao động giống nhau, không chuyên biệt như đội rau xanh. Công việc của tôi là cuốc đất, lên luống, rắc phân hoá học, đặt phân xanh, bỏ hạt bắp, giây khoai, làm cỏbắp, vén giây khoai… Chờ đợi thu hoạch chúng tôi chặt cây điên điển đào hầm chôn để làm phân xanh cho vụ mới.
Mùa thu hoạch thì lao động cả chủ nhật. Hết bắp lại ngô. So với Sa Ác lao động ở Rừng Lá không đáng kể. Tôi bằng lòng thái độ lao động của tù nhân Sa Ác hơn. Ở đội của tôi tại Z30D, người ta chấp nhận nghe quản giáo “giáo dục”. Người ta thản nhiên ”Nghe chúng nó chửi quen rồi”! Và người ta không xấu hổ ăn cắp mướp, ăn cắp bắp non, ăn cắp khoai… Một số tù nhân tự dẫm lên phẩm cách của mình đã bắt cả đội phải xếp hàng, đứng nghiêm, nghe quản giáo phê bình bằng giọng điệu xấc xược, trịch thượng.
Quản giáo không bao giờ giáo dục một tù nhân. Chỉ cần một tù nhân ăn cắp trái mướp trên giàn mướp của hắn, hắn sẽ tập họp đội, miệt thị “các anh toàn bọn ăn cắp, thế mà cứ tưởng mình sĩ quan, trí thức” và đem vợ con tù nhân vào cuộc học tập “các anh là bọn mất tính người, không còn tình người, cố kéo dài thời gian cải tạo để bắt vợ con nhịn ăn mặc thăm nuôi các anh!” Tôi thấy số người tự xóa bỏ nhân cách của mình vẫn bình thản, vẫn nhe răng cười. Tôi thì tôi lấy làm đau đớn lắm. Thà nhịn ăn mướp, thà cuốc đúng chỉ tiêu chứ không chịu nghe cai tù giáo huấn. Nhưng vô ích, tất cả tù nhân tự trọng, những tù nhân bằng lòng để cộng sản thù ghét, không bằng lòng để cộng sản khinh bỉ, đều bị đồng hóa bởi số tù nhân vô lại.Anh Vũ Tiến Đạt hiểu tâm sự tôi. Anh chuyện riêng với tôi:
- Sự khốn nạn của chúng ta là chúng ta đã không được phép chọn người sống chung một đội.
- Cộng sản nó muốn vậy.
- Đồng ý, song anh đã rõ, trong đám vô lại có cả vài ông sĩ quan của chúng tôi. Bọn này to mồm nhất, yêu nước nhất, căm hờn cộng sản nhất và sẵn sàng chụp cứt lên đầu kẻ đồng cảnh ngộ tàn bạo nhất. Anh mới về đội, chưa hiểu hết sự tình não nề. Chia rẽ, kèn cựa, chụp mũ, chửi bới, đánh lộn chẳng còn ra tù…chính trị gì cả. Riết rồi tù hình sự trộm cắp nó khinh thường. Cờ bạc sát phạt nhau tới…tán đường cuối cùng! Tôi cứ giả mù, giả điếc, giả câm. Đánh đấm nhau, chửi bới nhau rồi đưa nhau vào biên bản cuối tuần. Năm năm cải tạo rồi, ấu trĩ gì! Làm Đội trưởng khổ hơn chó.
Đội 27 nông nghiệp, chỉ có vài tên vô lại quậy phá. Chúng nó trêu chọc cả đàn bà, con gái đi thăm nuôi chồng, cha, anh. Chúng nó nói năng nham nhở, mất dậy. Chúng nó đã làm phiền cả đội. Những người đứng tuổi im lặng, cầu an. Đa số phẫn nộ nhưng không tỏ thái độ. Có một tù nhân tên Thành, Trưởng ty cảnh sát thời Ngô Đình Diệm, con bà phước từ khi trình diện học tập cải tạo bị đám vô lại đặt hỗn danh Thành chạp và bị chúng nó ghét ra mặt. Chỉ vì ông Thành đói, ai cho gì cũng nhận và vớ được cái gì cũng ăn. Chúng nó, dĩ nhiên, không cho ông Thành một miếng sắn lát song, ai cho ông Thành nắm mì, dúm tôm khô, chúng nó ngăn cản. Tôi đã thường xuyên tặng hủ tíu, tặng mì vụn, tặng phần bo bo nguyên ngày chủ nhật cho ông Thành. Tôi bị chúng nó ghét. Nhờ tôi có thuốc lào xiện, lại chủ trương “đông phen no lo hao lao”, tôi đã chế ngự chúng nó. Gô thuốc lào mở nắp, tha hồ các “phen” hít và phê. Thuốc lào xiện là thước đo giá trị con người!
- Anh ơi anh đừng ăn cơm chung với thằng Thịnh.
- Tại sao?
-Nó là thằng đi rêu rao anh làm cò mồi. Anh cứ thử hỏi các bố sĩ quan của Sư đoàn 18 là biết nó. Quân báo đấy. Nó bô bô khoe thành tích đã ăn cắp cái máy bơm nước của một nông dân rồi cho lính bán lại cho nông dân này.
- Chuyện nhảm.
- Nhảm gì, cháu của nông dân này lại là sĩ quan cùng Sư đoàn 18 và cùng ở đội mình.
- Cậu thích thì ăn chung với tôi luôn.
-Em mến anh nhưng em ghét thằng Thịnh.
- Cậu muốn sao?
- Anh đuổi ngay thằng Thịnh đi, em xin về ăn chung, phục dịch anh.
Thuốc lào ngon và túi thăm nuôi nặng và thường xuyên của tôi đã “đổi thù thành bạn”. Hợp với thành ngữ Bạn tù tình nhà thổ. Tôi sống yên thân ở Đội 27 nông nghiệp. Rồi tôi trở thành một máy ghi âm chuyên ghi tin miệng của đám vô lại tố cáo nhau.
- Anh này.
- Mấy tháng trước anh đã gặp phái đoàn Liên tôn hả?
- Ai nói vậy?
- Cán bộ giáo dục.
- Nói với cậu à?
- Với bạn em bên khu B, bạn em nói lại với tụi em.
- Cậu tin chứ?
- Hồi đó chúng em tin, chúng em rao rêu hại anh.
- Bây giờ cậu tin cán bộ hay tin tôi?
- Em tin anh.
- Thế thì tôi không gặp phái đoàn nào cả.
-Tại sao cán bộ bịa đặt nhỉ?
- Tôi không hiểu.
Nếu bạn đọc Lê nin toàn tập, bạn sẽ gặp câu này: “Dùng bọn côn đồ mạt hạng để chúng diệt những phần tử lương thiện đối nghịch cách mạng. Khi những phần tử lương thiện bị triệt hạ, sẽ diệt bọn côn đồ mạt hạng”. Cộng sản áp dụng đúng sách vở của sư tổ vào nhà tù. Cho nên bọn tù nhân vô lại, bọn ăn cắp khoai mì, ăn vụng thịt dưới bếp, ăn tranh phần khoai và cơm cháy của heo, vân vân… đã được xử dụng để triệt hạ những tù nhân cố gắng giữ phẩm cách làm người trong bất cứ nghịch cảnh nào.
Tổ chức của Z30 D hơi khác TH6 một chút. Ở đây không quân sự hóa nếp sống nên thiếu hoạt cảnh báo cáo xuất trại. Các đội cứ ngồi tại sân tập họp, Đội trưởng tới gần điếm canh báo cáo quân số với cán bộ trực trại. Cán bộ ghi vào sổ trực. Thế là đội đứng dậy xuất trại. Qua cổng, tất cả phải dở nón, mũ. Điều này đã ghi rõ trong Nội quy. Ở đây an ninh gọi là chấp pháp. Công an đặc trách an ninh gọi là cán bộ chấp pháp. Chấp pháp của trại chỉ điều tra những việc xẩy ra ở trại. Tù nhân bị chấp pháp gọi lên “làm việc” có nghĩa là chuẩn bị vào cachot. Chấp pháp bao trùm quyền uy. Chỉ dưới Ban Giám Thị. Ở đâycó một đội chuyên gài mìn phá núi và một tổ thiết kế. Ở đây có hồ rộng nuôi cá. Nói tóm lại, nội dung của Z30 D hiểm độc gấp bội TH6, hình thức của nó là… kiểu mẫu. Các phái đoàn ngoại quốc thân cộng sản và không chống cộng sản đều chỉ được dẫn tới Z30 D, K1, khu A và cơ quan. Dĩ nhiên, họ chỉ thấy hình thức. Cộng sản nặng phần trình diễn hơn quốc gia. Nghệ thuật trình diễn của họ cộng thêm nghệ thuật chơi chữ của họ đã khiến thế giới tự do mê sảng. Ở đây, trật tự đa số là tù nhân chính trị. Công an cộng sản hiểu rõ cảnh sát quốc gia. Do đó, trật tự được tuyển lựa từ thành phần cảnh sát đặc biệt, an ninh quân đội.

Trật tự khu A gồm 4 người tạo thành một giai cấp đặc quyền, đặc lợi và trở thành đối tượng thù hận của tù nhân. Người thứ nhất là ông già Tới, can tội hình sự, mẫn cán với cai tù nhưng vô tội vạ với tù nhân, nóng tính mà tâm địa tốt. Người thứ hai là ông già Phú, giảng sư Đại học Vạn Hạnh, can tội vượt biên, thông thạo Anh, Pháp ngữ, kiến thức rộng, giỏi toán học, được chỉ định làm trật tự để dạy một ông chấp pháp học toán và Anh văn. Người thứ ba, tôi quên tên, một ông già cảnh sát hiền lành, cả khu yêu mến. (Ông này được tha hồi tháng 4 1980, người thay thế là một viên chức của VTX, tôi không nhớ tên). Người thứ tư là Trần Trọng Thanh trung uý cảnh sát đặc biệt, chuyên thẩm vấn Việt cộng ở Biên Hoà. Trần Trọng Thanh dân Quảng Ngải, một loại ngụy quân tử trong tù. Hắn xúi ông già Tới gây khó dễ cho tù nhân. Còn hằn, hắn đóng vai thiện. Khuôn mặt Trần Trọng Thanh xám xịt, vui buồn khó đoán. Hắn là cáo già của phòng trật tự.
Ở Z30 D, mỗi nhà có một phòng ăn, cửa sổ thoáng mát bàn ghế sạch sẽ. Có bếp lợp mái tôn cho tù nhân ca cóng những ngày được phép ca cóng. Trật tự nấu nướng bằng bếp riêng ở ngay phòng. Họ lấy than hồng của bếp trại mà cải thiện bữa ăn. Họ ăn sang hơn cả cai tù. Cai tù mua thịt cá giùm họ. Rau, mướp, bầu, bí thì họ xin các đội rau xanh. Những ngày lễ lớn hay những hôm đột xuất có thịt heo, trật tự được chia phần thịt tươi gấp 10 tiêu chuẩn tù nhân. Cơm của trật tự luôn luôn thừa thãi. Phòng của trật tự có chiếc máy vô tuyến truyền hình. Máy này, thỉnh thoảng, đem ra sân cho tù nhân giải trí kịch nhạc cách mạng. Trật tự chỉ thị công tác lao động cho vệ sinh và sai phái vệ sinh. Mỗi lần vợ thăm nuôi, trật tự được ngủ với vợ một đêm ở nhà thăm gặp. Cái đặc quyền, đặc lợi do hưởng đầy đặc ân đã khiến một vài anh trật tự quên mất bản thân mình là tù nhân. Ở khu A, Trần Trọng Thanh thâu tóm hết đặc quyền, đặc lợi. Ông già Phú “con bà phước”, ông già Tới vợ đã chết. Trần Trọng Thanh vợ buôn bán khá, mấy đứa con trai lại vượt biên thoát, thăm nuôi ê hề tiền bạc thừa thãi cung phụng chấp pháp và trực trại.
Z30 D, K1 là trại kiểu mẫu, kỷ luật gay gắt nhưng ca cóng tự do ngoài bãi. Ở đây, người ta chỉ đòi hỏi tuyệt đối “an tâm cải tạo” nghĩa là đừng có tư tưởng trốn trại và chống đối Nội quy. Nội quy trại tù là pháp lệnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa thu hẹp. Chống Nội quy tội nặng hơn các tội cũ và mới. Người ta lý luận rằng, ở tù mà chống Nội quy ra đời sẽ chống Chế độ. Bởi vậy trên tấm Giấy ra trại, phần “Nhận xét quá trình cải tạo”, đa số tuyệt đối tù nhân được tha đều ghi câu tương tự danh ngôn bất hủ “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” của nhân vật Số đỏ: “Trong thời gian học tập đã có nhiều tiến bộ, lao động và học tập tốt, chấp hành nội quy của trại nghiêm”. Một số nhỏ bị “nhận xét” thế này: “Trong thời gian tập có tiến bộ nhưng vẫn thiếu thiện chí cải tạo, chưa chấp hành nội quy tốt”. Bèn thêm câu: “Đương sự cần được chính quyền địa phương giáo dục thêm” thì kể như số vất vả. Sẽ bị công an phường bắt “đi học” dài dài. Sẽ có cuốn vở chép nhật ký để công an phường theo dõi mọi sinh hoạt.
Giấy ra trại là một lối chơi chữ của cộng sản. Anh ra trại thôi, có thể, anh lại bị vào trại. Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Hải Thủy đã vào trại sau khi ra trại. Giấy ra trại, với tù nhân mang án phạt “tập trung cải tạo, TTCT” là thứ giấy thủ thân đến khi nhắm mắt. Tiêu đề của nó là Giấy ra trại nhưng văn từ thì lại “Thi hành án văn, quyết đinh tha số… ngày… tháng… năm… của Bộ Nội Vụ. Nay có giấy tha cho anh, chị có tên sau đây…” Trên Giấy ra trại của tôi, ghi rõ “Can tội Nhà Văn Phản Động. Bị bắt ngày 8-04-1976, án phạt TTCT. Theo quyết định, án văn số không có, ngày tháng không có. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc cứ… tự do bắt tưới hạt sen, chẳng thèm quyết định, án văn. Thế giới có thể nhìn rõ sự bắt người.,sự giam nhốt người – sự hành hạ người và sự tha người của chủ nghĩa cộng sản trên một Giấy ra trại của bất cứ một tù nhân nào. Nếu mắt thế giới không thông manh và óc thế giới không đặc khịt, họ sẽ tìm ra một định nghĩa về nhân quyền ở Việt Nam hôm nay. Trong phần “Nhận xét quá trình cải tạo” còn hai câu ác độc:
1- Nơi cư trú do chính quyền địa phương quy định.
2- Đương sự không được cư trú tại nơi đăng ký nhân khẩu thường trú trước khi bị bắt.
Nếu tù nhân đã cư ngụ ở nhà của mình do mình đứng tên trên bằng khoán, mình sống chung với vợ con mình trước ngày mình bị bắt, Sài gòn chẳng hạn, nay được tha, chính quyền địa phương nó “quy định” cá nhân mình về Long Xuyên hay lên Ban Mê Thuột mình phải…l ưu vong ngay trên quê hương của mình. Vợ mình nó không làm giấy bảo đảm cho mình tạm trú tại nhà mình thì dẫu chính quyền địa phương quy định” nơi cư trú cho mình là nhà mình”, mình vẫn đành lưu vong. Bị ghi câu số 1 đã lận đận. Bị ghi câu số 2 thì khốn nạn, thì kể như biệt xứ bất thành án văn, khỏi cần vượt biên tha phương cầu thực. Giấy ra trại của tôi ghi câu số 1. May mắn, tôi không bị “quản chế” nên “được hưởng quyền công dân”. Tù nhân bị quản chế một thời gian nào đó, phải trình diện công an địa phương hàng ngày, hàng tuần và chờ đợi sự khoan hồng của nhân dân khu phố mình cư ngụ trong cuộc họp quyết định “trả lại quyền công dân”. Tù nhân dưới chế độ cộng sản, vào tù đã khổ, đã nhục; ra tù còn khổ, còn nhục hơn 1.
Nội quy nhà tù và trại lao cải quan trọng thế đấy. Anh bị tống vào cachot để “thành khẩn suy nghĩ” mà viết tự khai trong thời gian anh bị thẩm vấn thì không sao cả. Anh bị tống vào cachot vì tội trốn trại, tội chống đối Nội quy, Giấy ra trại của anh nhất định bị ghi nhữngcâu nhận xét độc ác. Và đó là bản chất nhân đạo của chủ nghĩa, của chế độ. Ở trại kiểu mau Z30 D, K1, lao động có thể lề mề nhưng tư tưởng bị kiểm soát gắt gao. Bởi nó là son phấn của chính sách học tập cải tạo, là nơi Tú Bà cộng sản dễ lửa bịp khách làng chơi thế giới tự do bằng “nước vỏ lựu, hoa mào gà” Mác-xít-lê-ni-nít!
Đầu tháng 5-1980, Z30 D thả một số đông tù nhân sĩ quan quân đội, cảnh sát và hạ sĩ quan an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt. Lê Ngọc Biên trúng số kỳ này. Những người trúng số K2 và K3 ra hết K1. Họ tập trung ở hội trường, ăn ngủ ở đó thêm 10 ngày để chờ làm thủ tục. Thủ tục là gì? Lãnh đồng hồ, bút máy nhẫn vàng, giây chuyềnvàng đã đăng ký. Lãnh giấy ra trại, tiền đi đường…. Chỉ cần làm việc một ngày là xong mọi thủ tục. Nhưng Ban Giám Thị muốn “thầu” nhân lực 10 ngày của tù nhân. Họ sắp về nên lao động hăng lắm. Tù nhân vào rừng chặt đọt buông và bắt cắc kè để Ban Giám Thịbán cho Hợp tác xã ở thành phố Hồ Chí Minh. Tiền vào túi Ban Giám Thị. Không có bảo đảm về tính mạng cho tù nhân đã được tha nếu họ chết trong lao động “làm giày cho Ban giám thị”. Những người được tha mòn mỏi thêm 10 ngày. Họ rất sợ Bộ Nội Vụ ra quyết định mới giữ họ lạivài năm nữa. 10 ngày lâu bằng suốt quá trình lao cải. Chỉ khi xách túi hành lý nhỏ, cầm giấy ra trại, lĩnh vài đồng bạc tiền đường và bước nhanh ra quốc lộ, người được tha mới thở phào. Ân huệ của cộng sản thật đòi đoạn. Ban Giám Thị Z30D đã bóc lột tù nhân đến giọt giọt mồ hôi lao cải cuối cùng.
Giám thị Z30 D tên Nguyễn văn Mạnh, mang quân hàm Đại tá công an, già nua, có cô vợ trẻ. Vợ hắn bắt tù canh tác riêng một vườn ngô, vườn khoai. Tù nhân phải ăn thêm ngô, khoai của vợ Giám thị Mạnh. Mụ này bán ngô, khoai cho trại. Mụ cũng nuôi đàn vịt, bán trứng cho tù nhân qua trung gian tù nhân Đội chăn nuôi, giá cắt cổ. Ở Z30 D, chúng tôi phải ăn sắn lát. Bạn biết sắn lát chứ? Nông dân hai bên quốc lộ số 1 thuộc phạm vi huyện Hàm Tân trồng khoai mì, thái từng lát mỏng, phơi nắng đầy đường cho khô cứng rồi đóng bao bố nộp thuế nông nghiệp cho nhà nước. Nhà nước bán rẻ cho nhà tù. Nhà tù hầm sắn lát cho tù nhân ăn. Sắn lát ăn với nước muối. Tiêu chuẩn như vầy:
- Sáng, điểm tâm một chén sắn lát đầy có ngọn. Lao động 4 giờ.
- Trưa, một chén sắn lát, một chén cơm. Lao động 4 giờ.
-Chiều, một chén sắn lát, một chén cơm. Ngủ 8 giờ.

Ăn sắn lát thảm hơn ăn bo bo, ăn bắp đá. Với khoai, bắp, sắn, bo bo là thực phẩm lý tưởng. Răng rụng và bao tử loét vì bắp đá, bo bo, sắn lát.
Thỉnh thoảng, tù nhân bị ăn cá biển ươn cả tuần. Chả là công an kinh tế ngoài quốc lộ bắt trúng cá Phan Thiết chở vào Sài gòn bán lậu. Bèn phạt. Dân buôn chạy tiền phạt thời gian hạn định không nổi. Đành để công an kinh tế tịch thu. Công an kinh tế bán rẻ rề cho Ban Giám Thị Z30 D. Tù ăn cá thối 7 ngày thì 7 ngày sau ăn toàn sắn lát. Gạo trừ cá. Ban Giám Thị bán gạo cho dân ngoài quốc lộ. Thỉnh thoảng, tù nhân được phát muồng xanh chua lòm. Ăn muồng xanh cũng bị trừ phần cơm. Ban Giám Thị rất giỏi kế hoạch kinh tế…nhà tù. Mỗi tháng, một tù nhân bị ăn cắp một ký gạo nhai sắn lát thay cơm, 3000 tù nhân đã đóng góp vào túi Ban Giám Thị số tiền lớn, năm này qua năm khác. Chưa kể đọt buông, cắc kè của hàng ngàn tù nhân được tha “lao động tự giác 10 ngày”. Z30D, bí số của đốn mạt! Nó là thứ kiểu mẫu của gian lận, bịp bợm.
Z30 D có hai nhân vật tù nhân. Ông Paul Nur, Tổng trưởng Bộ sắc tộc triều đại Nguyễn văn Thiệu và cụ Trân (hay Trản), thân phụ của cố thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu. Ông Paul Nur, “con bà phước”, nấu bếp ở Đội cấp dưỡng. Tổng trưởng Paul Nur thường được cán bộ ưu ái cho giết bò những ngày lễ lớn. Đền công ông, cán bộ tặng ông da bò! Ông đem về treo sàn bếp. Một ngày xấu trời của năm 1982, Tổng trưởng Paul Nur ăn khá nhiều da bò hầm. Ông bị sình bụng. Bác sĩ Nhơn đã về. Bác sĩ Hoàng Cầm mãi đi chơi xa. Y tá không biết trị bệnh. Thế là Tổng trưởng Paul Nur về…sum họp với tổ tiên. Cụ Trản thuộc loại lão thành phản động. Cụ bất chấp kỷ luật của Z30 D. Hình tưởng một cụ già ngoài 70 tuổi mà còn bị đày đoạ ở Đội trừng giới, sẽ hiểu tinh thần bất khuất của cụ.
Thời gian tôi ở Z30 D, hầu như tháng nào cũng được kết quả xổ số. Tháng 7-1980, khá đông sĩ quan cải tạo ở Thanh Nghệ Tĩnht về Z30 D. Có ông thiếu tá nhẩy dù Phạm Đình Cung, hỗn danh Cung củ đậu. Tù nhân cải tạo ở miền Nam vẫn tưởng tù nhân cải tạo ở miền Bắc ngoan cường lắm. Z30 D đã thất vọng nhóm tù nhân về từ Thanh Nghệ Tỉnh. Họ ở khu B. Nhiều lúc tôi muốn văng tục với loài người. Con người không dám phản kháng chỉ mong con người khác phản kháng. Và khi con người mình kỳ vọng bất động, mình thất vọng, mình coi thường! Tôi đã bị nghe những lời bình phẩm nặng nề tù nhân Thanh Nghệ Tỉnh của những ông tù nhân Z30 D thuộc loại “bầy tỏ chí khí trong bóng tối “. Tù nhân Thanh Nghệ Tỉnh về không bị biên chế sang các đội cũ của Z30 D. Họ được ở chung với nhau. Và đó là những đội của sĩ quan quân đội trình diện học tập cải tạo. Tháng 9-1980, Đội 27 của tôi gặp sự rắc rối. Bấy giờ Vũ Tiến Đạt đã bị “cất chức” Đội trưởng. Đội trưởng mới Nguyễn văn Thành, sĩ quan cảnh sát tốt nghiệp Viện cảnh sát quốc gia, tác giả vụ bắt sòng bài tổ chức tại nhà ca sĩ Thanh Thúy, đường Cao thắng và vụ đột nhập sòng thuốc phiện Tư Cao. Nguyên nhân sự rắc rối như vầy: Tôi nằm giữa Nguyễn văn Hải, trung úy quân đội và Bùi Đình Mừng, phản động hiện hành. Ngô của đội tôi đã ra bắp. Quản giáo chọn người đi canh ruộng bắp. Thư ký đội (tôi quên tên), trung úy không-ảnh, được giao phó công tác canh ngô. Chủ nhật, anh ta về muộn, lúc trại đã điểm danh chiều và tù nhân đã vào “chuồng”, cửa đã khóa. Anh ta đứng ngoài đợi trực trại mở cửa. Nguyễn văn Hải ngứa miệng:
- Sao không trốn luôn đi? Chăm lắm. Trước đây mà chăm một góc thôi, đâu đến nỗi mất nước.
Bùi Đình Mừng vồ được câu “đại phản động” này. Nó vốn thù ghét Nguyễn văn Hải “con bà phước”, vì Hải ưa nói móc nó. Mừng to họng nhất đội, thích đấm đá và thích chụp mũ “ăng ten” lên đầu người khác. Nó hỏi tôi:
- Anh có nghe gì không?
- Nghe gì?
- Anh Hải vừa nói.
- Không.
- Tại sao anh không nghe?
- Tôi bận hút thuốc lào và rồi tôi phê…
Họp đội, Bùi Đình Mừng đưa Nguyễn văn Hải vào mục phê bình. Nó nhắc nguyên văn câu của Hải. Nó bắt tôi làm chứng. Tôi nói:
- Tôi không nghe thấy gì cả. Vì tôi phê thuốc lào. Dẫu tôi nghe thấy, làm chứng hay không là do tôi thích hay không, anh Mừng không có quyền bắt tôi làm chứng. Chứng nhân là ân nhân của pháp luật, không là nạn nhân của pháp luật, anh Mừng hiểu chưa?
Đội trưởng Thành không ghi chuyện này vào biên bản. Bùi Đình Mừng báo cáo quản giáo. Họp đội tại nhà lô. Mừng quyết liệt tố cáo Hải. Tôi vẫn “không nghe gì cả,vì phê thuốc lào”. Phiên họp giải tán. Quản giáo gọi tôi, hỏi riêng:
- Anh Hải có khả năng nói thế không?
- Tôi không nghe gì cả.
- Có khả năng nói thôi?
- Tôi biết anh Mừng ghét anh Hải. Khi người ta ghét nhau thì nhẹ là nặng, ít là nhiều.
Quản giáo bỏ qua vụ này. Tôi thêm hỗn danh Long phê sau khi đã là Long ếch mù. Bùi Đình Mừng không dám sinh sự với tôi. Từ đó, nó hết bảo người này “ăng ten” người kia “ăng ten”. Và “cơ” của tôi bắt đầu lên!
Chú thích:
1. Xin đón đọc Chiến Bại, tiểu thuyết của Duyên Anh viết về những tù nhân trở về đời sống cũ.
CHƯƠNG 14

Tôi đã thèm qua nhiều nhà tù, nhiều trại tập trung. Thế mà, đến Z30D thì tôi không muốn bị chuyển trại nữa. Ở đâu cũng vậy, ngục tù rập một khuôn y hệt cuộc đời, rập một khuôn xã hội chủ nghĩa. Còn lâu mới tiến lên xã hội cộng sản. Ông Phạm Văn Đồng đã khẳng định vậy, trong một cuốn sách văn nô viết ký tên ông ta. Con người phải nhục nhằn, mòn mỏi thêm nữa, thêm mãi; phải trường kỳ thống khổ để khi đạt được lý tưởng cộng sản, nó trở thành kẻ mất hết cảm xúc, cảm giác; nó không thèm muốn đến cả hạnh phúc nó mơ ước. Bởi vì, lúc ấy, nó hết là con người. Năm 1848, Engels phóng ra Tuyên ngôn Đảng cộng sản, tính đến nay, 1987, đã là 139 năm. 139 năm loài người “có” chủ nghĩa và Đảng cộng sản mà chủ nghĩa và Đảng ấy mới chỉ hồ hởi phấn khởi thông báo rằng, đã có những hai công dân hưởng quy chế xã hội cộng sản ở Đông Đức! Nếu thành tích khiêm tốn này chưa đủ nói lên sự “ưu việt” của chủ nghĩa cộng sản “bách chiến bách thắng”, của “đỉnh cao trí tuệ” loài người, nên ghi chú thêm rằng: Hai công dân Đông Đức hưởng quy chế xã hội cộng sản là hai nhà bác học! Mà quy chế xã hội cộng sản là gì? Đó là mua sắm ăn uống ở bất cứ nơi nào cũng không phải trả tiền. Đặc biệt không phải… xếp hàng, chen lấn! Như thế, còn lâu ngục tù mới rập khuôn cộng sản. Và nó chẳng thể giúp tù nhân hiểu thêm sự thống khổ mới của quy chế ngục tù cộng sản. Nên trại lao cải nào cũng giống trại lao cải nào, nhà tù nào cũng giống nhà tù nào. Đã sống tĩnh ở Chí Hỏa, đã sống động ở Sa ác là đã sống trong bóng tối, ngoài ánh sáng, sống trọn vẹn cuộc đời tù tội không xét xử, không án tích.
Hai mươi năm trước, đọc bài phỏng vấn danh ca Charles Aznavour đăng trên tuần báo Jour de France, sau chuyến đi trình diễn của Aznavour ở Liên Xô về, tôi thấy người danh ca này có nhận xét độc đáo vô cùng.
- Ông vừa trình di diễn ở Liên Xô về?
- Vâng.
- Khán giả Liên Xô thế nào?
- Ở Liên Xô, đã thành công tại Moscou, sẽ hoàn toàn thành công khắp nơi. Tôi đã thành công tại Moscou. Ở Mỹ chẳng hạn, thì khác. Thành công tại Washington chưa chắc đã thành công tại Houston, có khi, còn thất bại tại Los Angeles…
Trong chế độ cộng sản, mọi thứ đều rập khuôn, kể cả khuôn thưởng ngoạn nghệ thuật, khuôn hoan hô, khuôn đả đảo, khuôn nói dối, khuôn hứa láo, khuôn bịp, khuôn đạo đức giả, khuôn chà đạp phẩm cách con người, khuôn tước đoạt nhân quyền, khuôn bắt bỏ tù, khuôn lao cải…. Thì qua một nhà tủ đã là qua tất cả nhà tù, qua một trại tập trung đã là qua tất cả trại tập trung. Ở Z30 D không có những con gọng vó để tôi được soi sáng thêm cái triết lý sống lội ngược dòng. Nên tôi nhớ Sa Ác, nhớ sông Ray, nhớ đề lao Gia Định, nhớ khu C1, nhớ Chí Hoà, nhớ khu FG. Tôi có ý nghĩ này: Càng ở những nơi đau khổ nhất, con người càng gần gũi nhau và lòng người rộng mở, tình người thắm thiết. Ở nhà tù, khi anh từ cachot ra, anh được đón tiếp như anh em ruột thịt lưu lạc phương xa trở về mái nhà gia đình… Ở trại tập trung, khi anh từ cachot ra, anh cảm thấy lẻ loi, cô độc dù, đôi bận, anh đã vì mọi người mà “dấn thân’ vào cachot. Thành ra tôi tương tư nhà tù, tôi thèm được trở lại nhà tù, thèm được ghẻ mủ, thèm được cấp mỗi ngày bốn ca nước, thèm nghe tiếng kẻng gầm gừ đe dọa thân phận làm người… Con người chỉ có thể ngủ vùi trong hoan lạc mà khó có thể ngủ vùi trong thống khổ. Nỗi thống khổ giúp con người thức tỉnh, suy tư truy nã thân phận nó, thân phận dân tộc nó và thôi thúc nó chiến đấu. Thiếu thống khổ bản thân là thiểu cảm thông nỗi thống khổ của tha nhân, đôi khi, còn thô bạo dầy đạp lên cả nỗi thống khô của tha nhân, của dân tộc, của nhân loại. Những kẻ chưa một lần thống khổ là những kẻ chưa biết chiến đấu. Những kẻ chưa kể khổ, than khổ, tố khổ lại là những kẻ không biết chiến đấu Nhưng, tệ mạt nhất, vẫn là những kẻ tưởng tượng thống khổ, bêu nhục thống khổ và nhân danh khổ để đấu thầu lòng yêu nước, sự vinh hoa và một chút tiếng tăm gầy còm. Những kẻ này cần thiết phải bị vào nhà tù cộng sản. Để họ vỡ nghĩa thống khổ. Để họ hiểu cái hun hút của một ngày tù. Một ngày thôi. Nói chi một tháng, một năm, sáu năm, mười năm, trọn đời. Sự phán xét phẩm cách, nhân cách của người khác chỉ có giá trị khi chính ta bị bỏ khát ở conex những trưa nắng bỏng, ta há hốc miệng, lưỡi thè ra như chó và ta sẵn sàng liếm từng giọt nước do cai ngục hắt qua kẽ hở của cửa Conex. Những kẻ hăng say luận về nhân cách, về lòng can đảm thường quên bản năng sinh tồn. Tôi tin rằng, bị bỏ khát trong conex, những kẻ ưa phán xét con người nhất sẽ là những kẻ không thích liếm giọt nước hình phạt mà tình nguyện quỳ lạy để nốc ừng ực một ca ân huệ có điều kiện sám hối. Chỉ cần một lần xuống hầm phân vục cứt đầy ròi bằng tay trần, chỉ cần một lần lặn xuống sông kiếm đá, ở Sa Ác, tôi tự cho phép tôi ngồi lên mặt những kẻ hèn mạt chuyên nghề phì nọc độc vào nỗi bất hạnh của đồng loại.
Bỗng tôi nhớ Chí Hòa và Đoàn Kế Tường vô cùng.
Người bạn tuổi nhỏ của tôi có biệt tài “sáng tạo” lời ca cho những bản nhạc “cách mạng” và nhạc “Mỹ Ngụy”. Anh ta “chế” lời bản Love Story, tiếc rằng tôi quên hết, chỉ nhớ câu đầu. Tôi nghĩ, chỉ cần một câu là diễn tả trọn vẹn tâm sự của tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng trong các chế độ cộng sản.
Biết vào tù rất khó
mà mình vào tù rất dễ
Mình vào tù rất dễ
mà mình về thì rất khó
Ba năm rồi đó…
K hi Đoàn Kế Tường nghêu ngao, cả phòng cười. Cười xong thì thấm thía. Sống với cộng sản, vào tù thật dễ, thật đông, vào cả làng một lúc mà về thật khó, thật ít, về từng người. Đoàn Kế Tường là vua chế lời ca mới và vua sưu tầm lời ca “phản động” của dân gian. Anh ta đã hát cho chúng tôi nghe bài Đường tầu thống nhất
Năm xưa anh phá núi, em mở đường
xuyên Trường Sơn đồi núi chập chùng
Năm nay cũng bao bàn tay
phá núi trên mở núi dưới
Tự hào là ta anh dũng
Tự hào là những chàng trai
Tuổi thanh niên sức dai Phù Đổng
Cháu ngoan của bác Hồ
đi mở đường thống nhất quê hương….
thành bài Bài ca của dân móc túi
Năm xưa anh móc túi em giật đồ
xa-cảng Miền Tây thành phố Sàigòn
Năm nay cũng bao bàn tay
móc túi trên luồn túi dưới
Tự hào là dân móc túi
Tự hào là những chàng trai
Tuổi thanh niên trót theo cộng sản
Cháu ngoan của bác Hồ
chuyên giật đồ móc túi nhân dân…
Bài Vàm Cỏ Đông
Ở tận sông Hồng em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh vẫn gọi với lòng tha thiết
Vàm Cỏ Đông… ơi…Vàm Cỏ Đông
Thành bài Vùng Bù Đăng.
Ở tận Huê kỳ anh có biết
Quê hương em đếch có gì ăn
Em mới dọn đến vùng kinh tế mới
Vùng Bù Đăng hay Bù Nho
Vùng Bù Đăng hỡi vùng Bù Đăng
Sắn ngô nhai mãi khốn khổ vô cùng
Mỹ cút đi rồi, chồng học tập muôn năm
Bài Lá đỏ:
Gặp em trên cao lộng gió
Đường Trường Sơn ào ào lá đỏ…
Thành bài Chợ trời:
Gặp em khơi khơi đầu gió
Đường Hàm Nghi ồn ào lính đuổi
Em đứng cạnh cột đèn như con buôn
vai áo nhuộm phong trần
Quần đen, bao nhiêu một cái
Đài xài pin chừng nào mới đổi
Em bán bằng tiền Hồ hay đô-la
hay giá vàng Kim Thành
Chào em, em gái chợ đen, ôi em gái chợ đen
Hẹn gặp em giữa nhà tù

Đoàn Kế Tường thuộc, ít nhất, hai chục bài ca cách mạng lời… hai. Anh ta chế lời bài Gia tài của mẹ của Trịnh Công Sơn mới thú vị:
Một nghìn năm ta đuổi thằng Tầu
Một trăm năm ta đuổi thằng Tây
Hai mươi năm đuổi Mẽo từng ngày
Gia tài của mẹ: gạo độn ngô khoai
Gia tài của mẹ: gạo mốc dài dài.
Dạy con đeo răng sắt mà nhai
Dạy con mua thuốc đau dạ dầy
Ăn sắn con thành chai
Ăn sắn tiêu hình hài
Chưa đủ, anh ta chế thêm:
Một nghìn năm sinh được cụ Hồ
Một trăm năm răng rụng cạp ngô
Hai mươi năm sản xuất từng giờ
Gia tài của mẹ trả nợ Liên Xô
Gia tài của mẹ còn cái chuồng bò.
Dạy cho con lấy đá mà ăn
Dạy cho con lấy rơm mà gặm
Con sẽ no lầm than
Con sẽ no nhục nhằn…
Tôi đã mơ mộng, nếu thoát đời tù, trốn ra ngoai quốc, xách đàn đi hát dạo những “ca khúc cách mạng” lời “phản động”, đọc ca dao và kể chuyện tiếu lâm cộng cho đồng bào hải ngoại nghe. Giấc mộng của tôi đã cháy. Bây giờ, nó thành tro tàn. Người ta không hiểu nổi giá trị chống cộng sâu sắc của dân gian. Và người ta đã, đang, tiếp tục chống cộng sản theo cung cách “mới”, cái thứ “mới” làm héo hon niềm tin của người ở lại, của cả kẻ ra đi, cái thứ gọi là mới mà đã cũ mèm, lạc hậu, trong khi, cộng sản không ngừng “sáng tạo” những thủ thuật lưu manh. Mỗi thủ thuật cộng sản phóng ra, chúng ta chới với, chúng ta chụp mũ lẫn nhau lung tung, chúng ta chổng chúng ta, chúng ta chia rẽ nhau và chúng ta giết nhau. Riêng cái thủ thuật chấp nhận cho người Việt Nam rời khỏi Việt Nam sau 1975, bất kể chính thức, bán chính thức hay vượt biên, vượt biển, được về thăm Việt Nam, du lịch Việt Nam dễ dàng, cộng sản đã được cả chì lẫn chài. Chì là ngoại tệ và tuyên truyền. Chài là chúng ta gấu ó nhau, ngờ vực nhau và vô hiệu hóa tị nạn chính trị. Lúc nào và ở đâu, cộng sản cũng thâm độc. Sau ngày 30 tháng 4-1975, chúng ta nhận diện rõ những tên nằm vùng gộc, những tên ăn cơm quốc gia ngon nhất, những tên chống cộng nỏ mồm nhất và chụp mũ cộng sản lên đầu người quốc gia kỹ nhất. Những tên nằm vùng này nằm trong mọi lãnh vực, mọi cơ cấu quốc gia. Người ta sẽ nhìn rõ “đồng nghiệp” nằm vùng của chúng ở Hoa kỳ, ngày nào đó, khi Hoa kỳ bang giao với cộng sản Việt Nam. Người ta sẽ ngỡ ngàng. Người ta sẽ có kinh nghiệm. Nhưng kinh nghiệm đó không còn cơ hội… rút tỉa nữa. Cũng chẳng ai thiết rút tỉa nữa. Nói tóm lại, cộng sản Việt Nam đánh chúng ta mọi mặt, đánh rộng rãi, đánh kiểu mới; chúng ta thu hẹp sự đánh cộng sản vào từng Mặt trận, từng Lực lượng, từng Hội đoàn… Chúng ta đánh chúng ta kỹ hơn chúng ta đánh cộng sản. Cộng sản chuyên chế, cấm đối lập. Chúng ta cũng cấm… đối lập, dù chúng ta hô hoán chiến đấu cho tự do, dân chủ. Năm 1985, ở Mỹ, ở Úc, ở Âu, chúng ta vẫn chống cộng kiểu cũ, mốt 1954 ở Việt Nam. Vẫn vậy, những cuộc tuần hành đả đảo cộng sản ngày quốc hận 30-4-75 như ngày quốc hận 20-7-54, càng năm càng thưa dần. Vẫn vậy, những trang báo, những hình ảnh mô tả Hà nội, Sài gòn hôm nay nghèo đói, cúp điện. Vẫn vậy, những buổi diễn thuyết hiếm hoi bàn về cái thế tất thua của cộng sản một cách khơi khơi. Cái mới mà chúng ta mong mỏi là tư tưởng chiến đấu thật mới, thật thích ứng với người Việt lưu vong để tận diệt cộng sản giải phóng quê hương thì chưa hề có. Nhưng đã có những Hội Nghị và Nghị Hội với những khuôn mặt cũ mèm không bao giờ biết xấu hổ. Xin làm ơn ghi nhận: Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nhiều khuôn mật thật mới. Hình như ít ai trong chúng ta “bi quan” nghĩ rằng, chúng ta không được phép thất bại, không còn thì giờ làm lại nữa vì chúng ta “lão thành” rồi. Hình như, tất cả đều “lạc quan” mình còn trẻ lắm, sau mình là đại hồng thủy nên đã thất bại liên miên, đã làm lại liên miên và chưa chịu tỉnh ngộ những kẻ đã hết thời thì không thể tạo thế.
Hôm nay là thế của tuổi trẻ dĩ vãng vằng vặc trăng sao, hiện tại hừng hực mặt trời, thời của sư tử trẻ không còn là thời của mèo già. Tuổi trẻ sẽ tạo ra thế. Nhiệt tình, tự phụ, thông minh, kiến thức và lương thiện của tuổi trẻ tạo ra cái thế chiến đấu mới để chiến thắng cộng sản. Nhưng, tuổi trẻ, anh ở đâu, thần tượng của tôi, hy vọng của dân tộc? Anh cũng còn chưa có mặt tại Nghị Hội, nói chi anh là lãnh tụ. Mà tôi, tôi chưa ngu đi lạy bọn mèo già hen suyễn để chúng nó “thương tình” cho tôi ân huệ trình bầy sự chống cộng sâu sắc của đồng bào quốc nội và đồng bào quốc ngoại. Bởi, tôi biết mèo già sẽ từ chối. Chúng nó không thích ai chổng cộng sản hay hơn chúng nó. Chúng nó độc quyền hen suyễn khò khè chống cộng sản.

Một triệu bài báo viết về sự nghèo đói của thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không hơn một bức hí họa không lời của dân gian vẽ trên tường rêu của Hà Nội. Bức tranh rất đơn sơ: Cái xe đạp không chuông, không “phanh”, không đèn, không “gác đờ bu”, “gác đờ sen”, chỉ có có mỗi cái “poọc ba ga” chở ba bó rau muống. Mỗi bó rau muống được ghi chú bằng lời một bài hát ca ngợi Đảng: Cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau. Vậy thì ba bó rau muống trên cái “poọc ba ga” của cái xe đạp tam tứ ngũ lục thất bát...vô, bó thứ nhất cho ngày nay, bó thứ hai cho ngày mai, bó thứ ba cho muôn đời sau, tưởng đã đủ “chửi cha” Đảng và chủ nghĩa cộng sản. Giá trị chống cộng của bức hí họa là nó đánh cộng sản ngay trên đất cộng sản, nó đánh Đảng, đánh bọn thống trị bóc lột quần chúng và làm ngu dốt quần chúng. Nó không đánh nạn nhân của cộng sản, những người sống trong quỹ đạo cộng sản và bị trở thành công cụ tội nghiệp của cộng sản. Nó không đánh con người khờ khạo nói ngọng.
Đến câu chuyện tiếu lâm sau đây thì tôi quả quyết quốc ngoại chống cộng thua hẳn quốc nội chống cộng về mặt tư tưởng: Unesco tổ chức thi tranh, giải thưởng lớn, đề tài “Nạn đói và người đói”. Các nước trên thế giới đều được gửi tranh dự thi, bất kể theo chế độ chính trị nào. Vòng thứ nhất, tranh của họa sĩ Hoa kỳ bị bại. Vòng nhì: các nước Tây Âu. Vòng ba: các nước Nam Mỹ, Phí Châu. Vòng tư: Liên Xô và các nước Đông Âu. Cuối cùng, Unesco tuyên bố tranh của họa sĩ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đoạt giải thượng ngoại hạng. Phòng triển lãm khai mạc chỉ treo bức tranh thuộc loại “siêu phẩm” trúng giải. Loài người háo hức đi xem và đều trầm trồ ca ngợi là thể hiện đúng “Nạn đói và người đói” ở các nước cộng sản. Bức tranh diễn tả một công dân Việt Nam trần truồng, gầy đét, ngồi khom lưng rặn ra. Rặn hoài mà phân không ra. Rặn đến màng nhện mọc kín đít, trùm mông mà phân vẫn không ra. Vì có gì ăn đâu mà tiêu hóa! Đói thế là đói ở cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tiếu lâm trên được ca dao phụ họa:
Từ khi ta có cụ Hồ
Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào

Ai sinh ra cái củ mì
Hỏi để làm gì, đáp để mà ăn
Nước nhà mãi mãi khó khăn
Dân mình mãi mãi phải ăn khoai mì

Tôi không mấy tin tưởng vào “sự nghiệp chống cộng” của những kẻ thiếu nhiệt tình và chưa hề thể nghiệm nỗi thống khổ kinh qua đoạn trường cộng sản. Những lãnh tụ mèo già hen suyễn khò khè chống cộng chỉ khiến tôi buồn nôn. Từ trong ngục tù tôi đã nghĩ rắng những cái sẹo cộng sản trên thể xác đàn anh, những dấu ấn cộng sản khó phai nhòa trong tâm khảm đàn anh, sự lương thiện chiến đấu của đàn anh cộng với nhiệt tình và lòng tự phụ của đàn em, chắc chắn, sẽ làm nên đại sự. Đàn em đủ sức công kênh nhau hái trái chín vàng mơ ước nấp sau chùm lá nào đó trên cây cao mỏi mắt chờ đợi đàn anh hướng dẫn. Nhưng đàn anh biết trái chín vàng mơ ước ở chỗ nào mà không chịu chỉ hay đã chỉ láo, chỉ bậy để đàn em múa tay vu vơ rồi tuyệt vọng và sa đọa. Tôi nhớ Đoàn Kế Tường, nhớ Chí Hòa và nhớ vô cùng những con sư tử lãng mạn tôi đã gặp ở đề lao Gia Định… Dù bị quốc gia giả đạo đức, dù bị cộng sản đánh dập đánh vùi và gắn cho tước hiệu “nhà văn du đãng”, đọc lại Điệu ru nước mắt, Sa mạc tuổi trẻ, tôi vẫn thấy tự hào là đã nói lên được nỗi niềm u ẩn của tuổi trẻ. Tôi lại tiếp tục nói giùm tâm sự của họ, của tuổi trẻ thế hệ sau 30-4-1975, khi tôi gặp họ trong tù, ngoài đời; trong nước, ngoài nước. Tuổi trẻ trong nước đã kinh qua thống khổ cộng sản. Tôi tin rằng tuổi trẻ ngoài nước cũng đã kinh qua thống khổ cộng sản hoặc đã cảm thông nỗi thống khổ cộng sản mà dân tộc đang ngậm ngùi chịu đựng.
Thế thì, giấc mơ của tôi không tàn. Vì chúng ta còn tuổi trẻ, còn nhiều tuổi trẻ.

18/6/2016
Duyên Anh
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...