Trại tập trung 1
PHẦN I: VÀNG ỬNG NGẬM NGÙI (SA ÁC TH6) - CHƯƠNG 1
Có kẻ mê giang-hồ đến độ thèm được lột da mình bọc ngoài chiếc
va-ly của một lãng-tử nào đó, khi mình chết. Để mãi mãi ngày tháng là những
chuyến đi. Nếu ông ta tiên-tri cuộc đời sẽ còn những tuyến đường Moscou –
Goulag Sibérie, Suối Máu – Phước Long, Kà-Tum- Bù-gia-mập, Long Giao – Sơn Ca,
Trảng Lớn – Hà Nam Ninh,Gia Lai – Vĩnh Phú, Washington – Hà-nội Hilton, Nhà
Mình – Sở Công An, Đề-lao Gia Định – Chí Hòa…. di chúc của ông ta sẽ khác hẳn.
Và nếu ông ta biết cuộc đời sẽ còn những chuyến xe lửa ngừng lại chẳng cần kéo
còi, chẳng cần đợi đến ga nhỏ, lãng-tử chạy xuống vũng trâu đầm, múc nước uống ừng-ực
ngang họng súng AK canh chừng, ông ta, chắc chắn, sẽ chán chuyện lãng-du. Ở thời
đại tôi và trên quê-hương tôi có những chuyến đi đã trùm lấp định-nghĩa vô-định
và thống-khổ mà tôi không sợ lộng-ngôn bảo rằng đó là những chuyến đi định-nghĩa
làm người. Rồi sẽ có hồi-ký của một tù-nhân viết chính-xác về chuyến đi Sài gòn
– Hà nội được chào mừng bằng những trận mưa máu đá củ đậu củ khoai. Rồi sẽ có hồi-ký
của một tù-nhân viết chính-xác về chuyến đi Sài gòn – Phú Quốc trên chiếc tầu
HQ 501 khởi hành từ bến Tân Cảng.
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân bó gối dưới hầm ngồi
Chuyến tàu đi Phú Quốc
Chuyến tàu đi theo định-mệnh nổi trôi
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân một nắp nhỏ thông hơi
Chuyến tầu đi Phú Quốc
Chuyến tàu đi thám-hiểm vực đời
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân ba triệu tấn mồ-hôi
Chuyến tầu đi Phú Quốc
Chuyến tầu đi rúng-động đất trời
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân chờ từng giọt nước rơi
Chuyến tầu đi Phú Quốc
Chuyến tầu đi cháy tiếng khô lời
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân ba nghìn thú vật rã rời
Chuyến tầu đi Phú Quốc
Chuyến tàu đi định-nghĩa con người
Duyên Anh, (Thơ Tù, Nam Á Paris-1984)
Thơ không đủ định-nghĩa con người và sức chịu đựng phi thưởng
của nó 2 ngày 3 đêm bó gối nhịn đói, nhịn khát dưới hầm tầu há mõm. Hãy hình tưởng
một nắp thông hơi thường xuyên những họng súng chúc xuống đe-dọa. Hãy hình tưởng
tù-nhân chen lẩn cầm ca đi hứng nước nhỏ giọt ăn bao nhiêu đấm đá của “chiến-hữu”
– vì xô đạp lên người ngồi – mới đến “nguồn hạnh phúc”, và uống một hơi, không
dám uống hết đem về. Về chỗ khốn-khổ như rời chỗ, nước đã bị tung-tóe hết. Hãy
hình tưởng 2 ngày 3 đêm ỉa đái không tụt quần. Và, hãy hình tưởng, khi ghé bờ,
cái tầu há mõm ra, phân tiểu cũng ùa ra. Tù-nhân “đổ bộ” theo phân; có người ngụp
lặn cho sướng, ngoi đầu lên phân cả đống! Đó là sự thật rực-rỡ dưới ánh mặt trời
mà bất cứ người tù Việt Nam nào tham dự chuyến đi trên hai chiếc tầu HQ 501 và
HQ 503 đều không phủ-nhận. Có lẽ, người ta sẽ đính chính. Rằng, nó còn thê-thảm
gấp bội. Nỗi đau đớn chưa ngưng ở đó.
Hai ngày ba đêm dưới hầm tầu
Mắt còn thèm ngủ bụng đói lả
Thân xác còn như cái mền tã
Sáng sớm vác xẻng đào giếng khơi
Đất biển không chìu theo ý người
Càng sâu bao nhiêu càng lún rã
Mấy nghì tù-nhân khát khô cổ
Nhìn nhau muốn nói chẳng nên lời
Hạnh-phúc bây giờ là nước lã
Đội đá, lên núi hề đội đá
Đường đi- về ba cây số ngàn
Năm trăm tù-nhân xếp thành hàng
Đi thì hồn khói hun bốc toả
Về thì hồn cháy thiêu tàn-tạ
Chuyến đầu cố gắng vượt gian-nan
Chuyến sau gối mỏi đầu đau ran…
Duyên Anh, (Thơ Tù, Nam Á Paris-1984)
Những kẻ chịu đựng hình phạt của thù hận một cách can-đảm và
kiên- nhẫn, khinh-thường hình-phạt của thù-hận, bước qua nó mà đi mà tồn-tại để
tặng nhân-loại một định-nghĩa làm người, nhân-loại đã không thấy hình ảnh tuyệt-vời
của những kẻ ấy ở những cuốn sách viết về họ, nói về họ. May mắn, nhân-loại
không đọc nổi chữ Việt Nam, thành ra, họ chưa nhăn mặt biết tù-nhân chính-trị của
chúng ta “ăn giun, ăn cắp cháy, ăn vụng thịt, ăn tranh cơm với heo”! Hơn mười
năm nghẹn-ngào của dân-tộc, của tù-nhân lao-cải, nhân-loại đã được mở mắt những
điều gì? Một cái xó xỉnh đề lao Gia Định khu Cl của Đoàn văn Toại chưa biết ghẻ
tù thêu dệt ngu-xuẩn, bịa đặt gian-dối đã rằng “Goulag Vietnamien” ư? Muốn viết
quần-đảo tù-ngục cộng-sản ở Việt Nam sau 1975, phải viết những trại tập-trung
lao-động khổ-sai tại Sông Bé. Những đảo Bù Nho, Bù-gia-mập, Phú Văn, Phước
Long, Hớn Quản, Đồng Xoài đã tạo thành một quần đảo biểu tượng. Có trại lao-cải
của đàn bà tư-sản, vượt biên, phản-động. Có trại lao-cải của vũ-nữ, gái điếm.
Có trại lao-cải của thanh-niên xì-ke, ma-túy. Có trại lao-cải của con nít. Có
trại lao-cải của phế-binh. Có trại lao-cải của sĩ-quan chế-độ cũ. Có trại lao-cải
của trộm cướp… Chỉ cần một cuốn sách viết chính xác về Quần-đảo Sông Bé, thế-giới
sẽ thẩm-định giá trị phát triển của nền tù ngục cộng-sản Việt Nam. Nhưng chúng
ta rất thờ-ơ trong sứ-mạng gây xúc-động và phẫn-nộ cho thế-giới. Chúng ta có
nhiều tù-nhân khắp miền đất nước đang hiện diện ở Mỹ, ở Pháp, ở Úc. Chúng ta,
thay vì có nhiều người viết hồi-ký tù ngục, càng nhiều càng tốt – để các nhà
văn lớn cô- đọng, tổng-hợp, nhuận-sắc văn-chương thành một Goulag Vietnamien
vĩ-đại, đúng nghĩa, làm bàng hoàng thế-giới – thì chúng ta lại chỉ có vài cuốn.
Thành thử, Goulag Vietnamien mới là cái đống rác Đoàn văn Toại, nơi đó, tù-nhân
đầy đủ tự-do lập kiến-nghị và ký tên vào kiến-nghị! Thành thử, đại-diện của
tù-nhân cải-tạo tư-tưởng ở Việt Nam, nhân danh tù-nhân đi họp-hành, kiện-cáo,
tranh-đấu cho tù-nhân, toàn các vị ở Tây 30 năm, các vị di-tản sang Mỹ trước
30-4-1975. Bọn cai-thầu nỗi khổ này chịu khó vác bị gậy đi ăn mày sự hứa hẹn của
thiên hạ. Chúng nó đã trúng mối, cả danh lẫn lợi. Và tù-nhân của chúng ta vẫn
vô-vọng ngày về. Thể thì tiếng nói đích-thực của thống-khổ đâu? Tiếng nói không
ai dám ngờ-vực của các ngục-sĩ đâu? Họ đã bị chụp mũ “ăng ten” cả rồi. Bị chụp
mũ từ chân ướt chân ráo đặt lên đất quê người. Họ chán nản, im lặng. Để mặc cai
thầu độc-quyền đấu thầu nỗi khổ. Như bọn thống trị luồn cúi đã loại bỏ những
người yêu nước chân-tình để độc-quyền làm đầy-tớ cho ngoại-bang, ở đất nước
chúng ta. Cho nên tôi nghĩ: những chuyến đi của tù-nhân Việt Nam trên quê-hương
mình, những chuyến đi định-nghĩa con người: định-nghĩa làm người như chuyến đi
Sài gòn – Phú Quốc, ngay cả trong chúng ta, vẫn còn mơ hồ, xa lạ.
Chuyến đi của tôi tầm thường. Năm mươi tù-nhân công-kênh
hành-lý nhồi nhét trên chiếc xe vận-tải chuyên chở heo, bò. Không ai dám ngồi.
Tất cả đứng. Bạn tù của tôi báo cáo lộ trình. Xe đã qua cầu xa-lộ. Qua ngã tư
Thủ Đức – Trường Võ Bị. Nhiều anh em hồi -hộp chờ qua cầu sông Đồng Nai. Không,
nó rẽ lối đi Vũng Tầu. Qua Long Thành, nó chạy thẳng. Một anh mau miệng:
- Mình vào Xuyên Mộc đất đỏ, các ông ạ!
Chúng tôi bắt đầu khó chịu vì con đường này đã bị lồi-lõm nhiều,
không kịp tu sửa. Sau ngày 30-4-1975, đường-xá kể như không tu sửa. Nhà nước
xã-hội chủ-nghĩa đẻ ra chính-sách “dưỡng đường”nhưng ngay ở thành-phố Hồ Chí
Minh “rực rỡ tên Người”, chính sách “dưỡng đường” đã trở thành “chuyện tiếu lâm
Việt- cộng”. Người ta múc nhựa đun sôi đổ đầy ổ gà rồi rắc cát lên. Xe hơi chạy
qua, lôi luôn cả tảng nhựa’! Có nhiều con đường được “dưỡng” bằng cát xịt nước.
Nắng Sài gòn đã làm cát bay tung mù phố-phường. Đường thành-phố đã “tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã-hội chủ-nghĩa”, quốc-lộ và tỉnh-lộ còn tiến vọt
theo “ba luồng sóng cách-mạng” bạo hơn.
Xe tới thị-xã Bà Rịa thì rẽ vô con đường đất. Tốc-độ giảm xuống.
Nó ì ạch nuốt những bậc thang. Chúng tôi dồn lên, xô xuống liên tục. Nằm chuồng
gà lâu ngày, chúng tôi đâm ra yếu ớt. Lục phủ ngũ tạng đảo lộn với đường-xá gập-ghềnh.
Nhiều anh em ói mửa. Bụi đỏ luồn qua những khe bạt hở khiến chúng tôi ngộp thở.
Cộng thêm mùi ói mửa chua lòm. Chúng tôi choáng-váng mặt mày. Chẳng ai bảo ai,
cả làng ngồi hết. Ngồi lên cả hành-lý. Ngồi lên cả những bãi nôn mửa mà chịu đựng
xe nhồi. Khi sức nóng hấp chúng tôi, bắt mồ-hôi chúng tôi tuôn chảy ướt nhèm quần
áo, xe qua Bầu Lâm, Bà Tô. Hai địa danh này, ít nhất, có bốn trại lao-cải dành
cho các ông trong ủy-ban xã, ấp, khóm, phường của chế-độ cũ, dành cho những người
vượt biên thiếu may-mắn, dành cho tù-nhân hình-sự chế-độ cũ và “đệ-tử tiên nâu
tiên trắng”. Ngọc Thứ Lang, tên cúng cơm Nguyễn Ngọc Tú, hỗn-danh Tú Lệch, dịch
giả Bố Già tài tình, đã chết nơi đây vì can tội “chống chủ-nghĩa mác-xít bằng
chủ-nghĩa choác-hít”.
Đúng trưa, xe chở sức-vật tới đích. Nó ngừng ở sân phía ngoài
trại. Tấm vải bố che kín phía sau được lột lên và cửa sắt mở tung. Chúng tôi đứng
dậy chờ lệnh.
- Tôi gọi tên anh nào, anh ấy hô có rồi nhẩy xuống khẩn-trương.
Rõ chưa?
Chúng tôi đồng thanh đáp:
- Rõ.
Ba lô may ở Chí Hòa máng hai vai, tay xách giỏ thực-phẩm,
chúng tôi chuẩn bị một “saut tù”, chắc chắn, lâm ly hơn “saut đêm” của thi sĩ
Hà Huyền Chi.
- Trần Duy Cát.
Đằng Giao len ra và nhẩy…dù! Người lính nhẩy dù bất-đắc-dĩ
ngã chúi. Vệ-binh ôm súng cười khoái-chí. Gã công-an dục:
- Ngồi dậy khẩn-trương! Ra xếp hàng chỗ kia!
Đằng Giao đứng dậy thật nhanh, sửa lại hành-lý và bước đến chỗ
ngồi chỉ-định.
- Nguyễn Mạnh Côn.
Tác-giả Ba người lính nhẩy dù lâm nạn… lâm nạn thật sự. Đằng
Vân Hầu 1 không thề đằng vân giá vũ. Cái tước hầu của anh đã bị xóa bỏ. Anh ta
ném hai cái bị xuống trước rồi “bông nhông” sau. Như vậy, anh ta chỉ bị…khuỵu.
- Vũ Mộng Long.
Tôi nhẩy… kiểu thế vận hội lao-cải! Kiểu này khác Tango,
Rumba, Valse. Càng khác Twist, Disco. Có lẽ nó là kiểu à gâu gâu. Nhưng mà vẫn
ngã bổ nhoài. Tôi ngậm-ngùi đứng dậy và lặng-lẽ bước đến ngồi cạnh Đằng Giao.
Huyết-thống tổ-tiên tôi không có “anh-hùng-tính” và tôi đã không có tinh-thần
“uy-vũ bất-năng- khuất”. Phải chi tôi di-tản qua Mỹ trước 30-4-1 975 hay chẳng
hề bị tù-đầy, tôi sẽ viết báo chửi tôi khiếp-nhược đầu-hàng cộng-sản”. Phải hét
lớn: “Bố quốc-gia đây, bố đếch nhẩy, các con cộng-sản làm gì bố thì làm”, rồi
có bị bọn chăn trâu cắt cỏ, bị đục sưng phổi, dập lá lách, tôi sẽ phong tôi làm
anh-hùng tù ngục. Tuy nhiên, sẽ không anh nào gửi về an-ủi tôi một lọ dầu
cù-là… Mỹ! Vậy thì tôi hèn và tôi khước-từ làm anh-hùng đào-ngũ ngồi viết sử đấu-tranh.
- Ông thầy, ngậm ngùi quá hả? – Đằng Giao thầm-thì hỏi tôi.
- Hãy còn xanh, nó sẽ chín vàng, chín vàng ửng, vàng như ước
mơ.
Cái động đầu tiên của trại tập-trung đấy. Nó là tiếng ngã huỳnh-huỵch.
Chúng tôi đã biến thành chìa khóa mở một kho cười no-nê cho đám công-an coi tù.
Trẻ nhẩy. Già nhẩy. Màn nhẩy dù kéo dài cả tiếng đồng-hồ. Chúng tôi ngồi giữa nắng
chang-chang, đầu trần. Nô-lệ thời Trung-cổ còn sướng hơn chúng tôi. Công-an thì
tà-tà. Công việc tiếp-nhận tù có chi gấp-gáp. Nắng làm chúng tôi hoa mắt và
khát khô họng. Chúng tôi há hốc miệng, chứ chưa thè lưỡi thôi. Lệnh bắt chúng
tôi ngồi yên tại chỗ. Tôi bỗng tương-tư Chí Hòa. Châm ngôn của tù-nhân cộng-sản
là “Nơi sắp đến khốn nạn hơn nơi đã đến. Ngày mai thê thảm hơn hôm nay”. Biết
thế mà vẫn thèm thay chỗ, đổi không khí và rồi chán ngán.
- Ông thầy!
- Gì?
- Mình bỏ xác tại đây mất.
- Bậy nào.
- Mình tù lâu quá rồi.
- Một vụ nghỉ hè trong đời sống. Vài tháng nữa, mình về. Hè của
học trò ba tháng. Hè của tù-nhân ba năm.
- Ông lại tin nó.
- Tôi tin tôi. Vẽ ra niềm tin mà sống chứ.
Công-an đã kê bàn trước mặt chúng tôi. Họ bắt chúng tôi
kê-khai lý-lịch. Từng người lên bàn. Đứng nghiêm và đứng cách xa cán-bộ ba thước.
Luôn luôn, cộng-sản cảnh-giác cao độ. Lớn cảnh-giác lớn. Bé cảnh-giác bé. Cảnh-giác
mọi lãnh-vực. Cảnh-giác làm việc và cảnh-giác rong chơi. Bài học cảnh-giác được
thi-hành triệt-để. Từ trên xuống dưới. Học tập dài dài. Thời chiến và thời
bình. Cảnh-giác địch và cảnh-giác ta.
Chúng tôi lại phải làm công việc kê khai tên tuổi, chỗ sinh,
chỗ sống, nghề-nghiệp cũ: can tội gì, bị bắt ngày nào, cơ-quan nào bắt vân vân…
Tôi đã khai đến nát bét lý-lịch. Có một lần, ở khu Cl đề-lao Gia Định, Hai Phận
đã làm tôi sửng-sốt về tội-trạng của tôi. Họ cầm tờ khai lý-lịch của tôi đứng
ngoài cửa phòng gọi tôi:
- Vũ Mộng Long.
- Tôi là Trưởng khu, anh phải dạ vâng.
- Dạ.
- Anh can tội gì?
- Nhà văn chế-độ cũ.
- Sai. Anh viết lại đi.
- Thưa ông Trưởng khu, viết thế nào ạ?
- Vũ Mộng Long can tội Duyên Anh!
Hai Phận vĩ-đại đã tặng cả phòng một trận cười khi hắn khuất
dạng. Tôi cũng cười ra nước mắt. Về sau, suy nghĩ kỹ tôi mới thấy Hai Phận vĩ-đại
hơn Hồ Chí Minh. Vũ Mộng Long có tội gì đâu. Duyên Anh gây ra đủ thứ tội. Thế
nên, tôi đã yêu Vũ Mộng Long mà ghét Duyên Anh thậm tệ. Ở đây, ở cái trại tập-trung
khổ-sai lao-động tôi chưa biết tên này. Người ta chấp nhận Vũ Mộng Long, bút hiệu
Duyên Anh, can tội nhà văn phản-động, dẫu hồ-sơ Trung-ương ghi rõ tôi can tội
“Đảng viên Duy Dân trốn trình-diện học-tập, trong tổ-chức chống phá cách-mạng
hiện-hành”.
Phải mất thêm hai tiếng đồng-hồ phơi nắng nữa thủ-tục nhập trại
mới của chúng tôi mới xong. Rồi chúng tôi được tách thành hai nhóm và được dẫn
vào trại, chỉ-định nơi ăn chốn ở.
Trại tập-trung khổ-sai lao-động này có Hòm-thư mang bí số TH6
Xuyên Mộc, Đồng Nai. Nghĩa là trại TH6 thuộc huyện Xuyên Mộc, tỉnh Đồng Nai.
Riêng huyện Xuyên Mộc đã vượt chỉ tiêu 6 trại lao-cải. Cả tỉnh Đồng Nai nhân
lên bao nhiêu lần?
TH6, khi tôi tới, chưa nhốt tù-nhân sĩ-quan Quân-lực Việt Nam
Cộng-hòa. Mà chỉ toàn sĩ-quan cảnh-sát đặc biệt, cảnh-sát tư-pháp, sĩ-quan, hạ
sĩ-quan Phủ đặc-ủy Trung-ương tình-báo, vài ông thẩm-phán và tù-nhân hình-sự
đa-số mang tiền-án du-thủ du-thực dưới chế-độ cũ. Khoảng mười dẫy nhà mái tôn,
nền đất, tường ghép bằng cây dài, to cỡ cánh tay, chôn sâu chẳng mấy hứa hẹn
an-ninh cho những tay thích trốn trại. Mỗi dẫy nhà chứa trên dưới 150 tù-nhân gồm
3 đội. Nhà “kiến trúc” hai tầng, do tù-nhân xây cất.
Tầng dưới phải khom lưng, đứng thẳng người sẽ đụng đầu. “Sàn
gác” cũng ghép bằng cây nhỏ còn nguyên vỏ, nằm ê ẩm mình mẩy. Một cái cầu tiêu
ba chỗ ngồi đại-tiện phía sau và ở ngay trong nhà. Cầu tiêu “kiến trúc” rất
ly-kỳ xứng đáng đoạt giải Roma, nếu dự thi như kiến-trúc-sư Ngô Viết Thụ. Ngó
xuống lỗ cầu sẽ thấy cái máng gỗ chứa phân. Không nên để nước tiểu và nước rửa
đít chảy vào máng chứa phân. Như thế, nước tiểu sẽ ngấm qua phân, rỉ xuống đất
qua kẽ hở của máng chứa phân và tạo thành mùi thối… trường-kỳ. Trường-kỳ
kháng-chiến nhất-định thắng-lợi nhưng trường-kỳ thối sẽ hủy diệt khứu-giác. Do
đó, “kiến-trúc-sư” tù của Đội xây cất mới dùng tôn mỏng sáng-chế một kiểu ống
máng rất hiện-thực xã-hội chủ-nghĩa. Ống máng nầy nghiên-cứu kỹ-lưỡng trước khi
thiết-kế. Nó vừa đúng tầm phóng ngắn của “vòi nước”. Nhỡ phóng mạnh: văng ra
ngoài không sao, đừng ào ào xuống máng chứa phân là hợp tiêu chuẩn cải tạo. Ống
máng chạy về phía sau lưng tù-nhân ngồi đại tiện thì rộng ra để tù-nhân thiếu
giấy chùi, có thể, đem bình nước, ca nước lết lùi vài bước mà rửa hậu-môn. Nước
rửa và nước tiểu trôi qua cái ống mà tuôn vào cái hồ chứa có nắp đậy, bên ngoài
bức tường cây ghép. Nước tiểu sẽ dùng để tưới rau xanh. Đội rau xanh sẽ lo múc
gánh đi, mỗi sáng. Và, mỗi sáng. khi các đội đi lao-động hết, trừ những ai khai
ốm nằm nhà, tù-nhân thuộc Tổ vệ-sinh kéo các thùng phân đã đầy có ngọn ra, xếp
lên xe cải-tiến. Xe cải-tiến là thứ xe ba-gác, lốp đặc. Miền Nam đã chê bỏ từ
lâu. Nhưng, ở miền Bắc, xe cải-tiến là cuộc cách-mạng vĩ-đại nhằm giải-phóng
đôi vai phụ-nữ nông- thôn. Phụ-nữ nông-thôn miền Bắc gánh gồng vất-vả. Đảng
sáng-tạo xe cải-tiến. Thay vì gánh, phụ-nữ kéo xe cải-tiến oằn vai như bò, như
ngựa vậy. Để hợp nếp- sống văn-hóa mới, tù-nhân đậy lá chuối kín các máng chứa
phân. Rồi anh ta xối nước rửa máng tiểu, rửa phân dính quanh lỗ cầu, rửa sàn cầu.
Anh ta lại kê máng chứa phân mới đã lót sẵn mạt-cưa. Trại có xưởng cưa, tha hồ
nhiều mạt. Công việc xong xuôi, anh ta kéo xe phân tới kho phân của đội rau
xanh mà đổ. Rồi kiếm suối rửa xe, rửa máng. Rồi chọn khúc suối trên nước chảy róc-rách
mà tắm gội, xát xà-phòng thơm vài lần. Rồi kéo xe về trại. Rồi nghỉ ngơi. Rồi
lo ca cóng cải- thiện bữa ăn. Một ngày lao-động có một giờ, nhàn quá.
Tù-nhân đặc-trách vệ-sinh nhà-cầu nhiều đặc-quyền, đặc-lợi.
Có quyền đi vung-vít trong, ngoài trại. Có quyền nhận riêng thực-phẩm của nhà bếp
để nấu nướng riêng. Có quyền nấu nướng hai bữa. Có thể xin rau của Đội rau xanh
và câu cá, mò cua, xúc tép. Có thể nuôi gà nữa. Chỉ thiệt thòi một tí là mũi sẽ
điếc, sẽ hết đánh hơi thấy “thoảng hương thơm một da thịt đàn bà!.
Hai tù-nhân tình-nguyện làm công việc phu đổ thùng là hai vị
thẩm-phán của Tòa Thượng-thẩm Sài gòn. Nhưng phu đổ thùng, bạn biết chưa? Lịch-sử
đổ thùng như vầy: Trước cách-mạng 19-8-1945, dân chúng Hà nội 2 đã chơi cái trò
đại-tiện kiểu đại-tiện của tù-nhân ở các trại lao-cải. Dĩ nhiên, nhà xí thuộc
phạm vi gia đình nên nó văn-minh hơn. Năm giờ sáng, các ông phu đổ thùng chở
thùng mới vào thành phổ bằng đôi bồ có nắp đậy và gánh hai thùng phân ra tận
ngoại-ô bán cho nông-dân. Thuở ấy, làm nghề thầu phân béo bổ, lại không thất đức
như thầu vé chợ. Nhà thầu thuê phu đổ thùng. Phân bắc quý lắm. Bởi vậy, có khối
bà địa-chủ, khuyên vàng, xà-tích rủng-rỉnh mà dám xắn ống tay áo lên cao, đưa
cánh tay trần chạm đáy thùng xia khoắng kỹ xem thùng xia nhiều giấy hay ít để định
giá. Sau cách-mạng 19-8-1945, phu đổ thùng vẫn đeo nhãn hiệu phu đổ thùng. Mãi
sau cuộc cải-cách ruộng đất 1956, vô-sản vùng lên dữ-dội thì phu đổ thùng hóa
kiếp “công-nhân vệ-sinh đặc-trách” đổ thùng. Phùng Quán tả sự ghê rợn của đổ thùng:
Tôi đã gặp
Chị em công-nhân đổ thùng
Yếm rách chân trần
Quần xăn quá gối
Run lây-bẩy chui vào hầm xia tối
Vác những thùng phân
Ta thuê một vạn một thùng
Có người không dám vác
Hà-nội từ 1973 đã được mệnh-danh là “thủ-đô của phẩm-cách con
người”. Và, mặc dù, chủ-tịch Hồ Chí Minh ba-hoa “Đánh xong giặc Mỹ ta sẽ xây-dựng
bằng mười năm xưa”, bi-cảnh đổ thùng còn tiếp diễn và muôn đời tiếp nối. Sự
nghiệp đổ thùng của nhân-dân sống mãi trong chủ-nghĩa cộng-sản Việt Nam như
“Bác Hồ vĩ-đại sống mãi trong sự-nghiệp” đổ thùng của nhân-dân vậy.
Tôi không hiểu tại sao hai vị thẩm-phán của Toà Thượng-thẩm
Sàigòn 3 lại dám làm công-việc mà, đói rã họng “Ta thuê một vạn một thùng, Có
người không dám vác”? Nghe một vị thẩm-phán có vợ bác-sĩ y-khoa thuyết-trình
công-tác lao-động đổ thùng, Đằng Giao khoái quá, hỏi tôi:
- Hay là ông thầy và tôi tình nguyện đổ thùng nhé!
- Cảm hứng nào thế?
- Mình ngu, ở lại để đi tù là đáng ăn một thùng cứt.Mình
không dám ăn thì đi đổ vậy.
- Rất đúng.
Vị thẩm-phán nói tình-nguyện đổ thùng sẽ bị nghi ngờ. Phải phấn-đấu
cam-go vô cùng. Nhờ đó, tôi tìm được câu trả-lời tại sao hai vị thẩm-phán
anh-dũng đổ thùng. Ông Trưởng Công Cừu thuyết trình về “triết học” Tam- túc cộng
với Tam-giác cộng với Tam-nhân thành Nhân-vị ở một khoá học-tập Ấp Chiến Lược
năm 1962 đã phán một câu chí-lý: “Người trí -thức muốn làm đẹp xã -hội, cần phải
xông vào những nơi nhơ bẩn nhất để làm cho nó sạch-sẽ, thơm tho”. Đã chẳng một
trí-thức nào xông vào những nơi nhơ-bẩn mà chỉ thấy trí-thức xông vào những nơi
ăn-bẩn! Trí-thức, nhất là trí-thức khoa-bảng, vốn sợ khó, sợ khổ. Hôm nay bị cộng-sản
nó cưỡng-bức lao-động, vẫn cố cách xoay sở chỗ nhàn-hạ, dẫu có bị ngửi phân tiểu
đến điếc mũi hết ngửi nổi mùi da thịt của vợ mình.
- Anh ạ, vợ tôi sợ tôi chết khứu giác, đã mua cái mặt nạ chống
hơi ngạt gửi cho tôi.
- Ông có đeo mặt nạ đổ thùng không?
- Có!
- Rồi sao?
- Cán-bộ tịch thu.
- Vô lý!
- Vâng, thật vô lý. Cán-bộ bảo tôi thiếu thiện-chí…đổ thùng,
chưa tiến-bộ còn nặng đầu óc tiểu-tư-sản trí-thức.
Thôi, tôi quên cái cầu tiêu và sự tiến-bộ đổ thùng của hai vị
thẩm phán mà những ai đã ở TH6A trước và sau tôi đều thuộc tên nhớ mặt.
Tôi tả tiếp sinh-hoạt của “cái nhà”. Ở trại tập-trung, người
ta không gọi “phòng” mà gọi “nhà”. Tù-nhân chịu trách-nhiệm vệ-sinh, trật-tự
toàn nhà gọi là Nhà-trưởng! Nhà-trưởng bắt buộc phải làm Đội-trưởng. Vì nhà có
hai tầng nên thường xuyên xẩy ra cãi-cọ. Thí-dụ trên gác vô ý đánh đổ nước uống,
nước mắm, lau nước điếu xuống dưới. Thí dụ quét bụi, giũ bụi không báo trước.Vân
vân.
Sinh-hoạt của các trại lao-cải rập theo một chính-sách, một tổ-chức.
Mỗi trại, thông thường có bây nhiêu đội:
1- Đội cấp dưỡng: Phụ-trách công-tác ăn uống cho tù-nhân toàn
trại.
2. Đội xây cất: Phụ-trách xây dựng nhà cửa cho tù-nhân và các
công-trình xây cất của trại.
3. Đội lâm-sản: Phụ-trách công-tác chặt cây, chặt tre, cung-cấp
cho đội xây dựng và chặt củi cho đội cấp dưỡng.
4. Đội vận-chuyển: Phụ-trách kéo, đẩy xe cải-tiến chuyên-chở
thực-phẩm, hàng-hóa.
5. Đội rau xanh: Phụ trách trồng rau cung-cấp cho nhà bếp.
6. Đội nông-nghiệp: Phụ-trách trồng khoai, sắn, bắp, lúa…
7. Đội chăn nuôi: Phụ-trách nuôi heo, nuôi bò.
8. Đội văn-nghệ: Phụ trách ca múa, đàn sáo…
9. Đội linh-tinh: Đội này gồm nhiều tổ như Tổ y-tế, Tổ vệ-sinh,
Tổ thiết-kế, Tổ trật-tự, Tổ thông-tin văn-hóa, Tổ thăm nuôi…
Nếu trại chứa 1000 tù-nhân, ít nhất, có 4 Đội rau xanh, 3 Đội
lâm sản. Đội nông nghiệp thì trại nào cũng đông cả. Một đội không quá 50 người.
Đội trưởng, Đội phó, Thư-ký do Ban giám-thị chỉ-định. Tổ trưởng do cán-bộ quản-giáo
chỉ-định. Đội trưởng được miễn lao-động 100 phần 100. Đội phó được miễn 50 phần
100. Thư-ký lao-động huỳnh-huỵch. Quản-giáo là ông thầy của lớp học lao-cải.
Ông thầy săn sóc cả phần tư-tưởng lẫn phần lao-động. Khi dẫn đội ra hiện-trường
lao-động, ông thầy quản-giáo đeo súng ngắn. Hai vệ-binh đeo súng AK. Đội trưởng
là một chức vụ não-nề nhất của thân-phận tù. Chỉ những thẳng ngu-si, đần-độn mới
ham làm Đội trưởng và chức-sắc trong tù. Miễn lao-động nhưng Đội trưởng phải
đôn-đốc tù-nhân của đội lao-động tích-cực. Nội cái khoản đôn-đốc lao-động đã bị
chửi xéo, chửi thầm mục mả rồi. Chưa kể, Đội trưởng “phải thay mặt cán-bộ kiểm-soát
tư-tưởng của đội khi không ở hiện-trường lao-động, phải báo cáo cán-bộ mọi diễn-biến
tư-tưởng của đội”. Cái khoản này hãi-hùng cao độ, dễ đưa nhau vào thù hận. Hai
khoản cộng lại, dồn Đội trưởng vào thế trên đe dưới búa. Ù-lỳ thì bị quản-giáo
“giáo-dục” tơi-bời, bị làm tự kiểm, bị gọi lên Ban giám-thị. Tích cực thì bị
anh em thù ghét, nguyền-rủa. Đó là thân-phận Đội trưởng. Đổ thùng yên ổn nhất,
không ai thích hít phân nên chẳng ai thèm chú ý thằng đổ thùng. Khổ nỗi, ở tù
là phi-ní tự-do, không có quyền chọn lựa công-tác lao-động. Muốn đổ phân lại bị
làm…văn-nghệ! Không muốn làm Đội trưởng mà Ban giám-thị chỉ-định làm Đội trưởng,
Nhà trưởng vẫn cứ đau khổ “hồ-hởi phấn-khởi”. Từ-chối đồng nghĩa với chống đối
cách-mạng. Quan-điểm chính-trị bị nâng cao vút. Anh khinh-nhờn sự chiếu-cố của
cách-mạng là anh không thích tiến-bộ, là anh nuôi dưỡng tư-tưởng phản-động, là
anh cầm chắc sự khốn-nạn suốt quá-trình lao-cải.
Người cộng-sản dùng câu Tư-Tưởng Thể-Hiện Hành-Động làm khuôn
vàng thước ngọc đề đo tâm-hồn con người. Khuôn vàng này là bảo-sinh-viện của
gian dối. Con người cộng-sản và con người trong chế-độ cộng-sản suốt đời đóng kịch
giả vờ. Buồn phải giả vờ vui. Đói phải giả vờ no. Đau khổ phải giả vờ hạnh-phúc.
Chổng-đối phải giả vờ ủng-hộ. Đả-đảo phải giả vờ hoan-hô. Ghét phải nói yêu.
Tí-hon phải nói vĩ-đại. Thua phải nói thắng. Vân vân. Chân-lý là xa-xỉ-phẩm dưới
vòm trời cộng-sản. Thi-sĩ Phùng Quán đã khao-khát sự chân-thật. Ông tuyên-chiến
với chủ-nghĩa cộng-sản chỉ vì “Tôi muốn làm nhà văn chân-thật, chân-thật trọn đời”.
Những kẻ chân-thật trọn đời không có đất sống dưới ánh mặt trời Đảng. Họ sẽ bị
hủy-diệt hoặc sẽ bị tẩy não để đồng-hóa với gian dối.
Ở trại cải-tạo, giáo điều Tư-Tưởng Thể-Hiện Hành-Động được
các bậc thẩy quản-giáo ranh con suy-diễn thêm: “Hành-động tốt thì tư-tưởng tốt.
Tư-tưởng tốt do lao-động tích-cực. Lao-động chính là thước đo giá-trị con người.
Nhưng muốn tư-tưởng tốt, cần triệt-để thi-hành đúng Nội- quy, Tiêu-chuẩn cải-tạo
và Nếp sống văn-hóa mới”. Những tù-nhân khôn ngoan nhất, thông-minh nhất là những
tù-nhân quán-triệt cái võ-đạo của nhà Mộ Dung. Mày muốn tư-tưởng thể-hiện
hành-động thì ông thể-hiện hành-động. Ông giả vờ khiếp-nhược, ông nín thở qua cầu.
Tâm-sự của ông, ông dấu kỹ đáy tim, mày sao biết nổi. Những tù-nhân thích
chân-thật, thích khoe móng vuốt thích thể-hiện sự chống đối, đều bị rơi vào bẫy…cải-tạo.
Hiển nhiên, họ bị chặt hết nanh vuốt, bị đầy đoạ tới mức bị cô- lập. Cuối cùng,
họ trở thành những người khiếp-nhược hơn cả những kẻ đã bị họ miệt thị khiếp-nhược.
Cộng-sản độc-quyền anh-hùng. Phải nhớ kỹ điều đó! Họ tự nhận
họ ưu-việt, ”cái nôi của loài người đỉnh cao của trí tuệ”. Sự ngạo-mạn phát-xít
đó không cho phép những kẻ chống đối họ làm anh-hùng trong thế-giới của họ. Cộng-sản
lại không ngu-si đần-độn như đa số những người chống họ tưởng-tượng. Họ rất giỏi
sự quản-lý con người và kiêu-ngạo.
Cho những anh trung-sĩ giáo-dục đại-tá, nhà văn, nghệ-sĩ, thẩm-phán,
bộ trưởng, bác-sĩ của chúng ta, họ quả là kiêu-ngạo xấc-xược, thứ kiêu-ngạo đầy
mặc-cảm. Vị đại-tá Quân-lực Việt Nam Cộng-hoà có nên anh-dũng chống đối thằng
trung-sĩ chăn trâu cắt cỏ về tư tưởng không nhỉ? Thế thì giả vờ và gian dối là
triết-lý sống tuyệt hảo ở trại lao-cải cộng-sản. Tiếc thay, người ta đã không đủ
kiến-thức cộng-sản, không có kinh-nghiệm cộng-sản để đương đầu cộng-sản trong
nghịch-cảnh. Nhưng trách chi? Hai mươi năm chống cộng-sản, chúng ta có nghiên-cứu
chủ-nghĩa cộng-sản đâu? Chúng ta chỉ hô to một khẩu-hiệu “Đả đảo cộng-sản”!
Chú thích:
1. Một bút hiệu ký ở mục Bẩy Ngày Đêm Tính Quẩn Chuyện Đời
trên tuần-báo VNTP của Nguyễn Mạnh Côn.
2. Và các thành phố, các thị-xã miền Bắc luôn.
3. Xin miễn nêu tên.
CHƯƠNG 2
Chúng tôi sống chung nhà với các đội cảnh-sát đặc-biệt và
trung-ương tình-báo. Chiều qua, Đằng Giao và tôi đã chứng-kiến sinh-hoạt
ca-cóng ở bếp ngoài trời sát hàng rào kẽm gai. Thấy anh em xào nấu thức ăn,
chiên lạp-xưởng thật hấp-dẫn. Chúng tôi ra đi, kể như giỏ thực-phẩm đã xác-xơ,
đành đứng xem mà học-tập kinh-nghiệm ca-cóng. Ở TH6, lửa chỉ được phép nổi buổi
chiều khi các đội tan lao 1 về trại. Tù-nhân, mỗi người một bếp, nhóm lửa vội-vàng,
nấu-nướng thật lẹ để kịp đem vào nhà. Rồi rửa mặt rửa tay chờ điểm danh. Một tiếng
đồng-hồ cho các dịch-vụ lấy cơm, chia cơm, ca-cóng. Những tù-nhân không ca-cóng
thì ăn cơm ngoài sân, ca-cóng thì đem vô, đợi cửa tù khóa sau lúc điểm danh mới
thong-thả ăn uống. Chủ nhật được nghỉ, tù-nhân sinh-hoạt ca-cóng hai lần. Tha hồ
nấu chè, nướng bánh và tụ tập enioy, đàn sáo, nhạc vàng…
Ca là cái ca, ai cũng biết. Ca nhôm, ca sắt, ca nhựa vẫn là
ca. Cóng người miền Nam gọi là lon. Kỳ thủy, hộp sữa bò đặc uống hết mở nắp vất
đi, người miền Bắc gọi là cái ống bơ. Có nơi gọi là ống bơ. Ống bơ dùng để đong
gạo. Riết rồi, bất cứ một hộp sắt, hộp thiếc nào to nhỏ, đều được gọi là ống
bơ. Ống bơ rỉ thì chán lắm. Hát như ống bơ rỉ! Cái lon sữa bột Guigoz cũng là…ống
bơ, là cóng bơ. Dưới chế-độ cộng-sản, vì toàn dân đói nên thiếu hơi, nhiều
danh-từ được giản-lược half and half. Cóng bơ còn một tiếng cóng. Bơ ở thiên đường
mù-mịt, bỏ bơ đi là đúng. Bỏ bơ là loại bỏ tư-bản, là chống đế-quốc, là vô-sản
khoai sắn “cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau”… Cái cóng đa-dụng và
đa-năng ở trại lao-cải là cóng Guigoz.
Hãng chế-tạo sữa bột Guigoz đã đi vào lịch-sử đấu-tranh của
hai miền Nam-Bắc. Trên thế-giới, có lẽ, chỉ có nước Việt Nam bốn nghìn năm
văn-hiến giầu và nghèo bình-đẳng… lon Guigoz. Nhà nào cũng có lon Guigoz. Vì
lon Guigoz bán ngoài thị-trường vỉa hè. Đựng đường, đựng mỡ, đựng bột thật an
toàn. Đựng cà-phê thì khỏi lo bay mất hương thơm. Thuở ta học đòi Mỹ, công-chức
làm việc thông-tằm, lon Guigoz biến thành thứ gà-mèn lý-tưởng, đủ bữa cơm trưa
ăn ngay tại cơ- quan. Sau 30-4-1975, lon Guigoz đắt giá. Một cái trị-giá hai lá
cờ đỏ sao vàng tặng thêm chân-dung Bác, Mác và Lê. Lần đầu tiên trong lịch-sử cộng-sản,
lon Guigoz hạ chủ-nghĩa và lãnh-tụ. Vì chủ-nghĩa và lãnh-tụ bắt quá nhiều tù.
Và tù-nhân cần lon Guigoz làm cóng. Ca cóng, tôi không hiểu chính-xác xuất-xứ của
nó. Người nói: Anh em cải-tạo miền Bắc đem về Nam. Kẻ bảo: Việt cộng nó gọi vậy
mình hài hước gọi theo, riết đâm quen. Điều buồn cười là, khi nổi lửa nấu bếp:
đa-số tù-nhân nấu bằng nồi. Vậy thì ca-cóng là một bí số- như TH6- là bí danh của
Nấu Nướng, như Lý Thụy, Anh Ba, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, Nguyễn Tất Thành,
là bí danh của Nguyễn Sanh Cuông.
Tù-nhân kiếm giây kẽm làm cái quai cho cóng. Tùy theo sự khéo
tay của mỗi người. Dở nhất là đục lỗ luồn giây rồi bẻ quặp lại. Ra hiện-trường
lao-động, mỗi tù-nhân xách một cái cóng đựng nước đun sôi. Ở TH6, cóng không được
phép nấu ngoài bãi. Tù-nhân nấu bằng cóng thường là tù-nhân ăn một mình. Ăn
chung thì vui nhưng nếu trong đám bạn ăn chung có người trốn trại, sẽ gặp
cơ-man rắc rối, sẽ tự kiểm, tự khai mệt phờ. Cóng nấu nướng, nắp phải đục vài
cái lỗ bốc hơi. Buổi chiều, anh em vất-vả kiếm củi, nổi lửa, ta chỉ việc đổ
lưng cóng nước, bỏ vô dúm tôm khô, chút bột ngọt, tí nước mắm và thả vài lá mồng
tơi, nếu ta kiếm được, rồi đậy chặt nắp, ta dùng sợi giây kẽm dài móc cái quai
lon, nấu nhờ ngọn lửa tạt ra của thiên hạ. Đợi nó sôi tan nhừ tôm, ta mở nắp
cóng, thẩy nắm mì vụn vào. Thế lả ta có cóng mì cải-thiện bữa ăn.
Sinh-hoạt ca cóng thật sinh-động ở những chiều tù. Tôi sẽ
quan-sát kỹ-lưỡng hơn. Để sáng-tạo một phương-pháp nấu-nướng thích-ứng với thời-gian
hạn-hẹp của trại. Sáng nay, chúng tôi được dẫn đi tắm. Rồi về nhận quần áo tù,
viết lý-lịch. Lại lý-lịch! Mỗi tù-nhân viết một lý-lịch mới. Lý-lịch này đầy đủ
chi tiết. Buổi chiều, chúng tôi lên hội-trường học-tập Nội-quy trại, Bốn
tiêu-chuẩn cải-tạo và hai mươi nếp sống văn-hoá mới. Nhờ học-tập, tôi biết TH6
có hai khu. Khu A là nơi tôi đang ở 2. Khu B chả rõ nơi nào. Nội-quy trại có
nhiều điều khác hẳn Nội-quy nhà tù. Một điều đáng suy-nghĩ:”Cán-bộ không được
phép đánh đập trại viên và cấm-chỉ trại viên nịnh hót, mua chuộc cán-bộ”. Người
lên lớp chúng tôi là Trưởng trại A (Phó giám-thị TH6) Nguyễn Xuân Bến. Chúng
tôi học-tập hai ngày liên tiếp. Học xong, chúng tôi sẽ được biên-chế đội và sẽ
cuốc xẻng, dao búa lao-động trả nợ… đời ngụy! Nhưng, buổi chiều ngày thứ tư của
trại-viên mới, xẩy ra một vụ trốn trại ngoạn-mục. Bốn sĩ-quan cảnh-sát đặc-biệt
đã biến dạng khi đội điểm danh về suối tắm. Súng nổ báo động. Vệ-binh toàn trại
súng ngắn, súng dài lao vào cuộc săn đuổi. Các đội tan lao về sớm đang nổi lửa
ca-cóng bị dập tắt lửa, xua hết vô nhà. Người ta nhắm hướng núi Mây Tào mà
truy-lùng kẻ trốn trại.
Lần đầu tiên, từ thành-lập TH6, tù-nhân chính-trị trốn trại.
Chỉ có hai loại tù, ở trại cải-tạo: Tù chính-trị và tù hình-sự. Tù chính-trị gồm
sĩ-quan quân-đội và cảnh-sát, hạ-sĩ-quan Trung-ương Tình-báo, an-ninh quân-đội,
công-chức cao cấp, nghị-sĩ, dân-biểu, nghị-viên, thẩm-phán, phản-động, vượt
biên, nhà văn, nhà báo. Tù hình-sự gồm lưu manh, trộm cắp, lường gạt, hiếp-dâm
và tiền-án bất hảo. Đã xẩy nhiều vụ trốn trại thành-công ở TH6 A và những kẻ liều
mạng đều là du-đảng. Có một vụ hi-hữu được tù kể lại như huyền-thoại. Một tên
du-đãng trốn trại khác đời. Nó tới chuồng gà bóp cổ hai con, vào bếp trại nhóm
lửa đun nước làm lông rồi luộc cả hai con gà. Nó ăn hết một con, vất lại cái đầu
và cặp chân. Nó ra vườn rau xanh nhổ thêm ba cây cải bẹ rồi mới dông tuốt.
Nhưng hình-sự trốn trại không quan-trọng bằng chính-trị trốn trại. Lực-lượng
võ-trang TH6 truy-lùng suốt đêm. Chúng tôi chưa biết kết-quả thì, ngay sáng hôm
sau, chúng tôi nhận lệnh tập-trung ngoài sân với tất cả hành-lý.
Và chúng tôi rời TH6 A. Người ta không muốn chúng tôi dao-động
chuyện trốn trại.
Ra ngoài cổng trại, có hai lối. Rẽ trái thì về Bà Rịa. Rẽ phải
thì sang Long Khánh. Chúng tôi xếp hàng đôi, rẽ phải. TH6 B nằm trên đường qua
Long Khánh. Người ta bảo chúng tôi vào khu B. Qua chiếc cầu gỗ bắc ngang dòng
suối, chúng tôi đi lung-tung. Vệ-binh áp tải và quản-giáo dẫn độ không chú-ý đến
sự vô trật-tự của tù-nhân. Chúng tôi không bị còng tay vì đi bộ và lưng đeo nặng
ba-lô, tay xách trĩu giỏ. Tôi chợt nhớ bài hát Sơn La của Đỗ Nhuận diễn tả cảnh
tù-nhân bị phát-vãng thời nô-lệ Pháp. “Sơn La âm-u, núi khuất trong sương mù.
Lá rơi xuống suối, gió đưa vù….Đoàn tù tha-hương, cất bước đi trên đường…”
Chúng tôi đang là “đoàn tù tha-hương, cất bước đi trên đường, đi trên đường
cách-mạng vô-sản thành-công, đi trên đường giải-phóng nô-lệ, đi trên đường
ưu-việt của chủ-nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng, đi trên đường dẫn đến đỉnh
cao của trí-tuệ, dẫn đến cái nôi của loài người.
Đã tới khúc cổ-thụ bị chôn mìn, nổ bật gốc, cây lớn bị cưa
gãy nằm rạp chắn lối. Chúng tôi phải gỡ cành, dọn đường rồi leo qua các thân
cây mà đi. Mỗi quãng bị khai quang, chúng tôi tháo bỏ hành-lý. Khai quang xong,
lại mang hành-lý lên đường. Xuyên Mộc mang một ý-nghĩa nào? Nếu là xuyên qua gỗ,
chúng tôi đã xuyên qua gỗ. Bài học lao-động thứ nhất toát mồ-hôi, rời tay, rã cẳng.
Hai cây số rừng 3 cho tù-nhân Chí Hoà thật thấm-thía. Khi mặt trời cao gần đỉnh
đầu, chúng tôi ra khỏi quãng đường thử-thách lao-cải đầu tiên. Và đi một khúc
đường quang, chúng tôi đến TH6 B.
TH6 B là mật-khu của Việt cộng suốt cuộc chiến-tranh xâm-lăng
miền Nam. Người dân thiểu-số đã có sẵn cái tên cho vùng này: Sa Ác. Sa Ác là
rơi vào chỗ ác độc, rơi vào chỗ chết. Trần Bạch Đằng, tên cúng cơm Trương Gia
Triều (đã bỏ Kỳ, thực ra là Trương Gia Kỳ Triều), bí danh Tư Ánh, tác giả Chân
dung một quản-đốc, ký bút hiệu Nguyễn Hiểu Trường (Hưởng Triều đó), đăng theo
kiểu feuilleton trên nhật-báo Sàigòn Giải Phóng, đã hồi tưởng khá nhiều về những
tháng ngày chuyên chở vũ-khí từ Vũng Rô vào Nam, qua các nhánh sông để ghé sông
Ray. Sông Ray nằm sát Sa Ác, TH6 B. Nó là biên-giới Xuyên Mộc – Long Khánh. Tôi
không biết chính-xác nó bắt nguồn từ đâu. Có người bảo nó là nhánh nhỏ của sông
La Ngà. Có người bảo nó khởi nguồn từ chân núi Mây Tào. Chắc chắn nhất, nó chẩy
qua Sa Ác TH6 B. Mà TH6 B là mật-khu an-toàn của Việt cộng. Vũ-khí Hà-nội tiếp
tế cho các lực-lượng võ-trang miền Đông đã đổ vào mật-khu này. Do đó, TH6 B đã
là vùng oanh-kích tự-do của không-lực Việt Nam Cộng-hoà và Mỹ. Quân-đội Úc-đại-lợi
đặc-trách an-ninh tỉnh Phước Tuy đã thả vô TH6 B những toán biệt-kích thám-báo.
Dấu chân của Kangourou vẫn còn khi tôi tới (xin đọc những trang sau).
Sông Ray đầy vơi theo hai mùa mưa nắng. Mùa mưa, nước đỏ ngầu,
chẩy xiết và dâng cao mấp-mé sân trại. Mùa nắng, nước trong vắt, chỗ sâu nhất
khoảng nửa thước, chỗ nông nhất xe hơi có thể vượt qua. Trại lao-cải TH6 B bên
bờ sông Ray, chung-quanh chằng chịt hố bom lớn và những trái bom chưa kịp nổ.
Nhiều cánh rừng xơ-xác vì bom lửa. TH6 B “kiến-trúc” sơ-sài hơn TH6 A. Có hai
khu-vực. Khu của công-an coi tù và khu của tù-nhân. Biên-giới hai khu là con đường
chạy thẳng sang Long Khánh. Khu của công-an gồm ba dẫy: Dẫy của vệ-binh, dẫy của
quản-giáo và dẫy của các chức-sắc lãnh-đạo trại và văn-phòng hành-chính. Sau ba
dẫy là nhà bếp, nhà kho và nhà ăn của toàn bộ cai tù lớn nhỏ. Khu của tù-nhân mới
lèo-tèo ba căn nhà và một căn đang xây cất. Hàng rào kẽm gai vây quanh khu này
còn thấp và thưa. Tù-nhân vỏn-vẹn bốn đội, một rau xanh, một nông-nghiệp, một
lâm-sản, một xây cất. Tất cả thuộc tù hình-sự. Chúng tôi là tù chính-trị trước
tiên của TH6 B. Tôi nhớ ở Chí Hoà ra đi, tôi đếm đúng 5 chiếc xe chở heo. Đến
TH6 A chỉ còn 2 chiếc. Vậy thì, chúng tôi, 100 tù-nhân chính-trị “tiền-phong” của
trại TH6 đã được dẫn qua cổng đoạn-trường có cái biển gỗ nền đỏ chữ vàng treo
cao, bên ngoài viết: Không có gì quý hơn độc-lập tự-do, bên trong viết: Lao-động
là vinh-quang!
Chúng tôi bị tách thành hai nhóm, ngồi xếp hàng đôi giữa sân
nắng, hành-lý để một bên. Lại khai sơ-yếu lý-lịch. Thủ-tục nhập trại mới mà.
Tôi đã quá quen thủ-tục này. Quen đến độ, có thể, thuộc lòng lý-lịch của mình cả
trong chiêm-bao. Phơi nắng gần say nắng thì chúng tôi “khăn gói quả mướp nối
nhau vào một căn nhà…mới. Từ nắng chói chang vào bóng râm, tôi không nhìn thấy
gì, ít nhất, một phút. Tôi hiểu cơ-thể tôi đã hao mòn tháng năm tĩnh ở nhà tù.
Tôi nhà văn 42 ký lô, được độc-giả yêu mến tặng biệt danh Tăm Tre Việt Nam, đã
trải tấm thân còm-cõi của mình trên những tuyến đường Nhà Mình – Sở Công An, Sở
Công An – Đề-lao Gia Định. Đề-lao Gia Định – Chí Hòa ngót nghét ba năm. Ba năm-
đường rầy – tôi nằm bất-động chịu đựng từng chuyến xe lửa oan-nghiệt kéo dằng-dặc
những toa thù-hận nghiến lên. Chưa chết, dĩ-nhiên. Cái hình hài xơ-xác, bấy
nát, lỗ-chỗ những vết đâm ấy, tôi lết vào cái động của trại tập-trung Sa Ác. Mắt
tôi bị quáng tưởng chừng đã bị mù. Không, không nên mù, không thể mù. Cần sáng,
cần rực sáng để chiếu rọi những tia lửa tím vào cái bóng tối âm-u của thù-hận với
ước-mơ khám-phá niềm bí-ẩn của đời sống.
Tôi đã hết hoa mắt. Căn nhà tôi vừa vào tiến-bộ hơn các căn
nhà ngoài TH6 A. Cũng hai tầng, nhưng sàn bằng gỗ xẻ ghép khít và cột lớn cách
các khoang đục những bậc thang để lên xuống dễ dàng. Lối “kiến-trúc” y hệt nhà
khu A. Giữa là hành-lang trống, nền đất. Tường nhà khu B đan bằng tre và trét đất
đỏ trộn mạt-cưa. Cầu tiêu chưa…tiến bộ. Nghĩa là, nó đứng riêng rẽ với ba nguồn
thác cách-mạng văn-hóa, nông-nghiệp và khoa-học kỹ-thuật. Chúng tôi “hồ-hởi phấn-khởi”
khắc-phục” bữa bo-bo buổi trưa. Nhà bếp đã không được báo trước có tù mới. TH6
B chưa có Đội cấp-dưỡng. Tù-nhân phụ-trách bếp-núc hơn 10 người hợp thành một tổ.
Thêm Tổ vệ-sinh và Tổ thông-tin văn-hóa. Tổ thông-tin văn-hóa vỏn-vẹn hai mạng,
kiêm-nhiệm cả trật-tự. Vậy văn-hóa là Sanh, trật-tự là Hoa, hỗn danh Hoa-nẫu. Cả
hai đều can tội trộm cắp.
“Nhà” thông-tin văn-hóa Sanh (tôi không biết họ của nó) nhỏ
thó. Khuôn mặt nó gồ-ghề, lồi-lõm. Cặp mắt nó sâu hoắm, trắng rã. Đằng Giao ví
bọn công-an coi tù là quân dữ. Gặp thằng văn-hoá Sanh, Đằng Giao lại ví công-an
coi tù là phát-xít Đức để gọi thằng văn-hoá Sanh là Pháp-gian. Nó giống hệt bất
cứ một tên Pháp-gian nào trong các phim diễn-tả thời Đức chiếm đóng Pháp. Trông
nó gian-manh ra mặt. Nó chỉ-huy Hoa-nẫu (dân Quảng Ngãi). Sanh-gian và Hoa-nẫu
đại-diện cán-bộ trực trại giáo-dục chúng tôi bài học “nhập gia tùy tục”. Chúng
tôi được hân-hạnh sống chung phòng với Đội rau xanh mà đội trưởng là Hoàng xì
coọc, đội phó là Hoàng nham, những hỗn danh bụi đời. Đội rau xanh khá đông
du-đãng có tiền-án và bị đi cải-tạo vì tiền-án. Tôi bỗng trở thành “nhân-vật
hàng đầu của tù-nhân hình-sự TH6 B. Ở đây, có nhiều đàn em của “tứ-linh” Đại,
Tì, Cái, Thế. Đại Ca-thay đã chết năm 1968. Huỳnh Tì (James Dean Hùng trong Điệu
ru nước mắt của tôi) còn nằm ở Phước Long. Cái và Thế đã chết thảm tại Bù-gia-mập.
Đại-bàng gẫy cánh hết. Còn mỗi Hùng-phốc, đàn em Huỳnh Tì, sống-sót về Sa Ác. Và
Hùng-phốc lãnh đạo đám bụi đời nhỏ tản-mạn khắp các đội của khu B.
Những công-chức cao cấp, dân-biểu, thẩm-phán đã từng “cải-tạo”
ở Long Thành đều biết và đều có thể làm nhân-chứng về những chuyến xe chở
tù-nhân từ Bù-gia-mập về Long Thành. Đó là tù-nhân can tội tiền-án du-đãng trộm
cắp Những người này đã trả nợ cho những tội-lỗi và tội-ác của họ. Và chế-độ mới,
họ chưa hề gây một tội-lỗi tội- ác nào mà họ vẫn bị bắt nhốt và bị đầy-đọa
thê-thảm. Con người, dẫu con người tiền-án, con người vô-án, con người hình-sự
hay con người chính-trị vẫn là con người và phải được đối xử như con người sống
hay chết, tù đầy hay tự-do. Nhưng, nhân-danh chủ-nghĩa ưu-việt của mình, người
cộng-sản đã hạ giá những người mang tiền-án xuống quá hàng súc-vật đã đánh đập
họ đã bắt họ lao-động quá mức, đã cho họ ăn ít, đã mặc họ chết bệnh-hoạn. Cuối
cùng, 1000 tù-nhân còn có 100 được di-chuyển từ Bù-gia-mập về Long Thành và được
mô-tả như “những bộ xương biết đi”! Bồi-dưỡng một thời gian, đám tù-nhân sống
sót này được liệng vào Sa Ác. Họ đã cùng những tù-nhân mang tiền-án dưới chế độ
cũ, đến từ khắp nơi, hợp thành “thế-hệ tiên-phong” xây dựng trại tập-trung khổ-sai
lao-động TH6 B. Hùng-phốc ở trong đám Bù-gia-mập sống sót.
Mấy ngày ở khu A, tôi đã được “giang-hồ” chiêu-đãi tận-tình.
Tôi giao-du với vài tay du-đãng gộc thôi song Điệu ru nước mắt, Vết thù trên
lưng con ngựa hoang của tôi đã giao-du thân-mật với du-đãng cả nước. Ở đâu có
du-đãng đọc sách tôi, ở đó tôi được đền ơn như một luật-sư biện-hộ vô-vụ-lợi
cho những kẻ bị xã-hội khinh-bỉ, bị luật-pháp đánh dấu. Hiển-nhiên, tôi ca-ngợi
du-đãng hào-hiệp. Bởi vì tôi thấy Đại Cathay cao-cả hơn Nguyễn văn Thiệu; bởi
vì tôi thấy những tay anh chị đẹp-đẽ hơn bọn tướng-lãnh, bộ-trưởng, nghị-sĩ; bởi
vì du-đãng nhận mình là du-đãng còn bọn Nguyễn Văn Thiệu, thì ăn cắp, bịp bợm
mà cứ nhận mình là ái-quốc? Kể cho tôi nghe, ai ở cái xã-hội miền Nam cũ đã xứng
đáng được ví với nhân-vật tiểu-thuyết thần tượng Trần Đại? Cao văn Viên hay Đặng
văn Quang. Phạm văn Đang hay Nguyễn Cao Kỳ? Hoàng Đức Nhã hay Nguyễn Ngọc
Nghĩa? Thẩm-phán sạch-sẽ Đào Minh Lượng, người đã ghê tởm một số tù-nhân thư-lại
Long Thành nói với tôi ở TH6 A: “Tôi thèm được sống chung với đám hình-sự. Họ
không bần-tiện, ích-kỷ như tù-nhân chính trị thư-lại”… Chưa một nhà chống cộng nào
chào mừng tôi một ly bia ở Paris, nhưng du-đãng đã nồng-nhiệt chúc tụng tôi còn
sống bằng những chai champagne tình-nghĩa. Những người du-đãng không chụp mũ
tôi vì không đố-kỵ tài-năng với tôi. Muốn hiểu du-đãng để ngưỡng-mộ họ và để
tin-tưởng một cuộc cách-mạng Tây Sơn mới sắp xẩy ra ở Việt Nam, hãy tìm đọc Hồn
say phấn lạ. Đó là trường-thiên tiểu-thuyết vinh-tôn trước những Nguyễn Nhạc mới.
Nguyễn Nhạc cũ, tay du-đãng bất hủ đất Bình Khê. Kẻ nào dám làm cách-mạng chuyển-vần
thời-cuộc, nước non bằng cách liều-lĩnh chui vào cũi nạp mạng cho kẻ thù? Khi
tâm-hồn du-đãng dậy bất-bình vì dân-tộc, vì tổ-quốc, họ sẽ thành anh-hùng.
Không ai dám nhắc đến dĩ-vãng du-thủ du-thực của tên đình-trưởng đất Cối Kê. Vì
hắn diệt Tần Thủy Hoàng. Không ai dám nhắc đến dĩ-vãng rượu chè bê- bết của biện
Nhạc. Vì ông ta gây cảm-hứng cho Nguyễn Huệ.
Tôi nên trở về TH6 B. Sanh-gian bảo chúng tôi tạm cất hành-lý
ở những khoảng trống, đợi biên-chế đội xong cán-bộ trực trại sẽ chỉ-định chỗ nằm
riêng biệt. Trước khi kẻng điểm tan lao, chúng tôi được lệnh ra tập-họp tại sân
ngay cạnh nhà. Sự tổ-chức của TH6 B như sau:
1 Phó giám-thị, còn gọi là Trưởng trại B. Nhiệm-vụ của y bao
quát cả tư-tưởng của công-an coi từ lẫn thực-thi chính-sách học-tập cải-tạo.
2. Chính-ủy. Nhiệm-vụ của y điều-hành công-an trách-nhiệm vấn-đề
giáo-dục tư-tưởng tù-nhân.
3. Công-an trực trại. Nhiệm-vụ của y là điểm số tù-nhân xuất
trại lao-động và nhập trại tan lao cùng kiểm-soát an-ninh toàn trại ban ngày.
Có hai công-an trực trại.
4. Vệ-binh. Nhiệm-vụ của vệ-binh là canh gác trại ban đêm,
canh chừng tù-nhân ngoài hiện-trường lao-động.
5. Quản-giáo. Nhiệm-vụ của quản-giáo là theo dõi đội về lao-động
và tư-tưởng.
6. Giáo-dục. Nhiệm-vụ của công-an giáo-dục là...dạy dỗ
tù-nhân và đưa tù-nhân ra gặp thân-nhân ở phòng thăm nuôi.
7. An-ninh. Nhiệm-vụ của công-an an-ninh là…đánh tù-nhân!
Còn có công-an đặc-trách hồ sơ tù-nhân, công-an nấu bếp... Bất
kể công-an già hay trẻ, cấp bậc hạ-sĩ hay đại-úy, giám-thị hay coi kho, tù-nhân
đều phải gọi là cán-bộ. Vậy thì cán-bộ trực trại, cán-bộ quản-giáo, cán-bộ
giáo-dục đã đến làm việc với chúng tôi.
- Theo quyết-định của Ban giám-thị, hôm nay các anh được
chính-thức biên-chế thành hai đội. Tôi gọi tên anh nào anh ấy hô có rõ-ràng và
đứng dậy ngồi ra góc sân.
Cán-bộ giáo-dục nói xong thì nhìn danh-sách mà đọc.
- Trần Duy Cát.
- Có
- Đặng Hải Sơn.
- Có.
-Nguyễn Mạnh Côn.
- Có.
Đọc đủ tên 50 tù-nhân, cán-bộ giáo-dục ngưng lại. Hắn nói:
- Những anh còn lại ở chung một đội.
Hắn ra lệnh hai đội tập-họp gần nhau.
- Theo quyết-định của Ban giám-thị, Trần Duy Cát làm Đội trưởng;
Đặng Hải Sơn, Đội phó; Nguyễn văn Thương, Thư ký. Anh Cát đâu?
Đẳng Giao dơ tay:
- Có tôi
Cán-bộ giáo-dục gật đầu:
- Tốt. Đội của anh là Đội 21 nông-nghiệp.
Bước sang đội của tôi,cán-bộ giáo-dục hỏi:
- Anh Vũ Mộng Long đâu?
- Có.
- Theo quyết-định của Ban giám-thị, anh là Đội trưởng, Nguyễn
văn Thạch, Đội phó, Phạm Kim Sơn, Thư-ký. Đội của các anh là Đội 17 rau xanh.
Ai thắc-mắc gì không?
Đằng Giaao dơ tay:
- Thưa cán-bộ, tôi không biết làm Đội trưởng.
Cán-bộ giáo-dục nghiêm nét mặt:
- Anh khước-từ sự chiếu-cố của Ban giám-thị hả? Học tập sẽ
làm được. Làm sĩ-quan ngụy tiêu-diệt Việt cộng chắc anh làm giỏi đấy nhi?
Đằng Giao nín thinh. Tôi tưởng Đằng Giao thành-công, sẽ bắt
chước theo. Ai ngờ…
- Khước-từ sự chiếu-cố của Ban giám thí là khước-từ sự
khoan-hồng của cách-mạng, là chống Đảng và nhân-dân.
Hoạ sĩ Đùa Dzai 4 vừa thấy bị đùa dai một trò đùa nâng cao
quan-điểm. Dằn mặt thế gọi là giáo-dục. Ông thầy của chúng tôi tên Đương. Thầy
Đương đeo quân-hàm chuẩn-úy. Thầy xoa dịu trò Đằng Giao:
- Phấn-đấu lên, anh Cát. Không dễ gì ai cũng được làm Đội trưởng
đâu.
Thầy Đương ngó thầy Hưng, cán-bộ trực trại:
- Dạy họ báo-cáo xuất trại, nhập trại.
Thầy Hưng, đeo quân-hàm trung-sĩ, dạy Đằng Giao và tôi bài học
báo-cáo quân-số và dạy toàn thể anh em cách đi đứn, cầm nón mũ chào kính vân
vân…
-Nàm thử xem sao, anh Cát!
Đội trưởng Đằng Giao vẫy tay bảo đội ngồi xuống. Anh ta đếm số
đội viên một lượt rồi bước lên cách đội ba bước. Anh ta hô “Đứng dậy, nón mũ bỏ
ra. Nón mũ cầm tay phải, lật ngửa. Chú ý: Nghiêm! Hai hàng dọc nhìn đằng trước…thẳng?
Thôi…” Đằng Giao bước xuống, đứng cạnh hàng đầu, quay mặt về phía điếm canh tưởng
tượng, dõng dạc báo-cáo:
- Báo-cáo cán-bộ, Đội 21 nông-nghiệp tổng số 50, lao-động 50,
hiện-diện đủ, chờ lệnh cán-bộ.
Thầy Hưng vẫy tay:
- Cho đi!
Trò Đằng Giao đáp:
- Rõ.
Tôi muốn cười quá mà không dám cười. Giá tôi được tự-do cười
tôi đã cười một trận nghiêng-ngửa nhất đời tôi. Đến lượt tôi “nàm thử”, thầy
Hưng ra lệnh cho 4 đội-viên của tôi bước khỏi hàng. Tôi cũng “nàm” như Đằng
Giao đã “nàm”. Cám ơn tổ-tiên tôi đã khóa cái sự thèm cười của tôi đúng lúc diễn-xuất…căng.
- Báo-cáo cán-bộ. Đội 17 rau xanh tổng số 50, lao-động 46, 4
bệnh nằm nhà, chờ lệnh cán-bộ.
- Cho đi!
Thầy Hưng khen:
- Được Nhưng đó là xuất trại. Còn nhập trại thế lào?
Tôi biểu-diễn:
- Báo-cáo cán-bộ, Đội 17 rau xanh lao-động 46, về đủ, xin nhập
trại, chờ lệnh cán-bộ.
Thầy Hưng tấm-tắc:
- Chính-trị dễ tiếp thu hơn nà hình-sự
Cái sự vô-phúc thiếu âm-đức của tôi không dừng ở chức-vụ Đội
trưởng. Màn thực-tập vừa dứt, thầy Đương thăng thêm cho tôi chức Nhà trưởng
“theo quyết-định của Ban giám-thị”. Tôi phải học bài học nhân-danh Nhà trưởng
báo-cáo thầy trực trại buổi sáng mở cửa nhà và buổi chiều đóng cửa nhà và điều
khiển tù-nhân cả nhà tập thể-dục. Kệ mẹ nó, đến đâu hay đó. Ít ra, tôi đã hách
hơn Hồ Chí Minh. Vì, Ngục trung nhật ký Hồ chủ-tịch không được khoe mình làm Đội
trưởng, Nhà trưởng trong tù. Chúng tôi nhận lệnh giải-tán rồi vào nhà nhận chỗ
nằm theo sự chỉ-định của cán-bộ trực trại. Đội của tôi ở 5 khoang đầu nhà. Thu
xếp hành-lý, tranh nhau nằm trên nằm dưới, dàn xếp ổn-thỏa xong thì các đội cũ
tan lao nhập trại. Tôi cắt cử người xuống bếp lấy cơm canh, chia cơm canh. Ấm
lòng ngay lập tức nhờ các cháu du-đãng hình-sự tặng “hai chú” Đằng Giao và
Duyên Anh, cháu thì tô mì vụn nấu tôm khô rau cải xanh, cháu thì miếng thịt vừa
nhận thăm nuôi, cháu thì con cá kho câu dưới sông…
Thi-sĩ Trần Tuấn Kiệt, trong cuốn sách viết về nhà văn nhà
thơ Việt Nam, có nhã-ý viết về tôi. Anh ta kể lại kỷ-niệm ở quân-lao. Vì anh ta
khoe là bạn của Nguyễn Thụy Long và Duyên Anh nên anh ta được tù-nhân du-đãng
chiều-chuộng hết mình. Anh ta bảo, nếu tôi vào tù, tôi sẽ sướng hơn vua! Tôi đã
vào tù, không thấy sướng hơn vua mà chỉ thấy khổ như chó. Nhưng nếu tình-cảm là
cái gì quý nhất, tôi đã được hưởng cái quý nhất của những độc-giả, đặc-biệt những
độc-giả bụi đời dành cho tôi.
Cơm nước xong chúng tôi ngồi tán gẫu chờ điểm danh buổi chiều.
Kẻng vừa điểm, tù-nhân vội-vã xếp hàng mười trước của nhà, ngồi ngay ngắn. Tôi đã
hỏi quân số Đội 3 rau xanh của Hoàng xì coọc. Tôi phải đếm lại cẩn-thận.
Tù-nhân nào ốm không ra điểm danh, phải báo-cáo và trật-tự Hoa-nẫu vô nhà kiểm-soát
rồi xác- nhận với cán-bộ trực trại. Nhà của tôi mang số 1. Đáng lẽ, đội của tôi
số 5 hoặc số 6, vì TH6 B mới có 4 đội. Chắc chắn, trại sẽ tiếp-nhận thêm nhiều
tù-nhân những tháng sắp tới. Thầy trực trại Hưng đã đến, theo sau là Sanh- gian
và Hoa-nẫu. Tôi thực-hành bài học báo-cáo…nhà.
~ Anh em chú ý…im lặng! Báo-cáo cán-bộ, Nhà 1 tổng-số 150, tập-họp
đủ, chờ lệnh cán-bộ.
Thầy Hưng đếm hàng. Thầy hất tay:
- Cho vào.
- Rõ.
Từng hàng đôi, tù-nhân vô nhà. Tôi sau chót. Hoa-nẫu cài
thanh gỗ lớn chắn ngang cửa và khóa lại. Sinh-hoạt ồn-ào thả-giàn cho tới khi kẻng
báo ngủ. Lúc đó là 9 giờ.
TH6 B chưa có điện. Trại tân-lập mà. Mỗi nhà thắp hai ngọn
đèn dầu chế bằng keo thủy tinh không có bóng. Một ngọn để ở sà trên cửa ra vào,
một ngọn trên lối vào cầu-tiêu. Điểm danh xong trực trại giao trách-nhiệm cho vệ-binh.
Hai vệ-binh canh một nhà suốt đêm. Súng AK sẵn sàng khạc đạn vào kẻ trốn trại.
Hai ngọn đèn lù-mù, có khi tắt một, có khi tắt hết nên vệ-binh khó kiểm-soát
sinh-hoạt của tù-nhân. Bèn thêm mệnh lệnh không ghi ở Nội-quy, Tiêu-chuẩn cải-tạo
và Nếp- sống văn-hoá mới: Đi ỉa, đi đái phải báo-cáo! Thế là tù-nhân sáng-tạo
chuyện hài-hước đen.
- Báo-cáo cán-bộ, tôi đi đái.
- Báo-cáo cán-bộ, tôi đi đái xong rồi, tôi về chỗ ngủ.
- Báo-cáo cán-bộ, tôi đi ỉa.
- Báo-cáo cán-bộ, tôi đi ỉa xong rồi, tôi về chỗ ngủ.
- Báo-cáo cán-bộ, tôi đi ỉa nữa.
Có tù-nhân chơi bạo:
- Báo-cáo đái!
hoặc:
- Cán-bộ ỉa!
Nếu vệ-binh tìm chỗ ngồi đốt lửa sưởi lạnh với nhau, không
nghe thấy thì không sao cả. Nó đi tuần, nghe thấy là réo Nhà trưởng, đánh thức
cả nhà dậy nghe nó giáo-dục sỉ-vả hoặc nó bắt tìm ra ai…lạc-hậu, đầu óc nặng tư-tưởng
đồi-trụy và ảnh-hưởng văn-hoá Mỹ-Ngụy sâu đậm. Giả đò không báo-cáo nó nghe tiếng
chân đi, nó cũng hô-hoán ầm-ỹ. Cái chức Nhà trưởng coi bộ nguy-hiểm. Ngủ chỉ sợ
có bố nào cao-hứng đạp tường mò về sum-họp gia-đình, nó sẽ đổ vạ mình đồng-lõa,
mình làm ngơ và sẽ còng tay xích chân mình. Khổ nhất vẫn là màn nửa đêm bị vệ-binh
thèm thuốc gọi dậy xin một điếu. Nhưng khổ hơn cả mọi nỗi khổ là Nhà trưởng phải
thắp đèn và bảo-quản bình dầu. Trật-tự Hoa-nẫu đã tính-toán kỹ-lưỡng. Nó phát dầu
đủ thắp một tuần: hết dầu ráng mà chịu bị vệ-binh “lên lớp”. Tù-nhân nghiện thuốc
lào thường thích có đèn riêng cho đỡ tốn xăng đá lửa. Quý vị ấy che đèn và xin
dầu kiểu “thông-cảm”. Nhà trưởng không dám cho, sợ hết dầu và sợ bị “nâng
quan-điểm” giúp tù-nhân phương-tiện trốn trại hay đốt trại! Thì bị quý vị ấy chửi
bới. Quý vị ấy công khai sớt dầu ở đèn tập thể. Nằn nì quý vị ấy thông- cảm,
quý vị ấy không thông-cảm. Cấm-đoán, ngại quý vị ấy xỏ xiên “giữ 1. cho chúa”.
Từ cái nhỏ hóa thành cái lớn. Nhà trưởng biến thành cái đích của thị-phi. Chỉ
vì sợ hết dầu trước hạn kỳ. Chỉ vì anh em tiếc rẻ xăng, đá lửa. Chỉ vì anh em
lười châm lửa ở đèn tập thể. Chỉ vì anh em khoái đèn cá nhân.
Đêm đầu tiên nhậm chức Nhà trưởng của tôi thật não-nùng. Tôi
không ngờ nổi. Những tiếng báo-cáo “đi đái, đi ỉa” liên tục đến gần sáng. Tôi bắt
đầu chán ngán cái động của trại tập-trung. Dường như, cái động hứa hẹn vang vọng
một niềm bất-hạnh. Đêm cuối năm ở rừng già Sa Ác lạnh vô cùng. Tôi đã quên cái
lạnh mùa đông miền Bắc hơn hai mươi năm nay nhớ lại và thấm rét mướt. Sự rét mướt
chẳng còn ở ngoài da nữa. Nó đã thấm buốt cả thân-phận tôi. Tôi xoay người úp bụng
xuống sàn gỗ, ngẩng đầu nhìn qua chấn song gỗ của khung cửa ọp-ẹp. Đêm tối.
Thân-phận. Đất nước. Dân-tộc. Thân-phận tôi là đồ bỏ. Nhưng đất nước tôi, dân-tộc
tôi? Trong cuộc chạy đua việt-dã mấy chục năm giữa bọn ăn cướp và bọn ăn cắp, sự
thắng bại đã rõ rệt. Chính-nghĩa của bọn ăn cắp là đào-ngũ, đào-nhiệm chạy dài.
Chính-nghĩa của bọn ăn cướp là hồ-hởi phấn-khởi trả thù vặt. Ba mươi năm chính-nghĩa
thổ-phỉ và chánh nghĩa “phi-lu” nhân danh hai chủ-nghĩa ưu-việt nhất của loài
người, vô-sản và tư-bản; nhân danh hai quyền-lực vĩ-đại nhất và thô-bạo nhất của
loài người, Liên xô và Hoa kỳ, đấm đá và tranh giành sự-nghiệp nô-bộc, đất nước
tôi rách mướp, dân-tộc tôi đói rách, ngu dốt, lạc-hậu. Chiến-tranh bẩn thỉu toa
rập giữa tư-bản Hoa kỳ và vô-sản Liên xô đã tàn-sát đến cả cây cỏ, muông thú của
quê-hương tôi, đã đẩy dân-tộc tôi vào cuộc phiêu-lưu thù-hận, đã tạo dựng bọn
tướng cướp bản-xứ khát máu và bọn trùm trộm cắp hèn-mọn, trơ-tráo. Hạnh-phúc mà
vô-sản chủ-nghĩa đem từ thiên-đường Liên xô sang đất nước tôi là gì? Hỏa-tiễn,
súng đạn, giáo-điều mác-xít, lê-nin lỗi thời. Chủ-nghĩa cộng-sản có khả-năng
tiêu-diệt 1 triệu 500 ngàn dân Việt Nam mùa cải-cách ruộng đất năm 1956, có khả-năng
nướng thiêu 1 triệu thanh niên miền Bắc dọc đường mòn Hồ Chí Minh và các chiến
trường miền Nam. Chủ-nghĩa cộng-sản có khả-năng làm bé nhỏ cả dạ-dầy lẫn tim óc
của dân miền Bắc. Nhưng, chủ-nghĩa bách-chiến bách-thắng ấy chưa giải-phóng nổi
chế độ đổ thùng ở riêng thủ-đô Hà-nội “thủ-đô của phẩm-cách con người”. Khi còn
công-nhân vệ-sinh đặc-trách đổ thùng, còn phu đổ thùng, còn con người tăm-tối
chui rúc vào cầu-tiêu vác những thùng phân đổi miếng cơm hẩm, chủ-nghĩa cộng-sản
chỉ được định giá như một thùng phân lúc nhúc ròi bọ.
Hạnh-phúc mà tư bản chủ-nghĩa đem từ thiên-đường Hoa-kỳ sang
đất nước tôi là gì? Bom lửa, xe tăng, thuốc khai quang, phi-tiễn, lựu đạn cay
và lý-tưởng khai- phóng tự-do, dân-chủ chó đẻ. Chủ-nghĩa tư-bản có khả-năng đẩy
hai thế-hệ thanh-niên miền Nam xuống vực thẳm chiến-tranh cho tham-vọng khốn-kiếp
của nó, có khả-năng làm đảo tung đạo-nghĩa và tình-nghĩa Việt Nam; có khả-năng
xúi dục đảo-chính, chỉnh-lý; có khả-năng giật giây tôn-giáo thù nghịch lẫn
nhau; có khả-năng đưa những thằng vô-lại lên ngôi tổng-thống, thủ-tướng, bộ trưởng,
tướng tá, nghị-sĩ, dân-biểu. Chủ-nghĩa ấy còn có khả-năng mầu-nhiệm tạo đĩ điểm
thành mệnh-phụ phu-nhân, ma-cô thành lãnh-tụ dân-tộc và biến con người thành
công-cụ của đô-la, nô-lệ của vật-chất; biến con người thành ký-sinh-trùng ăn
bám, ươn- hèn, vọng ngoại. Nhưng, chủ-nghĩa chói-chang ấy chưa tẩy xóa nổi dấu-tích
ô-nhục của phản-bội đê-tiện. Khi còn còng made in USA còng tay những người Việt
Nam chân-chính chống đối chủ-nghĩa cộng-sản phi nhân ở Việt Nam sau 1975, chủ-nghĩa
tư-bản Hoa Kỳ cũng chỉ được định giá như một thùng phân lúc nhúc ròi bọ.
Rốt cuộc, quá độ chiến-tranh ý-thức-hệ thùng phân là đất nước
héo úa, dân-tộc chia lìa, tổ-quốc gầy mòn. Những thằng ăn cắp bỏ chạy không
quên mang theo tài-sản ăn cắp. Và chúng nó đang phè phỡn ở Hoa kỳ, miền đất hứa
có chủ-nghĩa được định giá như một thùng phân. Chủ-nghĩa này tạo ra những nhà
lãnh-đạo lỗi-lạc để thi-triển những chính-sách đối với các nước nhỏ và các nước
dưới quyền…viện-trợ. Những thằng ăn cướp được dịp tuyên-bố chiến-thắng những thằng
phản-bội và những thằng ăn cắp. Và chúng nó bảo cách-mạng thành-công. Và chúng
nó lùa những người Việt Nam vào nhà tù, trại tập trung. Tôi cũng bị lùa vào nhà
tù 3 năm. Bây giờ, tôi bị ném ra trại tập-trung. Tôi mang cái tội gì nhỉ?
Thoạt đầu, phỉ-quyền (bọn ăn cướp) chụp lên đầu tôi cái tội
ngớ-ngẩn: Nhà văn chế-độ cũ. Tôi không phải là người của chế-độ nào cả. Tôi là
người của tôi, của gia-đình tôi, của bằng-hữu tôi, của độc-giả tôi và lộng ngôn
một tí tôi là người của dân-tộc tôi. Không một chế-độ nào chấp-nhận những người
nghệ-sĩ phản-kháng cả. Tôi là nhà văn, nhà báo phản-kháng, và có chính-kiến rõ
rệt. Tôi đứng về phía những người bị trị chống đối kẻ thống-trị. Sự chống đối của
tôi, tùy theo cường-độ chính-trị của thống-trị. Khi thống-trị bình-thường, sự
chống đối của tôi hiểu theo nghĩa đối-lập. Khi thống-trị đàn áp, sự chống đối của
tôi là phản-kháng quyết-liệt. Bằng văn-chương và tư-tưởng. Tôi đã thường xuyên
quyết-liệt phản-kháng bọn thống-trị Sàigòn vì tôi muốn không còn, không có nữa
phỉ-quyền hiện diện ở Hànội và âm-mưu thôn-tính quê-hương tôi. Phỉ-quyền lên án
tôi từ năm 1970. Hẳn nhiên, phỉ-quyền Hà nội thù hận tôi. Nhưng ngụy-quyền
Sàigòn (bọn ăn cắp) ưa gì tôi? Nó cũng thù hận tôi. Tôi thực sự sống bằng ngòi
bút từ tháng 1-1964. Tôi viết nhật-báo từ đó. Và từ đó, tôi tuyên-chiến với bọn
thống-trị Sàigòn, đứng hẳn về phía bị trị vì những người bị đàn áp bị bóc lột;
vì những người nghèo khổ nhất miền Nam; vì những người lính hy-sinh nhất miền
Nam, bị bạc đãi nhất miền Nam; vì cô-nhi, quả-phụ; vì danh-dự của tổ-quốc mà
lên tiếng. Ngụy-quyền Nguyễn Văn Thiệu chưa dám bắt tôi bỏ tù. Nó tin tử-vi. Và
nó sợ phản-ứng độc-giả tuổi trẻ của tôi. Nó sợ cộng-sản lợi-dụng cơ-hội nhập cuộc.
Nếu quốc-gia là những ai phò Nguyễn văn Thiệu, suy-tôn nó, ủng-hộ nó, còn kỳ vọng
nhiều ở nó; nếu quốc-gia là Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang,
Cao văn Viên…và các vệ-tinh, tôi khước-từ thứ quốc- gia đó. Và tôi thẳng-thắn
nói: Tôi là người cộng-sản không tha, quốc-gia không dung.
Không thể là quốc-gia ăn cắp, lừa bịp, tôi phải chấp-nhận mọi
hệ-lụy ngoài đời, trong tù; trong nước, ngoài nước. Tôi hiên-ngang chấp-nhận. Để
tôi là quốc-gia của tôi. Chỗ “tựa vào” của tôi chỉ là dân-tộc Việt Nam đau-khổ.
Tôi đã “tựa vào”, đang “tựa vào” và “tựa vào” đến khi nhắm mắt.
Quốc-gia của tôi là quốc-gia chân-chính, quốc-gia của những
người lương-thiện sáng chói. Tôi phủ nhận ngụy-quyền, phỉ quyền. Với tôi, ròng
rã ba mươi năm, đất nước ta chưa có chính-quyền. Dân-tộc ta đang mơ ước một
chính-quyền tạo dựng bởi người quốc-gia chân-chính trong và ngoài nước. Chỉ khi
nào đất nước ta có chính-quyền, dân-tộc ta mới có ấm no, hạnh-phúc, đoàn-tụ,
thương yêu, tự-do là dân-chủ thực sự. Phỉ-quyền Hà-nội và ngụy-quyền Sàigòn đã
bất lực mưu cầu hạnh-phúc cho dân-tộc. Phỉ-quyền chỉ biết ăn cướp. Ngụy-quyền
chỉ biết ăn cắp. Thổ-phỉ và đạo-tặc đều thờ chủ riêng. Phỉ là đầy-tớ Liên xô.
Ngụy là đầy-tớ Hoa Kỳ. Bây giờ, thêm bốn hạng ngụy nữa: Ngụy kháng-chiến bịp-bợm,
ngụy giải-phóng đội đít Tầu, ngụy cứu quốc bám chân Tây, ngụy phục-quốc chờ đèn
xanh ảo tưởng Mỹ.
Từ hơn 100 năm rồi, tinh-thần dân-tộc đã bị các thứ giáo-hội
đè nặng trĩu, đè ngóc đầu lên không nổi. Các thứ giáo-hội đã chi-phối tinh-thần
dân-tộc một cách nghiệt-ngã. Đất nước lạc-hậu của chúng ta có tới hai chục
giáo-hội. Giáo-hội và tổ-quốc chứ không tổ-quốc và giáo-hội. Thứ giáo-hội mạnh
nhất, thô-bạo nhất hôm nay là giáo-hội cộng-sản. Dân-tộc ta đã ủ-ê vì các
giáo-hội, đang ủ-ê vì các thứ ngụy. Vậy làm cách nào phục-hưng tinh-thần dân-tộc
và tinh-thần quốc-gia, dĩ nhiên, quốc-gia chân-chính? Vấn đề này nhà văn không
đủ tư-cách giải-quyết. Bổn phận của y chỉ nhằm gợi ý.
Tôi đã trải qua một đêm TH6 B.
Chú thích:
1. Tan lao: Tan lao-động.
Vào lao: Vào giờ lao-động.
Giải lao: Nghỉ lao-động
2. Khu A có xưởng cưa máy. Đầu năm 1979, các Nhà cũ bị phá để
xây cất Nhà mới khang-trang, cầu-tiêu xối nước. Dĩ nhiên, Nhà nhiều hơn vì tù
nhiều hơn và sự quản-lý chặt-chẽ hơn. Sĩ-quan quân-đội từ các trại miền Tây dồn
hết lên miền Đông.
3. Về sau, chính Đằng Giao đặt mốc cho đoạn đường…vào Ba Thục
này.
4. Vẽ tranh hí-hoạ, Đằng Giao ký tên Đùa Dzai.
CHƯƠNG 3
Kẻng báo thức đã gầm-gừ. Cả Nhà thức giấc. Đèn phòng được thổi
tắt. Các quan-viên thuốc lào rít điếu cầy xòng-xọc. Sinh-hoạt ồn-ào trong cầu-tiêu.
Màn thuốc lào, đái ỉa buổi sáng coi như chào mừng một ngày lao-động khốn-nạn.
Bên ngoài còn nhá-nhem và sương mù dầy đặc. Tù-nhân thu dọn chỗ nằm thật ngăn-nắp.
Thuốc lào đã sang tua rít thứ mấy. Khối anh phê, đáp dài trên phi-đạo sàn. Phải
phê. Không phê sẽ một ngày vô-nghĩa. Những tù-nhân mới tập hút thuốc lào, chưa
dám kéo hơi dài. Thành thử, rít đến khi khói vô đẫy phổi mới lăn kềnh, mắt
lim-dim, tim đập mạnh, thân thể lạnh giá, tay chân quơ cào. Thuốc lào mau say
mà cũng mau tỉnh. Tù lao-cải gắn bó với thuốc lào y hệt tù nhà-lao gắn bó với
ghẻ. Phi thuốc lào bất thành cải-tạo. Thuốc lào là cái gì mà ghê thế? Ca dao có
câu:
Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên
Từ câu này, Nguyễn Tuân mới đặt cho thuốc lào cái tên thật
văn-chương: Tương-tư-thảo. Nhưng tương-tư-thảo có vẻ Tầu quá. Mà Tầu không hút
thuốc lào.Vậy gọi thuốc lào là cỏ nhớ. Miền Bắc hút thuốc lào trước khi hút thuốc
lá, hút ống vố. Câu nhại lời bài Giải-phóng Miền Nam quy-định rõ-rệt sự hút của
dân ta:
Miền Bắc hút thuốc lào, miền Trung hút thuốc rê, miền Nam thì
hút Capstan, Con Mèo ….
Thuốc lào thượng-hảo hạng miền Bắc là thuốc lào Vĩnh Bảo.
Cách gói và bán thuốc lào ở miền Bắc rất… cổ-truyền. Người bán thuốc lào gánh
đôi khạp gỗ đậy nắp kín đến các chợ phiên. Một bên là thuốc đã gói sẵn vào cái
bao giấy mầu có in nhãn-hiệu bằng con dấu khắc thô-sơ. Một bên là thuốc nguyên
bánh và thuốc rời. Gói có hai loại, to và nhỏ. Thuốc rời bán lạng. Cũng có ba hạng
thuốc: thượng-hảo-hạng, ngon nhất và ngon vừa phải. Người bán thuốc bầy thuốc
trên nắp khạp, châm đèn và kê điếu bát. Khách hút thử thuốc rồi mua. Ở thị-xã
người ta cũng bán theo cung cách ấy. Thuốc lào đem giống vô Nam ngon nhất là
thuốc Cái Sắn, hút phê lăn cù mèo. Trước 1975, có các nhãn hiệu thuốc lào Say,
thuốc lào 888. Về sau thuốc 888 nổi tiếng, bèn đẻ thêm thuốc lào 555, thuốc lào
999. Sau 1975. thuốc lào 888 giả hiệu đầy thị-trường.
Ông đây đã bỏ thuốc lào,
Thấy ba số 8 lại đào điếu lên
Câu thơ ảnh-hưởng ca-dao nặng-nề này in trên bao gói thuốc
lào 888. Theo đà văn-minh lãng nhách, thuốc lào gói bằng bao ni lông, mất hết
99 phần 100 tính chất cổ-truyền dân-tộc.
Thuốc lào rất khó trồng. Nó kén đất và phân bón. Trồng, tỉa,
bắt sâu thuốc, phơi, thái, ủ thuốc là một nghệ-thuật. Thuốc ngon nhờ giống, nhờ
đúng thời-gian và nhờ bí-quyết riêng của người sản-xuất. Xin miễn bàn-luận về
chuyên-môn. Thuốc đi với điếu. Điếu kêu ròn-rã nhờ cái guốc. Điếu tráp của các
nhà quyền-quý thì khảm xà-cừ, xe điếu bằng cành trúc dài, đầu bịt bạc. Điếu bát
của giới trung-lưu thì đặt trong chiếc bát cổ, đồ thông uốn bằng giây đồng tỉ-mỉ,
của bình-dân thì đặt trong bát gỗ đơn-sơ. Điếu cầy của nông-dân thì làm bằng ống
tre mật. Điếu tốt cần đóm tốt. Đóm bị tắt ngang xương, điếu thuốc vô vị. Thường,
người ta chẻ tre thật mỏng, ngâm nước rồi phơi khô đóm cháy bền. Những tay chơi
đóm, chặt luôn cây đu-đủ đã sinh trái, liệng xuống ao. Thân cây đu-đủ chìm dưới
bùn và bị “cháy ngầm”. Chừng nó nổi lềnh-bềnh, vớt lên phơi nắng cho khô. Rồi
tước ra. Thế là có đóm tuyệt-diệu, bảo-đảm hút cú đúp, đóm vẫn cháy, chấp gió
thổi mạnh. Điếu và đóm cộng lại thành một thành-ngữ ám chỉ bọn hầu-hạ. Nhà quyền-quý
bẻ cong cái xe điếu trúc. Gã bưng điếu hiểu ý ngay. Bèn vo dúm cỏ nhớ đặt thật
khéo trên miệng nó. Gã khác châm đóm. Ông chủ hít một hơi, chiêu ngụm trà tầu,
nhả khói đê-mê. Sau này có điếu đóm chính-trị bỉ-ổi hơn điếu đóm thuốc lào.
Nước điếu của những tay chơi thuốc lào cũng công-phu lắm. Có
ông dùng nước mưa kinh-niên. Có ông lại sắc nước cam-thảo. Nước đổ vào bình phải
chạm đúng mức nào của guốc điếu. Ôi, lỉnh-kỉnh lắm. Thuở nhỏ, tôi sợ nhất cái
xe điếu bằng song. Bị quất xe điếu vào mông là lươn nổi ba ngày. Điếu đóm ngoài
đời nếu luận tới mức, phải viết hai chục trang sách.
Tôi nói về điếu đóm nhà tù. Cái thứ điếu “poọc-ta-típ” to bằng
gói thuốc, chế-tạo bằng plastic, ống nhựa ngắn chút xíu, hút chỉ tổ phí thuốc.
Tù-nhân đề lao Gia Định gửi mua khá nhiều. Đóm nhà tù là diêm Samasa… quốc-doanh,
quẹt 3 cây cháy l; là giấy gói mì Con Cua, mì Ba Con Tôm. Những tù-nhân điệu-nghệ
sáng-tạo điếu bát đặc biệt. Cái can nhựa chứa nửa lít tầu-vị-yểu là bình. Vỏ
kem đánh răng Hynos gò làm guốc điếu. Ống nhựa bọc giây kẽm quai xô nhựa rút ra
làm xe điếu. Nước nhiều thì khói dịu, vô tận phổi mới đã. Tiếng điếu kêu xòng-xọc
nặng âm-điệu tù đầy. Tù-nhân cải-tạo không chơi điếu can nhựa tầm-thường. Điếu
cầy là nguồn thác cách-mạng thứ tư sau ba nguồn thác cách-mạng văn-hóa,
nông-nghiệp, khoa-học kỹ-thuật. Vậy tù-nhân lấy điếu cầy làm “sự-nghiệp vĩ -đại
sống mãi” với thuốc lào cải-tạo.
Nông-dân miền Bắc không cầu-kỳ lắm về hình-thức cái điếu cầy.
Chỉ cần cái nõ điếu cho kêu thôi. Điếu cầy của nông-dân vạt nhọn phía dưới. Để
tiện cắm xuống bờ ruộng. Nhà quê Bắc-kỳ nghèo, chẳng có diêm, bật lửa. Vậy phải
bện bùi-nhùi rơm mang theo với đóm. Nông-dân hút ra sao? Vê thuốc nhét kín miệng
nõ, thổi bùi-nhùi, châm lửa. Bập bập ba cái, đưa ngón tay nhấn chặt thuốc rồi
kéo một hơi dài đến trôi tuốt cả tàn vào nước. Rồi thổi phụt cho nước điếu bắn
ra một vòi ngắn. Rồi kéo tiếp để nghe tiếng điếu ròn-rã. Rồi mới nhả khói.
Cao-thủ điếu cầy phải hút như thế. Sáng sớm tinh mơ chưa ăn gì, hút một điếu
Vĩnh Bảo thượng-hảo-hạng kiểu cao-thủ điếu cầy, chỉ có té bật ngửa “mắt lim
dim, tim đập mạnh, lạnh tứ-chi, sùi bọt mép”… Tù-nhân cải-tạo khối người đạt chỉ-tiêu
hút cao-thủ điếu cày. Hút điếu cầy phải hút ngoài bãi mới tự-do phụt nước điếu.
Điếu cầy đẹp nhất, công-phu nhất là điếu cầy của sĩ-quan cải-tạo ở Sơn La đem về.
Ống tre dài, nõ điếu bằng đá mài, khoét tài tình. Nhưng chiếc điếu cầy cải-tạo
đi vào lịch-sử điếu cầy dân-tộc là điếu cầy của tù-nhân Lê văn Minh tự Minh-suyễn.
Minh-suyễn, con trai ông chủ hàng bánh ngọt nổi tiếng đường
Nguyễn Thiệp, Sài gòn 1, đi làm phản-động trong tổ-chức Binh-đoàn Lê văn Duyệt.
Tổ chức này do Mai Chí Thọ nặn ra cùng 51 tổ chức khác. Mục đích của Thọ là
giăng lưới bắt hết những người yêu nước chống cộng. Minh-suyễn sa bẫy luật-sư nằm
vùng Đỗ Hữu Cảnh, bí-danh Ba Sơn 1. Minh-suyễn bị suyễn nặng, thường xuyên có 4
cái bình xịt tối tân Huê kỳ, xịt hết thuốc là vất đi mà khoái hút thuốc lào…
phê. Anh ta thửa cái điều cầy trị giá 10 gói mì Con Cua, thuê một tù-nhân lâm sản
tìm ống tre dài, bóng. Minh-suyễn nhờ Đằng Giao vẽ thiếu-nữ khỏa thân, tóc xõa,
chân và tay bị trói chặt quanh ống điếu. Hai trái đào tiên căng nổi. Cái hoa
quý của thiếu nữ, đúng cái ái ân huyệt đó, Minh-suyễn dùi lỗ để…cắm nõ. Anh ta
tô mực xanh lên những nét khắc của Đằng Giao. Điếu cầy của Minh-suyễn nổi tiếng,
ai cũng xin hút một điếu. Cuối cùng, điếu cầy của Minh-suyễn bị tịch thu,
Minh-suyễn bị làm tự kiểm nhận tội tuyên-truyền văn-hóa đồi-trụy. Điếu cầy ấy về
sau, cán-bộ giáo-dục giữ làm của riêng.
Tiếng điếu cầy rít liên tục làm sinh-động buổi sáng ở Nhà 1 của
tôi. Tôi đã hiểu sự cần-thiết của thuốc lào. Có lẽ tôi sẽ tập hút thuốc lào. Trật
tự Hoa-nẫu đã mở cửa. Chúng tôi ùa ra hít khí trời giây lát rồi ngồi xếp hàng
như chiều qua. Đội trưởng Đội 3 rau xanh đã cho tôi biết trước đội của anh ta
có 2 người bệnh nặng không thể ra điểm danh. Tôi cần nói thêm: Mỗi thư-ký đội
được cấp dầu thắp đèn cá-nhân cho mỗi sáng đội-viên của mình khai bệnh và mỗi tối
thứ sáu họp đội. Bệnh nhân được nghỉ lao-động hay phải đi lao-động là do quyết
định của Y-tế. Y tế của Sa Ác B do một y tá 2 tù-nhân đảm-trách dưới quyền chỉ-huy
của một cán-bộ y-tế mà trình-độ là biết phát thuốc…Xuyên Tâm Liên! Sa Ác B chưa
có bệnh-xá, chưa có cả phòng y-tế. Y-tá làm việc ngoài sân, trước giờ tập họp
lao-động. Y-tá can tội hình sự rất dễ-dãi nhưng e-dè. Anh ta không dám cho
tù-nhân nằm nhà nhiều. Bởi vậy, có xổ số bệnh nặng! Tù-nhân bệnh nặng thật sự
có khi, đi ra ngoài lồng cầu. Tù-nhân cảm xoàng lại trúng số độc-đắc. Tôi đã trải
qua ba nhà tù. Cả ba nơi, tù-nhân đều không được chích thuốc ngừa các thứ dịch
hạch, dịch tả, thương-hàn, phong đòn gánh, đau màng óc… Ở trại tập- trung cũng
vậy. Tôi nghĩ, Bộ chính-trị trung-ương Đảng cộng-sản Việt Nam quan-niệm rằng,
chỉ có một thứ vi-trùng chế ngự tất cả vi-trùng là vi-trùng cải-tạo. Đã được
tiêm “vác-xanh” cải-tạo, kể như miễn dịch.
Cán-bộ trực trại đã tới.
-Anh em chú ý… Im lặng! Báo-cáo cán-bộ. Nhà 1 tổng-số 150, 2
bệnh nặng nằm trong nhà, hiện diện l48 đủ, chờ lệnh cán-bộ.
Trật-tự-viên Hoa-nẫu chạy vô nhà, la lối:
- Ai nằm trong lên tiếng?
Hai bệnh-nhân lên tiếng. Hoa-nẫu chạy ra báo-cáo:
- Thưa cán-bộ, hai đau nặng.
Trực trại đã đếm xong tù-nhân, hất đầu:
- Cho tập thể-dục.
Tôi đáp:
- Rõ.
Thế là tôi, Nhà trưởng kiêm thêm chức-vụ huấn-luyện-viên thể-dục,
điều-khiển cả Nhà vừa chạy tại chỗ vừa hét “một hai ba bốn” và vài động-tác vớ-vẩn.
Những ông già được miễn thể-dục. Màn thể-dục… tù chấm dứt, Tổ trực của đội lo
cơm sáng và nước sôi. Anh em khác đánh răng, rửa mặt. Cơm sáng đúng nghĩa là
cơm lót dạ, một chén bo-bo nhỏ. Bo-bo nhập-cảng từ Ấn độ. Có người bảo bo-bo là
lúa miến. Con gái tôi viết thư cho tôi: “Bố ạ, nhờ giải-phóng con biết nhiều địa-danh
mà những bài học địa-lý đã không dạy. Thí dụ: Kàtum, Trảng Lớn, Vườn Đào, Bà
Tô, Bù Nho, Sa Ác, Gia Trung… Con cũng biết thêm nhiều thực-phẩm như gạo Đại Mễ
3, bo-bo, sắn lát là những thức ăn ngon lạ hơn gạo nàng Thơm chợ Đào”…
Bo-bo, tôi đã thưởng-thức ở Chí Hòa. Sau những ngày ăn bột mì
luộc là những tháng, những năm bo-bo. Bo-bo từ nhà tù ra trại cải-tạo. Bo-bo mầu
như mầu gạo lức rất dẻo và dai. Muốn thực hiện cách-ngôn “Ăn có nhai, nói có
nghĩ” thì nên ăn bo-bo. Các nhà tư-tưởng cần ăn bo-bo vì phải nhai thật lâu mới
nuốt nổi. Các nhà lãnh-tụ kháng-chiến Hamburger cần ăn bo-bo. Để vừa nhai vừa
nghĩ mà chấm dứt những trò lạc-quyên bịp-bợm. Các nhà văn, nhà báo di-tản trước
1975 cần ăn bo-bo. Để vừa nhai vừa nghĩ mà chấm dứt những bài viết chụp mũ
a-dua bôi bẩn thiên-hạ và đố-kỵ hèn-mọn. Bo-bo có thể ăn 6 bữa 1 ngày. Vì ăn đầy
ca vừa uống nước xỉa răng xong là đã tiêu hóa 3 phần 4 ca bo-bo. Bo-bo hỗ trợ
chính sách cải-tạo của nhà nước cộng-sản. Phải rửa ruột trước khi rửa óc. Bo-bo
có mày rất sắc cạnh và rất “kiên trì”. Nó mà dính kẽ răng thì “bám chốt”, thì
“nằm vùng” kỹ lắm. Tăm tre mới trục xuất nổi mày bo-bo. Tăm gỗ ba Tầu bất lực.
Mày bo-bo cơ hồ ám-khí phóng ngập hàm, lợi. Thò hai ngón tay nhổ nó ra, máu ra
theo. Mỗi cái mày bo-bo là một giọt máu. Mỗi bữa bo-bo thường bị vài cái máy cắm
sâu vô lợi. Máu đó nhắc nhở miếng ăn tù đầy nhục-nhằn. Máu đó làm khôn lớn những
ai biết suy-tư trong thống-khổ. Những kẻ học đòi cạp Hamburger, Macdonald từ
29-4-1975 chưa được ăn bo-bo, không bị ăn bo-bo – chẳng dám ăn bo-bo, nên không
thấy thảm-cảnh mày bo-bo đòi máu tù-nhân. Và họ thản-nhiên. Rất bình thường. Những
những kẻ tự nhận là nhà văn, là kỹ-sư của linh hồn, hơn cả thản-nhiên trước một
rung-động làm nên văn-chương, tư-tưởng đã vận-dụng ngòi bút cắm sâu những cái
mày bo-bo vào lợi của tù-nhân đồng-nghiệp của họ. Bằng bình-phẩm và bằng vu-khống
đê-tiện những gì mình không nhìn thấy. Đôi khi, cũng có “nhà văn” có cơ-hội ăn
bo-bo. Tiếc rằng, thay vì ăn bo-bo để khôn lớn, để sáng-suốt, để biết thù-hận đúng
chỗ, ông ta lại chỉ “ăn vụng thịt nhà bếp, ăn cắp cháy, ăn tranh phần cơm heo”
nên ông ta đã tự đồng hóa với đồ ăn cắp, tự xếp hàng với súc vật. Vì ông ta còn
là “nhà vẽ” nên ông ta đã vẽ một bức tranh đầy mầu vàng của phân. Mầu vàng này
đã trùm lên sự thật. Và đó là lập-thể. Rốt cuộc sự-nghiệp vẽ của ông ta là những
bức chân-dung Hồ Chí Minh “vĩ-đại”, và sự-nghiệp văn-học nghệ-thuật của ông ta
– ông này thích văn-học nghệ thuật lắm – rực rỡ nhất ở bài nhận vơ làm “biệt-kích
văn-nghệ”. Chưa thấy nhà văn nào viết bài báo tồi đến thế. Tư-tưởng thì rặt
“phân tiểu”, hành văn thì câu bất thành cú, chấm than thì bỏ bừa bải, lập-luận
thì dựa…tin đồn. Đó là tại ham “ăn vụng thịt, ăn cắp cháy cơm” mà chê ăn bo-bo.
Người như vậy, tôi nghĩ, nên thắt cổ tự tử, vì sống vô-tích-sự. Sống bám
welfare nhà nước Mỹ đã nhục, bám welfare mà chẳng sáng-tạo nổi một truyện ngắn
sạch nước cản nào, càng nhục. Rõ là ký-sinh-trùng, là sán sơ-mít trong ruột Mỹ!
Thánh-kinh, theo Matthew, Chúa Jésus dạy: “Cây tốt sinh trái tốt. Cây xấu sinh
trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu. Cây xấu cũng không thể sinh được
trái tốt”. Một nhà văn-học nghệ-thuật “ăn cắp, ăn vụng, ăn tranh phần khoai và
cơmcháy của heo” không thể làm nổi những việc gì tốt đẹp. Chúa là chân-lý. Ngài
đã phán xét đúng.
Nhưng làm sao hạng người có huyết thống “ăn vụng thịt, ăn cắp
cơm cháy” dám ăn bo-bo? Bo-bo nó vào dạ-dầy nó cũng phóng mày bám chặt lấy dạ-dầy.
Do đó, tù-nhân cải-tạo đa số đau răng và đau bao-tử. Dạ-dầy là cái máy nghiền
nát các loại thức ăn. Vậy mà không nghiền nát được mày bo-bo. Bo-bo tiêu hóa,
chất bã đem theo mày bo-bo ra ngoài. Đội 17 rau xanh của tôi, sau này, phải làm
một cái cầu-tiêu “dã-chiến” để Đội phát quang có chỗ đại-tiện. Chúng tôi cần
phân bón rau. Tôi đã quan-sát cái cầu-tiêu chưa kịp “tiếp thu” phân sau ba ngày
“hành quân” ngang qua của Đội phát quang. Toàn bộ phân bị đế quốc Bọ Hung
thôn-tính hết. Một đống mày bo-bo còn nguyên. Bọ hung cũng không dám ngốn mày
bo-bo. Vậy mà tù-nhân cải-tạo đã nuốt mày bo-bo vào dạ-dầy! Tôi không hiểu các
“sử gia” nghiên-cứu lịch-sử hiện-đại Việt Nam có chịu nghiên-cứu mày bo-bo để
viết những trang lầm-than của dân-tộc. Xin lưu ý các “tiến-sĩ, sử gia” bỏ chạy
trước 30-4-1975: Cả nước Việt Nam đã bị ăn bo-bo suốt hai năm 1979 và 1980.
Riêng tù-nhân, ăn bo-bo từ 1979 đến…hôm nay. (khi tôi viết trang này là 1987).
Bình, cóng đựng nước và ca, bát đựng bo-bo bầy hai chỗ. Đội
nào chia cơm nước đội ấy. Nhà bếp cấp-phát nước mỗi ngày ba lần, sáng và trưa,
trước giờ đi lao-động, và chiều. Ngoài bãi lao-động, đội có người đặc-trách nấu
nước sôi cấp riêng để uống lúc giải-lao. Lưng ca bo-bo, tù-nhân ăn lót dạ và
lao-động 4 tiếng, giải-lao 15 phút. Không có cà-phê, dù cà-phê cá-nhân. Ở Sa Ác
B, người ta bắt chúng tôi “quân-sự-hóa” mọi việc.
Quanh năm tích-cực, bốn mùa khẩn-trương
Vượt nắng, thắng mưa, đạt chỉ-tiêu lao-động sản-xuất
Hai khẩu hiệu này chưa đủ thấm-thía kiếp người lao-cải. Bạn đọc
thêm hai khẩu hiệu nữa.
Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm
Vượt cờ xanh, giành cờ đỏ, bỏ cờ trắng, thắng cờ vàng
Cái gọi là học-tập lao-động cải-tạo tư-tưởng của chúng tôi nằm
trong bốn khẩu hiệu oan nghiệt đó. Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm. Nghe
mà ngậm-ngùi, mà phẫn-nộ. Tôi chợt hiểu vì sao Nhân-văn giai-phẩm đã tư-tưởng dấy
động, đã chủ-nghĩa xung-kích. Thời của văn-chương viễn mơ, của văn-chương chẻ sợi
tóc làm tám, của tùy-bút miêu-tả cách ăn, lối mặc, kiểu uống đã đóng băng.Ở bài
Những tín-hiệu sáng-tạo giới-thiệu thi-phẩm Đời bỗng dư thừa của Hà Huyền Chi,
tôi đã viết như sau:
“Quê hương câm nín đang réo gọi những lên tiếng cần-thiết của
văn-chương, của thi-ca, của âm-nhạc, của tư-tưởng lưu đầy. Nỗi réo gọi bi
thương ấy, cơ hồ, đã chìm vào cái hoang-vu ngậm-ngùi của chữ nghĩa. Đó đây, chỉ
còn là tiếng thở dài áo-não của hồi-tưởng, chỉ còn là những lượm nhặt bụi nắng
hoàng-hôn của dĩ-vãng. Không-khí và thời-tiết xứ người, xem chừng, hết thích-hợp
với người cầm bút đã có hào-quang hai mươi năm phồn-vinh văn-học miền Nam.
Chúng ta đầy đủ tự-do để viết. Nhưng chúng ta chóng quên niềm bất-hạnh, lười biếng
truy-nã thân-phận mình, thân-phận dân-tộc mình. Nên sáng-tạo hiu-hắt. Thỉnh thoảng,
cũng vài lên tiếng ném vào sự ồn-ào chạy đua leo dốc vật-chất. Thì lại là tiếng
nói chết hay tiếng nói bêu riếu chữ nghĩa. Của những kẻ tự nhận mình đứng hàng
đầu, thống-lĩnh ngọn núi này, chặn lấp cửa biển kia. Rốt cuộc, mươi năm mất nước,
văn-nghệ sáng giá và văn nghệ dẫn lối đã biến thành những ngọn hải-đăng mù. Và
thành-tích ô-nhục của nó là “áo thụng vái nhau” và “áo thụng tự vái”. Mọi
vinh-quang sáng-tạo dành hết cho những người cầm bút trẻ dẫu chưa điêu-luyện và
dẫu bị nhấn chìm tội nghiệp. Hà Huyền Chi thoát bung ra cái nghĩa-địa văn-nghệ
biệt xứ. Anh không thích đào mộ chôn mình hoặc để người khác đào mộ chôn mình.
Hà Huyền Chi làm thơ, làm thơ và làm thơ… Thơ của anh không bị đồng hóa với
thứ thơ văn nghìn năm không dấy động
thơ văn cột rỗng
lớp son mầu-mè tỉa-tót công-phu
thứ thơ văn tửu hậu trà dư
thơ văn chết khi cuộc đời căng nhựa sống
thơ văn ngồi khi Việt Nam khốn quẫn
thơ văn nằm khi bạo-lực diễn-hành
thơ văn tô móng tay khi dân-tộc đói nhăn răng
thơ văn nhẫy-nhụa môi son vênh-vang trưng diện.
Thơ Độc Ngữ
Hà Huyền Chi ngậm thống-khổ của dân-tộc anh, của chiến-hữu
anh, của bằng-hữu anh, của bản-thân anh. Anh đã biết khôn lớn từ kinh-qua thống-khổ,
từ phù-ảo sau cơn lốc nghiệt-ngã 30-4-1975. Thống-khổ tạo ra lửa. Lửa rực thơ
anh. Lửa bập bùng. Lửa thắp sáng những bùi-ngùi những xao-xuyến, những rung động
nguyên khối. Lửa thiêng Hà Huyền Chi khác hẳn lửa thiêng Huy Cận. Lửa thiêng Hà
Huyền Chi soi tỏ một nhận đường trong mù khơi tuyệt-vọng. Lửa ấy rạng-rỡ một
bóng tối dầy đặc u-mê. Nó gợi ý một thành-khẩn trả lời cho bất cứ ai tha-phương
cầu-thực ở thời-đại khốn khó hôm nay: Tôi là ai, đang ở đâu, làm gì? Khi người
ta trả lời câu hỏi này với cả tâm-hồn người ta, mọi dấu tích ô-nhục ở mọi
lãnh-vực sẽ được xóa sạch và sẽ chẳng bao giờ còn dấu tích ô-nhục mới. Người Việt
Nam sẽ thương yêu nhau bằng tình-nghĩa Việt Nam. Không còn ai bần-tiện nữa.
Đừng tranh-chấp nghệ-thuật-vị nghệ-thuật hay nghệ-thuật-vị-nhân-sinh.
Văn-học, văn-hóa và văn-hiến Việt Nam vĩnh cửu. Chớ dối gạt nhau sợ hãi nó mất
mà bảo-tồn theo cung-cách ăn cắp hay chọc mắt mù để khỏi nhìn thời-đại mình mà
luận về miếng ăn, miếng uống, manh áo, manh quần, cách ăn, lối mặc. Tất cả sẽ
chỉ chứa-chan ý-nghĩa nếu chúng ta giải-thoát được dân-tộc để còn có tổ-quốc và
quê hương”.
Theo tôi, những tác-phẩm trước 1975 của Sài gòn, những tác-phẩm
gọi là tiền-chiến cũ mèm hết hơi thở, những văn-học-sử quá sớm, những ký-sự
khuôn mặt văn-nghệ mọi người đều biết, những tùy-bút thu góp tái-bản bừa bãi,
xuất-bản lai rai, chỉ là hồi trống thu không báo hiệu một hoàng-hôn tím lạnh.
Nó chẳng có tác-động gì ở thời-đại mê sảng, thời-đại của bọn phu đào huyệt. Nó
không thể bắt câm họng những con chó điên tru-tréo bạo-lực và hình-phạt thù-hận.
Chẳng còn gì trơ-trẽn hơn phải đọc một tùy-bút uống trà tầu khi mình biết
chính-xác hàng trăm ngàn tù-nhân cải-tạo uống nước chùm-bao, nước hà-thủ-ô. Và,
ở những trại tị-nạn, đồng-bào mình uống trà cám bằng lon coca cola mài nhẵn nắp.
Nhà văn có thể rửng-rưng với chập-chùng thống-khổ của thời-đại mình, của dân-tộc
mình đến thế ư?
Người ta đã chê tôi viết những tiểu-thuyết thoát-ly rung cảm
cũ. Người ta muốn tôi như Hoa thiên-lý, như Cầu mơ… Người ta cứ chê và tôi nhất-định
không trở lại kỷ-niệm cũ. Bởi vì, tôi đã ăn bo-bo. Bo-bo là cảm-hứng mới của
tôi. Bo-bo là biểu-tượng nhục-nhằn của dân-tộc tôi. Đó là trái cô-đơn tôi
tình-nguyện ngậm suốt quãng đời văn-chương còn lại. Có lẽ, nên dạy ông nhà văn
“ăn cắp, ăn vụng” một bài học về trái cô-đơn khi ông ta hỏi: “trái cô-đơn hay
là trái cật?” một cách ngu-xuẩn. Tôi nghĩ chả nên dạy ông ta. Một nhà văn “ăn vụng
thịt”, ngậm miếng thịt đầy họng thì sẽ chỉ tưởng-tượng trái cô-đơn là miếng thịt
“ăn vụng”. Và, vì ở trại cải-tạo, những ngày lễ lớn tù-nhân được ăn thịt lợn nhưng
không được ăn lòng lợn nên ông nhà văn “ăn cắp, ăn vụng” cứ mơ-ước “ăn cắp” một
trái cật mà ngậm! Trái cô-đơn, dễ gì ai cũng hái được để ngậm. Ít ra, người ta
phải kinh-qua 40 ngày đêm tự khai rã rượi linh-hồn, phờ-phạc thể-xác; người ta
phải nghe báo-cáo chết-chóc ở Chí Hoà; người ta phải khiêng bom chưa kịp nổ, lấp
hố bom đã nổ; người ta phải nhìn rõ cái sinh-động quán rượu văn-học nghệ-thuật
Hamburger viết bằng mõm, đôi khi, viết theo cung-cách gầm-gừ của bầy chó câm.
Và nữa, người ta nghe rõ tiếng sủa thô-bỉ của các lãnh-tụ Mặt-trận chửi bới lẫn
nhau vì tiền lạc-quyên “giải-phóng dân-tộc” chia-chác không đồng đều. Còn nhiều
lắm…
Chia bo-bo, nước sôi xong, các đội cũ khẩn-trương nhai, khẩn-trương
nuốt và khẩn-trương tập-họp chuẩn-bị lao-động. Hai đội mới ở lại. Khoảng nửa giờ
sau, hai ông thầy quản-giáo đến nhận học-trò mới. Thầy của Đội 17 rau xanh là Để,
thầy của Đội 21 nông-nghiệp là Bản. Thầy Để mang quân-hàm thượng-sĩ, thầy Bản hạ-sĩ.
Thầy Để phát cho mỗi tù-nhân một tờ giấy, bảo khai lý-lịch. Lại lý-lịch! Thầy
muốn nắm thật vững đội. Thầy giao nhiệm-vu cho tôi gom hết lý-lịch của đội, kiểm-soát
lại rồi góp “bài” cho thầy, khi thầy hỏi. Nhờ vậy, tôi cũng “nắm” đội. Đội của
tôi có 50 người thì 44 người sinh-quán và hộ-khẩu thường-trú ở Bình Chánh, đa-số
là nông-dân, vài người đã đi lính, đã làm cảnh-sát, thợ nhà in. Tất cả đều trẻ,
từ ông Quản già, đều can tội phản-động chung một vụ.
Ban giám-thị chọn lựa dân làm rẫy vào đội rau xanh là sáng-suốt.
44 tù-nhân phản-động Bình Chánh có cha con ông Quản (người con tên Học), ba anh
em ruột thằng Lợi, hai anh em ruột thằng Huỳnh được kể như “đoàn-tụ gia-đình”
trong một đội. Sáu người không thuộc thành-phần nông-dân còn lại là:
1- Phạm Kim Sơn. Anh này ở BC Chí Hoà khoe rằng anh là hải-quân
Trung-úy, trốn trình-diện học-tập, đi làm phản-động và bị bắt trong một trận
đánh. Lý-lịch anh ta khai với quản-giáo Để thì anh là Trung-sĩ, can tội vượt
biên.
2- Trần Quang Thạch. Anh này lớn tuổi, khai là y-sĩ thiếu-tá
bị đuổi khỏi quân-đội VNCH, can tội lý-lịch mơ-hồ, nhà ở đường Công Lý gần trường
Marie Curie.
3- Đặng Hoàng Hà. Can tội phản-động hiện-hành.
4- Nguyễn Trường Thanh, giáo viên. Can tội phản-động hiện-hành,
tính nết bất-thường.
5- Lê Văn Hoán, lớn tuổi, can tội phản-động hiện-hành, bố vợ
của Thanh.
Và… tôi.
Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao nhiều “hào-kiệt” hơn. Trung
sĩ Phạm Kim Sơn thích tỏ ra …trí-thức và ưa lý-luận. Anh ta còn trẻ lại ham nói
những điều mình chưa hề biết. Trần Quang Thạnh nghệ-sĩ lắm, đàn nguyệt tà-tình,
từng là tình-nhân của Út Bạch Lan, vui tính và cởi mở. Đặng Hoàng Hà, em ruột Đặng
Hải Sơn, giao-du với Phạm Kim Sơn là một cặp.
44 người Bình Chánh hiền-lành. Chỉ có 2 làm phản-động thật sự,
còn bị tình-nghi. Đảng CSVN thực thi châm-ngôn:”Giết oan hơn tha lầm”. Và họ đã
nâng tỷ-lệ tù chính-trị lên mức kỷ-lục.
Chúng tôi làm quen nhau, trao đổi chuyện gia-đình….
Hôm sau, chúng tôi vào lao-động. Tập họp ở sân trại với các đội
cũ, tôi mở to mắt nhìn khẩu-hiệu Lao-động là vinh-quang treo cao trên cổng trại.
Đằng sau cái bảng gỗ, phía bên ngoài, bạn đã biết rồi, danh-ngôn Hồ chủ-tịch
Không có gì quý hơn độc-lập, tự-do. Khi bước vào Sa Ác, bạn được nhắc-nhở lời
Bác “Không có gì quý hơn độc-lập, tự-do”. Định-nghĩa của danh-ngôn Hồ chủ-tịch
là căn nhà, cái cầu-tiêu, hai ngọn đèn và những câu báo-cáo đi đái, đi ỉa. Và cửa
nhà tù khép lại, chặn then và khoá kỹ. Sự mỉa mai không dành cho chúng ta. Nếu
biết suy-luận, danh-ngôn Hồ chủ-tịch ngoài cổng nhà tù là ý-chí chiến đấu của
ta. Phải, không có gì quý hơn độc-lập, tự-do; không có gì quý hơn tự-do khi ta
vào tù, khi dân-tộc ta mất nó. Không biết suy-luận thì bạn sẽ cặm-cụi vẽ
chân-dung Hồ Chí Minh, sẽ “ăn cắp cháy, ăn vụng thịt” như ông nhà… văn-học nghệ-thuật
Tạ Tỵ. Lao-động là vinh-quang. Để xem, vinh-quang của chúng tôi nó ra sao.
Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao xuất trại đầu tiên. Tổng-thư-ký
nhật-báo Sống, cha đẻ của hai nhân-vật hí-hoạ Hách-xì-xăng và thằng Ngọng, biểu-diễn
báo-cáo.
- Chú ý. Đứng dậy. Nón mũ dở ra cầm tay phải lật ngửa.
Ca-cóng cầm tay trái. Hai hàng dọc nhìn đằng trước …thẳng. Thôi.
Đằng Giao xoay người, ngẩng mặt ngó về phía điếm gác:
- Báo-cáo cán-bộ, Đội 21 nông-nghiệp tổng-số 50, lao-động 50,
hiện diện đủ, chờ lệnh cán-bộ.
- Cho đi.
- Rõ.
Quân-sự-hoá mà. Ra khỏi cổng mới được đội nón mũ. Văn-hào
Nguyễn Mạnh Côn le te theo sau, bị gỡ luôn kính cận khi qua điếm gác. Tác-giả
Hoà-bình, nghĩ gì làm gì? đã được trả lời câu hỏi dầy ngót 500 trang sách.
Đến lượt đội của tôi xuất trại. Đội-trưởng đi sau cùng. Tôi
thấy trực-trại Hưng đếm tù và kiểm-soát ca-cóng tù mang theo. Trực-trại có…trực-giác
công-an. Hắn mà bắt đội nào dừng lại, y rằng phát-giác được tù-nhân bỏ gạo vào
cóng hay nhét áo không đóng dấu trong xô. Tù-nhân này sẽ bị hạch hỏi gạo và áo
không đóng đấu âm-mưu gì? Thường là âm-mưu trốn trại. Trốn trại có nhiều cách.
Hoặc đêm khuya khoét tường vượt ngục. Hoặc đợi một đêm mưa tầm-tã dỡ mái tôn
đào-tẩu. Hoặc ra đi ngay ở bãi lao-động. Cách đi này, muốn chắc ăn, phải chuẩn-bị
kỹ-lưỡng. Nghĩa là tìm chỗ dấu quần áo, thực-phẩm ngoài bãi. Mỗi ngày đem theo
một chút. Trại nào cũng đóng dấu lên hết quần áo của tù-nhân, bất kể quần áo
lao-động hay quần áo… để diện khi về, quần áo trại phát hay quần áo gia-đình gửi.
Dấu của Sa Ác mang bí-số hòm thư TH6, chiều ngang 8 phân, chiều dài 20 phân. Dấu
đóng ở lưng áo hai cái, ngực áo hai cái; ở quần bốn cái, bằng thứ mực xà-phòng
giặt không phai. Tù-nhân nào bỏ sót quần áo không chịu đóng đấu, trực trại khám
hành-lý, sẽ bị làm kiểm-điểm và bị “đánh dấu” có âm-mưu trốn trại. Muốn vượt ngục
thành-công, cần có bộ quần áo không bị đóng dấu và thực-phẩm đề-phòng lạc trong
rừng vài hôm. TH6 B chưa hề có tù-nhân nào trốn trại.
Quản-giáp Để đợi chúng tôi ngoài cổng trại. Ông thầy dẫn
chúng tôi tới hiện-trường lao-động. Hai vệ-binh canh gác chúng tôi. Ở trại
lao-cải, thằng công-an nào cũng có thể “giáo-dục” tù-nhân. Vậy chúng nó là thầy
hết trọi. Hiện-trường lao-động của chúng tôi sát khít cơ-quan và cách bờ sông
Ray 30 thước. Đó là khoảng đất có nhiều cây cháy vì bom lửa và năm bẩy hố bom lớn,
sâu trũng. Cỏ gai và cỏ nhỏ chằng-chịt. Chúng tôi sẽ trồng rau ở đây. Thầy Để
gom 50 tờ khai lý-lịch, thầy gọi riêng từng tù-nhân “làm việc” rất khẩn-trương
rồi thầy chọn 10 người đi lấy dao, cuốc, xẻng, búa chim, xe. Xe là miếng tôn rỉ
sét, hai mép dọc bọc lấy hai khúc cây dài, đóng đinh cho khỏi tuột, dùng để
khiêng đất. Còn là tre đan khổ miếng tôn, luồn qua hai khúc cây. Và cộng-sản gọi
rằng “cái xe”! Chúng tôi phải phát quang và làm phẳng phiu khu đất này rồi mới
vỡ đất, lên luống trồng rrau.
Tôi quên chưa kể chi-tiết này: Ra tới hiện-trường lao-động, đội
phải tập-họp “hai hàng dọc, nhìn đằng trước thẳng, nghiêm” để Đội-trưởng
báo-cáo với vệ-binh.
- Báo-cáo cán-bộ, Đội 17 rau xanh tập-họp đủ 50, chờ lệnh
cán-bộ.
Vệ-binh sẽ phán:
- Cho phép lao-động.
Bấy giờ tù-nhân mới cất ca-cóng, cởi quần áo, mình trần xà-lỏn
“đóng góp cho sự phồn-vinh của tổ-quốc”. Sau mỗi buổi tan lao, Đội-trưởng tập-họp
đội, báo-cáo vệ-binh. Vệ-binh cho phép đi tắm. Tắm xong, Đội-trưởng tập-họp đội,
đếm đủ người, báo-cáo vệ-binh. Vệ-binh cho về trại. Vệ-binh đứng canh cho đến
khi đội nhập trại. Đội-trưởng miễn lao-động chân tay nhưng lao-động… mắt. Cứ
khoảng 20 phút lại đếm tù và đứng cách vệ-binh 3 thước báo-cáo quân-số đang
lao-động. Tù-nhân trốn trại, Đội-trưởng lãnh búa tạ. Đi cải-tạo, bị chỉ-định
làm Đội-trưởng là ôm tai-hoạ chưa hiểu ngày nào nó giáng xuống số-phận mình. Vệ-binh
không thể đứng 8 tiếng đồng-hồ, lại không thích ngồi dưới gốc cây, trên gò mối
nên mỗi đội đều có hai cái ghế đẩu thấp dành cho vệ-binh. Nhiệm-vụ của Đội-trưởng
là bưng ghế cho vệ-binh ngồi và cất ghế lúc tan lao.
Khi bưng ghế cho vệ-binh ngồi, tôi lại nhớ người bạn đạo-diễn
Hoàng Vĩnh Lộc. Tôi quên mất năm nào của thập-niên 70, hãng phim Giao Chỉ tiếp-tân
ở Majestic giới-thiệu truyện phim Người tình không chân-dung mà hãng sắp thực-hiện.
Buổi tiếp-tân có Tổng-trưởng Ngô Khắc Tỉnh. Ông ta được mời phát-biểu về truyện
phim mà ông có vinh-hạnh đọc trước. Vì cái bục cao mà Ngô Khắc Tỉnh lùn nên ông
khó lòng đọc bài phát-biểu viết sẵn đặt mặt bục. Hoàng Vĩnh Lộc nhanh chân kiếm
cái két nước ngọt đem tới cho Ngô Khắc Tỉnh bước lên. Tôi vỗ vai Hoàng:
- Phim của mày có quanh cảnh …bưng két này không?
Hoàng chửi tôi:
- Đ.m…, mày chơi ông đau quá!
Rốt cuộc thì tôi cũng lại bưng ghế. Kẻ dám lên Đài truyền-hình
Huế năm 1972 cùng Phạm Duy, Tô Thùy Yên nhắn giùm lời hạ-sĩ Sứt, thủy-quân lục-chiến
điều-khiển hoả-tiễn Tow, thách-thức Võ Nguyên Giáp hãy cho tăng Liên-xô vào, ai
ngờ có ngày lãnh cái tát của cai ngục Phách và bưng ghế cho vệ-binh chăn trâu cắt
cỏ. Có lẽ, người ta đánh giá tôi khiếp-nhược và đầu hàng cộng-sản qua cái
bi-hài-cảnh này. Tôi chưa biết, nếu Tố Hữu bắt tôi bưng ghế, thái-độ của tôi sẽ
ra sao. Chữ nếu không bao giờ có. Người cộng-sản kiêu-ngạo lắm. Họ đã chỉ để bọn
chăn trâu cắt cỏ, bọn nhãi ranh trên dưới 20 tuổi giáo-dục chúng ta. Tôi sẽ chẳng
có phản-ứng gì với đối-tượng chăn trâu cắt cỏ. Đối-tượng chiến-đấu của tôi là
chủ-nghĩa cộng-sản và lãnh-tụ cấp ủy-viên Bộ Chính-trị trung-ương Đảng. Rõ rệt
nhất, tôi không thèm rên-rỉ, bất-bình những hình-phạt của thù-hận giáng xuống
thân-phận tôi. Tôi chưa quên lời khuyên tâm-cảm của người chấp-pháp miền Nam ở
Sở Công An: “Có nhiều vị anh-hùng không chết ở chiến-trường mà bị chết nhục ở
cái lỗ chân trâu. Anh chớ dại chết vì cái lỗ chân trâu.” Tôi chưa quên lời
khuyên tâm-cảm của người cai ngục khác thường tên Vũ, Trưởng-khu A4 Chí Hoà:
“Các anh không ở đây lâu. Tôi cũng không ở đây lâu. Tôi không thích công-tác quản-giáo
tù-nhân. Tôi ít tuổi hơn các anh, xin các anh một điều: Đừng chống đối cán-bộ
quản-giáo, bất cứ nơi nào. Họ không có quyền bắt các anh, không có quyền tha
các anh, nhưng có quyền hành-hạ các anh, đầy-đọa các anh vào chỗ chết thảm”.
Sự nổi tiếng của tôi là một bất-lợi lớn, một bẽ-bàng cho tôi
khi tôi vào tù. Tôi đã tạo ra những nhân-vật thần-tượng, những mẫu người hùng
lý-tưởng trong tiểu-thuyết của tôi. Độc-giả say mê nhân-vật thần-tượng rồi
gán-ghép cho tôi ngôi vị thần-tượng của họ. Trước 1975, đã nhiều lần tôi khước-từ
ngôi vị thần-tượng phù-ảo mà độc-giả của tôi phong tặng cho tôi. Người nghệ-sĩ
sáng-tạo khác người nghệ-sĩ trình-diễn. Nhà văn không có thần-tượng và không
thích làm thần-tượng. Thần-tượng của nhà văn là nỗi cô-đơn. Bởi vì, cô-đơn soi
sáng sáng-tạo cho nhà văn. Ở bài Một chút tâm sự của người làm thơ trong tù,
tôi viết: “Tôi làm thơ để quên mệt mỏi, để chống ngủ sầu. Nhưng đúng nhất, tôi
làm thơ để tồn-tại. Sự tồn-tại khác với sự sống. Một số ít, trong chúng ta,
quan-niệm sự sống và sự tồn-tại giống hết. Do đó, nẩy sinh ra nhiều mâu-thuẩn,
ngộ-nhận chua xót. Tôi cho rằng con người tồn-tại. Và tôi không thù-hận con người.
Thời-đại tôi, nhất là trong cảnh-ngộ tôi, tín-đồ bắt buộc thần-tượng của họ phải
thực-hiện ý muốn của họ. Họ độc-tài, quá-khích, muốn thần-tượng của họ thù-hận
những kẻ đầy đọa họ như họ thù-hận. Thần-tượng trái ý. Họ đạp đổ thần-tượng,
bài-bác và bôi bẩn. Họ thù thần-tượng cũ hơn cả kẻ thù của họ nữa”.
Người ta trông đợi ở tôi một sự chống đối quyết-liệt bọn
công-an coi tù, tôi lại … cam đành vác ghế! Tôi không thể chống đối bọn cộng-sản
giẻ rách này. Thứ nhất, họ không phải đối-tượng của tôi. Thứ hai, tôi không
thích chết dại ở lỗ chân trâu. Thứ ba, tôi thương họ hơn là thù-hận họ.
Chưa bao giờ tôi thấy triết-lý Nguyễn Du tuyệt-diệu trong
câu:”Chữ Tài liền với chữ Tai một vần”. Tôi muốn nhắc lại câu nói bất-hủ trước
khi bay đầu của người đồng-bóng Tang Môn:”Tài-năng là cứu-cánh, đồng thời, cũng
là tai-hoạ của con người.” Cứ lèng-mèng lại khá. “Ngu-si hưởng thái-bình” là vậy.
Tài-năng của tôi còn dẫn tôi đến tai-họa khác. Và tôi nằm bẹp dí giữa sức ép của
phỉ và ngụy. Một số thư-lại Long Thành, khuyển mã của Nguyễn Văn Thiệu, một số
sĩ-quan văn-phòng, khuyển mã của Cao Văn Viên vấn nạn tôi và quy tội “làm mất
nước” cho tôi. Vì tôi đã đối-lập Nguyễn Văn Thiệu bằng cách đi … ăn mày! Đối-lập,
với nhà văn là phản-kháng, là nghĩa-vụ của người cầm bút, trừ những anh ký-giả
nhà nước, những ông nhà văn giám-đốc, chánh sở…. Ở Nhà tù, tôi đã viết rõ sự cần-thiết
phản-kháng để làm thăng-hoa đời sống. Tôi xin ghi lại những câu thơ Trần Dần mà
tôi coi như kim-chỉ-nam của tất cả những người cầm bút:
Chẳng thể rúc kèn cũ rích
vác loa mồm kêu:
“Hiện tại rất thiên-đường!”
Không
Thiên-đường chúng ta
là nối đuôi nhau
vô tận triệu thiên-đường
Đi mãi
chẳng bao giờ thoả.
Đối-lập một chế-độ không bao giờ là đối-lập tổ-quốc. Chống đối,
loại bỏ một chế-độ khốn-kiếp lại là yêu-cầu cần-thiết của dân-tộc. Còn đi ăn
mày vào cái ngày báo-chí Sàigòn xuống đường đi ăn mày thì tôi đã, chẳng những
không đi mà còn chống đối. Người cầm bút chiến-đấu bằng tư-tưởng, chống đối bằng
tư-tưởng. Người cầm bút phẫn-nộ bằng chữ-nghĩa, không phẫn-nộ bằng bị gậy đi ăn
mày, diễn trò hề rẻ tiền dưới mắt báo-chí thế-giới. Những kẻ không biết viết và
viết chẳng ra gì mới đối-lập kiểu ăn mày bệ-rạc.
Ăn mày là ai?
Ăn mày là ta,
Đói cơm rách áo hoá ra ăn mày.
Cũng thế, đói tư-tưởng, rách chữ-nghĩa thì hoá ra nhà văn,
ký-giả ăn mày. Hình-tưởng tác-giả Cậu chó đi ăn mày phản-kháng đi! Tôi e rằng
không có tác-dụng gì cả. Tuy nhiên, ký-giả ăn mày vẫn còn một điểm để đề-cao
cái nền dân-chủ què-quặt của Nguyễn Văn Thiệu. Dẫu sao, người ta vẫn được quyền
biểu-diễn trò chơi dân-chủ rất hạ-cấp ấy. Và tôi là nạn-nhân khi nằm tù. Người
ta mỉa mai tôi “Bây giờ dám đối-lập, dám đi ăn mày không?”! Tôi im lặng. Cái bọn
vấn nạn và kết tội tôi không có kiến-thức. Họ thua cộng-sản xa. Người cộng-sản
mới hiểu nổi nhà văn chống đối họ.“Bọn nhà văn là bọn biết dấu-diếm những điều
cần dấu-diếm kỹ trong đầu óc của chúng” 4. Cựu-ước-kinh viết: “Có một thời im lặng
và một thời lên tiếng”. Thời lên tiếng không phải là thời nằm ở nhà tù, trại tập-trung.
Lên tiếng chống đối ở nhà tù là dại, lên tiếng chống đối lũ cai tù chăn trâu cắt
cỏ là ngu. Lên tiếng tranh-chấp với bạn tù hẹp-hòi, thiển-cận là xuẩn. Vậy “xếp
tàn lại để dành hơi” cho một lên tiếng trong tương-lai.
Và bình-thản bưng ghế. Vì “trại-viên cải-tạo phải triệt-để
tuân-hành mệnh-lệnh, chỉ-thị của cán-bộ”, Nội-quy ghi rõ. “Hùm thiêng khi đã
sa-cơ cũng hèn”. Bưng ghế không nhục bằng “Để chúng dắt đi tựa trâu bò” như Hồ
Chí Minh tự thú và không bỉ-ổi bằng “ăn cắp, ăn vụng”. Thoạt đầu, tôi rất khó
chịu sự vinh-quang của “lao-động” bê ghế. Chúa ơi, Ngài dạy rằng:
“Đừng chống cự kẻ ác. Trái lại, hễ ai vả má hữu ngươi, hãy
đưa má kia cho họ luôn. Hoặc ai muốn kiện ngươi để lấy áo trong, hãy để họ lấy
luôn áo ngoài nữa. Hay là hễ ai muốn bắt ngươi đi một dặm, hãy đi hai với họ.
Ai xin, ngươi hãy cho, ai muốn mượn của ngươi thì đừng làm ngơ. Các ngươi đã
nghe phán rằng: “Hãy yêu người lân cận và ghét kẻ thù nghịch”. Nhưng ta nói
cùng các ngươi, hãy yêu kẻ thù nghịch các người và cầu nguyện cho kẻ bắt-bớ các
ngươi hầu cho các ngôi được làm con của Cha các ngươi ở trên trời. Bởi vì Ngài
khiến mặt trời soi trên kẻ ác cùng người thiện, mưa cho người công-chính cùng kẻ
bất-nghĩa. Nếu các ngươi yêu kẻ yêu mình thì có được phần thưởng gì đâu? Kẻ
thâu thuế há chẳng làm như vậy sao? Lại nếu các ngươi chỉ chào anh em mình mà
thô, thì có lạ gì hơn ai?” 5
Con đã tuân lời Ngài, không “chống-cự kẻ ác”, con đã bê ghế
cho “kẻ thù nghịch”, con chưa thấy mặt trời soi trên kẻ thiện, mưa xuống người
công-chính. Mà chỉ nghe những lời nguyền-rủa nghiệt-ngã, mà chỉ chịu đựng những
vu oan giáng họa tối tăm mặt mũi. Nhưng, Chúa ơi, hơi may cho con là những kẻ
nguyền-rủa con không phải là “kẻ yêu mình”. Họ là khuyển mã của Nguyễn Văn Thiệu,
Cao văn Viên, là đám quốc-gia bần tiện, nhơ bẩn, con có nên yêu họ, có nên đưa
má hữu cho họ tát thêm sau khi họ đã tát má tả?
Quốc-gia bẩn kết tội tôi làm mất chế-độ khốn-kiếp của chúng
nó, thù-hận tôi, chụp lên đầu tôi chục kiều mũ đê-tiện.
Cộng-sản ác kết tội tôi kéo dài chiến-tranh, đầy-tớ Mỹ ngụy,
biệt-kích văn-nghệ, giam nhốt tôi, đầy-đọa tôi.
Tôi kẹt giữa hai sức ép ròng-rã tháng ngày lao-cải. Cai tù
nhìn tôi như một tội-đồ nguy-hiểm. Tù-nhân bị cộng-sản tước-đoạt đặc quyền đặc-lợi
chế-độ cũ nhìn tôi như một kẻ phá hoại. Tù-nhân độc-giả của tôi nhìn tôi như một
tên khiếp-nhược. Họ trông đợi hành-động ngoạn-mục của tôi trong tù như hành-động
ngoạn-mục của nhân-vật thần-tượng của tôi trong tiểu-thuyết. Cuộc đời có bao giờ
là tiểu-thuyết? Tiểu thuyết đã được hiểu như cuộc đời! Họ chờ đợi tôi phẫn-nộ.
Tại sao họ không chờ đợi văn-hào Nguyễn Mạnh Côn cùng trại với tôi, lỗi-lạc hơn
tôi? Họ bảo ông Côn già rồi, lờ-mờ rồi, hết sáng-suốt vì đói thuốc phiện rồi. Họ
muốn tôi làm vật tế thần, làm kẻ hy-sinh. Để họ hoan-hô và nếu tôi chết, họ tưởng-niệm.
Còn họ, họ thụ-động.
Không, tôi không khoái làm liệt-sĩ hay dũng-sĩ. Tôi không
thích chết sảng: không thích vào cachot vì bị xúi giục. Tôi hết là “thần-tượng”
của những người cổ ý gán ghép tôi tước-vị thần tượng. Và bất hạnh xẩy đến cho
tôi. Dài dài. Cái đám nhân-loại ích-kỷ trong nhà tù cộng-sản chỉ muốn tôi chết-.
Mà tôi, tôi cần sống để viết và để tồn-tại. Vậy thì tôi bưng ghế như mọi
tù-nhân bị cưỡng-bức sai vặt những công việc ngoài ý muốn.”Ở đời trăm sự đều
cay đắng Cay đắng đâu bằng mất tự-do, Mỗi lời mỗi việc không tự chủ. Để chúng dắt
đi tựa trâu bò” 6. Hồ Chí Minh chấp nhận bị “dắt đi tựa trâu bò” để trở thành
chủ-tịch Hồ Chí Minh “vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp” cộng-sản. Những thằng cộng
sản cắc ké khác đã “bất khuất”, đã chết ngu. Để chỉ là liệt-sĩ chẳng có cái gì
đề lại và chẳng ăn cái giải gì. Tôi yêu câu thơ của Nguyễn Bá Trác: “Chí ta ta
biết, lòng ta ta hay”. Cái chí của tôi, rồi người ta sẽ biết, là những gì tôi để
lại sau khi tôi nhắm mắt.
Tâm sự của tôi, ở tù và ra tù, tôi gửi trong bài Gọi Tự Trường.
Tử Trường, Tử Trường, ơi Tử Trường
Xưa hay là sau đều thê-lương
Xưa chịu nhục-hình cho sử-ký
Sau làm sáng tỏ nghĩa yêu thương
Đã thiết-tha nhiều chuyện Lý Lăng
Tiếng than sĩ-khí buốt cung đàn
Ai dám vì ông mà chuộc tội
Cõi đời ngu-muội phán lăng-nhăng
Ông đau vết hoạn lưỡi dao hèn
Từ đó cung giương một mũi tên
Theo hồn tài-tử, tên bay vút
Ngạo-nghễ hành hình Tư Mã Thiên
Cái bọn chê ông chết hết rồi
Nhưng ông sống mãi như mây trôi
Hai nghìn năm ngỡ chừng gang tấc
Mảnh đất oan này lại có tôi
(Thơ Tù – Nam Á Paris, 1984)
Tôi đã đọc một điều tuyệt diệu trong Luận Báo Vương Tam Muội
“Oan ức không cần biện bạch vì biện bạch thì hèn nhát mà trả thù thì oán đối
tăng thêm”. Thế mà tôi đã phải biện-bạch. Bởi vì cả phỉ lẫn ngụy vây hãm tôi,
cùng chơi tôi một đòn quyết-liệt: Bôi bẩn, nhục mạ tôi để vô-hiệu-hóa uy-tín và
khả-năng chiến-đấu chống cộng-sản bằng tư-tưởng của tôi.
Tôi đã biết một phái-đoàn Amnesty International từ Luân Đôn
sang Việt Nam, xin vào được Chí Hòa thăm Cao Dao và tôi, năm 1978. Tôi bị khước
từ gặp AI 7. Trực-giác của tôi cho tôi biết tôi sẽ được cứu. Vì phải thả Cao
Dao và tôi ra để “thể-hiện tình-nghĩa anh em quốc-tế” đánh đổi sự tự-do cho vài
nhà văn, nhà báo cộng-sản Nam Dương bị chế-độ Suharto giam nhốt, cộng-sản mở
chiến-dịch hạ gục Cao Dao và tôi, trước khi họ tha cho làm phúc. Cao Dao bị gán
nhãn-hiệu thảm hơn, “ăng-ten trong trại cải-tạo”. Cộng sản nửa kín nửa hở phụt
tin rỉ tai cho tù-nhân. Họ chọn những đối-tượng ghét chúng tôi. Họ bịa đủ mọi
chuyện, tù-nhân thêu dệt thêm. Ông “nhà văn lão thành” Toan Ánh, ký Lã Vi,
không hề bị bắt. Biết gì mà phao tin bẩn? Hồ sơ của công-an đâu phải thông-cáo
dán tường mà ai cũng đọc, cũng biết. Đến như ông Tạ Tỵ đã học tập cải tạo, vẫn
vô lý như vầy: “Nếu cách-mạng tha tôi, tôi tình-nguyện báo-cáo hết những tên
làm văn-nghệ CIA ở Sàigòn”. Vẫn ông Tạ Tỵ: “Câu này do chính tên công-an nói lại
cho tù nghe, xong nó mỉa-mai: Chúng tôi đâu có cần anh Duyên Anh chỉ-điểm.
Chúng tôi đã “nắm vững”. Nghề của chúng tôi mà”! 8
Nói ông Tạ Tỵ vô-lý ác ý vì:
1. Các nhà văn quân-đội đi trình-diện từ tháng 6-1975. Tôi bị
bắt tháng 4-1976.
2. Các nhà văn, nhà báo bị bắt trong chiến-dịch 2-4-1976 1976
vào tù cả làng, có cần ai chỉ-điểm.
3. Không có nhà văn-nghệ nào là CIA cả. Ông Tạ Tỵ bịa ra và
đã làm giảm tư-cách của văn-ghệ Sàigòn. Chỉ có công-an đổ tội văn-nghệ Sàigòn làm
việc cho CIA.
4. Ông Tạ Tỵ ngoan-ngoãn nghe và tin tên công-an cộng-sản tiết-lộ
những điều nhằm bôi bẩn tôi. Ông ta ngu quá không biết lý-luận và cũng không tự
hỏi công-an bôi bẩn tôi nhằm mục-đích gì.
5. Công-an coi tù không có ngôn-ngữ “Nghề của chúng tôi mà”.
Coi tù là coi tù, nó mù tịt những gì tù-nhân khai với chấp-pháp.
Cái đắc chí của ông Tạ Tỵ là ông dẫn chứng “chính tên công an
nói lại cho tù nghe” những lời bêu nhục tôi là bằng-chứng cụ-thể rằng cộng-sản
đã mở chiến-dịch hạ gục uy-tín chống cộng tự nguyện của tôi trước khi tha tôi.
Nó đánh tôi trong tù, ngoài đời; trong nước ngoài nước. Nó muốn tư-tưởng chống
cộng của tôi tê-liệt, tôi về cũng như tôi chết. Bây giờ, chiến-dịch ấy trở
thành lố-bịch. Công-cụ của nó rách bươm. Bây giờ, những con chó điên đã hết sủa
bậy. Bây giờ là thời lên tiếng của người công-nghĩa. Bây giờ còn là thời của
phu đào mồ phản tỉnh khơi sâu nấm huyệt tập-thể chôn vùi những tên điêu-ngoa, bịa
đặt, gian dối, a-dua toa rập. Bây giờ, trên nước Mỹ tự-do, nước Mỹ không có nhà
tù cho những người đối-lập tư-tưởng, nước Mỹ không có nhà tù của những thằng quốc-gia
bẩn nhãn hiệu Nguyễn Văn Thiệu, Cao Văn Viên, nước Mỹ không có trại tập-trung của
cộng-sản, người ta định-nghĩa anh-hùng và khiếp-nhược ra sao về thái độ của vài
nhà văn Hamburger đối với lũ quyền-uy ảo-tưởng?
Chú thích:
1. Minh-suyễn được tha năm 1982. Năm 1985 Minh-suyễn chết.
Gia-đình chôn cất hòm đắt tiền, phu nhà đòn quốc-doanh đào mả, lấy hòm, vất xác
Minh-suyễn trên miệng huyệt. Minh-suyễn được chôn lần thứ hai (Theo tin của bạn
tù mới qua Paris)
2. Ở tù cũng như ở trại cải-tạo, y-tá không cần-thiết phải là
y-tá tốt-nghiệp ở một trường nào, chỉ cần đọc được tên vài thứ thuốc và cách trị
bệnh thông-thường. Thí-dụ: y-tá Đoàn Văn Toại, Lý Sen…
3. Thứ gạo Trung-quốc viện-trợ để lâu mục nát, vo là tan thành
bột.
4. Huỳnh Bá Thành. Vụ án hồ Con Rùa, nhà xuất-bản Tuổi Trẻ,
1982.
5. Tân-ước, theo Matthew, ấn bản của The Gideons
International, trang 11.
6. Hồ Chí Minh, Ngục trung nhật-ký.
7. Năm 1984, nhân-viên của AI trung-ương ở Londres viết thư
cho tôi có nhắc vụ không được gặp tôi ở Chí Hoà.
8. Tạ Tỵ, báo đã dẫn.
CHƯƠNG 4
Những ngày đầu “làm quen lao-động”, thầy quản-giáo Để cho đội
của tôi tự-do. Mệt thì nghỉ. Muốn nghỉ bao lâu tùy ý. Dẫu là nông-dân nhưng nhiều
tháng nằm tù không lao-động, tay chân sưng mọng, phồng nước đau xót. Rồi những
chỗ mọng nước vỡ ra, chai lại. Đó là lúc tù-nhân phải lao-động đúng thời-khóa-biểu
quy-định theo tiếng kẻng. Kẻng của Sa Ác B là vỏ trái bom. Đánh kẻng bằng khúc
sắt tròn nhỏ, âm-thanh của nó vang vọng chu-vi một cây-số. Có 11 hồi kẻng trong
ngày. Kẻng báo thức sáng. Kẻng tập họp đi lao-động. Kẻng giải-lao. Kẻng vào
lao. Kẻng tan lao. Kẻng báo thức trưa. Kẻng tập họp lao-động. Kẻng giải lao. Kẻng
tan lao. Kẻng tập họp điểm danh vào nhà. Kẻng báo ngủ. Chủ-nhật chỉ có ba hồi.
Giai-đoạn đầu tiên của chúng tôi là chuẩn-bị đất trồng rau.
Nghĩa là phát quang. Tất cả các đội đều phải phát quang giai-đoạn đầu. Đội của
tôi chia thành 5 tổ. Một tổ hạ những cây lớn cháy lưng chừng, bứng gốc lên rồi
khiên cây chất một chỗ. Những cây bị bom napalm làm cháy không lớn lắm, ở khu-vực
lao-động của chúng tôi, nên đào đất sâu quanh gốc, bứng cũng dễ dàng. Một tổ
san-bằng các gò mối cao lấy đất lấp hố bom. Một tổ khiêng đất lấp hố bom. Hai tổ
chặt cây nhỏ, cỏ tranh đầy gai xếp thành đống.
Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao được giao công-tác mở đường
xuyên khu AB để xe vận-tải có thể lưu-thông. Hai bên đường cũ có vài trái bom
chưa nổ. Muốn đắp đường rộng, phải đào bom khiêng đi. Những trái bom cắm sâu xuống
đất. Đội của Đằng Giao có hai quái-nhân và một lý-thuyết-gia “cái gì cũng có thể
làm được”. Quái-nhân thứ nhất. Trung sĩ Phạm Thái Ất – khi chưa khai lý-lịch
riêng nộp quản-giáo xưng là Đại-úy không-quân trốn trình-diện cải-tạo. từng bay
trên phản-lực điều-khiển B52 trút bom, với tù hình-sự khoe là trung-ương
tình-báo cộng-tác với CIA – lính địa-phương Long Khánh, người luôn luôn tỏ vẻ
hơn mọi người khác. Quái nhân thứ hai, Tạ Dung, võ-nghệ đầy mình, khỏe như voi,
nửa điên nửa khùng, từng cầm ngang cây cuốc đứng giữa bãi nắng, nhìn mặt trời
mà cười hết nửa buổi khi bị kỷ-luật. Thầy quản giáo Bản điếc không sợ bom nổ,
thích chơi bạo, muốn đào bom khiêng đi. Thầy nghĩ các anh Cù Chính Lan, La văn
Cầu, Bế văn Đàn dám chơi bạo, thầy sẽ dám… bắt tù-nhân chơi bạo. Thầy hỏi ý-kiến
lý-thuyết-gia Nguyễn Mạnh Côn. Anh Côn bảo bom đã rơỉ mà không nổ thì không bao
giờ nổ!
Đằng Giao kể xong, lắc đầu:
- Tôi sợ bố Côn quá. Bố ấy cứ làm như... khoa-học giả-tưởng.
Tôi hỏi:
- Đào bom không?
- Đào. Đóng phim xì-cu-mun phước-thiện. Sợ xón đái ra quần. Vừa
móc đất bằng tay vừa run, vừa buộc giây vừa rét, vừa khiêng vừa niệm Phật.
- Mấy quả?
- Mới hai.!
- Còn mấy?
- Ba.
- Để đâu?
- Giữa bãi vắng. Chất củi, cỏ chung quanh, châm dầu, đứng xa
liệng bùi nhùi lửa vào rồi chạy.
- Nổ không?
- Củi cháy hết mà nó đếch nổ.
- Bố Côn đã đúng. Còn cu Ất?
- Nó bảo bom cắm xuống đất lâu ngày nó…chết rồi! Thằng Tạ
Dung hung-hăng khiêng.
Chúng tôi đã đào bom chưa nổ, khiêng bom và lấp những hố bom
đã nổ. Tôi có dịp suy-nghĩ về những trái bom chưa nổ và những hố bom. Dân-tộc bất-hạnh
của chúng ta là nạn-nhân của Mỹ và Liên-xô, tư bản đô-la và vô-sản rúp. Mỹ đem
bom tàn-phá quê-hương ta, chúng nó đã trút bom xuống mồ mả tổ-tiên chúng ta,
khai quật hài-cốt tổ-tiên chúng ta, mà chúng nó bảo chúng nó khai-phóng dân-chủ,
bảo-vệ tự-do cho chúng ta. Nhưng rồi chúng nó cuốn cờ chạy làng, sau một phản-phúc
đê-tiện nhất nhân-loại. Chúng nó chạy làng, dắt theo bọn thống-trị cầy cáo tay
sai. Chúng tôi ở lại. Cộng-sản bắt chúng tôi khiêng bom Mỹ chưa kịp nổ và lấp hố
bom đã nổ. Suy-nghĩ hóa thành bài thơ:
Nhân danh ai?
Những trái bom chưa nổ
Những trái bom chưa nổ
Nằm ngổn ngang đâu đó
Nằm ngổn ngang đâu đây
Ta tháo gỡ từng ngày
Những trái bom đã nổ
Vực sâu còn đâu đó
Vực sâu còn đâu đây
Ta lấp kín từng ngày
Nhân danh ai bom nổ
Người chết không nấm mộ
Nhân danh, nhân danh ai
Người sống tìm tương lai
Gỡ bom và lấp hố
Ta vác thánh giá này
Vác bom chưa kịp nổ
Ta chịu đau thương này
Đem thân ta lấp hố
Văn minh nào sẽ nở
Trong nhân loại một mai
(Thơ Tù – Nam-Á Paris, 1984)
Cái động của trại tập-trung khác hẳn cái tĩnh của nhà tù. Nó
gầm-gừ đe-dọa cắn xé da thịt. Nếu tôi được trải qua 10 trại lao-cải từ Sơn La
vào Thanh Hóa. Lao Bảo, Kàtum…, chắc chắn, tôi sẽ viết nổi một Goulag như một
báo-cáo tội-ác của cộng-sản với loài người. Tội ác ấy, một nửa dân tộc Mỹ phải
gánh chịu. Phần thứ hai của Trại Tập-trung, tôi sẽ viết theo lời kể của các
tù-nhân đã ở các trại khác nhau. Bạn sẽ biết trại An Túc ở Đà Năng, nơi tù-nhân
bị tù-nhân thủ-tiêu và các tù-nhân bác-sĩ phản tỉnh thay phiên nhau tự sát ra
sao.
Chúng tôi đã lao-động nửa tháng. Đằng Giao đã hết “tự-hào”
khi bưng ghế cho vệ-binh.
- Bọn nó hách-xì-xằng hơn cụ Hách xì-xằng và ngọng hơn thằng
Ngọng của tôi, ông thầy ạ?
Anh ta chán nản:
- Số khốn-nạn mới bị làm Đội-trưởng, toàn những thằng muốn
làm tù cha. Nói với mình thì chúng nó bất-chấp, đứng trước quản-giáo chúng nó
rúm lại. Phản-động cái gì!
- Có nhiều loại phản động.
- Tướng sư-đoàn đếch chỉ-huy nổi một đội tù cà-chớn.
Đằng Giao và tôi ăn cơm chung ở Sa Ác. Chúng tôi đã được viết
thư về báo tin cho gia đình biết trại mới. Ở đây, hai tháng thăm nuôi một lần
và gặp vợ con hai mươi phút.
- Tôi rầu bố Côn quá.
- Ông ấy lẩn-thẩn rồi. Thuốc phiện làm ông ấy sáng-suốt và
thuốc phiện hủy-diệt ông ấy toàn diện.
- Ông ấy ra bãi được ngồi chơi thì cứ ngồi chơi, lại ham ý-kiến
lao-động.
Viết về anh Nguyễn Mạnh Côn thật là khó. Vì anh ấy đã chết.
Ba chúng tôi Đặng Hải Sơn, Đằng Giao và tôi thoả-thuận với nhau, nếu còn sống
ra đời tự-do, sẽ quên anh Côn. Những nếu có kẻ nào phong thánh, phong thần cho
anh Côn và ông Hồ Hữu Tường, bổn-phận của chúng ta phải nói cho đúng. Chúng ta
không thề bắt con cháu chúng ta thờ-phụng những vị anh-hùng không bao giờ là
anh-hùng. Tôi vừa đọc đâu đó, bài của một vị tự nhận mình là chứng-nhân, bảo rằng
cộng-sản đã vất anh Côn vào biệt-giam, bỏ đói anh 3 ngày và anh chết ở đó. Điều
này hoàn toàn sai. Tù-nhân chứng-kiến diễn tiến từng ngày vụ Nguyễn Mạnh Côn ở
Sa Ác, ở Paris, ít nhất có Trần Thanh Liêm, phi-công trực-thăng; ở Mỹ, ít nhất
có Đức-méo, Phó quận và Ngô Đình Hoa, Phó quận. Văn-nghệ Sài gòn trước 1975 đã
xẩy ra một vụ thật bẩn. Là âm-mưu làm tiền nhà tỷ-phú Phạm Quang Khai. Công-ty
này gồm 4 nhà văn, nhà thơ lừng danh. Tỷ phú Phạm Quang Khai nhờ cảnh-sát gài bẫy.
Bắt trọn ổ. Một nhà văn sắp chết được miễn vào ấp. Một nhà thơ vốn là Giám-đốc
Đài phát-thanh, bắt thì xấu hổ chế độ. Vậy tha. Hai nhà vào ấp là Vũ Bằng và Mặc
Thu. Sau 30-4-1975, hai nhà này được giải-phóng. Nhà văn Mặc Thu bị bắt đi cải-tạo.
Nhà “tiền chiến” Vũ Bằng không bị bắt. Ta cứ lơ-mơ lờ-mờ ghép vào vụ Nguyễn văn
Thiệu bắt Sức Mấy, Chóe…cho nó chính-trị, đối-lập chế-độ cũ. Cái dấu-tích ô-nhục
tống tiền tỷ-phú Phạm Quang Khai không thấy nhắc-nhở trong những bài báo tưởng-mộ,
truy-điệu một nhà văn nham-hiểm đã đóng kịch ăn uống với anh em chê người này,
chửi người kia rồi giăng bẫy cho Mai Chí Thọ. Không nên đề những thằng bẩn, dù
là nhà văn, đóng vai quân-tử khi sống và khi chết.
Vậy cần xét lại và viết thật chính xác. Riêng anh Nguyễn Mạnh
Côn, tôi chỉ viết về những ngày sống chung với anh ta ở Chí Hòa và Sa Ác. Những
chuyện ứng-cử dân-biểu, nằng-nặc đòi tặng Nguyễn Văn Thiệu bản thảo hoà-bình
nghĩ gì, làm gì đóng bìa da gáy mạ vàng (bị báo-chí công-kích tơi-bời)… xin miễn
bàn. Mọi sai lầm của anh Côn đều do thiểu thuốc phiện. Một người đã viết Cộng-sản
là gì, đã tự cho mình là người hiểu biết cộng-sản hơn bất cứ ai, đã bị cộng-sản
bỏ tù một lần trước 1950 mà vẫn ngồi ảo-tưởng cộng-sản sẽ sử-dụng mình. Hai tuần
một lần, ở Chí Hòa, anh Côn xin giấy cai ngục viết thư cho Tổng bí-thư Lê Duẩn
(Ông Hoàng Mạnh Hùng, cựu tù-nhân Chí Hòa khu FB và AH, hiện cư ngụ tại Costa
Mesa, California biết rõ chuyện này). Việc anh Côn viết thư cho Lê Duẩn cũng
khôi-hài như “tổng thống” Bùi Ngọc Phương xin giấy viết thư gửi cho Đại-sứ Mỹ ở
Thái Lan nhờ ông Đại-sứ (quen ông Phương, ông ta nói thế) giàn-xếp với Đặng Tiểu
Bình về vấn đề Việt Nam! Tôi không biết thư của anh Côn có tới tay Lê Duẩn. Một
hôm, ở FG, anh được gọi ra “làm việc”. Về phòng anh khoe rằng anh “làm việc” với
ủy viên Hội Nghiên Cứu Mác-xít.
Đoàn Kế Tường yêu quý anh Côn lắm. Chính tôi đã chứng-kiến Tường
bợp tai anh cảnh sát Bâu ở 6C1 đề-lao Gia Định vì cảnh sát Bâu than phiền anh
Côn mượn mấy viên trụ-sinh, hứa trả tiền rồi chuyển phòng chê thuốc đắt không
chịu trả. Buổi tối hôm anh đi “làm việc” với Hội Nghiên Cứu Mác xít về, chúng
tôi tụ tập chỗ anh. Tôi tỏ ý buồn-bã, chán-nản. Anh Côn nói:
- Việc gì mà buồn.
- Em lo cho vợ con ở nhà.
- Việc gì mà lo. Vợ chết lấy vợ khác. Con chết sinh con khác.
Đoàn Kế Tường hỏi:
- Còn sự-nghiệp?
Anh Côn đáp:
- Làm sự-nghiệp khác. Viết tác phẩm mới.
- Ai thèm đọc mình?
- Độc giả mới đọc mình.
Đoàn Kế Tường đứng dậy:
- Thế thì vô-liêm-sỉ quá. Sống làm chi nhỉ?
Từ đó, Đoàn Kế Tường khinh miệt anh Côn. Tường không chơi cờ
tướng với anh Côn, không rửa chén cho anh Côn nữa. Anh Côn ăn xong là quăng thí
chén ở sàn nước. Tường phải rửa giùm anh. Anh làm phiền nhiều người trong
phòng. Họp cuối tuần, tuyên-bố bế-mạc rồi, anh còn cố yêu-cầu phát-biểu ý-kiến.
Cúp ngang, anh dở lý-sự làm rùm beng. Ý kiến của anh kéo dài cả hai chục phút.
Sang khu AH, anh Côn “tiến-bộ” hơn. Vào Sa Ác, anh lại dở chứng. Đi tiểu, anh
không báo-cáo. Bị vệ-binh “lên lớp”, anh cự nự “Tôi có trông thấy cán-bộ đâu mà
báo cáo?”. Vệ-binh la hét. Cả phòng thức hết. Nhiều lần như thế. Điểm danh anh
nằm trong nhà không ra nhưng lấy bo-bo điểm-tâm, anh xếp hàng trước tiên. Nếu
anh ra, anh ra chậm nhất. Trực trại đợi lâu, điểm danh Nhà khác, anh em ngồi chờ.
Và chia cơm nước xong chưa kịp ăn đã nghe kẻng tập họp lao-động. Anh em công
kích, anh nhe răng cười trừ. Xuống Y-tế khai bệnh nghỉ, anh khoác luôn cả mền
như Django.
Có một chuyện khiến chúng tôi không dám gần-gũi anh nữa.
Tù-nhân Liêu A. Sáng đứng sát hàng rào, bị trật-tự Hoa-nẫu thoi một trái. Ngay
tối, tù-nhân chính-trị đòi họp Phòng. Thư-ký phòng Đặng Hải Sơn xin giấy làm
biên-bản. Anh Côn vận-động cả tù hình-sự phản-đối trật-tự Hoa-nẫu xúc-phạm thể-xác
tù-nhân. Anh hăng say bảo chúng tôi tỏ thái-độ. Trong cuộc họp, anh Côn không hề
phát-biểu. Khi lấy biểu-quyết, một nửa phản-đối trật-tự Hoa, một nửa không ý-kiến.
Anh Côn dõng-dạc bắt Đặng Hải Sơn ghi vào biên-bản: “Tôi, trại viên Nguyễn Mạnh
Côn, tôi cực-lực phản-đối những người phản-đối trật-tự Hoa. Chúng tôi ngỡ-ngàng.
Đặng Hải Sơn nói:
- Thằng già này nham-hiềm quá. Nó xui mình phản-đối rồi nó phản-đối
những người phản-đối. Tôi không phục-dịch nó nữa.
Đặng Hải Sơn không ăn cơm chung với anh Côn. Sau đó vài hôm,
anh Côn được mạn-đàm với tên chính-ủy của trại. Tôi quên tên thằng già chính-ủy
này. Anh Côn “hồ-hởi phấn-khởi”gạ tôi:
- Tớ với cậu viết chung một cuốn sách nhé?
- Sách gì anh?
- Mình diễn-tả cái trại này như một trường học.
- Để làm gì?
- Khỏi đi lao-động.
- Anh viết một mình đi.
- Tớ muốn giúp cậu.
- Em còn lấn-cấn tư-tưởng chưa thật sự tiến-bộ, không dám viết.
Anh Côn không viết sách. Chính-ủy cho anh nằm nhà. Anh soạn-thảo
kế-hoạch xây dựng trại. Tác giả Kỳ Hoa Tử đòi có cái nghĩa-địa cho tù-nhân và
khi một tù-nhân chết cả trại nghỉ lao-động để đưa linh-hồn người quá-cố về quê
mẹ. Kết-quả kế-hoạch của anh là chính-ủy bắt anh đi lao-động.
- Bố Côn chống tôi ông thầy ạ! Đằng Giao than-vãn.
- Chống gì? Tôi hỏi.
- Bố ấy bảo tôi không tranh-đấu cho bố ấy nằm nhà, bảo tôi
không biết làm Đội trưởng.
- Ông đề-nghị quản-giáo cho bố ấy làm…cố-vấn Đội trưởng đi.
Ngày tháng qua nhanh. Đội của tôi đã lấp hết hố bom, bứng hết
cây cháy và phát quang được khu trồng rau khá rộng. Chúng tôi đã nổi lửa đốt hết
cây lớn, cây nhỏ, cỏ tranh xếp đống, chuẩn-bị vỡ đất lên luống.
Gần Tết, Đằng Giao và tôi có thăm nuôi. Hai chúng tôi theo
“cán-bộ giáo-dục”, ông thầy Mạo, ra tận khu A khiêng đồ. Khúc đường cây đổ ngổn-ngang
hôm chúng tôi vào khu B đã khai quang.
- Đội của tôi dẹp đấy. Đằng Giao nói.
- Với sức người sỏi đá cũng thành cơm. Tôi nói.
- Vài tháng nữa, xe vận-tải sẽ chạy trên đường này. Tôi đã thử
sức, thấy mình đủ sức chịu đựng lao-động.
- Ông làm gì?
- Bứng gốc cây, khiêng cây. Tôi tình-nguyện làm, bị quản-giáo
cấm hoài. Còn ông thầy?
- Tôi phá gò mối, gánh đất. Tôi gánh hết đau vai rồi. Mình đứng
chơi thấy kỳ, mà lao-động thì hay quên báo-cáo quân-số, vệ-binh dũa thê-thảm.
Nó chỉ-định mình giữ chức Đội trưởng là nó đưa mình vào chỗ thân bại danh liệt.
Chúng tôi gặp gia đình ở nhà thăm nuôi khu A. Vợ con tôi
không nhận ra tôi. Trong tù, tôi xanh mướt. Ra trại tập-trung, tôi đen thui. Và
gầy ốm. Hai mươi phút tôi nghĩ không tới, gặp vợ con, tôi chỉ nhìn thấy nước mắt
và nước mắt. Vợ tôi cho biết thẳng con trai lớn của tôi vẫn còn nằm trên đảo
Poulau Tengah, chưa được vào đất hứa Hoa kỳ. Những tin buồn-bã: Mất trộm, bị lừa
gạt vượt biên, đau ốm…khiến tôi hết “an tâm cải-tạo”. Họa vô đơn chí, đó là trường-hợp
gia-đình tôi. Bất- hạnh chập-chùng gối sóng lên vợ con tôi sau khi đã dìm tôi
dưới hồ thẳm. Tôi không muốn nghe, muốn biết, muốn nghĩ về tai-họa mà vợ con
tôi phải gánh chịu. Tất cả do tôi gây ra, tất cả do văn-chương, chữ-nghĩa của
tôi gây ra. Tất cả do tên Duyên Anh gây ra. Tôi đã khốn-đốn vì cộng-sản. Tôi
còn khốn đốn vì quốc-gia bẩn, quốc-gia ngu-xuẩn, quốc-gia a-dua, quốc-gia mê-muội.
Cộng-sản chà đạp lên sự-nghiệp tim óc của tôi, còng tay tôi, tống tôi vào các
nhà tù Sở công An, đề-lao Gia Định, khám lớn Chí Hòa, đẩy tôi ra các trại tập-trung.
Quốc-gia bẩn ăn cướp sự-nghiệp tim óc của tôi, toa rập với công-cụ của cộng-sản
vùi lấp danh-dự và uy- tín chiến-đấu của tôi.
Hết giờ gặp gỡ thân thân, chúng tôi gánh đồ tiếp-tế trở vào
khu B. Qua cây cầu gỗ, Đăng Giao la ơi ới:
- Ông thầy, ông thầy!
Tôi ngoái lại. Đằng Giao co rụt cổ. Đòn gánh trễ xuống quá
vai. Tổng thư-ký nhật-báo Sống không biết gánh. Chàng xử-dụng…lưng chớ không xử-dụng
vai. Chàng cân hai túi đồ chứ không phải gánh. Bây giờ tôi mới yêu cái dĩ-vãng
con nhà nghèo của tôi. Năm 1948, tôi đã biết gánh lúa, biết trở vai chạy một mạch
từ cánh đồng về sân nhà. Năm 1951, hồi-cư thị xã Thái Bình, tôi đã gánh nước
cho mẹ tôi mỗi ngày. Tôi “quán triệt” nghệ-thuật gánh. Năm 1956, lưu lạc ở Trảng
Lớn, Tây Ninh tôi đã gánh nước tưới rau mấy tháng. Vào trại tập-trung, tôi “ôn”
đôi vai, gánh đất lấp hố bom rất dẻo. Và tôi gánh đồ thăm nuôi ngót 50 ký lô.
- Nặng quá ông thầy ơi!
Đằng Giao buông đòn gánh, ngồi thở dốc. Ông thầy Mạo lắc đầu.
Tôi đặt gánh xuống đường, chạy tới gánh giùm Đằng Giao. Cứ một quãng đường tôi
gánh đồ của tôi, tôi lại đặt xuống, trở lui gánh đồ cho Đằng Giao. Thầy Mạo
không giúp học trò. Thầy chỉ kiên trì…đợi. Được nửa đường, chúng tôi tìm thấy
khúc cây dài. Chúng tôi luồn giây thắt miệng túi đồ qua cây, khiêng cho…lao-động
đồng đều và đi nhanh. Đằng Giao cao, đi sau. Bốn túi đồ dồn sát phía vai tôi. Vậy
mà cha đẻ Hách xì- xằng và thằng Ngọng vẫn co rụt cổ.
-Ông thầy học gánh ở đâu thế?
- Thuở nhỏ, con nhà nghèo.
- Ông thầy đâu có khỏe mà gánh cừ quá.
- Gánh giỏi là do biết gánh.
- Chiến-đấu cũng vậy.
- Đúng.
Sợ bị nâng cao quan-điểm, Đằng Giao tiếp:
- Chiến-đấu lao-động cải-tạo.
Tôi thêm:
- Phấn-đấu lao-động cải-tạo.
Cuối cùng, chúng tôi đã về trại. Đồ đạc trong túi bầy từng
món ra sân cỏ. Các vị thầy xúm quanh khá đông.Không có màn đổ thịt, đổ mắm vào
chậu khoắng, nguấy như ở đề-lao Gia Định. Trực trại nghi-ngờ món nào, cầm lên
và hỏi. Sau đây là hài-kịch ngắn khám đồ thăm nuôi của học trò lần đầu có thăm
nuôi và các ông thầy quản-giáo vệ-binh từ Bắc vô thẳng rừng già Sa Ác.
Ông thầy (cầm cuộn giấy Kiss me lên ngắm nghía): Giấy vấn thuốc
rê, hả?
Học trò: Thưa cán-bộ, giấy đi cầu ạ!
Ông thầy (liệng cuộn Kiss me xuống): Chùi đít?
Học trò: Dạ!
Ông thầy (nhìn gói lạp xường, bắt gỡ ra): Con gì nạ thế lày,
không đầu, không đuôi, đỏ hỏn!
Học trò: Thưa cán-bộ, con lạp-xường.
Ông thầy: Miền Nam các anh ăn dơ dáy quá! (Cầm gói bột mầu
nâu lên ngửi) Còn cái này?
Học-trò: Xô-cô-la bột
Ông thầy: Xô-cô-na nà đất Tây à?
Học trò: Dạ. đất Tây.
Ông thầy: Vớ vẩn, đất Tây mà cũng thăm nuôi?
Hài-kịch còn dài nhưng nên kéo màn ở đây. Các ông thầy gốc
gác bần-cố-nông. Vì hai mươi năm xã-hội chủ-nghĩa miền Bắc nghèo-nàn quá nên
con người hóa ngu dốt một cách tội-nghiệp. Thời đại các thầy lớn lên, cái “nôi
của dân tộc” chỉ còn ngô, sắn, khoai, gạo hẩm và mì sợi luộc. Thức ăn là rau muống
với nước chấm. Nước mắm đã tuyệt tích, đã bị “đấu tố”, đã bị “tiêu diệt” sạch sẽ.
Trên những bức tường phố vắng của Hà nội, “thủ-đô của phẩm-cách con người”,
dân-gian vẽ cái xe đạp không đèn, không chuông, không phanh, không gác-đờ-bu,
gác-đờ-sên”, chỉ có “poọc-ba-ga”. Trên “poọc-ba- ga” vẽ ba bó rau muống, dùng lời
hát cách-mạng ghi chú cho từng bó. Một bó “cho ngày nay”. Một bó “cho ngày
mai”. Một bó cho “muôn đời sau”. Rau muống được các nhà khoa-học dinh-dưỡng của
Đảng ca-ngợi trên báo Nhân Dân, cơ-quan trung-ương Đảng cộng-sản Việt Nam ”là
thức ăn bổ hơn bất cứ thức ăn bổ nào. Nó gồm đủ sinh tố từ A đến Z. Bác Hồ nhờ
ăn toàn rau muống mà mắt như sao, râu hơi dài“. Ông nhà văn Nguyễn Tuân cảm
khái viết một tùy-bút rau muống. Câu kết suýt bị kiểm điểm: rau muống ngon và bổ
thế mà bọn miền Nam ngu-xuẩn lại cứ đem xào với thịt bò. Nông dân vốn hiền-lành,
chất-phác. Bị Đảng giáo-dục cho ngu-si đần-độn, bị Đảng bỏ đói, ngàn năm chỉ mơ
ăn no mặc bền, không dám tơ tưởng ăn ngon mặc đẹp. Vậy bạn chế riễu sự ngọng-nghịu,
sự ngu dốt, sự nghèo khổ hay bạn chống đối bọn làm cho con người ngọng-nghịu,
ngu dốt, nghèo khổ? Bạn đòi tiêu diệt chế-độ cộng-sản, chủ-nghĩa cộng-sản,
lãnh-tụ cộng-sản hay những con người bộ-đội, công-an, công-cụ và nạn-nhân của
chế-độ cộng-sản? Tôi chống đối chủ-nghĩa cộng-sản, không chống đối con người
trong chủ-nghĩa cộng-sản. Tôi chống đối chế-độ và lãnh-tụ cộng-sản, không chống
đối con người bị chủ-nghĩa, lãnh-tụ và chế-độ cộng-sản làm mê sảng, ngu dốt, mất
dần nhân-tính. “Tôi thì chỉ ghét cay đắng chủ- nghĩa, các thứ chủ-nghĩa. Tôi
nghĩ, chính các chủ-nghĩa và tham-vọng mù lòa của nó đã đầy-đọa con người, đã làm
con người hèn-hạ, mất-mát lương-tri. Nhưng mà chủ-nghĩa đã tàn-sát chủ-nghĩa.
Chủ-nghĩa đã chết. Chủ-nghĩa sẽ chết. Con người tồn-tại vĩnh-cửu, bất kề con
người tư-bản hay con người cộng-sản. Lý-tưởng và bổn-phận của thi sĩ là phải thức
tỉnh những người đánh mất lương-tri làm người chứ không cổ võ chém giết họ, hủy-diệt
con người. Thơ là thông-điệp của cảm-thông, của hy-vọng, của tình-tự và của gần-gũi.
Thơ không bao giờ là tín-hiệu của bom dội, hỏa-tiễn bay, đạn nổ và mã-tấu vung
lên. Cuối cùng, thơ không phải là tiếng nói của thù-hận”.(Thơ Tù – Nam-Á Paris,
1984)
Như thế, không những tôi không thù-hận những người quản-giáo
vệ-binh mà còn thương-hại họ. Thương người là một cái tội. Thương người bị nhiều
người thù ghét càng là một trọng tội. Khi tôi thẩm-thấu câu ca-dao:
Ngày xưa roi điện thì còn
Ngày nay roi gạo hao mòn thịt xương
Tôi nhìn và nghĩ về những người coi tù, những người trực-tiếp
hành-hạ tôi khác hẳn tôi nhìn và nghĩ về chủ-nghĩa và lãnh-tụ cộng-sản và bọn tội
đồ của miền Nam cùng lũ văn-học nghệ-thuật gian dối, hèn mọn, bầy ngự-sử giẻ
rách với nhân-sinh-quan ruồi nhặng. Và tôi đã mủi lòng khi một vệ-binh hỏi tôi:
- Con không đầu không đuôi đỏ hỏn nướng sao thơm thế, cho tôi
ăn thử một miếng được không?
Ăn xong thì người Việt Nam khốn nạn tuổi bằng 2 phần 3 tuổi
nước Việt Nam dân-chủ cộng-hòa phát biểu:
- Ngon hết! Nào nướng cho tôi xin cả con nhé!
Câu phát biểu não nùng hơn Cu Lặc, trong O chuột của Tô Hoài
thuở thực-dân đô-hộ, về sự ăn miến: – Vừa mới luốt qua cổ họng ló đã trôi tuốt
xuống tận củ tỉ?
Chủ-nghĩa cộng-sản và lãnh-tụ vĩ-đại Hồ Chí Minh đã bất-lực
trong sự-nghiệp cách-mạng vô-sản. Là không đem nổi một khúc lạp-xường hạnh-phúc
cho dân Việt Nam, dẫu xương máu dân Việt Nam đã chất thành núi, chảy thành sông
ròng rã ba mươi năm cho chiến-thắng phù-ảo. Hẳn nhiên, lãnh-tụ Hồ Chí Minh, bọn
ủy-viên Bộ chính-trị, bọn ủy-viên trung-ương Đảng đã không tốn một sợi lông
chân và đã thụ-hưởng hơn cả vua chúa. Một cái lăng cho xác chết Hồ Chí Minh,
hai mươi triệu dân “hao mòn thịt xương”. Và “ba mươi năm dân chủ cộng hòa
kháng-chiến đã thành công”, lần đầu tiên, trong đời một con người được trồng
trên mảnh đất ưu-việt xã-hội chủ-nghĩa mới được ăn một miếng lạp xường nướng
than củi. Miếng lạp xường đó, mỉa mai thay, lại không phải là hạnh-phúc hứa hẹn
“đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào” mà là hạnh-phúc của tù-nhân bất-hạnh tặng cháu
ngoan của Bác Hồ.
Tôi bỗng thấy cái tư-tưởng chiến-đấu tạo hạnh-phúc cho con
người là tuyệt-diệu. Phải cần-thiết một chiến-thắng không còn thù-hận giữa con
người với con người. Phải cần-thiết một chiến-thắng không còn thù-hận giữa người
Việt Nam với người Việt Nam. Phải chấm dứt thời-đại mê sảng, thời-đại thù-hận,
thời-đại u tối trên quê-hương Việt Nam. Trong ý nghĩ ấy, tôi khó lòng ghét bỏ
những kẻ không có quyền bắt tôi, không có quyền tha tôi. Nếu họ có quyền đầy-đọa
tôi, có quyền dồn đẩy tôi vào chỗ chết, quyền ấy được ủy-nhiệm bởi lãnh-tụ khốn-kiếp
và giáo-điều mù điếc của chủ-nghĩa, thứ chủ-nghĩa mà họ chẳng hiểu là cái gì.
Sự khám xét đồ thăm nuôi của chúng tôi dễ-dàng, chóng vánh,
nhờ không có trật tự Hoa-nẫu và thông-tin văn-hóa Sánh-gian. Tù-nhân thích làm
khó dễ tù-nhân. Người Việt Nam có thói xấu truyền-thống: Hễ có tí quyền là y rằng
lạm quyền và bắng-nhắng. Ở trại cải-tạo và ở c3 trại tị-nạn cộng-sản.
Tôi không nhớ chính xác ngày tháng, hình như sau Tết, tù-nhân
được lệnh tập họp ở sân trại, có kê bàn và bình hoa – Đằng Giao gọi là bầy bàn
hương-án. Chính-ủy xuất hiện với đầy đủ lễ-nghi quân-cách. Ông thầy giáo-dục cả
trại, thầy Mạo, báo-cáo chính-ủy của ông ta về quân-số hiện-diện. Chúng tôi đứng
hết dậy. Đứng nghiêm. Vỗ tay. Chính-ủy bảo ngồi xuống. Ông ta hồ hởi phấn khởi
loan tin:”Ta đã giải-phóng Kampuchia. Bè lũ diệt chủng Pol Pot, Lang Sary cuốn
gọi chạy sang Vọng Các rồi”. Cái tin chiến-thắng không lấy gì làm hấp-dẫn đối với
chúng tôi. Sau tin mừng giải phóng Kampuchia là bài học tập về chính-sách
khoan-hồng của Đảng và Nhà Nước dành cho ngụy-quân, ngụy-quyền, phản-động lao-động
cải-tạo. Tất cả bọn cộng-sản lớn và nhỏ đều mắc cái bệnh nói dối, nói dài, nói
dai, nói dở, nói dốt. Học tập cải-tạo có cái gì đâu? Nội-quy hay Nếp sống văn
hóa mới có thể tóm gọn: “Cai tù bảo, tù-nhân nghe; cấm cãi, cấm tranh-luận. Cai
tù sai bảo, tù-nhân làm, cấm dùng -dằng, cấm khiếu-nại. An tâm cải-tạo, cấm nhớ
nhà, nhớ vợ, nhớ con. Thi đua lao-động sản xuất đóng góp vào sự phồn-vinh của tổ-
quốc. Cấm trốn trại. Ăn ở hợp vệ sinh. Gặp cai tù phải dở nón mũ chào kính. Cấm
xâm-phạm, phá-hoại tài-sản xã-hội chủ-nghĩa. Thức ngủ đúng giờ giấc. Cấm mua
bán, đổi chác. Cấm cãi nhau, đánh nhau”. Tôi tự-hào có trí nhớ rất tốt mà chỉ
nhớ một điều trong 20 điều Nếp sống văn hóa mới: “Cấm trạm trổ lên thân thể”!
Và 4 tiêu-chuẩn cải-tạo, tôi lơ-mơ nhớ: phải tố-cáo đồng-phạm còn lẩn trốn bên
ngoài. Phải tố-cáo những kẻ tuyên-truyền xuyên-tạc, âm-mưu trốn trại, chống
báng cách-mạng”...
Thế thì 5 bài thơ sau đây mang tựa đề HỌC TẬP CẢI-TẠO sẽ diễn
tả đầy đủ về cái gọi là học tập cải-tạo.
1- Trường học nhà tù
Anh biết anh đang ở đâu không?
Đề-lao trại tập-trung
Láo!
Chủ-nghĩa không có nhà tù
chủ-nghĩa chỉ có trường học
anh nhắc lại đi
nhắc lại nhiều lần
chủ-nghĩa không có nhà tù
chủ-nghĩa chỉ có trường học
Anh biết anh đang ở đâu không?
bài học đầu tiên anh đã nằm lòng,
Trường học!
Láo! Trí-thức
văn-sĩ thi-sĩ họa-sĩ nghệ-sĩ
chỗ của anh là ở nhà tù
không có trường học cho những tên phản-động
không có trường học cho những tên đòi quyền sống
những tên đòi dân-chủ tự-do
những tên đòi hạnh-phúc hoà-bình ấm no
Nhắc đi
nhắc hoài hoài
nhắc ngày nhắc đêm
nhắc bất cứ lúc nào anh mở mắt
nhắc bất cứ chỗ nào anh thi đua sản-xuất
khi đứng khi ngồi
khi mơ khi ước
đến khi anh thông suốt
chỉ còn chủ-nghĩa là sự thật
Anh biết anh đang ở đâu không?
Trại tập-trung địa-ngục!
Láo. chủ-nghĩa chỉ có trường học
chủ-nghĩa quý trọng con người
2-Con bò và chân lý bò
Con bò có mấy chân
Thưa bốn
Hãy nhìn rõ ràng nhìn chính xác
chủ-nghĩa luôn luôn sáng-suốt
chủ-nghĩa ưu việt không sai lầm
Thưa con bò đúng bốn chân
Láo! Anh mù
chỉ có ba chân
con bò chỉ có ba chân, nhắc lại
Con bò chỉ có ba chân
ba điểm tạo nên một mặt phẳng
ba chân con bò tạo nên một sự thật
như trái đất quay và trái đất không quay
Con bò có mấy chân
Ba!
Láo!. Ba làm sao nó đi nó đứng
nó ăn nó uống
nhìn đi nhìn cho đúng
Con bò có bốn chân
Láo! Năm!
Dạ, con bò có năm chân
chân-lý chân bò biến đổi rất nhanh
Con bò có mấy chân
Năm
Láo! Chỉ có hai
Sự thật hôm qua không có ở hôm nay
sự thật hôm nay không có ở ngày mai
nhắc lại
Con bò có mấy chân
Con bò có ba, năm, hai, một hay chẳng chân nào
tùy theo chủ-nghĩa dạy
Sự thật hôm qua không có ở hôm nay
sự thật hôm nay không có ở ngày mai
3- Nếp sống văn-hóa mới
Đế-quốc đã đưa anh trở về thời-kỳ đồ đá
anh sống thiếu văn-hóa
văn-minh và tư-tưởng làm người
anh chỉ biết chém giết tơi-bời
quên húi tóc cạo râu cắt móng tay nhọn hoắt
chủ-nghĩa ưu-việt dạy anh học tập
văn-minh cạo râu cắt móng tay
Báo-cáo chủ-nghĩa
rasoir, mince lame, đồ cắt móng chân
bị tịch thu hết
không thể thực-thi nếp sống văn-hóa mới
của chủ-nghĩa sáng chói
chủ-nghĩa vệ-sinh râu tóc bảnh-bao
móng tay nhẵn-nhụi phẳng-phiu
Gillette là tên phản-động
USA là tư-bản ác-ôn
tịch-thu thể-hiện nhân-đạo khoan-dung
anh có thể bị chúng xui tự sát
chúng sẽ gây thêm tội ác
hãy nhổ râu và gậm nhấm
móng tay hãy mài xuống nền xi măng
hãy học tập cải-tạo thuộc lòng:
đế-quốc đã đưa anh về thời- kỳ đồ đá
đế-quốc dã-man muốn anh ăn lông ở lỗ
hãy đấu-tranh râu nhổ móng tay mài
tích-cực hàng ngày
tại trường học xã-hội chủ-nghĩa
mà đế-quốc đã mai-mỉa
là đề-lao Gia Định là khám lớn Chí Hòa
4-Vinh-quang chủ-nghĩa
Anh phải nói dối không nhớ vợ thương con
phải nói dối sự-nghiệp anh là đồ bỏ
phải nói dối tổ-tiên đã quên không dạy-dỗ
nên anh lầm-lỡ yêu dân-chủ tự-do
chiến-đấu và tình-nguyện chết dưới cờ
lý-tưởng quốc-gia dân-tộc
Anh phải nói dối anh làm tay sai đế-quốc
chống giai-cấp vô-sản anh-hùng
phải nói dối anh đã lầm đường
không được hy-sinh cho lãnh-tụ
phải nói dối nhiều man-khai tất cả
phải nói yêu chủ-nghĩa quang-vinh
hơn cả gia-đình
phải cám ơn chủ-nghĩa đã bắt anh đi cải-tạo
Anh phải nói dối hoan-hô khi anh thèm đả-đảo
quanh năm tích-cực, bốn mùa khẩn-trương
vượt nắng, thắng mưa, lao động thật hăng
phải cười làm việc và vui nhịn đói
luôn luôn hồ-hởi
thi đua sản-xuất đoạt giải tù-nhân
phải sung sướng được xuống hầm phân
và gọi kẻ đánh đập nguyền-rủa anh là thầy giáo
Anh phải hăng say tố-cáo
bản thân anh thiếu thiện-chí nằm tù
phải dối gian từng phút từng giờ
nói dối càng hay càng nhanh tiến-bộ
nói dối ốm mòn không cần thuốc bổ
cưa chân cụt gẫy khắc-phục thuốc mê
nói dối án phạt tập-trung hạnh-phúc hơn lệnh thả về
phải nói dối anh chết dần phi-lý
cho ngày-mai chủ-nghĩa
rạng ngời
cho ngục-tù chủ-nghĩa dầy kinh-nghiệm đầy-đoạ con người
5-Lãnh-tụ và sự bất-diệt
Anh biết lãnh-tụ vĩ-đại ở đâu không?
Thưa, quý ngài ấy đã chết
có nhiều ngài nằm trong hòm kính
chê địa-ngục chê thiên-đàng
và lơ-lửng giữa không-gian
Đây là bài học
anh phải nhớ suốt đời
lãnh-tụ không bao giờ chết
lãnh-tụ bất-diệt
lãnh-tụ sống mãi trong sự-nghiệp loài người
lãnh-tụ đang nói đang cười
đang hô-hoán hoà-bình, đang hung-hăng chém giết
đang ăn uống và không cần bài-tiết
lãnh-tụ còn nguyên trên thế-giới ngậm-ngùi
Anh biết lãnh-tụ ở đâu không?
Thưa, quý ngài ấy chưa chết
quý ngài ấy bất-diệt
quý ngài ấy còn nguyên trên thế-giới ngậm-ngùi
quý ngài ấy siêu nhân ăn uống không cần bài tiết
Láo! lãnh-tụ đã chết
lãnh-tụ chẳng bao giờ bất-diệt.
Sự thật hôm qua không có ở hôm nay
sự thật hôm nay không có ở ngày mai
Chính-ủy nói dối, nói dài, nói dai, nói dốt cả hai tiếng đồng-hồ.
Chúng tôi ngồi phơi nắng, tê chân, mỏi đít. Nói đủ “đô” rồi, chính-ủy hỏi:
- Các anh có an-tâm cải-tạo không?
Cả làng đáp:
- An-tâm cải-tạo.
Chính-ủy đập bàn hương-án:
- Láo! Phải nhớ vợ, thương con chứ?! Nhớ vợ, thương con thì
an-tâm cái gì? Anh nào nói an-tâm cải-tạo là không thành-khẩn.
Bỏ mẹ! Nội-quy dạy, thầy quản-giáo, thầy trực trại, thầy
giáo-dục, thầy vệ-binh đều dạy tù-nhân phải an-tâm cải-tạo. Mà chính-ủy lại bảo
an-tâm là không thành-khẩn, là gian dối. Rõ rệt chân-lý con bò! Sau rốt, chính-ủy
chi một câu thuộc loại “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”:
- Về hay không là do nơi các anh có tiến-bộ hay không. Về sớm
hay về muộn cũng là do nơi các anh có tiến-bộ nhanh hay tiến-bộ chậm. Muốn tiến-bộ
phải lao-động tích-cực. Lao-động tích-cực là cải-tạo tư-tưởng đó.
CHƯƠNG 5
Chưa có gì mới lạ ở Sa Ác B. Ăn Tết xong là đã bước sang năm
1979. Đội xây cất đã hoàn-thành ba căn nhà. Và tù hình-sự đổ đến 200 mạng,
trong số đó có Nguyễn Đăng Viên, anh ruột nhà văn Mai Thảo. Trại nhộn-nhịp hẳn
lên. Thêm các đội phát quang, nông-nghiệp. Đội 17 rau xanh đã lên một số luống,
bắt đầu gieo hạt rau cải củ. Mầm chưa kịp nhú thì thầy Để chuyển công-tác giao
cho thầy Vinh, một ông nhóc 21 tuổi, ngọng líu lưỡi và quan-trọng hoá mọi việc.
Thầy Để ít soi-mói đội. Giao việc xong, thầy đi chơi hay đi ngủ. Thầy Vinh nhòm
ngó từng tù-nhân.
Trại nổi lên phong-trào chơi dao găm. Mỗi thầy một con dao.
Bèn có màn gà-men inốc Mỹ bị tịch-thu cái cán cầm. Cán này sẽ làm lưỡi dao găm.
Bắt buộc phải giữ lại ba chữ USA. Đội của tôi, anh Nại được thầy Vinh chiếu-cố
“sáng-chế” một con dao găm. Thầy Vinh “lạc-quyên” lon guigoz của tù-nhân nào có
hai lon. Để đúc cái chuôi dao. Con dao của thầy Vinh vừa xong thì Trung-quốc
xua quân xâm-lăng Việt Nam. Chiến-trận do Đài Hà-nội tường-thuật được
phát-thanh mỗi tối cho tù-nhân theo dõi. Tù-nhân Việt gốc Hoa bị gom chung
thành một đội riêng và bi canh-chừng nghiêm-mật. Chiến-tranh biên-giới Hoa – Việt
tạo ra hai phe nhóm chống đối suýt đập lộn giữa các tù-nhân chính-trị ham bầy tỏ
quan-điểm. Một phe hí-hửng câu tuyên-bố xấc-xược”Dạy Việt Nam một bài học” của
Đặng Tiểu Bình. Phe này hy-vọng chứa-chan câu nói xấc-xược thứ hai “Ăn điểm-tâm
ở Hà-nội, ăn trưa ở Huế và ăn tối ở Sàigòn”, vẫn của Đặng Tiểu Bình. Người ta
chờ Đặng Tiều Bình giải-phóng các trại tập-trung. Phe thứ hai không tin
Trung-quốc dám tiến sâu xuống lãnh-thổ Việt Nam. Phe này dứt-khoát lập-trường,
nếu Tầu xâm-lăng Việt Nam, họ sẽ đứng chung với Việt cộng đánh kẻ thù truyền-kiếp
của dân-tộc. Tôi đồng quan-điểm phe thứ hai. Nhưng cả hai phe đều nín thinh khi
chính-ủy của trại cảnh cáo:
- Bọn Trung-quốc cách các anh 500 thước, chúng tôi sẽ tiêu-diệt
các anh toàn bộ. Các anh đừng hòng có cơ-hội chào đón chúng nó.
Đặng Tiểu Bình chỉ nói phét. Quân Trung-quốc ôm đầu máu chạy
về. Nhiều tù-nhân thất-vọng. Càng thất-vọng hơn với khẩu-hiệu “Đem thù-hận vào
sản-xuất”. Chúng tôi phải lao-động thêm giờ, lao-động cả chủ-nhật. Ngày chủ-nhật
lao-động gọi là ngày xã-hội chủ-nghĩa. Trại phát-động thi đua…khổ-sai lao-động
giữa các đội. Tù-nhân làm hộc máu mồm. 9 tiếng đồng-hồ quần-quật một ngày đổi lấy
hai ca bo-bo và dúm muối cục. Ông chủ cộng-sản bóc lột công-nhân tàn-bạo gấp
triệu lần ông chủ tư-bản. Mỗi tù-nhân, tính đủ mọi khoản, một tháng nhà nước cộng-sản
tốn có 11 đồng 5 hào! Cứ coi ngày lao-động trong tháng là 8 tiếng, nghỉ 4 chủ-
nhật thì 11 đồng 5 hào chia cho 208 giờ không ai dám ghi con số thành. Đặng Tiểu
Bình đúng là thằng chọc phân chẳng nên lỗ, khiến tù-nhân bị…thi-đua lao-động!
Không còn gì thê-thảm bằng tù-nhân khổ-sai lao-động trong quỹ-đạo
cộng-sản. Đã là tù, bị cưỡng-bức làm việc còn bị thi-đua…ăn giải. Lại còn phải
họp-hành, bình-bầu cá-nhân xuất-sắc, bình-bầu mức ăn. Có ba tiêu-chuẩn ăn
18 ký-lô thực-phẩm một tháng cho một tù-nhân xuất-sắc
15 ký-lô cho một tù-nhân trung-bình.
13 ký-lô 50 cho một tù-nhân lao-động kém.
Một đội có 4 tù-nhân được ăn tiêu chuẩn 18 ký lô. Một tù-nhân
ăn 18 ký thì 2 tù-nhân bị ăn 13 ký 50. Tù-nhân xuất-sắc ăn bớt phần của tù-nhân
kém. Bình quân, mỗi tù nhân 15 ký. Sự ghét bỏ nhau, khích-bác nhau, thù ghét
nhau, tố-cáo nhau do ba tiêu-chuẩn ăn này. Xin giới -thiệu một cảnh bình-bầu mức
ăn ở đội của tôi.
- Tôi, Phạm Kim Sơn, tháng này tôi tự thấy tôi lao-động
tích-cực, an-tâm cải-tạo, không hề có tư-tưởng trốn trại. Vậy tôi xin ăn mức 15
ký.
- Tôi, Đặng Hoàng Hà, lao-động tốt, tư-tưởng tốt. Tháng này
tôi xin ăn mức 15 ký.
Vân vân…Cả đội lần-lượt phát-biểu câu tương-tự và cho xin ăn
mức trung bình. Tôi nghĩ các đội ở các trại từ miền Bắc vào miền Nam đều giống
đội tôi. Sổ bình-bầu mức ăn đưa cho quản-giáo. Ông thầy chê bình-bầu thiếu chất
lượng. Ông thầy bắt họp tại bãi. Kết-quả vẫn thế, vì không ai xin ăn 18 ký cả.
Thầy Vinh cáu tiết chỉ-định 4 tù-nhân hưởng tiêu-chuẩn 18 ký. Thầy chọn luôn 8
tù-nhân thầy ghét, cho ăn 13 ký 50. Từ đó, quản-giáo định mức ăn. Đội có ba
thau bo-bo. Thau 18 ký. Thau 15 ký. Thau 13 ký 50. Chia rẽ khởi-sự từ miếng bo
bo. Thoạt đầu, đội của tôi đồng-ý chia phần bo-bo đồng đều. Mọi người vui vẻ.
Quản-giáo Vinh lộn- xộn, đột-xuất thăm đội lúc chia bo-bo. Ông thầy dũa tôi và
bắt chia riêng theo đúng mức ông thầy đã quyết-định.
Rõ ràng, không ai thích ăn 18 ký. Bị ăn thì sớt trả người 13
ký 50. Nhưng 18 ký là bị chửi. Đội trưởng cắt việc, anh em nhao-nhao “sai thằng
xuất-sắc 18 ký làm đi”. Thằng 18 ký dần-dần bị cách-ly, bị coi là chân tay của
quản-giáo, bị gán tội “ăng ten”! Nó bực, nó chửi lại. Đấm đá. Ra tòa án…trực trại.
Lý do đấm đá? Những thằng sỉ-nhục nó làm “ăng ten” bị kỷ-luật. 18 ký càng bị chửi
thêm. Nó tức quá, làm “ăng ten ‘ luôn. Gọi là tù chính-trị, thực ra kiến-thức
và tư-cách của đa-số tù chính-trị ở các trại cải-tạo thua bọn trộm cắp. Thủ-đoạn
vặt của cộng-sản mà cũng sa bẫy để thù hận nhau. Phải sống chung với bọn này,
thật xấu hổ.
Tháng 3-1979, Sa Ác B nhận thêm 2 đội cảnh-sát đặc-biệt và 5
đội chính-trị khu A vào. Tôi gặp lại Dương Đức Dũng. Người mới đối với tôi là
Phạm Long, em của Phạm Huấn, Phạm Hậu, Đậu Phi Lục, báo Chính Luận, Bùi Hoàng
Thư, tác giả tiểu thuyết Nàng, Trần Thanh Liêm, không quân vân vân… Chúng tôi đổi
nhà, không ở với Đội 3 rau xanh nữa. Tuy không ăn chung với anh Nguyễn Mạnh
Côn, chiều nào chúng tôi cũng biếu anh bát mì hay bát hủ-tíu nấu tôm khô. Tôi nấu
bếp. Đằng Giao nhóm bếp và bưng đồ. Chúng tôi thổi cơm ăn buổi tối. Có Dương Đức
Dũng, Đỗ Ngọc Quỳnh, chúng tôi họp thành tổ ăn bốn người. Mưa to cách mấy,
chúng tôi vẫn có nồi cơm, nồi canh. Tôi nấu hai bếp, Đằng Giao, Dũng và Quỳnh
căng ni-lông che mưa. Anh Côn được miễn lao-động từ Tết. Ngày 2-4-1979, bất thần,
anh cao-hứng đi lao-động. Đằng Giao có giác quan thứ sáu. Anh ta nói nhỏ:
- Sắp nổ lớn.
Tôi cười:
- Ở nhà buồn, anh ấy đi cho khuây khỏa.
Nổ lớn thật. Các đội tập họp chờ báo-cáo xuất trại. Trực trại
vừa mở sổ, anh Côn đứng dậy:
- Báo-cáo cán-bộ, tôi Nguyễn Mạnh Côn, bị bắt ngày 2-4-1976.
Hôm nay là 2-4-1979 vừa đủ 3 năm học-tập cải-tạo đúng chỉ-tiêu Đảng đề ra, tôi
xin gặp Ban giám-thị lấy giấy trại về sum-họp gia-đình.
Trực trại Hưng trả lời:
- Anh Côn ở nhà gặp Ban giám-thị. Các đội đi lao-động. Đội
21!
Đằng Giao báo-cáo quân-số rồi xuất trại. Không biết chuyện gì
sẽ xẩy ra cho tác giả Cộng sản là gì? Ngoài hiện-trường lao-động tôi phải tiếp
sức anh em gánh nước tưới…..cứu rau. Lứa rau cải đầu tiên của đội tôi bị rầy
tàn-phá. Thay vì nhổ mẹ nó hết đi, phát cho tù cải-thiện bữa ăn, thầy Vinh bắt
cả đội... cứu rau. Rầy nó không sợ kiểm-điểm, không sợ kỷ-luật thì sợ gì nước
sông Ray. Nhưng vẫn gánh nước tưới tối-đa. Tôi mệt phờ quên anh Côn.
Buổi trưa, đội về, anh Côn đã có mặt ở nhà. Anh có vẻ buồn-bã.
Anh không nhận phần cơm trưa.
Đằng Giao:
- Anh không ăn, anh có cho người nào không?
Anh Côn:
- Không ăn, không cho là quyền của tôi.
Đằng Giao:
- Anh không thương em tí nào cả.
Anh Côn:
- Cậu bảo nhà bếp tôi trả lại phần cơm.
Đằng Giao:
- Vâng.
Anh Nguyễn Mạnh Côn là người thông-minh, đọc nhiều, hiểu rộng.
Cái kiến-thức uyên-bác về cộng-sản của anh đã không giúp anh điều gì khi anh
đương đầu với bọn chăn trâu cắt cỏ. Anh đã sáng-suốt nhờ thuốc phiện và anh đã
u-tối vì thuốc phiện. Thiếu thuốc phiện, anh Côn như xe cạn xăng. Đầu óc anh
tê-liệt. Anh nói toàn chuyện nhảm, nghĩ toàn điều nhảm. Buổi chiều lao-động về,
chúng tôi thấy anh bị nhốt riêng ở căn nhà cuối dẫy đối diện căn nhà của chúng
tôi. Căn nhà này vừa xây cất xong, chưa nhốt tù-nhân. Anh cởi trần, mặc quần
dài xắn cao, bám chấn song cửa sổ nhìn ra ngoài. Trong hoàng-hôn vàng vọt của
Sa Ác, hình ảnh anh cơ-hồ một vạt nắng sắp lóe bừng soi sáng một định-nghĩa nào
đó. Chúng tôi nhìn anh, cùng chung một ý-nghĩ:
- Anh Côn, chúng em sẽ nhận tội sai lầm phán xét anh vội-vã. Với
chúng em, anh là hôm nay. Dĩ-vãng anh, tương-lai anh, cái vừa qua của anh là
hôm nay. Anh sẽ chết thật đẹp. Anh dám chết thật đẹp. Anh là đại-thụ, tất cả là
cỏ hèn.
Hôm sau, chủ-nhật chúng tôi nằm nhà. Anh Côn chỉ bám chấn
song cửa sổ vào buổi chiều. Lúc ấy, tôi thấy anh lừng-lững Đem tâm-tình viết lịch-sử,
Ký hoa tử, Mối tình mầu hoa đào, Lạc đường vào lịch-sử… Buổi trưa ngày thứ hai
anh Côn tuyệt-thực, trật-tự-viên Hoa-nẫu vào Nhà chúng tôi bi-bô:
- Tưởng tuyệt thực lâu, vừa cúp nước uống đã xin ăn. Xin ăn
thì phải làm đơn đàng-hoàng, viết lạ đời: Tôi xin ăn ăn ăn ăn ăn ăn ăn...!
Trật-tự Hoa-nẫu còn nói nhiều điều xấu về diễn-biến tuyệt-thực
của anh Côn. Chúng tôi không tin nó. Và khẳng-định nó là “phát-ngôn-viên” của
Ban giám-thị. Buổi trưa thứ ba Hoa-nẫu hân-hoan loan tin khắp trại:
- Nguyễn Mạnh Côn làm đơn xin ăn nghiêm-chỉnh rồi!
Chúng tôi vẫn không tin. Nhưng mà anh Côn làm đơn xin ăn thật.
Anh được đưa về nhà cũ, sống với chúng tôi, miễn lao-động song phải “làm việc”
đều đều với Ban giám-thị. Cho đến một buổi sáng, Anh Côn bị đưa qua một Nhà chỉ
có các đội hình-sự. Tù-nhân trong Nhà bị cấm liên-hệ với anh. Sa Ác B chưa có
cachot, cũng chưa có hầm nhốt người vi-phạm kỷ-luật.
Tháng 4-1979, tù-nhân chính-trị ở trại Long Thành vào Sa Ác
B. Thành-phần này gồm các vị Phó quận-trưởng hành-chánh, Chánh-sự-vụ, Chủ-sự,
Giám-đốc xuất thân từ Viện quốc-gia hành-chánh, Thẩm-phán, Dự-thẩm, Nghị-viên,
Dân-biểu… Tất cả đều may-mắn không bị ra Bắc. Chủ-tịch Hạ-viện Nguyễn Bá Lương,
nghị-viên Nguyễn Thanh Liêm có mặt. Bác-sĩ Hạnh của Viện Pasteur, bác-sĩ Nguyễn
Ngọc Tùng, Trưởng-ty Y-tế Phú Yên kiêm Chủ-tịch Đảng Dân-chủ Nguyễn văn Thiệu
có mặt. Thẩm-phán Đào Minh Lượng, thẩm-phán Hương (tòa-án Gia Định rồi Biên
Hòa) có mặt. Các chuyên-viên, cố-vấn Phủ tổng-thống có mặt. Nhóm Long Thành được
biên-chế thành hai đội: Đội rau xanh và Đội vận-chuyển. Đức méo nằm trong Đội vận-chuyển
(nhờ vậy sang Mỹ chàng lái xe vận-tải xuyên bang). Đội vận-chuyển có 10 người.
Đội rau xanh trên 50 người. Một số Long Thành nhập các đội cũ của trại. Đằng
Giao nhận Đào Minh Lượng, Nguyễn Ngọc Tùng… Tôi nhận Ngô Đình Hoa, Nguyễn văn
Bình. Lúc này bác-sĩ Thạch của đội tôi đã ra coi phòng Y-tế. Lúc này, quản-giáo
Vinh ưa cự-nự tôi, chụp lên đầu tôi cái mũ “bao che” cho tù-nhân “thiếu thiện-chí
cải-tạo” trong đội. Nguyên-do: Quản-giáo Vinh cấm dùng “đũa”‘ gắp phân bón rau,
cấm dùng “găng tay” bao ni-lông. Ông thầy vĩ-đại này bắt tù-nhân bốc cứt bằng
tay trần nhét tận gốc rau. Và không cho tắm buổi trưa! Tôi xin cho đội tắm gội,
quản-giáo Vinh cho cho rửa chân tay. Và tôi bị viết kiểm-điểm vì tội “yêu-sách
cách-mạng”! Tôi đã phải đứng nghiêm trước mặt ông thầy hàng giờ nhiều lần để
nghe ông phê-bình văn-chương tự kiểm của tôi.
- Văn của anh là văn lá cải. Truyện của anh là truyện ba xu.
Anh tưởng lắt-léo qua mặt cách-mạng à?
- Tôi viết rõ-ràng, thưa cán-bộ.
- Anh Đặng Hoàng Hà chửi xéo cán bộ.
- Anh ấy chửi cào-cào.
Ông thầy nuôi con chích-chòe lửa. Ông ghét Đặng Hoàng Hà tình
nguyện vào Đội văn-nghệ làm nhạc trưởng bỏ Đội rau xanh của ông. Đội văn-nghệ
rã đám. Đặng Hoàng Hà trở về “đơn vị cũ”, bị ông thầy đì tới chỉ, bắt kiếm
cào-cào nuôi chích-chòe và cho ăn 13 ký 50.
Đặng Hoàng Hà vồ cào-cào hụt, bị té, chửi cào-cào. Ông thầy
nghe được, bèn nâng quan-điểm Đặng Hoàng Hà chửi cách mạng, chửi Đảng… Cuối
cùng, ông yêu-cầu tôi xác-nhận trong tự kiểm là Hà chửi cán-bộ.
- Anh bao che anh Hà.
- Tôi cam-kết anh Hà chửi cào-cào chứ không dám chửi cán-bộ.
- Anh Nong!
- Dạ.
- Anh đừng giả vờ nín thở qua cầu. Cách-mạng biết các anh giả-vờ
cải-tạo hết. Mặt xun-xoe nhưng nòng dạ chống đối cách-mạng. Cái mặt anh, đi tù
còn ra cái đíều chê-bai ân-huệ của cán-bộ.
- Tôi chê gì đâu?
- Cho anh rau bồi dưỡng anh chê.
- Cán bộ cho hết cả đội, tôi sẽ nhận. Một mình tôi ăn rau, cả
đội chửi tôi. Đội lao-động tích-cực, tôi đóng góp chút đỉnh.
- Nuận điệu của anh gian dối.
Quản-giáo Vinh ghét tôi từ hôm ông thầy hỏi tôi về quản-giáo
Để đối xử với đội ra sao. Tôi đã đáp thầy Để đề mặc đội tự-giác lao-động. Ông
thầy nghĩ rằng tôi xỏ-xiên ông, ông dở trò tự kiểm hành tôi tơi-bời.
- Nếu anh Hà thú nhận đã chửi cán bộ, anh biết tay tôi.
May-mắn, Đặng Hoàng Hà chối dài. Đội 17 rau xanh của tôi là đội
rau xanh bết nhất trại. Anh em Bình Chánh ù-lỳ sáng-tạo lao-động, chỉ-thị quản-giáo
ra sao, anh em làm vậy. Quản-giáo Vinh có uy với phân tươi! Phân không cần ủ,
không cần ngấu, cứ nóng hổi ngào tro mà bón. Và phân sợ tự kiểm ngoan-ngoãn xui
rau …vàng khè. Đội rau xanh Long Thành rất cừ. Các ông thư-lại ăn đứt nông-dân.
Các ông trồng mướp, trồng bầu, trồng rau muống đều vượt chỉ-tiêu. Đội trưởng Quả,
anh của Miên Đức Thắng, tháo-vát vô cùng. Vườn rau của đội Long Thành xứng đáng
đoạt giải thi đua.
Giữa tháng 4-1979, trại bầy hương án. Tù-nhân tập họp đợi
nghe “lên lớp”. Không, người ta dẫn anh Nguyễn Mạnh Côn ra đứng trước các
tù-nhân đọc tờ kiểm-điểm của anh. Tờ kiểm-điểm của anh Côn, hồi chuông báo tử của
niềm tin, vạt nắng thoi thóp của hoàng-hôn sầu tủi.
Anh Côn viết: “Tôi thù ghét vợ con tôi đã không thăm nuôi tôi
mấy tháng nay”. Anh Côn viết đúng. Chị Côn không bao giờ đi thăm nuôi anh cả. Ở
đề-lao Gia Định, Chí Hòa, hai đứa con anh thay phiên nhau nuôi anh. Ở Sa Ác B.
chỉ một lần duy nhất cháu Nguyễn Kiên Trung theo vợ Đằng Giao và vợ tôi vào
thăm anh. Tôi chẳng hiểu nghĩ gì mà chị Côn đã gửi mía khúc tiếp-tế cho chồng
tù rụng hết răng? Bài kiểm-điểm của anh Côn khiến chúng tôi cúi gầm mặt. Đằng
Giao khóc. Tại sao phải lôi vợ con ra nguyền-rủa? Thằng tù nào làm tự kiềm, tự
khai mà không dối-trá, điêu-ngoa, hèn-hạ? Thằng tù nào làm tự kiểm, tự khai mà
không nhận tội sai lầm với cách-mạng và hứa-hẹn khắc-phục để tiến-bộ? Trong
hàng rào giây kẽm gai cộng-sản, ngang họng súng đen ngòm, chỉ có vài vị
anh-hùng ngục-sĩ dám chấp-nhận cái chết, dẫu biết mình chết lãng nhách. Còn
đa-số, cái đa-số tuyệt-đối, đều ngoan-ngoãn nín thở qua cầu. Những tự kiểm, tự
khai trong tù, ngoài trại tập- trung chỉ có tù-nhân và cai tù biết, trừ trường-hợp
anh Nguyễn Mạnh Côn bị cộng-sản bêu nhục mới đọc công khai. Tự khai của anh
Nguyễn Mạnh Côn thuộc loại tự khai mê-sảng vì thiếu thuốc phiện. Chắc chắn, lúc
đứng giữa sân trại nghe đọc tự khai của mình, anh Côn đã quên Cộng sản là gì. Tội
nghiệp anh. Cộng sản bố ở Hà-nội đã chỉ-thị cộng-sản con ở Sa Ác triệt-để khai
thác sự mê-sảng thiếu thuốc phiện của anh Côn mà đánh gục anh, đánh gục lý-thuyết-gia
chống cộng lỗi-lạc của miền Nam. Tên chính-ủy đắc-chí:
- Mỹ Ngụy đã tước đoạt hết lương-tri của anh Nguyễn Mạnh Côn.
Rất may, phẩm-cách làm người của anh còn sót lại đôi chút trong hai câu thơ của
anh: hoan-hô cán bộ Để, Đương, Từ nay phản-động hết đường nữa nao!
Trong cơn mê sảng, anh Côn còn làm vè nữa! Anh được dẫn về
Nhà của các đội hình-sự. Chúng tôi đi lao-động. “Vĩ-nhân thường chết bởi cái
gai!” Hemingway viết thế. Tôi chợt nhớ Sợi tóc của Thạch Lam. Nhưng đời sống đầy
rẫy những kẻ giả-dối, ích-kỷ, chỉ thích người khác chết đẹp để vinh tôn bằng miệng.
Đứng giữa sợi tóc quyết-định sống và chết, nhân-loại đều lưỡng-lự, đều sợ chết
hùng và chấp nhận sống hèn. Chúng tôi đã là những kẻ giả-dối, ích-kỷ ấy. Không
có gì để trách-móc anh Nguyễn Mạnh Côn. Nếu phải trách, chỉ là thuốc phiện. Thuốc
phiện đã hại anh Côn.
Cuối tháng 5-1979, ông Nguyễn Bá Lương chết. Ông chết rất
êm-ái. Cựu chủ-tịch Hạ-viện của nền đệ nhị cộng-hòa nham-nhở không để lại một lời
giăng giối nào. Ông chết nửa khuya, gần sáng anh em cùng Nhà mới phát-hiện. Ngọn
đèn tập-thể được mang tới kê cao sát đầu ông. Chúng tôi biết tin nhờ anh em
thông-báo. Nhà ông Nguyễn Bá Lương cạnh Nhà chúng tôi. Ngọn đèn leo-lét cháy.
Nhà-trưởng đợi kẻng báo thức mới báo-cáo. Người ta chở một cái quan-tài mộc- mạc
từ khu A vào. Xác ông Nguyễn Bá Lương do mấy tù-nhân Đội lâm-sản tẩm-liệm. Người
ta bỏ vô hòm bộ quần áo tù mới tinh chưa đóng dấu rồi đậy nắp, đóng đinh. Quan-
tài đặt lên xe cải-tiến cùng với cuốc, xẻng. Tù-nhân Đội lâm-sản kéo đẩy
quan-tài. Đám tang đi vội-vã. Không ai được phép đưa tiễn linh-hồn người quá-cố,
dù một quãng sân trại. Một cai tù theo sau xe. Hắn sẽ đọc lệnh tha ông Nguyễn
Bá Lương khi hạ huyệt. Cựu chủ-tịch Hạ-viện đã về sum-họp gia-đình!
Sinh-hoạt ở trại vẫn thế. Hai hôm sau, tù-nhân hình-sự Quản
Quang Ninh chết vì bệnh kiết-lỵ kinh-niên! Đám ma gã tù hình-sự can tội trộm cắp
cũng đầy đủ “lễ-nghi” như đám ma tù-nhân chính-trị Nguyễn Bá Lương. Nghĩa-trang
Sa Ác B đã có hai nấm mộ không mộ bia và không hứa-hẹn không bị san bằng bởi
mưa rừng tầm-tã.
Mồng 1 tháng 6 năm 1979, sau cơn sốt nặng, anh Nguyễn Mạnh
Côn qua đời. Anh chết ở Nhà 1. Anh không hề bị ném vào hầm giam, không hề bị bỏ
đói. Anh già, đuối sức, không thuốc phiện cầm cự. Và anh chết. Anh Nguyễn Mạnh
Côn công-khai “Báo-cáo cán bộ, tôi Nguyễn Mạnh Côn, bị bắt ngày 2-4-1976. Hôm
nay là 2-4-1979 vừa đủ 3 năm học-tập cải-tạo đúng chỉ-tiêu Đảng đề ra, tôi xin
gặp Ban giám-thị lấy giấy ra trại về sum họp gia đình”. Anh đã gặp Ban giám-thị.
Chắc chắn, anh bị chúng nó sỉ-vả tội sách-động tù-nhân. Anh uất-ức tuyệt-thực.
Chúng nó dồn anh vào đường chết nhục, chết thảm. Người “anh em” của ông Tạ Tỵ
đã chết như thế. Không ai “bán anh em” của ông ta đâu. Cho đến khi tôi rời Sa
Ác B chỉ có ba người chết: Nguyễn Bá Lương, Quản Quang Ninh, Nguyễn Mạnh Côn..
Cái chết của anh Nguyễn Mạnh Côn không đúng ý mọi người nên
chẳng ai xúc động. Đời vốn chó đẻ mà! Sinh-hoạt của trại bình-thường.
Đội của tôi nhận anh Phạm Thái Ất từ đội của Đằng Giao qua.
Nhà gián-điệp này dấu nửa lạng vàng nhét ở đế giép, định ra gặp thân-nhân thăm
nuôi sẽ gửi về, ai dè bị trật-tự Hoa-nẫu phát-hiện. Thế là vàng bị tịch thu,
thân bị kỷ luật 15 ngày. Kỷ-luật Sa Ác B rất nhẹ cả với những tù-nhân trốn trại.
Vì chưa kịp xây cất cachot, tù-nhân vi phạm kỷ luật thường bị còng chân vào cột
nhà mới xây xong hoặc Nhà của các đội hình-sự.
Tù-nhân vi-phạm các tội như trây lười lao-động, nói xấu cán-bộ,
xâm-phạm tài-sản xã-hội chủ-nghĩa, đánh nhau, dấu tiền bạc (dù bị “ăng ten” báo
cáo) chỉ bị còng một chân 15 ngày, ăn cơm tiêu-chuẩn 13 ký 50, bị cúp viết thư,
nhận thư và nhận quà thăm nuôi trong vòng 2 tháng. Tù-nhân trốn trại bị bắt lại
thì bị vệ-binh đánh thê-thảm từ lúc bị bắt đến lúc dẫn về trại. Kỷ-luật cũng 15
ngày còng. Nặng hơn như đánh giết vệ-binh, quản-giáo thì bị đưa ra khu A. Suốt
thời gian tôi ở khu B, chưa có vụ trốn trại nào đánh giết vệ-binh, cướp súng.
Đang bị còng chân kỷ-luật mà có lệnh tha của Bộ nội-vụ, vẫn ra về. Chẳng phải bị
kỷ-luật, bị “ăng ten” tố-cáo mà kéo dài hạn tù. Chẳng phải tố-cáo người khác mà
chóng được tha về. Khả-năng gian ác của “ăng ten” chỉ làm kẻ bị nó hãm hại 15
ngày kỷ-luật, một lần cúp thăm nuôi. Nó không thể “bán xác” ai cả. Khả-năng
gian-ác của “nhà văn” gian-dối, điêu-ngoa ghê-gớm hơn “ăng ten”. Khả-năng toa-rập
của bọn vừa dốt vừa ngu ngang mức khả-năng gian-ác của “nhà văn” gian dối. Khả-năng
thư luân-lưu độc-địa nhất, bần-tiện nhất, hôi-hám nhất về thủ -thuật rỉ tai bêu
xấu vẫn là ông “nhà văn-hóa” Trần Tam Tiện. Tôi là kẻ bình-thản nghe tin một
người nào đó bảo một người nào đó làm “ăng ten” gian-ác đến nỗi “bán xác”
tù-nhân khác. Gặp ông cựu dân-biểu Nguyễn Minh Đăng ở trại Sungai Be si, một bạn
tị nạn kéo tôi ra:
- Anh thân với Nguyễn Minh Đăng không?
- Vừa vừa.
- Hắn làm “ăng-ten” giết chết một vị đại-tá cải-tạo ngoài Bắc
đấy.
- Ghê nhỉ?
- Ghê lắm.
- Trại nào?
- Tôi không rõ.
- Anh có ở trại ấy với Nguyễn Minh Đăng không?
- Không.
- Anh có bị tù không?
- Không.
- Ai nói với anh Nguyễn Minh Đăng giết vị đại-tá?
- Người ta.
- Người ta tên gì?
- Tôi không rõ.
- Anh nên về Việt Nam ngay đi.
- Làm gì? Vào tù à?
- Phải, anh nên nằm tù cộng-sản. Nằm tù cộng-sản với người quốc-gia
cao-cả của anh đi, anh sẽ thấm tình đời, thói đời. Một cục đường thôi, anh từ-chối
cho “anh em” của anh, anh sẽ mang tội “ăng-ten” gớm ghiếc, anh sẽ bị “anh em” của
anh viết báo bêu nhục nếu “anh em” của anh trốn thoát sang Mỹ.
Tôi muốn xử-dụng hợp-âm Do Majeur cho tất cả những tên khốn
kiếp bêu nhục người khác bằng tin đồn.
Phạm Thái Ất chưa hết ba-hoa. Anh ta không ưa tôi vì anh ta
không thể nói phét với tôi. Một lần, anh ta kể Tam-quốc-chí, tôi hỏi anh ta:
- Anh thấy Mã Tốc thế nào?
- Thằng xạo.
- Nhưng Mã Tốc có tài thật. Những anh bất-tài vô-tướng mà xạo
mới đáng ghét.
Chưa đủ độ ghét tôi, phải đợi hôm anh ta tâm-sự:
- Tôi và anh giống nhau.
- Anh lầm rồi, anh Ất ạ! Tôi và anh không bao giờ giống nhau.
- Chúng ta cùng tù.
- Cùng tù thôi.
- Cùng tù là giống nhau.
- Anh và tôi không thể giống nhau.
- Tại sao?
- Vì anh là anh, tôi là tôi. Có những thứ không thể đồng dạng,
đồng tính.
Từ đó, anh ta ghét tôi ra mặt. Chẳng phải riêng anh Ất ghét
tôi, còn một số thư-lại Long Thành ghét tôi nữa. Sự ghét bỏ xuất-phát từ lòng mặc-cảm.
Thẩm-phán Đào Minh Lượng nói:
- Tụi nó ngại anh vì ngày trước anh chửi tụi nó là gia-nô của
Thiệu.
Chắc chắn vậy. Cái số thư lại Long Thành cặn-bã của xã-hội cũ
toàn những thằng già, sống tập-thể mà chỉ lo quyền-lợi cá nhân. Bị thăm nuôi của
anh nào anh ấy buộc thật chặt. Điều này thuộc tự-do của họ, xin miễn phê-bình.
Nói riêng hai điểm nhỏ thôi: Buổi chiều ca-cóng xong phải tưới nước cho tắt
than lửa. Trực trại kiểm-soát trước khi điểm danh vào phòng. Nếu bếp còn than
cháy và bừa-bãi, trực trại sẽ cấm ca-cóng một tuần. Mấy ông thư-lại già chuyên
gây rắc-rối. Trực trại “lên lớp”, các ông ấy khúm núm “tiếp thu”. Nhà trưởng
van nài các ông ấy thi-hành quy-định. các ông ấy nhởn-nhơ, chửi thầm. Đã bị cấm
ca-cóng vài lần, rồi đâu vẫn hoàn đó. Một ông thư-lại vi-phạm quy-định, cả Nhà
treo ca-cóng. Đấy là điểm thứ nhất. Trời mưa được nghỉ lao-động vì sợ tù-nhân
trốn trại. Cửa Nhà mở rộng với điều-kiện tù-nhân đừng ra hứng nước hay tắm giặt.
Tù-nhân vi-phạm, cửa sẽ bị đóng kín. Tất cả tuân lệnh, trừ mấy ông thư-lại. Nhà
trưởng nói nhẹ, mấy ông ấy tỉnh bơ, nói nặng, mấy ông ấy sửng cồ. Nhưng trực trại
hay trật-tự Hoa-nẫu “giáo-dục”, mấy ông ấy nín khe. Tôi không chịu nổi thái-độ
sống của mấy ông thư-lại, thường xuyên công-kích mấy ông vì quyền-lợi chung của
cả Nhà. Thư-lại cấu-kết với nhau kết án tôi “ký-giả ăn mày làm mất nước”!
May cho tôi là bị kỷ-luật, mất chức Đội trưởng, mất luôn chức
Nhà trưởng. Vì Đội 17 rau xanh không đạt đúng năng-suất lao-động, người ta lôi
cái vụ tôi gửi tiền lâm-sản mua thuốc lá, mua bột sữa hồi tôi mới vào Sa Ác B
ra xử tội. Tôi bị đứng nghiêm trước tù-nhân cả trại nghe đọc quyết-định
thi-hành kỷ-luật.
Cộng-hoà xã-hội chủ-nghĩa Việt Nam
Độc-lập – Tự-do – Hạnh-phúc
Bộ Nội-vụ
Trại Cải-tạo Xuyên Mộc TH6 B
QUYẾT-ĐỊNH THI-HÀNH KỶ-LUẬT
Ban Giám thi trại cải tạo TH6 quyết-đinh thi-hành kỷ-luật trại
viên:
Vũ Mộng Long
Sinh ngày 16-8-1935
Tại Thái Bình
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú 225 Bis Nam-kỳ Khởi-nghĩa tp Hồ
Chí Minh
Can tội nhà văn phản-động
Bị bắt ngày 8-4-1976
về tội mua bán đổi chác. Trại viên Vũ Mộng Long bị mất chức Đội
trưởng, Nhà trưởng. Đồng-chí Nguyễn văn Hưng là cán-bộ trực trại có nhiệm-vụ
thi-hành quyết-định này.
Ngày 20-6-1979
Phó Giám-thị
Nguyễn Văn Hiểu
Tội của tôi cũ mèm nên không bị còng chân, bị cúp thăm nuôi.
Buổi chiều hôm ấy Đằng Giao gạ tôi nấu chè ăn khao. Anh ta rất thèm được kỷ-luật
để thoát cảnh trên đe dưới búa. Tôi thì cảm giác mình tự do làm tù.
CHƯƠNG 6
Thường lệ, Đội trưởng bị kỷ-luật thì được biên-chế sang đội
khác. Tôi vẫn ở Đội 17 rau xanh làm tù-nhân bình thường. Đội trưởng của tôi là
anh Trạng, từ đội của Đằng Giao qua. Anh Trạng, dân Bình Chánh. Quản-giáo Vinh
xếp tôi vào Tổ tưới rau. Lúc này, Ngô Đình Hoa, Nguyễn văn Bình đã về với đội
Long Thành. Quản- giáo Vinh bị Ban giám-thị phê-bình gay gắt vì đội của ông thầy
cầm cờ trắng. Cờ đỏ do đội rau Long Thành đoạt. Cờ xanh nằm trong tay Đội 3
hình-sự. Ông thầy bực tức, Ông thầy phấn-đấu vượt chỉ-tiêu. Ông thầy…tăng phân
tươi và tăng nước tưới. Mỗi tù-nhân phụ-trách gánh nước phải gánh đủ 100 đôi 1
ngày. Năm 1979 hạn hán. Tháng 6 mà vẫn chưa có trận mưa nào ngoạn-mục kéo dài
vài hôm. Ở trại cải-tạo, mưa là hạnh-phúc. Tù-nhân bình-bầu mức ăn cho ông Trời
như sau:
- Đêm tạnh, bắt đầu kẻng báo thức mới mưa. Mưa trút nước qua
giờ tập họp lao-động. Cả trại nằm nhà nghỉ-ngơi: Trời hưởng mức ăn 18 ký.
- Ngủ trưa dậy, kẻng tập họp lao-động mưa tầm-tã, cả trại nằm
nhà nghỉ-ngơi, Trời hưởng mức ăn 15 ký.
- Đang lao-động, trời mưa, thu-hồi dụng-cụ về trại, Trời hưởng
mức ăn 13 ký 50.
- Mưa sớm, mưa đã đời, lúc tập họp lao-động lại tạnh, Trời bị
kỷ-luật còng chân 15 ngày, cúp thăm nuôi 1 kỳ.
Mưa không những tù sướng, quản-giáo, vệ-binh cũng sướng. Ban
giám-thị không sướng tí nào. Nhưng bắt tù đi lao-động, mưa to sẽ xẩy ra nhiều vụ
trốn trại thành-công. Trại mà đề nhiều tù trốn trại, Ban giám-thị sẽ bị kiềm điểm,
sẽ khó leo lên địa-vị cao trong ngành quản-lý các nhà tù. Do đó, trốn trại là
quan-trọng, tiến-bộ tư- tưởng của tù-nhân là thứ yếu. Mục-đích chính-yếu của
chính-sách lao-động cải-tạo tư-tưởng của cộng-sản là gì? Thế-giới, cho đến hôm
nay, vẫn bị huyễn-hoặc bởi cách chơi chữ của cộng-sản. Người cộng-sản lúc nào
cũng có thể to miệng nói với thế-giới rằng họ không hề bắt nhốt sĩ-quan quân-đội,
sĩ-quan cảnh-sát, công- chức cao cấp, dân-biểu, nghị-sĩ, nghị-viên, đảng-phái đối
nghịch đảng cộng-sản của và trong chế-độ Việt Nam cộng-hòa. Những thành-phần
này, họ gọi chung là “ngụy quân, ngụy quyền”. Rõ-rệt và chính-xác, những thành-phần
này đã đi trình-diện học tập cải-tạo. Thế-giới không cần biết cái thông-cáo cưỡng-bức
và đe-dọa “ngụy quân, ngụy quyền”. Và cộng-sản phủ-nhận con số tù-nhân chính-trị
mà họ giam giữ. Với cộng-sản, không có tù-nhân chính-trị. Các tổ-chức chống cộng-sản
sau 30-4-75, những thanh-niên, sinh-viên, học-sinh chiến-đấu cho tự-do, dân-chủ
của dân-tộc; những nhà trí-thức đòi hỏi nhân-quyền, bị cộng-sản xếp vào
thành-phần “phản-động” can tội phá-hoại an-ninh của “tổ-quốc” và bị bắt bỏ tù
không cần xét xử, không có án-tích. Tất cả những nơi giam nhốt, đầy đọa
tù-nhân, cộng- sản đều gọi là Trại học tập cải-tạo và thế-giới đều gọi là Camp
de ré-éducation. Cộng-sản không gọi là Nhà tù hay Trại tập-trung khổ-sai lao-động.
Thế-giới không gọi thế và báo-chí Việt Nam hải-ngoại cũng không gọi thế. Cho
nên ý-nghĩa của tù-nhân chính-trị Việt Nam nó phôi-pha dần theo tháng năm. Như
tị-nạn chính-trị bước sang giai đoạn tị-nạn kinh-tế! Sự can-thiệp của các hội-đoàn
nhân-đạo quôc-tế chỉ nhằm cá-nhân, không nhằm tập-thể. Mọi lên tiếng về tù-nhân
chính-trị ở Việt Nam mang tính chất làm cảnh theo cảm-hứng mùa màng. Cộng-sản cấm-chỉ
báo-chí thế-giới thăm viếng nhà tù và trại tập-trung của họ. Cả miền Nam, có một
trại kiểu mẫu để tiếp phái-đoàn Amnesty International (vì AI trung lập với tất
cả các chế-độ chính-trị) và các hội-đoàn quốc-tế thân cộng-sản*. Thế-giới chỉ
hiểu lơ-mơ về nhà tù và trại tập-trung khổ-sai lao-động của cộng-sản qua sự tường-trình
của những ông Việt Nam cư-ngụ tại Pháp từ 30 năm. Và những ông này đều gọi những
địa-ngục từ Việt Nam là Trại học tập cải-tạo! Thủ-đoạn bắt nhốt hàng mấy trăm
ngàn tù-nhân của cộng-sản nó siêu-việt thế đấy. Đi học- tập, không đi khổ-sai
lao-động. Tình nguyện trình diện học tập cải-tạo, không hề bị bắt giam nhốt. Phải
công-nhận cộng-sản chơi chữ rất giỏi.
Ở nhà tù ra sao, bạn đã đọc Nhà tù rồi. Còn ở trại tập-trung
ra sao, tôi sẽ cố-gắng viết trung-thực với nhận-xét và kinh-nghiệm của tôi. Cộng-sản
không thích cải-tạo tư tưởng tù-nhân. Hiển nhiên, họ không thể chơi trò “brain
washing” theo phương-pháp Pavlov cho hàng trăm ngàn tù-nhân. Họ thừa hiểu,
tù-nhân lao-cải biết cách nín thở qua cầu. Vậy chỉ cần bắt tù-nhân tê-liệt
tâm-hồn, rã-rời thể-xác. Cách thực hiện hữu-hiệu nhất là làm cho tù-nhân đói khổ,
làm cho tù-nhân mất phẩm-cách, làm cho tù-nhân sợ hãi. Làm cho tù-nhân đói khổ
nằm trong chính-sách làm cho toàn dân đói khổ. Sự tiến-bộ của chế-độ cộng-sản ở
Việt Nam là không còn ai chết đói nữa nhưng thường xuyên đói và triền-miên ăn độn.
Chủ-tịch Hồ Chí Minh, ở bức chân dung vẽ ông ta đứng dơ bàn tay xòe đủ năm
ngón, được dân-gian “học tập” như vầy:
5 ngón tay Bác, 5 đồng bạc “ngụy” ăn 1 đồng bạc cách-mạng.
5 ngón tay Bác, 5 năm tù tối-thiểu cho ngụy-quân, ngụy-quyền,
phản-động.
5 ngón tay Bác, 5 lạng thực-phẩm cho một người dân một ngày.
Tù và dân đồng đều tiêu-chuẩn 15 ký lô thực-phẩm mỗi tháng.
Thực-phẩm không phải là gạo. Thực-phẩm, có thể, là gạo hẩm cộng với khoai, sắn,
ngô hay chỉ riêng rẽ khoai, sắn, ngô, bo bo… Gạo là xa-xỉ-phẩm như nước mắm
trên đất khách miền Bắc có lăng Bác. Cách-mạng vô-sản đã đổi đời cho nước mắm.
Nước mắm cũng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững-chắc lên xã-hội chủ-nghĩa thành
nước chấm. Muối + nước + kẹo đắng: Nước chấm! Ấm no, hai tiếng này vẫn nằm
trong hứa hẹn. Bài ca Tự Túc phổ-biến sâu rộng khắp nước từ năm 1946. Hai câu
cuối rực-rỡ tương-lai:
Anh em ơi góp công muôn bàn tay
Đất nước ta ấm no đi đây có ngày
Năm 1976, đài phát-thanh Giải-phóng, chương-trình Nông-nghiệp
vẫn hát bài Tự Túc. Tự Túc là nhạc mở đầu và kết-thúc chương-trình. Ba mươi năm
sau cách-mạng đất nước ta vẫn đói rét, “đất nước ta ấm no rồi đây có ngày”.
Chưa biết ngày nào? Năm nay, 1986, đất nước ta chắc vẫn còn đói rét. Dân chúng
đói vì Đảng muốn dân chúng đói. Đói có nghĩa là bao-tử lưng-lửng. Bao-tử lưng-lửng
có nghĩa là không thể chết đói. Không thể chết đói nhưng mà rất thèm ăn no.
Thèm ăn no thì chỉ nghĩ đến miếng ăn, không thiết nghĩ đến tự-do dân-chủ. Càng
không muốn nghĩ đến tranh-đấu cho ấm no, tự-do, dân-chủ. Con người khó lòng
vùng dậy khi nó đói mà nó biết nó không bị chết đói. Cái roi gạo của cộng-sản
nó nhiệm-mầu thế đấy. Nó phũ-phàng hơn roi điện của thực-dân phát-xít đế-quốc
tra-tấn con người. Nó làm hao mòn thịt xương và tiêu diệt ý-chí chống đối.
Ngày xưa roi điện thì còn
Ngày nay roi gạo hao mòn thịt xương
Cái cung-cách cai-trị nhân-dân bằng roi gạo ngoài đời giống hệt
cái cung-cách quản-lý tù-nhân trong trại tập-trung khổ-sai lao-động. Ăn ít, làm
nhiều. Làm không đem lại kết-quả, vẫn làm. Làm cho đói. Đói bị ăn ít. Ăn ít
thèm ăn. Tù-nhân vẫn lại chỉ loay-hoay miếng ăn. Chung quanh miếng ăn là thảm cảnh
dẫn tới sa-đọa và mất phẩm-cách. Bất cứ một tù-nhân lao-cải nào cũng có thể nói
câu này với bất cứ ai, ở bất cứ đâu mà không sợ mang tiếng bịa đặt: Mọi sinh vật
bị tiêu-diệt gọn quanh khu-vực tù-nhân cải-tạo. Thằn lằn, rắn, kỳ-nhông, kỳ-đà,
mối chúa, cào-cào, dế, chuột, cua, cá, tôm tép, cóc nhái… Cái gì có thể ăn và
có chút chất đạm là tù cải-tạo ăn. Trừ giun ra. Tôi chưa thấy ai ăn giun. Có lẽ,
ông nhà báo nào thương tù cải-tạo quá đã cho tù ăn giun thay bo-bo! Mà ăn cả bát
giun mới là giầu óc tưởng-tượng. Rất tiếc, ông nhà báo này không được làm đại-diện
tù chính-trị Việt Nam để “bốc xê la bút” tại quốc-hội Hoa-kỳ hay là đi kiện Việt
cộng. Tù-nhân lao-cải còn ăn rau độn bo-bo cho căng bao-tử. Rau tầu bay, rau cải
trời, rau dền dại, rau sam… Có người dám ăn cỏ non. Lý-luận: Dê ăn cỏ, trâu bò
ăn cỏ có chết đâu. Trâu ăn cỏ lao-động vô-địch. Bò ăn cỏ sinh bê còn ra sữa. Sữa
bò chế thành bơ, thành phó-mát… Cỏ nhất định dồi dào sinh tố. Nhưng cỏ chỉ bổ
khi được… nhai lại. Mà người không thuộc loài nhai lại, trừ cộng-sản là loài
nhai lại những giáo-điều lạc-hậu, những nghị-quyết mốc thếch, những chiến-thắng
chẳng ăn cái giải gì, những khẩu-hiệu gian-dối, những danh-từ rỗng tuếch. Cũng
còn có một loài nhai lại. Đó là bọn nhà văn Hamburger, xuân hạ thu đông nhai lại
những câu chửi rủa người vắng mặt. Thêm loài nhai lại hiệp định Paris 1973,
nhai lại tiền lạc-quyên kháng-chiến, nhai lại tiền ăn cắp di-tản đem theo, nhai
lại dĩ-vãng bệ-rạc. Vân vân… Đất nước khốn-khổ của chúng ta hơi nhiều cách-mạng
nên khá đông thú vật hai chân nhai lại. Thú vật nhai lại cỏ kháng-chiến bền-bỉ
và quang-vinh nhất chỉ có hai tên cùng viết tắt HCM. Một tên đã nằm trong hòm
kính. Một tên đang nằm trong thùng nước lèo phở Hòa. Tù-nhân cải-tạo là nạn-nhân
của thú vật hai chân nhai lại. Tù-nhân cải-tạo là CON NGƯỜI bị thú vật hai chân
bắt đồng-hóa với chúng nó. Và đã thử ăn cỏ non. Khi người ta đói, người ta ăn cả
thịt người. Đã có trường-hợp thuyền-nhân ăn thịt kẻ đồng-hành chết đói. Tháng 3
năm Ất Dậu, người sắp chết đói ăn thịt người vừa chết đói là thường. Ăn bất cứ
cái gì có thể nuốt. Để chết. Người đói vô tội. Kẻ làm cho con người đói đến mất
nhân-tính, mất phẩm-cách mới có tội.
Tù-nhân lao-cải không có ai chết đói nhưng “quanh năm tích-cực
đói, bốn mùa khẩn-trương đói”. Đói thì “mưu sinh” riêng cho no. Rau cải trời dễ
kiếm dễ hái, ăn nhiều mất máu. Cóc nấu cháo ngon lắm, bổ lắm, ăn trúng nọc “cậu
trời” là đau quặn bụng, ói mửa ra mật xanh mật vàng. Bạ cái gì cũng ăn thì dễ
sinh bệnh. Bệnh thiếu thuốc thì “về sum họp với cha ta”. Đa-số tù-nhân lao-cải
chết bệnh là do ngoài đời ăn khỏe quá. Ông tướng Nguyễn Đức Thắng đi lao-cải sẽ
kềnh trước tiên. Đói đâm ra lẩn-thẩn, kèn-cựa nhau từ miếng thịt đến muỗng cơm
trắng “những ngày lễ lớn”. Chia sắn lát, chia khoai luộc, chia nước muối, chẳng
ai thèm nhòm ngó. Chia thịt, chia canh, bắp cải nấu xương heo, chia cơm trắng,
một đội 50 tù-nhân 100 con mắt theo dõi người chia cơm, chia thịt, chia canh. Sự
thèm ăn làm đầu óc bé lại, tâm-hồn kẹo đi. Thêm cái tiêu-chuẩn thực-phẩm hàng
tháng gây đủ mọi chia rẽ, gấu-ó, đấm đá. Đó là Sa Ác B của tôi, một trại đủ
thành-phần xã-hội. Những trại khác tôi không biết tù-nhân lao-cải có còn thủ nổi
tác-phong “giấy rách phải giữ lấy lề”?
Chế độ thăm gặp ở trại lao-cải chẳng nhân-đạo gì. Nó nhắm ba
mục-đích:
1/ Ăn ngon, ăn no thì phải “triệt-để tuân-hành nội-quy và mệnh-lệnh
của cán-bộ”. Kinh-tế… cái bị quà luôn luôn bị đe-dọa bởi cái quyết-định
thi-hành kỷ-luật. Tù-nhân bướng-bỉnh, “tư-tưởng nấn cấn, nao động nề mề” khó cải-tạo,
đa số là tù-nhân “con bà phước”. Kỷ-luật cúp thăm gặp kinh-hoàng nhất, “con bà
phước” không ai nuôi, không ai gặp, không sợ hãi cái thứ kỷ-luật răn đe bao-tử.
2/ Ăn ngon, ăn no thì lao-động tích-cực, hết lấy cớ trây lười.
3/ Thăm gặp tạo mâu-thuẫn giai-cấp giữa các tù-nhân. Thằng
không có thăm gặp ghét thằng có thăm gặp. Thằng thăm gặp ít ghét thằng thăm gặp
nhiều. Giá-trị và cả lòng thù-hận đánh giá bằng cái bị căng phồng quà cáp hay
cái bị xẹp lép. Nếu không có chế-độ thăm gặp, tù-nhân bình-đẳng kinh-tế. Như thế
tù-nhân yêu thương nhau đoàn-kết thắm-thiết và sẽ gây ra nhũng tai-hại khó lường
cho sự quản-lý tù-nhân ở các trại lao-cải.
Đó, ba mục-đích chính của chế-độ thăm gặp nằm trong
chính-sách cải-tạo tư-tưởng khoan-hồng và nhân-đạo của Đảng và Nhà nước cộng-sản.
Con người chưa bao giờ khổ vì miếng ăn và hèn vì miếng ăn như con người tù-nhân
ở trại tập-trung khổ-sai lao-động của cộng-sản. Tuy khổ và hèn nhưng là khổ và
hèn bị cưỡng-bức. Tỷ-lệ những người vì khổ mà tình-nguyện xếp mình dưới mức
hèn, xếp mình ngang hàng súc-vật hơi khan hiếm. Có lẽ duy nhất một “nhà văn” Tạ
Tỵ. Ông này không lao-động vất-vả gì cả. Như ông ta muộn-màng thú nhận, ông ta
được “anh em” của ông ta giới-thiệu vẽ chân dung Hồ Chi Minh giữa trại cải-tạo.
Và ông ta bảo “Sống trong trại tù thì vẽ HCM hay đi hót cứt, bổ củi, vác gạo,
trồng mì cũng như nhaư”. Bị cưỡng-bức vẽ tranh Hồ Chí Minh và được giới thiệu vẽ
khác nhau. Ở tù trăm sự đều cay đắng. Hồ Chí Minh đã thở than vậy. “Bác” còn ngậm-ngùi:
“Mỗi lời mỗi việc không tự-chủ. Đề chúng dắt đi tựa trâu bò”. Chúng không dắt
đi tựa trâu bò mà mình tình-nguyện làm trâu bò thì kẻ vẽ “Bác” không giống
tâm-sự “Bác”. Thì bị giới-thiệu cũng là một cưỡng-bức đi, ngồi vẽ “Bác” vẫn
nhàn, bao-tử đỡ đói hơn bao-tử bổ củi, vác gạo. Đỡ đói hơn “anh em” mà “ăn cắp
khoai mì, ăn vụng thịt dưới nhà bếp, ăn tranh phần khoai và cơm cháy của heo
vân vân…”, tôi nghĩ đây là thành-tích rực-rỡ nhất xứng-đáng ghi đậm nét trong
L’Arbre de vie của gia-đình ông nhà văn-học nghệ-thuật “ăn cắp”. Thời-đại của
chúng ta rất ly kỳ. Rõ đúng…đổi đời. Những thằng mạt rệp tự nhận mình ăn cắp,
ăn vụng, ăn tranh phần súc-vật, vẫn trơ-trẽn phỉ-báng người khác những tội mơ-hồ,
bịa đặt. Cái trường-hợp no mà vẫn ăn cắp, ăn vụng chính là biểu-tượng của đám
quốc-gia bẩn vậy.
Đã biết cái thủ thuật cộng-sản đánh vào bao tử tù-nhân làm
cho tù-nhân khốn-khổ và hèn-hạ vì miếng ăn, nên biết thêm cái thủ-thuật cộng-sản
đánh vào đầu óc khiến tù-nhân tê-liệt tư-tưởng rồi biến thành âm-binh cho
phù-thủy sai phái. Bí-kíp nằm giữa thủ-thuật này là phê-bình và tự phê-bình. Một
học-giả Trung Hoa nói: “Kẻ sĩ một ngày không đọc sách thánh-hiền, soi gương thấy
mình xấu-hổ”. Hồ chủ-tịch vĩ-đại nói: “Một ngày không tự phê-bình, soi gương thấy
mình chưa rửa mặt”. Hồ Chí Minh có tài đạo văn. Bác Hồ rất nhiều tài, tài nào
cũng có thể suy tôn, vì khó kiểm-chứng. Riêng tài đạo văn, Bác bị lòi tẩy. Bác
cứ thuổng tư-tưởng của thiên hạ, “sáng-tạo” ra cái của Bác. Trong Lời khuyên học
trò, Nguyễn Bá Học viết: “đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ
khó vì lòng người ngại núi e sông”. Bác vi-vút lời Bác “Không có việc gì khó,
chỉ sợ lòng không bền thôi. Đào núi và lấp biển là khó mà quyết-chí thì cũng
làm nên”. Bác thuổng lu-bù…Câu thuổng xây-dựng nên tư-tưởng Hồ Chí Minh về cái
“dịch-vụ” phê-bình và tự phê-bình đã phá vỡ sự gần-gũi, sự thân-thiết dân-tộc.
Nó là thủ-đoạn chia tình người đề quản-lý con người, xẻ tâm-hồn con người để kiểm-soát
linh-hồn con người. Nó phát-triển mạnh-mẽ từ sau 1956, khi cộng-sản Hà nội đã
đưa nông-dân vào Nông-hội, Hợp-tác-xã.
Từ đây, nông-dân được giao quyền làm chủ tập-thể dưới quyền
điều-hành của bọn đảng-viên Chủ-nhiệm, Bí-thư Nông-hội, Hợp-tác-xã. Nông-dân bận-bịu
họp-hành, bình-bầu xã-viên xuất-sắc, phê-bình xã-viên thiếu tích-cực và tự
phê-bình mình. Vân vân. Nông-dân vốn hiền lành, ghét họp-hành và tối-kỵ
phê-bình họ-hàng, láng-giềng, chòm-xóm công-khai. Những buổi họp đầu tiên không
được khuyến-khích phê-bình và tự phê-bình. Dần dần, phê-bình và tự phê-bình được
khuyến-khích. Rồi lời Hồ chủ-tịch đem ra học tập. Rồi Chủ-nhiệm Hợp-tác-xã chủ-trì
các buổi họp phê-bình các buổi họp thiểu phẩm-chất. Vì thiếu phê-bình và tự
phê-bình. Người ta cố kéo dài phiên họp đến nửa đêm. Nông-dân ngáp vặt.
Nông-dân thèm về ngủ mai sớm còn thay trâu kéo cầy “xây-dựng tổ-quốc”. Bắt đầu
tự phê-bình những khuyết-điểm lặt-vặt vô-tội-vạ. Cộng-sản rất kiên-trì trong
công-tác “giáo-dục” nhân-dân. Cái lặt-vặt sơ-hở sẽ là cái rắc-rối cuối đường.
Nông-dân “làm quen” với phê-bình. Từ làm quen thành thói quen. Thói quen dễ-dãi:
Phê-bình cho xong chuyện, cho chóng giải-tán buổi họp về ngủ. Vậy thì nông-dân
phê-bình lẫn nhau những chuyện đến muộn vài phút, nghỉ sớm vài phút, bệnh nhẹ
không khắc phục, không chấm công công-bình, không tích-cực bảo-vệ tài-sản tập-tục…
Nông-dân lại “com bin” với nhau. Tôi phê-bình bác như thế này, bác phê-bình tôi
như thế này. Cho xong chuyện. Cộng-sản nó nghiên-cứu kỹ-lưỡng, nó phá chiến-thuật
phê-bình của nông-dân. Thủ đoạn cầy-cáo của cộng-sản là rỉ tai, xuyên-tạc, gây
thù-hận.
Cộng-sản:
- Bác thân với bác A lắm nhỉ?
Nông-dân B:
- Thân lắm.
Cộng-sản:
- Tôi không tin.
Nông-dân B:
- Đồng-chí không tin cái gì?
Cộng-sản:
- Bác A nói với tôi rằng bác cứ hậm-hực cái ao cá của bác bị
vào Hợp-tác-xã.
Nông-dân B:
- Tôi nói với ai bao giờ?
Cộng-sản:
- Tôi không nghĩ bác nói đâu. Bác tiến-bộ, xã-viên lý-tưởng.
Nhưng ở đời nó có hai chữ ai ngờ, bác ạ!
Cộng-sản đến thăm nông-dân B, bỏ nhỏ tí ti rồi về. Thay vì đi
tìm sự thật ở nông-dân A, nông-dân B nghiến răng thề sẽ “chơi” nông-dân A một vố.
Cộng-sản tạo cơ-hội để nông-dân B thấy rõ nông-dân A hay gặp riêng đồng-chí Chủ-nhiệm.
Vậy là buổi họp, nông-dân B phê-bình nông-dân A theo cung cách…tố cáo. Bao
nhiêu lời tâm sự uất ức Đảng của nông-dân A được khai vanh vách. Phê-bình thành
tố cáo. Tố-cáo thành phong-trào. Cộng-sản biết hết thâm ý của nông-dân mà
cai-trị. Nông-dân thù ghét nhau, sợ hãi nhau, không dám gần-gũi nhau tâm-sự
thân-mật. Nhà nào nhà nấy đóng cửa. Gặp nhau ở Hợp-tác-xã thôi. Mọi người đề-phòng
lẫn nhau. Thủ-đoạn cộng-sản trả lời câu hỏi tại sao không có cuộc nổi dậy nào của
nông-dân miền Bắc.
Phê bình và tự phê-bình vào quân-đội, vào công-an, vào khắp
các cơ-quan, các ngành. Vào nhà máy, bắt buộc. Vào cả đoàn-thể nhi-đồng. Vào
nhà tù và trại lao-cải thì tinh-vi hơn. “Ăng-ten” nằm ở biên-bản các buổi họp của
đội cuối tuần, ở tự kiểm... “Ăng-ten” ở sự tố-cáo lẫn nhau bởi thủ-thuật chia rẽ,
gây thù-hận của cai tù. Một thí dụ điển-hình nhất cho tất cả các trại lao-cải:
Tù-nhân X là người có địa-vị xã-hội, có uy-tín ở xã-hội cũ,
có uy-tín trong đội, trong trại được các tù-nhân yêu mến và coi như lãnh-đạo
tinh-thần của tù-nhân. Phải hạ gục tù-nhân X. Dễ-dàng lắm. Cả đội đang cuốc đất
dưới nắng chang-chang, mồ-hôi tầm-tã, thầy quản-giáo ra bãi gọi tù-nhân X vào
nhà lô 1). Nội-dung cuộc “làm việc” giữa quản-giáo và tù-nhân X sẽ như thế này:
Quản-giáo:
- Anh cải-tạo mấy năm rồi,anh X?
Tù-nhân X:
- Thưa cán-bộ, 5 năm.
Quản-giáo:
- Năm năm thì cũng sắp về rồi đấy.
Tù-nhân X:
- Tôi hy-vọng thế.
Quản-giáo:
- Vợ con anh thăm gặp anh đều chứ?
Tù-nhân X:
- Thưa cán-bộ, đều.
Quản-giáo:
-Anh cần gửi thêm thư cho gia-đình không?
Tù-nhân X:
- Cám ơn cán-bộ, một tháng một lần đủ rồi.
Quản-giáo:
- Anh nhận-xét về đội ra sao?
Tù-nhân X:
- Tất cả tích cực lao-động, cải-tạo tư-tưởng tốt.
Quản-giáo:
- Không hơn thế đâu.
Chuyện sang vụ thu-hoạch sắp tới. Rồi làm gì, nghĩ gì khi về
sum-họp gia-đình. Rồi uống nước rễ tranh, hút thuốc lào. Quản-giáo kéo dài giờ
giải-lao của tù-nhân X. Khi tù-nhân X trở lại bãi, anh em xúm lại hỏi. Tù-nhân
X tường-thuật trung-thực cuộc mạn-đàm. Anh em tin. Hôm sau xẩy ra như vậy. Anh
em tin. Hôm sau nữa cũng vậy. Anh em vẫn tin. Rồi mạn-đàm hoài, anh em “lạ
quá”. Từ lạ quá đến ngờ vực. Cho đến một hôm, buổi sáng tù-nhân X mạn-đàm với
quản-giáo thì buổi chiều tù-nhân Y được gọi sỉ-vả và bị kỷ-luật. Quản-giáo tập
họp đội, tuyên-bố quyết-định kỷ-luật tù-nhân Y thòng thêm câu:
- Cán-bộ có bị che mắt, còn mắt khác nhìn giúp.
Tù-nhân X trở thành nạn-nhân của quản-giáo, của trò chơi triệt-hạ
uy-tín cá-nhân. Ông bị gán ghép tội “Ăng-ten”. Đội khinh-bỉ ông. Trại khinh-bỉ
ông. Tiếng xấu lan đi khi có tù-nhân chuyển trại. Đây chỉ một thí-dụ điển-hình.
Còn hàng trăm thủ-đoạn tạo ngờ-vực, thù-hận giữa các tù-nhân, chủ-đích làm các
tù-nhân không thể hội họp, bàn-tán âm-mưu chống đối và trốn trại. Ngu-xuẩn nhất
vẫn là kẻ tin vào lời cai tù rỉ tai tù về chuyện tù-nhân khác. Mà kẻ tin lời
cai tù lại thêu dệt thêm giúp cai tù. Và không còn là một kẻ. Mà đa-số mê sảng
trong thủ-thuật cộng-sản. Trong tù mê sảng chưa đủ, ngoài tù cũng mê sảng. Mê sảng
cả ở hải-ngoại. Rốt cuộc, con người tù-nhân cộng-sản ngoài nỗi khổ, nỗi hèn vì
roi gạo quất vào bao-tử, còn thêm nỗi khổ, nỗi hèn vì roi phê-bình, tự phê-bình
và tin đồn phun ra thì lưỡi rắn quất vào đầu óc, vào trái tim, vào thân-phận.
Đau-đớn cả thể-xác lẫn linh-hồn mà, ngay cả tù-nhân, đa-số vẫn chẳng khôn lớn
tí nào.
Roi gạo và roi phê-bình cộng với lao-động quần-quật, với vô-vọng
ngày tha của án phạt đê-tiện Tập-Trung Cải-Tạo, tù-nhân tê-liệt tư-tưởng, rã-rượi
thể-xác. Cộng-sản chỉ muốn giáo-dục con người trở thành con người khiếp-nhược,
cam đành và gian-dối. Bởi thế,tù-nhân lao-cải khi được thả ra thì sợ-hãi tất cả.
Trại lao-cải là cơn ác-mộng ám-ảnh thường xuyên. Có người đã trốn thoát ra ngoại-quốc
vẫn ngẩn-ngơ như bị hớp hồn. Có người hấp-thụ nền giáo-dục gian-dối, mở miệng
là phì nọc điêu-ngoa. Nhiều người học tập thụ-hưởng vật-chất đề quên học tập cải-tạo.
Cộng-sản đã thành-công rực-rỡ với chính-sách học tập cải-tạo của họ. Hình như,
chúng ta và tế-giới còn rất mù-mờ về sự thành-công chó đẻ này.
Tháng 6, trời nắng bạo, rau xanh cần tưới nước. Tôi phải gánh
nước oằn vai. Đức-méo kéo xe cải-tiến lấy cát ở đoạn sông khu vườn rau của tôi,
thấy tôi cởi trần gánh nước, đã chớp mắt thương-hại. Tôi đã cười nhìn Đức-méo,
ông Phó-quận hành-chính Xuyên Mộc cũ. Tôi rất tự-hào tôi gánh nước giỏi, gánh đủ
100 đôi một ngày mà mỗi đôi, quản-giáo Vinh đều gạch dấu trong cuốn sổ kiểm-soát
của hắn. Tôi tự-hào vì cáì gì cộng-sản làm được, tôi làm được; cái gì tôi làm
được, Cộng-sản không làrn được. Và bất cứ cái gì đã gọi là công việc, tôi đều
làm đến nơi đến chốn, làm hay và làm giỏi hơn người khác. Tôi sẽ hãnh-diện nếu
ai bảo tôi gánh nước biểu-diễn ở Paris hay ở California.
Gánh nước được hơn một tháng, tôi bị chuyển sang Tổ phân tiểu
như một Tổ trừng-giới và có biệt-danh Long-ếch-mù. Quản-giáo Vinh yêu cầu tôi “ủng
hộ” cái gà-mèn Mỹ đã bị tịch-thu quai đề hắn sai anh Nại làm plaque gửi về Bắc
tặng đào, tôi từ chối. Ông thầy ghét tôi sẵn càng ghét thêm. Anh Mẫm ở đội tôi
là người vừa ngọng vừa khù-khờ. Buổi chiều gánh nước ở cái vũng chứa nước nhà bếp
cán-bộ chảy ra, Mẫm vồ được con ếch. Mẫm khoe ầm-ỹ. Tôi cao hứng hỏi:
- Con ếch có mù không?
- Không.
- Tưởng nó mù chú mày mới vồ được chứ.
Quản-giáo Vinh gọi tôi tới “làm việc”:
- Anh Nong, anh vi phạm kỷ nuật.
Tôi cãi:
- Tôi làm gì đâu?
- Anh ám chỉ ai mù, cách-mạng mù à?
- Cán-bộ đừng nâng cao quan-điểm.
- Cách-mạng không mù, cán-bộ mù à?
- Tôi chỉ hỏi xem con ếch có mù.
- Con ếch không mù. Anh mù. Anh nà hình-nhân được gắn hai con
mắt giả.
- Vâng, con ếch không mù.
- Anh phải nhận anh mù.
- Tôi mù, cũng được. Tôi mù, tôi không nhìn thấy gì cả.
- Náo. Anh nhìn thấy một thứ.
- Cán-bộ muốn tôi nhìn thấy cái gì?
- Anh nói đi, tự-giác nói đi!
- Tôi nhìn thấy sự sáng-suốt của cách-mạng.
- Nại xỏ-xiên. Anh phải nhìn rõ bản-chất phản-động cộng nưu-
manh của anh và đồng bọn. Mai anh phục-vụ Tổ phân tiểu. Rõ chưa?
- Rõ.
Đội gọi tôi tên mới: Long-ếch-mù. Vui thật. Tổ phân tiểu của
tôi gồm 6 người. Đặng Hoàng Hà (không vồ đủ chỉ-tiêu cào-cào nuôi chích-chòe),
Phạm Kim Sơn (dám nói không trốn trại mà ra về đường-đường chính-chính), Nguyễn
Sắc (dám nói ông thầy không có kinh-nghiệm trồng mướp), Nguyễn văn Lợi (dám từ-chối
leo cây cao bắt tổ chim cho ông thầy), Trần văn Tư (dám hát “đi trồng rau nhớ
thăm nuôi xà bông”) và tôi (dám bảo con ếch mù). Tổ phân tiểu của tôi có nhiệm-vụ
cung-cấp phân và nước tiểu cho hai Tổ bón rau và Tưới rau. Cầu-tiêu cơ-quan,
nơi dành riêng cho Ban giám-thị và cán-bộ đi cầu, nằm trong khu-vực vườn rau của
tôi. Thầy quản-giáo Vinh giáo-dục tù-nhân rằng: “Hễ Ban giám-thị ngang qua. Đội
trưởng phải hô nghiêm, báo-cáo quân-số. Mọi người đang và nàm gì thì vất bỏ, đứng
nghiêm”. Đội trưởng cứ nhìn anh Việt cộng nào già là... cho làm Ban giám-thị. Xẩy
ra một hôm, có anh Việt cộng già ngoài khu A vô chơi. Anh này Ban giám-thị thật.
Anh đi ngang qua vườn rau. Đội trưởng Trạng hét bự:
- Nghiêm!
Ban giám-thị giật mình.
- Báo-cáo Ban giám-thị. Đội 17 rau xanh…
Ban giám-thị vẫy tay:
- Thôi, đi ỉa miễn báo-cáo!
Lại một hôm, có anh Việt cộng trung niên qua vườn rau, Đội
trưởng không hô nghiêm và báo-cáo. Không sao cả. Hôm khác, tưởng bở, Đội trưởng
lờ tít một anh Ban giám-thị. Bị dũa. Từ đó, Việt cộng cỡ 30 tuổi đi ỉa, Đội trưởng
Trạng đều phong chức Ban giám-thị, hô nghiêm và báo cáo. Như vậy chắc ăn, phản-ánh
đúng tinh-thần “giết oan hơn tha lầm” của Đảng. Chuyện này gợi nhớ anh hề Văn
Chung. Trong các hề Việt Nam, tôi khoái nhất hề Văn Chung. Anh ta đóng vai
hàn-sĩ nhà quê lên kinh-đô chờ lọt mắt xanh của vương-tôn công-tử. Bạn anh ta dặn
cứ ngồi góc phố, gặp ai đi qua có quân lính hộ-vệ thì “vạn-tuế thiên-tử”. Có vị
nguyên-soái ngang qua, anh hàn-sĩ tung hô:
- Vạn-tuế thiên-tử!
Bị đá đít và nhắc nhở:
- Tao là nguyên-soái, mày muốn tao đảo-chính vua à?
Vị thái-tử đi qua, anh hàn-sĩ tung hô:
- Vạn-tuế nguyên-soái.!
Bị bợp tai và nhắc nhở:
- Tao là vua con, sắp là vua cha, mày muốn cách chức tao à?
Từ đó, bất cứ anh nào ngang qua, hàn-sĩ đều nhẩy lòng-vòng,
miệng tung hô…trung-lập:
- Vạn-tuế anh nào đi qua đếch biết! Vạn-tuế anh nào đi qua đếch
biết!
Ngày mới vào Sa Ác A, Đằng Giao đã vẽ một giấc mơ đổ thùng.
Bây giờ, hơn cả đổ thùng mỗi hôm một tiếng nhàn-hạ, thảnh-thơi, tôi phải xuống
hầm phân múc phân đầy xô xách lên. Tôi không được hân-hạnh đổ thùng quét rửa cầu-tiêu.
Công việc “cao quý” này của Tổ vệ-sinh trại. Sa Ác B không tin tù chính-trị. Trật-tự
là tù hình-sự; Thông-tin văn-hóa là tù hình-sự. Thăm gặp là tù hình-sự. Vệ-sinh,
cấp-dưỡng là tù hình-sự. Lâm-sản là tù hình-sự...
Cảm giác đầu tiên của tôi khi xuống hầm phân nhung-nhúc hàng
tỉ con ròi, tôi đã ghi lại trong tiểu thuyết Đồi Fanta, nhân-vật chính là thằng
nhãi bị đầy-đọa như tôi.
“Tôi đang xuống hầm phân thối um và hàng tỉ con ròi bò
lúc-nhúc ghê gớm. Tôi muốn ói. Nhưng cố nín. Rồi cũng phải ói. Tôi không kịp bước
lên, ói tại chỗ, ói trên những con ròi, ói trên lớp phân có mùi thối không tên
gọi, không so-sánh. Tôi ói hết phần sắn điểm-tâm, ói đền phần sắn chiều qua
chưa kịp tiêu hóa, ói ra mật xanh, ói ra mật vàng, ói toàn nước bọt, ói khan quặn
bụng. Thằng nhãi khiêng chung xô phân với tôi dục nhắng. Nó sợ chậm-chạp cán-bộ
đinh nó. Nó vục xô thứ nhất, tôi và nó khiêng. Nó cho tôi đi trước cầm đầu khúc
cây dài. Chuyến thứ hai, thấy tôi vẫn ói khan, nó bảo để nó vục. Tôi cám ơn nó,
tự tay cầm xô vục. Bắt chước nó, tôi đưa hai tay xuống phân dưới hầm lùa vào
cho đầy xô. Những con ròi bò bên cánh tay tôi. Tôi ngẩng mặt nhìn lên. Mặt trời
nhìn tôi … Thằng Tổ trưởng nói đúng. “Xuống hầm vài lần là quen, hết sợ hãi”.
Tôi muốn nói: Đã đến cái nước xuống hầm phân nhung nhúc ròi vục cả phân lẫn ròi
bằng tay thì trên đời không có gì đáng sợ nữa, thì sẽ dám làm bất cứ việc gì. Tổ
phân khen tôi xứng đáng dân xiện. Chúng nó bầy tôi rửa tay sạch rồi lấy lá cải
chà nát thay xà-phòng. Quả nhiên mùi hôi bay biến. Tuy thế, buổi trưa tôi không
ăn nổi, nghĩ tới hầm phân.
Tôi nổi da gà”…
Có lẽ, tôi hạnh phúc hơn thẳng nhãi nhân-vật Đồi Fanta. Là,
tôi có xà-phòng rửa sạch tay trước khi chà lá cải, lá húng chó.
Sự chấp nhận xuống hầm phân của tôi được giải-thích trong Sỏi
đá ngậm ngùi.
“Bây giờ, hầm đã cạn, không thể đứng trên bờ ròng cái xô xuống
múc mà kéo lên. Do đó, đội trưởng Jacqueline đã cho làm cái đường thang
thoai-thoải xuống hầm. Nhưng lom-khom trên bực thang đất dễ té nhào nên tù-nhân
đành phải lội hẳn xuống phân bầy-nhầy, hôi thối, hàng tỉ con ròi, vục xô múc đầy
để bên trên kéo lên. Tôi đứng sát miệng hầm, nhìn xuống. Sự ưu-việt của chủ-nghĩa
cộng-sản ở dưới ấy. Đầy-đọa con người tới mức đó là hết. Chị Jacqueline hỏi
tôi:
- Liệu chị kham nổi không?
- Tôi cố gắng. Tôi đáp.
- Nếu không kham nổi, cứ ỳ ra. Nó kỷ-luật mình tống vô cachot
còn sướng, khỏi lao-động.
- Tôi kham nổi.
Chị Thanh cũng chạy lại, khuyên tôi:
- Chị không xuống hầm phân nó cũng không dám giết chị đâu.
Chúng tôi đều chê hầm phân. Để bọn ngu sợ-hãi. Chúng tưởng lao-động tích-cực
thì sớm được tha. Còn lâu.
Tôi nói:
- Nó hỏi tôi trí-thức làm được những việc gì. Tôi trả lời
trí-thức làm được tất cả. Tôi cần chứng-tỏ với chúng nó rằng, việc của chúng
nó, người trí-thức làm được còn việc của trí-thức, chúng nó không làm được. Tôi
còn muốn chứng-tỏ với chị và với chính bản thân tôi.
Chị Thanh lắc đầu:
- Chị khó hiểu nhưng tôi yêu chị.
Tôi cầm tay chị Thanh:
- Đừng ví tôi với bọn ngu chỉ biết sợ hãi và ham được tha, chị
nhé! Tôi tích-cực làm việc vì đó là công việc. Công việc đó đem lại kết quả gì,
không cần đếm xỉa. Tôi tập làm việc nào đến nơi đến chốn việc đó…”
Công việc xuống hầm vục phân đem lên ngào chung với tro và mạt
cưa bón rau như vậy. Còn vào các cầu-tiêu của trại gánh nước tiểu thì nhẹ nhàng,
tuy mùi khai xông lên làm cay xè mắt. Tôi đã xuống hầm phân, gánh nước tiểu
“nguyên chất” liên tiếp hai tháng.
Chú thích:
1. Căn nhà tù dựng ở bãi lao động của Đội để nấu nước, chứa dụng cụ
lao động, trú mưa và họp đội đột xuất.
18/6/2016Duyên Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét