Tiếng cười trào phúng trong
truyện ngắn Việt Nam thời trung đại
Đặt vấn đề
Tiếng cười trào phúng xuất hiện muộn và không đều đặn trong các tác phẩm văn học
viết thời trung đại. Đặc biệt ở thể loại truyện ngắn/ truyện văn xuôi chữ Hán,
phải đến cuối thế kỷ XIV sang thế kỷ XVI, tiếng cười hiếm hoi mới thực sự xuất
hiện một cách dè dặt. Tìm hiểu nội dung và hình thức của tiếng cười trào phúng
này, bài viết hy vọng sẽ bổ sung cho tiến trình văn học sử đặc điểm diện mạo một
khu vực sáng tác không được quan niệm chính thống đề cao song lại có giá trị
đánh dấu những chặng tiến bộ đáng khẳng định trong ý thức nghệ thuật cũng như
bút pháp văn chương.
Tiêu biểu cho truyện ngắn/ truyện truyền kỳ Việt Nam thời
trung đại ở giai đoạn đỉnh cao của thể loại, Thánh Tông di thảo (TTDT) được
sáng tác trong khoảng thế kỷ XV - XVIII và Truyền kỳ mạn lục (TKML) ra đời
khoảng giữa thế kỷ XVI [1] đều có chung một số nội dung cơ bản
như: ca ngợi tình yêu tự do đôi lứa, phúng thích chính trị xã hội đương thời,
bàn luận quan niệm đạo đức xã hội… Còn một điểm chung nữa về nội dung và giọng
điệu văn chương của hai bộ truyện mà trước nay các nhà nghiên cứu mặc dù đây đó
nhắc tới song chưa chú tâm đánh giá đúng mức, đó là nội dung châm biếm thế sự
và tiếng cười trào phúng khá lạ so với trào lưu chung của nền văn học đương thời.
1. Nhận diện tiếng cười trào phúng trong truyện ngắn Việt Nam
thời trung đại
Trước tiên, để định danh thể loại, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “truyện ngắn” đã
được đa số nhà nghiên cứu ở Việt Nam thống nhất dùng cho các tác phẩm tự sự/kể
chuyện bằng văn xuôi chữ Hán với dung lượng trang viết ngắn gọn. Khái niệm “tiếng
cười trào phúng” bao gồm hai yếu tố “tiếng cười” (trào) và nội dung “phúng
thích” - phê phán, răn ngừa trước điều lỗi, thói xấu. Nếu như quan niệm văn
chương “bao biếm” thể hiện thái độ khen chê một cách trang nghiêm đối với chính
sự hoặc thế sự vốn không xa lạ trong đời sống văn học trung đại, thì yếu tố “tiếng
cười” với những kỹ thuật gây cười nhằm “hạ giá” “giáng cấp” “giải thiêng” đối
tượng lại chính là một “vị khách khó ưa” khó được đón nhận. Dù vậy, thực tế
sáng tác văn học trung đại nói chung và truyện ngắn nói riêng đã xuất hiện khá
rõ ràng sự kết hợp của hai yếu tố “phúng thích” và “trào lộng” tưởng như rất
trái ngược nhau đó.
Qua khảo sát Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn
lục, chúng tôi nhận thấy, số lượng thiên truyện mang giọng điệu trào phúng tuy
không nhiều song tiếng cười phải nói là khá độc đáo, đồng thời số thiên truyện
ít ỏi đó thực sự chiếm vị trí đặc biệt với vai trò không thể thiếu đối với việc
“định hình” giá trị của hai bộ truyện.
Số lượng thiên truyện trào phúng [2] trong hai bộ truyện cụ thể như sau:TTDT có
5/19 truyện = 26,3%, TKML có 2/20 truyện = 10%; tính tổng số hai bộ
là 7/39 truyện = 17,9%. Bản thân con số ít ỏi này là minh chứng cho sự áp đảo của
quan niệm văn học chính thống đối với những tư tưởng nghệ thuật phá cách “ngoại
biên”.
1.1. Tác giả TTDT và TKML hướng tiếng cười trào phúng vào những
đối tượng nào? Trong tiếng cười đó có điểm tương đồng không? Và điểm dị biệt là
ở đâu?
Về vấn đề thứ nhất - đối tượng trào phúng của TTDT và TKML,
xin trình bày kết quả khảo sát qua bảng thống kê sau:
Tên truyện
|
Trào phúng Thần - Phật
|
Trào phúng thế sự
|
Trào phúng và Tranh luận
|
|
1. Hai Phật
cãi nhau (TTDT)
|
+
|
|||
2. Bức thư của con muỗi (TTDT)
|
+
|
|||
3. Trận cười ở núi Vũ Môn (TTDT)
|
+
|
|||
4. Lời phán xử
cho anh điếc và anh mù (TTDT)
|
+
|
|||
5. Người trần ở thủy phủ (TTDT)
|
+
|
+
|
||
6. Truyện cái
chùa hoang ở Đông Triều (TKML)
|
+
|
|||
7. Cuộc nói chuyện thơ
ở Kim Hoa (TKML)
|
+
|
Bảng thống kê cho thấy: Đối tượng trào phúng của hai bộ truyện
không nhiều, chủ yếu tập trung ở hai đối tượng chính. Thứ nhất là lực lượng tối
cao trong đời sống tôn giáo, tâm linh của người Việt - lực lượng Thần - Phật.
Thứ hai là những câu chuyện thế sự - nhân tình thế thái, cụ thể như việc bất đồng
quan điểm/ thói quen sống giữa các nhóm loài (Bức thư của con muỗi); chuyện
tranh chấp vị thế/ tài năng giữa các nhóm loài (Trận cười ở núi Vũ Môn, Lời phán
xử cho anh điếc và anh mù); hoặc mượn giai thoại thơ ca ngụ ý châm biếm thói đời,
nhân tình thế thái (Người trần ở thủy phủ, Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa)…
Vấn đề thứ hai - điểm tương đồng giữa hai bộ truyện: có một đối
tượng trào phúng xuất hiện ở cả TTDT và TKML, nhưng cũng chỉ xuất
hiện ở mỗi tác phẩm một thiên truyện duy nhất, Hai Phật cãi nhau (TTDT) và Truyện
cái chùa hoang ở Đông Triều (TKML), đó là Thần/ Phật, cụ thể là các tượng Phật
trong chùa - những ngôi chùa vào thời điểm hư nát do thiên tai hoặc chiến
tranh, bên cạnh đó còn là tượng thần trong miếu. Hai thiên truyện có những điểm
tương đồng trên đại thể, ví dụ, cách lựa chọn bối cảnh thời gian - không gian xảy
ra câu chuyện - một không - thời gian cụ thể, xác thực theo truyền thống của thể
loại văn xuôi tự sự trung đại (mang dấu vết quan niệm ghi chép lịch sử); đối tượng
trào phúng chủ yếu đều là tượng Phật/ Phật pháp; điểm nhìn trào phúng đều xuất
phát từ tư tưởng chống dị đoan của nhà nho; bút pháp nghệ thuật chủ yếu là sử dụng
yếu tố kỳ ảo để hạ bệ, giáng cấp đấng tối cao trong thế giới tâm linh, tín ngưỡng
của dân chúng.
Bối cảnh không gian - thời gian của truyện Hai Phật cãi
nhau (TTDT) là ngôi chùa ở gần bến đò Văn Giang, ngày 27/8 năm Quý Tỵ, sau
trận lụt to, “đền chùa phần nhiều bị nước cuốn đi hay là đổ nát”. Tác giả (nhiều
phần chắc là Lê Thánh Tông?) trên đường “đi thuyền xem xét nơi nào bị thiệt hại
thì chẩn cấp cho dân” đã tình cờ chứng kiến cuộc cãi lộn của ba vị Phật ngay
gian Tam bảo “đèn nến sáng choang”. Điều đáng nói là cả ba vị Phật này đều xuất
hiện trong tư thế hoàn toàn “phi Phật” “vô Pháp”, vi phạm các điều răn của giới
luật nhà Phật, đặc biệt là ba điều cơ bản “tham”, “sân” và “si”: Phật đất thì
“sắc mặt giận dữ, chỉ thẳng vào mặt tượng Phật gỗ” mà mắng, Phật gỗ cũng “phát
khùng” mắng lại, đặc biệt Phật Thích Ca là “báng bổ” Phật pháp hơn cả - “tay
xách bầu rượu, dáng say lảo đảo” bước ra “bẻ lý” hai Phật đất và gỗ. Tác giả
liên tiếp “hạ bệ” “giáng cấp” ba vị Phật ở từng cung bậc một, từ dáng điệu, sắc
mặt cho đến ngôn từ, lý lẽ. Phật đất mắng Phật gỗ tội bất tài (không thể chống nổi
nước lũ, trôi dòng dạt bãi, lúc nổi lúc chìm, mũ hoa lem nhem, hài vẽ bùn lấm,
như cây chuối nổi, như khúc gỗ trôi…) mà không chừa thói tham lam “dám ở trên
ta mà hưởng lộc ba phẩm”. Phật Thích Ca mắng cả hai Phật gỗ và đất tội bất lực
không chế ngự nổi nước lớn mênh mông, chỉ biết giữ cái “hình hài gỗ đất, ngồi
hưởng rượu thịt của dân chúng”, vô hình trung cũng là tự “vạch áo cho người xem
cái lưng” ham rượu thịt của chính mình. Cả ba vị Phật đều hiện nguyên hình “con
người” đời thường phàm trần với đủ thứ tội lỗi: tham lam, đố kỵ và ngu ngốc. Phật
Thích Ca ở ngôi vị cao nhất cũng lại là kẻ vi phạm nặng nhất giới luật, giữa
lúc dân chúng nổi chìm vì thiên tai lũ lụt, cái ăn không có chỗ ở không yên thì
đức Thích Ca lại chìm đắm trong rượu, say sưa lảo đảo bất chấp sự thế. Trong ba
lời đối thoại của ba Phật, giọng điệu giễu nhại Kinh Phật thể hiện rõ nhất ở lời
Phật gỗ. Hai câu kệ được nêu ra: “Thế gian vạn sự bất như thường, hựu bất kinh
nhân, hựu cửu trường” và “Hữu vật tiên thiên địa, vô hình bản tịch liêu. Năng
vi vạn tượng chủ, bất trục tứ thời điêu”, trong đó, câu thứ nhất có thể hiểu
theo hai cách: “muôn việc trên đời không chi bằng bình thường, đã không làm cho
người ta kinh sợ lại được lâu dài”; hoặc, “mọi việc ở trên đời thay đổi luôn
luôn nhưng lại không làm cho ai kinh sợ và giữ nguyên được bản thể lâu dài”.
Hiểu theo cách nào thì Phật gỗ cũng vẫn lái được ý nghĩa của hai câu kệ theo hướng bao biện bào chữa cho sự bất tài trôi dạt của mình. Qua lời lẽ trí trá của Phật gỗ cũng như lời khoác lác của Phật Thích Ca về “ngũ thông” “lục trí”, hình tượng trào phúng được khai thác sâu thêm một tầng bậc nữa - châm biếm tận “căn gốc” của các tượng Phật đó là giáo pháp, giáo lý từ thủy tổ nhà Phật.
Hiểu theo cách nào thì Phật gỗ cũng vẫn lái được ý nghĩa của hai câu kệ theo hướng bao biện bào chữa cho sự bất tài trôi dạt của mình. Qua lời lẽ trí trá của Phật gỗ cũng như lời khoác lác của Phật Thích Ca về “ngũ thông” “lục trí”, hình tượng trào phúng được khai thác sâu thêm một tầng bậc nữa - châm biếm tận “căn gốc” của các tượng Phật đó là giáo pháp, giáo lý từ thủy tổ nhà Phật.
Bối cảnh không - thời gian của truyện Cái chùa hoang ở
Đông Triều (Đông Triều phế tự lục) cũng cụ thể, có thật như vậy. Đó là vùng Đông
Triều vào đời vua Giản Định nhà Trần (1407-1409), khi chiến tranh chống quân
Ngô (nhà Minh) tạm lắng. Hai pho tượng Hộ pháp trong chùa và pho tượng Thủy thần
trong miếu cũng bị bất ngờ lật tẩy chân tướng phàm ăn tục uống thô bỉ không
khác gì người đời xấu nết.
Vấn đề thứ ba - điểm khác biệt giữa hai thiên truyện cũng
chính là nét đặc sắc nghệ thuật của chúng.
Trước hết là khác biệt về đặc điểm không - thời gian. Câu
chuyện ởTTDT xảy ra lúc đương thời với sự trực tiếp chứng kiến của người dẫn
chuyện - vua Lê Thánh Tông (nhân vật xưng “ta”). Sự kiện lụt lội năm Qúy Tỵ -
1473, Hồng Đức thứ tư, có thể tra cứu trong Đại Việt sử ký toàn thư. Thời
điểm cụ thể hơi khác nhau một chút, Toàn thư ghi “tháng 9 mưa to, mưa
như đổ nước, suốt đêm đến sáng chưa tạnh…” . Đáng chú ý là mùa xuân năm Quý Tỵ
đó, vua ra sắc chỉ cho quan viên và nhân dân về việc cấm rượu và sắc dục: “Kể từ
nay, trong nhà không làm cỗ thết khách thì không được chè chén…
Kẻ nào dám rượu chè bừa bãi… thì phải tội” [3]. Đối chiếu với chi tiết này của Toàn
thư chúng ta sẽ thấy rõ hơn ý nghĩa châm biếm sâu cay của hình tượng Phật
Thích Ca “tay xách bầu rượu, dáng say lảo đảo”. Tiếng cười trào phúng củaTTDT như
vậy sẽ có tác dụng hỗ trợ không nhỏ cho chủ trương độc tôn Nho học của chính thể
triều Lê sơ. Còn câu chuyện ở TKML xảy ra thời quá khứ, cách thời đại
Nguyễn Dữ đến hơn một thế kỷ, lại là một cách “lấy xưa nói nay” theo truyền thống
văn chương “dĩ cổ vi kim” vốn uyên áo mà các tác gia văn học thời trung đại thường
hâm mộ, hoặc giả đó cũng là một cách để vừa trút xả được nỗi bi phẫn trước thời
thế lại vừa “minh triết bảo thân” của họ Nguyễn.
Bên cạnh đó, TTDT có số lượng và loại hình “tiếng
cười” nhiều hơn, phong phú hơn so với TKML. Đối tượng trào phúng thứ hai
chỉ xuất hiện ở TTDT, đó là các câu chuyện thế sự, nhân tình thế thái, chủ yếu là
việc tranh khôn, tranh tài hoặc bất đồng lối sống giữa các nhóm loài. Các chuyện
đều mang tính chất ngụ ngôn, các nhân vật đều giỏi biện luận. Mục đích là châm
biếm thói đời, châm biếm trí thức Nho học. Có lẽ những thiên truyện này đã được
“nhuận sắc” bởi các trí thức Nho học tiến bộ qua các thế kỷ tiếp theo, XVI,
XVII, XVIII. Giọng điệu giễu nhại các giáo lý kinh điển Nho, Phật, Lão là một
trong các yếu tố nghệ thuật tiêu biểu làm nên nét đặc sắc của nhóm truyện trào
phúng thế sự ở TTDT.
1.2. Một trong những đặc sắc của TKML - Nguyễn Dữ so với Tiễn
đăng tân thoại (TĐTT) - Cù Hựu, làm nên “bản sắc” TKML chính là tiếng
cười trào phúng này.
Trong giới nghiên cứu, khi nhận định sự ảnh hưởng của TĐTT [4] đối vớiTKML, các học giả còn ít chú
ý tới tiếng cười trào phúng như một sự khu biệt giữa hai tập truyện, thể hiện ý
thức vượt thoát “phên giậu của Tông Cát” ở Nguyễn Dữ. So sánh TKML với TĐTT,
chúng ta đều thấy hai tác phẩm có chung hai cụm chủ đề cơ bản: diễn tả câu chuyện
tình duyên nam nữ và phúng thích, châm biếm sự suy thoái trong đời sống chính
trị - xã hội. Ở chủ đề thứ nhất, hai tác phẩm có chung một số mô típ cốt truyện
như: tình yêu nam - nữ bị cách trở do các thế lực xã hội hắc ám, tình yêu nam - nữ có duyên nợ từ kiếp trước, tình yêu giữa người và hồn ma/ hồn hoa, tình yêu
nam - nữ chung thủy, chiến thắng cái chết… Ở chủ đề thứ hai, cũng có một số mô
típ cốt truyện chung: người - yêu quái đánh nhau, người đi về giữa hai cõi trần
gian - âm phủ, kẻ sĩ Nho học tranh luận nhằm bao biếm chính trị, kẻ sĩ có tài
năng và phẩm hạnh thường chịu số phận thăng trầm nơi dương thế song cuối cùng sẽ
được vinh danh nơi thiên đường… Trong tình hình đó, Truyện cái chùa hoang ở
Đông Triều (Đông Triều phế tự lục) là trường hợp khá đặc biệt, có mô típ cốt
truyện riêng, khác với kiểu mô típ phổ biến ở TĐTT.
Nếu như tiếng cười trào phúng Phật giới ở TĐTT xuất
hiện nhỏ lẻ, đây đó, chỉ như những chi tiết tô điểm thêm cho diễn biến câu chuyện
(chẳng hạn, hình ảnh pho tượng Phật trong ngôi chùa hoang mà cuồng sĩ Phùng Đại
Dị chạy vào núp để trốn quỷ Dạ Xoa - Thái Hư tư pháp truyện), thì ở Truyện
cái chùa hoang ở Đông Triều, Nguyễn Dữ đã cất công xây dựng thành hình tượng
trào lộng thật đậm nét. Không chỉ dừng lại ở cấp độ đối thoại nhân vật
như Hai Phật cãi nhau (TTDT - tình tiết chính của truyện chủ yếu
xoay quanh cuộc đối thoại/cãi vã giữa ba vị Phật đất, Phật gỗ và Phật Thích
Ca), Nguyễn Dữ tăng cấp hình tượng nhân vật, kết hợp cả đối thoại và hành động,
đặc biệt là chú trọng hành động (tiêu điểm thứ nhất), phần đối thoại trở thành
tiêu điểm thứ hai làm nổi bật “chân tướng” nhân vật. Cốt truyện diễn biến dựa
trên nghệ thuật xâu chuỗi - tăng tiến tình tiết ly kỳ, gay cấn: bắt đầu là vụ
án trộm cắp kỳ bí - thủ pháp phá án bất thành - án trộm càng tăng nặng hơn - mưu chước cầu phù thủy “bùa bèn trừ yểm” rồi đến cầu chùa chiền, Phật pháp đều
thất bại (mức độ tăng án lặp đến lần thứ ba) - cuối cùng án được phá rất giản
đơn, tình cờ mà không kém phần bất ngờ, sửng sốt. Thủ phạm của vụ án hóa ra
chính là đấng bậc chí tôn trong thế giới tâm linh, tín ngưỡng dân chúng - hai
pho tượng Hộ pháp trong chùa và pho tượng Thủy thần trong miếu.
Tinh thần hướng Nho bài Phật chống “dị đoan” thể hiện thật sắc nét qua tình tiết
người đi săn bình thường bị tưởng nhầm là pháp sư cao tay, trên đường chạy trốn
sự nhầm lẫn đáng “xấu hổ”, bằng tài bắn cung “thật” lại tình cờ tiêu diệt được
cả nhóm đấng bậc “ảo” hưng yêu tác quái, lôi bọn trộm cắp giấu mặt đầy nguy hiểm
mà ngoan cố ra ánh sáng. Thần tượng Phật/ Thần bị lật nhào, hạ bệ chỉ cần qua một
vài nét phác thảo tinh quái, từ hành động phàm tục của bọn trộm đội lốt Thần/ Phật
“thò tay khoắng xuống ao, bất cứ vớ được cá lớn cá nhỏ đều bỏ vào mồm nhai nuốt
hết” rồi “dắt nhau đi lên, vào vườn mía, nhổ trộm mà tước mà hít” cho đến lời đối
thoại đậm chất phản Phật ngữ và giễu nhại Nho ngữ giữa chúng “chúng mình thật
to đầu mà dại, bấy nay bị người đời chúng nó lừa dối, ai lại đem cái oản, một
vài lẻ gạo để lấp cái bụng nghìn cân mà đi giữ của cho chúng nó bao giờ… cứ trường
chay mãi như trước thì thật là một đời sống uổng” “bụng đói miệng thèm, không
biết mùi thịt là cái gì đã lâu lắm, chẳng khác chi đức Khổng Tử ở nước Tề ba
tháng không được đụng đến miếng thịt”; đặc biệt là chi tiết “giải thiêng” sắc
nét ở cuối truyện “pho tượng thần đắp bằng đất… mặt tái đi như chàm đổ, mấy cái
vẩy cá còn dính lèm nhèm trên mép…”.
Tiếng cười và đối tượng bị cười đều xuất hiện đậm nét và đặc
sắc như vậy, song rõ ràng có một thực tế là, tiếng cười đó thật hiếm hoi và có
phần đơn điệu, thiên lệch. Quan niệm chính thống về đặc trưng nghệ thuật văn
chương, về chức năng và vai trò/ sứ mệnh của văn chương tồn tại suốt chiều dài lịch
sử văn hóa, văn học trung đại Việt Nam chính là nguyên nhân sâu xa làm hạn chế
khả năng phát hiện cái hài cũng như gò bó chất lượng tiếng cười của
người sáng tác.
2. Nguyên nhân của sự hạn chế tiếng cười trào phúng - Quan niệm
văn chương chính thống
Quan niệm chính thống về chức năng, nhiệm vụ của văn chương thời trung đại được
phát biểu hoặc gián tiếp qua cách xây dựng hình tượng thơ ca cụ thể, hoặc trực
tiếp qua những bài Tự, Bạt giới thiệu các thi/ văn tập - nguyên nhân sâu xa kìm
hãm sự hình thành, phát triển của tiếng cười trào phúng trong văn học thành văn
vốn đã được giới nghiên cứu nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Do khuôn khổ
bài viết, chúng tôi chủ yếu phân tích quan niệm văn chương này trên hai phương
diện cơ bản thông qua những bài Tự, Bạt tiêu biểu đã được giới thiệu rộng
rãi [5].
2.1. Quan niệm văn chương mang chức năng giáo hóa/ giáo dục
Đây có lẽ là quan niệm chủ yếu bởi nó được nhiều tác gia văn chương nhắc tới,
như một sự lặp lại có chủ ý suốt tiến trình văn học qua các giai đoạn. Có thể
đơn cử một vài trường hợp sau:
Hoàng Đức Lương trong bài Tựa Trích diễm thi tập, mặc dù
rất đề cao tính chất tinh túy khác thường của thơ ca song lời cuối bài Tựa vẫn
khẳng định chức năng “giáo huấn” vốn khá xa lạ với thuộc tính “màu sắc ngoài mọi
màu sắc” “mùi vị ngoài mọi mùi vị” của thơ ca: “Và tiếp vào cuối quyển, cũng
xin mạo muội chép phụ vào một ít sáng tác vụng về của tôi vốn dùng làm lời
giáo huấn trong gia đình”. Lê Thánh Tông viết Tựa Quỳnh uyển cửu ca không
quên chốt lại ý nghĩa quan trọng của tập thơ: “Những ý lớn để biểu dương,
những lời sâu để khuyến giới, đều chép đầy đủ để cho sáng tỏ như những lời
ca khuyên răn của đời Đường Ngu, mà hơn hẳn lối văn chương trăng gió mây
sương của đời Tống Ngụy”. Đào Cử đánh giá cao Quỳnh uyển cửu ca bởi
cùng chung quan niệm với các tác giả tập thơ: “Nghĩa lý cao xa, từ khí hùng hồn,
tình khuyến miễn chứa chan ở lời nói, thực là văn thơ dạy người để đời của
bực đế vương.”. Vũ Quỳnh viết Tựa Lĩnh Nam chích quái ca tụng mục
đích “khuyến thiện răn ác, bỏ ngụy giữ chân, cố để cho phong tục được tốt đẹp”; Lĩnh
Nam chích quái “có quan hệ đến cương thường, đến phong hóa không
phải là nhỏ vậy”.
2.2. Quan niệm văn chương ôn nhu đôn hậu
Lý Tử Tấn trong bài “Đề tựa tập thơ Việt âm mới được lựa chọn
lại” đưa ra quan niệm về “phép làm thơ” “thật khó lắm thay”: “Lời, ý giản dị đầy
đủ mạch lạc thông suốt, chất phác mà vẫn nhã, mới lạ mà không trúc trắc, đôn hậu
nhưng không thô kệch, cao siêu mà vẫn có giọng ôn hòa, đó là những điều rất khó
có thể đạt được”, và đó cũng chính là tiêu chuẩn văn chương của người xưa. Lê Hữu
Kiều viết “Bài tựa tập thơ Tàng chuyết” cũng gián tiếp khẳng định quan niệm văn
chương tao nhã: “… ý thơ linh hoạt, mới lạ, phong cách và vần thơ đẹp đẽ, trang
nhã, câu đặt sắc sảo, mới mẻ, dùng chữ tinh tế, sáng sủa…”. Nhìn chung, các học
giả/tác gia suốt thời trung đại đều có quan niệm cơ bản đề cao tính chất “ôn
nhu đôn hậu” của văn học như vậy, ngoài Lý Tử Tấn (1378-1454), Lê Hữu Kiều
(1690-1760), còn phải kể đến một số tên tuổi đại diện nữa như Lê Quý Đôn
(1726-1784), Ngô Thì Nhậm (1746-1803), Phan Huy Chú (1782-1840)... Về bản chất,
hai quan niệm văn học này có thể coi là một, hội tụ hai vấn đề chức năng và
tính chất/ đặc trưng của văn học theo tinh thần Nho giáo.
3. Yếu tố kích hoạt tiếng cười trào phúng trong văn học viết - Hoàn cảnh thời đại và tư tưởng cách tân
Mặc dù quan niệm văn chương chính thống đề cao chức năng giáo
dục, thẩm mỹ và những thủ pháp ngôn từ điển phạm, trang nhã, sùng thượng, hướng
cổ, song thực tế xã hội luôn tạo ra những tiền đề cho các tác gia văn chương vượt
thoát khỏi những quy phạm/ chế định ngặt nghèo đó. Hai tiền đề cơ bản phải kể tới
là: thời đại suy vi và sự xuất hiện mầm mống tư tưởng cách tân tiến bộ của giới
trí thức.
3.1. Hoàn cảnh thời đại
Thời đại suy thoái về chính trị, xã hội là tiền đề trước tiên dẫn đến sự chuyển
biến trong nhận thức và quan niệm văn chương. Đó là khi giới trí thức Nho học
nhận thấy sự đổ vỡ trong lý tưởng, không còn toàn tâm tin tưởng những học thuyết,
quan niệm truyền thống. Có một cách giúp họ trút xả những nỗi niềm bi phẫn trước
thời cuộc, đó chính là tiếng cười trào phúng, mà một trong những yếu tố cơ bản
của tiếng cười ấy là kỹ thuật “hạ giá” “giáng cấp” đối tượng, đặc biệt là đối
tượng thống trị cấp cao. Lê Quý Đôn có một nhận định nổi tiếng về thời đại Lê
Thánh Tông và Nguyễn Dữ khi nhà bác học đánh giá về ba lần biến đổi của “phong
độ sĩ phu” thời Lê sơ: “Khoảng giữa niên hiệu Hồng Đức, mở rộng khoa cử, tuyển
nhiều nhân tài, sĩ tử tập lối văn bóng bẩy, đục gọt từng câu, mong sao được đỗ
để ra làm quan...muốn tìm lấy hạng người khí tiết khảng khái trong thời này xem
ra có phần thưa thớt… Nhưng phương pháp thi cử nghiêm ngặt… cho nên người tại
chức ít thói cầu cạnh mà trong nước biết quý danh nghĩa”, đấy là lần biến đổi
thứ hai. Thời kỳ này ứng với thời điểm xuất hiện ban đầu của TTDT, tài
năng phẩm hạnh của giới trí thức Nho học đã có sa sút so với thời Lê Thái Tổ
gây dựng lại đất nước, càng sa sút hơn so với thời Trần, đã để lại dấu ấn trong
nhóm truyện trào phúng thế sự (Trận cười ở núi Vũ Môn, Lời phán xử cho anh điếc
và anh mù, Người trần ở thủy phủ). “Từ năm Đoan Khánh (niên hiệu Uy Mục đế
1505 - 1509) trở về sau, lời bàn luận sáng suốt bẵng đi, thói cầu cạnh mỗi
ngày một thịnh, người có chức vị ít giữ được phong độ thanh liêm nhún nhường,
trong triều đình không nghe có lời can gián, gặp có việc thì rụt rè cẩu thả, thấy
lúc nguy thì bán nước để toàn thân, dầu người gọi là bậc danh nho cũng đều yên
tâm nhận sủng vinh phi nghĩa, rồi nào thơ ca trao đổi, khoe khoang tán tụng lẫn
nhau, tập tục sĩ phu thối nát đến thế là cùng, tệ hại biến đổi lần này không thể
nào nói cho xiết được.” [6]. Đây là thời Nguyễn Dữ sống, dễ thấy những
ba động từ sự sa sút sĩ khí nho phong đó ảnh hưởng đến ngòi bút phúng thích thời
thế của tác giả họ Nguyễn, đặc biệt là sự xuất hiện của hình tượng trào phúng đậm
nét trong truyện Cái chùa hoang ở Đông Triều. Hình tượng bộ ba nhân vật Thần/ Phật
(gồm hai pho tượng Hộ pháp và một pho tượng Thủy thần) bị “giải thiêng” với tiếng
cười chế nhạo khoái trá dồn nén suốt từ đầu tới cuối thiên truyện mới được dịp
bùng phát, đặt vào hệ thống chủ đề phúng thích xã hội của toàn bộ TKML,
chúng ta sẽ thấy truyện Cái chùa hoang ở Đông Triềuchính là tâm điểm bộc lộ
niềm cảm khái sâu xa của Nguyễn Dữ trước thời cuộc nói chung cũng như trước
giai cấp thống trị chóp bu nói riêng. Năng lực vạch trần một cách kín đáo, sâu
cay chân tướng của những sự thối nát mù mờ thống trị trong mọi lĩnh vực đời sống
xã hội, những sự đội lốt, “giả trang” lòe bịp dân chúng… đó là thế mạnh đặc biệt
của tiếng cười trào phúng mà Nguyễn Dữ đã “lợi dụng” được, một phần nhờ sự trải
nghiệm những trầm luân cuộc đời.
3.2. Tư tưởng cách tân
Chưa có tài liệu nào trực tiếp và cụ thể nghiên cứu về sự
cách tân tư tưởng của các tác gia Nho học Việt Nam giai đoạn thế kỷ XV, XVI.
Song qua truyện Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa (TKML) và một phần truyện Người
trần ở thủy phủ (TTDT) chúng ta có thể phần nào nhận định về tình hình
thay đổi trong nhận thức và phản ánh văn chương của các tác giả. Có thể coi đây
là hai tác phẩm “thi thoại” tiêu biểu của thế kỷ XV - XVI, theo khuynh hướng
ngược lại với “chuẩn mực” chung của thời đại mà Hồ Nguyên Trừng chủ trương khi
viết Nam Ông mộng lục (vào khoảng năm 1438) trên đất Trung Hoa. Tác
giả TTDT đưa thơ ca ngợi chuyện ái ân nam nữ và những khát khao nhục
cảm vào Người trần ở thủy phủ để mở đầu giới thiệu “sự nghiệp” văn
chương của người học trò miền núi Vũ Ninh “nổi tiếng là bậc thông nho”. Sau đó
là việc “tuyên truyền” những bài phú thiên về châm biếm, cười nhạo người đời
(bài phú “Nghiệt phụ” chê cười mụ đàn bà hàng xóm vô đạo), cảnh đời trần tục
(bài phú “Giữ răng cho người bạn già”)…. Tình hình ở Cuộc nói chuyện thơ ở
Kim Hoa cũng tương tự như vậy. Đã diễn ra một cuộc tranh luận vừa ngấm ngầm
vừa bùng phát rõ rệt giữa hai quan niệm văn chương - quan niệm truyền thống và
quan niệm đương thời. Xét bề mặt câu chữ, dường như Nguyễn Dữ vẫn không thoát
ly truyền thống, song bên cạnh thái độ bênh vực cái cổ điển, việc trích dẫn khá
la liệt những lời lẽ thơ ca “phi truyền thống” “mỉa giễu” “nhan nhản” đương thời
như thơ chế giễu nữ Học sĩ Kim Hoa, chế nhạo Hằng Nga, Lộng Ngọc… đã cho thấy một
phần bước lùi dù miễn cưỡng của nhà nho Nguyễn Dữ trước sức mạnh của một quan
niệm khác/ mới về chức năng - vị trí của thơ ca.
Thay lời kết
Tiếng cười trào phúng trong truyện ngắn Việt Nam thời trung đại
tuy chưa đủ nhiều và mạnh để làm nên một phong cách tác gia hay trào lưu văn học,
song nó cũng đã ghi lại những dấu ấn khá đặc sắc, đánh dấu một bước trưởng
thành về quan niệm sáng tác văn chương của các tác giả từ thế kỷ XV, XVI trở
đi. Với những nét tương đồng về thời đại, tiếng cười trào phúng trong truyện ngắn
Việt Nam thời trung đại đã phần nào có sự gặp gỡ với tiếng cười trong văn học
các nước trên thế giới, như Nhật Bản, Trung Hoa, Pháp, Tây Ban Nha… Tìm hiểu mối
quan hệ ảnh hưởng cũng như sự khác biệt độc đáo trong tiếng cười giữa các tác
phẩm văn học của các nước kể trên là một đề tài nghiên cứu lý thú song cũng đầy
khó khăn, thử thách. Chúng tôi hy vọng sẽ có dịp trở lại vấn đề này ở một tầm mức
chuyên sâu hơn.
(Bài tham dự Hội thảo Văn học Trung tâm và Ngoại biên - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 12/2012.)
1. Thánh Tông di thảo, NXB Văn hóa/ Viện Văn học, Hà Nội,
1963.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, NXBKHXH, Hà Nội,
1993.
3. Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 16, NXBKHXH, Hà Nội,
2000.
4. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, NXB Sử học, Hà Nội,
1962.
5. Trần Ích Nguyên, Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại
và Truyền kỳ mạn lục, NXB Văn học/ Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội,
2000.
Ghi chú:
Ghi chú:
[1] Về thời điểm sáng tác của TTDT và TKML:
Chúng tôi tán đồng quan điểm của dịch giả TTDT, cho rằng, việc xác định chắc
chắn tác giả và thời điểm sáng tác TTDT là bất khả thi, tạm coi 19
thiên truyện chủ yếu là sáng tác của Lê Thánh Tông (1442 - 1497), bên cạnh đó
có một vài thiên truyện được đời sau bổ sung thêm, trong khoảng thời gian 4 thế
kỷ từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII. Nguyễn Dữ (sống khoảng cuối thế kỷ XV -
đầu thế kỷ XVI) sáng tác TKML khoảng những năm 30 của thế kỷ XVI (sớm
nhất là năm 1509, niên hiệu Đoan Khánh 5, đời Lê Uy Mục; muộn nhất là năm
1547, niên hiệu Vĩnh Định thứ nhất, đời Mạc Phúc Nguyên).
[2] Từ đây chúng tôi sử dụng thuật
ngữ “truyện trào phúng” để gọi chung các thiên truyện xuất hiện tiếng cười trào
phúng.
[4] Cù Hựu (1347 - 1433) hoàn
thành Tiễn đăng tân thoại năm 1378, niên hiệu Hồng Vũ 11, đời Minh
Thái Tổ (Xem Trần Ích Nguyên, tltk, tr.82).
[5] Những bài Tựa, Bạt được trích dẫn
trong bài viết đều ghi theo Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 16, NXBKHXH, Hà
Nội, 2000.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét