Thứ Năm, 31 tháng 8, 2023

Dostoievski - Sự nghiệp và di sản

Dostoievski - Sự nghiệp và di sản

120 năm về trước, khi Dostoievski Fiodor Mikhailovich qua đời, chẳng mấy ai đoán được số phận của ông sẽ ra sao trong hậu thế. Như một tiểu thuyết gia, Dostoievski sinh thời đã khá nổi tiếng, nhưng danh tiếng ấy không sánh được với vinh quang của L.Tolstoi và thua kém uy tín của Turgenev, Goncharov, Tschedrine, Uspenski – những cây bút văn xuôi hoạt động cùng thời với ông trong văn học Nga. So với họ và lấy họ làm chuẩn mực, không ít nhà phê bình phiền lòng chỉ ra ở những sáng tác của Dostoievski nhiều mặt khó chấp nhận, nhiều khuyết điểm khó giải thích.
Cái chết đột ngột của Dostoievski với lễ tang rầm rộ tự phát làm chấn động kinh thành Peterburg – hàng vạn người đi theo sau linh cữu nhà văn, cả một nước Nga thu nhỏ với những khuôn mặt xã hội đối lập và đối kháng, từ đại diện Hoàng gia đến những người cách mạng cực tả, từ giới tăng lữ chính thống đến lớp thanh niên, sinh viên vô thần, từ những đại trí thức đến những tiểu thương, tiểu chủ… – trong phút giây như làm lóe sáng ý nghĩa toàn dân tộc, toàn nhân loại của hiện tượng Dostoievski. Song, nhận chân đầy đủ ý nghĩa ấy, ý thức hết giá trị của cái tài sản tinh thần mà Dostoievski để lại còn là một quá trình dài lâu và rất quanh co khúc khuỷu.
Ba năm sau khi Dostoievski mất, Vladimir Soloviev, một triết gia và thi sĩ trẻ sớm nổi lên như sao sáng bậc nhất trên bầu trời tinh thần của nước Nga, cho in thành sách riêng ba diễn từ tưởng niệm Dostoievski, khẳng định vai trò người đồng hành và người chỉ lối của Dostoievski trong hành trình của nhân loại châu Âu tìm đến vương quốc của cái tận thiện tận mĩ. Như thể đồng vọng lời tiên đoán ấy, một trí tuệ lớn khác, người Pháp – E.M.Vogỹé, đầu năm 1885 cho đăng ở Pháp một thiên tiểu luận dài dưới tiêu đề đập vào mắt người đọc: Dostoievski hay là tôn giáo của sự khổ đau. Bài viết này sẽ trở thành một chương trong công trình rất nổi tiếng của tác giả này – Tiểu thuyết Nga, xuất hiện năm 1886 và mở đường cho cái mà có người sẽ gọi là “cuộc xâm lăng” của văn học Nga sang Tây Âu.
Dostoievski Fiodor (1821 – 1881)
Dè dặt hơn Soloviev và kiến giải sai lệch nhiều, Vogỹé dẫu sao vẫn nhận ra ở Dostoievski một thủ lĩnh tinh thần của dân tộc ông. Vị thủ lĩnh này đã gửi tới thế giới phương Tây một thông điệp đầy ý tứ, không thể làm lơ bởi vì nó biến thành khả nghi quá nhiều giá trị mới lên ngôi trong nền văn minh châu Âu thời mới. Song, những tiếng nói như Soloviev hay Vogỹé vẫn còn khá lẻ loi trong suốt thế kỉ XIX – thế kỉ còn tương đối bình ổn về mặt xã hội cũng như tinh thần con người, và vì thế chưa mấy nhạy thính với những lo âu trăn trở, những dự báo và cảnh báo của Dostoievski.
Bước sang thế kỉ XX, tình hình thay đổi hẳn. Thế giới cứ như đột nhiên phát hiện ra Dostoievski. Hàng loạt danh nhân Nga và châu Âu, đại diện cho những trào lưu tư tưởng – nghệ thuật mới nảy sinh, đua nhau phát biểu về Dostoievski, ngưỡng mộ nhìn thấy ở ông một tiền khu vĩ đại, người đã nói lên một sự thật mới, sâu sắc và phức tạp hơn xưa rất nhiều, về thế giới và con người, đã diễn đạt một cảm thức mới về cuộc đời, gần gũi với cảm thức của những con người sống trong thời đại của những biến động xã hội long trời lở đất sẽ diễn ra như phản ứng dây chuyền khắp hành tinh.
Làn sóng mê say Dostoievski lan tràn khắp châu Âu từ đầu thế kỉ này đã tỏ ra không phải là thứ mốt tinh thần. Nó lắng đọng thành tình yêu bền bỉ của các thế hệ độc giả nối tiếp nhau đối với một thiên tài đã quyết liệt và hơi quá sớm đi trước thời đại mình, thành những nỗ lực chuyển dịch tác phẩm Dostoievski sang hàng chục thứ tiếng, thành hàng trăm công trình nghiên cứu cuộc đời, nhân cách, sáng tác của Dostoievski, khám phá, kiến giải thế giới nghệ thuật và tư tưởng của ông.
Cùng với vinh quang toàn cầu, Dostoievski mau chóng phát huy ảnh hưởng tác thành tới văn học thế giới, tới những khu vực tưởng chừng xa lạ lắm với văn hóa Nga và châu Âu – một Akutagawa ở Nhật Bản, một Lão Xá ở Trung Quốc và một Nam Cao ở Việt Nam đủ cho thấy quy mô và chiều sâu của ảnh hưởng ấy. Song, không chỉ trong văn học nghệ thuật, mà còn trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống loài người trong thế kỉ này, người ta thấy sự hiện diện giàu hiệu ứng của Dostoievski: triết học, thần học, đạo đức học, tâm lí học, chính trị học, luật học…
Nhưng có mặt năng nổ như thế trong cuộc sống của hậu thế, Dostoievski tất yếu phải chịu số phận chìm nổi của người trong cuộc, người tham chiến, người can dự cuộc đấu tranh dai dẳng một mất một còn giữa các thế lực đối kháng của thời đại này. Trong cuộc đấu tranh ấy, bị chi phối bởi những quy luật của nó, nhiều khi cái tinh anh mẫn tuệ, cái xán lạn muôn đời ở Dostoievski lại bị che khuất đi, còn cái hạn hẹp, cái nhất thời thì lại nổi lên hàng đầu, quy định thái độ tiếp thu hay chối bỏ, tán dương hay phỉ báng di sản của nhà văn này ở phe này hay phe kia, ở nước này hay nước kia, trước tiên ở ngay Tổ quốc của ông. Thế nhưng, kinh qua mọi thăng trầm của lịch sử, nơi nào Dostoievski đã thu phục được tâm hồn bạn đọc, nơi ấy vẫn còn lại không suy chuyển tình yêu đối với ông, ý thức về sự cần thiết rất dài lâu của ông cho cả loài người trên mọi nẻo đường tiến hóa của nó.
Trong văn học thế giới ngày nay, sau một thế kỉ phát triển phong phú và phức tạp chưa từng thấy, với rất nhiều tài năng lỗi lạc, nhiều trào lưu, trường phái cách tân táo bạo đối đầu và phủ định lẫn nhau, xem ra Dostoievski vẫn giữ vị trí đầu bảng, ít nhất trong địa hạt văn xuôi: sau Anh em nhà Karamazov, rõ ràng chưa xuất hiện tác phẩm tiểu thuyết nào có thể đặt ngang hàng với nó. Điều đáng chú ý nữa là cùng với Dostoievski – nghệ sĩ, không tách rời nhưng cũng không hòa đồng đến cùng, nhà tư tưởng Dostoievski hình như cũng đương ngày càng phát huy ảnh hưởng. Dưới ánh sáng của cái bản tổng kết thời đại mà loài người, như một thực thể mới, không thể không làm trong cục diện thế giới mới và bước vào thiên niên kỉ mới, nhiều trang viết cũ của Dostoievski được đọc lại bằng con mắt mới. Người ta nhìn ra ở tư duy Dostoievski, ở những mối bận tâm, những tìm tòi và định hướng tinh thần của ông những chiều sâu nhân bản mới, những khía cạnh chân lí vĩnh hằng trước đây còn ẩn khuất.
Nếu trong những thập kỉ trước, ý thức xã hội bị cuốn hút nhiều hơn bởi những lo âu vật vã, những chẩn đoán và dự đoán bi quan của Dostoievski, bởi cái phần phủ định trong sáng tác của ông, thì ngày nay, tâm thức con người ngày càng tỏ ra nhạy bén hơn với những gì ông khẳng định, với ánh sáng của lí tưởng và niềm tin nơi Dostoievski. Khối tài liệu vốn đã hết sức đồ sộ về Dostoievski cuối thế kỉ vừa kết thúc được bổ sung bằng một loạt công trình quan trọng xuất hiện ở nhiều nước khác nhau, đánh giá một cách am hiểu, công bằng và tri ân cống hiến của Dostoievski cho nghệ thuật văn chương và kho tàng tư tưởng của loài người.
Xem ra, vận mệnh nhà văn Nga này đương bước vào một thời kì mới, bớt sóng gió ồn ào, nhưng lại tỏa sáng sâu rộng và bền lâu hơn.
I. Sự ra đời của thiên tài bao giờ cũng là bí ẩn, không tuân theo quy luật tư duy tư biện nào, lại càng không thể giải thích bằng những nguyên nhân ngoại giới. Trường hợp Dostoievski cũng thế: không có gì báo hiệu sự xuất hiện trong văn học Nga một ngòi bút khác thường như Dostoievski, cũng như ở trong gia đình bác sĩ trưởng Bệnh viện Tế bần Mikhail Andreevich Dostoievski, chẳng ai có thể ngờ rằng người con trai thứ hai trong bảy người con của ông, sinh ngày 30 tháng Mười năm 1821 theo lịch Nga cũ tại Mátxcơva, sẽ trở thành một trong những nhà văn lớn nhất của mọi dân tộc và mọi thời đại. Nếu cứ cố tìm gien di truyền, thì nhiều nhất chỉ có thể nói rằng, người mẹ dịu hiền và chết sớm đã truyền cho Fiodor Dostoievski (và cả anh ông) lòng yêu văn chương, để sau này, đến lượt mình, Dostoievski đã “di truyền” cho con gái mình cái khiếu viết văn.
Người con gái nối nghiệp nhưng không có được thiên tài của người cha ấy, Liubov Fiodorovna Dostoievskaia, mồ côi cha từ 11 tuổi, đã lưu danh hậu thế không bằng những sáng tác của mình (mặc dù bà viết và in khá nhiều), mà bằng cuốn hồi kí về người cha, mà trong đó thực hư hết sức lẫn lộn. Chẳng hạn, hoàn toàn hư cấu là cái “nòi giống Litva” của nhà đại văn hào Nga, trong khi như mọi tư liệu chứng nhận, ông nội Dostoievski đã sinh ra, lớn lên ở vùng Nam Ucraina và là một linh mục của nhà thờ chính thống Nga. Người con gái của Dostoievski cũng cường điệu và thêu dệt nhiều xung quanh quan hệ phức tạp giữa Dostoievski và cha ông. Một phần dựa vào đấy mà sau này Freud đã dựng lên huyền thuyết về “mặc cảm sát phụ” ở Dostoievski, góp phần bóp méo hình ảnh của Dostoievski trong con mắt độc giả phương Tây cả tin.
Chỉ những khảo cứu tận tường trong những thập kỉ gần đây mới cho phép xác lập bức tranh chân thật về tuổi thơ ấu của Dostoievski – nó không thiếu hơi ấm và ánh sáng của tình yêu, của sự chăm sóc từ cả hai phía cha mẹ. Điều quan trọng là Dostoievski được hưởng một nền giáo dục có hệ thống, được học hành đến nơi đến chốn. Về mặt học thức, Dostoievski sau này vượt hẳn nhiều nhà văn Nga nổi tiếng cùng thời với ông, và nếu trong sáng tác, ông thỉnh thoảng đề cập đến những vấn đề khoa học hiện đại, chẳng hạn hình học phi Euclide của Gauss và Lobatchevski, thì là vì ông có những hiểu biết vững chắc, chứ tuyệt không nghe hơi nồi chõ.
Một hằng số khác trong nhân cách Dostoievski được tiếp thu từ cha mẹ, đó là lòng mộ đạo, đức tin tôn giáo. Sau này, khi đã lớn khôn, trong thời đại, khi mà chủ nghĩa vô thần đương ưu thắng ở châu Âu và ở Nga và trở thành thói thời thượng trong giới trí thức, thanh niên, sinh viên, nhà văn và kí giả Dostoievski sẽ kiên trì bảo vệ lập trường tôn giáo của mình, từ đấy mà ông tiếp cận với mọi vấn đề của xã hội và con người. Ta sẽ trở lại điểm hệ trọng này, điều cần nói ngay bây giờ là Dostoievski không thể không ý thức lập trường tôn giáo ấy làm ông mất tín nhiệm đến đâu trong những giới xã hội mà ông hoạt động. “Bọn vô lại chế giễu tôi tin một cách cổ hủ và vô học vào Thượng đế… ” – dòng viết này ta tìm thấy trong sổ tay của Dostoievski chỉ mấy tháng trước khi ông qua đời. Và mặc dù ngay sau đó, ta sẽ đọc tiếp những suy nghĩ rất có trọng lượng về quan hệ giữa tri thức và đức tin, giữa cái thực tại và cái siêu tại, giữa luật đời và thiên ân, từ toàn bộ đoạn nhật kí vẫn toát ra cảm xúc cô đơn chua chát của một con người đi ngược dòng thời đại. Nhưng nếu Dostoievski thích nghi hoàn toàn với thời đại của mình, nếu ông dửng dưng hay làm lơ trước vấn đề tâm linh, tín ngưỡng của con người, thì liệu ông có còn là một Dostoievski mà các thế hệ mai sau sẽ tìm đến hội kiến, chất vấn?
Mê văn chương và ao ước trở thành nhà văn, Dostoievski từ nhỏ và suốt đời đọc rất nhiều, bằng tiếng mẹ đẻ và tiếng Pháp, tiếng Đức mà ông thông thạo. Ngoài văn học Nga và châu Âu, Dostoievski am tường lịch sử nước ông và châu Âu trung – cận đại và rất yêu triết học. Sau này, ngay thời làm lính ở Xibia, ông sẽ yêu cầu anh trai gửi cho ông nào Kant, nào Hegel. Ở nhà ông ở Peterburg và Staraya Russa luôn luôn có Platon mà ông thích đọc đi đọc lại. Ông sẽ đối thoại tuyệt vời với Platon, Kant, Hegel và nhiều nhà tư tưởng khác bằng những tiểu thuyết triết lí của mình, nhưng cũng có khi sẽ tranh luận trực tiếp như một kí giả. Cuối đời, ông kết bạn vong niên với Vladimir Soloviev, nhà triết học và thần học Nga vĩ đại nhất này thích đàm đạo với Dostoievski và luôn luôn hâm mộ trí thông minh sắc sảo, linh hoạt phi thường ở ông.
Trong các dòng văn học nước ngoài ảnh hưởng mạnh đến sáng tác sau này của Dostoievski cần nhắc riêng đến văn xuôi lãng mạn châu Âu với hai phân nhánh chính: xã hội – tình cảm và kì ảo – giả tưởng. Như ta biết, Dostoievski suốt đời xem mình là nhà văn hiện thực, nhưng ông khá ghẻ lạnh với sáng tác của nhiều văn sĩ cùng thời mà giới phê bình ở trong và ngoài nước tán dương như những cây bút hiện thực chủ nghĩa “chính hiệu”. Ông phê phán “trường phái tự nhiên” ở Nga, mặc dù khi mới khởi nghiệp, ít nhất bề ngoài, ông là thành viên của nó. Trong văn học Pháp, ông thờ ơ, hầu như không để ý đến Flaubert và không chấp nhận Zola. Ông hâm mộ Balzac và thuở thiếu thời có dịch một tiểu thuyết của Balzac (“Eugénie Grandet”) ra tiếng Nga, song Balzac trong con mắt Dostoievski là một “trí tuệ vũ trụ”, chứ không phải một “thư kí của xã hội”. Trong khi ấy, ông suốt đời yêu và đề cao Hugo và Georges Sand, mà ở Pháp thì, từ giữa thế kỉ XIX, Georges Sand bị coi là đã hết sức lỗi thời, là “người đại diện cho chất thơ của những hư ảo giả dối” (lời Zola). Cái hư ảo, kì ảo, cái không có trong đời thực, mà chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, của những khát vọng và thất vọng, những lo âu và sợ hãi của con người – Dostoievski yêu nó trong sáng tác của cả những cây bút lãng mạn phóng túng đến cực đoan như Hoffmann, Maturin, Poe, và sau này chính ông cũng sẽ sử dụng rộng rãi cái chất liệu phi hiện thực ấy trong những nỗ lực “lột tả mọi bề sâu của tâm hồn con người”.“Con người là một bí ẩn. Cần tìm ra bí ẩn ấy, và nếu có tìm suốt đời, thì cũng đừng cho là đã mất thì giờ. Tôi vật vã với nó, vì tôi muốn làm người.” – Mười tám tuổi, Dostoievski viết cho người anh, như thể vạch cương lĩnh cho cuộc đời của chính mình.
Trong một bức thư khác, sớm hơn một năm, ta đọc: “Tôi cảm tưởng, thế gian này là nơi tẩy tội của những linh hồn thiên giới đã mờ đục đi do tư tưởng tội lỗi. Tôi thiết tưởng, thế giới đã chuốc lấy một ý nghĩa tiêu cực và từ tinh thần thanh cao trang nhã hoá thành một trò châm biếm. Con người sao ươn hèn! Hamlet, Hamlet!” – Giống như nhân vật của Shakespeare, người thanh niên Dostoievski dày vò về sự bất hoàn thiện của thế giới và con người, khao khát tìm ra nguồn gốc siêu lí của tội lỗi và cái ác.
Và sẽ mãi mãi là thế: ngòi bút Dostoievski sau này sẽ chuyên tâm nắm bắt không phải những hiện tượng trên bề nổi cuộc sống, mà những trạng huống tâm thức ẩn khuất sau chúng và chi phối chúng, không phải những tính cách thực chứng trong những hoàn cảnh thực chứng, mà những thực thể tinh thần. Trong những sáng tác chín muồi của ông, những thực thể tinh thần ấy sẽ hiện ra rõ mồn một, khiến ta nhiều khi quên bẵng đi rằng chúng có và phải có cái vỏ thân xác.
Năm 1838, theo sự lựa chọn của cha mình, Dostoievski vào học Trường Cao đẳng Công binh Peterburg. Bốn năm sau, khi cha ông đã mất, ông ra trường, bỏ nghề được đào tạo, quyết tâm theo nghiệp văn chương.
II.Đầu năm 1846, cách nhau không đầy một tháng, hai tác phẩm đầu tay của Dostoievski ra mắt bạn đọc: Những người nghèo và Kẻ song trùng. Số phận của chúng rất khác nhau. Những người nghèo lập tức được nhiệt liệt hoan nghênh như một kiệt tác xuất chúng, công luận – qua tiếng nói của các nhà phê bình có uy tín – nhìn thấy ở tác giả của nó một ngôi sao sáng mới mọc trên bầu trời văn chương Nga lúc ấy còn thưa thớt minh tinh. Nhưng Kẻ song trùng thì lại bị mọi người đánh giá là một truyện dở, tối nghĩa và nhàm chán. Tác giả, theo nhận xét cũng của các nhà phê bình đã tán dương Những người nghèo, ở đây bắt chước Gogol một cách trơ trẽn, muốn vượt hơn Gogol mà lại không có được một phần thiên tài của Gogol.
Dostoievski từ đỉnh của hân hoan và say sưa vì vinh quang rơi tõm xuống vực tuyệt vọng. Cú sốc quá mạnh do thăng trầm đột ngột trong bước đầu của văn nghiệp ở Dostoievski đã chuyển hóa thành chứng tâm thần, để lại di chứng bằng bệnh động kinh sẽ đeo đuổi Dostoievski suốt đời. Bệnh động kinh, một căn bệnh vẫn được coi là “thiêng” (dĩ nhiên, chỉ ở những con người siêu quần), với những phút giây thiên khải cực lạc đi trước cơn đau ngất khủng khiếp và những ngày trầm uất tiếp theo, sẽ để lại dấu ấn cấu trúc đặc thù trong toàn bộ thế giới nghệ thuật của Dostoievski sau này.
Tất cả những lời khen chê hai sáng tác đầu tay của Dostoievski tất nhiên đều quá mức, song dễ hiểu. Cả hai truyện đều khai thác một đề tài quen thuộc trong văn học Nga thời ấy: số phận “con người nhỏ bé” trong xã hội đẳng cấp – phong kiến, thân phận một viên chức nhỏ giữa thủ đô một đế chế khổng lồ. Makar Devushkin, nhân vật nam chính trong Những người nghèo, tự gọi tên hai tiền khu nổi tiếng của mình trong văn xuôi Nga thế kỉ XIX: Samson Vưrin trong truyện Người quản trạm của Pushkin và Akaki Bashmachkin trong Chiếc áo choàng của Gogol. Với Bashmachkin, Devushkin có rất nhiều nét chung, để ta khỏi đánh giá quá cao công tích sáng tạo của Dostoievski: cả hai đều là những viên lục sự hạng quèn, mà nhiệm vụ ở công sở chỉ là sao chép các giấy tờ. Cả hai đều luống tuổi và tứ cố vô thân, với đồng lương thảm hại sống lay lắt giữa nơi phồn hoa đô hội của các giới quý tộc, quan lại, trưởng giả.
Nét mới ở hình tượng Bashmachkin, so với nhân vật không có tiếng nói của Gogol, là ý thức đầy đau khổ về số phận hẩm hiu, về vị trí thấp hèn, vị trí “chiếc giẻ rách” của mình trong xã hội (hình thức “tiểu thuyết bằng thư” giúp tác giả lột tả không khó khăn nội tâm của nhân vật). Và nếu “con người – giẻ rách” trong truyện nghịch dị của Gogol hoàn toàn bằng lòng với số phận mình và chỉ yêu say đắm, mê mẩn chiếc áo choàng mới may – công trình của cả cuộc đời y, thì nhân vật của tiểu thuyết tình cảm nơi Dostoievski biết yêu một con người sống, một thiếu nữ cùng cảnh ngộ. Tình yêu ấy là ánh sáng và niềm an ủi duy nhất trong cuộc đời khốn khổ và buồn tẻ của anh ta. Nhưng yêu mà chẳng giúp ích gì được người yêu, và Varvara Dobroselova, chỉ cảm kích chứ không yêu Devushkin, cuối cùng đã nhận lời cầu hôn của kẻ trước đây làm nhục nàng, đi với hắn, bỏ lại một mình viên lục sự luống tuổi; đau khổ quá, anh ta lần đầu tiên trong đời uống rượu cho say bất tỉnh và chắc sẽ chết vì tuyệt vọng.
Về mặt tài nghệ, truyện Những người nghèo rõ ràng khó sánh với kiệt tác đích thực của Gogol, nhưng nó tràn đầy tình thương xót và sự hiểu biết nỗi lòng của những con người nhỏ bé chiếm tuyệt đại đa số xã hội loài người, cho nên, nó dễ chinh phục công chúng độc giả không chỉ riêng ở Nga. Belinski, lãnh tụ trường phái hiện thực chủ nghĩa trong văn học Nga những năm 40 thế kỉ 19, hân hoan viết: “Vinh dự và vinh quang thuộc về nhà thơ trẻ, mà nàng thơ của chàng biết yêu mến những con người ở những buồng sát mái và nhà hầm và nói với những ai sống nơi cung điện vàng son: Đây cũng là con người, là anh em của các vị!”.
Chất thương cảm xã hội hơi ướt át ấy sẽ rơi rớt ngay ở những kiệt tác cuối đời của Dostoievski, mâu thuẫn với bầu không khí bi kịch sâu đậm nơi chúng.
Có thể chê khiếu thẩm mĩ không hoàn chỉnh của tác giả, như không ít người làm (trong đó có Bunin, Nabokov và một phần cả L.Tolstoi), nhưng sẽ là thấu tình đạt lí hơn, nếu ta hiểu rằng nó là biểu hiện của sự gắn bó của Dostoievski với lí tưởng tuổi thanh xuân – với một học thuyết và một trào lưu xã hội rất sâu rộng, chinh phục rất nhiều văn nghệ sĩ ở châu Âu một thời, mà tên gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng. Một đặc điểm cơ bản của hệ tư tưởng này, được thừa kế từ triết học khai sáng thế kỉ XVIII, từ Rousseau và Schiller – mà Dostoievski suốt đời yêu Schiller – là niềm tin vào trí tuệ và bản chất lương thiện tự nhiên của con người, vào khả năng của loài người dựa vào trí thông minh sáng tạo và lương tri bẩm sinh kiến tạo cho mình một cuộc sống hạnh phúc, tận thiện tận mĩ, khi mà cái chế độ xã hội bắt người hà hiếp người, người bóc lột người đã được xóa bỏ.
Theo quan niệm của nhiều nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng, kiến tạo thiên đường trên trái đất đồng nghĩa với đưa con người trở về trạng thái tự nhiên nguyên thủy chưa bị biến chất bởi nền văn minh tư hữu. Mọi tai họa đều do chế độ tư hữu gây ra, chỉ cần xóa bỏ nó, khôi phục bình đẳng xã hội là một thế giới mới, công bằng, tự do, bác ái sẽ được thiết lập nhanh chóng, trong khoảng từ ba mươi đến năm mươi năm, theo tính toán của Fourier, Leroux, Cabet – trước tác của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng ấy từ Tây Âu đã xâm nhập vào Nga từ cuối những năm 30 thế kỉ XIX.
Sự gặp gỡ chủ nghĩa xã hội không tưởng là sự kiện tối quan trọng, đặt dấu ấn lên toàn bộ cuộc đời và sáng tác của Dostoievski. Suốt đời, ông sẽ ấp ủ lí tưởng bình đẳng, bác ái, thế giới đại đồng. Trong những sáng tác cuối đời của ông, nó sẽ hiện lên như một giấc mộng vàng, một hoài niệm về thời đại hoàng kim đã có và sẽ phải trở lại với loài người. Suốt đời ông sẽ xót thương số phận, bênh vực quyền lợi và nhân phẩm của những con người “bị đuổi khỏi bàn tiệc của nhân quần”. Mười lăm năm sau Những người nghèo, vào đầu thập kỉ 1860-1870, Dostoievski sẽ viết một tiểu thuyết khác – Những kẻ tủi nhục, bênh vực đến lí tưởng hóa những người cùng khổ và phê phán đến mức tô bằng một màu đen quỷ dữ hình tượng kẻ giàu sang, quyền quý.
Nhưng cũng Dostoievski ngay từ đầu đã hiểu hết tính khiên cưỡng của sự đối lập tuyệt đối giàu – nghèo, kẻ bóc lột – người bị bóc lột, tính hời hợt của niềm tin một chiều vào bản chất lương thiện tự nhiên của con người và tính ảo tưởng của những dự án thiết lập chóng vánh thiên đường trên trái đất. Dostoievski tranh luận ngấm ngầm với những quan niệm và chủ thuyết ấy bằng tiểu thuyết Kẻ song trùng, được viết gần như cùng một lúc với Những người nghèo. Nhân vật chính của truyện ấy, Iakov Goliadkin, người anh em cùng hội cùng thuyền với Makar Devushkin, gặp rủi ro trong tình duyên sau nhiều lận đận, bất thành trên đường công danh, dằn vặt suy nghĩ về số phận hẩm hiu của mình. Tâm trạng vừa oán ghét sự đời, muốn xa lánh xã hội để giữ gìn phẩm giá, lại vừa thèm khát cái thành đạt của kẻ khác, biết rõ tính hư phù của danh vọng mà vẫn ao ước được mọi người trọng vọng, tạo nên những giằng xé nội tâm dữ dội và dẫn đến chứng phân liệt nhân cách: một Goliadkin phân thành hai người, Goliadkin trưởng và Goliadkin thứ. Con người thứ nhất khiêm nhường, dụt dè, an phận thủ thường bao nhiêu thì con người thứ hai táo tợn, trơ trẽn, hãnh tiến bấy nhiêu. Hai con người không đội trời chung ấy không thể sống chung trong một con người, và cuối cùng, Goliadkin phát điên.
Giọng văn trong Kẻ song trùng, khác xa Những người nghèo, đầy chất châm biếm, giễu cợt. Dostoievski học tập nghệ thuật của Gogol, sử dụng những thủ pháp phóng đại, lạ hóa, giả tưởng, cố lột tả bằng những hình tượng trực quan cái tâm trạng mâu thuẫn đến bệnh hoạn của nhân vật, rọi ánh sáng vào cái phần tăm tối ẩn khuất trong nó (cái mà Phân tâm học sau này sẽ gọi là vô thức hay tiềm thức), khắc họa nó như một tâm hồn đã đánh mất vĩnh viễn tính thuần phác thuần toàn, đã lưỡng phân triệt để, một nhân cách vừa đáng thương vừa đáng sợ.
Con người nhỏ bé của Dostoievski tiềm ẩn trong mình một ác quỷ không bé nhỏ – kẻ song trùng của nó. Óc đố kị của nó là một sức mạnh phá hoại xã hội và tàn phá bản thân nó. Sự nghiêng ngả tinh thần của nó nguy hiểm cho những ai nó sẽ đi theo. Những ứng biến của nó tùy theo thời thế đổi thay là khôn lường. Tiếng khóc nỉ non của nó trong thân phận thấp hèn, bị ngược đãi hôm nay có thể chuyển giọng thành tiếng thét man rợ của kẻ bạo hành tiếm đoạt, tiếng cười khả ố của tiểu nhân đắc thắng. Vậy, với một con người của số đông như vậy có thể mau chóng dựng xây thiên đường trên trái đất? Có thể hoàn thiện hóa con người ấy chỉ bằng cách thay đổi điều kiện sống bên ngoài của nó?
Câu trả lời phủ định toát ra từ toàn bộ tác phẩm, làm phật lòng Belinski và những cộng sự của ông tập hợp xung quanh tạp chí cấp tiến Người cùng thời đại. Họ đương chờ đợi ở Dostoievski những sáng tác hoàn toàn khác, cổ xúy trực tiếp và theo một hướng thống nhất cuộc đấu tranh xã hội, mà trong đó văn học được xem là một vũ khí sắc bén hạng nhất. Dostoievski đã phạm “sai lầm chính trị” và phải chuốc lấy sự chê bai ghẻ lạnh, sự nhạo báng trịch thượng từ những người hôm qua còn vồ vập tâng bốc ông. Nhớ suốt đời bài học ấy, Dostoievski sau này sẽ nhắc đi nhắc lại về cái hại của mọi “khuynh hướng” trong văn học nghệ thuật. Ông nói về những khuynh hướng do phe cánh hay thói thời thượng áp đặt, chúng giống như những “bộ đồng phục” khiên cưỡng chụp lên trên những cá tính sáng tạo khác nhau, chứ tính khuynh hướng tự nguyện và tự do của người nghệ sĩ thì bản thân Dostoievski có thừa và không bao giờ chối bỏ.
Dostoievski suốt đời yêu mến tác phẩm thiếu thời không gặp vận may của mình. Kẻ song trùng quả thật phác họa một hình tượng con người xã hội chưa từng có trong văn học Nga trước Dostoievski. Nó khai mào cho một loạt phát kiến nhân học vĩ đại của Dostoievski sau này. Nhưng nó là đứa con tinh thần đẻ non, trình độ nghệ thuật ở đây không tương xứng với ý tưởng thâm thúy và minh triết, chính tác giả cũng thừa nhận điều này. Nói chung, thiên tài nghệ thuật của Dostoievski chín muồi chậm: phải ngoài bốn mươi tuổi, sau hai mươi năm cầm bút, ông mới viết nên những trang sách làm bất tử tên ông.
III.Sau gần một năm ốm đau, hoang mang thất vọng, đầu năm 1847, Dostoievski trở lại sáng tác. Vị trí của ông bây giờ là “người cầm bút vô sản”, viết báo để kiếm sống. Trong văn chương, Dostoievski tạm xa lánh những đề tài xã hội gay cấn, trở về với những chủ đề lãng mạn: thế giới mộng mơ, những cuộc phiêu lưu của những trái tim cuồng nhiệt và trinh bạch giữa cuộc đời ô trọc, tàn nhẫn. Trong hai năm, Dostoievski viết một loạt truyện ngắn và truyện vừa, đa số có tình tiết li kì, màu sắc hoang tưởng, gợi nhớ Hoffmann và Gogol giai đoạn đầu: Bà chủ, Trái tim yếu đuối, Những đêm trắng, Netochka Nezvanova… Nhân vật trung tâm ở đây là con người mơ mộng: một viên chức nhỏ bỏ việc, một nhạc công đã đánh mất tài năng của mình, một “nghệ sĩ trong khoa học”… Không có nghề nghiệp rõ ràng, họ sống ngoài những mối quan hệ xã hội, như nhân vật trong Những đêm trắng tám năm trời ở Peterburg, thuộc nhẵn từng đường phố, từng ngôi nhà mà vẫn chưa quen biết một ai. Là những lữ khách nơi đô thị, hình ảnh kì ảo của Peterburg – một kinh thành mọc lên trên những bãi lầy của cửa sông Neva, đầy sương mù và khí lạnh của miền cực Bắc – là cái nền tuyệt vời kích thích những suy tưởng và hành vi lạ thường của họ. Họ bắt gặp những cảnh đời ngang trái, những số phận đáng thương, những tâm hồn đau khổ…
Họ muốn can thiệp vào cuộc sống, phục hồi công lí, cứu giúp người lâm nạn, giành lấy tình yêu và hạnh phúc cho cả chính mình. Nhưng rồi họ chóng nhận ra rằng, trái tim con người không nghe theo lí trí: người bị đày đọa vẫn quyến luyến kẻ đày đọa và cự tuyệt người mang giải thoát đến cho mình (Bà chủ), tâm hồn đau khổ yêu thích cái khổ đau và không đổi nó lấy sung sướng (Trái tim yếu đuối), người bị phụ bạc vẫn nặng tình với kẻ phụ bạc và chỉ thương cảm người yêu say đắm mình (Những đêm trắng). Những truyện dài, truyện ngắn khai thác những nghịch lí của trái tim như thế – thành công nhất là Những đêm trắng, Dostoievski sẽ không bao giờ viết được những truyện trữ tình trong sáng và nhẹ nhàng như thế nữa – đã tuyệt nhiên không được công luận hưởng ứng. “Trường phái tự nhiên” hồi ấy đương chiếm lĩnh vị trí đầu tàu trong đời sống văn học Nga chỉ nhìn thấy ở tác giả một hậu sinh muộn mằn của chủ nghĩa lãng mạn đã lỗi thời. Belinski đánh giá khe khắt tất cả những tác phẩm của Dostoievski viết sau Những người nghèo, đặc biệt nghiêm khắc phê phán cái “màu sắc hoang tưởng” ở chúng. “Cái hoang tưởng ngày nay chỉ có chỗ trong nhà thương điên và là mối bận tâm của thầy thuốc chứ không phải của nhà thơ” – ông viết với dụng ý làm tỉnh ngộ Dostoievski.
Nhưng Dostoievski đã không còn là một học trò ngoan ngoãn của nhà phê bình vĩ đại. Ông đang ở trong quá trình thử nghiệm độc lập, đương dò tìm con đường riêng của mình trong nghệ thuật. Càng ngày, ông càng không thỏa mãn với thứ chủ nghĩa hiện thực bằng lòng với việc tái tạo “giống như thật” cái bề nổi của cuộc sống, lấy ngoại giới giải thích nội tâm, vì cái phổ biến mà hi sinh cái đặc thù và cái đơn nhất. Sau này, ông sẽ gọi cái chủ nghĩa thực chứng trong nghệ thuật ấy là “nông cạn”, “mù lòa”.
Trong một bức thư năm 1867 gửi nhà thơ Maikov, Dostoievski viết: “Tôi có những khái niệm hoàn toàn khác về hiện thực và chủ nghĩa hiện thực, khác xa các nhà văn hiện thực và các nhà phê bình của chúng ta, chủ nghĩa duy tâm của tôi- hiện thực hơn chủ nghĩa duy thực của họ. Trời ơi! Cứ kể một cách sáng rõ, những gì người Nga chúng ta đã nếm trải trong 10 năm qua trong sự phát triển tinh thần của chúng ta – lẽ nào các vị duy thực lại không kêu toáng lên rằng đó là hoang tưởng! Trong khi ấy, đó mới là một chủ nghĩa hiện thực chính cống, đích thực! Chính cái đó mới là chủ nghĩa hiện thực, có điều sâu sắc hơn, còn của họ thì bơi nông”. Dostoievski biết miêu tả trung thực và sống động cái hiện thực thấy được bằng mắt, cảm được bằng các giác quan. Bút kí từ nhà chết làm cả châu Âu khâm phục bằng những hình ảnh sinh hoạt hàng ngày của nhà tù khổ sai, đã đọc là không thể quên – nhưng đích nghệ thuật của Dostoievski ở chỗ khác. Ông hướng về hiện thực cấp thứ nhất, cấp bản chất chi phối hiện tượng. Cái chủ nghĩa hiện thực ấy sẽ tất yếu sàng bỏ nhiều chi tiết bề ngoài dễ thấy của cuộc sống để nắm bắt cái thực thể, nhiều khi hi sinh cái “giống thật” để tìm ra cái đích thực, quan tâm đặc biệt đến cái dị thường, cái ngoại biệt, vì chính ở đấy tập trung cao độ những “vấn nạn” của nhân sinh phân tán trong những hiện tượng thông thường phổ biến. Cái chủ nghĩa hiện thực ấy sẽ hiện ra sau này, trong những tiểu thuyết lớn của Dostoievski, sáng tác những năm 40 thế kỉ XIX, cho ta thấy những tìm tòi đầu tiên theo hướng ấy.
Cuối đời, suy nghĩ về những đặc điểm của phương pháp sáng tác của mình và tranh luận với chủ nghĩa thực chứng trong triết học và văn học, Dostoievski sẽ viết những dòng cô đúc, chắc nịch như những châm ngôn: “Tôi yêu ghê gớm chủ nghĩa hiện thực, một chủ nghĩa hiện thực đi tới cái huyễn tưởng”.“Người ta gọi tôi là nhà tâm lí, không phải, tôi là nhà văn hiện thực nhưng theo nghĩa cao nhất, có nghĩa là tôi lột tả mọi bề sâu của tâm hồn con người”. “Lí tưởng cũng là hiện thực, cũng là hiện thực chính đáng như thực tại trước mắt”. “Toàn bộ hiện thực không nằm hết trong cái hiện hữu, mà một phần to lớn còn tồn tại ở dạng tiềm ẩn, như là tiếng nói chưa được phát ra của tương lai”.
IV.Một Dostoievski viết hết truyện dài đến truyện ngắn về con người mơ mộng trong khoảng 1846-1848 chưa phải đã là cả Dostoievski. Cạnh đó, còn có một Dostoievski khác hăng say hành động, khao khát biến lí tưởng xã hội của mình thành hiện thực.
Sau khi đoạn tuyệt với nhóm Belinski, chủ yếu vì bất đồng ý kiến về văn chương, Dostoievski kết giao với nhóm Petrashevski – một luật gia có học vấn sâu rộng, một môn đệ nhiệt thành của Fourier. Dostoievski, như đã nói ở trên, không chia sẻ nhiều điểm trong học thuyết của Fourier và các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng khác. Nhưng lòng căm phẫn trước hiện thực xã hội phi nghĩa đến dã man ở nước ông – nước Nga hồi đó còn là nước quân chủ chuyên chế và nông nô, người nông nô Nga trong thực tế không khác gì nô lệ – đã thôi thúc ông không những liên kết với những trí thức tiến bộ để truyền bá tư tưởng cải tạo xã hội, mà còn cùng với một thiểu số cấp tiến nhất – nhóm Durov – Speshnev – mưu toan phát động khởi nghĩa võ trang để xóa bỏ chế độ nông nô, giành lấy những quyền tự do dân chủ. Mưu đồ này chưa bước sang giai đoạn tổ chức thì tháng Tư 1849, cả nhóm bị bắt.
Một giai đoạn bi đát nhất trong tiểu sử Dostoievski bắt đầu: 7 tháng giam cầm trong nhà tù Peterburg như một phạm nhân chính trị đặc biệt nguy hiểm, rồi cuộc xét xử với quyết án tử hình và cuộc hành quyết giả do chính Sa hoàng đạo diễn: Dostoievski mặc áo tử tù, đứng gần 20 phút trên đoạn đầu đài chờ chết – cái chết cuối cùng được thay thế bằng 4 năm tù khổ sai và 4 năm làm lính ở Xibia. Trước những thử thách khốc liệt ấy, Dostoievski – bất ngờ ngay đối với ông – đã tỏ ra là con người đầy bản lĩnh và nghị lực. Ông không tiết lộ bí mật, không tố giác bạn bè, ngược lại, bằng mọi cách nâng đỡ tinh thần họ. Trong nhóm Petrashevski, không phải ai cũng hành xử được như ông. Dostoievski sau này nói rằng, ông không có gì ân hận về quãng đời này của mình. Nhưng ông cũng nói: với ông, những phút chờ chết ấy đã quả là những phút giây bước từ cuộc đời cũ sang một cuộc đời mới, với những xác tín thay đổi hoàn toàn.
Thực ra, từ năm 1850 trở đi, trong thế giới quan, nhân sinh quan của Dostoievski quả đã diễn ra những thay đổi lớn, nhưng cũng có không ít mặt cơ bản được bảo toàn. Ta hãy dừng lại trước ở những mặt được bảo toàn ấy, bởi vì chúng hay bị lãng quên, hoặc do thành kiến với Dostoievski, hoặc do ý muốn bi kịch hóa triệt để cuộc đời ông. Trước hết, lí tưởng xã hội của Dostoievski còn lại không suy suyển. Vì lí tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, Dostoievski thời trẻ đã dấn thân vào con đường hoạt động chống chính phủ, không loại trừ đấu tranh võ trang để giải phóng nhân dân khỏi ách nông nô. Khi chế độ nông nô đã được bãi bỏ, Dostoievski không còn thấy cần phải dùng bạo lực cách mạng để giải quyết vấn đề xã hội. Nhưng vấn đề xã hội không vì thế mà mất đi trong ý thức của ông tầm quan trọng to lớn và tính thời sự nóng bỏng của nó.
Dostoievski sẽ không bao giờ né tránh thời cuộc, không bao giờ trở thành nhà văn phi chính trị, khép mình trong “tháp ngà” của nghệ thuật. “Bị ám ảnh bởi nỗi buồn nhớ hiện tại” và mang khí chất bẩm sinh của một người hoạt động xã hội, Dostoievski như một tiểu thuyết gia và một nhà chính luận sẽ cất tiếng nói về những vấn đề thời cuộc nóng bỏng nhất, và ở đây, lí tưởng công bằng xã hội, quyền lợi của nhân dân lao động sẽ luôn luôn là kim chỉ nam cho tư duy của ông, là cơ sở để ông nhận thức và đánh giá hiện thực xã hội trong và ngoài nước.
Năm năm trước khi mất, ông thổ lộ trong Nhật kí nhà văn: “Tôi không bao giờ có thể hiểu được một tư tưởng cho rằng, chỉ một phần mười loài người phải được phát triển đến mức cao nhất, còn chín phần mười thì chỉ làm chất liệu, làm phương tiện cho sự phát triển ấy, còn bản thân họ phải ở lại trong bóng tối. Tôi không muốn nghĩ và không muốn sống một cách nào khác, ngoài tin tưởng rằng tất cả chín mươi triệu người Nga chúng ta (hoặc không biết bao nhiêu sẽ còn được sinh ra thêm nữa) đến lúc nào đó sẽ được học hành, được thành người, được hạnh phúc”.
Để biết Dostoievski căm ghét cái bất công và cái ác ngự trị xã hội loài người thế nào, chỉ cần đọc một chương Nổi loạn trong tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov. Sau này, nhiều năm sống ở Tây Âu, quan sát tận mắt hiện thực xã hội ở những nước đã làm cách mạng tư sản, Dostoievski nhận thấy, lí tưởng tự do, công bằng, bác ái ở đây đã bị phản bội, quyền lợi của con người lao động không được tôn trọng, các đảng phái chính trị lợi dụng sự tín nhiệm của nhân dân theo đuổi những mục tiêu vị kỉ, hẹp hòi của họ. Dostoievski sẽ suy nghĩ nhiều về những đường hướng cải tạo chế độ chính trị – xã hội ở nước mình nhằm bảo đảm lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp xã hội, trong đó có việc xây dựng hệ thống tự quản xã hội từ cơ sở và hệ thống các cơ quan dân biểu trực tiếp, không dựa vào các chính đảng. Dostoievski kiên trì chủ trương phát triển thật sâu rộng giáo dục quốc dân, đưa ánh sáng của văn hóa và khoa học vào quần chúng, thực hiện các quyền tự do công dân, trong đó quan trọng hàng đầu là tự do ngôn luận và tự do tư tưởng.
Với Dostoievski, không có gì đáng ghét hơn sự o ép tinh thần, cưỡng bức lương tâm, không cho con người nói lên ý nghĩ thật của nó. Dostoievski không bao giờ là một tên phản động chính trị. Nếu dùng từ đúng nghĩa thì thời trẻ, có lúc ông đã theo chủ nghĩa cấp tiến chính trị, sau này chuyển sang lập trường bảo thủ. Từ không ngần ngại đánh đổ chế độ quân chủ chuyên chế, ông sau này chủ trương duy trì nó, dựa vào nó để thực hiện những cải cách xã hội. Tất nhiên, Dostoievski đã sai lầm, có điều rất nhiều trí thức Nga trước và sau Dostoievski cũng mắc sai lầm ấy, trong đó có cả những đầu óc cách mạng như Herzen.
Có hai lí do giải thích một phần sự thay đổi lập trường chính trị của Dostoievski. Thứ nhất, chế độ Sa hoàng đến thời Alexandre II (1855-1881) đã chủ động bãi bỏ chế độ nông nô và thực hiện nhiều cải cách xã hội quan trọng khác. Alexandre II được nhiều người Nga xem là một minh quân. Chính ông vua này đã trả lại danh hiệu quý tộc, phong quân hàm sĩ quan cho Dostoievski và cho về thủ đô sinh sống hoạt động. Nhưng cũng phải nói thêm rằng, Dostoievski cho đến cuối đời vẫn bị cảnh sát an ninh bí mật theo dõi và ông không hưởng một đặc ân đặc lợi gì của triều đình. Thứ hai, trong gần 10 năm ngồi tù rồi sống ở Xibia, Dostoievski đã có điều kiện tìm hiểu kĩ và đã mến yêu nhân dân lao động Nga, mà quần chúng nhân dân Nga thì – đây là một sự thật lịch sử – ngưỡng mộ Sa hoàng, tin tưởng tuyệt đối vào Sa hoàng, xem Sa hoàng như người cha che chở, bênh vực quyền lợi của họ.
Dostoievski, người trí thức đã “quy phục chân lí của nhân dân”, sẽ ấp ủ ảo tưởng về một liên minh giữa Sa hoàng và nhân dân, sẽ nói nhiều trong văn chính luận của mình về quan hệ cha con giữa vua và dân, cố thuyết phục vua Nga và giới cầm quyền Nga, nhưng trong thâm tâm không mấy tin tưởng vào thành công của mình. Những trang viết ấy của Dostoievski bám nhiều bụi thời gian nhất.
Dostoievski nhiều lần nhấn mạnh: không phải những khó khăn gian khổ, không phải nỗi cực nhục tù đày và làm lính đã bẻ gẫy ý chí ông, bắt ông thay đổi chính kiến, mà là sự gần gũi trực tiếp với nhân dân, thấm nhuần lí tưởng, đạo đức của nhân dân. Trong thế giới tinh thần của quần chúng nhân dân Nga có một thông số chung với Dostoievski. Nó thu phục ngay tâm hồn ông, đó là đức tin tôn giáo, tình yêu cuồng nhiệt đối với Chúa Giêxu Kitô và đạo Kitô. Sự tiếp xúc với nhân dân lao động đã làm sống lại mãnh liệt trong Dostoievski niềm tin và tình yêu ấy một thời lung lạc do ảnh hưởng của các nhà trí thức cấp tiến.
Trong một bức thư năm 1854 gửi Fonvizina, vợ một nhà cách mạng Tháng Chạp bị đày đi Xibia, ta đọc lời tự thú rất điển hình của Dostoievski : “Tôi xin nói với bà về mình rằng, tôi là con đẻ của thời đại, con đẻ của sự không tin và hồ nghi cho đến tận bây giờ và thậm chí (tôi biết cái đó) đến tận lúc xuống mồ. Tôi đã và đương phải trả bằng những khổ đau ghê gớm biết chừng nào cho cái khát vọng tín ngưỡng ấy. Nó càng mạnh trong tâm hồn tôi, thì trong tôi lại càng nhiều lí lẽ chống lại”.Tiếp theo, ông định thức cái đức tin của mình: “Tin rằng không có gì đẹp hơn, sâu sắc hơn, đáng mến hơn, thông minh hơn, dũng cảm hơn và toàn bích hơn Đức Kitô, và không những không có, mà tôi tự nhủ với một tình yêu ghen tuông, không thể có. Nhưng thế hãy còn ít. Giả sử có ai chứng minh được cho tôi rằng, Kitô ở ngoài chân lí và quả thực chân lí ở ngoài Kitô, thì tôi vẫn muốn ở lại với Kitô, chứ không với chân lí”. Ta thấy, đức tin của Dostoievski phức tạp hơn rất nhiều so với đức tin chất phác của những con người lao động bình thường. Nó là kết cục của những cuộc đấu tranh, vật lộn nội tâm, nó lưỡng cực, nó bao hàm cả sự không tin với đầy đủ lí lẽ để không tin, nó tự khẳng định mình như một nhu cầu tinh thần quan trọng nhất của con người. Kiểu đức tin ấy, ta sẽ gặp lại trong những tiểu thuyết kiệt tác của Dostoievski.
Đáng chú ý nữa là trong con mắt của Dostoievski, Kitô không phải là Chúa Trời xa vời vợi, mà là một con người chân chính, hoàn hảo. Lòng yêu Kitô thể hiện sự khao khát hoàn hảo thuộc về bản chất của con người, tin vào Kitô tức là tin vào khả năng con người có thể trở nên hoàn hảo. Dostoievski vẫn thường nói, khác với giáo lí của nhà thờ chính thống: “Trong đạo Kitô Nga thật ra chẳng có tí gì là thần bí cả, ở đây chỉ có tình yêu thương con người, chỉ có hình ảnh của Kitô”. Đức tin của Dostoievski gắn liền với chủ nghĩa nhân đạo của ông, một chủ nghĩa nhân đạo nhìn thấy hình ảnh Thượng Đế trong mỗi con người, ngay cả người xấu xa nhất, sa đọa nhất. Đức tin ấy trong Dostoievski gắn liền với tình yêu nhân dân, đất nước. Dostoievski không lí tưởng hóa nhân dân lao động – trong Bút kí từ nhà chết và những tác phẩm khác của ông, ta bắt gặp những hình tượng đáng sợ của những con người biến chất xuất thân từ dân chúng cần lao. Nhưng cái quý giá ở những con người lầm than tội lỗi ấy là lí tưởng đạo đức cao cả đến thánh thiện – theo Dostoievski, nó là kết quả trực tiếp của sự thấm nhuần đạo lí Kitô giáo. Ông gửi gắm rất nhiều kì vọng vào nhân dân Nga: với lí tưởng đạo đức không đục vẩn ấy trong tâm thức, nó sẽ dẫn đường chỉ lối nhân loại trong công cuộc tìm kiếm chân lí thiện mĩ phổ quát, kiến tạo thế giới đại đồng. Cái đúng cái sai, cái thông minh mẫn tuệ và cái thiển cận mù quáng trong dự báo ấy của Dostoievski bây giờ đã quá rõ ràng.
V.Bốn năm tù khổ sai, sống và giao tiếp với hàng trăm phạm nhân hình sự thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau đã cho Dostoievski một vốn hiểu biết phong phú và quý giá vô cùng, làm cứ liệu cho những suy ngẫm bền bỉ về bản chất và những khả năng của con người, nguồn gốc của cái ác, quan hệ giữa môi trường và nhân cách, giữa tự do và trách nhiệm của con người – những cái sẽ tạo nên cốt lõi tư tưởng cho những tiểu thuyết lớn sau này của Dostoievski và cũng sẽ được ông bàn đến nhiều trong văn chính luận. Bốn năm “đau khổ khôn xiết và vô cùng” ấy sẽ trực tiếp hun đúc nên kiệt tác đầu tiên mà Dostoievski sẽ viết ngay sau khi trở về thủ đô Peterburg sau 10 năm vắng mặt – Bút kí từ nhà chết (1860).
Tác phẩm này sẽ làm chấn động dư luận Nga, hồi đó đương sống trong sự chờ đợi những cải cách xã hội lớn, khiến nhiều người nhìn thấy ở Dostoievski một Dante mới đã xuống thăm và mô tả lại địa ngục. Cái địa ngục này lại càng khủng khiếp vì nó tồn tại không phải trong trí tưởng tượng của nhà văn, mà trong thực tế của đất nước. Cuốn sách sẽ sớm được dịch ra tiếng nước ngoài, làm cho tên tuổi Dostoievski được biết đến ở châu Âu, nơi cái tên Nhà chết sẽ được nhiều người xem là đồng nghĩa với nước Nga.
Trong những năm làm quân dịch ở Xibia, Dostoievski viết ít, đọc nhiều. Tác phẩm còn được nhắc đến thuộc thời kì ấy là truyện dài Làng Stepanchikovo với các cư dân, một bi hài kịch có cốt truyện mô phỏng Tartuffe của Molière, nhân vật thành công hơn cả trong đó là Foma Opiskin, một tên ăn bám giả đạo đức và ngụy biện, bắt ông chủ thật thà và cả họ hàng gần xa của ông ta phải phục tùng và sợ hắn, một Tartuffe của Nga.
Đời sống tình cảm đầy sóng gió của Dostoievski trong những năm ấy kết thúc bằng cuộc hôn nhân cũng không kém phần sóng gió. Cuộc tình duyên ấy, ngoài những quan sát tâm lí kì thú cũng sẽ làm chất liệu cho những sáng tác tiểu thuyết sau này của Dostoievski, còn bộc lộ ở Dostoievski một số nét con người dễ thương, khó hình dung ở tác giả những tiểu thuyết – bi kịch tàn khốc như Tội ác và trừng phạt, Lũ người quỷ ám, Anh em nhà Karamazov: lòng tận tụy, chăm sóc từng li từng tí người yêu, sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình vì hạnh phúc của người mình yêu… Dostoievski sẽ bất hạnh với người vợ đau ốm, trái tính, cả nghi và cả ghen của mình, nhưng sau khi bà qua đời (1864) và ông đã có cuộc hôn nhân thứ hai (1867), lần này hạnh phúc, ông sẽ tiếp tục chăm sóc ân cần người con trai riêng cũng rất trái tính của người vợ quá cố.
VI.Peterburg, nơi Dostoievski trở về vào đầu thập niên 1860-1870, đương sục sôi không khí “đêm trước cách mạng”. Chế độ phong kiến nông nô đang sống những ngày cuối cùng. Nước Nga sau đó sẽ đi đâu? Trước câu hỏi ấy, xã hội phân chia thành nhiều phe phái. Phái cấp tiến nhất-Phái cách mạng dân chủ Chernyshevski là lãnh tụ tinh thần kêu gọi nước Nga “cầm lấy rìu”, đánh đổ Nhà nước quân chủ chuyên chế, đưa nước nhà lên thẳng chủ nghĩa xã hội. Do ảnh hưởng của tuyên truyền cách mạng, sinh viên bãi khóa, biểu tình, những phần tử manh động đốt cháy từng khu phố. Phái tự do tư sản sùng phương Tây thì hô hào nhanh chóng du nhập những định chế của phương Tây: hiến pháp, nghị viện, các quyền tự do công dân… để đưa nước Nga đuổi kịp thế giới văn minh. Phe bảo thủ thân Xlavơ cổ xúy bảo tồn “quốc hồn quốc túy” bằng cách phục hồi những kỉ cương trật tự cổ xưa, trước thời Piôtr Đại đế. Dostoievski không theo phái nào, giữ lập trường riêng mà sau này ông sẽ diễn đạt là “sự tổng hòa giải các tư tưởng” trên cơ sở lí tưởng Kitô giáo. Ông và anh ruột thành lập một diễn đàn riêng – tạp chí Thời buổi (Vremia), sau đổi tên thành Thời đại (Epokha) – để phát biểu những quan điểm của mình về những vấn đề thời sự của đất nước.
Tạp chí này tồn tại không lâu do cái chết đột ngột của người anh Dostoievski (1864), nhưng nó đã để lại dấu ấn trong lịch sử báo chí Nga. Dostoievski đăng trên tạp chí này tất cả những tác phẩm ông viết trong khoảng 1860 – 1864, đích thân phụ trách phần văn học và phê bình văn nghệ của tạp chí. Ông tự tay viết một loạt bài phê bình, tranh luận với cả các báo cực tả lẫn cực hữu xung quanh những vấn đề đương nổi lên gay cấn thời ấy như chức năng nhiệm vụ của nghệ thuật, quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, thế nào là chủ nghĩa hiện thực trong văn nghệ.
Quan điểm của Dostoievski khá độc đáo và sâu sắc, đáng được đời sau biết đến. Thí dụ, ông khẳng định: không có thứ “nghệ thuật vị nghệ thuật”, mọi nghệ thuật đích thực đều vì con người và cần cho con người, không bây giờ thì mai sau, không trong hoàn cảnh này thì trong hoàn cảnh khác. Và vì thế cứ để cho người nghệ sĩ sáng tạo tự do, đừng ép anh ta theo khuynh hướng này hay khuynh hướng kia, nhập trường phái này hay trường phái nọ. Với cái đẹp cũng thế. “Con người tiếp nhận cái đẹp một cách hoàn toàn vô điều kiện, chỉ vì nó là cái đẹp, ngưỡng mộ nghiêng mình trước nó, không hỏi vì sao nó có ích… ”. Cái đẹp là “mục đích cuối cùng của sinh tồn”. Từ luận điểm này, dễ bắc cầu sang định thức nổi tiếng sau này của Dostoievski: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”.
Hè năm 1862, Dostoievski thực hiện chuyến viễn du đầu tiên sang châu Âu. Ông viếng thăm châu Âu không phải như một du khách nhàn rỗi, mà như một nhà tư tưởng đã có những chủ kiến về thế giới ấy và muốn lấy cái tai nghe mắt thấy kiểm nghiệm những ý kiến của mình. Kết quả của chuyến đi là thiên chính luận triết học dưới hình thức thể kí Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè (1863). Dostoievski tập trung quan sát hiện thực xã hội ở hai thành phố lớn – Paris và London – một cái là “thiên đường”, một cái là “địa ngục” của Tây Âu tư bản chủ nghĩa, và nhận định: nền văn minh châu Âu đã đi vào ngõ cụt, nó đã phản bội lí tưởng cao đẹp mà chính nó đề xướng, nó bóc lột thậm tệ giai cấp cần lao để đem lại lợi ích cho một thiểu số nhỏ, mà lối sống của thiểu số ấy là lối sống cá nhân vị kỉ, “mỗi người vì mình, Thượng Đế vì mọi người” hay là “chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”. Sự giải phóng cá nhân ở đây chỉ dẫn đến sự cô đơn, tha hóa và thui chột nhân cách con người.
Kết luận: con đường của Tây Âu không phải là con đường của nước Nga. Ở Nga, nơi mà lí tưởng bác ái do Kitô di huấn vẫn sáng chói trong tâm thức dân tộc, chế độ xã hội, quan hệ cá nhân – tập thể phải được thiết lập trên cơ sở khác – cơ sở tình yêu và tự do. Trong Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè, Dostoievski lần đầu tiên phác thảo và công bố cái học thuyết xã hội – nhân văn của mình, trong đó vấn đề tự do mới được đề cập lướt qua. Trọng tâm của thiên chính luận là phản bác óc sùng bái mù quáng, bắt chước một cách nô lệ phương Tây.
Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè cho thấy một đặc điểm của tư duy Dostoievski: ông luôn luôn bám sát thời cuộc, quan tâm tha thiết đến ngày hôm nay, nhưng trong mớ bòng bong của ngày hôm nay ấy, ông sẽ lẩy ra và bắt người đọc ông tập trung chú ý vào những vấn đề hệ trọng nhất và muôn thuở nhất của nhân sinh. Ông là một nhà báo siêu hạng.
Cũng năm 1863, mấy tháng sau khi xuất hiện Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè, Chernyshevski đăng trên tạp chí Người cùng thời đại tiểu thuyết Làm gì? trình bày cương lĩnh cải tạo xã hội, xây dựng con người mới của ông và vẽ nên bức tranh tương lai một màu tươi sáng của nhân loại. Dostoievski lập tức bước vào tranh luận với Chernyshevski bằng tác phẩm Bút kí từ nhà hầm, trong đó vấn đề tự do của con người sẽ trở thành trọng tâm tư tưởng.
Lần này, Dostoievski tranh luận một cách rất độc đáo, với nghệ thuật cao cường của một tiểu thuyết gia đại tài. Ông sáng tạo một nhân vật tiểu thuyết hẳn hoi, để cho nó kể về mình, tự nhận xét mình, phát biểu những ý kiến của mình về cuộc đời và con người và nhân tiện tranh luận với Chernyshevski, không gọi tên ông. Chỉ khúc xạ qua lời nói của nhân vật, người đọc có thể đoán biết chủ kiến của tác giả. Mặt khác, thông qua nhân vật ấy, với tính cách, hành vi, quan điểm của nó, Dostoievski xác định nhãn thức của mình về con người, xây dựng cái mà người đời sau sẽ gọi là “nhân học Dostoievski”. Thế thì Dostoievski tranh luận nhiều nhất với Chernyshevski về cái gì?
Dostoievski nhìn thấy – và ông không ngộ nhận – ở Chernyshevski một môn sinh của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng châu Âu, mà học thuyết Dostoievski đã biết từ những năm 40 thế kỉ XIX. Cái “lâu đài bằng pha lê” trong tiểu thuyết Làm gì?, nơi loài người trong tương lai sẽ sống, lao động và hưởng thụ chung, có những thông số cơ bản chung với một phalanstère (nhà chung) của Fourier hay công xã Icarie của Cabet, mà với Dostoievski, cuộc sống ở đấy “còn đáng ghét hơn, khủng khiếp hơn tù khổ sai”. Các kiểu nhà chung và công xã ấy thể hiện một lối tư duy và một phương cách giải quyết vấn đề xã hội – con người, cá nhân – tập thể mà Dostoievski không thể chấp nhận. Theo một truyền thống tư tưởng có lịch sử ngàn đời – nó kéo từ thời cổ đại Hi-La (Platon), qua Phục Hưng (T.Moore, Campanella, F.Bacon) sang cận đại – các nhà xã hội và cộng sản chủ nghĩa châu Âu trước Mác chẳng thấy một cách nào giải quyết những mâu thuẫn xã hội, ngăn chặn chủ nghĩa cá nhân và những xung đột cá nhân – tập thể ngoài cách khống chế gắt gao cá nhân, bắt nó chịu sự chi phối một chiều và vô điều kiện của tập thể, đồng hóa cá nhân với những chức năng xã hội. Cá nhân ở đây về thực chất đã bị xóa bỏ, chỉ còn lại những cá thể, những “tiêu bản” của loài người.
Trong các học thuyết về xã hội lí tưởng của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng thuộc mọi thời đại, ta đều thấy những mô hình bất biến, quy định trước từng li từng tí, một lần và vĩnh viễn đời sống xã hội và cá nhân, duy lí hóa triệt để cuộc sống để phòng tránh mọi mâu thuẫn, mọi xung đột. Dostoievski phẫn nộ gọi chúng là những học thuyết “tổ kiến”, là “chủ nghĩa bầy đàn”, và xem ra ông không bất công. Loài người trong thế kỉ vừa qua đã phải trả giá quá đắt cho cái lối giải quyết quan hệ cá nhân – tập thể như thế, cho những đồ án xã hội duy ý chí một cách không tưởng như thế. “Cái đáng sợ nhất ở các thuyết không tưởng là chúng dễ trở thành hiện thực” – Nikolai Berdiaev, một trong những triết gia lớn nhất thế kỉ XX và một trong những người con tinh thần của Dostoievski, viết không sai một tí nào.
Nhân vật Bút kí từ nhà hầm, một cái đầu chuộng nghịch lí, đưa ra ba mô hình biểu tượng về tổ chức xã hội loài người: “tổ kiến”, “chuồng gà” và “lâu đài pha lê”. “Tổ kiến” thì đương nhiên hắn không chấp nhận, nhưng “lâu đài pha lê” hắn cũng không ưng. Hắn nói: nếu chẳng có gì tốt hơn, thì thà chọn “chuồng gà”. Chuồng gà là nơi ngủ qua đêm, nơi tránh mưa, một cái gì đó tạm thời, có thể phá đi làm lại. Còn lâu đài pha lê được ban quy chế của cái vĩnh cửu, cái thiêng liêng, ở đấy không được thay đổi một cái gì cả, trong đó mọi người đều hạnh phúc và phải hạnh phúc, không ai được phép đau khổ. Thực chất, “lâu đài pha lê” cũng là “tổ kiến”, một tổ kiến được cải tiến, trong đấy cũng không có tự do.
Vấn đề mấu chốt là ở đây. Dostoievski chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng ông quý cá nhân và tự do cá nhân, quý sự đa dạng muôn màu muôn vẻ của xã hội loài người, tính chủ động và quyền tự chủ của từng con người. Với Dostoievski, mỗi con người là một giá trị tự thân và vô điều kiện, Dostoievski đòi hỏi cho nó “sự phát triển tối đa”, “sự tự biểu hiện tối đa”. Hạnh phúc của con người, nó phải tự ý niệm và tự làm nên, không thể ban phát và lại càng không thể cưỡng bức hạnh phúc. Bảo vệ “quyền đau khổ” của mình, cương quyết không chịu vào ở cái “lâu đài hạnh phúc chung”, nhân vật Bút kí từ nhà hầm dưới hình thức nghịch lí bênh vực quyền tự do của con người. Với nó, tự do quý hơn hạnh phúc.
Tự do thuộc về bản chất của con người. Tước đoạt tự do của con người là tước đoạt nhân tính của nó – đó là điểm trung tâm trong nhân học Dostoievski. Bút kí từ nhà hầm mở đầu cho một loạt tác phẩm tiểu thuyết của Dostoievski mà trong đó vấn đề tự do của con người sẽ được xem xét trong phép biện chứng và trên các hướng tự khẳng định khác nhau của nó. Nhân vật Bút kí từ nhà hầm đòi hỏi cho mình một tối đa tự do, nó không chấp nhận một sự trói buộc nào, một sự áp đặt nào từ bên ngoài, nó muốn tự phán xét và tự lựa chọn tất cả, và tác giả ở phần đầu của tác phẩm hoàn toàn đồng tình với nó. Nhưng ở phần hai, ông sẽ cho thấy tự do sẽ đưa con người không có lí tưởng dẫn đường ấy, con người là nô lệ của chính mình ấy, đến đâu. Tự do sẽ là ảo tưởng, bởi vì con người ấy trong mọi cảm nghĩ, mọi hành vi ứng xử đều lệ thuộc vào ý kiến và cái nhìn của người khác. Tự do sẽ là nguy hại, bởi vì muốn “cởi trói” mình khỏi ràng buộc với xã hội, muốn khẳng định sự độc lập tuyệt đối của mình, con người ấy sẽ gạt bỏ một cách tàn nhẫn và hèn hạ tặng phẩm cao quý nhất mà cuộc đời đem lại cho nó – tình yêu.
Kết luận sơ bộ mà tác giả không nói ra, nhưng người đọc có thể rút ra từ tác phẩm của ông : không có tự do thì không còn con người, nhưng chỉ có tự do trong chân lí mới nâng cao con người, các con đường tự do khác đều dẫn nó đến bại vong. Tự do khó biết bao, nhưng cũng tương xứng biết bao với phẩm giá con người!
“Trong khoảng 15 năm, từ 1865 đến 1880, Dostoievski viết nên những tiểu thuyết triết lí chủ yếu của mình : Tội ác và trừng phạt, Chàng Ngốc, Lũ người quỷ ám, Đầu xanh tuổi trẻ, Anh em nhà Karamazov. “Sau chúng, nhân loại đã trưởng thành thêm một bước” – một nhà khoa học Nga thời Xôviết viết trong một cuốn sách bàn nhiều về quan hệ tinh thần giữa Dostoievski và Einstein.
Một sự đánh giá rất cao, nhưng không quá cao.
Năm tiểu thuyết nói trên, sáng tác trong 15 năm cuối đời của Dostoievski quả là một quần thể kiệt tác kì vĩ và độc đáo vô tiền khoáng hậu. Chúng chứa đựng những khám phá to lớn nhất của Dostoievski về con người, những ý tưởng sâu sắc về lẽ sống và những đường hướng hoàn thiện sự sống, những tiên đoán và cảnh báo lúc phát ra tưởng là huyễn hoặc, nhưng sự anh minh của chúng sẽ được các thế hệ mai sau khâm phục thừa nhận. Chúng là một vũ trụ nghệ thuật hết sức mới lạ đối với ý thức văn học cùng thời, có thể so sánh với vật lí hiện đại trong quan hệ với vật lí cổ điển. (Không phải ngẫu nhiên mà nhà sáng lập vật lí học hiện đại Einstein yêu Dostoievski đến thế. Dostoievski đã cho ông “nhiều hơn bất cứ một nhà tư tưởng nào, nhiều hơn Gauss” – nhà tiền khu của ông trong Toán học).
Về mặt loại hình, ai ai cũng cảm thấy chất cách tân rõ rệt của những tiểu thuyết ấy, nhưng chưa ai đưa ra được định nghĩa bao quát đầy đủ các đặc điểm cấu thành của chúng : “tiểu thuyết triết lí”, “tiểu thuyết tư tưởng”, “tiểu thuyết – bi kịch”, “tiểu thuyết phức điệu”… – tất cả những giới thuyết ấy, mặc dù chúng đều đúng đắn và sâu sắc, vẫn không lột tả hết tính độc đáo sáng tạo của những kì đài nghệ thuật mang tên Dostoievski.
“Phép lạ” của những kiệt tác ấy càng nổi rõ hơn, nếu ta nhớ lại hoàn cảnh của nhà văn trong những năm ấy : những cơn động kinh liên tiếp (tần số đặc biệt cao trong những năm 1865 – 1871, trung bình 10 ngày một cơn, sau mỗi cơn, Dostoievski không thể làm việc 3 – 4 ngày) và các bệnh kinh niên khác, nợ nần chồng chất (trong đó có khoản nợ lớn do tạp chí của anh em Dostoievski phá sản, nhà văn cam kết trả dần cả phần nợ của người anh quá cố) và sự truy lùng của các chủ nợ đã buộc Dostoievski phải trốn ra sống ở nước ngoài nhiều năm, những lo toan bề bộn cho gia đình và họ hàng… Cộng vào đấy là nỗi ham mê cờ bạc đã đeo đuổi Dostoievski gần 10 năm và nhiều phen đẩy ông đến cảnh khốn cùng, nhưng không có nó, chưa chắc ông đã viết nên một truyện dài, vừa là thiên kí sự vừa là một bài nghiên cứu tâm lí rất đặc sắc – Con bạc (1866). Truyện này ra mắt độc giả cùng một lúc với Tội ác và trừng phạt.Nhân vật nam chính trong truyện – Aleksxei Ivanovich – một thanh niên làm gia sư cho một gia đình quý tộc Nga sống ở nước ngoài. Y có hai đam mê : mê giai nhân tiểu thư Polina, con gái riêng của vợ quá cố của ông chủ, và mê đánh bạc. Polina, một tâm hồn kiêu sa và bất hạnh, khinh rẻ y, ngay trước mắt y bắt tình với một công tử Pháp hào hoa phong nhã. Nhưng càng bị khinh rẻ, y càng yêu giai nhân mãnh liệt hơn, một tình yêu – căm thù khá đặc trưng cho thế giới nghệ thuật của Dostoievski. Polina, thất vọng bởi người tình Pháp và trong gia cảnh rối bời, đến với y và nhanh chóng nhận ra rằng, y không phải là của nàng hoàn toàn – một nửa tâm hồn y để ở sòng bạc. Y mê cờ bạc không phải vì mộng làm giàu, mà vì những cảm xúc cực mạnh, những khoái lạc đỏ đen của cuộc chơi. Với y, sống đồng nghĩa với chơi. Y không đánh đổi cuộc đời sóng gió thường nhật của con bạc khát nước lấy lối sống trưởng giả bình yên, khôn ngoan, cóp nhặt. So sánh mình với những người Pháp, Đức, Anh… tập hợp ở cái trung tâm cờ bạc quốc tế này, y nhận ra những đặc điểm thuộc bản tính dân tộc Nga của mình : quá phóng túng, không có phong độ và không biết tự kiềm chế. Aleksei Ivanovich là tiền thân của Dmitri Karamazov.
Ba năm sau Con bạc, giữa hai tiểu thuyết Chàng Ngốc và Lũ người quỷ ám, Dostoievski viết một thiên truyện tâm lí khác – Người chồng muôn thuở (1869). Một gã quý tộc thuộc xã hội thượng lưu Peterburg gần đến tuổi tứ tuần thấy chán ngán vô độ cuộc sống nhàn tản và hưởng lạc của mình. Hắn bắt gặp một người quen cũ, một viên chức từ tỉnh lẻ lên thủ đô tìm hắn. Đấy là chồng của một người tình cũ mới qua đời của hắn. Người chồng này suốt đời đặt trọn niềm tin vào người vợ mà y đinh ninh là thủy chung, hiền thục, và chỉ khi vợ đã chết, y mới khám phá ra rằng mình đã bao nhiêu lần bị lừa dối. Y quyết tâm tìm và trả thù những tình địch.
Một “người chồng muôn thuở” đối đầu với một “tình nhân muôn thuở”, hai người căm ghét nhau đến không đội trời chung, nhưng dần dà, cả hai đều nhận ra rằng, họ vừa không chịu được nhau, vừa không thể sống không có nhau. Họ là một cặp song trùng, vừa đối nghịch vừa bổ sung nhau. Mỗi người một kiểu, song cả hai đều là nô lệ của phụ nữ, người chồng thì vì sự khâm phục và phục tùng vợ đã ăn vào máu thịt, còn người tình thì, như một Don Juan, không thể sống mà không chinh phục trái tim phụ nữ. Người chồng muôn thuở trong thâm tâm ghen tị với người tình muôn thuở, thèm khát vị trí của y, song người tình thì không khỏi lo ngại ngày nào đó sẽ rơi vào hoàn cảnh của người chồng.
Con bạc và Người chồng muôn thuở rõ ràng là hai tác phẩm không xoàng tí nào, song chúng không những bị che khuất bởi những tiểu thuyết vĩ đại của Dostoievski, mà chính tác giả cũng chẳng bao giờ nhắc đến chúng, một khi chúng đã được viết xong. Với tất cả sự hấp dẫn của chủ đề, tất cả những phân tích tâm lí rất tinh vi, tài tình, đây vẫn chỉ là ngoại vi của thế giới nghệ thuật Dostoievski. Ở Dostoievski, phân tích tâm lí không phải là mục đích tự thân, mà là phương tiện để khám phá thế giới tinh thần, thế giới của các tư tưởng, các tín niệm chiếm lĩnh tâm hồn con người và chi phối những hành vi của nó. Dostoievski là nhà tinh thần học nhiều hơn nhà tâm lí học. Chỉ cần so sánh ông, thí dụ, với S.Zweig hay M.Proust, là ta thấy rõ tất cả sự khác biệt giữa hai kiểu tài năng này.
Dostoievski viết Anh em nhà Karamazov trong ba năm 1878 – 1880. Sức khỏe ông lúc này đã sa sút nghiêm trọng. Trong thư từ gửi bạn bè, ông nói : mặc dù ông còn ấp ủ rất nhiều ý đồ sáng tạo, nhưng ông biết tháng ngày của ông đã cạn. Song cũng chính đến thời điểm này, tên tuổi và uy tín của Dostoievski mới đạt quy mô toàn quốc gia và khiến thế giới để ý đến.
Nhật kí nhà văn do ông tự phát hành năm 1877 bán được mỗi số 7.000 bản. Khác xa với Chàng Ngốc và Lũ người quỷ ám, Anh em nhà Karamazov đăng tải trên tạp chí Người đưa tin Nga được nhiệt liệt hưởng ứng ngay từ những chương đầu. Dostoievski đương tập trung gắng sức hoàn thành tác phẩm thì một sự kiện trong đời sống văn hóa Nga khiến ông phải gác lại cuốn tiểu thuyết còn viết dở : lễ khánh thành tượng đài Pushkin ở Mátxcơva tổ chức vào đầu tháng 6 năm 1880. Dostoievski được mời dự lễ khánh thành và phát biểu tại cuộc họp trọng thể của Hội những người yêu văn chương Nga nhân dịp này.
Dostoievski suốt đời ngưỡng mộ Pushkin, coi Pushkin là thiên tài số một của nước Nga và người thầy tinh thần của mình. Ông đã viết những bài tiểu luận về Pushkin từ đầu những năm 60. Pushkin luôn luôn ở tâm điểm của những suy ngẫm kiên trì của Dostoievski về số phận và sứ mệnh của dân tộc Nga. Ở thiên tài Pushkin, ông nhìn thấy những đặc tính cơ bản của tâm hồn dân tộc. Những thành công sáng tạo của Pushkin trong con mắt Dostoievski tiên báo tiền đồ xán lạn và vị trí vẻ vang của Tổ quốc ông trong nền văn minh nhân loại. Dostoievski, với niềm hứng khởi của một nhà tiên đoán, dồn hết tâm huyết vào bài diễn thuyết của mình về Pushkin. Và quả thật, dưới ngòi bút Dostoievski đã ra đời một áng văn phi thường, lời phát biểu xứng đáng của một thiên tài về một thiên tài khác. Nhiều nhận xét của Dostoievski về Pushkin đã vĩnh viễn đi vào không chỉ ý thức văn học, mà cả ý thức dân tộc Nga. Lý tưởng thẩm mĩ của Pushkin, như nó được Dostoievski nhận chân, sẽ trở thành chuẩn mực đạo đức cho nhiều thế hệ người Nga sau này.
PushkinNhưng Dostoievski còn đi xa hơn rất nhiều : Xem Pushkin, với năng lực “cộng hưởng với toàn thế giới” vô tiền khoáng hậu ở nhà thơ này, như một biểu hiện điển hình của “tinh thần Nga”, Dostoievski tuyên bố : “Sứ mệnh toàn châu Âu, toàn nhân loại” của người Nga là “Nói ra lời nói cuối cùng về sự tổng hòa đồng vĩ đại, về sự hòa hợp anh em vĩnh viễn giữa tất cả các giống nòi” theo tinh thần những giáo huấn của Kitô. Kitô vẫn luôn luôn là điểm khởi nguyên và điểm kết thúc của mọi ý tưởng ở Dostoievski.
Trong ngữ cảnh bài diễn thuyết thần hứng của Dostoievski, tất cả những tư tưởng ấy đều được cử tọa hưởng ứng nhiệt liệt. Hội trường ngàn người, với sự có mặt của nhiều danh nhân thuộc về tinh hoa dân tộc, đại diện cho những khuynh hướng và lực lượng xã hội khác nhau, cuồng nhiệt hoan hô diễn giả, không cho ông rời diễn đàn. Đây là phút quang vinh nhất trong cuộc đời Dostoievski : tiếng nói của ông, niềm tin của ông tập hợp xung quanh mình cả xã hội Nga.
Nhưng thắng lợi ấy đã tỏ ra rất mong manh : chỉ sau một tháng, Dostoievski đã thấy cần trả lời những ý kiến phản bác bài nói của ông bằng một số Nhật kí nhà văn đặc biệt. Sau đó, ông liền trở lại với tiểu thuyết bị bỏ dở. Làm việc cật lực, “quá tù khổ sai”, Dostoievski kịp hoàn thành Anh em nhà Karamazov vào cuối năm 1880. Mệt mỏi đến kiệt sức, ông vẫn không buông ngòi bút : quá nhiều vấn đề thời sự nóng bỏng thôi thúc ông phát biểu ý kiến. Đáp lại nhiệt tình của độc giả, ông quyết định cho ra lại đều đặn Nhật kí nhà văn từ đầu năm 1881. Nhưng số tháng Giêng còn chưa in, thì Dostoievski đột ngột chảy máu phổi – di chứng của một căn bệnh kinh niên dày vò ông nhiều năm, cùng với chứng động kinh thường kì – và đã tạ thế ngày 28 tháng Giêng năm 1881 (theo lịch Nga cũ), hưởng không đầy 60 tuổi.
Cuộc sống trong thân xác phù sinh của Dostoievski kết thúc. Cuộc sống của ông trong trường cửu bắt đầu.
Dostoievski viết về Gogol trong Nhật kí nhà văn (1876) : “Những điều ông khắc họa… đè nặng trí óc bằng những câu hỏi quá sâu sắc, vượt sức con người; chúng khêu gợi trong tâm trí Nga những suy nghĩ bất an nhất, day dứt nhất, mà thiết tưởng, không phải bây giờ, mà còn rất lâu mới có thể giải đáp; thậm chí, liệu có bao giờ giải đáp được chúng?” Không biết lúc viết, Dostoievski có liên hệ đến bản thân hay không, nhưng cũng những lời ấy, ta hoàn toàn có thể nói về Dostoievski , với một đính chính mở rộng do thời gian mang lại : những câu hỏi mà xưa kia Dostoievski đặt ra trước tâm thức Nga, bây giờ đã trở thành những “vấn nạn” của cả loài người.
Ta sẽ không lập danh sách những vấn đề ấy, một số vấn đề trọng yếu, chúng tôi đã cố gắng đề cập trong khuôn khổ bài viết này. Điều nên ghi nhận và tính thêm vào công lao cho Dostoievski là ông đã cố tìm giải đáp cho nhiều câu hỏi mà ông đặt ra. Như ta thấy, nhiều giải đáp của Dostoievski là sai, có cái rất sai. Nhưng sai lầm âu cũng là số phận của con người. Xưa nay đã có ai chỉ đúng mà không sai? Huống hồ ở Dostoievski cũng như ở nhiều thiên tài khác, ngay ở cái sai cũng chứa đựng nhiều hạt nhân của cái đúng sâu xa cao viễn, có sức đơm hoa kết trái cho những tìm kiếm sáng tạo của các thế hệ mai sau. Điều này nhắc nhở ta luôn luôn giữ thái độ trân trọng, nâng niu đối với di sản của ông. Vì lợi ích của chính ta, ta không vội lên án, gạt bỏ không suy nghĩ đắn đo những cái mà ta thấy không thích hợp nữa với ngày nay trong di sản ấy. Bởi lẽ, như kinh nghiệm lịch sử cho thấy, có thể ngày mai ta sẽ cần, sẽ quý cái hôm nay ta bác bỏ hay xem thường, lãng quên.
Một đề tài lớn của Dostoievski có thể minh chứng tốt cho những điều vừa nêu. Chúng tôi muốn nói thêm đôi lời về hình ảnh con người, về chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo của Dostoievski để kết thúc bài viết này.
Cả thế giới giờ đây hâm mộ chủ nghĩa nhân đạo vô cùng sâu sắc của văn học Nga, như nó được thể hiện trong sáng tác của những nhà văn Nga lớn nhất : Pushkin, Gogol, Tolstoi, Dostoievski, Chekhov. Vậy, nói riêng về Dostoievski, có cái gì mới và đáng quý trong chủ nghĩa nhân đạo của ông?
Dostoievski yêu con người bằng một tình yêu chưa từng thấy trong văn học thế giới trước ông. Một tình yêu thường trực, tha thiết, nồng cháy, đồng nhất với sự tôn thờ. Nhưng tình yêu ấy lại không hề dẫn đến lí tưởng hóa con người, đến việc nhắm mắt làm lơ trước sự bất toàn, tội lỗi của con người. Ngược lại, Dostoievski, như ta thấy, mổ xẻ không biết thương xót tâm hồn con người, và không chỉ ở những “siêu nhân” hay quái nhân (nhà văn cho ta thấy ở họ nhiều mẫu số chung), mà ngay ở những con người tưởng chừng hoàn toàn bình thường, hoàn toàn lành mạnh, ông cũng chỉ ra những biểu hiện thiên hình vạn trạng của cái ác bản chất, cái ác phi lí tính nằm sâu thẳm trong bản tính con người. Nếu chủ nghĩa nhân đạo cổ điển – chủ nghĩa nhân đạo của các nhà khai sáng thế kỉ XVIII, các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng thế kỉ XIX – tin vào bản chất lương thiện tự nhiên của con người, thì Dostoievski sẵn sàng khẳng định: trong mỗi người tiềm ẩn một con dã thú, một con quỷ ác.
Chỉ cần ta nhớ lại chương Con quỷ nhỏ trong Anh em nhà Karamazov, nhớ lại câu chuyện ghê người giữa Aliosha Karamazov và tiểu thư Liza Khokhlakova, so sánh hình tượng Liza với hình tượng các thiếu nữ quý tộc quen thuộc của Turghenev và Tolstoi, để thấy rõ Dostoievski có cảm thức nhạy sắc thế nào về cái ác của con người. Không ít độc giả xưa cũng như nay không chịu đựng được Dostoievski, cho là ông cường điệu quá mức tính ác độc và sự biến hỏng ở con người, thế nhưng, hiện thực thế giới trong thế kỉ vừa qua hình như đã nhận thực nhiều hơn cho cái nhìn tỉnh táo, quả cảm, mẫn tiệp một cách tiên tri của Dostoievski.
Quả là Dostoievski giết chết nơi độc giả niềm tin ngây thơ, lạc quan một chiều về con người. Ông cũng triệt hạ mọi ảo tưởng xây dựng hạnh phúc loài người chỉ trên cơ sở cái có lợi hoặc cái hợp lí. Con người phổ biến của Dostoievski thường không chỉ tội lỗi, mà còn ngang ngược đến phi lí, nó rất hay không nghe theo trí khôn của nó, cố tình hành động có hại cho chính nó. Khả năng sa đọa và phá phách của nó là không đo được. Có nhiều lí lẽ chính đáng để không yêu nó, lên án nó, cảnh giác cao độ với nó – nhà văn Dostoievski hình như cố tình khiêu khích những phản ứng ấy ở người đọc. Song chỉ có một điều không thể nói về nó – bảo nó là một vật sống vô nghĩa.
Con người của Dostoievski bạo hành, đập phá, tác hại những người khác và bản thân mình bởi lẽ, hoặc nó không chấp nhận cái “nghĩa” mà những người khác áp đặt cho nó, hoặc nó đã đánh mất cái nghĩa ấy. Trong cả hai trường hợp, nó đều không dửng dưng với ý nghĩa của cuộc sống, nó đòi, nó tìm ý nghĩa ấy, và khi đã tuyệt vọng hoàn toàn thì nó thường tự kết liễu cuộc đời mình, chứ không chịu sống một cuộc sống vô nghĩa. Quy chế một sinh thể đơn thuần (không nói đến quy chế một bộ phận nhỏ, một “đinh ốc” trong bộ máy nào đó) là không thể chấp nhận đối với nó. Và đây là ranh giới phân chia con người của Dostoievski với con người của các dòng văn học nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây sau này, mà nhiều dòng kính cẩn ghi tên Dostoievski trên ngọn cờ của mình.
Không hồ nghi những thành quả sáng tạo của chúng, không đề cập tới quan hệ giữa chúng với thực tế lịch sử hiện – đương đại, vẫn phải thừa nhận rằng, khôngcó gì xa lạ với thế giới của Dostoievski hơn “người xa lạ” của một Camus hay người “chờ Godot” của một Beckett, hay lùi xa hơn nữa vào quá khứ, người sĩ quan điều khiển cái máy hành quyết trong truyện Trong trại cải huấn của Kafka. Một con người đã chết hoàn toàn đối với xã hội loài người và chỉ sống với những nhu cầu và phản ứng bản năng của mình, người khác thụ động chờ đợi vô tận một ân nhân, một cứu tinh nào đó chỉ biết tên, chưa bao giờ biết mặt, người thứ ba tự nguyện biến mình thành một tư tế trung thành vô điều kiện của một cỗ máy giết người tự động – cả ba hình tượng con người này xa cách một trời một vực với quan niệm về con người ở Dostoievski.
Bây giờ ta hiểu vì sao Dostoievski yêu đến thế cả những nhân vật tội lỗi đến quái đản của mình. Tất cả họ đều là những linh hồn sống, họ đòi tìm ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa ấy phải ở bên trong, chứ không phải bên ngoài họ. Phẩm giá, cái đáng nể, đáng kính trọng của họ là ở đây. Và chừng nào họ còn tìm, họ có khả năng tìm tới ý nghĩa nội tại đích thực ấy, nó sẽ cải tử hoàn sinh nhân cách, tâm hồn họ, toàn bộ cuộc sống của họ. Có thể và cũng cần tranh luận với Dostoievski về cái ý nghĩa chân chính ấy – theo ông, chỉ có tôn giáo mới đem lại nó cho ta – song, chúng ta không thể không đồng ý với ông rằng, thiếu nó thì không có cuộc sống xứng đáng với con người.
Đầu thế kỉ trước, một nhà văn Nga (A. Remizov) diễn đạt xác tín của mình : “Dostoievski, đó là nước Nga. Không có Dostoievski thì không có nước Nga”. Thật khó đánh giá cao hơn cống hiến của một nhà văn cho Tổ quốc mình, dân tộc mình. Nhưng thiên tài càng là của dân tộc bao nhiêu thì lại càng là của toàn nhân loại bấy nhiêu. Thời kì đấu tranh không khoan nhượng, xung đột nảy lửa xung quanh di sản Dostoievski hình như đã qua. Sự nghiệp của ông giờ đây quang vinh hơn bất cứ lúc nào. Những trước tác của ông chắc chắn sẽ còn phát huy ảnh hưởng dài lâu tới tiến trình của nhiều nền văn học trên thế giới và, quan trọng hơn nữa, sẽ còn hữu ích và thiết yếu dài lâu cho cả loài người và từng con người trên hành tinh này trong cuộc tiếp tục tìm kiếm cái tận Chân, tận Thiện, tận Mĩ, trong những nỗ lực làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn, phù hợp hơn với Lý tưởng vĩnh hằng mà nhà đại văn hào Nga suốt đời nhiệt thành phụng sự.
17/11/2021
Phạm Vĩnh Cư
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...