Mùi hương xuân sắc
LỜI MỞ ĐẦU
Tựa
"Les hommes sont si nécessairement fous, que ce serait
être fou par un autre tour de folie, de n’être pas fou." (Người ta vốn
điên, điên một cách thiết yếu đến nỗi không điên cũng là điên theo một lối
khác).
Ấy là lời của? Của một Kẻ Tư Tưởng Âu Châu thế kỷ 17 (mà
Heidegger có nói tới trong Sao Gọi Là Suy Tư). Kẻ gay cấn chịu chơi trong triết
học, kẻ gây kinh hoàng thán phục cho mọi nhà khoa học những thế kỷ sau – mặc dù
cái tên tuổi của y quả nhiên là rất tếu (Pascal) cà gật ba gai.
“Xấp xỉ cùng một thời với Descartes, Pascal khám phá ra cái
lý tính của trái tim…” - (của cái tâm hồn vô lượng của uyên nguyên tư tưởng).
Sao gọi là tư tưởng? – từ đó có nghĩa là: sao gọi là “trái
tim vĩnh viễn” (Hölderlin) của Vô Lượng Tâm? Là Nhị Vô Lượng Tâm? Hay là tứ ngũ
thập vô lượng Lý?
Sau nghìn thế kỷ của ba trăm năm điêu tàn sa mạc, con người
Trí Thức Tưởng Giả Da Vàng vẫn điên cuồng nằm ngủ tại “trung tâm” trái bom
nguyên tử, và vừa o bế o bồng “Nguyên Tử Tâm” vừa ò e nguyền rủa trái bom ly kỳ
da trắng. Vừa thống thiết tự xưng “ta đông phương da vàng” vừa lém luốc dòm dỏ
theo đuôi “em tây phương tiến bộ văn minh da trắng".
Quả nhiên thật là là? Là điên theo lối gay cấn? Là cuồng dại
theo thể lệ da–vàng–rạng–rỡ-Lục-Hồng-Tích–Tham–Lam?
"Hồng tham
Dự lục tô bồi?"
Không phải không phải không phải. Vì sao không phải? Bởi vì:
“Les hommes sont fous, si nécessairement fous, que…"
Điên cuồng thiết yếu bức bách đến nỗi?
Đến nỗi:
Vừa lém luốc dòm dỏ theo đuôi Em Văn Minh Da Trắng vừa ò è uốn
éo ưỡn ẹo la to lên rằng Em–Đìu–Hiu–Da–Trắng–vong bản–hơn–Ta–Da-Vàng.
Sông dài biển rộng ngàn thu sau vẫn không sao gột rửa sạch
cái chỗ quái dị tâm ly kia của không–lường–đông–phương–sa–mạc. Nghìn vạn Cô Em
Mọi Nhỏ đi tiểu trên Nấm Mồ Trung Niên cũng không thể nào vãn hồi được sự huống
lém luốc nhà ma bên phương hướng bình minh hòng nhật.
“Chắc chi thiên hạ đời nay, mà đem non nước làm rầy chiêm
bao." (N.Trãi)
Đem non nước làm rầy giấc chiêm bao của hồng hoang mặt đất?
Đáng vào đâu?
Thiên hạ đời nay là gì? Có liên can đến thiên hạ đời nào? Mà
chiêm bao là gì? Đem non nước làm rầy chiêm bao suốt bình sinh của hùng tâm
thiên hạ? Sao gọi là thiên hạ? Thiên hạ là giữa bụi hồng? Sao gọi là bụi hồng?
Là “bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao”? – Khốn nạn khốn nạn! Chiêm bao bèo bọt
bóng vang? Bóng vang của vang bóng? Vang bóng của mộng mỵ? Mộng mỵ của chiêm
bao? Kết thúc của Vô Lượng Tâm Ba La Mật Bát Nhã? Ồ!
Sương biệt ly bất thình lình là Nguyệt Hồi Phục? Les Chimères
là Adrienne Sylvie?
Không phải không phải.
Vì sao không phải?
Bởi vì bởi vì bởi vì? Bởi vì toàn thể địa cầu đang lom lem
hình thành Mạt Thế Thể của Sử Lịch Hương Nguyện Tương Lai. Và mọi cuộc cuồng
điên vô–sở-tòng–lai–diệc–vô–sở-khứ, và mọi cuộc như–lai calvaire–bí–mật–xứ, và
mọi trái bom hòn đạn trút lên đầu lên cổ da vàng da trắng da đen, vẫn không một
mảy may nào giải thích được cái nghĩa lẽo đẽo chiêm bao cho bụi hồng đi về hồi
phục.
Trong một đêm đông băng giá, Nerval đã thắt cổ hai lần cho tử
sinh nhị tử. Nếu Marx Nietzsche trùng sinh thế kỷ này, ắt các ngài sẽ thắt–cổ-ba–lần–ca–vát–thần
thông cho “tâm sự di thần triều Lê” được tử diệt thênh thang trong da vàng tình
tự.
Tuy nhiên? Tuy nhiên một vạn lời Nguyền Rủa của sử xanh vẫn
không thể nào đưa bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao trong Chúc Phúc. Do đó có
câu:
“Tiền trình vạn lý đầu hoa
Ngờ đâu cuối tuyết còn xa vô cùng.”
(Tạm gọi đó là lời tiễn đưa cho bọn trí thức trưởng giả lên
đường).
Người ta nhớ rằng đầu thế kỷ 19 Nguyễn Du Hölderlin Beethoven
cùng đi về trong mùa dự cảm thênh thang. Thênh thang vì ấy chẳng phải dự cảm rằng
mình là những “di thần triều Lê nhớ nhung cựu chúa” mà ấy bởi dự cảm bi hùng kịch
biển dâu của những thế kỷ sắp tới, và tại thể tự thân phải chịu cưu mang lấy
nghiệp dĩ làm Trường Sở Trụ cho một cuộc tranh chấp dị thường giữa những Thần Đế
đang đi vào quá khứ và những Thần Đế man mác tương lai. Gánh lấy cái nghiệp kia
quả nhiên là nặng lắm. Và bao phen ngôn ngữ loài người đã đành chịu vỡ toang
cung bậc vì sự yêu thỉnh khôn hàn của cuộc hình thành một Thần Đế Thể bất khả
tư lường đối với đám đông quần chúng huynh đệ. Niềm cô độc mênh mông xâm chiếm
trái tim một vài người của nòi dự cảm. Trước một Hoàng Hôn của Sử lịch và sau một
Đêm Dài Bất Tận của Sử Xanh, niềm dự cảm quy lại về một Bình Minh không tên tuổi.
Và sự đó yêu sách liên miên những dông bão (nội tâm) song song với những chói
chang gay gắt và những tà ngậm ngùi. Những vũ tuyết, những vân sương, xô ùa
nhau gào kêu thị hiện và hình thành trong tinh thể khác.
“Bờ bến lạ lá cây rung cùng tột
“Trận điêu tàn bào háo nhị giai nhân…”
Sau Nguyễn Du Hölderlin một phần ba thế kỷ, những Huyễn Mộng
(Les Chimères) Nerval lại khiến cho những lá Cây Dự Cảm Bờ Bến Lạ rung lên tuyệt
trù lần nữa. Không biết bao nhiêu Trận Điêu Tàn bào háo từ đó đã xảy ra. Les
Fleurs du Mal, Une Saison en Enfer, Zarathoustra… Toàn nhiên là tinh hoa Tây
Phương Hy Lạp Địa? Trừ Nguyễn Du, Đông Phương Trung Hoa Ấn Độ Thổ tuyệt nhiên
không một Linh Hồn Thái Bình Dương nào cảm ứng nổi cái trận điêu tàn bào háo bờ
bến lạ bên những lá cây cùng tột rung lên (…) Đông Phương đã tiếp tục ngủ vùi
giữa những trầm thống thất thanh kia. Và lúc sực tỉnh ra thì chỉ biết thống thiết
chạy theo đuôi một cái đuôi hút heo tan nát, vừa chạy theo đuôi vừa gào to lên
rằng mình vừa chộp được một cái đầu thật bự.
Sự tình ấy tiếp diễn miên man quái gở cho đến khản kha thay
là sự huống đi về ở giữa thế kỷ hai mươi trong tình-huống-da-vàng–xuân-xanh
sái-dị…
Xuân thu trang điểm tình hình
Nghe đâu tình trạng nhớ tình huống xưa (…)
Chạy quanh vườn cỏ năm sau
Chép câu tội lỗi từ bao nhiêu lần (…)
Những “vườn cỏ năm sau” đang lên đường đi về trong Kết Tập những
“vẻ diễm kiều của mặt đất mẫu thân”. Mặt đất đã rung lên bao phen não nùng
trong đắm đuối, kể từ thuở ấy đến nay? Kể từ những mùa hạ sơ khai đầu–tường–lửa–lựu–lập–lòe–đâm–bông?
Kể từ những mùa xuân sơ nguyên sơ thủy nách-tường-bông-liễu–bay–sang-láng giềng?
Không biết không biết. Vì kể từ bấy là kể ra bao. Kể ra bao
là kể vào bấy. Bao bấy theo nghĩa: bao-bấy-chầy.
“Bấy–chầy chưa tỏ âm hao”
(Nguyễn Du)
“Hoặc là trong có làm sao chăng là?”
Chính thế.
Sau bao nhiêu những bấy–bao–chầy–bấy–chăng–là cuộc cơn “chưa
tỏ âm hao” kia vẫn tiếp tục lũ lượt đi về trong từng phen phen nối đuôi lả tả tứ
điệp ngũ trùng của đảo tứ điên tam.
"Hoặc là trong có làm sao chăng là?"
Vấn cú được nêu ra trầm thống đơn sơ trong tịch mịch. Nhưng
chưa một lần nào Đông Phương nghe ra lời chất vấn là là, hoặc, chăng, chăng, bấy
bấy, chầy chầy, trong trong, có có…
Bấy chầy
Chưa tỏ
Âm hao
Hoặc
Là? Trong
Có
Làm
Sao? Chăng? Là?
Mà oái ăm sao là cái âm hao đi về trong bóng nhạn. Trong cánh
hồng bay bổng. Trong cái ngoài song thỏ thẻ oanh vàng.
“Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng
Nách tường bông liễu bay sang Láng Giềng”
Bay sang láng giềng để hình thành cận lập cái chi? Cái Lãnh Địa
Mnemosyme của Đầu Thai Ký Ức?
Không biết không biết không biết.
Vì sao không biết?
Vì tình hình tình huống tự tình của tình trạng hoàng hôn
trong Phố Chợ Chiều lâm ly trong tình duyên sa mạc?
Không hẳn không hẳn không hẳn.
Vì sao không hẳn?
Vì ấy bởi “Xuân thu trang điểm tình hình, nghe đâu tình trạng
nhờ tình huống xưa…”
Và do đó, mọi sự đã thênh thang đi vào trong bao dong Chiều
Phố Chợ tham dự đầy rẫy những lục hồng.
“Một chiều phố chợ thênh thang
Chanh hồng quít lục thu dàn loạn ly
Mắt xanh hình thể trụ trì…”
Trân trụ trì hình thể mắt xanh kia từ đó thoắt nhiên là ân lộc.
Ân lộc của ân huệ từ bi nảy ra từ trận điêu tàn ban sơ bóng nhạn của Quy Lai trầm
luân trong Hồi Phục đắm chìm trong từng trận “di hồn tuyệt yến Dã Man Oanh”.
“Du hý mộng trường mao vũ tận”
(Hồi đầu, nghiệt hải Thích Ca Thân)
Có thể là như thế đấy chăng? Là Trận Chào lưu ly giữa phù du
phong vân hồi phục?
(Mắt xanh hình thể điêu tàn
Chào cô Gái Lạ cô càng lạ thêm)
Nguyễn Du đã chào cô Gái Lạ Triều Minh. Từ Hải đã chào cô Gái
Lạ Lầu Xanh. Homère đã chào cô Gái Lạ Troyenne Nữ Vương Andromaque. Ulysse đã
chào cô Gái Lạ Phéacienne, Công Chúa Nausicaa. Nerval đã chào cô Gái Lạ Thiên
Thu Thánh Nữ Thấp Thoáng Andrienne Nghìn Thu Thuần Nhiên Sylvie Phơ Phất. Trung
Niên cũng còn có thể tha hồ chào mọi mọi Em Mọi Gái Lạ Brigitte Marilyn. Trên
muôn ngàn tàn phế điêu linh của Mẫu Thân Mặt Đất, nghìn nghìn kẻ kẻ người người
đã chào chào đón đón nghìn nghìn những Quốc Sắc kết tập những Châu Thổ Lãnh Địa
Diễm Kiều. Để làm gì?
Để muôn vạn lầm than bụi hồng tro than lẽo đẽo, muôn nghìn thảo
hoa dựng dậy trên muôn nghìn tàn phế của tích lục hồng cho hồng tham dự lục tô
bồi… và sau đó?
Sau đó chúng ta xúm xít đi về, lũ lượt nối đuôi nhau tràn lan
nêu câu hỏi: cớ sao tham hồng tích lục? Cớ sao mà chào? Cớ sao mà tích tham lại
di hồn lục hồng về tham dự? Cớ sao mà sau trận điêu tàn bào háo nhị giai nhân,
thì toàn thể những Nương Tử Sử Xanh bỗng nhiên bất thình lình quy lai về tinh
hoa tuyệt trù quái dị lâm ly trong bước đi của Bà Hiệu Trưởng.
(Bà đi thể lệ bước ra
Tay khăn tay áo tà hoa thêu thùa
Bà về cỏ rậm giậu thưa
Đêm tàn cấm nguyệt chiều trưa lâm tuyền
Lá rừng kết tập oan khiên
Lãng quên dõng cảm muộn phiền hùng tâm
Người về lịch sử ca ngâm
Phù du phương cảo huyền cầm bảy giây
Đất về tình sử phôi thai
Nắng vàng đổ lục cuối ngày bà đi…)
“Un arc-en-ciel étrange entoure ce puits sombre” (…)
(Một cầu vồng vân nghê dị thường bao quanh cái giếng u ám ấy)
(…)
“Entre un monde qui meurt et l’autre renaissant”
(Giữa một thế giới đang chết và thế giới khác phục sinh)
“Sais-tu ce que tu fais, Puissance Originelle,
De tes soleils éteints, l’un l’autre se froissant…”
(Hỡi Quyền Uy Nguyên Thủy
Ngươi biết chăng ngươi làm gì
Về những vầng nhật chìm tắt của ngươi,
Những vầng nhật va chạm vào nhau)
(Liên miên như
Bardot triền miên giập vào bờ Brigitte)
(Như Sylvie cập bến Adrienne)
“Es-tu sûr de transmettre une haleine immortelle
Entre un monde qui meurt et l’autre renaissant?”
(Ngươi có chắc truyền tiếp được một hơi thở thiên thu (bất diệt)
Giữa một vũ trụ điêu tàn và một vũ trụ phục sinh?)
Kể từ câu hỏi đó,
“La terre a tressailli d’un souffle prophétique”
Và kể từ đó, Thần Tinh Huệ Mới gọi ta. Phượng hoàng, hoàng hạc,
chim ó, chim bằng, đã bay qua, đã đi vào quá vãng. Ta đã bay qua, đã đi vào quá
vãng. Ta bước về thênh thang trong đôi cánh chuồn chuồn bé bỏng, man mác vô
phương “cá sóng phiêu bồng”, và…? Bước về và ra đi và trùng lai hồi phục như
“ngàn năm ngậm bóng sương đồng”…
“L’esprit nouveau m’appelle.
J’ai revêtu pour lui
La robe de Cybèle…”
Sao thế sao thế sao thế?
(Ruộng Đồng chưa thể đoán ra? Rằng trong ý bạn là ta lên đường?
(Các em đầu đội vai mang
Tiếng kêu rào rạt mùa lan sang mùa
Anh đi cây bút vẽ bùa
Chào em như mộng mỵ thừa thãi dâng)
Sylvie
Souvenirs du Valois
Dịch giả: Bùi Giáng
PHẦN I - ĐÊM LÃNG PHÍ
Tôi bước ra khỏi rạp hát. Rạp hát mỗi đêm tôi tới ngồi ở dãy
ghế đầu ngay trước sân khấu, vận lễ phục xum xuê của kẻ mê gái mơ màng. Đôi
phen rạp hát vắng teo. Tôi chẳng thiết đưa mắt ngó sân xem hát với đôi ba chục
tài tử ham chuộng miễn cưỡng ngồi tại đó, với những chiếc mũ và y phục lỗi thời.
Cũng chẳng thiết chi cái việc chen chúc ngồi chung một phòng với bọn khán giả ồn
ào, với những thứ điểm trang hoa gấm, với những vòng vàng xuyến ngọc sáng ngời,
và những khuôn mặt lồng lộng tươi vui. Tôi hờ hững với cảnh tượng phòng hát. Cảnh
tượng trên sân khấu cũng chẳng thu hút được tôi – ngoại trừ cái xen thứ nhì hoặc
thứ ba của một kiệt tác buồn thiu thuở đó: lúc bấy giờ, một trận xuất hiện kiều
diễm quen thân bỗng làm rạng ngời khoảng không gian vắng vẻ, và bằng một hơi thở,
bằng một tiếng ngân, bằng một nụ cười hây hây, bỗng trả lại linh hồn sinh động
cho những khuôn mặt nhạt nhẽo ở xung quanh tôi.
Tôi cảm thấy mình rạt rào sống lai láng trong người nàng, và
đối với tôi, chỉ duy có nàng là kẻ sống duy nhất trong thế gian. Nụ cười của
nàng mở ra, thì lòng tôi ngập tràn hạnh phúc; tôi rung động khắp châu thân vì
hoan lạc yêu đương, lúc nghe giọng nói của nàng ngân lên, giọng nói xiết bao êm
ái, mặc dù cao vút lanh lảnh pha chút phiêu bồng trọ trẹ cõi hương giang. Coi tề,
tôi trộm nghĩ thiết tha, nàng mang trong mình xiết bao kiều diễm, nàng đáp lại
xiết bao phấn chấn chiêm bao trong linh hồn tôi nhảy múa, - đẹp như man mác Vu
Sơn, tươi như ánh vàng nguyên tiêu của nguyệt, xanh xao như đêm mờ ngất tạnh
giá băng, giữa làn ánh sáng lưu ly mờ tỏ, chiếu tỏa bốn bề bằng lộng lẫy dung
nhan, như những Nữ Thần Eirênê giữ cửa Thương Khung hiện ra trên nền màu nâu những
bức bích họa ở cựu thành Herculanum!
Từ một năm rồi, tôi vẫn không nghĩ tới việc dò xét xem nàng
là ai. Nàng từ đâu tới. Nàng ở đâu về. Tôi sợ sẽ làm hoen mờ cái tấm gương huyền
ảo phản chiếu hình ảnh nàng cho tôi mở mắt ngó hôm nay. Nhiều cho lắm, thì tôi
chỉ để tai nghe vài câu chuyện bàn tán có liên can tới nàng, tới người phụ nữ
là nàng, chớ không phải là tới nàng người ca sĩ nguy nga. Tôi chẳng để tâm dò hỏi
làm chi, nghe thì nghe suông, cũng nghe mơ màng như nghe chuyện phiêu bồng liên
can tới Công Chúa Elide hoặc Hoàng hậu Trébizonde, - một người cậu của tôi, đã
sống qua những năm cuối của thế kỷ 18, có sống thật trong đó thì mới rõ ra thế
nào, cậu tôi đã từng sớm cho tôi biết rằng những cô đào mang linh hồn ca sĩ, thật
ra không phải là đàn bà phụ nữ, vì tạo hóa lúc nặn hình hài các nàng, đã lãng
quên không tạc cho các nàng một trái tim. Chắc hẳn là ông ta nói về những ca
nhi thời xưa, thời đại thế kỷ mười tám, dở dang, những thất vọng, những ngang
trái của ông, và đưa cho tôi ngó bao nhiêu những hình dung trên mặt ngà, những
médaillon mặt ngọc, những hình tượng mặt vàng (mà ông dùng tô điểm cho những hộp
đựng thuốc lá), những tờ thư vàng úa, những ân huệ mưa móc tàn rơi, kể cho
nghe, kể hết, và toán định toàn thể ván bài lỡ dở nhâm nhi, cho đến nỗi từ đó về
sau, tôi đã quen coi mọi ca thi đào hát là thuộc loại người chả đáng chi cho lắm,
mà quên mất rằng chuyện thời trước rất có thể khác hẳn chuyện thời nay.
Thuở bấy giờ chúng tôi sống trong một thời đại dị thường, giống
những thời đại nối tiếp những cuộc cách mạng, hoặc những suy vong của những triều
đại lớn. Không còn nữa cái cốt cách phong nhã oanh liệt như dưới thời Đầu Thạch
Đảng. Không còn nữa cái lối trụy lạc thanh tao tội lỗi phong vận điểm trang như
dưới đời Nhiếp Chính. Không còn nữa cái điệu hoài nghi, cuồng điên truy hoan
như dưới thời Chấp Chính. Mà ấy là thời buổi của hoạt động mơ hồ, pha lẫn những
ngại ngùng lười lĩnh, biếng nhác phân vân, những ảo mộng hoàng vân, những hoàng
sa ốc đảo, những trăng tỳ hải, những sương phiêu bồng, những ước vọng siêu
hình, siêu thể, những ý hướng, siêu nhiên, những phấn chấn mông lung, những
chiêm bao bờ cỏ, những tiềm tàng bản tính phục hưng, hồi sinh nơi thạch tượng.
Những ưu sầu vì bao cuộc bất hòa quá vãng, những phiền muộn vì linh cảm những
tranh chấp tương lai, những hy vọng đi xuôi về ngược, những u tình vãng sự như
yên, những mây giang nam, những cành sung cũ kỹ, những con chim từ bỏ nắng chiều…
Vâng, có bề giống như những gì của thời đại Pérégrinus và Apulée. Con người vật
chất thô lậu tứ chi, vẫn triền miên mơ tưởng tới cái bó hoa tường vi kỷ độ đâm
bông sẽ đem nhựa tái sinh đi về làm cho tâm linh mới mẻ, sẽ mang trời sương Hy
Lạp về trên làn cánh trắng những phi tuyền tung rơi từ bàn tay Isis trong triều
dâng kỷ niệm nhớ mai sau sắp buông cầm xốc áo… Nữ Thần ôi! Em trường sinh trẻ dại!
Tiên Tử ôi! Em trẻ dại muôn đời. Hồn trinh bạch em kỳ ảo lôi thôi đi về trong
chiêm bao lẽo đẽo trong những tĩnh dạ thâm canh, và kêu gọi mãi cái lời gì xui
lòng ta xấu hổ vì những lời truy hoan lãng phí mất xuân xanh. Tuy nhiên, tham vọng
lai rai không phải là linh hồn của tuổi trẻ chúng tôi thời đó. Và cái hiệu kèn
dón dả vô độ tham lam những vinh quang hão, những tước lộc hờ, hồ dễ đã cuốn
hút chúng tôi đi. Chúng tôi còn một chốn cư trú thiết tha, một doanh trại nguy
nga là ngọn tháp ngà thi sĩ, để đi về xe mộng thổi thâm thể lên trời theo trận
trường phong đổ lộc rung cây, với những mùi hương bốc ôn hinh một thuở Đạm Tiên
nàng ấy không chồng. Phụng thần hôn tại phiêu bồng dặm khơi, Thư sinh nhất giới
bên trời. Trút nghiên bút mộng trong lời tang du. Đằng Vương gác ngất non mù.
Nguồn man mác gọi sương phù du tuôn… A ces points élevés où nous guidaient nos
maîtres, nous respirions enfin l air pur des solitudes, nous buvions l oubli
dans la coupe d or des légendes, nous étions ivres de poésie et d amour… Tại những
đỉnh chơi vơi, theo dấu chân của những bậc thầy hướng dẫn, chúng tôi cuối cùng
đã hô hấp bầu không khí trong veo ở chín tầng thái hư tĩnh mịch, chúng tôi đã uống
vào trong tim máu, niềm quên lãng ở giữa lòng những chén vàng, ly ngọc của những
chuyện thần tiên, nương tử hoa đường, chúng tôi đã đê mê với men rượu thi ca và
tình ái.
Tình ái, hỡi ôi! Ái tình chung đúc vào những hình thể mơ hồ,
những màu hồng thanh lục, những bóng ma siêu thể siêu thần. Ngó nhìn gần, người
đàn bà thịt da trơn trụi coi có bề rất đáng bực trước con mắt thơ dại thanh
xuân; phải làm sao cho các nường biểu hiện trong dáng dấp hoàng hậu hoặc nữ thần,
và nhất là đừng có dại mà men lại sát bên tấm quần hoặc tà xiêm của họ. Thì mộng
vỡ nhà ma đi đời. (Amour, hélas! des formes vagues, des teintes roses et
bleues, des fantômes métaphysiques! Vue de près, la femme réelle révoltait
notre ingénuité; il fallait qu elle apparût reine ou déesse, et surtout n en
pas approcher).
Tuy nhiên một vài đứa trong bọn chúng tôi không chuộng cái loại
tư tưởng đăm chiêu lý tưởng nghịch lý rườm rà nọ, và xuyên qua những cơn mộng
canh tân cựu phố Alexandrie, đôi lúc họ hươi cao bó đuốc của những Tà Thần hang
hốc âm u, và trong một lúc, chớp lóe lên những đường rẽ lập lòe lửa ngân hoa, -
Và thế đó, bước ra khỏi rạp hát với niềm u sầu chát chát do một cơn mộng tan
tành để rớt lại dư hương, tôi liền chân chạy nhập bọn với một hội anh em gay cấn
chịu chơi, ồn ào yến ẩm. Và thế đó, mối sầu chan chứa đành nhường chỗ, rút lui
khỏi cõi lòng, trước sức tấn công của cái cơn cười vui nhiệt hứng cuồn cuộn của
một vài bộ óc tài hoa nổi bật, linh hoạt mãnh liệt vô song, cao nhã tuyệt vời
đôi lúc, - những bộ óc tài – khí – chịu – chơi như thường gặp vào những thời đại
canh tân cách mệnh, hoặc tàn phế suy đồi, và những cuộc bàn cãi ngửa nghiêng
xiêu đình đổ quán của họ dấy lên tới mức rạch đôi sơn hà, nghiêng trời trí dũng
nào, mà thỉnh thoảng vài đứa, thuộc loại e dè chúng tôi, phải chạy tới bên cửa
sổ xem chừng ngoài kia có đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh, những bọn
Huns, những lũ Turcomans, hoặc những phường Cosaques có ì ầm kéo tới, rút trường
kiếm ra, và đập nát những hiên hoa loạn trụy của bọn hùng biện lơ mơ, quáng gà
dấm dớ, ngụy biện rỗng tuếch, ron ren mơ hồ khía bọt.
“Nâng cốc lên, nào thôi, các bạn. Uống cho nhiều, yêu cho lắm,
đó là cách điệu hiền thánh chịu chơi, hào hoa số dách, phong nhã một cây, xum
xuê tay tổ!”. Đó là ý kiến bọn trẻ tuổi nhất đám. Một trong những đứa đó bảo
tôi: “Cũng đã khá lâu, tao gặp mày tại cái rạp đó. Trước sau vẫn chỉ một cái rạp
nọ mà thôi, mỗi một phen ta tình cờ lui tới. Thế thì tại cớ mần răng? Mày tới
làm chi mà năng đi năng lại như rứa? Mày lần khân lui tới là tại cái tà xiêm
hây hẩy của con mẻ nào?”
Tại ai?... Tôi tưởng chừng như ngoài nàng ấy ra, thì nhân
gian làm sao có thể tới lui vì một nàng khác? Tuy nhiên, tôi cũng thú nhận một
cái tên. Thì thằng bạn tôi lấy giọng độ lượng bao dung mà rằng: “Ê! Thế ư! Nếu
vậy thì mày thấy đó kia kìa cái thằng cha diễm phúc vừa dẫn nàng đi, và chiếu
theo luật tắc tồn sinh của bang hội chúng mình, nó chỉ trở lại tìm cô nàng có lẽ
là sau cái trường dạ thâm canh.”
Lòng không xúc động quá mức, tôi ngoảnh đầu đưa mắt ngó cái
nhân vật mà thằng bạn vừa chỉ. Đó là một chàng trai ăn vận đứng đắn, gương mặt
xanh xanh, có khí chất, phong thái đoan chính, và hai con mắt đăm chiêu tư lự dịu
dàng. Y vãi đồng tiền vàng trên bàn cờ whist, và thua ván cờ mà vẻ mặt vẫn thản
nhiên. Tôi nói: “Nó, hay một thằng khác, ta có bận lòng chi. Sau trước gì, thì
cũng phải có một thằng đệ hơn, và gã đó xem xứng đáng được chọn lựa lắm. – Còn
mày? – Tao ấy à? Tao theo dõi một hình bóng, chỉ có thế thôi.”
Ra khỏi phòng, tôi đi ngang phòng sách, và bỗng ngó một tờ
báo. Ấy là để coi thị giá của chứng khoán thì phải. Trong những mảnh mòn hao của
tình trạng phú dụ tôi, có một ngân khoản ngoại tệ khá to. Nghe đồn rằng, từ bao
lâu bỏ lấp, giờ đây nó sắp được thừa nhận - ấy là do cuộc cải cách bộ viện… Tôi
sắp giàu sang trở lại rồi.
Từ sự vụ đó, một ý tưởng duy nhất nảy ra: người đàn bà tôi
yêu từ bao lâu thổn thức, người đó sắp là của tôi rồi, nếu tôi mà chịu muốn. –
Lý tưởng vô ngần lục thanh tơ cỏ, tôi đương chạm nhè nhẹ vào hình hài của nó, ở
đầu ngón tay tôi. Thật ư? Hay là chả thật? Hay lại là một huyễn tượng nữa? Hay
lại do một lỗi ấn loát oái oăm của nhật báo? Nhưng những tờ khác cũng nói hệt
như thế. – Cái số tiền đồ sộ bỗng dựng sững hình hài trước mặt tôi như một tượng
vàng Moloch. Tôi thầm nhủ: “Gã thanh niên khi nãy sẽ nghĩ thế nào, sẽ ăn nói thế
nào, nếu tôi tới bên cô nàng kia mà ngồi vào cái chỗ của gã?...”. Tôi bỗng run
lên một cái: niềm kiêu hãnh của linh hồn không chấp thuận chuyện kia.
Không! Không thể thế được. Ở cái tuổi của tôi, con người ta
không sát hại tình yêu bằng vàng bạc. Tôi sẽ không bao giờ làm cái gã đem tiền
tài mà phá hoại tình yêu. Vả chăng đó cũng là một ý tưởng thời cũ. Ai nói với
tôi rằng nàng gái nọ là một đàn bà có máu tham mê hơi đồng? Hai mắt tôi mơ hồ đảo
vòng tờ nhật báo một lượt, và tôi đọc: “Hội Đố Lá Lục Tỉnh - Ngày mai những xạ
thủ Senlis sẽ trao bó hoa cho những xạ thủ Loisy ». Những lời đó, xiết bao đơn
giản, bỗng đánh thức dậy trong tôi cả một chuỗi dài hình ảnh, một tràng dài cảm
giác bóng vang: một kỷ niệm vô ngần của mùi hương điền dã, của châu quận cũ từ
hang thẳm lãng quên, tiếng vang xa xôi của những hội hè nô nức của tóc tơ tuổi
nhỏ qua rồi. “Con đường thẳng con đường cong cỏ mọc. Nhịp mơ màng những quang
gánh lên vai. Hồn tuổi trẻ phiêu bồng trong tơ tóc. Trút tình hoa rụng gió ở
bên ngoài…” –
Dư vang tiếng trống tiếng còi. Rập rờn đầu liễu mộng hoài
xanh buông. Xa xôi thôn ổ ngậm buồn. Thanh xuân gái dệt từng guồng hoa bay. Còn
nghe điệu hát nghiêng mày. Sử xanh lần giở bên này phù du. Tráng hoa thêu gấm
khơi mù. Giòng tuôn thúy lục xuân thu lên ngàn. Ta về ngóng lại dư vang. Rồi
mai ly biệt lên đàng nhớ-nhung… Le cor et le tambour résonnaient au loin dans
les hameaux et dans les bois; les jeunes filles tressaient des guirlandes et
assortissaient, en chantant, des bouquets ornés de rubans.
Một chiếc xe bò ì ạch đón nhận những tặng phẩm kia bên đường,
còn chúng tôi, những đứa con thơ của những miền xứ nọ, chúng tôi kết hợp thành
hàng lũ lượt tới lui, chân bước, chân bồng, gối tròn gối méo, tay ẵm, tay ôm,
những vòng cung thánh thót, những mũi tên mơ mòng, tự ban cho mình cái danh hiệp
sĩ cổ sơ hồng hoang phiêu dạt – không biết rằng mình đang lặp lại giữa những thời
đại tiếp tiếp điệp trùng, một buổi hội nữ vu tháng ba xuân sắc, còn lưu mãi
trong cổ lục truyền qua sóng lớp phế hưng. – Un lourd chariot, traîné par des
bœufs, recevait ces présents sur son passage, et nous, enfants de ces contrées,
nous formions cortège avec nos arcs et nos flèches, nous décorant du titre de
chevaliers, – sans savoir alors que nous ne faisions que répéter d’âge en âge
une fête druidique, survivant aux monarchies et aux religions nouvelles.
PHẦN II - ANDRIENNE
Tôi về phòng ngủ và thao thức thâm canh. Đắm trong cơn chập chờn
nửa mê nửa tỉnh, tôi thiêm thiếp gợi về trong kỷ niệm bầu trời tuổi trẻ thơ
ngây. Cái trạng thái gay cấn ôn mê, u nùng lơ lửng, trong đó tinh thần còn gượng
chống lại những ảo mộng xô ùa xoay tít phối hợp những hương màu quỷ dị, cái trạng
thái đó thường còn cho phép ta nhìn thấy trong phút giấy phiêu hốt, những bức
tranh kỳ ảo nổi bật trên một nền di chuyển cả một đoạn đời dài đang thêu dệt những
gì cho một kiếp hư sinh.
Tôi hình dung một cung điện huy hoàng thời Henri Đệ Tứ, với
những chóp mái nhọn lợp bằng đá đen, và phía mặt tiền phết vôi hồng đo đỏ, với
những góc tường khúc khuỷu, cắt khía răng cưa, màu vàng hoe như cổ lục. Tôi
nhìn thấy lại một vùng cỏ xanh rì, xung quanh có xúm xít những cây bồ đề, và du
thụ, và dẻ gai, và ánh mặt trời chiều xuyên vào vòm lá xum xuê bằng những tia đỏ
óng. Những nàng con gái nhảy múa theo những đường vòng trên nội cỏ cong cong.
Các nàng ca ngâm những điệu ca cổ kính do các bà mẹ truyền cho, còn giữ nguyên
cái ngôn ngữ thiên nhiên thuần túy, nghe mà tưởng chừng như quả thật mình đang
sống thật sự ở trong miền xưa cố quận Valois, mà từ hơn ngàn năm trái tim của tổ
quốc đã phập phồng đánh nhịp.
Tôi là thằng con trai duy nhất trong cuộc hát múa vòng. Lúc
đi, tôi có dẫn theo một cô bạn xinh tươi tuổi nhỏ, nàng Sylvie, con gái nhà một
thôn bản láng giềng, nàng linh hoạt xiết bao, đằm thắm tươi cười, với đôi con mắt
đen tròn lóng lánh, trắc diện đều đặn ôn nhu, với làn da sậm sậm!... Tôi chỉ
yêu nàng, và chỉ thấy có một mình nàng – kể từ trước cho tới lúc bấy giờ, chợt
biến động than ôi… Trước đó, tôi có lưu ý gì mấy đâu, giữa cuộc múa vòng khiêu
vũ, tôi còn lưu tâm gì mấy tí, tới một cô nàng tóc hoe óng ả, vóc cao và kiều
diễm, mà thiên hạ bốn bên gọi là cô Andrienne. Thì bất thình lình, theo luật tắc
cuộc múa vòng, bỗng dưng Adrienne dập dìu xoay thân thể lại, bất ngờ dừng sững
lại một mình trong cuộc múa, tại trung tâm, cùng tôi đối diện. Hai đứa vóc dáng
như nhau. Người ta bảo chúng tôi hãy ôm nhau mà múa, và từ bỏ cuộc khiêu vũ và
bản tình ca hợp xướng cùng thi nhau mà xoăn tít dìu dặt vô ngần. Lúc trao nàng
cái hôn kỳ ảo, tôi không cưỡng nổi, siết bàn tay nàng một cái. Những mớ tóc
vàng xoăn tua tủa lắt lay chạm nhẹ vào má tôi. Từ đó, một niềm man mác dị thường
bỗng xâm chiếm tâm linh tôi như càn khôn trở mộng. – Rồi cô gái đẹp phải ca lên
để được quyền quay trở vào vòng khiêu vũ. Người ta ngồi xuống xung quanh nàng,
và liền sau đó, một giọng vàng tươi mát long lanh ngấm sâu vào vũ trụ, rồi nhòe
đục ít nhiều, như sương ngọc mù sa ám linh hồn thục nữ suốt miền xứ quân thu,
nàng hát lên một bản tình ca cổ kính đầy rẫy mộng ưu sầu, từ thiên thu kể lại,
vẫn câu chuyện vô vàn khốn khổ của một cô nàng công chúa chịu đọa đày xuân sắc
trong cấm cung, do ý chí một vua cha trừng phạt nàng đã yêu đương ai mà đắm đuối…
Cứ mỗi tiết, bài ca lại kết thúc bằng một cơn dậy réo rắt chiên âm, mà giọng
gái tơ rất thích hợp để ngân dài và bắt chước cái giọng run rẩy u nùng của những
bà tổ nội xưa kia.
Nàng hát đê mê, bóng chiều sa thấp, phủ một vùng đầu ngọn cỏ
lá cây. Bóng trăng êm đềm bắt đầu gieo ánh xuống rơi khắp thân thể nàng riêng
biệt, đứng cách với toàn thể chúng tôi đang chăm chú ở xung quanh. – Nàng chợt
nhuốm hơi mù nhẹ nhẹ, sương trắng đượm trên đầu cỏ lục đăm chiêu. Chúng tôi tưởng
mình đang ở non nước thiên đường ngồi mơ màng bên ngõ hạnh, nhìn ngàn đào
nghiêng bóng giòng xanh. – Sau cùng, tôi đứng lên, chạy bay tới bồn hoa cung điện,
có những cành nguyệt quế trồng trong những chậu sành đồ sộ có những hình chạm nổi
loan phụng camaïeu. Tôi mang trở về hai nhánh xum xuê, tết thành một vòng hoa,
kết lại bằng một dải băng trinh bạch. Tôi đề huề nâng lên, và đặt vòng hoa băng
tuyết xuống trên đầu trang nương tử trong một phút thiên thu. Dưới ánh mờ vừng
nguyệt, những chiếc lá lấp lánh ngời trên làn tóc phiêu du. Hỡi ôi! Trăng nhớ tầm
dương, là nhớ người. Em là Béatrice của tôi thôi. Miệng cười má lúm đồng tiền
nhỏ. Em trút mơ màng non nước ôi.
Andrienne đứng lên. Vươn duỗi tấm hình hài dong dỏng rộng, em
nghiêng mình chào nhẹ nhẹ, rồi vùng chạy mất về điện ngọc lãnh cung. Anh nhìn
suốt xứ sau lưng. Thiên thu rụng bóng vô chừng thời gian. Ngậm ngùi gió nội
hoang mang. Theo nồng hơi thở miệng vàng đã xa. Cành Nam ước nguyện chan hòa.
Sim ngàn sổ là đêm ngà tử sinh. Gió sương từ tạ biên đình. Bóng sa hồ khép chặt
tình mông lung. Rêu tần ngần tuyết in phong. Sóng phơi trường mộng từ trong dậy
nguồn. Rập rờn đầu liễu xanh buông. Mùa trăng nước đẩy xô buồn đi qua. Trang hồng
kim hải ra hoa. Trổ bông mùa phượng tên là Andrienne. Anh về đuổi mộng cuồng
điên. Mùa thu quốc sắc, ưu phiền ngập trang. Mai sau thiên hạ bảo rằng. Người
con gái ấy chất hằng trâm anh. – C était, nous dit-on, la petite-fille de l un
des descendants d une famille alliée aux anciens rois de France; le sang des
Valois coulait dans ses veines. Pour ce jour de fête, on lui avait permis de se
mêler à nos jeux; nous ne devions plus la revoir, car le lendemain elle
repartit pour un couvent où elle était pensionnaire. Người con gái ấy, thiên hạ
bảo: vốn là cháu nhỏ một gia đình thông gia với những vì vua chúa xưa kia.
Giòng máu họ Valois chảy ở trong mạch máu đen của nàng. Nhân ngày Hội Đố Lá đặc
biệt này, cha mẹ nàng cho phép nàng dự vào cuộc chơi của chúng ta, chúng ta sẽ
không còn được gặp lại nàng nữa đâu vì qua ngày hôm sau, nàng sẽ lên đường vào
lại tu viện; nàng là nữ sinh ký túc tại đó.
Lúc tôi quay trở lại bên Sylvie thì thấy nàng đương khóc. Cái
vòng hoa nguyệt quế, tôi tự tay trao cho nương tử ca nhi, chính đó là đầu mối
những giọt lệ vàng đương rớt hột bây giờ. Tôi thân ái bảo rằng để tôi chạy đi
hái một vòng hoa khác về trao tặng đề huề, nhưng nàng thổn thức bảo rằng nàng
có xứng đáng chi đâu. Tôi lóng cóng luống công tìm cách tự bào chữa cho mình,
nàng vẫn chẳng nói một lời nào nữa hết, suốt dọc đường tôi dẫn từ bãi cỏ trở về
nhà cha mẹ nàng, tôi chẳng được đền đáp một lời nào nữa cả.
Rồi trở về lại Paris học tập, tôi mang theo về phố thị cái
hình ảnh song đôi của một tình bạn êm đềm bị đứt lìa sầu não, - rồi một mối
tình yêu xa hút vô vọng mơ hồ, cội nguồn của bao nhiêu tư tưởng xót xa, mà triết
học nhà trường không làm sao cho nguôi được.
La figure d Adrienne resta seule triomphante, - mirage de la
gloire et de la beauté, adoucissant ou partageant les heures des sévères
études.
Gương mặt Adrienne ở lại bên lòng ngập bờ lửng kêu trong tiếng
gọi, - ảo ảnh của tài hoa phát tiết, huyễn tượng được những gì với những giờ nhọc
nhằn kinh sử. Mùa hè năm sau, trở về thôn xóm cũ, tôi được người ta cho biết rằng
cô gái kiều diễm nọ, thoáng gặp một lần, từ đó đã bị gia đình đưa đẩy vào con
đường tu khắc khổ của tôn giáo. Và mộng hoài, xin vĩnh viễn chia xa.
PHẦN III - QUYẾT ĐỊNH
Mọi sự được giải quyết hết do kỷ niệm lãng đãng kia. Mối tình
mơ hồ và vô vọng nọ, tâm hoài thao thức vì một đào hát, cứ mỗi đêm mỗi xui giục
tôi lui tới rạp lân la, và chỉ rời tôi vào giờ nhắm mắt ngủ, vâng, mối tình nọ
đã manh nha từ trong kỷ niệm Adrienne, cái bông hoa của đêm sương mở phơi trước
ánh mờ nguyệt bạch, cái hình ma hồng ngọc tha thướt đi trên vùng cỏ lục đượm
khí bốc hơi mù. - Một khuôn mặt lãng quên bao năm trời đằng đẵng sẽ đi về trong
một khuôn mặt giống hao hao, và vẽ sâu nét vào trong như tạc. Một tấm tranh vẽ
bằng than chì được lên bóng nhạt nhòa bởi thời gian biến làm hội họa, cũng như
thể những tấm croquis cũ kỹ của những bực thầy mà người ta ca ngợi trong musée,
mà bức nguyên họa rạng ngời, phải được tìm thấy tại ở đâu đó xa kia.
Hỡi ôi! Yêu một tu nữ trong mình mẩy một ca nhi!... Phải mà
cũng một người cho đáng! - Thật có thể trở nên điên dại mất thôi! Hỡi đời, hỡi
mộng. Hỡi điên cuồng cầy sấy gọi giẽ giun! Thật có như là cõi u huyền vô minh
cuốn hút khốc hại vô ngần như cái bóng lập lòe ma trơi đốt lân tinh liễm diễm,
trốn chạy vật vờ trên lau sậy, nước quạnh, bờ hoang… Hãy xin đặt bàn chân trở về
trên đất vững.
Và Sylvie của tôi yêu dấu vô cùng, vì lẽ chi tôi đã quên mất
em suốt ba năm đằng đẵng?... Một cô gái rất mực tươi xinh, cô gái đẹp nhất tại
xóm Loisy đó nhé!
Nàng sinh hoạt, sinh tồn, nàng thuần hậu thanh khiết tâm can.
Tôi nhìn thấy trở lại khung cửa sổ của em, tại nơi đó cành nho quấn quít bên
nhánh hồng mở nụ, cái lồng chim fauvette (chim sâu) treo lẳng lơ ở vách tay
trái, tôi nghe ra cái tiếng canh cửi rộn ràng và cái điệu hát em yêu chuộng hằng
năm:
Em ngồi kiều diễm bên khe
Giòng xuôi thúy lục tơ se tâm hồn…
Em còn đợi tôi không. Ai chịu cưới em rồi đó? Em nghèo quá,
không có của hồi môn…
Trong làng xóm em, và trong những làng xóm quanh vùng, những
chàng trai nông dân, áo vải thô, tay cục mịch, mặt ốm o, da sạm đen sì! Em chỉ
yêu tôi thôi, tôi, cái thằng Parisien bé bỏng, thuở tôi về làng, ở cạnh xóm
Loisy thăm người cậu, ngày nay đã mất. Từ ba năm, tôi phung phí loang toàng hết
cả cái di sản của cậu để lại cho, đáng lẽ đủ để chu toàn cho tôi suốt kiếp. Nếu
cùng em gắn bó, thì ắt tôi đã gìn giữ được nó rồi. Tình cờ vận may trả về cho
tôi một ít. Chắc cũng còn kịp chớ, thưa em…
Giờ này, em đang làm chi? Em đang nằm ngủ… Không, em không ngủ,
hôm nay là ngày hội cung tên, cái hội duy nhất trong một năm trời bốn mùa lận đận.
Người ta múa hát khiêu vũ suốt đêm. – Thì chắc em đang dự hội.
Mấy giờ rồi?
Tôi không có đồng hồ.
Tôi xuống phòng người gác cửa. Đồng hồ của ông ta điểm đúng một
giờ khuya. Tôi tự nhủ: “Đi xe ngựa bốn tiếng đồng hồ, tôi sẽ tới Loisy”. Tại bến
xe, còn năm sáu chiếc xe ngựa lạch cạch chờ khách, quen thói hoa nguyệt về đêm.
Tôi bảo: “Cho về Loisy! – Loisy là đâu rứa? - Gần Senlis, cách tám dặm đường.”
Cái con đường đi sao não dạ! Canh chầy tịch mịch, u buồn vây
phủ dặm đường Flandre. Tới miền núi rừng, thì cảnh mới đẹp ra. Hai hàng cây ven
đường ủ ê kéo dài dậm duộc những hình thù nhăn nhó, mông lung như càn khôn lạc
lối. Bên xa kia, những khuôn vuông cây cối lục, đất đai bừa, bên phía tả là những
dãy đồi xanh nhạt nhạt: Montmorency, Ecouen, Luzarches. Đây khu làng Gonesse,
còn mang đầy những kỷ niệm một thời Liên Minh Đảng, một thuở Đầu Thạch Phe…
Xa hơn nữa, một con đường hai bên trồng táo, tôi đã bao lần
nhìn hoa rạng rỡ trong đêm tăm như những chùm sao của mặt đất: đó là con đường
ngắn nhất dẫn về những thôn xóm đìu hiu. – Trong khi chiếc xe ì ạch leo lên đường
dốc, tôi xin được thu góp lại một lần những kỷ niệm ngày xưa, thuở tôi còn năng
đi về thăm viếng.
PHẦN IV - DU LỊCH VỀ CYTHÈRE
Mấy năm đã trôi qua: cái thuở tôi gặp Adrienne trước cung điện,
chỉ còn là một kỷ niệm tuổi thơ. Tôi về tới Loisy trong giờ lễ thành hoàng. Tôi
sắp sửa xen vào nhập bọn với các ngài hiệp sĩ bắn cung, chiếm lại cái chỗ xưa
kia tôi từng giữ. Nhiều thanh niên thuộc những thế gia vọng tộc còn sở hữu tại
đây nhiều cung điện mất hút trong rừng xanh, từng chịu khốn đốn nhiều về thời
gian hơn là vì những cuộc cách mạng, họ đã tổ chức buổi hội. Từ Chantilly, từ
Compiègne và từ Senlis, đổ xô về bao nhiêu những đoàn kỵ mã vui nhộn tưng bừng,
tới chiếm chỗ trong đám rước quê mùa của những đội bắn cung. Sau cuộc dạo chơi
kéo dài dậm duộc qua những làng xã, những thị trấn, sau lễ mi sa tại nhà thờ,
sau những cuộc thi tài xảo diệu và cấp phát phần thưởng xum xuê, những kẻ thắng
cuộc được vời tới dự tiệc tổ chức tại một hòn đảo dưới bóng bạch dương, ở giữa
một trong mấy mặt hồ dào dạt nước, do giòng Nonette và La Thève dẫn về. Những
chiếc ghe có kết cờ sặc sỡ đưa chúng tôi tới đảo - đảo này được chọn lựa là do
sự hiện hữu của một cái đền hình thuẫn, khả dĩ dùng làm phòng yến tiệc. Tại đó,
cũng như tại Ermenonville, đất đai có thiết lập rải rác những lâu đài nho nhỏ
thuộc thời hậu bán thế kỷ mười tám, tại đó những triết gia triệu phú đã hoạch định
kiến trúc thể theo cái “gu” thời bấy giờ. Tôi tưởng rằng ngôi đền đó, ban sơ được
tạo lập là để cung hiến cho nữ thần Uranie. Ba cột trụ đã nhào đổ, và kéo luôn
vào trong cơn lông lốc một phần mấy đầu cột, nhưng người ra đã dọn dẹp phía
trong căn phòng, đã treo những tràng hoa ngang dọc giữa các cột trụ, người ta
đã trang điểm cho thanh tân cái cõi phế tích nọ của thời nay – đã thuộc quyền sử
hữu của ngẫu tượng giáo Boufflers hoặc Chaulieu hơn là ngẫu tượng giáo Horace.
Cuộc vượt hồ đã được nghĩ ra có lẽ là cốt khơi dẫn lại kỷ niệm
Du lịch tới Cythère của họa sĩ Watteau. Chỉ duy có y phục kim thời của chúng
tôi là làm tan đi ảo tưởng nọ. Bó hoa khổng lồ của buổi hội, lôi từ chiếc xe chở
đi, đã được đặt lên một chiếc ghe lớn; đám phụ nữ vận y phục trắng lũ lượt theo
sau, lần lượt lên thuyền, và đoàn đại biểu các thị thành dự cuộc cạnh kỹ Cổ Hy
Lạp của thời nay, đoàn đại biểu kiều diễm nọ nghiêng bóng mình đìu hiu soi trên
mặt hồ tịch mịch, chia biệt các nàng với bờ bến ốc đảo dưới ánh tịch dương rạng
rỡ, với những vòm sơn trà tử rậm rì, những cột trụ chơ vơ, và những nhánh cành
phơ phất. Chẳng bao lâu, các ghe thuyền đã cập bến. Cái giỏ điển lễ huy hoàng
đã chiếm trung tâm bàn tiệc, và mỗi người chiếm mỗi chỗ ngồi, bốn xung quanh
vây bọc, những trai tơ nào được ưu đãi thì được ngồi sát cạnh những gái tơ: muốn
được như vậy, chỉ cần một điều kiện thôi: được cha mẹ các cô quen biết. Đó là
nguyên do xui giục tôi ngồi cạnh Sylvie. Người anh của cô nàng đã tới giáp mặt
tôi trong buổi hội, và sừng sộ tôi một tua, hỏi bấy nay tại mần răng mà bỏ đi
biền biệt không về thăm viếng một trận nào cả để cho anh mòn con mắt mà trông
mong. Tôi đề huề phân giải: vì việc học tập nó cầm chân tôi ở lại Paris, và bảo
chắc chắn với anh rằng lần này tôi về đây là cốt viếng thăm gia đình anh vậy.
Sylvie nói: “Không, anh ấy không quên gia đình mình. Anh ấy chỉ quên em mà
thôi: em quê mùa cục mịch, phận em thì thấp, mà thủ đô Paris thì cao ráo tới
mây xanh đó mà!” Tôi muốn ôm nàng hôn một cái để bịt miệng nàng lại, nhưng nàng
hờn dỗi ngoảnh lơ đi, và người anh của nàng phải can thiệp vào, nàng mới chịu
đưa má ra cho tôi hôn, đưa ra với một vẻ mặt thật là hờ hững. Tôi chẳng thấy
lòng hân hoan chút nào hết với cái hôn mà bảo kẻ khác cũng được cấp phần ân huệ,
bởi vì trong cái xứ thuần phác thiên nhiên này, mọi người qua đường đều được
chào hỏi, thì một cái hôn chỉ là một chút quá lễ độ trao cho nhau giữa những
con người phong thể biết điều ăn ở thị phi.
Một chuyện bất ngờ đã được dàn xếp sẵn bởi những người chủ
trì buổi hội. Cuối bữa tiệc, một con thiên nga hoang vu bỗng tung cánh bay ra từ
một cái giỏ mây, ấy thật bất ngờ, vì từ trước người ta cột kỹ giấu kín nó dưới
những chùm bông tươi tốt. Nó tung bay một trận với đôi cánh mạnh mẽ, vút ra một
cái, thì bao nhiêu tràng hoa chuỗi lá xáo xạc bay tán loạn ra bốn bên. Trong
khi nó vút thẳng lên trời, hướng về những bóng hoàng vân phất phơ ánh chiều,
thì chúng tôi đưa tay vớ bừa những vòng hoa xiêu lệch, và mỗi đứa mỗi thuận tay
đưa vòng hoa trang điểm lên vầng trán một cô gái ở bên mình. Tôi may mắn nắm được
một vòng hoa thật đẹp, thế là, lần này cô Sylvie, lần nay nguyên vẹn, không còn
chia sớt cho ai, nàng ngày nay đã hóa thành kiều lệ hết sức! Ngày nay nàng
không còn là cái cô gái nhỏ thôn làng thang lan điền dã, mà xưa kia đã có lần
tôi khi dễ, và để lòng tê mê vì một kẻ lớn hơn. Mọi thứ nơi người nàng đều đã
phát tiết tinh anh đầy đủ: cái diễm lệ của đôi mắt đen, cái kiều diễm của làn
mi tha thướt, của vòng cong lá liễu lông mày, xưa kia đã quyến rũ rồi, và ngày
nay đã trở thành xiết bao hấp dẫn. Cái nụ cười lum lúm thanh tân chợt làm sáng
ngời gương mặt những đường nét đều đặn như gái Athénienne xưa. Tôi thán phục
quý chuộng cái khuôn mặt tuyết bạch nọ, xứng đáng với nghệ thuật thái cổ ban sơ,
giữa bao nhiêu dung mạo dấm dớ của các cô gái bên cạnh nàng, Những bàn tay ngón
tơ mưng duỗi duỗi, những cánh tay từ độ tròn trịa ra, cũng đề huề trắng mượt dần
dần cho tới bây giờ đã ngọc ngà ra trong tròn trịa. Cái thân hình uyển chuyển
dong dỏng, đã làm cho các nàng khác hẳn ngày xưa, tôi nào đã thấy thế bao giờ.
Tôi không cưỡng lại nổi, bèn nói cho nàng hay rằng nàng không còn giống như
nàng nữa, nàng khác biệt xiết bao, ấy cũng là hy vọng xóa tan đi cơn phụ bạc một
giờ xưa kia ấy.
Mọi sự càng thuận lợi cho tôi nhiều: tình thân ái của thằng
anh nàng đối với tôi, bầu không khí êm ái thanh tân buổi hội, giờ tĩnh mịch chiều
hôm, và cái chốn ốc đảo hoang vu, mà người tổ chức buổi hội đã tài tình phong vận
biến đổi nó ra hình hài vang bóng những hội hè trang trọng thời xưa. Chúng tôi
tìm mọi cách để thoát khỏi cuộc khiêu vũ múa vòng, để có thể trò chuyện về những
kỷ niệm tuổi thơ, và để cùng đăm chiêu ca ngợi những ánh trời rạng trên bóng
cây và trên mặt hồ ngọc. Người anh của Sylvie phải bước tới, xốc chúng tôi ra
khỏi vòng lung trạo của nguồn cơn chiêm niệm ngậm ngùi, bảo rằng: đêm đã khuya,
phải liều liệu mà quay về làng xa xôi mẹ cha mong đợi.
PHẦN V - KHU LÀNG
Chính tại Loisy, trong căn nhà cũ kỹ của người lính tuần
phiên. Tôi đưa hai người tới đó, rồi quay trở về Montagny, tại đây tôi trú nơi
nhà người cậu. Rời con đường sương mọc để băng qua một cụm rừng nho nhỏ chia biệt
Loisy với Saint-Sulpice-du-Désert, tôi sắp phải bước vào một con lộ nhỏ sâu
hút, len lỏi dọc theo rừng Ermenonville; tôi sắp gặp những vách tường đìu hiu của
một tu viện, mình phải đi dọc theo trong khoảng một phần tư dặm đất. Vừng trăng
kỳ ảo thỉnh thoảng lại giấu thân ở sau áng mây bạc trên trời, chỉ gieo sơ sài
chút ánh sáng mờ mờ tỏ tỏ xuống hàng hàng cụm cụm sa thạch u sầu, và chùm chùm
bụi cây điệp điệp ngổn ngang bên bàn chân tôi bước. Bên phải bên trái, bên này
bên kia, những mép rừng, những rìa rú, không có đường con vạch sẵn, và liên
miên trước mặt tôi vẫn tiếp tiếp điệp trùng những đá, những nham, mang linh hồn
lịch sử tôn giáo tế xa xưa của xứ này còn ghi tạc kỷ niệm đoạn trường những đứa
con của Armen bị người La Mã giết. Từ trên chóp cao sâu nghiêm vòi või của những
gò đống đá nham ngổn ngang chồng chất nọ, tôi nhìn thấy những mặt hồ xa vắng nổi
bật trên mông quạnh đồng không hắt hiu sa mù, như những tấm gương lóng lánh, và
không còn có thể phân biệt được nữa mặt hồ nào là tấm gương ngọc đã vì buổi hội
vừa rồi mà độ lượng in pha.
Không khí thơm lừng và ấm áp; tôi dừng chân quyết định. Không
lẽ nào đi xa nữa. Bước tới nữa làm chi. Hãy dừng lại nơi đây mà đợi mong bình
minh vậy. Và nằm dài xuống cỏ là giữa những cụm cây phiêu bồng mà ngủ một trận
chiêm bao.
Lúc tỉnh dậy, tôi lần hồi nhận ra được những địa điểm gần cái
chốn mà mình đã mơ mòng lạc lối trong đêm tăm. Bên phía tả, tôi nhìn thấy cái
đường vạch rõ nét của những tường vách tu viện Saint-Sulpice-du-Désert, rồi tận
phía bên kia thung lũng những cồn nham, gò đất Gens-d’Armes, với những phế tích
sứt mẻ tàn rơi của trú sở xưa kia dòng họ vua Carlovingienne. Cạnh đó, ở bên
trên những cụm rừng, những tường vách đổ nát của tu viện Thiers nổi bật lên nền
trời với những vạt tường, mảnh thành, tấm quách, um tùm ngang dọc với những xa
trục thảo, chả ba. Bên kia nữa, xa vời hơn. ấy là trang viện gô-tích Pontarmé.
Vẫn được bao bọc bốn bề bằng những đìu hiu hồ nước như thời xưa, trang viện chẳng
bao lâu đã bắt đầu phản chiếu những tia lửa đầu tiên của ngày về óng ả. Tại
phía nam, người ta lại thấy bóng hình sừng sững cao vút của vọng lâu La
Tournelle và bốn ngọn tháp Bertrand-Fosse trên những ngọn đồi đầu tiên của quận
Montméliant.
Tôi tự nhủ: vâng ạ, cái đêm này thật êm dịu với hồn mình, và
mình chỉ vờn mơ màng nghĩ tới duy nhất em Sylvie. Tuy nhiên, dáng dấp tu viện
trầm tịch bên đồi, bỗng dưng trong một phút lại xúi giục tôi lang thang nghĩ rằng
đó có thể là tu viện đang khép kín mộng đời xuân sắc của Adrienne. Hỡi ôi,
“Hương ngây tội lỗi rải mơ màng. Da thịt du dương của một nàng”. Đã luống đời
xanh trên gối lục. Linh hồn tĩnh dạ hận dư vang… Le tintement de la cloche du
matin était encore dans mon oreille et m avait sans doute réveillé.
Chuông con nức nở gọi bình minh
Em ở, anh đi, tỉnh mộng mình
Chân bước, tiếng kêu còn dóng dả
Hà sơn vạn lý lục hay xanh…
Trong một phút, tâm hồn tôi nảy ra cái ý: hay là ta thử lần hồi
leo lên mỏm đá chót vót kia, và đưa mắt ngó qua một cái vào bên trong những tường
vách, để coi xem có thấy được chút gì. Nhưng gẫm lại đìu hiu tôi chột dạ. Tôi
không dám men bò lên đó nữa, vì bàn chân phàm tục sẽ thô bạo vô cùng, và sẽ mạo
phạm hồn nữ thánh thiêng liêng. Bóng dương lên cao, dàn rộng, xua đuổi khỏi đầu
tôi cái kỷ niệm hư huyền và chỉ riêng giữ lại trong máu tim những nét hồng vàng
của Sylvie in pha xuân sắc. “Hãy lần bước về đáng thức em dậy thôi”, tôi tự nhủ
mình thế, và quay gót, theo con đường về lại xóm Loisy.
Đây khu làng khang tịch ở cuối con đường mòn len lỏi với hai
chân. Một bên rừng, ôi dặm mòn đi tới: hai chục nóc nhà tranh lưa thưa, với những
nhành nho thắm và những đóa hoa tường vi vươn duỗi leo bò, viền hoa, thêu lá.
Những gái nào sớm sủa đã kéo chỉ, se tơ, mái tóc tém phiêu phiêu với cái vành
khăn nhiễu đỏ. Các nàng chăm chỉ tay chân làm việc, tứ chi đong đưa, cái miệng
tươi cười thổn thức. Dư hương nào trong cuộc mộng đêm qua? A phải rồi. Em là
gái tơ thanh lịch, em thêu thùa phong vận những dải đen-ten rất mực thanh tân,
thì các cô bạn đơn sơ này không ngồi chung với em được. Tôi đã lên phòng gác của
em, mà chẳng ai lấy làm ngạc nhiên chi cả. Em đã tỉnh giấc dậy từ lâu, và bàn
tay đong đưa những con thoi nho nhỏ se kết những dải đen-ten dịu ngọt, với cái
tiếng động êm đềm làm thánh thót không gian, khởi từ cái tấm lụa vuông hai đầu
gối mềm mại của em nâng đỡ. “A, ông bạn lười đã tới rồi đó ư – em nói thế với một
nụ cười tiên nữ - ta tin chắc rằng ông bạn lười vừa mới rúc ra khỏi cái giường
ngủ, lồm cồm bước tới đó, phải không?” Tôi bèn kể lại cho em rõ cái đêm qua tôi
thao thức nằm ngoài trời không ngủ, những cuộc chạy lang thang lạc lối giữa rừng.
Em ái ngại cho tôi một lúc. “Nếu anh không mệt mỏi, thì em lôi anh chạy thêm một
cuộc nữa đó nhé. Chúng ta sẽ đi về làng Othys mà viếng bà dì ngoại của em.”
Tôi vừa chớm trả lời chưa hết tiếng thì nàng đã tươi vui đứng
lên, lại gần tấm gương soi mà sửa sang mái tóc, đội lên đầu một chiếc mũ rạ mộc
mạc. Niềm ngây thơ và nỗi vui óng ả đã rạng ngời trong hai con mắt kia. Chúng
tôi lên đường, bước đi dọc theo bờ sông Thève, xuyên qua những đồng cỏ lác đác
những đóa thúy cúc, mao lương, rồi đi dọc theo những cụm rừng Saint-Laurent,
đôi phen vượt qua mây giòng khe và mấy bụi um tùm để thu ngắn bớt con đường đi.
Mấy con sáo trên cây hót vang như huýt sáo. Chim bạc má vui sướng vút bay rời
xa mấy chùm lá cây bị chúng tôi chạm vào ngang ngửa bụng.
Đôi lúc chúng tôi bắt gặp dưới bước chân mình những đóa nhạn-lai-hồng
từng thân ái xiết bao với ông Rousseau ngày trước. Những đóa nhạn-lai-hồng mở
cánh biêng biếc xòe ra giữa nhưng nhành dài duỗi dọc đâm ngang, hoặc song song
đôi lứa như cọng cây leo, sắn bìm, chút phận con con, làm vướng víu hai bàn
chân phiêu hốt của cô bạn đường cùng tôi sóng bước bình minh. Bàn chân phiêu hốt
ra sao, cũng có thể gọi là run rẩy lén chùng trong gót nhịp. Hờ hững với những
kỷ niệm phiêu bồng của nhà tư tưởng Genevois thuở xưa kia ngậm ngùi nhìn mặt hồ
Thụy Sĩ tới bây giờ đâu đó còn nín tiếng Genève, hờ hững với chiêm bao người
triết học, cô bạn đường của tôi cứ lay lắt ngó nghiêng nhìn ngửa, kiếm tìm những
hột trái xà-noãn mai, tục gọi là dâu tây, dây dưa những tao ngộ ngùi hương một
thuở, còn tôi, tôi lần khân với ân tình thứ nhất, tôi kề cà nói với nàng về tác
phẩm La Nouvelle Héloïse của xưa kia, con người ta đã viết, lúc mơ màng nhìn hồ
ngọc gợn sóng thiều thiều như vạn lý hà thanh. Tôi đọc cho nàng nghe những đoạn
văn đã thuộc lòng từ trong dạ “Văn như vậy, có thật quả là xinh? Nàng hỏi tôi
như thế. - Thật tót vời tuyệt diệu, thưa em. - Ấy có hay ho hơn của Auguste
Lafontaine chăng? - Ấy thật dịu ngọt hơn mấy phần. - Ồ, nếu vậy thì em sẽ đọc
cái đó về sau. Em sẽ bảo người anh của em mang về cho em, lần đầu có dịp anh ấy
đi Senlis”. Và thế đó, tôi tiếp tục đọc hoài những đoạn Héloïse trong khi nàng
Sylvie hái liên miên những trái dâu tây ở đầu ngón tay nàng thánh thót.
PHẦN VI - OTHYS
Ra khỏi khu rừng, chúng tôi gặp lại được những chum mao-địa-đàng,
tục gọi là hoa lồng đèn, màu tía rộng thênh thênh. Nàng vói tay bắt lấy, kết
làm bó và bảo: “Cái này để tặng ngoại em. Bà sẽ vui xiết bao được có những chum
hoa lộng lẫy thế ở trong phòng”. Chỉ còn một quãng đường qua cánh đồng chút
xíu, là chúng tôi sẽ tới nơi xóm nhọn hoắt trên dãy đồi tím lục pha lam, giăng
giăng trùng điệp, nối liền hai quận Montméliant và Dammartin. Giòng sông Thève
biêng biếc lại xào xạc trở cơn giữa những đá, những nham, những ngổn ngang sa
thạch, giòng sông bỗng nhỏ lại dần dần, lúc chúng tôi ngược dòng về gần bên nguồn
cội. Tại đó, giòng khe nằm duỗi thân yên nghỉ giữa những nội cỏ lai láng, làm
thành một cái hồ nho nhỏ giữa những bụi glaïeuls và những chùm iris (vong lưu
thảo - cỏ huyện – và diên vỹ) đang reo vàng yểu điệu hà thanh. Chẳng bao lâu,
đã tới sát những nóc nhà tranh đầu xóm. Bà ngoại dì của Sylvie cư trú trong một
ngôi nhà nhỏ làm bằng đá nham lủng củng, hòn to, hòn nhỏ, có những dây leo hốt
bố đan mắt cáo vào những nhành bạch anh. Bà ta sống một mình ưa du nhàn rỗi với
vài mảnh vuông ruộng đất, nhà những nông dân trong làng cày bừa, tỉa hột giúp
cho, kể từ ngày chồng bà mất đi. Đứa cháu gái tới, thì thật như là gieo lửa ngọt
vào cửa tưng bừng. “Chúng cháu đây, chúng cháu chào bà dì khỏe mạnh! Chúng cháu
đói như thiên lôi. Coi tề. Bà dì mạnh giỏi chứ?” Đứa cháu ôm bà dì mà hôn thật
dịu dàng, đặt bó hoa vào hai cánh tay bà dì rồi mới sực nhớ ra, giới thiệu: “Đó
là người tình của cháu đó!”
Tôi cũng ôm bà dì mà hôn. Bà bảo: “Nó ngộ lắm… Té ra tóc nó
vàng hoe hoe…” – Nó có tóc vàng hoe thật mịn, Sylvie nói. – Tóc vàng hoe thì
không ở lại lâu dài, bà dì nói, nhưng mà chúng bay tuổi trẻ thì còn chán thời
giờ thừa thãi ra đó. Còn cháu là con gái, tóc nâu thì thật là ăn hợp với khuôn
mặt cháu lắm. - Phải kiếm cái chi cho nó điểm tâm, dì ạ,” Sylvie bảo. Và nàng
chạy tìm trong tủ, trong thùng, kiếm sữa, bánh, đường, lôi ra, đặt ngổn ngang
trên bàn nào dĩa bé, nào tô sành, chén sỏi, bầu son, có vẽ những hình hoa thật
bự, và những con gà trông rực rỡ màu lông, cẳng cao, giò thấp. Một cái lu bằng
sứ Creil, đầy ăm ắp sữa, lênh đênh mấy trái dâu tây, đó là trung tâm bữa tiệc,
và sau khi ra vườn hái trụi một mớ quả anh đào, em mận, út lê, bé phúc bồn tử,
nàng đặt hai bình hoa tươi tốt ở đầu kia cuối nọ trên bàn. Nhưng bà dì lại
thong dong nói cái lời thật tốt: “Mấy cái đó, chỉ là ăn qua loa tráng miệng.
Bây giờ phải để cho dì làm mà coi”. Và bà dì với tay vói lấy cái chảo cán dài,
bỏ một thanh củi bự vào lò bếp lửa. “Dì không muốn cháu mó tay vào cái đó! Bà
dì nói lúc thấy Sylvie chạy lại giúp bà. Để dì lo cho. Cháu mà mó vào thì còn
chi mấy cái ngón tay dệt đen-ten tươi tốt, tốt hơn cả đen-ten Chantilly! Cháu
có gửi bà một tấm, bà biết coi lắm chớ phải chơi mô. – A! Thật đó, dì ạ… Ô, nếu
mà dì còn giữ những tấm thời xa xưa nào đó coi thử một chút. Cái đó làm mẫu cho
con thêu, thì tốt lắm. Ừ, ừ! Con lên trên gác mà tìm, chắc có lẽ còn đâu ở trên
đó ở trong cái hòm cũ ấy mà. – Dì đưa chìa khóa cho con. - Hừ! Cái hòm vẫn
không có khóa lại đâu. – Dì nói không thật đó, con biết. Có một cái hòm suốt
năm dì khóa thật kỹ”. Và trong khi bà dì loay hoay rửa cái chảo, Sylvie lục đục
len lén mở cái dải dây lưng buông thõng của bà đìu hiu lay lắt ở phía sau và
rút ra một chiếc chìa khóa nhỏ bằng thép trui tinh tế, và cho tôi nhìn qua một
cái, vẻ mặt nàng hân hoan khôn tả.
Tôi theo chân nàng leo lên gác. Hỡi ôi, tuổi trẻ thiêng
liêng, tuổi già khả kính! Ai có bao giờ nghĩ tới cái việc đi làm hoen ố miền
thanh khiết của một cõi ân tình thứ nhứt trong một vùng thánh điện những kỷ niệm
thủy chung? Một bức chân dung của một chàng trai thời vàng son xưa lai láng, với
hai con mắt đen, và miệng đỏ, trong một khung gương hình thuẫn nạm vàng, treo tại
đầu chiếc giường mộc mạc. Chàng vận lễ phục giám thủ sơn lâm cho dòng họ Condé,
dáng điệu nửa võ dũng, nửa nông dân, gương mặt hồng hào độ lượng, vừng trán bao
dung dưới mái tóc man mác sương phấn nhuốm mơ hồ, đã làm cho bức họa bằng than
chì màu (tầm thường kia, có lẽ) trở thành nặng ý nghĩa chiêm bao: những diễm kiều
tuổi trẻ những quyến rũ của điền dã đơn sơ. Một nghệ sĩ lai rai nào xưa được mời
dự cuộc săn vương giả, đã gắng gỗ họa tấm chân dung bằng kiệt tận miên bạc của
mình, và họa luôn người vợ trẻ, bây giờ ta còn nhìn thấy trong chiếc médaillon
kia, người vợ xinh tươi, ranh mãnh, yêu kiều, mình mẩy thon thon trong chiếc áo
cánh, đang nguếch ngoác gương mặt để chọc ghẹo một con chim đậu trên ngón tay
nho nhỏ của mình. Hỡi ôi, cũng vẫn chính là một người, một kẻ, với bà dì già
nua mộc mạc hiện đang cúi mình trên lò bếp, đang lom khom nấu nướng, dưới kia…
Tôi chợt nhớ tới những tiên nương trong những hội leo đay thời trước vốn chi giấu
khuôn mặt mình dưới tấm mặt nạ lổ đổ nhăn nhíu, cho tới lúc chung cục, mới phơi
mở ra tràn lan trên bốn biển một nhà, khi điện đài vòi või của Tình Yêu hiện ra
với vầng nhật xoay vòng chiếu những tia ngời kỳ ảo. Tôi reo to: “Ôi bà dì của
cháu! Dì từng đã đẹp vô ngần ngày xưa!” – Còn em thì sao? Sylvie hỏi, sau khi
đã hì hục mở được cái ngăn tủ kỳ bí. Nàng đã tìm ra được một chiếc áo dài bằng
nhung mỏng lơ thơ lập lòe lửa lựu, đang xào xạc kêu to trong những nếp lằn bị
bàn tay vuốt. “Em muốn vận vào mình xem thử có xui không nào, nàng bảo.
Adrienne! Em sắp mang vẻ mặt một bà tiên già nua bước tới.”
“Bà tiên vạn đại hoang đường thiên thu còn trẻ mãi!...” tôi tự
nhủ trong lòng. Và Sylvie đã mở xong cúc nút chiếc áo vải bông ngũ sắc của
mình, và thả rớt nó xuống bên chân. Chiếc áo nhung thưa của bà dì, nàng vận vào
rất sít sao trên tấm hình hài dong dỏng trong veo, nàng bảo tôi hãy cài giùm hột
cúc. “Ồ! Những tay áo không nếp phồng. thật buồn cười quá!” nàng bảo. Tuy nhiên
thật ra những cánh tay áo thêu thùa đen-ten đã phơi bày lồ lộ tuyệt vời hai
cánh tay trần mịn màng của Sylvie, cổ trắng mượt của nàng nằm vừa vặn trong lớp
áo mù sương nhuộm úa sơn hà, ắt hẳn phải hơn là vận vào trên hình hài bà dì mà
dung nhan đã biến. “Mau mau lên chớ! Coi tề. Cài một cúc áo mà anh cài mãi
không xong. Anh còn bé con lắm hả?” Sylvie nói. Trông nàng có vẻ vị-hôn-thê
thôn dã của Greuze. “Phải cần có phấn mới được, tôi nói. Chúng ta tìm thử coi”.
Nàng lại sục sạo trong các ngăn tủ. Ô! Xiết bao của cải! Sao mà mùi hương cũ
thơm lừng! Sao mà cái này chói rạng, cái nọ chói ngời, cái kia chói chiếu, chói
chang những sắc, những màu tàn phai trong quá khứ! Hai chiếc quạt xà cừ, có sứt
gãy chút ít, hai hộp bột nhồi, một chiếc vòng hổ phách đăm chiêu và hàng ngàn
hư trang huyễn sức, và giữa đám ngổn ngang trang điểm nọ, bỗng một mùa thu vạn
đại đi về trong hai chiếc hài thêu gấm tuyết băng với những chùm hoa nạm hột
kim cương khuynh thành lá ngọc irlandaise. “Ồ! Em muốn mang vào, Sylvie nói, nếu
em tìm ra những chiếc vớ gấm thêu băng cẩm nhung hoặc là nhung cẩm cũng được!”
Một lát sau, chúng tôi mở những cuộn vớ ra, vớ nhung, vớ nhớ,
vớ vẩn, vớ lục hoàng sa, vớ hà giang thúy lục, vớ hồng đào đỏ mượt, vớ dệt gấm
xanh lơ… Bỗng tiếng gọi của bà dì nấu nướng rung chảo ở dưới đưa chúng tôi về
thực tại ngu ngơ. “Mau mau leo xuống!” Sylvie bảo. Và mặc dù tôi nói gì thì
nói, nàng cũng không cho phép giúp nàng một tay để mang giùm vớ vào cho hai
chân nàng nữa. Trong lúc đó, bà dì ở dưới vừa trút vào trong dĩa cái món ăn xèo
xèo trong chảo ra, tiếng mỡ chiên ríu rít bên trứng xào líu lo. Tiếng Sylvie lại
trỗi dậy: “Anh mau mau vận y phục này vào!” nàng bảo tôi, nàng đã vận xong xuôi
từ đầu tới cẳng đến chân, nàng mới chìa cho tôi bộ y phục hôn lễ của ông giám
thị sơn lâm. Trong một nháy, tôi biến làm chàng trai cưới vợ thế kỷ trước.
Sylvie chờ tôi tại cầu thang, và cả hai chúng tôi song song bước xuống, đề huề
tay chị nắm tay em. Bà dì kêu to một tiếng lúc ngoảnh lại nhìn: “Ồ các con
ôi!”, rồi bà vùng sa nước mắt khóc như mưa rớt hột hai hàng, rồi mỉm cười trong
ánh lệ. Hình ảnh xuân xanh của dì, cơn hiển hiện đau lòng xót dạ, diễm kiều
trong tình mộng nhắn nhe! Chúng tôi ngồi xuống bên dì, bàng hoàng cảm động và
bùi ngùi trang nghiêm, rồi niềm vui tươi trở lại, bởi vì, phút giây đầu khúc
khuỷu đã đi qua, bà dì già nua chỉ còn mơ mòng nghĩ tới những hội hè buổi mới
hôn lễ tưng bừng. Rằng trong buổi mới lạ lùng. Hai lòng một cuộc phiêu bồng dậy
cơn. Xanh buông đầu liễu rập rờn. Lời ca, điệu hát, dì còn nghe vang. Đong đưa
chúc phúc hàng hàng. Lời trong tiếng cũ lên đàng gọi nhau. Người nghe kẻ nói
nghiêng đầu. Chúng tôi thành mộng căn lầu bình minh. Một thời mùa hạ sơ sinh.
Em dàn tơ tóc bên mình chiêm bao. Mùa vang xa biệt hội nào. Tôi bây giờ dậy biển
trào khơi lên. Mùa vang sóng vỗ bên đời. Còn trang phương cảo thu rời chân đi.
PHẦN VII - CHÂALIS
Bốn giờ sáng, con đường chìm trong một nếp đất trồi sụt xuống
lên, con đường nhoi trở lên trở lại. Chiếc xe sắp đi ngang qua vùng Orry, rồi
La Chapelle. Phía bên trái, có một đường chạy dọc theo khu rừng Hallate. Chính
đó là chỗ một đêm kia người anh của Sylvie đã đánh chiếc xe ngựa đưa tôi đi dự
một buổi lễ uy nghi. Ấy là vào đêm ngày lễ Saint-Barthélemy. Xuyên qua những
khu rừng, bằng những con đường vắng vẻ, ít dội gót chân người, con ngựa bé của
anh phi như bay, giống như trong dạ hội ma thuật. Chúng tôi bắt lại đường lát
đá nơi nhà người lính kiểm lâm, tại chỗ tu viện Châalis xưa. Châalis, lại thêm
một kỷ niệm nữa đây rồi!
Nơi dưỡng lão của những vị hoàng đế xa xưa ngày này chẳng còn
chi để ngợi ca lắm; chỉ những phế tích của tu viện mình, với những khung cửa tò
vò hình bán nguyệt byzantin (thể điệu kiến trúc Thổ Nhĩ Kỳ xưa) và dãy cuối
cùng còn phơi hình hài biển dâu trên làn nước hồ đang nhìn tang thương mà cau mặt
– chút di lưu còn sót lại trong quên lãng của ký ức người đời về những công
trình kiến thiết cung hiến cho miền cõi thiêng liêng, nằm ngẩn ngơ trong ngậm
ngùi thương nhớ giữa những vùng đất đai mà ngày xưa thiên hạ gọi là phân-tô-địa
của hoàng đế Charlemagne. Trong cái xứ sở cô tịch hoang liêu này, xa biệt hẳn
những bụi đường phồn hoa dấy động, thì tôn giáo còn gìn giữ được những vết tích
đặc thù của cuộc cư tưu đằng đẵng của những vị hồng y giáo chủ dòng Este thuộc
triều đại tộc họ Médicis: những thói nhà phong vận, những chất hằng trâm anh của
thiêng liêng bờ cõi, còn giữ được chút gì cốt cách hào hoa, còn có pha chút gì
của phong thái thơ mộng, và con người tao nhã đi về thương yêu hồi tưởng, còn
thở được chút hương lừng man mác buổi Phục Hưng dưới những vòm hình cung bán
nguyệt của những ngôi nhà thờ nho nhỏ, khía cạnh gieo hồn, đường gân heo hút được
trang hoàng bởi bàn tay tài tử của những nghệ sĩ u nùng từ Ý Đại Lợi ghé chơi.
Uy nghiêm khuôn mặt tuyệt vời, Thiên Thần, Hiền Thánh trang đời thiên thu. Về
đây gọi nước non mù. Dàn xuân sắc dải hoang vu hồng vàng. Pha mờ dấu biếc xuê
xoang. Vong hồn ngẫu tượng ngụ trong tính tình. Sôi trào dòng mộng hiển linh.
Tình Pétrarque với u tình Colonna. Hoang đường thần bí dư ba. Còn nghe nức nở
chan hòa đâu đây… (Les figures des saints et des anges se profilent en rose sur
les voûtes peintes d un bleu tendre, avec des airs d allégorie païenne qui font
songer aux sentimentalités de Pétrarque et au mysticisme fabuleux de Francesco
Colonna).
Chúng tôi là những kẻ lai rai phiêu hốt, người anh của Sylvie
và chúng tôi có phận sự gì, lấy tư cách gì mà vào dự hội riêng biệt sử hồng được
tổ chức đêm kia? Thôi thì tạm nói rằng gió thanh xuân xô đẩy, tấp chúng tôi vào
bờ của hồng xum xuê. Xin chào nhau trong một cơn trở mộng. Rồi mai sau trùng ngộ
sẽ chia lìa. Một nhân vật chính tông trâm anh đài các, vốn bấy giờ là kẻ sở hữu
vùng đất đai này, đã có dự cái cuộc trình diễn tượng trưng huê hòe ẩn dụ hòa an
hồ điệp và trong cuộc nọ có xen vào vài mỹ nữ vốn thuộc nòi kỳ túc của một tu
viện láng giềng trên trận gió thổi qua. Ấy không phải là một vang bóng mơ hồ những
vở kịch đã đi về trong sương bạc Saint-Cyr của thời vua Louis Thập Tứ dìu đặt với
bà Maintenon trong từng trận đâm bông của cái buổi thi bá Racine ra chào đời
trong lừng vang điệu nhạc. Ấy còn lùi xa hơn về hút heo quá khứ, tới tận cùng
miên bạc bẻ bai rầu rĩ của những vong hồn năm tháng cũ đã trữ tình và giải tỏa
nếu du dương trong những cuộc dạt bờ vào đất Pháp kể từ thời đại họ Valois. Những
gì tôi thấy, những gì tôi nghe, trong cái đêm kỳ ảo nọ, chính là những gì khôn
tả còn truyền vọng lời vàng trong bí mật sử xanh. Những y phục gấm hoa, những
áo dài, xiêm ngắn, những hồng quần rất mỏng, những tà áo rất thưa, có khác nhau
chăng nữa, cũng chỉ băng nơi những màu thanh thiên, lục thúy hoàng, sa, yên hà,
man mác khánh vân chiều, bàng hoàng hồng sương sớm, tía hoa cà lổ đổ, lồng lộng
tử trúc lâm. Cảnh tượng diễn ra giữa chư thần chư thánh, bùi ngùi chư tiên tử,
trên tàn rụng mặt biển dâu. Thanh xuân gọi nước lên cầu. Hồng hoang núi ngủ yên
sầu gió khe. Chín mùa dông đổ sau hè. Bây giờ máu ứa trôi về tràng giang. Mây vừa
tía, mộng lang thang. Vết chăn vẽ sóng chìm ngang lưng đèo… La scène se passait
entre les anges, sur les débris du monde détruit. Chaque voix chantait une des
splendeurs de ce globe éteint, et l ange de la mort définissait les causes de
sa destruction… Cảnh tượng diễn ra giữa các thiên thần, trên những mảnh vụn của
cõi đời bị tàn phá. Mỗi giọng ngâm, mỗi hát lên một trong những tráng lệ của
doanh hoàn tắt lịm, và thiên thần của tử diệt đang xác định những nguyên cớ của
diệt vong. Một vị thần linh nhô hình hài lên từ đáy thẳm, tay cầm một ngọn lửa
chói chang và triệu tập chư tiên hãy tới nhanh mà mừng rỡ hoan nghênh đón tiếp
thịnh triều vinh hiển của Jésus Christ chiến thắng những quỷ ma u ám cõi âm ty.
Vị thần linh đó, chính thị là nương tử Adrienne đã từng có phen đi về trong câu
hát, đã tạm chết một đêm rằm trong nước xanh, và bây giờ đã hồi sinh trong xiêm
nghê biến dạng, như đã từng biến thể bởi tiếng gọi của tài tình tài tử đã ra
ngoài phát tiết trận tinh anh. Cái vầng hào quang làm bằng giấy carton nhuộm thắm,
bao bọc cái vầng trán bao la thanh khiết, chúng tôi nhìn vào và xem đó quả là một
vòng ánh sáng thật sự đang chiếu rọi hào quang một cách thật thiên nhiên; giọng
hát của nàng, kể từ bấy tới nay, đã tăng gia cao điệu lồng lộng viễn khơi như
hà thanh một thuở, và những rung vang hoa hòe điểm xuyết còn rún rẩy suốt cõi bờ
của bầu trời Ý Đại Lợi trong vi vút trường phong với những ca xoang đạm tiên
nàng ấy vốn xưa là nổi danh tài sắc chan hòa chiêm bao. Biển dâu sực tỉnh yêu
đào. Xuân phong tiếu bộ ai nào gọi ai.
En me retraçant ces détails, j en suis à me demander s ils
sont réels, ou bien si je les ai rêvés. Ghi lại những chi tiết này, tôi chợt dừng
tay tư lự, tự hỏi mình: chẳng biết chúng thật là có thật, hay lại là do mình
huyễn mộng mơ ra. Người anh của Sylvie đêm đó có ngà ngà say một chút. Chúng
tôi đã dừng lại nơi nhà người giám thị sơn lâm - tại đó, có một sự xui tôi vô
cùng kinh ngạc: một con thiên nga vi vu giang rộng cánh bên khung cửa hẹp ngậm
ngùi, còn phía bên trong, thì có những chiếc tủ cao bằng gỗ hạnh đào lóng lánh
những hình trạm trổ thật long lanh, một cái đồng hồ horloge chễm chệ trong vỏ gỗ-đào-hoa
tâm, và những giáp binh, những ngọc trụ có treo đao kiếm, cung tên, ở phía trên
một tấm thẻ xạ thuật đỏ xanh sặc sỡ. Một người lùn kỳ dị, đầu đội nón ba tàu, một
tay cầm một cái bình, tay kia cầm chiếc nhẫn, như dường đang mời mọc các xạ thủ
hãy nhắm cho trúng đích. Người lùn nọ hình như là làm bằng những mảnh tôn cắt
ra ghép lại. Những sự hiển hiện kỳ ảo tuyệt thế tài tình của anh hoa phát tiết
tài hoa Adrienne, có thật là có thật như những chi tiết phiêu bồng kia, như sự
hiện hữu đìu hiu không cách gì chối cãi của tu viện Châalis? Nhưng quả thật tuy
nhiên là như vậy, chính đứa con trai của viên giám thị sơn lâm đã dắt chúng tôi
vào trong căn phòng làm trường sở cho cuộc trình diễn nọ ấy mà. Chúng tôi đứng
tựa bên khung cửa hẹp, đứng sau lưng một nhóm người đông đảo đang tề tựu ngồi
nhìn và kích động một cách thật trang nghiêm. Chính là vào cái ngày lễ
Saint-Barthélemy, được gắn liền một cách kỳ bí vào với kỷ niệm hoàng tộc
Médicis, mà những binh khí di lưu còn kết treo liền bên những gươm đao nhà họ
Este, hiện đang đề huề trang hoàng xuân thu cho những tường vách cũ nọ… Kỷ niệm
kia có lẽ chỉ là một ám ảnh! May mắn làm sao, này đây là chiếc xe đang tới, chiếc
xe dừng trên con lộ Plessis; tôi thoát ra khỏi vòng cuốn hút của mộng ảo mê ly,
tôi chỉ còn mười lăm phút bộ hành để về tới xóm Loisy trên những con đường cô tịch.
PHẦN VIII - CUỘC KHIÊU VŨ TẠI LOISY
Tôi vào giữa cuộc Loisy. Lúc giờ ủ rũ trên kỳ ủ ê. Êm đềm ánh
sáng mô tê. Mần răng như rứa coi tề tái xanh. Rập rờn ngày tới đương nhanh. Trường
phong khêu gợi biên thành liễu buông. Bồ đề tát thúy ngõ thuôn. Diên trì thời hạn
trên nguồn sử xanh. Ngọn trồng vòi või thiên thanh. Cơn dầu phôi dựng long lanh
sáo ngà. Dậy dàng điền dã âm ba. Thôi rồi thua cuộc chan hòa họa mi…
Je suis entré au bal de Loisy à cette heure mélancolique et
douce encore où les lumières pâlissent et tremblent aux approches du jour.
Tôi bước vào cuộc hội múa vòng tại Loisy vào cái giờ sầu u và
êm dịu của bình minh mới chớm, và ánh nhợt rung rinh trước ngày về sắp tới. Những
cây bồ đề, thân dưới còn nhòa tối, trên ngọn đã pha màu sáng xanh lơ. Tiếng sáo
đồng quê không còn tranh chấp thiết tha nữa với giọng họa mi uốn éo chiên âm. Mọi
người đều xanh xao, và nhìn khắp những nhóm người thưa thớt, tôi khó lòng gặp lại
những khuôn mặt quen thân. Cuối cùng, tôi nhìn thấy nàng Lise dong dỏng, chị một
cô bạn thiết của Sylvie. Nàng ôm tôi hôn. “Lâu ngày chẳng gặp anh đâu, anh kẻ
chợ ạ, nàng nói. - Ồ! Vâng lâu lắm. Anh tới vào cái giờ này ư? - Bằng giao
thông xe ngựa. – Và thật chẳng quá xá là nhanh! – Tôi muốn thăm Sylvie; nàng có
còn trong cuộc múa? – Nàng sẽ tới vào lúc sáng trời. Nàng thích khiêu vũ xiết
bao.”
Một lát sau, tôi đã đứng bên cạnh nàng rồi. Gương mặt nàng có
vẻ mỏi mệt; tuy nhiên con mắt đen láy của nàng vẫn sáng ngời nụ cười gái
Athénienne ngày cũ. Một chàng trai đứng cạnh nàng. Nàng ra dấu cho chàng ta hiểu:
nàng xin khước từ cuộc múa đối diện sắp tới. Chàng ta chào và rút lui.
Ngày đã sáng. Chúng tôi rời cuộc khiêu vũ, bước ra, tay nắm
tay. Những đóa hoa tà tà xiêu lệch trên mái tóc lõa xõa xuôi giòng. Chùm bông
trên ngực rung cánh trên những miếng đen-ten nhàu rã. Tôi xin phép được đưa
nàng về nhà. Trời đã sáng, nhưng khí trời ủ rũ. Giòng sông Thève xào xạc chảy
bên bờ. Những khúc quành, nước vòng xoay lặng lẽ, nước tụ im lìm. Những cánh
hoa sen mở phơi màu vàng, màu trắng. Những đóa bọt nước thêu thùa chợt vỡ tan
như những hàng hoa cúc trắng. Đồng ruộng đầy rẫy những lượm lúa vừa mới cắt
xong, và những đống rơm khô, và những đống rạ, và những mùi hương hắc hắc bốc
hơi nồng, không đủ xui lòng tôi ngây ngất, như đã làm tôi ngây ngất xưa kia với
những mùi thơm của hoa ngàn, của lùm cây, của cụm lá, của sơn-trà-tử ban đầu.
Chúng tôi không có ý băng qua những cánh đồng kia nữa.
“Sylvie ạ, em không còn yêu tôi nữa phải không?” Nàng thở dài một cái. “Anh ạ,
trước sau gì, rồi cũng phải liệu cho hợp lẽ mà thôi. Chuyện đời nó bước đi
không giống như lòng ta ước muốn. Xưa kia, anh có bảo em đọc La Nouvelle
Héloïse, em đã đọc rồi, và em có run rẩy trước cái lời đầu tiên của sách: “Gái
nào sẽ đọc sách này, gái đó sẽ hỏng mất thân”. Tuy nhiên em đã bỏ qua, em tin
nơi lý trí của mình. Anh còn nhớ không cái ngày chúng ta vận vào thân mình những
y phục hôn lễ của bà dì?... Những tháp họa trong cuốn sách cũng trình bày những
kẻ yêu nhau trong bộ y phục thời trước, và thế đó, đối với em, anh đã là
Saint-Preux, còn em, em đã nhận ra mình trong nhân vật Julie. A! Sao anh không
sớm quay về ngày đó. Phải chi ngày đó anh chịu về. Nhưng em nghe người ta nói,
ngày đó anh ở bên Ý Đại Lợi. Chắc hẳn là bên đất nước đó, anh đã có gặp nhiều
những thiếu nữ đẹp hơn em! – Không. Sylvie ạ, không một kẻ nào có được cái nhìn
của con mắt em, và những nét dịu dàng trong trắng trên khuôn mặt em. Em là một
nữ thần thủy tiên không tự biết mình là tiên trong sóng lục. Vả chăng, những cụm
rừng quận hạt này cũng đẹp có thua gì những phong cảnh La Mã bên kia. Đây có những
khối hoa-cương-thạch tuyệt diệu chẳng thua gì bên đó, và một thác nước vì vèo,
chảy từ ghềnh đá xuống, cũng giống như thác nước bên châu quận Terni. Bên đó,
anh không có thấy gì khả dĩ xui anh về đây mà còn nhớ tiếc.
"Còn ở Paris?" Nàng hỏi – "Ở Paris…”
Tôi lắc đầu không đáp.
Bỗng dưng tôi nhớ tới cái hình ảnh hão huyền đã lung trạo xô
đẩy tôi lạc nẻo suốt bao ngày.
Sylvie, chúng ta dừng tại đây, em bằng lòng chứ?
Tôi quỳ xuống bên chân nàng; tôi khóc như mưa, thú nhận với
nàng những bao nhiêu dùng dằng xuôi ngược, những do dự bần thần, những bàng
hoàng luông tuồng ảo vọng tôi gợi lại cái hình hài quỷ dị quái ác đã đi qua
trong kiếp sống của mình.
"Em hãy giải cứu cho anh, anh xin trở về cùng em mãi
mãi."
Nàng đưa mắt nhìn tôi. Nàng cảm động vô cùng…
Bỗng lúc đó, câu chuyện bị cắt ngang vì một tràng cười mãnh
liệt. Đó là người anh của Sylvie đang chạy tới, anh mộc mạc vui cười cách điệu
nông dân, lại thêm những yến ẩm tràn lan đêm dạ hội càng làm cho cốt cách nặng
thêm ra. Anh gọi chàng si tình kia lại, anh chàng thấp thỏm yêu đương đang mất
dạng ở xa kia, sau những lùm cây hoang dại. Anh chàng đó cũng chân nam đá chân
xiêu như ông bạn của mình. Anh chàng kia dường như bối rối bởi sự hiện diện của
cái cậu Parisien phong nhã này còn hơn là lúng túng bởi sự hiện diện của
Sylvie. Gương mặt thật thà, chất phác của anh ta, lòng kính nể pha ngại ngùng của
chàng ta, không cho phép tôi oán giận được, dù anh là cái kẻ đã xui em Sylvie nấn
ná ở lại hội muộn màng. Tôi xét ra, anh chàng kia chẳng có gì đáng nên gờm sợ hết.
"Phải trở về nhà thôi", Sylvie nói với người anh.
"Gặp nhau lần khác nhé!" Nàng bảo tôi và đưa má cho tôi hôn.
Kẻ si tình kia không lấy thế làm tức.
PHẦN IX - ERMENONVILLE
Tôi không chút ước ao muốn ngủ. Tôi đi Montagny viếng lại ngôi
nhà cậu tôi. Một mối buồn bao la xâm chiếm lòng tôi lúc vừa thoáng nhìn thấy đầu
hiên vàng vọt, và những cánh song hồ màu lục nhạt phân vân. Mọi vật xem chừng
như vẫn giữ nguyên trạng thái ngày trước; duy chỉ cần phải tới nhà người tá điền
để lấy chiếc chìa khóa. Lúc những cánh cửa đã mở ra, tôi cảm động nhìn những ghế
bàn cũ kỹ còn nguyên tình trạng xưa, và thỉnh thoảng được người ta lau chùi trở
lại. Chiếc tủ cao bằng gỗ hồ đào, hai tấm họa flamand (thuộc miền Flandre) mà
thiên hạ bảo là tác phẩm của một nhà hội họa ngày xưa, vốn là tổ phụ của chúng
tôi. Nhiều tấm ấn họa và cả một série những tháp họa của tác phẩm Emile và La
Nouvelle Héloïse do họa sĩ Moreau. Trên bàn, một con chó độn rơm mà tôi quen biết
xưa kia thuở nó còn sống, vốn là người bạn đường của tôi trong những cuộc chạy
nhảy trong rừng, con chó carlin ngắn mõm, con chó carlin cuối cùng có lẽ, vì nó
thuộc nòi chó đã mất giống ngày nay.
"Còn con két", người tá điền bảo, "nó vẫn còn
sống. Tôi mang về bên nhà."
Khu vườn phơi bày một bức tranh lộng lẫy những cây lá hoang dại.
Trong một góc vườn, tôi nhận ra được một cụm vườn của trẻ nhỏ mà ngày xưa tôi
đã vạch cho mình. Tôi hồi hộp vào phòng văn. Vẫn còn đó, tủ sách nho nhỏ đầy những
sách chọn lọc, những bạn già thân thiết của kẻ đã lìa đời, và trên bureau, vài
mảnh vụn lượm nhặt ở ngoài vườn, những lu, bình, những mề đay La Mã,
con-lét-xon địa phương đã xui lòng cậu tôi sung sướng.
“Ta đi viếng con két nhé”, tôi bảo người tá điền. Con két vẫn
đòi ăn, như những ngày huy hoàng quá khứ, và nhìn tôi bằng con mắt tròn trịa với
viền da xung quanh nhăn nhíu, xui ta liên tưởng tới cái nhìn duyệt lịch của những
kẻ lão thành.
Lòng tràn đầy những ý tưởng buồn bã do trở về muộn màng những
nơi chốn thân yêu, tôi cảm thấy cần gặp lại Sylvie, khuôn mặt sống động duy nhất
và còn tươi trẻ đó, để thắt giây liên lác giữa tôi với xứ sở này. Tôi lên đường
về lại xóm Loisy. Vào khoảng đứng trưa. Mọi người ngủ yên, mỏi mệt vì buổi hội.
Tôi có ý muốn khuyây khỏa nỗi lòng bằng một cuộc đi dạo viếng Ermenonville,
cách một dặm đường rừng. Trời huy hoàng mùa hạ. Tôi hài lòng trong bầu không
khí ấm áp và mát mẻ trên con đường giống như lối đi trong một hoa viên. Những
cây sồi to lớn xum xuê sắc lục một màu đen, xen lẫn những thân cây phong trắng
bạch, cành lá đong đưa rún rẩy. Chim chóc im lìm, chỉ nghe tiếng chim gõ kiến
đang đưa mỏ đập vào cây để đào hang làm tổ. Chợt tôi nhận thấy mình có thể lạc
mất lối đi, vì trên những cột trụ chỉ đường, bảng ghi chữ đã rã rời nhiều chỗ.
Cuối cùng, tôi đành bỏ khu Désert bên tay trái, bước tới chỗ ngã năm khiêu vũ,
tại đó còn tồn tại chiếc ghế của những người già. Bao nhiêu kỷ niệm về thời triết
học, bỗng tái sinh trong vong hồn kẻ sở hữu đất đai này, chợt xô ùa về trong
trí tôi một lúc, trước sự thể hiện bằng mỹ cảnh của tinh thần phong vận học
Anacharsis và Émile.
Lúc tôi nhìn nước mặt hồ lấp lánh qua những cành liễu và những
cành cây trăn, tôi chợt nhận ra hoàn toàn một nơi chốn mà xưa kia, trong những
cuộc đi dạo, cậu tôi vẫn thường dẫn tôi tới nhiều lần: đó là Điện đài triết học,
mà kẻ sáng lập ra đã không gặp được cái may mắn hoàn thành. Nó mang cái hình dạng
đền vu tiên tri Tiburtine, và nép mình dưới bóng một cụm tùng, nó còn đứng được
tại đó để mở phơi ra ngoài mọi tên tuổi lẫy lừng của cõi miền tư tưởng, khởi đầu
bằng Montaigne và Descartes, và dừng lại với Rousseau. Tòa lâu đài dở dang nọ,
ngày nay chỉ còn là một phế tích. Sắn bìm, đằng la, hèo trường xuân, mây viễn hạ,
tha hồ mà vấn leo quấn quít. Những bụi ngấy, những cụm dum, những chùm chà là,
những khóm dứa dại, tha hồ thi nhau tràn ngập những bệ thềm hở hang, rã nứt. Tại
đó, thuở còn bé con, tôi đã thấy những hội hè, những lễ lạc, với những phần thưởng
cấp phát đền bù cho việc học hành, và hạnh kiểm. Nhưng đâu là những cụm tường
vi đã từng kỷ độ đâm bông vấn quanh ngọn đồi thơ dại? Và mỉm cười ngang ngửa với
sim lục bơ vơ? Giờ chỉ còn dã-tường-vi-hoang dại và phúc-bồn-tử buông tuồng
đang phủ lấp mất những du dương hồng cũ, những nụ cuối cùng e ấp đang định liều
mình nhắm mắt dấn thân vào nhập cuộc với cỏ cây hoang. Còn những cụm nguyệt quế,
có phải con người ta đã chặt đứt mất rồi, như lời trong dao ca - của những gái
tơ đìu hiu hát trong sương sớm, không còn muốn vào rừng nữa, vì biết rằng sẽ
không hy vọng tao phùng? Hỡi ôi, những đời cỏ hoa mỏng mảnh kia của non nước dịu
dàng Ý Đại Lợi, đã đành tử diệt dưới bầu trời u ám của chúng ta. May thay, cây
thuỷ lạp của Virgile vẫn còn đâm bông tại đó, như dường gắng gổ chống chỏi để
bênh vực cho lời của bậc thầy còn ghi tạc phía tên tấm cửa đằng kia: Nhân vì
trí huệ tối cao. Dựng hồn vân thạch, tạc vào sử xanh. Vâng, điện đài này cũng
nhào đổ điêu tàn như bao nhiêu điện đài khác, những con người mau quên lãng, những
con người mỏi mệt cuộc phù du, sẽ quay mặt đi, không ghé thuyền cập bến, không
lần mò tới loanh quanh các miền phụ cận để gùn ghè gạ gẫm vì xa nghe cũng nức
tiếng nàng tìm chơi – và thiên nhiên thiên thu hờ hững sẽ hồn hồn ngạc ngạc xâm
chiếm trở lại cái mảnh đất đai giang hồ tứ chiếng, mà nghệ thuật đã đoạn trường
đau xót vùng vẫy tương tranh để giành lại cho đời; nhưng khát vọng của tri thức
tệ năng của thiên thu bất diệt, di động xuê xoang bằng mọi sinh khí uy quyền tồn
lưu kêu linh hoạt.
Đây những ngọn bạch dương của hoang đảo, và nấm mộ Rousseau
không còn di hài Rousseau trong đó nữa. Hỡi bậc chân nhân hiền thánh! Ngươi đã
từng mang bầu sữa mạnh về hạ tứ ban cấp chúng tôi, nhưng chúng tôi đã quá hèn yếu,
thì sữa đó đã không giúp ích được gì. Chúng tôi đã quên lãng những bài học mà tổ
phụ chúng tôi đã lĩnh hội được, và chúng tôi đã đánh mất ý nghĩa trong nội dung
lời ngài, cái tiếng vang cuối cùng của những mạch nguồn thiêng liêng nguyên thủy.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin không tuyệt vọng và cũng xin bắt chước Người
trong phút giây vẫy vùng tối thượng, chúng tôi xin quay mặt lại, đưa hai con mắt
mà hướng về mặt trời.
Tôi đã nhìn thấy trở lại cung điện cũ, những làn nước tĩnh mịch
bọc quanh, ngọn thác than van trong sa thạch, và con đường cao băng qua đồng ruộng,
nối liền hai khu xóm của khu làng khang tịnh lại với nhau, mà bốn cái chuồng bồ
câu êm đềm đánh dấu cho bốn góc, và nội cỏ xanh rợn đến chân trời như một đại-thảo-nguyên
đìu hiu trải trên hồn lục địa, dàn cơn mộng dưới bầu trời, bên điệp trùng những
đồi núi long lanh. Ngọn tháp Gabrielle tự xa xôi đằng kia phản chiếu bóng trên
mặt những đợt nước một tấm “giả hồ” với những nụ hoa phù du lấp lánh như sao trời
sắp sửa rụng; bọt bèo sôi sục, côn trùng xào xạc kêu… Phải thoát ra khỏi vòng
lung trạo của bầu khí âm hiểm tai hại kia, đang bốc hơi len lỏi rập rình xâm
chiếm những sa thạch nhuốm bụi đầy mình của hoang vu sa mạc và những đồng hoang
truông đèo xuôi ngược, với những lùm cây hông tía đang ỡm ờ đùn đẩy màu lục nhạt
của dương xỉ phơ phất mảnh đuôi chồn từng ngọn lắt lay. Tịch mịch rầu rĩ xiết
bao, ôi linh hồn phong cảnh! Con mắt nhìn kỳ diệu của Sylvie hân hoan cuồng hỉ,
những cơn chạy của nàng, những tiếng kêu vui sướng của em, một ngày kia xa lắm
đã đem về bao quyến rũ cho những chốn tôi vừa viếng trong hoài niệm đăm chiêu.
Ngày kia em còn là một cô bé hoang vu man dại, chân em trần, gót em trụi, mắt
cá em truồng, da em sần bánh mật bồ quân, mặc dù em có đội đầu chiếc mũ rạ rộng
vành phiêu hốt với dải băng rộng tung bay bồng bềnh với làn tóc tơ đen múa rối.
Chúng ta đã đi uống sữa tươi ở nông trại Thụy Sĩ, trên gò cao, đống rộng, và
người ta đã bảo tôi rằng: “Chú bé Parisien ạ, cô bồ của chú xinh đẹp vô ngần!” Ồ!
Thuở đó, đâu có dễ gì một gã nông dân được diễm phúc múa vòng cùng với em khiêu
vũ. Em chỉ múa vòng với tôi thôi, mỗi năm một lượt, vào dịp lễ bắn cung cũng gọi
là hội đố lá.
PHẦN X - CHÀNG CAO TÓC QUĂN
Tôi lại theo con đường về lại xóm Loisy; mọi người đã thức giấc.
Sylvie vận một bộ trang phục tiểu thư rất mực đài các, xấp xỉ phong vận phồn
hoa. Nàng đưa tôi lên phòng với tất cả niềm thơ ngây ngày trước. Con mắt nàng vẫn
sáng ngời trong nụ cười kiều diễm, nhưng vòng cung hàng lông mày đậm nét, đôi
lúc đã làm cho gương mặt nàng nhuốm một vẻ trang nghiêm. Phòng trang hoàng giản
dị, tuy nhiên bàn ghế lại thuộc loại kim thời, một tấm gương khung vàng đã thay
thế chiếc gương cũ treo trên lò sưởi ngày xưa. Lại có một hình chàng mục tử của
Tình Ca đang trao tặng một cái tổ chim cho một cô chăn cừu hồng vàng xanh lục.
Chiếc giường xưa với những cột mùng trinh bạch phủ thứ vải Ba Tư chim cò lá
cành, đã bị thay thế bằng một chiếc giường gỗ hồng đào với diềm hà phụng hoa
loan; nơi bệ cửa sổ, trong chiếc lồng nhốt chim bông lau bạc má xưa kia, bây giờ
lại nhốt chim kim tước. Tôi mong muốn sớm được ra khỏi căn phòng kia, căn phòng
chẳng còn lưu một chút gì của mùi hương quá khứ. “Ngày nay em không còn thêu
thùa đen-ten nữa?..." Tôi hỏi Sylvie. "Ồ! Em chẳng thêu đen-ten nữa,
chẳng còn ai dùng thứ đó nữa trong làng; ngay cả ở Chantilly, cái sở lớn cũng
đóng cửa rồi." – "Thế em làm gì?” Nàng đi lại góc phòng lấy ra một dụng
cụ bằng sắt giống hình một cái kẹp dài. “Đó là cái chi vậy?" – "Người
ta gọi đó là kẹp máy; dùng để kẹp da găng lại mà thêu." – "Thế ra em
đã thành cô thợ dệt găng tay?" "Vâng, chúng em làm việc để cung cấp
cho một quận Dammartin, công việc cũng bề bộn lắm; nhưng hôm nay thì rảnh; anh
lại muốn dẫn em đi đâu thì đi đó”. Tôi quay mặt ngó về phía làng Othys: nàng lắc
đầu; tôi hiểu rằng bà dì không còn nữa. Sylvie gọi một thằng bé, bảo nó thắng
cương yên một con lừa. “Hôm nay em còn mệt mỏi vì buổi hội hôm qua, nàng nói,
nhưng đi dạo chắc sẽ làm em khỏe khoắn ra, chúng ta hãy đi Châalis”. Và thế là
chúng tôi lên đường băng qua rừng rú, theo sau là thằng bé con con, tay cầm một
cành cây như khí giới tháp tùng. Chẳng mấy chốc, Sylvie muốn dừng chân, tôi hôn
nàng, dìu nàng ngồi xuống. Câu chuyện giữa chúng tôi, bấy giờ chẳng thể nào còn
thân mật nữa. Tôi phải kể lại nàng nghe cuộc sống của tôi tại Paris, những chuyến
du lịch… “Làm sao người ta có thể đi xa đến thế?" Nàng hỏi…
"Tôi lấy làm lạ về điều đó khi gặp em." – "Ồ!
Cái đó tất nhiên!" – "Và hãy nhìn nhận rằng xưa kia em không xinh đẹp
bằng." – "Em chẳng rõ." – "Em còn nhớ cái thuở chúng ta còn
bé con, và em thì lớn hơn anh một chút?" – "Còn anh thì ngoan hơn
em!" "Ồ! Sylvie!" – Người ta đặt hai đứa lên lưng con lừa, mỗi đứa
ngồi đong đưa trong một cái thúng ở hai bên hông con lừa. – Và ngày đó em gọi
tôi bằng một lối xưng hô rất khác… "Em có nhớ rằng em đã bày vẽ cho anh
câu tôm ở phía dưới những nhịp cầu sông Thève và khe Nonette?" – "Và
anh, anh có nhớ người anh em sữa của anh, người con của bà vú nuôi anh, ngày nọ
đã kéo anh lên vì anh chìm lỉm xuống xiết nước?" – "A! Chàng cao tóc
quăn! Chính anh ta đã từng nói với anh rằng có thể lội qua… lội qua xiết nước!”
Tôi vội vã đổi câu chuyện. Kỷ niệm đó nhắc tôi nhớ lại rõ
ràng cái thuở tôi tới miền này, vận một bộ y phục lối bé con Anh Cát Lợi, làm
cho các anh nông dân cười thật dữ. Riêng Sylvie coi là tôi ăn vận được lắm;
nhưng tôi không dám gợi lại cho nàng nhớ ý kiến đó của một thuở xa xôi lăng lắc.
Chẳng hiểu vì sao tôi lại nghĩ tới những bộ y phục hôn lễ mà chúng tôi đã vận
vào mình tại nhà bà dì ở Othys. Tôi hỏi Sylvie ngày nay những bộ quần áo đó ra
sao. “A! Bà dì tốt quá", Sylvie nói, "bà có cho em mượn tấm áo đó để
đi khiêu vũ trong ngày hội hóa trang tại Dammartin, kể ra đã được hai năm rồi.
Năm sau, bà mất, tội quá!”
Nàng thở ra, nàng khóc, và tôi không thể hỏi bởi hoàn cảnh
trường hợp nào nàng đã đi dự hội một buổi hội hoá trang; nhưng cũng đoán hiểu rằng
nhờ cái tài khéo tay, khôn ngón của nàng, Sylvie không còn là một cô nông dân cục
mịch. Chỉ cha mẹ nàng nằm yên trong phận, và nàng đã sống bên cạnh cha mẹ như một
nàng tiên mẫn tài trí, xảo diệu tay chân, gieo rắc mưa móc phì nhiêu ra bốn
phía.
PHẦN XI - TRỞ LẠI
Ra khỏi khu rừng, nhãn quang nhìn khung trời mở rộng. Chúng
tôi đã tới bên bờ những hồ nước Châalis, những hồi lang của tu viện, ngôi nhà
thờ với những ngọn tiêm cung dong dỏng cao vút ngọn tháp thời phong kiến và
ngôi điện nho nhỏ đã nung nấu che chở những tình ái u nùng, giữa hoàng đế Henri
đệ tứ và nương tử Gabrielle tất cả đều nhuốm màu ráng đỏ hoàng hôn man mác bao
phủ màu lục đậm núi ngàn. “Đó là một phong cảnh của Walter Scott, phải không
anh?” Sylvie nói. – "Ai đã nói với em về Walter Scott? Thế thì từ ba năm
nay, em đọc sách nhiều lắm?... Anh, anh gắng quên sách vở, và cái gì thu hút
anh, cái gì anh mơ ước, ấy là chính cùng em nhìn lại ngôi tu viện cũ kỹ này. Em
nhớ đó, chính đấy là chỗ thuở nhỏ chúng mình đã trốn nhau giữa những phế tích
hoang tàn. Em nhớ không, Sylvie, khi người kiểm lâm kể cho chúng ta nghe sự
tích những tu sĩ áo đỏ, thì em đã sợ hãi như thế nào?" – "Ồ! Anh đừng
nói chuyện đó với em nữa." – "Vậy thì em hãy ca cho anh nghe bài ca của
cô gái xinh đẹp bị bắt đi khỏi khu vườn của cha mẹ, dưới cây bạch tường
vi." – "Ngày nay, người ta không ca bài đó nữa." – "Chẳng lẽ
em đã trở thành nhạc sĩ hay sao?" – "Chút ít." – Sylvie, Sylvie,
anh tin chắc rằng em ca những điệu nhạc kịch trường! – "Anh phàn nàn ư? Có
chi để phiền trách?" – "Bởi vì anh yêu chuộng những điệu hát xưa, và
em sẽ không còn hát chúng nữa.”
Sylvie ngân lên vài thanh âm một điệu nhạc lớn kịch trường… Hỡi
ôi nàng uốn giọng cao kỳ!
Chúng tôi đã đi vòng những hồ nước bên. Đây đồng cỏ xanh lục,
xung quanh sum sê bồ đề và tiểu du, tại đây chúng tôi xưa kia từng đã múa vòng
bao phen! Tôi thở cơn tự ái, lên tiếng định nghĩa những hàng chữ trên những bức
tường carlovingiens (thuộc thời đại các vua chúa Carlovingiens) và giải thích
những huy hiệu huy chương nhà họ Este. “Anh! Anh đọc sách hơn em nhiều quá! Thế
thì té ra anh là một nhà thông thái?”
Tôi hơi tức vì giọng nói pha ý phiền trách của nàng. Trước
lúc bấy giờ, tôi vẫn loay hoay kiếm chừng một chỗ thích hợp để nói trở lại câu
chuyện tâm sự buổi sáng; nhưng biết nói gì với nàng: phía sau, một con lừa lẽo
đẽo hai tai, và một thằng bé tò mò tinh ranh, cứ thích len lỏi mò tới gần bên để
nghe cái lối nói của ông kẻ chợ Parisien. Và thế đó, tôi đã không may mở miệng
kể lại cho nàng nghe sự hiển hiện kỳ ảo tại Châalis, hiện còn nằm trong kỷ niệm
của tôi. Tôi dẫn Sylvie vào chính cái căn phòng bữa trước, tại ngay cái chỗ tôi
đã nghe Adrienne hát. “Ồ! Tôi chờ nghe em lên tiếng nói! Tôi bảo. Cầu sao cho
giọng nói của em hãy dội lên dóng dả dưới những vòm cung điện này, và xua đuổi
những thần linh đang day vò đầu óc tôi, dù là thần thiêng liêng hay ác hại!”
Nàng lặp lại những lời và điệu hát:
Hỡi thiên thần, hay mau mau giáng hiện
Xuống tận cùng tĩnh-tội-giới thâm sâu…
"Thật là buồn bã!" Nàng nói.
"Thật là tuyệt diệu… Anh tưởng đó là của Porpora, với những
vần thơ được phiên dịch vào thế kỷ mười sáu."
"Em chẳng rõ", Sylvie trả lời.
Chúng tôi đã quay trở về băng qua thung lũng, men theo con đường
Charlepont mà nông đan thuần phác, chẳng cần biết tới cái lẽ phải trái của từ
nguyên, cứ gọi trại ra thành Châllepont. Sylvie, ngồi trên lưng lừa đã mỏi, tựa
mình vào cánh tay tôi. Con đường vắng vẻ; tôi gắng thử tìm cách nói về những nỗi
niềm trong dạ, thật tầm thường, hoặc thình lình lại thốt một tiếng rỗng tuếnh
tiểu thuyết, mà – Sylvie ắt có lẽ đã có đọc qua rồi. Và thế đó, tôi dừng lại
theo phong vận rất cổ điển hào hoa, và Sylvie đôi lúc đã tỏ vẻ ngạc nhiên trước
những tâm sự phơi bày nửa chừng thoắt dứt. Lúc tới sát những bờ tường
Saint-Sulpice, thì phải coi chừng cái điệu bước, cái cách đi. Người ta băng qua
những nội cỏ ướt át, có những dòng khe uốn éo quanh co. “Cô tu nữ ra sao?” Tôi
thình lình hỏi.
"A! Anh thật là kinh khủng với cô nữ tu của anh… Ồ…! Thật
là… chuyện cô ta, thật có bề không ổn.”
Sylvie không chịu nói thêm lời nào.
Có thật rằng đàn bà cảm thấy được rất rõ rằng một lời nọ, một
lời kia, thốt ở trên môi, mà không tuôn từ tấc dạ? Không thể nghĩ như vậy được.
Cứ xem các nàng bị phỉnh phờ nhầm lẫn quá dễ dàng. Cứ xem các cô chọn lựa thì
rõ: có xiết bao kẻ đàn ông đóng thật giỏi cái tuồng cua gái, yêu đương! Tôi chẳng
quen nổi với sự đó, mặc dù biết rằng có đôi cô chấp thuận một cách có ý thức
cái việc để cho thiên hạ lừa dối. Không cần là thật hay giả. Cứ nghe bừa cho
xong. Nhưng tôi biết làm sao được. Vả chăng, một mối tình kết giao từ thuở nhỏ,
là một cái gì thiêng liêng… Sylvie, tôi đã thấy nàng từ bé, lớn dần dần, đối với
tôi cũng là một đứa em gái. Tôi không thể mở cuộc quyến rũ dã man… Một ý nghĩ
khác xuyên qua óc tôi. “Giờ này, tôi tự nhủ, ở Paris ắt là ta đương ở rạp hát…
Thế thì Aurélie (tên cô đào) chiều nay đóng vai tuồng gì? Hẳn nhiên là nàng thủ
vai công chúa trong vở kịch mới. Ồ! Ở lớp thứ ba, trông nàng thật là đáng yêu
nên cảm kích!... Và trong cái xen yêu đương ở lớp hai! Với cái anh chàng một, mặt
mày nhăn nhíu…
"Anh đang cơn say suy ngẫm?” Sylvie nói và mở môi hát:
Tại Dammartin có ba cô gái đẹp:
Riêng có một cô đẹp hơn trời mai sớm…
Riêng một cô kiều diễm hơn sớm mai…
“A! Cô này dã man thật!” Tôi thốt to, thế mà cô dám nói rằng
cô không còn biết hát những điệu hát xưa!
“Nếu anh năng lui tới đây nhiều hơn một chút, thì ắt em sẽ nhớ
ra nhiều điệu nữa nhưng phải lo nghĩ tới cái gì thiết thực. Anh có công việc của
anh tại Paris, em có công việc của em tại đây. Đừng về trễ quá. Ngày mai em còn
phải lo dậy sớm cho kịp bước mặt trời.”
Nguồn: Tân An xuất bản tại Sài Gòn trước 1975, An Tiêm xuất bản
tại hải ngoại 1990. Bản điện tử do talawas thực hiện.
PHẦN XII - CHA DODU
Tôi sắp trả lời, tôi sắp quỳ xuống bên chân nàng, tôi sắp xin
đem dâng tặng nàng ngôi nhà cậu tôi, ngôi nhà tôi có thể chuộc lại được, bởi vì
bọn thừa kế chúng tôi đông, và di sản nọ thì còn công hữu; nhưng lúc đó chúng
tôi đã về tới Loisy mất rồi. Bữa ăn tối đang chờ chúng tôi. Nồi “xúp” nấu hành
bốc mùi hương mộc mạc. Nhiều bạn láng giềng được mời tới dự tiệc của ngày đưa
tiễn buổi hội đi. Tôi bỗng nhận ra ngay một ông tiều phu già, cha Dodu đó,
chính ông ngày xưa đã kể cho chúng tôi nghe giữa đêm khuya những chuyện cổ tích
thật vui hoặc thật khủng khiếp. Hết làm nghề mục phu, đưa tin tức, kiểm lâm,
ông lại đi chài cá, đi săn trộm thú rừng; cha Dodu, trong những giờ rỗi rảnh cũng
đã từng chế tạo những chiếc xe bò hai bánh và những cái máy quáy thịt. Trong một
thời gian khá lâu, ông chuyên làm cái việc đưa dẫn người Anh Cát Lợi đi du lãm
vùng Ermenonville, ông dắt họ tới nơi xưa kia Rousseau từng đã tới chiêm niệm,
suy tưởng, ông kể lại cho họ nghe những ngày cuối cùng của đời triết gia nọ.
Chính ông xưa kia là thằng bé được vị triết gia nuôi để làm cái công việc là sắp
đặt, chia loại các thứ hoa cỏ của mình, chính ông ta là kẻ đã được vị triết gia
sai đi ngắt những nhánh độc cần đem về vắt nước vào ly cà phê sữa. Chủ quán La
Croix d’Or không thừa nhận là sự vụ đó có thật; từ đó nảy ra những oán thù kéo
dài dậm duộc. Xưa kia người ta cũng có trách cha Dodu có sở hữu một vài bí ẩn
vô tội, như là: chữa lành bệnh bò cái bằng một vài tiết kinh Thánh đọc lộn ngược,
hoặc bằng một câu thơ đọc theo lối nói lái, hoặc dùng bàn chân trái mà ra dấu
thập giá; nhưng từ lâu ông đã thôi không giở những trò quỷ dị đó nữa - ấy là nhớ
kỷ niệm, theo ông nói, nhờ kỷ niệm những buổi trò chuyện của ông Jean-Jacques
Rousseau.
“A! Chú đó ư, chú bé Parisien kẻ chợ! Chú tới đây mục đích là
gieo mầm hư hỏng cho gái miền này? – Tôi ấy à, cha Dodu sao lại nói kỳ cục thế?
– Chú dẫn bọn con gái vào rừng những khi chó sói không lang thang trong đó? -
Cha Dodu ôi, chính cha mới thật là một con sói già đấy nhé. – Ta là sói chừng
nào mà ta tìm ra được cừu gái tơ; nay ta chỉ còn gặp những con dê cái mà thôi,
mà dê cái thì chúng biết lối tự vệ thực là tài. Nhưng còn các chú, các chú là bọn
tinh ranh quỷ quái Paris. Ông Jean-Jacques Rousseau nói thật là có lý: “Con người
ta hư hỏng tính tình trong bầu không khí nhiễm độc đô thị phồn hoa.”
"Cha Dodu ơi, cha cũng biết quá rõ là con người ta thì
hư hỏng khắp chốn chốn nơi nơi.”
Cha Dodu bèn cất giọng ngâm một điệu ca nhậu nhẹt; người ta cố
sức ngăn ông để ông chịu dừng lại, đừng có dấn tới cái đoạn tục tĩu trong bài
ca, mà ai ai cũng thuộc lòng cả. Nhưng vô ích. Ông ồ ề buông tuồng hát tuốt hết.
Chúng tôi yêu cầu cô Sylvie hát, cô từ chối, bảo rằng: ở bàn ăn, không ai hát
bao giờ. Tôi đã có để ý thấy anh chàng si cô, gặp đêm trước, nay được ngồi cạnh
cô, phía bên trái. Hình như có cái gì đó trong khuôn mặt anh ta, khuôn mặt tròn
vo, có cái gì đó trong đầu tóc rối bơ phờ, coi có vẻ quen quen. Anh ta đứng
lên, tới phía sau chiếc ghế tôi ngồi, nói: “Chú không nhận ra được tôi sao, chú
Parisien?” Một người đàn bà, vừa trở vào phòng lúc ăn dessert, sau khi đã loay
hoay dọn tiệc cho chúng tôi, lại gần ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Cậu không nhận
ra người anh em bạn sữa của cậu sao?” Nếu không có lời nhắc nhở đó, ắt tôi đã
ngu ngơ lố bịch mất rồi. “A! Anh đó ư! Chàng cao tóc quăn! Tôi thốt, chính anh
rồi, chính cái chàng đã kéo tôi ra khỏi cơn niết nước!” Sylvie cười rộ lên. Đó
là không kể, chú ta hôn tôi và nói, không kể cái sự việc này: thuở đó, chú có một
cái đồng hồ trái quít bằng bạc thật đẹp, và lúc quay về nhà, chú lo lắng cho
cái đồng hồ đó nhiều hơn lo lắng cho thân chú, bởi vì cái đồng hồ đó đã ngừng
chạy. Chú nói: “Con thú vật nó chếết đuốốối rồi, nó không kêu tích tắc nữa, cậu
sẽ ngầy ngà tôi…”
"Một con thú vật ở trong một cái đồng hồ trái
quít!" Cha Dodu nói, "đó đó, người ta bày dạy cho con trẻ như rứa đó ở
Paris!"
Sylvie buồn ngủ, tôi nhận thấy rằng tôi chẳng còn chiếm giữ
chút gì trong trí óc nàng nữa. Tôi bị mất tích rồi. Nàng lên phòng, và trong
lúc tôi hôn nàng, nàng nói: “Ngày mai, anh ghé lại chơi!”
Cha Dodu ở nán lại bàn tiệc với Sylvain và anh em bạn sữa của
tôi; chúng tôi nói chuyện rất lâu, quanh một chai rượu thuốc. “Con người ta
bình đẳng, cha Dodu nói giữa hai khúc ca ngâm, ta uống rượu với một gã làm bánh
ngọt, cũng hệt như ta ngồi yến ẩm với một ông hoàng, bà chúa tiểu thư. – Gã làm
bánh ngọt là ai ở đâu? – Hãy nhìn bên cạnh chú thì thấy! Một thằng làm bánh ngọt
lại có tham vọng lập gia đình.”
Người anh bạn sữa của tôi có vẻ bối rối. Tôi đã hiểu hết mất
rồi. - Thật là một định mệnh tai quái dành cho tôi: có một người anh em bạn sữa
tại một vùng lẫy lừng tăm tiến bởi Rousseau – cái người đã chủ trương bãi bỏ tệ
đoan kiếm người mẹ vú! – Cha Dodu nói cho tôi biết rằng sự vụ đã thành vấn đề:
đám cưới Sylvie với chàng cao tóc quăn, anh chàng có ý định lập nghiệp, dựng một
cửa hàng làm và bán bánh ngọt tại Dammartin. Tôi không còn biết dò hỏi chi hơn.
Tôi không phải yêu sách ai cái gì nữa nữa. Qua ngày hôm sau, chiếc xe
Nanteuil-le-Haudoin chở tôi về trở lại Paris.
PHẦN XIII - AURÉLIE
Paris! - Chiếc xe đi có tới năm tiếng đồng hồ. Tôi chỉ gấp về
là về tới cho kịp chiều nay. Vào khoảng tám giờ, tôi đã ngồi chững chạc trong
căn phòng quen thuộc từ bao. Aurélie reo rắc nguồn tươi vui cảm hứng và vẻ kiều
diễm thu hút của mình trên những câu thơ không tuyệt diệu mấy của Schiller.
Trong cái xen vườn lá mộng, nàng trở nên tài tình trác tuyệt, phát tiết hết
tinh anh. Lớp bốn, nàng sẽ không hiện ra sân khấu, trong thời gian đó, tôi chạy
đi mua một đóa hoa tại hàng bà Prévost. Tôi bỏ vào trong đó một lá thư âu yếm,
ký tên: một người không quen biết. Tôi tự nhủ: “Đó là một cái gì yên định, gắn
kết cho mai sau”, - và qua ngày mai, tôi lên đường đi qua nước Đức.
Tôi qua non nước đó làm chi! Để thử gắng xếp đặt ổn đáng cho
những lớp tơ tình. Nếu tôi viết một cuốn tiểu thuyết, ắt chẳng bao giờ tôi có
thể làm độc giả chấp thuận một chuyện tình của một trái tim đồng thời si mê hai
hồng nhan một lúc. Tôi mất Sylvie là lỗi tại tôi. Nhưng tái ngộ một ngày đã đủ
làm cho tinh thần tôi phấn phát; từ nay, tôi sẽ đặt nàng riêng một cõi, như một
bức tượng với một nụ cười hiền hậu bao dung, trong điện đại Hà Thánh Khiết Hiền
Thanh. Cái nhìn của nàng đã cầm giữ tôi lại trước bờ hố thẳm. Tôi càng xô đuổi
mãnh liệt hơn nữa, cái ý tưởng đi tìm hội kiến Aurélie, để mà tranh chấp một
phút với bao nhiêu kẻ tầm thường đang yêu nàng, đã sáng chói một lúc ở bên nàng
rồi rụng rơi lả tả. Một ngày nào, tôi tự nhủ, một ngày nào ta sẽ biết người thiếu
nữ nọ, có hay không có, một trái tim.
Một buổi sáng, tôi đọc nhật báo thấy nói rằng Aurélie lâm bệnh.
Tôi viết thư cho nàng, từ những rặng núi tại Salzbourg. Lá thư nhuốm đầy chất
thần bí Nhật Nhĩ Man, thì hẳn là tôi không thể mong đợi thành công gì cho lắm,
nhưng cũng không đòi hỏi được hồi âm. Tôi đặt niềm tin nơi rủi may ngẫu nhĩ và
nơi những kỳ ngộ khôn dò.
Hàng tháng trôi đi. Qua những bận phiêu dạt ngược xuôi, và những
giờ rảnh rỗi, tôi đã định ghi tạc trong một vở kịch thơ những ân tình của nhà hội
họa Colonna đối với giai nhân Laura, nàng Laura bị cha mẹ đưa vào con đường tu
khổ hạnh, nàng Laura mà họa sĩ yêu cho tới lúc chết. Có gì trong sự đó liên can
tới những mối triền miên chuyên niệm của tôi. Viết xong câu thơ cuối của vở kịch,
tôi chỉ còn nghĩ tới việc quay trở về Pháp.
Còn biết nói chi nữa bây giờ? Nói gì mà không là câu chuyện của
bao người? Tôi đã kinh qua hết thảy mọi vần xoay xuôi ngược trong những miền thử
thách mà thiên hạ gọi là kịch trường. “Tôi đã ăn vào trong mình tiếng trống chiêng,
và uống vào trong mình giọng chũm chọe” như lời nói, hầu như không có nghĩa gì
rõ, của những kẻ đã thụ pháp nữ thần Cérès tại Eleusis. Câu đó chắc hẳn là có
nghĩa rằng: nếu cần, phải vượt qua biên giới của cái vô nghĩa và lẽ phi lý: cái
lý đối với tôi, là: chinh phục và ghi tạc hình bóng lý tưởng của mộng tưởng Lý
tôi.
Aurélie đã chấp nhận thủ vai chính trong vở kịch của tôi mang
từ nước Đức trở về. Tôi sẽ không bao giờ quên cái ngày nàng cho phép tôi đọc vở
kịch cho nàng nghe. Những xen ân tình đều soạn sửa thể theo hồn em đó, thưa em.
Tôi tưởng mình đã đọc với hết cả tâm hồn, và nhất là đọc với niềm say mê phấn
chấn. Tiếp sau đó, tôi cho nàng rõ: cái người không quen biết trong hai lá thư
chính là tôi. Nàng bảo: “Anh thật là điên; nhưng mai kia hãy trở lại thăm tôi
nhé… Tôi chả bao giờ gặp được một kẻ biết yêu tôi.”
Ôi người phụ nữ! Em tìm kiếm tình yêu… Còn tôi, ấy vậy?
Những ngày sau đó, tôi viết những lá thư âu yếm nhất đời, những
lá thư đẹp nhất mà bình sinh chắc hẳn nàng đã nhận được, có lẽ. Tôi nhận được
những lá hồi âm đầy lý tính. Một phen, nàng cảm động, gọi tôi lại gần, và thú
thật với tôi rằng khó mà dứt bỏ một niềm luyến ái xưa cũ hơn.
"Nếu quả thật vì tôi mà anh yêu tôi", nàng nói,
"thì anh sẽ hiểu rằng tôi tôi chỉ có thể là bạn trăm năm của một kẻ duy nhất
mà thôi."
Hai tháng sau, tôi nhận được một lá thư chan chứa. Tôi chạy
bay tới nàng. Trong khoảng thời gian hai tháng đó, có kẻ cho tôi biết một chi
tiết quý báu. Chàng trai đẹp đẽ mà tôi đã từng gặp một lần tại câu lạc bộ,
chàng đó đã đầu vào kỵ binh tại Algérie.
Mùa hè năm sau, có nhiều chuyến xê dịch về Chantilly. Ban kịch
sĩ cùng bọn với Aurélie trình diễn tại đó. Theo lệnh người giám đốc ban kịch, bọn
kịch sĩ lưu lại Chantilly ba hôm. Tôi may mắn đã quen thân với ông giám đốc này
từ trước. Ông có cách điệu của nòi, có “lửa”. Tôi theo ban kịch với danh nghĩa
lãnh chúa thi nhân: tôi bàn với viên giám đốc, tôi thuyết phục ông, khuyên ông
nên mở nhiều cuộc trình diễn tại Senlis và Dammartin. Ông ta thì có ý chọn quận
Compiègne; nhưng Aurélie lại biểu đồng tình với tôi. Qua ngày hôm sau trong khi
người ta lo đi điều đình với các nhà chủ cho mướn phòng, với các nhà cầm quyền
địa phương, thì tôi lo thuê ngựa, và chúng tôi lên đường theo con lộ về những hồ
nước Commelle để đi ăn điểm tâm tại lâu đài bà chúa Bạch. Aurélie, ăn vận theo
lối nữ kỵ sĩ, với làn tóc óng ả tung bay, vượt qua rừng trông giống như một nữ
chúa thời xưa, và các nông dân dừng lại nhìn, ngây ngất. Bà bá tước F… là người
phụ nữ duy nhất họ được thấy, đã có cái phong độ uy nghiêm và kiều lệ tới mức
đó, trong cái điệu chào phong vận thế kia… Sau bữa ăn, chúng tôi phi ngựa xuống
các thôn làng na ná làng thôn Thụy Sĩ. Tại đây giòng khe Nonette đang xô sóng về
cho vận động các xưởng máy cưa. Những cảnh tượng đó thân yêu xiết bao đối với
tôi, nàng cũng lưu ý hân hoan, nhưng không dừng chân nán lại. Tôi đã định dẫn
Aurélie vào viếng cung điện, gần hạt Orry, ngay trên nội cỏ xanh mà xưa kia tôi
đã được ngắm nhìn Adrienne lần thứ nhất. Nàng chẳng có vẻ chi là kích động cả.
Thế rồi, tôi kể lại hết cho nàng nghe, tôi nói cho nàng biết cội nguồn của mối
tình tôi, thoáng nhìn một lần đầu tiên trong đêm tối, chiêm bao tơ tưởng mãi về
sau, cuối cùng cũng được thành tựu nơi nàng đó ạ. Nàng chăm chú lắng nghe và bảo:
“Anh không yêu tôi! Anh chờ nghe tôi nói: “Cô đào hát và nàng tu nữ cũng là một”;
anh đi tìm một bi kịch bơ vơ, thật là như vậy, chỉ có thế thôi, nhưng xen kết
thúc, anh không thể nắm được. Nó bay bổng mất rồi. Thôi, tôi không còn tin anh
nữa.”
Lời nói đó là một tia chớp lóe. Những phấn kích dị thường tôi
cảm thụ từ bao lâu, những mộng tưởng ước mơ kia, những giòng lệ kia, những niềm
tuyệt vọng và âu yếm kia… vậy là không phải tình yêu chăng? Thế thì tình yêu là
cái gì? Tình yêu ở tại đâu?
Đêm đó, Aurélie trình diễn tại Senlis. Tôi tưởng nhận thấy
nàng có niềm thiên ái đối với viên giám đốc kịch trường. Ông ta tính tình thật
tốt và đã giúp đỡ nàng nhiều.
Một ngày kia Aurélie nói với tôi: “Kẻ yêu tôi, chính là ông ấy.”
PHẦN XIV - TỜ CUỐI
Như vậy đó là những ảo mộng quyến rũ lung lạc và ê hoặc trong
buổi thanh xuân của đời sống. Tôi đã thử gắng ghi tạc chúng một cách không thứ
tự gì lắm, nhưng nhiều tâm hồn sẽ hiểu tôi. Những ảo tưởng cứ nối đuôi nhau mà
rơi rụng, giống như lớp vỏ một trái cây, và trái cây, ấy là duyệt lịch. Hương vị
nó đắng chua; tuy nhiên, cũng có một chất gì chát chát làm vững mạnh thêm – xin
người hãy tha thứ cái lối nói sáo hủ đó của tôi. Rousseau bảo rằng cảnh tượng
thiên nhiên tồn lưu an ủi được mọi thứ. Đôi lúc tôi tìm gặp lại những cụm rừng
Clarens thân thuộc, lẫn bóng trong sương mờ, ở phía Bắc Paris. Mọi thứ đó đã
thay đổi xiết bao!
Ermenonville! Xứ sở mơ màng còn đủ chỗ cho những luyến ái cổ
kính, cho những tình duyên thuần khiết đâm bông hồi sinh trong hoài niệm, cứ
như lời Hồng Lĩnh bảo Châu Phong – Ermenonville! Ngươi đã đánh mất ngôi sao duy
nhất của ngươi rồi, ngôi sao từng đã lấp lánh hai tia ngời trước con mắt của
ta. Lúc xanh lúc tía, khi lục khi hồng, như vì tinh tú mê hoặc của Aldebaran ấy
là Adrienne, ấy là Sylvie, ấy là hai cánh song song phiêu bồng của một tình yêu
duy nhất. Một bên là lý tưởng tuyệt luân, một bên là thực tại êm đềm. Còn có
nghĩa gì nữa với ta ngày nay, Ermenonville! Hỡi những cụm mây, chùm lá, và những
mặt hồ và ngay cả sa mạc hoang liêu của ngươi còn nói gì với ta nữa ngày nay?
Othys, Montagny, Loisy, những thôn làng lang thang lân cận, Châalis – mà thiên
hạ đang trùng tu – các ngươi chẳng còn gìn giữ chút gì của quá khứ kia! Đôi lúc
ta cần về viếng lại những nơi chốn nọ của tịch mịch mơ mòng. Ta buồn rầu khêu dậy
trong hồn mình những dấu vết thấp thoáng tàn phai của một thời đại mà cái hồn
nhiên đã thành kiểu sức; đôi lúc ta mỉm cười đọc lại trên mặt đá nham, trên sườn
hông hoa cương thạch, một vài câu thơ của Roucher xưa kia đã có lần ta thấy là
tuyệt diệu - hoặc những câu cách ngôn phúc thiện ở phía trên một suối nước, một
giòng khe, một thạch động thờ sơn thần Pan. Những mặt hồ luống công phơi trải
làn nước chết, con thiên nga không thèm ghé lội chơi. Đã qua rồi, cái thời ông
hoàng Condé về đây săn bắn; với đoàn Nương Tử cao kiêu cưỡi ngựa, cái thời còi
thổi gọi nhau trùng điệp với bao nhiêu tiếng vang dội lại!... Muốn tới
Ermenonville, ngày nay không còn đường tới thẳng. Đôi lúc tôi về theo ngả Creil
và Senlis, đôi lúc theo ngả Dammartin.
Tới Dammartin, bao giờ cũng vào lúc chiều tối. Tôi mướn phòng
ngủ tại khách sạn Image Saint-Jean. Thường thường người ta cho tôi mướn một căn
phòng sạch sẽ, giấy cũ dán tường, một tấm họa treo trên chiếc gương soi. Ngủ ấm
áp dưới tấm nhung mao, bốc mùi chim nhạn biển. Đó là loại mền thân thuộc của xứ
này. Sáng hôm sau, mở cửa sổ nhìn ra, cửa sổ lòa xòa những nhành nho với tường
vi thắm đóng khung, tôi đê mê nhìn một chân trời màu lục phơi trải suốt mười dặm
gió dài, với những hàng bạch dương đứng trang nghiêm như những đoàn binh dàn trận.
Vài thôn xóm rải rác đây đó nép mình bên những tháp chuông nhọn hoắt. Ta nhìn
thấy thôn Othys trước tiên, rồi thôn Eve, thôn Ver, còn thôn Ermenonville? Nếu
Ermenonville có một tháp chuông, ắt ta sẽ nhận ra được ở bên kia khu rừng,
nhưng tại chốn tư tưởng triết học nọ, người ta lơ đễnh bỏ quên nhà thờ. Sau khi
hít vào phổi đầy đủ khí mát thuần khiết vo ve trên cao nguyên gió hây hây bình
minh, tôi vui vẻ xuống làng thôn thăm chàng bán bánh ngọt. “Coi tề! Chào chú bé
bỏng Parisien!” Chúng tôi đấm thoi nhau đôi cái chịu chơi theo thói bé rồi tôi
leo lên một chiếc cầu thang lai rai. Tiếng kêu mừng rỡ của hai đứa bé con bé bỏng
bé chị bé em, ríu rít đón tôi. Nụ cười gái Athénienne của Sylvie làm rạng rỡ
khuôn mặt kiều lệ. “Lời đâu kiều diễm…” Lòng chàng không nguôi, chàng tôi tự bảo
mình tôi: “Kia là hạnh phúc, có lẽ; tuy nhiên…”
Đôi lúc tôi gọi nàng bằng tên Lolotte, và nàng thấy tôi có
hơi giống Werther. Trong khi bác tóc quăn cao ráo lo dọn bữa ăn chúng tôi dẫn mấy
bé con đi dạo rừng, đi dạo rú, đi dạo dưới bóng cây bồ đề còn đứng đó kiên gan
thu góp nhưng mảnh tàn rơi của gạch vụn lãnh cung. Trong lúc các bé con nô giỡn
tập tành bắn cung rơm, cung rạ vào cỏ mọc rạ rơm, với những mũi tên cành nhánh
của cha mẹ làm cho, thì chúng tôi đọc vài bài thơ, hoặc vài trang sách mùa thu,
mà ngày nay chẳng ai viết nữa.
Tôi quên nói rằng cái ban kịch cô Aurélie trình diễn một bận
tại Dammartin, tôi có dẫn Sylvie đi xem, và tôi có hỏi em có nhận thấy rằng cô
đào nọ rất giống một người phụ nữ mà em từng có biết một lần. “Giống ai vậy? –
Em còn nhớ chứ, cô Adreinne?”
Nàng cười rộ một tiếng thật to: “Coi tề!” Rồi dường như tự
trách mình chi đó, nàng ngậm ngùi buông tiếng thở dài: “Tội quá! Adrienne. Cô ấy
chết tại tu viện Saint-Sulpice, vào năm 1832.”
Láng giềng đệ lục
Láng giềng khu vực xuân ba
Bốn thu bổ túc tam trùng tích ngân
Nguyệt phơi tích biệt in ngần
Lá rung mạc ngoại bé chần chờ chi
Bé Em hải diện biên thùy
Tình trong Bé Chị quyền uy ra ngoài
Trông chừng Khúc Nghệ Bé Choai
Vi từ chỉ dục vọng hoài chỉ ưng (…)
Quy lai phục niệm chưa từng
Tình trong như thể luống từng ở xa
Tót vời tình điệu kiêu sa
Vườn thơm trắng ngát hồn hoa lạc loài
Phục hồi tú cốc sơ khai
Hương trời tự nhiễm bông lài tự dưng.
Một hai năm
Tặng gà vịt một năm sương tuyết
Vịt gà xin ráo riết hai năm
Ngồi suông nhớ mãi đêm rằm
Văn thừa bích lạc nguyệt cầm tiểu man
Đêm mộng mị về hang núi lạnh
Nhìn gấu beo bên cạnh hùm thiêng
Sịch mành trở giấc u miên
Muôn vàn brigitte nằm nghiêng nghiêng cười.
Tình thứ nhất
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Và thứ hai ba bốn chín thêm mười
Bờ tang hải biển dâu xô lật úp
Bến phiêu bồng anh lật đật theo đuôi
Anh chỉ có niềm vui trong chốc lát
Và nỗi buồn cũng chốc lát như nhiên
Tình thứ nhất thoảng đi qua thấm thoát
Tới trăm năm còn thấm thoát như thường
Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ
Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau
Hồn tan vỡ song đôi trong hơi thở
Ôi đầu đường ôi xó chợ nơi đâu
Là nơi đó chốn kia anh rất rõ
Trong máu me từng khoảnh khắc sơ đầu
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Và thứ nhì cũng đệ nhất như nhiên
Bờ dâu biển phiêu bồng trôi lật đật
Bến phiêu du chớp nhoáng mộng tang điền
Bây giờ anh dại anh điên
Biên Hòa Bệnh Viện bình yên anh về
Anh chào vĩnh biệt sơn khê
Chào anh vĩnh quyết bốn bề nhà ma.
Hồng Quần
Quần sẽ đỏ từ khi trăng là nguyệt
Kinh là kỳ từ châu quận tân toan
Từ xứ sở đắng cay thu đầu chết
Bước dã man sầu xé lá gieo vàng.
Lá sẽ đỏ từ vàng da mũi tẹt
Môi là mềm hoa mọc mật cong môi
Từ bờ cõi chia xương chua là ngọt
Trút lang thang từ nát mộng lên trời.
Mộng sẽ đỏ từ hoa đêm ghẹo chọc
Cánh thay hồng từ cánh đỏ cuồng điên
Từ thung lũng mù kêu mưa gọi móc
Tới phiêu du từ vầng nhật qua miền…
Nguồn: Tân An xuất bản tại Sài Gòn trước 1975, An Tiêm xuất bản
tại hải ngoại 1990. Bản điện tử do talawas thực hiện.
11/7/2015Gérard De NervalBùi Giáng dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét